You are on page 1of 54

ĐẠI HỌC HUẾ

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA

NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI

Thi pháp
THƠ ĐƯỜNG
(Sách dùng cho hệ đào tạo từ xa)

Huế: 2007

1
PHẦN MỘT: NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÝ LUẬN

I − MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU


THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG
Thơ Đường là một thành tựu tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Do đó hơn ngàn năm nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước lấy thơ Đường làm đối
tượng. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu thơ Đường trước đây hoặc chỉ xét nội dung tư tưởng của
thơ Đường, hoặc chỉ xét từng phương diện của hình thức thể hiện. Cũng có nhà nghiên cứu đi
sâu vào từng loại thể hoặc từng tác giả cụ thể, nhưng chưa khảo sát thi pháp với tư cách là
một hệ thống. Chuyên đề này nghiên cứu thi pháp thơ Đường tức là có mục đích khảo sát, phát
hiện, miêu tả những quy luật của hệ thống hình thức thể hiện hệ thống nội dung của thơ
Đường.
Việc xác định sự phát triển của nội dung tư tưởng thơ Đường qua các giai đoạn và các thi
phái, chúng ta đã thực hiện khi nghiên cứu lịch sử văn học Trung Quốc. Do đó chuyên đề này
chỉ đi sâu khám phá quy luật của hệ thống hình thức trong mối liên hệ với hệ thống nội dung
đã được xác định.
- Tại sao thơ trữ tình lãng mạn đời Đường lại thường tìm đến sự tương thông, hoà hợp giữa
con người với thiên nhiên, với thế giới ngoại cảnh ? Bằng cách nào nó thực hiện được điều đó ?
- Tại sao dòng thơ phản ánh hiện thực đời Đường lại thường phản ánh những bất công xã
hội với những hình tượng đối lập ? Và vì sao thể cách của nó lại khác với thơ trữ tình lãng mạn
?
- Cái gì làm nên sự hấp dẫn của thơ Đường ?
- Cái mã nghệ thuật của nó được lập nên bởi những phương tiện nào ?
Trả lời những câu hỏi đó tức là tìm ra cái lý của hình thức , tìm ra hệ thống thi pháp.
Đó chính là mục đích của việc nghiên cứu thi pháp thơ Đường.
Muốn thể hiện, phản ánh một nội dung nào đó, tác giả phải sử dụng một hình thức tương
ứng, thích hợp. Việc sử dụng một hình thức này hay một hình thức khác đều có lý do của nó
chứ không phải là ngẫu nhiên, tuỳ tiện.
Tìm ra được cái lý này, giải thích được tính quy luật của hệ thống hình thức sẽ giúp chúng ta
hiểu thơ Đường một cách chính xác và khách quan.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu thi pháp thơ Đường chính là ở chỗ nó giúp chúng ta
lý giải các hiện tượng, phân tích các bài thơ một cách khách quan, chính xác, tránh sự áp đặt,
khiên cưỡng. Nó giúp ta hiểu, phân tích và giảng các bài thơ một cách chính xác và có sức
thuyết phục hơn.
Mặt khác, vì thơ Đường là đỉnh cao của thơ cổ điển Trung Quốc, nó có ảnh hưởng sâu sắc
đến thơ Trung Quốc các đời sau và cả đối với thơ Việt Nam trong thời phong kiến nên nắm
được thi pháp thơ Đường, ta cũng có điều kiện để lý giải nhiều hiện tượng của thi pháp thơ cổ
điển Việt Nam. Do đó, việc ứng dụng những kết quả của nghiên cứu thi pháp thơ Đường cũng
sẽ được mở rộng. Nói cách khác, nghiên cứu thi pháp thơ Đường có ý nghĩa thực tiễn, thiết
thực đối với những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học.

2
II − THẾ NÀO LÀ THI PHÁP HỌC VÀ THI PHÁP
Gần đây, việc nghiên cứu thi pháp trở nên phổ biến ở nước ta. Điều này cũng có nhiều
nguyên nhân. Trong một thời gian dài, do những hoàn cảnh và nhu cầu lịch sử - xã hội, trong
nghiên cứu văn học, chúng ta chủ yếu quan tâm đến nội dung tư tưởng, còn hình thức chưa
được quan tâm một cách thích đáng. Đành rằng ở mọi sự vật, hiện tượng, quá trình, nội dung
vẫn là cái cơ bản, quyết định ; nhưng thực ra sự tồn tại của nội dung không thể tách rời được
hình thức, vì hình thức là hình thức của nội dung. Do đó không quan tâm đến hình thức thì
cũng là phiến diện và thiếu biện chứng. Việc nghiên cứu thi pháp chính là để khắc phục sự
phiến diện đó. Nhưng nếu sự nghiên cứu hình thức tách rời cơ sở nội dung thì cũng lại sa vào
một phiến diện khác. Hệ thống hình thức mà thi pháp học chọn làm đối tượng nghiên cứu luôn
luôn phải gắn với hệ thống nội dung xác định.
Vậy, thi pháp và thi pháp học là gì ?
Từ điển bách khoa Xô viết ở mục Thi pháp học đã định nghĩa:
"Thi pháp học (từ tiếng Hi Lạp poetike : nghệ thuật thơ ca) là một bộ phận của lý luận văn
học nghiên cứu cấu trúc của tác phẩm văn học và hệ thống phương thức mỹ học được sử dụng
trong đó.
Thi pháp học bao gồm các bộ phận :
- Thi pháp học đại cương : nghiên cứu các phương thức nghệ thuật và những quy luật cấu
thành tác phẩm, những cách thức thể hiện ý đồ tác giả phụ thuộc vào loại thể văn học.
- Thi pháp học miêu tả : chỉ ra những đặc điểm cụ thể của các tác phẩm, của các tác giả
hoặc của các thời kỳ và các xu hướng.
- Thi pháp học lịch sử : nghiên cứu sự phát triển của các phương thức nghệ thuật (các kiểu
chuyển nghĩa, các cách tu từ, vận luật,... thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, nhịp
điệu,...).
Theo nghĩa rộng, thi pháp học tương hợp với lý luận văn học. Theo nghĩa hẹp nó tương hợp
với sự nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca, cách nói nghệ thuật".
Mục Thi pháp học và thi pháp trong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, Chủ biên) định nghĩa :
" Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống phương thức, phương tiện
biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp
học là chia tách và hệ thống hoá các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành
thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ, chiều sâu phản ánh của sáng tạo nghệ thuật.
Xét các chỉnh thể văn học mang thi pháp có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ thể, thi pháp
sáng tác của một nhà văn, thi pháp một trào lưu, thi pháp văn học dân tộc, thi pháp văn học
một thời đại, thời kỳ lịch sử.
Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói tới thi pháp
của thể loại, thi pháp của phương pháp, thi pháp của phong cách thi pháp kết cấu, thi pháp
không gian, thời gian, thi pháp ngôn ngữ, ...
Xét về cách tiếp cận, thi pháp học có ba phạm vi nghiên cứu :
- Thi pháp học đại cương (còn gọi là thi pháp học lý thuyết, thi pháp học hệ thống hoá hay
thi pháp học vĩ mô)
- Thi pháp học chuyên biệt (hay còn gọi là thi pháp học miêu tả vi mô).
- Thi pháp học lịch sử.

3
- ...
Thi pháp học chuyên biệt tiến hành việc miêu tả tất cả các phương diện nói trên (tức thi pháp
thể loại, không gian, thời gian, kết cấu, ngôn ngữ, mô típ, ...) của sáng tác văn học nhằm xây dựng
"mô hình"- hệ thống cá biệt của các thuộc tính tác động thẩm mỹ. Vấn đề ở đây chính là các tương
quan của tất cả các yếu tố nói trên trong một chỉnh thể nghệ thuật.
... Thi pháp học chuyên biệt có thể miêu tả tác phẩm văn học cá biệt cũng như cụm tác
phẩm trong sáng tác của một nhà văn, của một loại thể, một trào lưu văn học hoặc một thời
đại văn học.
Thi pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của tác
giả cũng như nắm bắt "mã" văn hoá nghệ thuật của các tác giả và các thời kỳ văn học nghệ
thuật, từ đó nâng cao năng lực thụ cảm tác phẩm.
Thi pháp học cổ xưa nặng về tính chất quy phạm, cẩm nang. Thi pháp học hiện đại nặng về
phát hiện, miêu tả các ngôn ngữ nghệ thuật đang hình thành và song hành với sự vận động của
văn học" (1).
Từ hai định nghĩa trên ta thấy, tuy hai cách diễn đạt có chỗ khác nhau nhưng quan niệm về
thi pháp và thi pháp học căn bản là nhất trí :
- Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Hệ thống đó có thể chia tách thành các phương diện - (yếu
tố) : thể loại, kết cấu, không gian, thời gian, ngôn ngữ.
- Thi pháp học là khoa học nghiên cứu hệ thống thi pháp đó.
- Thi pháp học có ba bộ phận, trong đó, thi pháp học chuyên biệt có nhiệm vụ miêu tả các
phương diện của thi pháp tác phẩm, tác giả, trào lưu, thời đại, dân tộc.
Nói tóm lại, thi pháp học nghiên cứu hệ thống hình thức (tức thi pháp = nghệ thuật) biểu
hiện hệ thống nội dung của các tác phẩm tác giả, tràn lưu, thời đại, dân tộc,...

III − ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Chuyên đề này có nhiệm vụ ứng dụng những lý thuyết của thi pháp học để nghiên cứu thi
pháp thơ Đường. Có nghĩa là nghiên cứu thi pháp chuyên biệt của một thời đại thơ ca Trung
Quốc bằng cách phát hiện, miêu tả đặc trưng của các yếu tố : hình tượng thẩm mỹ (con người),
không gian, thời gian nghệ thuật, thể loại, kết cấu và ngôn ngữ, ... của thơ Đường.
Do chỗ đối tượng nghiên cứu là thi pháp chuyên biệt của một thời đại thơ ca nên phương
pháp chủ yếu để tiến hành là: miêu tả đặc điểm của các yếu tố hình thức một cách hệ thống để
xác định tính chỉnh thể của hệ thống thi pháp.
Để xác định đặc trưng của hệ thống này, cần phải tiến hành so sánh sự phát triển và mối
liên hệ đồng đại và lịch đại của các yếu tố, do đó phương pháp so sánh - lịch sử cũng được sử
dụng bên cạnh phương pháp chủ đạo là phương pháp hệ thống.
Sở dĩ phương pháp hệ thống được sử dụng với tư cách chủ đạo là do tính chất của đối
tượng nghiên cứu. Bản thân thi pháp là một hệ thống, các yếu tố phải được xác định trong mối
liên hệ tương quan của chúng trong hệ thống, nếu tách biệt, chúng không có ý nghĩa.
(Câu chuyện sau đây có thể cho thấy tầm quan trọng của mối liên hệ giữa các yếu tố và hệ
thống:

(1) Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi - Trần Đình Sử, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, H., 1992,
tr.206 − 207.

4
Vì muốn mượn Kinh Kha hành thích Tần Thuỷ Hoàng, Thái tử Đan (nước Yên) rất trọng đãi
chàng. Một lần nghe Kinh Kha khen đôi tay của một mỹ nhân trong hậu cung của Thái tử, Thái
tử Đan liền chặt tay của người đẹp, đặt lên một chiếc khay, tặng cho Kinh Kha. Tráng sĩ rùng
mình. Đôi tay sở dĩ đẹp vì nó là của người đẹp, là một bộ phận đẹp trong một toàn thể đẹp.
Chặt lìa "yếu tố" đôi tay thì thật là tàn ác và chỉ còn gây nên nỗi khủng khiếp).
Lại nữa, các phương pháp hỗ trợ cũng có thể coi là những yếu tố của hệ thống phương
pháp. Do đó, có thể nói, để nghiên cứu thi pháp cần sử dụng một hệ thống phương pháp
(chẳng hạn phương pháp phân tích, thống kê, phân loại, so sánh - lịch sử) trong đó phương
pháp hệ thống là chủ đạo.

IV − ĐỜI ĐƯỜNG, THƠ ĐƯỜNG, VỊ TRÍ CỦA THI PHÁP THƠ


ĐƯỜNG
Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc, đời Đường có một vị trí khá đặc biệt. Ở đời
Đường, Trung Quốc là một quốc gia phát triển phồn vinh trên tất cả các phương diện : kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá, nghệ thuật,...
Thời đó, các ngành nghệ thuật đều phát triển (hội hoạ, âm nhạc, vũ đạo, kiến trúc, điêu
khắc, văn học, thư pháp), trong đó phát triển nhất là hội hoạ và văn học. Trong văn học thì thơ
là bộ phận có thành tựu cao nhất. Người Trung Quốc cũng như thế giới đều công nhận thơ
Đường là đỉnh cao của thơ ca nhân loại.
Gần ba trăm năm tồn tại của nhà Đường, người Trung Quốc đã sáng tạo nên một nền thơ
ca vĩ đại. Bộ Toàn Đường thi (biên soạn ở đời Thanh, cách hơn một ngàn năm sau) thu hợp
48.900 bài thơ của hơn 2300 nhà thơ. Con số thực có của thơ Đường chắc còn lớn hơn, vì bộ
Toàn Đường thi được sưu tập sau hơn một ngàn năm với rất nhiều thăng trầm biến cố lịch sử.
Nhưng đó là mới nói về số lượng. Cái quan trọng hơn là chất lượng nội dung và nghệ thuật của
thơ Đường.
Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức,
tâm tình,... của con người một cách sâu sắc, nội dung cực kỳ phong phú được thể hiện bằng
hình thức hoàn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao.
Thơ Đường là tập đại thành của thơ cổ điển Trung Quốc cho nên những phương diện của
thi pháp thơ cổ điển ở đây đều tiêu biểu.
Trong cuốn Hán văn học sử cương yếu, Lỗ Tấn có nói: "Văn xuôi và thơ Trung Quốc đến
Đường thì có một sự biến đổi lớn". Sự đột biến này là kết quả của một quá trình tích luỹ lâu dài
những kinh nghiệm nghệ thuật của hơn mười thế kỷ thơ ca đã đến độ chín muồi. Sự đột biến
này thể hiện ở kiểu tư duy nghệ thuật mới mẻ , độc đáo, tạo nên cái mốc quan trọng trên con
đường phát triển của thơ ca Trung Quốc.

5
PHẦN HAI: THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG

CHƯƠNG I: NGUYÊN NHÂN HƯNG THỊNH CỦA THƠ ĐƯỜNG VÀ


NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA THI PHÁP
Chương này nói về những điều kiện xã hội, lịch sử, tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật làm cơ
sở cho sự phồn vinh của thơ Đường và cũng là những tiền đề vật chất và văn hoá tinh thần của
thi pháp thơ.
1. Nguyên nhân xã hội
Nhà Đường tồn tại ba thế kỷ (618 - 907). Đây là thời kỳ chế độ phong kiến Trung Quốc đạt
đến trình độ cực thịnh.
Rút được kinh nghiệm của các triều đại trước, các ông vua đầu của nhà Đường đã thi hành
những chính sách tương đối tiến bộ, tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển, kinh tế nhanh
chóng được ổn định và phát triển chưa từng thấy. Trong khoảng thời gian từ Đường Thái Tông
đến Đường Huyền Tông, Trung Quốc được sống trong thái bình an lạc.
Arthur Waley trong bộ Bách khoa từ điển Anh đã nhận xét : "Trung Quốc đời Đường là
nước lớn nhất, văn minh nhất thế giới"(1). Trong một đất nước phú cường như thế, tất nhiên trí
thức, nghệ sĩ có đủ điều kiện để học tập, nghiên cứu, tu dưỡng và sáng tạo nghệ thuật.
Nhưng trên cơ sở một quốc gia giàu mạnh, các ông vua đời Đường lại ra sức mở rộng các
cuộc chiến tranh chinh phục các dân tộc láng giềng để bành trướng lãnh thổ. Những cuộc chiến
tranh đã làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, mặt khác cũng làm dấy lên tinh thần tự tôn dân
tộc, tư tưởng Đại Hán. Lòng kiêu hãnh và tinh thần "Kiến công lập nghiệp" của một số tướng sĩ
làm cho thơ biên tái thời kỳ này có một bộ phận rất hào hùng và cũng bộc lộ rõ tư tưởng Đại
Hán của người Trung Quốc. Đồng thời chiến tranh muôn đời vẫn là tai hoạ của con người nên
cũng làm nảy sinh dòng thơ phản đối chiến tranh ngay trong thơ biên tái.
Đời Đường cực thịnh ở thời Khai Nguyên, Thiên Bảo của Đường Minh Hoàng. Nhưng sau khi
đưa quốc gia phát triển cực thịnh, Đường Minh Hoàng đã trở thành một ông vua hưởng lạc và
chính ông ta là người gây tai hoạ cho quốc gia. Loạn An Lộc Sơn đã đẩy Trung Quốc vào "thảm
hoạ", "chiến tranh trời đất sụp" (Đỗ Phủ). "Tương truyền 36 triệu người mất mạng trong vụ đó"
( 2)
.
( 3)
"Dân số Trung Quốc sau biến cố này chỉ còn dưới 20 triệu" .
Loạn An Lộc Sơn kéo dài chín năm thì bị dẹp nhưng từ đó, nhà Đường suy yếu. Mặc dù loạn
nhà Đường còn tồn tại thêm 150 năm, nhưng về mọi mặt nó không thể nào lấy lại được sự thái
bình thịnh trị như thời Thịnh Đường nữa.
Tuy vậy, những nội ưu ngoại hạn này làm xã hội có những biến động cực kỳ to lớn, đặt thi
nhân trước những hiện thực khắc nghiệt và đòi hỏi thơ ca phải phản ánh những hiện thực đó
nên thơ chuyển hướng- từ lãng mạn ở thời Thịnh Đường sang khuynh hướng hiện thực ở thời
Trung Đường. "Chưa thời nào thơ phát triển mạnh mẽ bằng thời bi thảm, chìm nổi đó"(W.
Durant - Lịch sử văn minh Trung Hoa", Sđd).

(1) Chuyển dẫn từ William James Durant (Mỹ), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Trung tâm thông tin, Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr. 25.
(2) Lịch sử văn minh Trung Hoa, Sđđ.
(3) Trương Chính − Nguyễn Khắc Phi, Văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, H., 1988, tr. 134.

6
Xã hội phức tạp thời Trung Đường là bối cảnh trực tiếp của khuynh hướng thơ hiện thực
thời này. Còn tình trạng suy vi toàn diện của thời Vãn Đường lại ảnh hưởng sâu sắc tới thơ ca
thời đó, khiến cho tính chất lãng mạn tiêu cực chiếm vị trí chủ đạo trong thơ Vãn Đường.
Dẫu rằng chúng ta không đơn giản hoá quan hệ giữa xã hội - chính trị và nghệ thuật nhưng
cũng không thể phủ nhận mối quan hệ đó - quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh.
2. Nguyên nhân tư tưởng, văn hóa
Trung Quốc là một đất nước có nền văn hoá lâu đời. Đến thời Đường thì nền văn hoá, học
thuật và nghệ thuật đã có một bề dày lịch sử ít dân tộc nào đương thời có thể sánh kịp.
Về phương diện tư tưởng, Trung Quốc thời Tiên Tần đã từng có một nền triết học, tư tưởng
phát triển rất phong phú với nhiều học thuyết sâu sắc và độc đáo. Nhưng từ đời Hán về sau, do
chủ trương "độc tôn nho thuật, bãi truất bách gia" nên suốt trường kỳ chế độ phong kiến
chuyên chế hơn hai ngàn năm của Trung Quốc chỉ có nho gia được đề cao, trở thành xương
sống ý thức hệ của xã hội và về cơ bản ở Trung Quốc không có tự do tư tưởng. Nhưng ở đời
Đường có một hiện tượng đặc biệt: Nhà nước phong kiến Lý Đường cho phép tương đối tự do
tư tưởng, không độc tôn Nho giáo, mà cho phép tất cả các trào lưu tư tưởng được tự do truyền
bá. Tất cả các tôn giáo ngoại lai, những tư tưởng triết học truyền thống của Trung Quốc đều
được phát triển. Trong đó sự tịnh thịnh của ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo (cũng gọi là Nho,
Thích, Lão) là đặc trưng nổi bật trong diện mạo tư tưởng của đời Đường.
Về văn hoá nghệ thuật, đời Đường cũng được sự tiếp sức của nền văn hoá quá khứ và
những kinh nghiệm nghệ thuật tích luỹ được từ các thời kỳ lịch sử trước.
Kế thừa chế độ khoa cử đời Tuỳ, nhà Đường cũng tổ chức các khoa thi để chọn người vào
hàng ngũ cai trị; mà thơ là một bộ môn phải thi nên trí thức thời bấy giờ đều tích cực trau dồi
tri thức và nghệ thuật làm thơ. Nhà thơ hầu hết đều đỗ Tiến sĩ và làm quan. Các ông vua đời
Đường cũng làm thơ và rất trọng thi sĩ, tạo nên một phong khí trọng thơ trong toàn xã hội.
Hoàng đế, quan lại, đến ni cô, đạo sĩ, hoà thượng, chú tiểu cho đến ngư, tiều, kỹ nữ,... cũng
đều ít nhiều có làm thơ. Đó là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của thơ ca.
Lại nữa, các bộ môn nghệ thuật khác như vũ đạo, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc, thư pháp
(nghệ thuật viết chữ của người Trung Quốc) đặc biệt là hội hoạ đều rất phát triển. Thơ ca chịu
ảnh hưởng của các bộ môn nghệ thuật ấy, nhất là về phương diện tư duy nghệ thuật. Trong đó
kết hợp đặc biệt chặt chẽ với thơ là hội hoạ. Hội hoạ Trung Quốc đặc biệt coi trọng việc ghi lại
ấn tượng và sự gợi ý. Cũng như thơ, hội hoạ đời Đường tư duy bằng quan hệ, chú trọng sự
biểu hiện bằng quan hệ hơn là miêu tả tỷ mỷ hiện thực. Người Trung Quốc rất yêu thích hội
hoạ vì họ vốn chuộng sự ít lời mà hội hoạ thì được coi là "vô thanh thi" (thơ không lời). Những
quan niệm nghệ thuật chung của hội hoạ và thơ đều có liên hệ sâu xa với những quan niệm "vô
ngôn chi giáo" "đối diện đàm tâm" của Đạo gia, với "niêm hoa vi tiếu", "tĩnh lự", "đốn ngộ",...
của Thiền Tông. (Thiền Tông là một tông phái của Phật giáo Trung Quốc. Tông phái này là một
sự Trung Quốc hoá Phật giáo sâu sắc, trong đó có cả sự dung hợp những tư tưởng cổ truyền
của Trung Quốc).
Đặc biệt, thơ Đường là sự kế thừa và phát triển đến đỉnh cao của hơn mười thế kỷ thơ
Trung Quốc. Khởi nguyên từ Kinh Thi và Sở từ, thơ Trung Quốc đến Đường đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm nghệ thuật quý báu.
Tinh thần hiện thực, tinh thần chống chiến tranh,... có từ Kinh Thi, từ nhạc phủ đời Hán và
thơ Kiến An, dân ca Bắc triều; tinh thần lãng mạn, thái độ an bần lạc đạo, trở về với thiên
nhiên có từ Sở từ, thơ Khuất Nguyên, thơ Đào Tiềm, Tạ Linh Vận và dân ca Nam triều,... đều là
những ngọn nguồn quan trọng cho sự hình thành các phái thơ và phong cách thơ Đường.
Về phương diện hình thức và thể loại, thì những hình thức thi, từ, ca hành, nhạc phủ, cổ phong
có từ các giai đoạn trước đều được kế thừa; riêng luật thi đã được manh nha từ thời Lục triều đến
bây giờ đã được hoàn thiện. Những tác phẩm về lý luận văn học, về thi luật,... của các giai đoạn

7
trước như Luận văn của Tào Phi, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, Thi phẩm của Chung Vinh, Tứ
thanh phổ của Thẩm Ước,... đều được nghiên cứu. Người Trung Quốc đến bấy giờ đã tự giác về
ngôn ngữ đơn tiết ca thanh của mình và rất có ý thức về đặc điểm ấy trong việc làm thơ.
Tất cả những ngọn nguồn đó đều hội tụ lại ở thơ Đường. Cho nên sự hưng thịnh và đạt
đến đỉnh cao của thơ Đường là kết tinh của cả một quá trình chịu sự quy định và ảnh hưởng
nhiều mặt của một thời đại; của phương pháp tư duy, của các triết thuyết và kế thừa truyền
thống của bản thân nghệ thuật thơ ca.
Sự ổn định, thống nhất về xã hội, sự hội nhập của các dòng tư tưởng và sự kế thừa truyền
thống nghệ thuật là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới
thi pháp thơ Đường.
*
* *
Thi pháp thơ Đường mà chúng ta nghiên cứu ở đây thuộc về "thi pháp chuyên biệt" (hay
thi pháp miêu tả). Chúng ta ứng dụng những lý thuyết của thi pháp học đại cương để nghiên
cứu thi pháp thơ của một thời đại, một giai đoạn trong tiến trình lịch sử văn học Trung Quốc.
Thi pháp là hệ thống hình thức, hệ thống phương tiện nghệ thuật của thơ. Hệ thống hình thức
của thơ Đường, bản thân nó là một mắt khâu trên tiến trình thi pháp thơ Trung Quốc. Nó chịu
ảnh hưởng của thời đại, của quan niệm triết học, của các loại hình nghệ thuật khác và của các
giai đoạn thơ ca. Nó là "kiểu" tư duy nghệ thuật hoàn chỉnh và độc đáo. Cái mà Lỗ Tấn nói: "...
Thơ Trung Quốc đến Đường có một sự biến đổi lớn" chính là ở việc hình thành một kiểu tư duy
nghệ thuật, một hệ thống thi pháp mới.
Trong hệ thống thi pháp này, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu các phương diện :
- Quan niệm nghệ thuật về con người.
- Không gian nghệ thuật.
- Thời gian nghệ thuật.
- Thể loại và ngôn ngữ.

8
CHƯƠNG II:CON NGƯỜI TRONG THƠ ĐƯỜNG

Con người là chủ thể, là đối tượng, đồng thời cũng là mục đích của văn học.
Sáng tác văn học là một hoạt động nhận thức nên bao giờ cũng mang tính quan niệm.
Phản ánh và thể hiện con người, tất nhiên văn học không thể không có quan niệm về con
người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học. Nhà
văn không thể miêu tả, thể hiện đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng mặc dù họ có
ý thức tự giác về điều đó hay không.
- Con người, nó là ai ?
- Con người thế nào là thiện, là mỹ ?
- Con người thế nào mới xứng đáng là con người ?
Cách lý giải những câu hỏi ấy làm nên hệ thống quan niệm nghệ thuật về con người. Ở
đây, ta xét quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Đường tức là quan niệm của một dân
tộc ở một thời đại thơ ca.
Con người là tổng hoà của những quan hệ
Trong văn học, con người là trung tâm. Do đó quan niệm nghệ thuật tuy không đồng nhất
với quan niệm triết học về con người nhưng giữa chúng có mối quan hệ rất mật thiết. Ở thời
cổ, con người luôn đặt mình trong mối quan hệ tương thông, tương hợp với thiên nhiên. Ở
Trung Quốc, quan niệm đó được thể hiện trong các mệnh đề như "Thiên nhân hợp nhất",
"Thiên nhân tương dữ", "Thiên nhân tương cảm". Những câu nói nổi tiếng của Trang Tử "Thiên
địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất" (Trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một
− Nam hoa kinh, Tề vật luận), hay của Mạnh tử : "Vạn vật giai bị ư ngã" (Vạn vật đều có đủ ở
trong ta),... cũng thống nhất về cơ bản với những mệnh đề trên. Và trong quan niệm cổ truyền
của người Trung Quốc, chỉ người nào quán thông được cả trời, đất và người (nam tài) thì mới
đủ tư cách làm "Vương" ( ) .Đó là quan niệm con người trong vũ trụ trong triết học cổ đại
Trung Quốc.
Quan niệm ấy chi phối những hoạt động ý thức, tinh thần, khoa học, nghệ thuật thời cổ.
Quan niệm con người vũ trụ là quan niệm cho rằng: Con người liên quan mật thiết với đất trời -
vũ trụ. Con người là một "tiểu vũ trụ" trong lòng "đại vũ trụ" (có quan niệm như vậy, Lý Bạch
mới có thể đối diện với núi Kính Đình và cảm nhận sự "tri âm" của con người với ngọn núi trong
một cái nhìn tương thông: tương khan lưỡng bất yếm).
Đó cũng là quan niệm về con người của nghệ thuật thời cổ và tồn tại mãi suốt thời phong
kiến, thậm chí đến tận thời hiện đại (như trong bài từ Sơn của Mao Trạch Đông chẳng hạn).
(Cũng cần lưu ý là quan niệm "con người vũ trụ" là phổ biến ở các dân tộc thời cổ chứ
không riêng gì Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc cũng như nhiều nước châu Á, vì văn minh
nông nghiệp, sự gắn bó với thiên nhiên rất mật thiết nên quan niệm này càng sâu sắc và lâu
bền).
Trong Kinh Thi, Sở từ ta cũng thấy quan niệm này. Thiên nhiên trong thơ Tiên Tần còn hồn
hậu chất phác, từ trong nhịp sống của đời thường đi thẳng vào thơ, có thể thông qua tưởng
tượng phong phú (như trong thơ Khuất Nguyên), nhưng chưa có một sự "chưng cất", thanh lọc,
chưa có những ước lệ như trong thơ Đường.

9
Đến đời Lục triều, phái sơn thuỷ (tức thơ thiên nhiên) chính thức ra đời với hai đại biểu
xuất sắc là Đào Tiềm và Tạ Linh Vận. Thời Lục triều, xã hội tao loạn, con người muốn lánh
những hệ luỵ, những ưu hoạn của đời thường, nên họ thường tìm về với thiên nhiên bằng lối
sống ẩn dật và bằng thơ. Thời đó, đạo gia và Đạo giáo thịnh hành. Phật giáo cũng đã được
truyền bá và phát triển. Cả đạo gia, Đạo giáo và Phật giáo đều chủ trương xuất thế, trở về với
tự nhiên. Chủ trương ấy tất nhiên có ảnh hưởng sâu sắc đến thơ.
Con người đó xuất hiện trong tư thế vũ trụ, đứng giữa đất trời "đầu đội trời, chân đạp đất",
nối đất với trời. Tiếng thơ cất lên như tiếng "giữa trời". Ta ít khi thấy nhà thơ xuất hiện với tư
cách một cái tôi cá nhân, bởi con người đó là con người siêu cá thể :

Tiền bất kiến cổ nhân


Thiên
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Độc (Trần Tử Ngang - Đăng U Châu Đài ca)
Tiền Hậu
(Người trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Địa Riêng lòng đau mà lệ chảy.)

Điểm nhìn nghệ thuật được đặt chính giữa trung tâm của vũ - trụ;
− Trung tâm của không gian : thiên - địa (vũ)
− Trung tâm của thời gian : tiền - hậu (trụ)
Con người đứng ở giữa giao điểm của không - thời gian mà lên tiếng. Đó là, tiếng nói của
một "tiểu thiên địa" giữa lòng thiên địa mênh mông, giữa dòng thời gian tiền - hậu vô thuỷ, vô
chung. Cái "tiểu thiên địa" ấy chỉ biết "Độc thương nhiên nhi thế hạ" khi đối diện với vô hạn vô
cùng của vũ trụ.
Con người bị giới hạn bởi không gian và thời gian, bản thân nó cũng là một không - thời
gian hữu hạn. Nó không thể trong một lúc vừa ở chỗ này vừa ở chỗ khác, nó không thể vừa ở
hôm nay vừa ở ngày mai. Vì thế, nó khát khao tìm lại hôm qua (tiền) vươn tới ngày mai (hậu),
vượt không gian để có mặt khắp "thiên địa chi du du" - nhưng bất lực. Nó đứng cô "độc" ở
điểm này mà rơi lệ, mà gửi giọt lệ cảm thương vào thiên cổ.
Trần Tử Ngang trong khoảnh khắc trên đài U châu là một "con người vũ trụ tiêu biểu".
Đăng U Châu Đài ca được coi là một tiếng chuông đánh thức thi đàn mấy trăm năm tịch mịch
chính vì ở đây, Trần Tử Ngang đã tạo dựng được tư thế vũ trụ tiêu biểu đến như vậy.
Hơn ngàn năm trước, Lão Tử nói "Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp
tự nhiên" (Người theo lẽ đất, đất theo lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo (thuận) theo lẽ tự nhiên).
Rút gọn lại:"Nhân... pháp tự nhiên" (Con người... (thuận) theo lẽ tự nhiên). Đó là một quan
niệm triết học về con người, coi con người như một "mô hình", "bắt chước", "đồng dạng" với
thiên địa. Và về cấu trúc hình thể, về vận động, về mọi hành vi ứng xử, thế giới tâm linh,... của
nó đều tương ứng với vũ trụ. Trong thơ Đường, ta thấy con người ấy luôn luôn khát vọng hoà
hợp với thiên nhiên, ở giữa đất trời, cảm ứng với đất trời. Tiếng nói của nó hoà âm với nhịp
điệu của vũ trụ.
Bạch nhật y sơn tận
Hoàng Hà nhập hải lưu
Dục cùng thiên lý mục

10
Cánh thướng nhất tằng lâu.
(Vương Chi Hoán - Đăng Quán Tước Lâu)
(Bóng ô đã gác non đoài
Sông Hoàng nước chảy ra ngoài biển khơi
Dặm ngàn tầm mắt muốn coi
Lầu cao ta lại lên chơi một tầng.)
(Ngô Tất Tố dịch thơ,
Thơ Đường, Tập I, NXB Văn học, H., 1987)
Cả không gian bao la được thu vào trong tầm nhìn của con người. Sự tương giao, hoà hợp
giữa thiên nhiên và con người được thể hiện dưới nhiều dạng thức. Có khi thiên nhiên như bao
bọc con người trong vận động tự nhiên của nó :
Thanh sơn hoành bắc quách
Bạch thuỷ nhiễu đông thành
Thử địa nhất vi biệt
Cô bồng vạn lý chinh...
(Lý Bạch - Tống hữu nhân)
(Núi xanh chắn ngang vùng ngoại ô phía bắc
Nước bạc uốn quanh thành phía đông
Nơi này một lần chia tay
Ngọn cỏ bồng đơn chiếc đi xa muôn dặm.)
Đó là cái nhìn từ vị trí trung tâm, thấy "sơn, thuỷ" uốn lượn quanh mình. Con người chia
tay con người để thành hai cõi cô đơn. Từ một điểm, cái nhìn được đặt từ xa (sơn, thuỷ) mà rút
về một điểm (thử địa), rồi lại từ một điểm giãn nở ra vô tận...
Cũng từ một điểm nhìn trung tâm ấy, Đỗ Phủ bao quát hết mọi chiều không gian trong tư
thế "đăng cao".
Con người được đặt ở vị trí trung tâm để tương thông cùng thế giới, tạo nên một sự hài
hoà, thống nhất giữa thế giới nội tâm với thế giới ngoại cảnh. Đó là lý do vì sao trong thơ
Đường, ta thấy nhiều cảnh thiên nhiên đến như vậy.
Trong quan niệm của người xưa, khi con người đã là con người vũ trụ, thì thiên nhiên cũng
là thiên nhiên hữu linh; và như thế, mỗi thực thể thiên nhiên cũng như con người, là một vũ
trụ.
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
(Đỗ Phủ- Khúc giang I)
(Một cánh hoa rơi giảm vẻ xuân.)
Một câu thơ bảy chữ, nhưng chứa đựng cả một quan niệm - một cánh hoa, một thực thể bé
nhỏ vi tế đến như vậy cũng đại biểu cho mùa xuân, mang trong nó một mùa xuân. Cứ thế, tất
thiên nhiên ấy có tình cảm như con người.
Hầu như không bao giờ thấy thơ Đường phủ nhận tính chất hữu linh của thiên nhiên, mà
chỉ thấy thiên nhiên hữu linh, hữu tình, hữu tâm.
− Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ
Biệt hận dữ chi thuỳ đoản trường
(Lý Bạch - Kim Lăng tử tứ lưu biệt )
(Xin anh thử hỏi dòng nước chảy về đông

11
So với nỗi buồn tiễn biệt đằng nào dài ngắn?)
− Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựa tiếu đông phong.
(Thôi Hộ - Đề Đô Thành nam trang)
(Gương mặt người không biết đã đi đâu
Chỉ có hoa đào vẫn cười gió đông như cũ.)
Đầy xúc cảm, tâm trạng trong một "nụ cười" của cánh hoa đào trước nỗi bẽ bàng của thi sĩ
đa tình :
Duy hữu xuân phong tối tương tích
Ân cần cánh hướng thư trung xung.
(Dương Cự Nguyên - Hoạ luyện tú tài "Dương liễu")
(Chỉ có ngọn gió xuân là đầy tình thương tiếc
Ân cần đến thổi giữa tay anh.)
Dòng nước "hận", hoa đào "cười", ngọn gió "tiếc thương", đó là cái tình, cái "tâm",... của
thiên nhiên trong mối giao hoà, tương cảm với con người. Không phải là "nhân cách hoá" mà là
quan niệm nghệ thuật: thiên nhiên với con người có chung một cái "tâm". Nếu như có lúc người
ta nói thiên nhiên vô tình thì đó chỉ là sự trách móc :
− Vô tình tối thị Đài Thành liễu
Y cựu yên lung thập lí đê.
(Vi Trang - Kim Lăng đồ )

(Vô tình nhất là rặng liễu ở Đài Thành


Vẫn giống như xưa, bông rũ xuống như làn khói phủ trên
con đê mười dặm.)

− Nhất khứ Cô Tô bất phục phản


Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân.
(Lâu Dĩnh − Tây Thi thạch)
(Cô Tô một chuyến đi, đi biệt
Đào lý bên bờ xuân với ai?)
Nàng Tây Thi đã một đi không trở lại, cây đào, cây lý kia ngày xưa đã vì nàng mà đem vẻ
xuân về, bây giờ nàng không còn nữa, sao đào, lý vẫn xanh tươi một cách vô tình quá thể ?
Trách liễu, trách đào, lý do vô tình bởi trong ý niệm của thi nhân chúng vốn hữu tình, đa tình.
Trong con mắt, trong tấm lòng của thi nhân, thiên nhiên, vạn vật đều hứng tình vì "vạn vật
dữ ngã vi nhất" (vạn vật với ta là một).
Vạn vật đều có tình, đều "là một" đối với ta huống chi con người. Thơ Đường đặc biệt quan
tâm thể hiện quan hệ tương giao, hoà hợp giữa con người với con người.
Trong thơ hiện đại − ta thấy xuất hiện nhiều con người trong thơ Đường không khước từ
hành động nhưng họ đề cao cái tâm hơn, nên những từ có bộ tâm ( ) có tần số xuất hiện rất
cao trong thơ (tâm, tình, ý, ức, tư tưởng, hoài niệm, thương, bi, sầu, oán, hận,...)
Những con người - hữu tâm, con người - tri âm ... ấy được thể hiện đặc biệt rõ trong đề tài
bằng hữu. Thơ Đường nói nhiều về tình bạn.

12
Trong thơ Sơ − Thịnh Đường, người ta ít nói đến tình cảm gia đình (cha con, anh em,
chồng vợ,...)
Tình gia đình là thiêng liêng, vĩnh cửu - nhưng "phụ từ, tử hiếu". Con cái kính yêu cha mẹ,
anh em gắn bó, vợ chồng thương yêu nhau, ... là chuyện đương nhiên, chuyện của đời thường,
còn phải nói gì nữa. Còn người bạn ấy không họ hàng ruột thịt gì với ta cả vậy mà lại yêu quý
ta, nhất là hiểu ta... đó mới thật là kỳ diệu. Tình bạn là "thanh khí" tự nhiên, "tri âm, tri kỷ". Vả
lại, trong ngũ luân phong kiến thì các quan hệ vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ đều ít
nhiều mang tính chất bất bình đẳng, một chiều; chỉ có quan hệ bằng - hữu là bình đẳng. Bốn
quan hệ (luân) trước nhiều "chất" lý trí và nghĩa vụ, chỉ có quan hệ bằng hữu là thuần tuý tình
cảm, tự nguyện, khiến con người thi nhân dễ dàng giãi bày tâm sự và luôn khát vọng tri âm.
Ngay đến tình yêu nam nữ là đề tài "vĩnh cửu" của thơ ca nhưng trong thơ Sơ − Thịnh
Đường, đề tài này cũng chiếm một tỷ lệ khiêm tốn so với đề tài tình bạn. Vì sao lại như vậy ?
Thi nhân đời Đường chắc không hiếm kẻ đa tình nhưng có lẽ vì thơ Đường vốn kín đáo, tế nhị
nên ngại nói đến tình yêu, và có nói cũng nói một cách kín đáo, mơ hồ, thậm chí khó hiểu(?).
Hiện tượng táo bạo như Hàn Ốc thì rất hiếm, hầu như là một ngoại lệ (mà Hàn Ốc ở thời Vãn
Đường). Và còn một lý do nữa không kém phần quan trọng, đó là, thơ ca cũng chịu sự chi phối
của tư tưởng thời đại - tự do cá nhân chưa được đề cao, thậm chí hầu như chưa được đặt ra;
Lại thêm nho gia tiết dục, đạo gia quả dục, Phật giáo diệt dục,... Cả ba dòng tư tưởng ấy hội
nhập lại càng không thể là mảnh đất cho sự nảy nở đề tài tình yêu. Thành ra tình bạn trở thành
nơi thi nhân bày tỏ tâm tình. Có lẽ hiếm nhà thơ nào không viết về đề tài tình bạn. Tìm là tìm
bạn, gặp là gặp bạn, nhớ là nhớ bạn :
Tư quân nhược Vấn thuỷ
Hạo đãng ký nam chinh
(Lý Bạch - Sa Khâu Thành hạ ký Đỗ Phủ)
(Nhớ anh như sông Vấn
Về nam chảy dạt dào.)
Còn Đỗ Phủ khi xa cách luôn "hoài Lý Bạch", "mộng Lý Bạch",...
Thơ viết để gửi tặng cũng phần nhiều là "gửi", "tặng" bạn bè : Tặng Uông Luân, Tặng
Mạnh Hạo Nhiên, Tặng Lý Bạch, Ký Đỗ Phủ, Ký Vương Xương Linh, Ký Vi Chi,...
Vì khát vọng tri âm, thương yêu bè bạn nên thi nhân đời Đường đặc biệt đau lòng khi phải
chia tay bạn. Nổi bật trên cái nền thiên nhiên hữu tình tương cảm giữa lòng "thiên địa" là hình
ảnh từng đôi "tiểu thiên địa" tiễn đưa nhau. Trong thơ Đường − đề tài tình bạn chiếm tỷ lệ
20%. Đó là một con số rất có ý nghĩa, nó thể hiện khát vọng tri âm của con người. Đó là khát
vọng tương giao, tìm thấy sự thống nhất, giao cảm giữa người và người.
Những con người "siêu cá thể" tồn tại giữa lòng thiên địa, càn khôn trong sự hô ứng, tương
giao, hoà hợp với thiên nhiên, vũ trụ, con người,... khiến cho khi bước vào thế giới thơ Đường,
ta bước vào thế giới của sự hoà điệu.
*
* *
Nhưng thế giới của sự hoà điệu ấy chỉ tồn tại trong bộ phận thơ sáng tác theo khuynh
hướng lãng mạn, theo nguyên tắc chủ quan, khi nhà thơ thể hiện con người vũ trụ trong quan
hệ tương giao, hoà hợp với ngoại giới.
Sự hoà điệu ấy bị phá vỡ một cách phũ phàng khi con người xuất hiện với tư cách thần dân
của đế quốc (1) Đại Đường.

(1) Chữ đế quốc ở đây dùng theo nghĩa nước có hoàng đế, thời đế chế, chứ không phải đế quốc trong
thời đế quốc chủ nghĩa.

13
Trong thơ Đường, khi nhà thơ phản ánh con người xã hội mà chủ yếu là "dân đen" (chữ
dùng của Phan Ngọc - dịch từ "lê nguyên"), thì quan hệ tương giao, thống nhất nhường chỗ cho
quan hệ đối lập, tương phản. Nói cách khác, nếu như con người vũ trụ được thể hiện bằng
quan hệ thống nhất, tương giao thì con người xã hội được phản ánh bằng quan hệ mâu thuẫn,
đối lập, tương phản và chủ yếu xuất hiện trong bộ phận thơ sáng tác theo khuynh hướng hiện
thực, theo nguyên tắc khách quan.
Con người là một sinh thể xã hội, và trong tư cách ấy, nó là "tổng hoà của những mối quan
hệ xã hội".
"Con người xã hội" trong văn học tức là con người được nhìn, được xem xét trong những
mối quan hệ xã hội của nó.
Trong thơ Đường thì đó là thần dân đối với quân vương, là kẻ sĩ đối với xã hội, là chiến sĩ trong
chiến tranh,... và chủ yếu là con người bất hạnh.
Khi xã hội có những biến động lớn lao, những giá trị bị đảo lộn, những cái tưởng như vĩnh
hằng bị xoá bỏ trong phút chốc. Cuộc "tang thương" ấy tạo nên một sự kinh hoàng, chấn động
trong đáy sâu tâm hồn của nhà thơ - những con người nhạy cảm nhất. Nó gọi nhà thơ nhìn vào
sự thật xã hội và đòi hỏi nhà thơ phản ánh.
Nhưng loạn lạc quá đột ngột, con người nhà thơ không kịp chuyển biến. Họ không kịp thu
rút tầm mắt xa xăm để nhìn vào những sự thực nhãn tiền. Họ đã quen thể hiện con người vũ
trụ, họ không quan niệm được rằng con người xã hội, con người thế tục tầm thường với những
lo âu vụn vặt, những đau đớn đời thường lại có thể là đối tượng của thơ ca.
Tình hình ấy đòi hỏi nhà thơ phải có một sự đổi mới lớn lao, sâu sắc trong quan niệm nghệ
thuật về con người.
Người thực hiện sự đổi mới ấy chính là Đỗ Phủ.
Hình như lịch sử văn học Trung Quốc, để trao sứ mệnh làm một nhịp cầu vĩ đại nối hai giai
đoạn thơ ca đời Đường cho Đỗ Phủ, đã chuẩn bị cho nhà thơ này những điều kiện, buộc ông
phải đi trước mọi người, thu rút tầm mắt xa xăm về, chú mục nhìn vào sự thực nhãn tiền. Lịch
sử đã chuẩn bị cho ông bằng cuộc đời cơ cực.
Những cảnh :
Nằm đói đã mười ngày rồi
Áo rách vá trăm mảnh chằng chịt.
hay
Rượu thưa cùng chả nguội
Đến đâu cũng tủi thầm
với bao cảnh bôn ba, lận đận,... đã đẩy Đỗ Phủ về với nhân dân, gần gũi với cuộc sống của
nhân dân trước khi loạn An Lộc Sơn nổ ra. Sự gần gũi với nhân dân khiến ông có thể nhìn thấy,
cảm thông và phản ánh những cảnh tượng đau lòng trong những bài thơ hiện thực nổi tiếng
như Binh xa hành, Tuế án thành, ...
"Thế giới của sự hoà điệu" đã bị phá vỡ bởi tiếng xe trận, tiếng ngựa hí, tiếng khóc than.
Lần đầu tiên, Đỗ Phủ đã đưa người lính, người dân đen (ở đây là "tốt đen") vào vị trí trung tâm
của thơ mà kể lể, thở than, cũng là tố cáo (bài Binh xa hành). Cuộc đời của người "dân đen"
được phản ánh một cách hầu như trọn vẹn bằng lời tự bạch của chính họ.
- Tốt đen và dân đen, ở chiến trường hay ở hậu phương, đều chỉ là những công cụ sản xuất
hay chiến đấu vì lòng tham không cùng của "huyện quan", của "vũ hoàng",... Bài thơ mở đầu
bằng tiếng khóc của người đi kẻ ở trong cuộc tiễn đưa người lính xuất chinh và kết thúc bằng
tiếng khóc của những thế hệ hồn ma oan ức trên chiến địa. Đất trời đầy tiếng khóc.

14
"Máu và nước mắt của nhân dân đã tưới cho vườn thơ của Đỗ Phủ" (Tiêu Điều Phi). Hiện thực
đau thương của nhân dân đời Đường thời chiến loạn và suy thoái đã trở thành đối tượng phản ánh
của dòng thơ hiện thực :
Hổ báo bất lương thực
Ai tai nhân thực nhân
(Mạnh Vân Khanh)
(Hổ báo không ăn thịt lẫn nhau
Đáng thương thay, người lại ăn thịt người.)
Nếu trước đây, thơ ca hầu như là "vườn cấm" đối với người "dân đen" thì bây giờ người "dân
đen" với cuộc đời cơ cực của họ hầu như chiếm vị trí trung tâm. Người phu kéo thuyền tự kể về nỗi
khổ của mình :

Khổ tai sinh trưởng đương dịch biên


Quan gia sử ngã khiên dịch thuyền
Tân khổ nhật đa, lạc nhật thiểu
Thuỷ túc sa hành như thuỷ điểu.
...
Dạ hàn y thấp phi đoản thôi
Ứ c xuyên túc biệt nhẫn thống hà
Đáo minh tân khổ vô xứ thuyết
Tề thanh đằng đạp khiên thuyền ca...
(Vương Kiến - Thuỷ phu dao )
(Sinh gần bên trạm khổ vô biên
Quan cứ bắt tôi đi kéo thuyền
Ngày đắng cay nhiều, ngày vui hiếm
Ven bờ ngủ nước như chim biển.
...
Đêm lạnh tơi ngắn áo dính da
Ngực thủng chân rách dám kêu ca
Đến sáng đắng cay không chỗ nói
Kéo thuyền lê bước, hò dô ta...)
Mọi nỗi đau khổ của con người, chủ yếu là của người nạn nhân, đều được thơ phản ánh.
Đây là cái đói :

− Nhập môn văn đào hào


Ấ u tử cơ dĩ tốt
(Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên...)
(Vào cửa nghe kêu gào
Con thơ vừa mất)

− Si nữ cơ giảo ngã
Để uý hổ lang văn
Hoài trung yểm kỳ khẩu

15
Phản trắc thanh dũ sân
Tiểu nhi cưỡng giải sự
Cố sách khổ lý xan...
(Đỗ Phủ- Bành Nha hành)
(Con bé đói cắn cha
Khóc sợ hùm beo biết
Ôm vào lòng bịt mồm
Giãy giụa càng la hét
Thằng cu ra điều biết
Đòi mận đắng thay cơm...)
và cảnh chết đói là phổ biến :
Xuân chủng nhất lạp túc
Thu thành vạn khoả tử
Tứ hải vô nhàn điền
Nông phu do ngã tử.
(Lý Thân - Mẫn nông)
(Một hạt mùa xuân gieo
Muôn hạt mùa thu hái
Bốn biển không đất hoang
Nhà nông còn chết đói.)
Còn đây là cái rét :
Trúc bách giai đống tử
Huống bỉ vô y dân
... Nãi tri đại hàn tuế
Nông giả đa khổ tân.
(Bạch cư Dị - Thôn cư khổ hàn)
(Trúc thông đều chết rét
Huống những người dân không áo
... Mới biết năm đại hàn
Nhà nông thật lắm đau khổ.)
và lại chết vì rét :
Lộ hữu đống tử cốt
(Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên... )
(Bên đường xương chết cóng)

Khởi tri Văn Hương ngục


Trung hữu đống tử tù.
(Bạch Cư Dị - Ca vũ)
(Biết đâu trong ngục Văn Hương
Có người tù chết rét.)

16
Còn trong loạn ly thì cái chết càng phổ biến :
Tử tôn trận vong tận
Yên dụng thân độc hoàn
... Tích thi thảo mộc tinh
Lưu huyết xuyên nguyên đan
(Đỗ Phủ - Thuỳ lão biệt )
(Con cháu chết trận hết
Một mình sống làm gì
... Thây chất làm tanh hôi cây cỏ
Máu chảy nhuộm đỏ sông ngòi đồng ruộng.)
Tưởng không cần dẫn nhiều thơ nữa, ta cũng biết rằng trong dòng thơ hiện thực, mọi thảm
cảnh của người dân đều được phản ánh một cách đầy đủ, sinh động, như hiện ra trước mắt
người đọc.
Nếu như "con người vũ trụ" được thể hiện bằng quan hệ thống nhất, tương giao, hoà hợp
với ngoại giới (tức với vũ trụ, thiên nhiên, với những "tiểu thiên địa" khác) thì "con người xã
hội" chủ yếu được phản ánh bằng quan hệ đối lập, tương phản; trong đó chủ yếu là sự đối lập
giữa cuộc sống cơ cực, đói rách lầm than của "lê nguyên","xích tử" với cuộc sống xa hoa truỵ
lạc của vua quan phong kiến :
Thiên tử hiếu chinh chiến
Bách tính bất chủng tang
Thiên tử hiếu niên thiếu
Vô nhân tiến Phùng Đường
Thiên tử hiếu mỹ nữ
Phu phụ bất thành song
(Tào Nghiệp - Bộ ngư dao )
(Vua ưa thích chinh chiến
Dân bỏ nghề tằm tang
Vua ưa thích tuổi trẻ
Không ai tiến Phùng Đường
Vua ưa thích gái đẹp
Vợ chồng kẻ mỗi phương.)
Mỗi sở thích vị kỷ và vô lý, thậm chí tàn bạo của thiên tử lại dẫn đến bao thảm hoạ cho dân
lành.
Về quan hệ đối lập này, hai câu thơ của Đỗ Phủ :
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
(Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt.)
có thể nói là tiêu biểu nhất. Đặt hai bức tranh hiện thực bên nhau, lời tố cáo hiện ra thật đanh
thép, vừa cụ thể nhãn tiền, vừa có giá trị khái quát cao độ.
Các nhà thơ hiện thực đã phản ánh những bất công xã hội bằng tất cả tấm lòng nhân đạo,
cảm thông và tinh thần trách nhiệm đối với người dân lao khổ.

17
Vấn đề là ở chỗ điểm nhìn nghệ thuật đặt vào đâu để nhìn thấy ai và cái gì. "Con người vũ
trụ" và "con người xã hội" (dân đen) là hai quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người, về
đối tượng và mục đích của thơ ca.
Khi quan niệm nghệ thuật, do tác động sâu sắc của hoàn cảnh xã hội, thay đổi - con người
xã hội trong thân phận của lê nguyên, xích tử, bách tính,... trở thành nhân vật trung tâm của
thơ là một điều tất yếu.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng:
- Do chịu sự chi phối của mỹ học truyền thống nên tuy trong thơ Đường có hai "kiểu" con
người cơ bản (con người vũ trụ và con người xã hội), nhưng nhìn tổng thể thì "con người vũ
trụ" vẫn chiếm ưu thế. Nó có mặt trong cả bốn giai đoạn thơ (Sơ, Thịnh, Trung và Vãn Đường).
Ngay cả những nhà thơ hiện thực tiêu biểu như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Nguyên
Kết,... lúc có nhu cầu và điều kiện vẫn thể hiện nỗi niềm vũ trụ của mình.
- "Con người vũ trụ" là nhân vật trung tâm của dòng thơ thuộc khuynh hướng lãng mạn được
thể hiện bằng quan hệ thống nhất, tương thông với thiên nhiên, con người, vũ trụ,... "Con người xã
hội" (con người của đời thường) là nhân vật trung tâm của dòng thơ thuộc khuynh hướng hiện
thực, sáng tác theo nguyên tắc khách quan, được phản ánh bằng quan hệ đối lập, tương phản
trong thế mâu thuẫn với giai cấp thống trị.
- "Con người vũ trụ" hay con người xã hội thì đều là cống hiến của thơ Đường vào di sản
nghệ thuật của Trung Quốc và nhân loại. Chúng ta không vì thiên kiến mà đề cao "con người xã
hội", hạ thấp "con người vũ trụ" hay ngược lại.
Con người vũ trụ trong văn học Trung Quốc đến thơ Đường là đạt đến trình độ tuyệt vời.
Người dân đen xuất hiện trong thơ Đỗ Phủ và các nhà thơ hiện thực lại đạt đến độ sâu sắc,
sinh động và phổ quát mà thơ các đời sau (trong thời phong kiến) khó sánh kịp.
Cả hai "kiểu" quan niệm nghệ thuật về con người đều đạt đến đỉnh cao ở thơ Đường, làm cho
thơ Đường đạt đến đỉnh cao của thơ Trung Quốc.
Hình tượng người dân đau khổ cho ta thấy được những bất công xã hội, thấy được nỗi đau
lòng và tinh thần trách nhiệm của nhà thơ, khêu gợi nơi người đọc lòng xót thương đồng cảm
và ý thức trách nhiệm với đời. Hình tượng "con người vũ trụ" thể hiện khát vọng của con người
được sống trong một thế giới thái bình, được hô ứng, tham hợp vào nhịp sống vô biên của vũ
trụ.
Con người trong thơ Đường khêu gợi nơi cho người đọc những tình cảm, nhận thức tốt đẹp
lành mạnh, tích cực hướng về cái thiện, cái mỹ. Đó là chủ nghĩa nhân văn đích thực mà thơ
Đường cống hiến cho nhân dân Trung Quốc và nhân loại.
Quan niệm nghệ thuật và con người là phạm trù cơ bản của thi pháp nên nó sẽ chi phối tất
cả các yếu tố khác - không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, thể loại và ngôn ngữ.
Sự chi phối này đối với các yếu tố còn lại của thi pháp sẽ mở ra ở mọi cấp độ.
Đó là nội dung của các chương tiếp theo.

CHƯƠNG III: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

I − KHÁI NIỆM "KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT"


Không gian cùng với thời gian làm thành hình thức tồn tại của thế giới vật chất trong đó có
con người. Bản thân con người gồm trong nó cả không gian và thời gian. Mỗi con người là một
"toà thiên nhiên" trong lòng vũ trụ, và khi con người còn tồn tại thì mỗi giây phút trôi qua đều
là thời gian của đời người.
Chúng ta cũng nên lưu ý một điều rằng bản thân những từ "thế giới", "vũ trụ" đều là khái
niệm chỉ tổng thể không - thời gian.

18
− "Thế giới" gồm thế - đời (thời gian)
giới - cõi (không gian)
Thế giới = cõi đời = (không + thời) gian
− "Vũ trụ" gồm:
+ Vũ
Tứ phương, thượng hạ vị chi vũ.
(Hoài Nam Tử - Tề tục huấn)
(Bốn phương, trên dưới gọi là vũ.)
Vậy, Vũ = không gian
+ Trụ
Vãng cổ lai kim vị chi trụ.
(Hoài Nam Tử - Tề tục huấn)
(xưa qua nay lại gọi là "trụ")
Vậy, Trụ = thời gian
VŨ TRỤ = (KHÔNG + THỜI) GIAN
Và từ "tồn tại" cũng hàm nghĩa không thời gian :
Tồn = còn - thời gian,
Tại = đây - không gian
Tồn tại = còn đây = (không thời) gian.
Con người cũng là một tổng thể của (không+ thời) gian, nghĩa là : nó là một tiểu vũ trụ trong
đại vũ trụ, một tiểu thế giới trong đại thế giới.
Trong tác phẩm nghệ thuật, con người xuất hiện với tư cách hình tượng con người - không gian
nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng.
Vậy, không gian nghệ thuật là hình tượng không gian trong tác phẩm, là không gian trong
quan niệm của tác giả. Và như thế, văn học của mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn, mỗi xu hướng đều
có thế giới riêng, không gian riêng, xác định.
Không thể tách hình tượng ra khỏi không gian nó tồn tại. Vì vậy, không gian nghệ thuật
cũng là một phương diện quan trọng của thi pháp. Nó là một phương tiện để tác giả xây dựng
thế giới nghệ thuật của mình (tác phẩm).

II − KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG


Trong thơ Đường, như ở Chương II đã xác định, có hai "kiểu" con người chủ yếu :
- Con người vũ trụ.
- Con người xã hội (con người đời thường).
Tương ứng với hai "kiểu" con người đó, cũng có hai "kiểu" không gian :
- Không gian vũ trụ.
- Không gian đời thường.

1. Không gian vũ trụ


Không gian vũ trụ là nơi tồn tại của con người vũ trụ.
Là con người vũ trụ, nó phải đứng giữa đất trời, ở vị trí trung tâm của vũ trụ. Đây không
phải là một sự kiêu mạn, tự đề cao, coi mình là "cái rốn của vũ trụ" mà chỉ vì quan niệm : con
người là một tiểu vũ trụ giữa lòng vũ trụ.
Bằng trực giác, ta thấy rằng - ta ở đây thì đó là trung tâm trong cái nhìn của ta.

19
Từ một điểm (điểm trung tâm) con người nhìn ra mọi phía (tứ phương thượng hạ - tứ
phương gồm: đông, tây, nam, bắc).
Trong thơ Đường, vị trí trung tâm ấy được xác định như một lẽ tự nhiên và bao giờ cũng
đẹp :
− Độc toạ u hoàng lý
Đàn cầm phục trường khiếu
Thâm lâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu.
(Vương Duy - Trúc Lý Quán)
(Một mình trong khóm trúc
Gảy đàn rồi hát chơi
Rừng sâu không kẻ biết
Soi nhau với trăng ngời.)

− Mộ tòng bích sơn há


Sơn nguyệt tuỳ nhân quy.
(Lý Bạch - Há Chung Nam Sơn)
(Chiều tối, từ núi xuống
Trăng núi theo người về.)

− Hán gia Tần địa nguyệt


Lưu ảnh chiếu Minh phi.
(Lý Bạch - Vương Chiêu Quân)
(Đất Tần trăng Hán tỏ
Rõi bóng chiếu Minh phi.)
Như vậy, ta thấy dù con người ở đâu thiên nhiên cũng bao quanh; và khi con người di
chuyển thì cả vũ trụ cũng chuyển dời theo để con người vẫn ở vị trí trung tâm.
Không gian vũ trụ bao bọc con người, đại vũ trụ bao trùm tiểu vũ trụ. Trong văn học cổ, ta
luôn thấy con người ở giữa vòng "thiên phú địa tái" (trời che đất chở) và tư thế con người luôn là
"đầu đội trời, chân đạp đất" (đỉnh thiên lập địa).
Trong vòng "trời che đất chở" ấy, con người luôn luôn có sự hô ứng, tương thông, tương
cảm với đất trời, với những thực thể của thiên nhiên :
Thanh sơn hoành bắc quách
Bạch thuỷ nhiễu đông thành
Thử địa nhất vi biệt
Cô bồng vạn lý chinh
Phù vân du tử ý
Lạc nhật cố nhân tình.
(Lý Bạch - Tống hữu nhân)
Ở đây, con người được bao bọc giữa sơn với thuỷ, giữa mây và trời,...
Vì con người ở vị trí trung tâm nên không gian mang tính chất đối xứng và con người chính
là tâm đối xứng của không gian ấy. Điều ấy, ta đã thấy rõ trong nhiều bài thơ mà đặc biệt tiêu

20
biểu là những bài Đăng U Châu Đài ca , Đăng Quán Tước Lâu, Đăng cao , Độc toạ Kính Đình
Sơn, ... ở vị trí trung tâm ấy, con người trong tư thế "cầm chịch" cho sự cân bằng của không
gian vũ trụ đối xứng :

Thiên Tiền bất kiến cổ nhân


Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Tiền Độc Hậu
Trần Tử Ngang trên đài U Châu đã xác định vị trí trung
tâm và tư thế vũ trụ tiêu biểu cho con người vũ trụ trong thơ
Đường.
Điều này ta có thể kiểm chứng ở những bài thơ thể hiện
Địa con người vũ trụ :
Thanh thiên nhất nhạn viễn
Hải khoát cô phàm trì.
(Lý Bạch - Tống Trương Xá nhân chi Giang Đông)
(Vút thẳm trời cao con nhạn lượn
Thênh thang biển rộng cánh buồm dong.)
Đó là không gian đối xứng trong tầm nhìn của con người. Con người ở giữa, nó ngẩng
trông :
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
(Gió gấp trời cao vượn kêu buồn.)
Lại cúi nhìn :
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi.
(Bến trong cát trắng chim bay lượn vòng.)
Nó nhìn sang tả, thấy :
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
(Vô biên lá tơi bời rụng xuống.)
Lại nhìn sang hữu, thấy :
Bất tận trường giang cổn cổn lai
(Bất tận sông dài cuồn cuộn chảy)
Không gian vũ trụ ấy được mở ra theo mọi hướng, và tâm hồn con người tương thông với
không gian ấy được thể hiện một cách tinh tế :
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.
(Đỗ Phủ - Tuyệt cú)
Nói Tây Lĩnh - ta hiểu tây và ở trên cao; nói đến Đông Ngô ta hiểu đông và ở dưới thấp
− "Tây Lĩnh thiên thu tuyết" là tĩnh.
− "Đông Ngô vạn lý thuyền" là động.
Đỗ Phủ đang phải ngụ cư đất khách lâu ngày, nhưng lòng luôn luôn mong mỏi được về
đông để trở lại quê nhà. Thân đành tĩnh nhưng tâm thì động...

21
Như vậy ta thấy không gian trong thơ được xây dựng trên quy luật liên tưởng của tâm lý,
hay nói theo hệ thống diễn đạt đang dùng là: được thể hiện bằng quan hệ.
Không gian mang tính đối xứng với con người ở vị trí trung tâm, khiến cho con người càng
cảm thấy bé nhỏ cô độc giữa vũ trụ vô hạn vô cùng. Vì cảm giác bé nhỏ, cô độc ấy mà trong
con người dấy lên khát vọng hoà nhập vào vũ trụ, khát vọng chiếm lĩnh không gian. Và do đó
không gian luôn mang tính chất mở, có xu hướng giãn nở để đưa tâm hồn con người vượt
không gian, để có mặt trong "thiên địa chi du du".
Để chiếm lĩnh "không gian vũ trụ" ấy, con người thường dùng hai cách : lên cao và đi xa
(đăng cao và viễn du), tạo thành hệ không gian cao - viễn.
Các nhà thơ khi thể hiện con người vũ trụ (trong thơ tình lãng mạn) thường ưu tiên cho
chiều cao. Họ thích bước lên cao. Do đó, ta thấy trong thơ Đường con người thường ở tư thế
"đăng cao"- Đăng U Châu Đài, Đăng Quán Tước Lâu, Đăng Tổng Trì Các, Đăng Vạn Tuế Lâu,
Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài, Đăng Lạc Du nguyên, Đăng Nhạc Dương Lâu, Đăng cao ,...
Vì sao họ thích lên cao vậy ? Chỉ vì lên cao là một vận động bước vào giữa lòng vũ trụ, ở
đó họ dễ thấy vị trí trung tâm của mình, cảm thấy "gần với trời" hơn :
Cao các bức thư thiên
Đăng lâm cận nhật biên.
(Gác cao sát các tầng trời
Bước lên như thấy mặt trời gần bên.)
Ở vị trí ấy, tâm hồn có thể tự do phóng chiếu vào không gian vũ trụ.
Khi không phải "đăng cao" thì họ cũng đã ở vị trí trên cao rồi. Đó là Thôi Hiệu trên Hoàng
Hạc Lâu, là Vương Xương Linh trên Vạn Tuế Lâu, Phù Dung Lâu,...
Thi nhân thời cổ thích "sơn" hơn là "thuỷ" (kể cả thi nhân Trung Quốc và Việt Nam). Đất
nước họ không thiếu sông dài biển rộng, nhưng rất ít khi thấy biển xuất hiện trong thơ. Hiện
tượng ấy một phần vì trong quan niệm thẩm mỹ - đạo đức, người Trung Quốc thích sự kiên
định vững vàng (tĩnh - của núi) hơn là sự thay đổi chảy trôi (động - của nước). Họ trọng người
"nhân" hơn là người "trí", mà "Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ" (Người nhân thích núi,
người trí thích nước). Và một lý do nữa cũng rất quan trọng là vì họ thích trên cao. Rõ ràng tư
thế "đăng cao" và không gian trên cao là không gian mang tính quan niệm, không gian thẩm
mỹ. Ta nhận thấy trong ngôn ngữ Trung Quốc, từ "cao" luôn luôn gắn với những tính từ chỉ
những phẩm chất tốt đẹp (cao khiết, thanh cao, cao nhã, cao quý, cao thượng,...). Ở trên cao
ấy, con người bao quát, chiếm lĩnh không gian vũ trụ trong cái nhìn xa xăm, cho hồn mình giao
tiếp, tương thông với vũ trụ. Không gian thẩm mỹ của họ là: cao - đẹp.
Để chiếm lĩnh không gian, ngoài cách đăng cao để "cực mục", để "Thu vào tầm mắt muôn
trùng nước non" (Hồ Chí Minh), thơ Đường còn có một cách nữa là chiếm lĩnh chiều rộng bằng
cách đi xa (viễn du).
Con đường thường mở ra mời gọi bàn chân , vó ngựa ; lòng sông mở ra cho những cánh
buồm. Trong thơ Đường, ta gặp bao nhiêu là thơ tống biệt. Đó là bè bạn tiễn đưa nhau trên
những con đường, bên những dòng sông, nơi miền quan ải, ...
Những quan ải, bến sông, con đường, quán trọ, đất trích..., trong thơ làm nên không gian
lữ thứ - một bộ phận của không gian vũ trụ :
Thiên lý trường vân bạch nhân huân
Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân.

22
(Cao Thích - Biệt Đổng Đại)
(Mặt trời chiếu sáng nghìn dặm mây trắng
Tuyết tơi bời, gió bấc lùa đàn nhạn bay
Chở buồn nẻo đường trước mặt không người tri kỷ
Thiên hạ ai người chẳng biết anh.)
Có một sự đồng điệu giữa đàn nhạn đang bị gió bấc lùa về phương Nam với người lữ khách
đang chuẩn bị đăng trình, khiến lòng kẻ ở người đi đầy thắc thỏm âu lo. Thi nhân là người ở lại
với cảnh quen thuộc, chỉ lo cho bạn sắp dấn thân vào nẻo đường xa, nên khẳng định để khuyến
khích, an ủi bạn - hẳn trên nẻo đường trước mặt, anh lại có người tri kỷ, như chúng ta đã là tri
kỷ của nhau,... Ý thơ thật tha thiết trung hậu.
Mặc dù rất yêu không gian tĩnh nhưng con người trong thơ Đường lại rất thích đi, và đã đi
là đi xa - đến thiên lý vạn lý - vì đi là để mở rộng chân trời, mở rộng hiểu biết, gặp gỡ thêm
nhiều người, mở rộng giao du (quảng giao được người xưa coi là một giá trị của văn hóa - đạo
đức). Đồng thời họ cũng rất ngại đi xa vì đi xa là rơi vào hoàn cảnh lữ thứ tha hương (người
Trung Quốc định canh đã từ lâu và trong tâm lý, họ ngại đi xa). Đi xa là phải chia tay với
những gì thân thuộc nhất để dấn thân vào một không gian mới - lạ . Mới thì hấp dẫn thật, nhưng
lạ thì thật đáng lo sợ. Nhưng vì quá tĩnh, quá quen, nên lại cũng khát khao, tò mò muốn biết
cái lạ. (Điều này ta sẽ thấy rõ hơn khi tìm hiểu truyền thống "chuộng lạ" trong tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc). Sự hấp dẫn và nỗi lo sợ tuy là hai cực của tâm trạng nhưng nó đều cuốn
hút, ám ảnh con người, khiến con người rất quan tâm đến không gian. Điều đó lý giải vì sao
trong thơ Đường nhiều địa danh đến thế. Hầu như địa danh có mặt trong mọi bài thơ, thậm chí
thường đặt vào tựa đề (chẳng hạn : Đằng Vương Các, Thục trung cửu nhật , Dịch thuỷ t ống
biệt, Đăng U Châu Đài ca, Hoàng Hạc Lâu, Bạch Đế hoài cổ , Há Giang Lăng, Quy chung Nam
Sơn, Tống nguyên nhị sứ An Tây, Dạ bạc Ngưu Chử hoài cổ , Kinh Hạ Bì, Dĩ Kiều hoài, Trương
Tử Phòng, Tự kinh phó Phụng Tiên..., Thạch Đầu Thành, Độ Tang càn, Bạc Tần hoài, Xích Bích
hoài cổ ,v.v.)
Chúng tôi liệt kê hàng loạt những tựa đề mang địa danh để chứng minh một điều : không
gian luôn được nhà thơ quan tâm. Điều ấy khiến người đọc có cảm giác rằng, thi nhân đời
Đường luôn có ý thức đóng con dấu của mình vào không gian. Phải chăng, một cách tự nhiên,
đó là sự thể hiện niềm tự hào của con người đời Đường vì đã chiếm lĩnh vững chắc một không
gian lãnh thổ rộng lớn. Và đã là con người vũ trụ thì nó phải được đặt ở giữa lòng vũ - trụ
(không − thời gian). Thế cho nên, không gian có mới lạ đi nữa thì vẫn là môi trường vũ trụ của
mình.
Do đó, con người dẫu phải đau buồn vì ly biệt thì vẫn đầy lạc quan :
Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược tỷ lân.
(Vương Bột - Tống Đỗ Thiếu phủ chi nhậm Thục Châu)
(Trong bốn biển còn người tri kỷ
(thì) Dù ở tận chân trời vẫn như gần gũi bên nhau)
và đầy tự hào, tự tin mà nhắn nhủ với bạn bè:
Lạc Dương thân hữu như tương vấn
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
(Vương Xương Linh - Phù Dung Lâu tống Tân Tiệm)
(Nếu bè bạn ở Lạc dương có hỏi

23
(thì hãy nói rằng) tôi vẫn một mảnh lòng băng trong bình ngọc.)
Con người đẹp biết bao, trong sạch biết bao và cũng hoà hợp, tương xứng với môi trường
không gian của nó biết bao. Do không gian vũ trụ là không gian mở, có xu hướng giãn nở, vươn
đến tầm cao - viễn như vậy, nên kích thước của nó thường được đo bằng những con số vĩ mô.
Trong không gian vũ trụ, ta không thấy những kích tấc bé nhỏ, thấp thỏi, mà luôn luôn là
không gian với kích thước lớn - thiên lý, vạn lý, tam thiên trượng, tam thiên xích :
− Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn...
− Trường phong kỷ vạn lý...
− Cô bồng vạn lý chinh...
− Vạn lý bi thu thường tác khách...

− Bạch phát tam thiên trượng.


(Tóc trắng ba ngàn trượng.)

− Phi lưu trực há tam thiên xích.


(Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước.)
− Đào Hoa đàm thuỷ thâm thiên xích.
(Nước đầm Đào Hoa sâu ngàn thước.)
Khi không dùng số đo thì người ta thường dùng những tính từ chỉ sự cao viễn vô biên :

− Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ


Bất tận trường giang cổn cổn lai.

− Thanh thiên nhất vạn viễn


Hải khoát cô phàm trì

− Hải thượng sinh minh nguyệt


Thiên nhai cộng thử thi
Tình nhân oán dao dạ...
Đó là bút pháp khoa trương phóng đại của trí tưởng tượng lãng mạn mà nguyên nhân sâu xa
chi phối nó là nhu cầu thể hiện không gian vũ trụ.
Nhưng, tạo dựng không gian vũ trụ chính là để đem không gian nội tâm giao hoà, tương
thông cùng thế giới :
Đạm đạm trường giang thuỷ
Du du viễn khánh tình
Lạc hoa t ương dữ hận
Đáo địa nhất vô thanh.
(Vi Thừa Khánh - Nam Bành biệt đệ )
(Sông dài nước chảy lênh đênh
Dặm ngàn đất khách mối tình mênh mông
Hoa kia chung mối hận lòng
Lúc rơi xuống đất tuyệt không tiếng gì.)
Tình người ly biệt cũng thăm thẳm như dòng sông. Thi nhân dùng sự lặng lẽ của cánh hoa rơi để
thể hiện sự xao động của tâm hồn trong buổi chia tay. Sự tương giao của tâm hồn với ngoại giới
đã đạt đến độ"vô ngôn":

24
Thiên hạ thương tâm xứ
Lao lao tống khách đình
Xuân phong tri biệt khổ
Bất khiển liễu điều thanh.
(Lý Bạch - Lao lao đình)
(Dưới trời nơi đau khổ
Chính ở lao lao đình
Gió xuân xót ly biệt
Chẳng khiến liễu xanh cành.)
Nỗi đau lòng vì ly biệt của con người, trong cả thiên hạ đã tâm trạng hoá cả ngọn gió xuân
khiến nó cảm thông với nỗi đau ấy mà không nỡ khiến liễu xanh cành, vì liễu xanh gợi nỗi buồn
chiết liễu - nỗi đau buồn chia ly :
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Tương khan lưỡng bất yếm
Duy hữu Kính Đình Sơn.
(Lý Bạch - Độc toạ Kính Đình Sơn)
(Chim bầy bay vút hết
Mây lẻ đi một mình
Nhìn nhau không biết chán
Chỉ có núi Kính Đình.)
Giữa không gian quen thuộc, tầm thường, tẻ nhạt sừng sững một núi Kính Đình vững vàng,
kiên định ; giữa cõi đời với bao kẻ bon chen trục lợi, vòi vọi một Lý Bạch với tâm hồn và chí khí
thanh cao. Giữa ngọn núi Kính Đình cao cả với thi nhân cao khiết có một mối tình tri âm tri kỷ,
khiến người với núi "nhìn nhau không biết chán" - Thế giới nội tâm tương thông, cảm ứng với
thế giới ngoại cảnh, với không gian vũ trụ.
Với "thao tác" khám phá không gian vũ trụ, ta sẽ tiếp nhận bao mối giao hoà giữa con
người với thế giới được thể hiện trong thơ Đường.
Sự tương thông giữa không gian nội tâm với không gian ngoại giới đem đến cái cảm giác
mà ta đã có lần nói tới : Bước vào thơ Đường, ta bước vào thế giới của sự hoà điệu.

2. Không gian đời thường


Như trong Chương II đã nói, sự hoà điệu của thế giới nghệ thuật Đường thi đã bị phá vỡ
khi con người xã hội, với tư cách là thần dân xuất hiện. Con người được phản ánh trong quan
hệ đối lập, tương phản với những thế lực áp bức họ. Không gian vũ trụ cũng nhường chỗ cho
không gian đời thường.
Không gian tồn tại của người "dân đen" là không gian đời thường, không gian của sinh hoạt
đầy ưu hoạn. Không lạ nếu ta thấy trong thơ hiện thực nhiều không gian đời thường đến thế.
Đâu còn nữa sự rộng mở, xa xăm, thoáng đãng của không gian vũ trụ. Giờ đây là không
gian đời thường phồn tạp, chật chội, nhãn tiền :
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt.
(Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên...)
Nếu như không gian vũ trụ tương thông với con người vũ trụ là một tất yếu, thì bao quanh
con người xã hội là không gian đời thường lại cũng là một tất yếu. Người dân đen bị vây bủa,
trói buộc bởi không gian đời thường:

25
− Nhập môn văn hào đào
Âu tử cơ dĩ tốt.
( Vào cửa nghe kêu gào
Con thơ đói vừa mất)
− Mộ đầu Thạch hào thôn
Hữu lại dạ tróc nhân
Lão ông du tường tẩu
Lão phụ xuất khan môn.
(Đỗ Phủ - Thạch Hào lại)
(Chiều chạy đến thôn Thạch Hào
Có lại đến bắt người ban đêm
Ông lão vượt tường trốn
Bà lão ra coi cửa. )
Nếu không gian vũ trụ có xu hướng giãn nở, mở rộng, để tâm hồn con người lan toả, giao
cảm với ngoại giới thì không gian đời thường có xu hướng thu hẹp, dồn nén con người vào
những địa dư chật hẹp, những xó xỉnh của cuộc sinh hoạt :
Nhiệm thi thâm sơn cách thâm xứ
Dã ứng vô kế tỵ chinh diêu.
(Đỗ Tuân Hạc - Sơn Trung quả phụ)
(Ở tận hang cùng trong hóc núi
Cũng không thoát khỏi thuế xâu đòi.)
Con người không còn được bay lượn trong bầu trời mênh mông (kiểu "muốn lên trời cao
ngắm vầng trăng sáng") nữa, mà "rớt" xuống "đất bằng" với đời thường vất vả, tất bật :
− Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu áo giậm chân chặn đường khóc.
(Đỗ Phủ - Binh xa hành)
− Phía trời tây mây đỏ ngùn ngụt
Tia mặt trời xuống tận đất bằng.
(Đỗ Phủ - Khương thôn)
Người ta cũng không còn hăm hở "đăng cao" nữa mà lo bám lấy đất bằng để tồn sinh một
cách vất vả, khó nhọc :
Tơ hồng leo phải cây đay
Quanh co quấn quýt cho dây khó dài
Gả con cho mấy cậu cai
Thà rằng bỏ quách ở nơi vệ đường.
Khi con người vũ trụ du lãm, những địa danh thường là danh lam thắng cảnh gắn với thời
gian nghìn tuổi (Tô Đài, Hoàng Hạc Lâu, U Châu Đài, Vạn Tuế Lâu,...). Còn người dân đen thì đi
(hoặc chạy) trong những thôn xóm, làng mạc cụ thể của thời hiện tại (Thạch Hào, Đồng Quan,
Đồng Cốc huyện, Hồ Thành huyện,...). Đó là những chiến trường đang xảy ra những cuộc giao
tranh :
Đêm khuya qua bãi chiến trường
Ánh trăng lạnh soi trên xương trắng.

26
hoặc những thôn xóm tiêu điều trong loạn lạc :
Làng tôi hơn trăm nhà
Thời loạn tản đông tây.
... Đi hoài thấy ngõ vắng
Buồn tênh bóng nắng gầy.
(Đỗ Phủ - Vô gia biệt )
Lý Bạch và Đỗ Phủ là đôi bạn thân, họ đều ở trên một đất nước ấy, vậy mà từ "Nắng rọi
hương lô khói tía bay" đến "Buồn tênh bóng nắng gầy" chẳng xa nhau bao nhiêu về không gian
và thời gian nhưng có cả một sự biến đổi trời - vực về không gian nghệ thuật. Dẫu vẫn muốn
lượn bay trong không gian vũ trụ nhưng với tư cách là người phát ngôn của nhân dân, Đỗ Phủ
không thể không vẽ lại bóng nắng gầy guộc, thảm thê trên một quê hương bị chiến tranh tàn
phá đến xác xơ tiều tuỵ.
Không gian vũ trụ thường được "đo" bằng những kích thước ở cấp độ vĩ mô hoặc thể hiện
bằng những hình tượng có tính tượng trưng, ước lệ :
Đào Hoa đàm thuỷ thâm thiên xích
Bất cập Uông Luân tống ngã tình.
(Nước đầm Đào Hoa, sâu ngàn thước
Không bằng tình Uông Luân tiễn biệt ta.)
(Lý Bạch - Tặng Uông Luân)
Không gian đời thường thì lại rất thực, gần gũi, với những số đo thực, rất bình thường :
Thu thuỷ tài thâm tứ ngũ xích
Dã tràng cáp thụ lưỡng tam nhân
Bạch sa thuý trúc giang thôn mộ
Tương tống sài môn nguyệt sắc tân.
(Đỗ Phủ - Dữ Chu Sơn Nhân)
(Nước thu mới sâu độ bốn năm thước
Đò đồng chở vừa hai, ba người
Cát trắng, tre xanh cảnh chiều hôm trên xóm bến
Tiễn nhau trước cổng gióng tre, ánh trăng mới mọc sáng ngời.)
Từ "nghìn thước" của không gian vũ trụ, rút xuống bốn, năm thước của không gian đời
thường, tính phiếm định và tính cụ thể, xác thực của hai loại không gian đều rất rõ.
Không gian vũ trụ thường được vẽ nên bằng những nét chấm phá đơn sơ, gây ấn tượng và
gợi liên tưởng. Nhưng với không gian đời thường thì ngòi bút thi nhân phải miêu tả cụ thể và có
khi tỷ mỷ. Đó là vì tượng trưng và gợi ý thì đường nét cần thoáng mà tả chân thì nét bút cần cụ
thể, đầy đủ và có khi phồn tạp. Thi pháp không gian là có tính quy luật.
Khi con người vũ trụ thể hiện nội tâm, thể hiện khát vọng hoà nhập với vũ trụ thì không
gian không thể là không gian đời thường. Nhưng con người đời thường thì đâu còn lòng dạ nào
mà gửi tâm hồn vào cõi cao xa. Hai kiểu con người được đặt trong hai không gian hoàn toàn
khác nhau, dẫu rằng vẫn là một đất nước ấy. Bởi vì không gian quan niệm đã đổi khác.
Lý Bạch đi đâu thì cả vũ trụ chuyển dời theo :
Mộ tòng bích sơn há
Sơn nguyệt tuỳ nhân quy
(Chiều hôm bước xuống chân đèo
Bóng trăng trên núi cũng theo người về.)

27
Đỗ Phủ đi đâu thì tai hoạ đuổi theo đến đó :
Nhớ lại lúc chạy loạn
Lên bắc bao hiểm nghèo
Đêm Bành Nha khuya khoắt
Đỉnh Bạch Thủy trăng treo.
Bao gánh nặng tai ương sầu khổ dồn lại với nhà thơ ( Bách ưu tập hành - Bài ca trăm mối
lo dồn). Đời Đỗ Phủ đầy đau khổ, lo âu. Đi thi hai lần, thì hai lần gặp Lý Lâm Phủ đánh hỏng.
Không muốn áp bức dân thì triều đình lại "ban" cho chức Huyện uý (coi việc thu thuế,...). Đỗ
Phủ từ chối. Về thăm nhà thì trên đường đi chứng kiến bao cảnh đau lòng, gặp những đống
xương chết rét bên đường, vừa về đến cửa thì nghe tiếng khóc vì "con thơ đói vừa mất". Bài
thơ Tự kinh Phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài viết trong lúc này chính là một sự "đốn ngộ" của
nhà thơ. Lúc nhận được một chức quan nhỏ cũng là lúc nhận thức được rằng mình không thể
không đứng về phía nhân dân, mình phải bênh vực những người dân nghèo khổ. Tự kinh phó
Phụng Tiên huyện... là một cái mốc quyết định trên con đường thơ, đường đời của Đỗ Phủ.
Ngay tựa đề bài thơ cũng đã thể hiện sự vận động rời bỏ chỗ đứng vốn dĩ của mình đi về phía
nhân dân: Từ kinh đô về huyện Phụng Tiên. Từ triều đình về với dân dã. Ta thấy rõ sự
chuyển biến về lập trường, chỗ đứng, về tư tưởng và quan niệm nghệ thuật thể hiện ra ở sự
vận động của không gian thơ :

Từ kinh về huyện
Bài thơ này, nói như Phan Ngọc, là "bản tuyên ngôn của một nền thi ca mới"(1).
Khi không gian nghệ thuật thay đổi thì những hình tượng, sự vật, màu sắc được dung chứa
trong đó cũng thay đổi.
Lý Bạch thì đi với "thuyền lan, chèo quế" còn Đỗ Phủ thì chỉ có "đò nhà quê chở vừa hai ba
người" và "Thi Thánh" đã trút hơi thở cuối cùng trên một con thuyền rách nát.
Con chim "bố cốc" gọi đã bao đời nhưng "con người vũ trụ" có bao giờ để ý, vì họ đâu có
quan tâm đến hạt lúa phải một nắng hai sương vất vả thế nào, chỉ khi đã trải qua đói rét, phải
ăn quả dại thay cơm, người ta mới chú ý, vui mừng nghe tiếng chim giục giã:
Nhà nông đầy hy vọng tiếc nắng tiếc mưa
Chim bố cốc nơi nơi giục : xuân rồi gieo mạ.
Cũng chỉ những nhà thơ hiện thực đầy lòng ưu ái với dân nghèo mới đau lòng trước "những
điều trông thấy" đầy nghịch lý : "khắp nơi không có một tấc đất hoang, mà nhà nông còn chết
đói".
Đến các "gam" màu trong hai thế giới nghệ thuật cũng khác xa nhau.
Trong không gian vũ trụ, mọi vật đều mang màu sắc tươi sáng, trong trẻo :
...Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
(Trương Nhược Hư - Xuân giang hoa nguyệt dạ )
Còn trong không gian đời thường, thế giới cảnh vật quanh cuộc đời vất vả đều mang màu
sắc u tối, nhợt nhạt :
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều
(Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương)

(1) Phan Ngọc, Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen, NXB Đà Nẵng, 1990, tr. 195.

28
hoặc
Vợ chồng nhìn nhau mặt đều xanh bủng
hoặc
Thằng con nuông nhất đời
Nước da trắng nhợt hơn tuyết
Thấy cha liền ngoảnh mặt khóc oà
Chân đầy ghét bẩn không bít tất.
Hai bàn chân đầy ghét bẩn ấy làm sao tồn tại được trong không gian vũ trụ, nó đầy cáu
ghét vì giẫm trong cát bụi của đời thường, hơn nữa - đời loạn lạc.
Cứ dùng phép so sánh song hành như thế, chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt của hai "kiểu"
không gian nghệ thuật - và cũng dễ thấy tính quy luật của quan hệ giữa quan niệm nghệ thuật
về con người với các yếu tố khác của thi pháp, trong đó có không gian nghệ thuật.
Điều cần lưu ý là :
- Dù có hai "kiểu" không gian tiêu biểu, nhưng trong thơ Đường vẫn thường liên tưởng tới
một thế giới yên tĩnh, cao vời, xa xăm - thế giới của sự hoà điệu (điều này còn phụ thuộc vào
tâm lý tiếp nhận mà ở đây chúng tôi không có điều kiện trình bày).
- Cả hai "kiểu" không gian nghệ thuật của thơ Đường đều đạt đến trình độ "cổ điển", tiêu
biểu cho không gian nghệ thuật thơ Trung Quốc.

29
CHƯƠNG IV: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT:

I − KHÁI NIỆM "THỜI GIAN NGHỆ THUẬT"


Khái niệm "thời gian'' là một phạm trù triết học. Thời gian cùng với không gian là hình thức
tồn tại của vật chất. Chỉ trong thời gian và không gian thì sự vật mới được xác định. Thời gian
là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động và phát triển của mọi vật, mọi sự
trong thế giới. Hình tượng nghệ thuật cũng chỉ có thể được xác định trong không gian - thời
gian.
Thời gian khách quan (thời gian tự nhiên) có một tính chất rất đặc biệt, đó là quy luật : chỉ
vận động theo một chiều.
Nhưng trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian được tái tạo lại mang tính chủ quan của tác
giả. Cả chiều dài, quy mô, hướng vận động, nhịp độ,... của nó đều tuỳ thuộc tác giả. Có nghĩa
là thời gian trong tác phẩm nghệ thuật không tuân thủ quy luật "một chiều" của thời gian khách
quan nữa.
Khi đọc một tác phẩm văn học, ta ít quan tâm đến thời gian. Vậy mà ta chỉ hiểu tác phẩm
khi đặt nó trong mối tương quan thời gian của nó.
Đặc điểm của thời gian nghệ thuật là luôn luôn mang tính cảm xúc (tâm lý) và tính quan
niệm. Nó đầy tính chất chủ quan vì nó do "một con người" (tác giả) tạo nên.
Con người trong tác phẩm chỉ là hình tượng con người. Do đó, thời gian trong tác phẩm là
thời gian của hình tượng.
Vậy : thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tác nên trong tác phẩm nghệ
thuật.
Ở đây thời gian được dùng làm phương tiện để phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc và tư
tưởng.
Thời gian nghệ thuật có tính chất tự do so với thời gian khách quan - nó có thể bị đảo ngược
(vận động ngược chiều), bị hãm tốc hoặc bị tăng tốc,...
Trong tiến trình lịch sử văn học, thời gian nghệ thuật đã nhiều phen thay đổi. Thường là
tương ứng với một giai đoạn, một loại hình, một xu hướng,... Có những "kiểu" thời gian xác
định.
Thời gian nghệ thuật là một phương diện (yếu tố) quan trọng của thi pháp. Đối với tác giả,
nó là một phương tiện để tác giả phản ánh đời sống, thể hiện xúc cảm và tư tưởng. Đối với
người đọc, nó là tín hiệu để khám phá bản chất của hình tượng.

II − THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG


Với thơ Đường, thơ Trung Quốc bước vào một thế giới mới - con người đời Đường, ở đây là
thi nhân đời Đường, đặc biệt quan tâm tới thời gian. Điều đó chứng tỏ sự trưởng thành, chín
muồi trong quan niệm nghệ thuật về thời gian.
Chúng tôi cho rằng, quan niệm về thời gian trong thơ Đường cũng chịu sự chi phối của sự
hội tụ ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo.
Mặt khác hoàn cảnh lịch sử của đời Đường bị chia làm hai giai đoạn chính với loạn An − Sử
là cái mốc. Nó tác động sâu sắc đến thơ ca, khiến thơ có hai khuynh hướng : Trữ tình lãng mạn
và phản ánh hiện thực, dẫn đến trong thơ có hai "kiểu" con người cơ bản : con người vũ trụ và
con người xã hội. Tương ứng với hai kiểu con người đó là hai kiểu" không gian : không gian vũ
trụ và không gian đời thường.

30
Xét về phương diện thời gian, ta cũng thấy : tương ứng với hai "kiểu con ngưòi trong thơ
thuộc hai khuynh hướng, cũng có hai kiểu thời gian nghệ thuật cơ bản : thời gian vũ trụ và thời
gian đời thường.

1. Thời gian vũ trụ


Như trong Chương III đã nói, "vũ trụ" có nghĩa là không - thời gian. Nói "thời gian vũ trụ" tức
là nói thời gian trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với không gian, với tư cách là "chiều
thứ tư" của không gian.
Thông thường, người ta có một tập quán cho rằng vũ trụ là một khái niệm chỉ không gian.
Cho nên khi nói "không gian vũ trụ" thì dễ dàng chấp nhận, còn nói "thời gian vũ trụ" thì cảm
thấy khó chấp nhận. Nhưng một khi đã hiểu rằng : từ "vũ trụ" có nghĩa là (không+ thời) gian,
vũ trụ thống nhất là hình thức tồn tại của vật chất, hệ thống này gồm hai yếu tố :
"Tứ phương, thượng hạ vị chi vũ" = không gian
Vãng cổ lai kim vị chi trụ" = thời gian
và đã chấp nhận "không gian vũ trụ" thì cũng có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận "thời gian vũ
trụ".
Ta thường quan niệm rõ hơn về không gian vì không gian là cái có thể nhìn thấy được, còn
thời gian thì vô hình, ta không cảm nhận được bằng ngũ quan. Thời gian vô hình mà chẳng có
gì là không vận động trong thời gian, "đi" trong thời gian. Hơn nữa con người còn bị thời gian
chi phối khắc nghiệt hơn cả không gian, vì thời gian chỉ có một chiều, đã đi là mất. Con người
mà cảm nhận được bước đi của thời gian là con người rất đau khổ. (Người hạnh phúc mấy khi
quan tâm đến thời gian). Cũng chỉ người trưởng thành mới ý thức được thời gian một cách sâu
sắc. Thơ Đường đã đạt đến độ trưởng thành của thơ Trung Quốc - ở đó quan niệm về thời gian
cũng đạt đến độ sâu chưa từng thấy.
+ Đặc tính thứ nhất của "thời gian vũ trụ" trong thơ Đường là luôn luôn có mối quan hệ
biện chứng với không gian. Đó là cái lẽ vì sao mà người ta có thể dùng không gian để thể hiện
thời gian và ngược lại.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
(Vương Bột - Đằng Vương Các)
(Mây lơ lửng, đầm lồng bóng, chuỗi ngày dài dằng dặc trôi
Vật đổi sao dời, thu qua bao độ.)
Cái cảm giác "nhật du du" (cảm giác về thời gian) cơ hồ là do "nhàn vân đàm ảnh" (không
gian) đưa lại; và con người nhận biết được "kỷ độ thu" là do sự quan sát, thể nghiệm về sự đổi
thay trong không gian, vật đổi sao dời" (trong Truyện Kiều ta thấy điều này rất rõ : nhìn màu
"lửa lựu lập loè" ta biết mùa hè, nhìn hoa cúc ta biết mùa thu).
Thời gian với không gian thống nhất lại, làm nên "thế giới" (cõi - đời), làm nên "vũ trụ" bao
trùm "tiểu vũ trụ - con người".
Ta đã thấy trong thơ Đường rất nhiều địa danh, dường như thi nhân có ý thức đóng con dấu
của mình lên không gian. Khảo sát thời gian nghệ thuật, ta lại thấy thêm một điều : thời gian
luôn luôn có mặt cùng với không gian trong mối quan hệ không thể chia tách và phần nhiều cũng
được đặt luôn vào tựa đề của bài thơ. Chẳng hạn : Thục trung cửu nhật, Bạch Đế hoài cổ, Xuân
giang hoa nguyệt dạ, U Châu tân tuế tác, Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ, Dạ bạc
Ngưu chử hoài cổ,...
Ngay cả khi chỉ có tín hiệu không gian, ta vẫn thấy hàm ẩn, thấp thoáng đằng sau địa danh
ấy một thời gian. Ví dụ :"Dịch Thuỷ tống biệt". Địa danh "Dịch Thuỷ" đã gợi lên trong tâm trí

31
khoảng thời gian dằng dặc từ thời Yên Đan tiễn Kinh Kha đi vào đất Tần. Kinh Hạ bì, Dĩ Kiều
hoài Trương Tử Phòng thì Dĩ Kiều với Trương Tử Phòng đã thông tin cho người đọc biết thời
gian hoài cổ của bài thơ,...
Về phương thức thể hiện thì thời gian ấy cũng rất đa dạng.
Người xưa cũng biết thời gian chỉ có một chiều nhưng đồng thời cho rằng nó vận động theo
chu kỳ tuần hoàn. Quan niệm thời gian tuần hoàn một chiều này đến Đường đã rất thành thục
vì thời này cả ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy Nho, Phật, Đạo đã dung hợp.
Do quan niệm thời gian lưu chuyển tuần hoàn một chiều này mà con người vừa thấy đời
người dù có dài đến trăm năm cũng chỉ là một khoảnh khắc, một "sát na" tạm bợ trên vòng lưu
chuyển luân hồi của thời gian vô thuỷ vô chung. Huống chi thực tế lại cho họ biết rằng" nhân
sinh thất thập cổ lai hy" (Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm). Họ phải tìm cách giải thoát khỏi
"định mệnh" khắc nghiệt đó. Nếu như các đạo sĩ suốt đời tìm "linh chi", "tiên dược", luyện
đan... mong thực hiện khát vọng "thọ ngang trời đất"; các hoà thượng "tinh tấn" tu trì mong
giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi,... thì thi nhân gửi gắm khát vọng trường tồn vào thơ ca.
Thời gian vũ trụ chính là một phương thức thể hiện khát vọng đó :
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ
(Lý Bạch)
(Bài thơ làm xong thì cỏ cây đều sống ngàn năm.)
Họ nhận thấy nghệ thuật có thể chiến thắng thời gian
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở Vương đài tạ không sơn khâu
(Lý Bạch - Giang thương ngâm)
(Từ phú của Khuất Nguyên vẫn sáng với mặt trời, mặt trăng
Lâu đài vua Sở đã thành núi gò trơ trụi.)
Đó là lý do khiến thi nhân không đóng khung thời gian nghệ thuật trong thời hiện tại. Mặc
dù con người bao giờ cũng chỉ "hiện sinh" (sinh tồn trong thời hiện tại) nhưng nếu trong không
gian, nó luôn luôn đứng giữa đất trời, khát vọng hoà nhập vào "thiên địa" thì trong thời gian,
nó cũng xác định mình ở một điểm (điểm hiện tại) trên dòng vận động lưu chuyển của thời
gian, để tâm trí rong ruổi trong thời gian vô thuỷ vô chung. Vậy nên, với tư cách là thời gian vũ
trụ, thời gian nghệ thuật trong thơ Đường ít chịu đóng khung trong thời hiện tại mà luôn có xu
hướng vận hành trong vòng lưu chuyển của thời gian, ngược về quá khứ, xuôi đến tương lai.
Nhưng khảo sát thơ Đường, ta thấy một thực tế này :
- Thơ Đường ưu tiên cho thời quá khứ, và thời quá khứ đó chủ yếu được thể hiện dưới hai
dạng : thời gian hoài cổ và thời gian ký ức.
Trong thơ Đường, ta bắt gặp vô số tâm trạng hoài cổ.
( 1)
Mở quyển Thơ Đường, tập I là tuyển tập của ba trăm năm thơ Đường, ngay trang đầu
tiên ta gặp Vương Tích :
Trường ca hoài thái vi.
(Hát ngao chạnh nhớ người hái rau vi.)
"Người hái rau vi" là Bá Di, Thúc Tề từ thời cổ. Và trang cuối cùng ta lại gặp Tào Đường với
nỗi hoài niệm sự tích "Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai". Thi nhân toàn những nhớ người xưa.
Lạc Tân Vương đến bờ sông Dịch nhớ lại :
Tích thời nhân dĩ một

(1) NXB Văn học, H., 1987.

32
Kim nhật thuỷ do hàn.
( Người xưa đã khuất rồi.
Nước sông Dịch ngày nay còn giá lạnh.)
Tinh thần xả thân trừ bạo của Kinh Kha nghìn năm trước vẫn còn đây, dòng sông Dịch,
"chứng nhân" của lịch sử còn buốt lạnh. Lời ca vĩnh viễn của người tráng sĩ ngày xưa làm cảm
khái cả trời đất, nay vẫn hiện về trong cảm khái của nhà thơ.
Ta sẽ thấy trong thơ Đường bao nhiêu là thơ hoài cổ - Bạch Đế hoài cổ , Tây Thi vịnh, Việt
trung lãm cổ , Vịnh hoài cổ tích, Xích Bích hoài cổ ,...
Trong ý niệm, thậm chí trong tiềm thức của thi nhân, cái gì của ngày xưa cũng đẹp, cũng
có giá trị. Người xưa bao giờ cũng tốt đẹp ,là những tấm gương, là những chuẩn mực mà con
người ngày nay ngưỡng mộ. Thánh vương chỉ có ở thời cổ (Nghiêu, Thuấn, Vũ,...). Thánh nhân
cũng chỉ có ở thời cổ (Di, Tề, Khổng, Mạnh,...). Hiền thần cũng chỉ ở xa xưa (Y, Doãn, Lã
Thượng, Chu Công, Gia Cát Lượng,...). Anh hùng cũng chỉ anh hùng ngày xưa mới đáng ca ngợi
(Hạng Vũ, Trương Lương, Lý Quảng,...) và mỹ nhân cũng phải là mỹ nhân thời cổ mới gây nên
ở họ sự ngưỡng vọng (Tây Thi, Chiêu Quân, Phi Yến,...). Tài tử cũng phải là tài tử ngày xưa và
bao giờ họ cũng muốn sánh được với tài tử ngày xưa (Khuất Nguyên, Tống Ngọc, Ban Cố,
Dương Hùng,...).
Phải nói đó là tâm lý, tư duy bảo thủ, đặc biệt được tô đậm bởi quan niệm của nho gia.
- Nhưng thời gian hoài cổ không phải luôn luôn được đánh dấu bằng những tên tuổi, những
cột mốc cổ xưa mà nhiều khi nó chỉ mang tính phiếm chỉ - miễn "cổ" là đủ để yên tâm :
Ngã hữu vạn cổ trạch
Tung Dương Ngọc Nữ phong
(Lý Bạch - Tống Dương Sơn Nhân quy Tung Sơn)
(Ta có ngôi nhà muôn năm
Ở trên ngọn Ngọc Nữ núi Tung Dương.)
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
(Người xưa đã cưỡi hạc vàng đi đâu mất)
(Thôi hiệu - Hoàng Hạc Lâu)
Tại sao người ta thích hoài cổ, thích tựa lưng vào quá khứ như vậy ? Vì cái gì của cổ nhân
cũng đã được thời gian kiểm nghiệm rồi - không thực sự có giá trị thì sao có thể tồn tại mãi
hàng ngàn năm ? Cho nên, vượt được thời gian là đủ độ tin cậy. Nếu không là "cổ" thì chí ít
cũng là "cũ" mới đáng tin cậy.
Bạn phải là bạn cũ mới quý, vì thế ta gặp rất nhiều "cố nhân" trong thơ :
− Cố nhân cụ kê thử.
(Mạnh Hạo Nhiên)
− Phù vân du tử ý
Lạc nhật cố nhân tình.
(Lý Bạch)
− Tây xuất Dương quan vô cố nhân.
(Vương Duy)
− U ý cánh như thử
Huống nãi cố nhân lai.
(Bạch Cư Dị)
Quê hương cũng phải là quê cũ (cố hương, cố quốc, cố viên) mới gợi nhớ da diết :

33
− Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự.
(Vương Duy)
− Nhược vi hoá đắc thân thiên ức
Tán tác phong đầu vọng cố hương.
(Liễu Tông Nguyên)
(Ước thân hóa làm muôn ức
Đứng vạn đầu non vọng cố hương. )

− Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ


Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Đỗ Phủ - Thu hứng I)
(Khóm trúc lại tuôn thêm dòng lệ ngày ấy
Con thuyền cô quạnh buộc mãi mối tình vườn cũ.)

− Độc thương giang lâu cố quốc tình.


(Dương Sĩ Ngạc - Đăng lâu)
(Một mình lên lầu cao bên sông, chạnh niềm cố quốc.)
Bạn cũ thì bây giờ vẫn là bạn, quê hương thì bây giờ vẫn là quê hương, nhưng trong tâm
thức phải là bạn cũ, quê cũ mới đáng yêu quý, trân trọng, gắn bó - lại cũng chỉ vì cái "cũ" là cái
đã được kiểm nghiệm, đã qua thử thách.
Không gian, cảnh vật, con người, tình tự,... được đóng dấu "cổ" (ít ra cũng là cũ) lên mới
thành giá trị.
Bản tính con người là thích cái mới. Thi nhân có đa tình, mộng mơ đến mấy thì cũng chỉ có
thể yêu "lân nữ"(cô láng giềng), yêu những người con gái cùng thời với họ chứ làm sao yêu
được Tây Thi, Ngu Cơ, Chiêu Quân,... Nhưng đối với thơ Đường, hình như cái mới, cái hiện kim
chưa đủ độ tin cậy vì nó chưa qua sự kiểm nghiệm của thời gian, giá trị của nó còn chưa được
khẳng định, mà tương lai thì lại càng mờ mịt, mơ hồ cho nên họ hoài cổ, đem cái cổ về với hiện
tại để làm thước đo, làm chuẩn mực cho giá trị.
Một dạng nữa của thời gian quá khứ trong thơ Đường là thời gian ký ức (hay hồi tưởng, kỷ
niệm). (Hoài cổ là thời quá khứ xa xăm, còn ký ức là quá khứ gần).
Một thao tác thường thấy của thơ Đường là biến thời gian thành ký ức.
Chẳng hạn, hai người đang chia tay nhau nhưng thời hiện tại chỉ được nói đến trong nửa
đầu, sang đến nửa sau thì nửa đầu đã trở thành quá khứ.
Hiện tại nhiều khi cũng được cảm nhận như một quá khứ gần. Đêm mưa thu hôm nay là ký
ức được gợi lại trong câu chuyện bạn cùng ta nhắc đến lúc ngồi bên cửa sổ phía tây :
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì
Hà đương cộng tiễn tây song chúc
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.
(Lý Thương Ẩn - Dạ vũ ký bắc)
(Bạn hỏi ngày về, chưa hẹn được
Đêm mưa núi Ba ao thu đầy nước
Bao giờ ở cửa sổ phía tây cùng chong đèn

34
Lại cùng trò chuyện về lúc mưa đêm ở núi Ba.)
Cách cảm nhận và thể hiện này đã nhanh chóng biến các hình ảnh của hiện tại thành ký
ức, gợi nên không gian và thời gian xa xăm để con người hoài niệm.
Nó không nói về chỗ đứng của nó mà nói về xung quanh; nó không nói về lúc nó đang tồn
tại mà đẩy về phía trước để ngoái lại nhìn :
Kim nhật tống quân tu tận tuý
Minh triêu tương ức lộ man man.
(Giả Chí - Tống Lý Thị lang phó Thường Châu)
(Còn bữa này thôi sau tuý luý
Nhớ nhau, mai lại cách muôn vàn.)
Cái ngày hôm nay thế là quý lắm, vì nó là nỗi nhớ của ngày mai.
Sao người ta lại làm thao tác ấy ? Vì người ta muốn lưu giữ kỷ niệm, muốn hôm nay phải
trở thành kỷ niệm cho ngày sau. Đặc tính của thời gian là trôi chảy. Muốn thời gian không mất
thì hãy "chất" nó vào kho tàng ký ức.
Trong thơ Đường (bộ phận thể hiện con người vũ trụ) sao mà nhiều nỗi nhớ đến thế. Ta
gặp khắp nơi những "hoài","ức","tư","niệm" (đều có nghĩa là nhớ ). Một chữ "nhớ" hiện lên biến
tất cả thành kỷ niệm.
Con người thường ghi lại khoảnh khắc nó "nhớ". Vì khi "nhớ" là khi nó ở trạng thái tâm hồn
đẹp, ở tư thế đẹp, nó lưu giữ được thời gian; nói cách khác : nó khắc phục được hạn chế của
thời gian.
Kỷ niệm bao giờ cũng đẹp (cái gì không đẹp thì dễ bị lãng quên).
Quá khứ là đẹp vì nó hiện lên trong ta qua màn sương kỷ niệm.
Thơ Đường hay nói đến quá khứ (và tương lai hư ảo) còn vì đó là cái vô cùng. Khi nói đến
không - thời gian (vũ trụ) vô cùng, con người cảm giác được thư giãn, được giải thoát khỏi cái
không - thời điểm (tồn tại) hạn hẹp, giải thoát khỏi những hệ luỵ của đời thường. Như vậy, phải
chăng cũng có nghĩa là: trong cảm niệm của thi nhân, thơ là một phương tiện giải thoát (hay
nói cách khác - đối với họ (thi nhân) thơ như là một thứ tôn giáo)? (Ông Lâm Ngữ Đường cũng
cho rằng, thơ là tôn giáo của người Trung Quốc) (1). Nhưng nói về quá khứ không phải vì quá
khứ. Người ta thường nói về quá khứ vì khao khát có mặt ở tương lai. Lập luận như vậy có vẻ
như là nghịch lý. Nhưng cái lý là ở chỗ: Vì tương lai như thế nào không sao biết được, mà con
người lại muốn trường tồn - họ nhớ mãi về thời xa xưa, nhắc nhở, ca ngợi ngàn xưa. Thực tế đã
diễn ra như vậy - Lý Bạch nói : "Từ phú của Khuất Nguyên vẫn sáng cùng mặt trời mặt trăng" thì
hậu thế lại nói "văn chương Lý, Đỗ còn, ánh sáng chiếu muôn trượng",...
Nhà phê bình Thánh Thán cũng thừa nhận động cơ của mình khi phê bình những tác phẩm
văn chương của người xưa : "Bản ý tôi là muốn làm duyên với người sau đôi chút, chứ hơi đâu
mà chật vật vì người đời xưa".
Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Du cũng đã thể hiện nỗi lo hậu thế quên mình :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
(Không biết ba trăm năm sau
Thiên hạ có ai khóc Tố Như chăng?)
Nhà thơ mong mỏi người đời sau hiểu mình như bây giờ mình đang hiểu và thương xót
nàng Tiểu Thanh.

(1) Lâm Ngữ Đường, Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Ca Dao, Sài Gòn, 19.

35
Một điều nữa rất quan trọng, ấy là : hoài cổ chính vì thương kim, vì không bằng lòng với
hiện tại.
Không thoả mãn không chỉ là đặc tính của nghệ sĩ. Đó cũng là đặc tính của con người.
Nhưng ở nghệ sĩ, điều này càng sâu sắc vì nghệ sĩ thường nhạy cảm và luôn luôn khao khát sự
hoàn thiện. Chứng kiến bao cảnh bất công, ngang trái ở đời, đau lòng vì hiện tại, họ tìm về
những tấm gương tốt đẹp của ngày xưa là cố ý nhắc nhở con người hiện tại.
Trong cảm niệm thời gian của thi nhân thời cổ, cái gì của quá khứ cũng tốt đẹp, và hiện tại
không bằng quá khứ. Hiện tượng ấy là do nhiều nguyên nhân đưa lại. "Sự hướng về quá khứ
trong dòng thời gian một cách chủ quan là một đặc điểm của người Trung Quốc cổ xưa không
thấy các thế kỷ đã qua đứng sau lưng mình; trái lại, họ hướng về chúng bằng tất cả tồn tại của
họ" (1).
Nhận định đó của Lixêvích là đúng. Nhưng phải thấy rằng, đằng sau thời gian hoài cổ là
một niềm thương xót cho hiện tại và cho tương lai. Hiện tượng này trong văn học cũng đồng
dạng với phong tục thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc, Việt Nam,... Họ thờ cúng tổ tiên,
tức phụng thờ quá khứ, một phần do tình cảm đối với tổ tiên, đối với ông bà, cha mẹ, nhưng
một phần quan trọng là họ muốn nhắc nhở con cháu đời sau sẽ nhớ đến mình, sẽ kế thừa
những gì tốt đẹp của các thế hệ đi trước. Khi thắp nén hương tưởng nhớ tiền nhân, họ còn
muốn truyền anh linh của tổ tiên cho con cháu.
Tâm lý này, nguyện vọng này có nguồn gốc sâu xa từ nền văn minh nông nghiệp - "Thần Nông
giáo dân nghệ ngũ cốc". Hàng ngàn năm trồng cây, cư dân nông nghiệp nhận thấy tầm quan trọng
của hạt giống. Họ coi trọng việc để giống và luôn lo "mất giống" - mà hạt giống là đại biểu của quá
khứ và bao giờ cũng phải là tốt nhất. Dần dần, trong con người lắng đọng một ý thức biết ơn hạt
giống, biết ơn quá khứ vì luôn luôn mong mỏi những vụ mùa "phong thu". Họ lo mất giống, lo âu
"vô hậu".
Tâm lý ấy tác động đến lý tưởng thẩm mỹ. Trong văn bản nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ
ấy hiện ra ở cái đẹp của quá khứ, ở cảm hứng hoài cổ, ký ức, hồi tưởng,...
Đặt con người trong vòng lưu chuyển của thời gian để luôn nhắc nhở con người biết ơn quá
khứ, trách nhiệm với hiện tại, lo lắng và dành lại những gì tốt đẹp cho tương lai - đó là ý nghĩa
nhân văn đích thực của thời gian vũ trụ trong thơ Đường.

2. Thời gian đời thường


Trong dòng thơ hiện thực, tức bộ phận phản ánh đời sống của con người xã hội, thời gian
nghệ thuật là thời gian đời thường.
Không còn nữa những "thiên thu","vạn cổ" của kiểu thời gian vũ trụ. Nhà thơ Đỗ Phủ :
Nằm đói đã mười ngày rồi
Áo rách vá trăm mảnh chằng chịt.
Và người làm ruộng thì :
Tháng hai bán sớm tơ
Tháng năm bán non thóc
Cắt miếng thịt cuống tim
Trị vết thương trước mắt.
Nhìn chung, thời gian đời thường chủ yếu là thời hiện tại, có tính chất cụ thể, trực cảm. Đó
là thời gian sự kiện, thời gian sinh hoạt, gần như trùng với thời gian trần thuật. Người ta kể về
cái đang diễn ra (chứ không nhớ về cái đã qua như trong thời gian vũ trụ) :

(1) Lixêvích, Tư tưởng văn học Trung Quốc trong buổi giao thời giữa cổ xưa và trung cổ ...,
Sđđ.

36
Lúc này vác thuổng về tay không
Gái khóc, trai rên, bốn vách lặng.
(Đỗ Phủ - Càn nguyên trung ... tác ca)
Thời gian không được giãn nở một cách thoải mái, phiếm định nữa mà khắc khoải trườn
qua những nỗi đau khổ liên tiếp:
Nửa đêm bờ đê mưa lẫn tuyết
Vừa về, quan lại bắt đi tiếp
Đêm lạnh, tơi ngắn áo dính da
Ngực thủng chân rách dám kêu ca !
Đến sáng đắng cay không chỗ nói.
(Vương Kiến - Thuỷ phu dao )
- Hôm qua xóm Nam khóc
Tiếng khóc bao thương đau
Rằng vợ khóc chồng đó
Chồng hai nhăm tuổi đầu
- Sớm nay thôn Bắc khóc
Tiếng khóc bao thê thảm
Rằng đây mẹ khóc con
Con mười bảy, mười tám.
(Bạch Cư Dị - Văn khốc giả )
Trong thời gian đời thường hầu như không có hoài niệm, không có những quá khứ xa xăm
vì người ta nói về những việc đang diễn ra (kể việc = tự sự) :
Trời tháng chạp vào năm thứ tám
Suốt năm ngày tuyết xuống bời bời
Trúc thông cũng chết cóng rồi
Huống chi không áo bao người dân kia.
(Bạch Cư Dị - Thôn cư khổ hàn)
Đó cũng là thời gian của công việc lao động :
− Xới lúa trời đứng trưa
Mồ hôi rơi xuống ruộng.
(Lý Thân - Mẫn nông)
− Sáng chăn trâu
Lùa trâu khúc sông dưới
Tối chăn trâu
Lùa trâu hóc xóm núi.
(Lý Thiệp - Mục đồng từ)
Do tính chất tự sự mà có "thời gian đồng hiện", đây là điểm rất mới của thời gian nghệ
thuật thơ Đường:
Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt.
Hai bức tranh chỉ cách nhau gang tấc, hai sự kiện xảy ra cùng một lúc, nhưng đối lập trời
vực :

37
Thử hỏi là ai đó ?
Người rằng : bọn nội thần
...
Ních no lòng thấy khoái
Chén khướt khí thêm oai!
Năm ấy Giang Nam hạn
Cồ Châu người ăn người.
(Bạch Cư Dị - Khinh phì)
Đó là cảnh bọn quan lại yến ẩm phè phỡn trong khi người dân đói khát phải ăn thịt lẫn
nhau.
Nếu thời gian vũ trụ được giãn nở với "thiên nhiên", "vạn tuế", với sự khoan thai nhàn nhã
thì thời gian đời thường gấp gáp, cấp tập :
Vào cửa nghe kêu gào
Con thơ đói vừa mất.
(Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên...)
Con người vũ trụ bay lượn trong không gian mênh mông, thời gian trường cửu, nhịp thơ
khoan thai,... Còn con người sống trong đời thường luôn tất bật, họ không những phải đi nhanh
mà còn phải chạy:
Xe rầm rầm
Ngựa hí vang
Người đi cung tên đeo bên lưng
Cha mẹ vợ con chạy theo tiễn
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương.
Thậm chí phải "quăng thân" (đầu) vào cuộc tồn sinh trong loạn lạc :
Mộ đầu Thạch Hào thôn
Hữu lại dạ tróc nhân
Lão ông du tường tẩu
Lão phụ xuất khan môn.
Thời gian nghệ thuật trong bài Thạch Hào lại rất đặc biệt. Bao nhiêu sự kiện dồn dập xảy
ra trong một đêm. Nhất là trong bốn câu đầu vừa dẫn ra : Nhà thơ tất bật (đầu - quăng thân);
viên lại vội vàng, chực đêm đến để chộp người (dạ tróc nhân); ông lão hốt hoảng (du tường
tẩu = vọt tường chạy trốn); bà lão lật đật (xuất khan môn). Nhịp thơ của Đỗ Phủ rất khẩn
trương; ngòi bút rất hoạt của Đỗ Phủ đã là một yếu tố nổi bật trong phong cách thơ ông. Ngòi
bút rất hoạt ấy được thể hiện rõ nhất ở thời gian nghệ thuật trong thơ. Ta thấy nhà thơ bao giờ
cũng vội. Nhịp thơ dồn dập cho thấy bước đi vội vã của thời gian, bước chân chạy loạn của con
người.
Con người khi nhàn hạ thì hay hồi tưởng quá khứ, hay mơ mộng về tương lai, nên trong
thời gian vũ trụ ít có thời hiện tại mà nhiều thời quá khứ và thời gian tâm tưởng. Con người đời
thường là con người đang sống và hành động. Nó không nhàn rỗi để mà hoài niệm hay mộng
mơ. Nó bận làm việc. Nên thời gian đời thường chủ yếu là thời gian sự kiện, thời gian sinh hoạt
và hầu như không có thời gian tâm tưởng. Nó có nghĩ tới "trước", tới "sau" thì cái "trường" thời
gian của nó cũng rất hạn hẹp.
Điều đó cũng lý giải vì sao trong thơ Đường, bộ phận thơ thể hiện con người vũ trụ trong
không − thời gian vũ trụ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với bộ phận thơ hiện thực, phản ánh con
người xã hội trong không - thời gian đời thường. Đó là vì con người vũ trụ nhàn hạ, thích trầm

38
tư, có thời gian để suy tư và thể hiện tâm tình. Còn con người trong đời thường đang bận ứng
phó với thời cuộc đầy biến động, đang phải lao động và chiến đấu,... Họ có ít thời giờ để suy
nghĩ, để "làm thơ".
Một phép so sánh song hành sẽ giúp ta thấy rõ sự khác biệt của hai "kiểu" thời gian nghệ
thuật trong thơ Đường.
Thời gian vũ trụ Thời gian đời thường
- Thiên về quá khứ - Thiên về hiện tại
- Thiên về tâm tưởng - Thiên về hành động
- Thiên về kỷ niệm - Thiên về sự kiện
- Rộng mở, trường cửu - Ngắn ngủi, hạn hẹp
- Nhàn nhã, khoan thai - Vội vàng, gấp gáp
- Nhiều chất thơ. - Đầy tính ký sự.
Con người vũ trụ hay buồn. Con người đời thường luôn khổ,...
Như vậy, ta thấy trong hệ thống thế giới hình tượng, thời gian nghệ thuật là một yếu tố quan
trọng, nó thống nhất hữu cơ với các yếu tố khác.
Trong thơ Đường, cả hai "kiểu" thời gian nghệ thuật đều tiêu biểu cho thời gian nghệ thuật
trong thơ cổ điển Trung Quốc.

CHƯƠNG V: THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ

I − CÁC THỂ THƠ ĐƯỜNG VÀ Ý NGHĨA THI PHÁP CỦA CHÚNG


"Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm; trong đó ứng
với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình
thức tồn tại chỉnh thể (1).
Cũng trong ý nghĩa ấy, nhưng ở đây chúng ta ứng dụng khái niệm trên với một nội hàm
hẹp hơn - khảo sát các thể thơ mà thi nhân đời Đường đã sử dụng tương ứng với từng loại nội
dung.
Như các chương trước đã xác định, thơ Đường có hai khuynh hướng với hai hệ thống nội
dung và tương ứng với chúng có hai hệ thống thi pháp. Về phương diện thể thơ, ta thấy cũng
theo quy luật ấy.
Các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ chính là cổ thể (gồm cổ phong và nhạc phủ) và
kim thể (hay cận thể - gồm luật thi và tuyệt cú).
Các thể thơ này đều đã được hình thành hoặc manh nha từ các thời đại trước. Thơ cổ thể
định hình từ đời Hán. Còn thơ cận thể (hay kim thể) thì đã được manh nha từ thời Lục triều,

(1) Phương Lựu − Trần Đình Sử − Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học , Tập II, NXB Giáo dục, H.,
1987, tr. 154.

39
gần nhất là thời Tề, Lương và được hoàn thiện ở đời Đường. Vì thế mà thể này có hai tên gọi.
Gọi cận thể là muốn nói nó được hình thành ở thời kỳ gần đây. Gọi kim thể là muốn nói nó
được hoàn thiện ở thời kỳ này (đời Đường).
Từ góc độ hệ thống thi pháp mà xét, ta nhận thấy: Nhìn chung, con người vũ trụ thường
được thể hiện trong thơ kim thể; còn khi phản ánh hiện thực với con người xã hội trong không -
thời gian đời thường, người ta thường sử dụng thơ cổ thể. Tuy nhiên, đó là nhìn đại thể chứ sự
phân định này không phải là tuyệt đối. Lý do của nó, ta sẽ tìm hiểu trong phần tiếp theo.

1. Thơ cổ thể
Thơ cổ thể có hai dạng là cổ phong và nhạc phủ.
Nhạc phủ là tên gọi chung của nhiều thể khác nhau, gọi nhạc phủ vì chúng thường được phổ
nhạc. Còn cổ phong thường là thơ năm chữ hoặc bảy chữ. Thơ cổ thể, cả cổ phong và nhạc phủ
đều không có luật lệ nhất định - không hạn định số câu trong bài và số chữ trong câu cũng tương
đối tự do, thường là năm chữ, bảy chữ, nhưng cũng có khi câu dài ngắn không đều. Thể này không
quy định niêm luật và cũng không yêu cầu đối ngẫu.
Nhìn chung, thể này có dung lượng lớn hơn thơ cách luật, thể cách cũng không nghiêm
ngặt nên gần gũi hơn với đời thường.
Trong giai đoạn đầu của đời Đường, tức đời Sơ, Thịnh Đường, trước loạn An Lộc Sơn - do
khuynh hướng chính là trữ tình lãng mạn, chủ yếu là thể hiện con người vũ trụ nên kim thể và
cổ thể đều được các nhà thơ sử dụng để thể hiện con người vũ trụ. Nhưng từ khi xuất hiện
khuynh hướng thơ hiện thực, phản ánh con người xã hội trong không thời gian đời thường thì
thơ kim thể, do chỉ có tám câu hoặc bốn câu, quá ngắn gọn, hàm súc, không đủ dung lượng để
phản ánh hiện thực đầy biến động, cuộc đời phức tạp, bộn bề với bao ưu hoạn, vất vả của con
người đời thường nên bộ phận thơ hiện thực thường sử dụng thơ cổ thể.
Tuy vậy, con người vũ trụ trong thơ trữ tình lãng mạn không phải hoàn toàn vắng bóng ở
thời Trung, Vãn Đường. Nó vẫn có vị trí rất quan trọng và các nhà thơ chủ yếu dùng thơ kim
thể để thể hiện con người vũ trụ, thể hiện tâm tình của mình.

2. Thơ kim thể


Thơ kim thể được manh nha từ thời Lục triều và đến đời Đường thì được hoàn thiện. Nó
cũng chính là thành tựu đặc sắc của đời Đường. Thơ kim thể có hai dạng chính là luật thi và
tuyệt cú.
Luật thi gồm thất ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là thất - luật) và ngũ ngôn bát cú luật thi
(gọi tắt là ngũ luật).
Tuyệt cú (ở ta thường gọi là thơ tứ tuyệt) là thơ chỉ có bốn câu, gồm thất ngôn tuyệt cú
(thất tuyệt) và ngũ ngôn tuyệt cú (ngũ tuyệt).
Ngoài ra còn có "bài luật" là dạng kéo dài của luật thi.
Thơ tuyệt cú còn được gọi là "tiểu luật". Do đó cả "luật thi" và "tuyệt cú" đều là thơ cách
luật. Niêm luật của thơ tuyệt cú tương ứng với luật thi, do đó ở đây chúng ta chỉ xét kỹ luật thi.
Luật thi buộc phải theo cấu trúc nhất định của thanh âm cũng như của bố cục tình ý. Sự
quy định này rất chặt chẽ.
"Luật đây là sáu luật, là luật hoà hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng
binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt, chặt chẽ, không được vi phạm"(Tiền Mộc Yêm - Đường
âm thẩm thể).
Cụ thể về thể cách của luật thi như sau :
Một bài thơ phải đảm bảo sáu yêu cầu về niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục.
+ Niêm : Niêm nghĩa đen là "dính", là nguyên tắc phối thanh theo chiều dọc, nó làm các "liên"
thơ kết với nhau. Trong một bài thơ có bốn liên, các "liên" thơ đi với nhau từng đôi một. (1+2, 3+4,

40
5+6, 7+8)."Niêm" làm cho các liên thơ dính lại. Hệ thống "niêm" này lấy căn cứ từ chữ thứ nhì của
mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Nó yêu cầu = câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với
câu 5, câu 6 niêm với câu 7. Vậy còn câu 8 ? Không còn câu nào đứng sau nữa, biết "niêm" vào đâu
?
Câu 8 phải niêm với câu 1! Kỳ diệu chính là ở chỗ này. Câu 8 niêm với câu 1, làm bài thơ
được "dán" lại thành một vòng khép kín, tạo nên một cấu trúc nội tại bền chặt.
+ Luật: Luật là luật điều tiết thanh (phối thanh) theo chiều ngang, sao cho bằng, trắc hoà
hợp. Hệ thống này được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu từ này bằng thì gọi là"bằng
khởi cách", nếu từ này trắc thì gọi là "trắc khởi cách". Trong từng câu, các thanh bằng, trắc
phải hoà hiệp sao cho cân xứng, cứ một câu 4 trắc 3 bằng lại đến một câu 4 bằng 3 trắc,... và
phải luân phiên xen kẽ, sao cho "đòn cân thanh điệu" được cân bằng. Đòn cân thanh điệu được
hệ thống các chữ thứ 2, 4, 6 đảm trách. Vì vậy mà luật thi yêu cầu "nhị, tứ, lục phân minh". Chữ
thứ tư là tâm đối xứng của đòn cân thanh điệu, cũng là tâm đối xứng của câu thơ. Các chữ 2, 4,
6 phải tuyệt đối đúng thanh điệu, nếu thay đổi thì làm đòn cân thanh điệu bị nghiêng lệch, phá
vỡ sự hài hoà, sự cân bằng của câu thơ. Do đó, chữ thứ tư phải khác thanh với chữ thứ hai và
chữ thứ sáu (2 và 6 cùng thanh) tức là :

(4)
T
(2) (6)
B B
hoặc
T T
(2) (6)
B
(4)
Còn "nhất tam ngũ bất luận" là để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ, vả
lại nếu chúng có thay đổi chút ít cũng không làm nghiêng lệch đòn cân thanh điệu, vì chức
năng này đã có "nhị tứ lục" đảm trách. Còn chữ thứ bảy thì đương nhiên là đảm bảo thanh
bằng nếu là chữ gieo vần, còn không gieo vần thì phải là thanh trắc. Luật phối thanh đảm bảo
bằng, trắc cân xứng, tức cân bằng âm dương, làm cho bài thơ có âm điệu hài hoà.
+ Vận (tức vần)
Một bài thơ bát cú có năm vần (tuyệt cú hai hoặc ba vần). Thơ Đường luật chỉ gieo vần
bằng, và mỗi bài chỉ có một vần (vần trắc ít được dùng, coi như không chính quy - chỉ thơ cổ
thể mới hay dùng vần trắc). Trong một bài thơ (cả thất ngôn và ngũ ngôn) có thể "trốn vần"
(chiết vận) nhưng chỉ được phép trốn một lần ở câu đầu. Nhưng đã trốn vần thì lại phải theo
nguyên tắc: hai câu đầu phải đối nhau (gọi là song phong = hai ngọn núi đối sánh nhau).
+ Đối
Đối cũng là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi. Nguyên tắc này yêu cầu liên 2 (câu 3, 4)
và liên 3 (câu 5, 6) phải là hai "đối liên" - tức là câu 4 phải đối với câu 3, câu 6 phải đối với câu
5.
Trước kia trong văn học đã yêu cầu có câu đối văn và câu đối phú. Còn câu đối thơ nếu có
thì chỉ là ngẫu nhiên, thường là lý do nghĩa chứ không phải là phép tắc của thể loại. Với thơ
Đường luật thì câu đối thơ là bắt buộc.
Đối phải bảo đảm cả về thanh (bằng đối với trắc, trắc đối với bằng). Về từ loại (từ loại nào
đối với từ loại ấy) và cả về ý.
Trong một bài luật thi, cả 4 yêu cầu này đều phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
+ Tiết tấu (ngắt nhịp)

41
Nhìn chung cách ngắt nhịp ở câu thơ bảy chữ và năm chữ đều là chẵn trước, lẻ sau (4/3 hoặc
2/2/3 nếu bảy chữ và 2/3 nếu là câu năm chữ). Cách ngắt nhịp chẵn / lẻ (âm/dương) này là cố
định, hầu như không có ngoại lệ khiến cho chẵn / lẻ đan xen, âm - dương luân chuyển nhịp
nhàng và hài hoà, đó cũng là sự hô ứng tự nhiên với nhịp điệu của vũ trụ.
+ Bố cục
Về bố cục của một bài luật thi, trước nay có ba quan niệm chính :
+ Chia làm bốn phần : cứ mỗi "liên" thơ (2 câu) là một phần, thành đề, thực, luận, kết .
Đề (hai câu đầu)
Câu thứ nhất là "phá đề" có nhiệm vụ "mở" ý của đầu bài ra.
Câu thứ hai là "thừa đề" - thừa tiếp ý của phá đề để chuyển vào "thân bài".
Thực (câu 3 và câu 4), còn gọi là "thích thực" hay "cập trạng": có nhiệm vụ giải thích rõ ý
của đầu bài.
Luận (câu 5 và câu 6) - phát triển rộng ý của đầu bài.
Kết (hai câu cuối): kết thúc ý toàn bài.
Quan niệm này chủ yếu được xác định ở đời Thanh và ở Việt Nam cũng theo quan niệm
này.
+ Chia làm ba phần (2/4/2). Cách nhìn này tương đối mới, gần với quan niệm và kết cấu
văn bản hiện đại.
+ Chia làm hai phần (4/4). Đây là cách chia của Kim Thánh Thán. Ông gọi bốn câu trước là
"tiền giải", bốn câu sau là "hậu giải" (cũng gọi là "thượng bán tiệt" và "hạ bán tiệt"). Nửa trước
tả cảnh mà trong cảnh có tình, nửa sau thể hiện tình cảm trên cái nền phong cảnh đã tạo
dựng.

Cả ba cách chia này đều có cái lý khả thủ của nó (hai cách chia 4 và chia 3 thực ra rất gần
nhau). Nhưng cả ba cách chia đều là của người đời sau, còn ở đời Đường, thi nhân không mấy
quan tâm đến việc chia tách bài thơ thành từng phần như vậy, mà họ trọng cái "nhất khí" (một
hơi) sao cho bài thơ bảo đảm được tính toàn vẹn và chủ yếu là theo sự vận hành đi từ ngoại
cảnh đến nội tâm (ta thường nói là : "đối cảnh sinh tình", "tức cảnh si tình" hay "xúc cảnh sinh
tình"). Vì luật thi (kể cả tiểu luật) là thơ trữ tình nội tâm nên một khi đã trữ phát được tâm tình
thì bài thơ kết thúc. "Ngôn hữu tận, ý vô cùng".

3. Ý nghĩa thi pháp của các thể thơ


Như trong phần I.1 đã nói, thơ Đường được sáng tạo theo hai thể là cổ thể và kim thể.
Trong giai đoạn đầu, khi thơ chủ yếu thể hiện tâm tình của "con người vũ trụ" thì cả hai thể
đều được sử dụng với mục đích ấy. Nhưng từ khi dòng thơ hiện thực xuất hiện thì : để phản
ánh hiện thực người ta thường sử dụng thơ cổ thể, còn trữ phát tâm tình, người ta thường sử
dụng thơ kim thể (tức luật thi- gồm cả bát cú và tuyệt cú). Ấy là vì thơ cổ thể có dung lượng
lớn hơn, và cách luật không chặt chẽ, có thể đi sát với đời thường để phản ánh những diễn biến
phức tạp, đa dạng của cuộc sống. Còn thơ kim thể do dung lượng nhỏ và niêm luật, kết cấu
chặt chẽ, như một vòng tuần hoàn khép kín, không thể phản ánh được hiện thực đa dạng nên
nó chỉ thích dụng trong việc thể hiện tâm tình sâu lắng trầm tư của "con người vũ trụ". Như đã
xác định ở các chương trước, tương ứng với hai khuynh hướng sáng tác, thơ Đường có hai hệ
thống thi pháp, nhưng nhìn chung thì bộ phận thơ thể hiện con người vũ trụ trong không − thời
gian vũ trụ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn, do đó thơ kim thể cũng chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so
với thơ cổ thể (1).

(1) Chúng tôi đã thử thống kê và so sánh ở các tuyển tập, tỷ lệ này xấp xỉ 4/1 (tức thơ kim thể chiếm
80%, cổ thể chiếm 20%).

42
Mặt khác ý nghĩa thi pháp của thơ cổ thể đã được đề cập đến ở phần II.1., vì vậy ở đây
chúng tôi chủ yếu nói đến ý nghĩa thi pháp của thơ kim thể.
Sự tương hợp giữa hình thức và nội dung là có tính quy luật.
Luật thi là sản phẩm của tư duy nghệ thuật Trung Quốc trung đại. Do ảnh hưởng của hoàn
cảnh xã hội, lịch sử, sự chi phối của tư tưởng thẩm mỹ, do đặc trưng của tâm lý và ngôn ngữ
dân tộc,... luật thi là thể thơ phù hợp với việc thể hiện tâm tình của con người vũ trụ.
Một khi đã quan niệm đất trời là một cơ thể lớn, con người là một đất trời nhỏ thì mọi thực
thể ở trong khoảng đất trời đều có tính vũ trụ, là những mô hình "pháp thiên địa"(theo lẽ đất
trời). Bài thơ cũng là một "cơ thể" có sinh mệnh. Nó cũng, một cách tự nhiên, theo lẽ đất trời,
tức cũng phải theo luật cân bằng âm dương của thiên địa, và những quan hệ, những sự vận
hành của nó cũng theo lẽ "đạo". Bài luật thi là một cấu trúc chỉnh thể, một hệ thống tuần hoàn
khép kín với một "thái cực" thường do "đề" đảm trách. Hệ thống được cấu trúc một cách có quy
luật, bảo đảm cân bằng âm dương, với những quan hệ nội tại rất chặt chẽ thể hiện ở niêm,
luật, vận, đối, tiết điệu và kết cấu. Đó là một sự phối hợp có quy luật của thanh âm (bằng,
trắc), ngắt nhịp (chẵn, lẻ), vần và không vần, đối và không đối,... của xu hướng trữ tình "do
ngoại hướng nội". Vì vậy mà ở một bài luật thi, đề tài là trung tâm, là phát đoan (đầu mối), vận
hành của nó thông thường là đi từ xa đến gần, từ ngoại cảnh đến nội tâm và khi "trữ" được
"tình" thì bài thơ kết thúc. Do đó, bài luật thi bao giờ cũng gieo nặng trọng tâm ý nghĩa ở câu
cuối. Đây không phải là điều ngẫu nhiên mà do thi pháp loại thể quy định. Thể hiện rõ tính
tuần hoàn của cấu trúc là cứ cách ba câu, vị trí bằng, trắc lại lặp lại, nhất là yêu cầu câu cuối
cùng phải "niêm" với câu đầu tiên (về phương diện phối thanh, câu 8 giống hệt câu 1) khiến bài
thơ được "dán" lại thành một vòng khép kín, theo cái lẽ "chu nhi phục thuỷ" của dịch đạo (đi
một vòng lại trở về điểm xuất phát). Đó cũng là một mô hình tiêu biểu của tư duy cầu tính
Đông phương.
Còn hai câu đối ở giữa tưởng như là chia tách, nhưng lại là thống nhất. Bởi vì đặc trưng
của thơ Đường là thể hiện bằng quan hệ, đối là một hình thức tiêu biểu, dễ nhận thấy của quan
hệ; và dù "chính đối" (ý nghĩa hai câu tương hợp) hay "phản đối" (hai câu có ý nghĩa tương
phản) thì hiệu quả thẩm mỹ của nó vẫn là thống nhất, và đều phục vụ đắc lực cho việc thể hiện
sự tương giao giữa ngoại cảnh và nội tâm. Chúng là những nhịp của một chiếc cầu, nối khai đề
với kết đề , nối cảnh với tâm.
Nhìn chung, trong hầu hết các bài luật thi là "dĩ tâm truyền tâm", là truyền "tâm ấn" (in
dấu trái tim mình và trái tim độc giả - tri âm). Sinh mệnh của bài thơ không phải ở trên trang
giấy, trên "tre lụa" mà ở trong tâm người đọc. Nếu người đọc "hữu tâm" thì ở đó, bài thơ lại
thực hiện một vòng tuần hoàn mới do sự "diệu ngộ", cảm ứng với bài thơ gợi nên.
Lấy một bài Hoàng Hạc Lâu làm ví dụ. Tựa đề chỉ là một địa danh, nhưng nó không chỉ là
một tín hiệu về không gian mà đằng sau nó ngụ cả thời gian hoài cổ , vì với người đời Đường,
Hoàng Hạc Lâu đã là một di chỉ quá khứ thần tiên. Từ một điểm cao (trên lầu Hoàng Hạc), nhà
thơ phóng tầm mắt hướng ngoại, nhưng không phải chỉ là cái nhìn của "nhục nhãn", mà của
những hoài niệm thăm thẳm thời gian quá vãng, một bát ngát không gian trống vắng với bao
nuối tiếc ngẩn ngơ còn vương vít trên vầng mây trắng "không du du". Tìm đâu thấy được bóng
dáng người tiên với linh cầm đã khuất sau thời gian. Nhà thơ thu rút tầm nhìn về không gian
trước mắt của hiện tại, chỉ thấy bức tranh tĩnh vật với vẻ đẹp thê lương. Để rồi cuối cùng trở lại
với chính mình. Nói chi vẻ đẹp thần tiên một đi không trở lại, ngay cả miền quê thân thuộc
cũng không rõ ở phương nào sau bóng hoàng hôn. Bài thơ được kết thúc bởi một chữ "sầu" với
âm bình thanh gieo xuống trĩu nặng tâm hồn. Đó là nỗi sầu Thôi Hiệu, nỗi sầu khi chiêm
nghiệm sự mất mát lớn lao, sự hoài niệm khôn cùng về cái đẹp thần tiên đã một đi không trở
lại. Bài thơ rất tiêu biểu cho đề tài hoài cổ của Đường thi.

43
Với quy mô ngắn gọn, thanh âm hài hoà (không có tạp âm), cảm ứng trữ tình "nhất khí", bài
luật thi thích hợp với việc thể hiện những tình cảm sâu lắng của con người vũ trụ trong trạng thái
tương thông cùng thế giới.
Sự hàm súc của luật thi, nhất là tiểu luật (tuyệt cú), với trọng tâm ý nghĩa kết đọng ở câu
cuối khiến cái "tứ" của nó có phần giống với khoảnh khắc đốn ngộ của kiểu tư duy thiền học :
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thuý lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
(Vương Xương Linh - Khuê oán)
(Người thiếu phụ trong phòng khuê không biết sầu
Ngày xuân, trang điểm xong bước lên lầu
Bỗng thấy bên đường, màu dương liễu
Hối hận đã để chồng đi kiếm ấn phong hầu.)
Chữ "hốt" (bỗng, chợt) đánh dấu một bước đột biến của xúc cảm, nhận thức. Nó là chiếc
bản lề khép mở hai vùng trời của thế giới tâm trạng. Màu dương liễu (biểu tượng của chia ly)
như một cái "duyên" (nguyên nhân khách quan), một giọt xúc tác nhỏ vào phản ứng tâm lý của
nàng, khiến nàng bừng tỉnh :
Hối giao phu tế mịch phong hầu
Bất lâu "bất tri sầu", khoảnh khắc này, khi thấy "màu dương liễu", nàng bỗng nhiên hối hận
(hối hận còn đau đớn gấp mấy lần sầu). Sao lại bằng lòng cho chồng ra trận, vào chỗ chết để
kiếm ấn phong hầu ? Trước đây nàng "bất tri sầu", vì nàng đang "mê", nàng không hiểu bản chất
của sự thật, nàng loá mắt không thấy được tử thần ẩn nấp đằng sau cái ấn phong hầu hào
nhoáng. Chữ "hối" chính là cánh cửa hé mở - người thiếu phụ phát hiện ra tâm hồn mình và
người đọc cũng từ sự hé mở ấy mà hiểu được tâm tư nàng. Tứ thơ vận hành theo một quá trình
tâm lý :
Bất tri sầu ... hốt ... hối
mê ... đốn ... ngộ
Cùng với người thiếu phụ, người đọc "đốn ngộ": sau sự "hối" đó là sự"oán". Đầu đề (Khuê
oán) cũng là chủ đề của bài thơ : oán cái ấn phong hầu, oán chiến tranh.
Kiểu cấu tứ đặc thù này đã tìm được hình thái thích hợp ở kim thể thi, nhất là tuyệt cú - bài
thơ phải ngắn gọn để hàm súc. Cấu tứ của bài thơ tập trung thể hiện cho được khoảnh khắc
bừng sáng của tâm hồn. Khi thể hiện được cái diệu lý vừa tất yếu vừa bất ngờ của "tâm" rồi thì
bài thơ lập tức kết thúc. "Chỗ mà lòng đã đến rồi, bút bất tất phải đến nữa" (1), "Ngôn hữu tận"
để cho "ý vô cùng" - cũng vì lẽ đó mà câu cuối cùng là câu hay nhất - nó là trọng tâm ý nghĩa
của toàn bài, là khoảnh khắc bừng sáng của tâm. Đến đó bài thơ phải kết thúc để dành "dư
địa" cho xúc cảm, tư duy của người đọc đi tiếp. Điều đó có thể coi là sự "truyền tâm ấn" giữa
thi nhân và độc giả.
Nói rằng cấu tứ thơ trữ tình đời Đường chịu ảnh hưởng của tư duy thiền học không có
nghĩa là Thiền tông "rót" phương thức "tĩnh lự" của mình vào tư duy thơ. Mà trước hết, Thiền
tông là kết quả của sự hội nhập ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo, là độ chín muồi của sự
Trung Quốc hoá Phật giáo. Thiền tông là sự thống nhất giữa cái cao diệu và cái giản dị. Nó đã
thành phong khí của thời đại. Nghệ sĩ đời Đường hô hấp không khí ấy, tắm mình trong dòng hội
lưu ấy. Họ, một cách tự nhiên, cũng "tư duy lặng lẽ" (tĩnh lự = trầm tư) và trữ phát những
khoảnh khắc bừng sáng tâm hồn trong những bài thơ hàm súc, giản dị.

(1) Kim Thánh Thán, Phê bình "Tây sương ký".

44
Cấu trúc "pháp thiên địa" của bài luật thi với sự cân bằng âm dương, với xu hướng trữ tình
"do ngoại hướng nội" (hay"do sự nhập hứng"), đi từ ngoại cảnh đến nội tâm, với sự trữ phát
khoảnh khắc bừng sáng của tâm hồn,... là những lý do khiến cho thơ kim thể thích hợp với sự
thể hiện tâm tình của con người vũ trụ.

II − NGÔN NGỮ THƠ ĐƯỜNG


Ngôn ngữ thơ Đường cũng ở trong hệ thống thi pháp thơ Đường. Nó cũng được tập hợp
theo hai "trường", với sự khu biệt khá rõ.
Sự khác biệt này thể hiện ở cả các cấp độ chính của ngôn ngữ : ngữ pháp, từ vựng và ngữ
âm. Vì vậy, ở phần này chúng tôi đi theo một kết cấu khác ở các phần trước, tức là, theo các
cấp độ của ngôn ngữ.

1. Ngữ pháp
Trong bộ phận thơ thể hiện con người vũ trụ, do xác lập quan hệ trương giao, thống nhất giữa
nội tâm với ngoại cảnh, giữa con người với thế giới nên ngữ pháp thường thiên về loại câu chỉ quan
hệ. Đó là loại câu phán đoán, suy lý, và thường là câu phức hợp với lối ghép chính - phụ. Khảo sát
bộ phận thơ này, ta thấy các kiểu quan hệ ngữ pháp đều có mặt.
Đó là các kiểu quan hệ :
- Nhân quả (vì do... cho nên...).
- Điều kiện (nếu... thì...).
- Nhượng bộ (tuy/dù... nhưng...).
- Tăng tiến (không những... mà còn...).
...
Các quan hệ ngữ pháp này được xác lập trong loại câu ghép chính - phụ và thường là mệnh
đề phụ đứng trước, mệnh đề chính đứng sau. Điều này cũng tương hợp với cấu trúc của bài
luật thi : trọng tâm ý nghĩa thường đặt ở cuối.
Khi thể hiện tâm tình, người ta cũng thường hay sử dụng kiểu câu cầu khiến. Kiểu câu này
cho thấy mối quan hệ gần gũi, tương liên giữa chủ thể và khách thể. Ví dụ :
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
( Mời anh uống cạn chén rượu này
Vì ra khỏi Dương Quan thì không còn bạn cũ nữa.)
hoặc :
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân.
( Chớ buồn phía trước không tri kỷ
Thiên hạ ai người chẳng biết anh.)
Thậm chí có trường hợp cả bài thơ gồm toàn câu cầu khiến :
Khuyến quân mạc tích kim luỹ
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa khai kham chiết trực tu chiết
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.
(Đỗ Thu Nương - Kim lũ y)
( Khuyên anh đừng tiếc áo thêu bông

45
Khuyên anh nên tiếc thời trẻ trung
Hoa nở đến kỳ nên bẻ lấy
Đừng chờ hoa hết bẻ cành không.)
Do mục đích của thơ thể hiện tâm tình là tạo dựng quan hệ tương giao, thống nhất, nên các
kiểu câu chỉ quan hệ, câu cầu khiến chiếm tỷ lệ cao hơn so với câu trần thuật - bởi vì bộ phận thơ
này ít miêu tả và tự sự.
Nhưng trong bộ phận thơ hiện thực thì ngược lại - loại câu xác lập quan hệ rất ít và loại
câu trần thuật chiếm tỷ lệ rất cao. Đó là vì thơ phản ánh hiện thực cuộc sống của con người đời
thường đòi hỏi phải kể việc (tự sự), phải miêu tả cụ thể.

2. Từ vựng
Từ vựng trong thơ Đường cũng được phân lập thành hai "trường", theo hai bộ phận, hai
khuynh hướng thơ.
Về từ loại :
Trong thơ thể hiện con người vũ trụ, do thể hiện trạng thái "trầm tư", "tĩnh lự" của tâm tình
nên danh từ chiếm tỷ lệ cao hơn. Trong khi đó trong thơ phản ánh hiện thực do nhu cầu phản ánh
cuộc sống đầy biến động và cuộc đời vất vả, nhiều ưu hoạn, nên động từ lại chiếm tỷ lệ cao hơn.
Tình hình này kéo theo hai loại từ phụ thuộc với chúng. Trong bộ phận thơ thứ nhất, đi với
danh từ thường là tính từ chỉ phẩm chất, còn trong bộ phận thơ thứ hai thì tính từ chỉ trạng
thái, và do động từ nhiều hơn nên trong khuynh hướng thơ này (khuynh hướng hiện thực) tỷ lệ
trạng từ cũng cao hơn.
Do con người vũ trụ là con người siêu cá thể , chủ thể trữ tình muốn hoà mình vào thiên
nhiên, vũ trụ (và đối tượng thẩm mỹ nói chung) nên tỷ lệ đại từ nhân xưng ít hơn, đặc biệt là
đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất. Còn trong thơ phản ánh hiện thực, nhìn chung tỷ lệ đại từ
nhân xưng cao hơn, đặc biệt là đại từ ngôi thứ ba, vì đó là đối tượng phản ánh.
Về hệ thống hư từ, do nhu cầu thể hiện quan hệ tương giao nên trong thơ thể hiện con
người vũ trụ, các hư từ xác lập quan hệ "tương", "dữ", "cộng", xuất hiện với tần số cao. Hầu
như bài thơ nào cũng có một trong các hư từ này :
− Tương khan lưỡng bất yếm.
(Độc toạ Kính Đình Sơn)
− Cộng khan minh nguyệt ưng thuỳ lệ.
(Bạch Cư Dị - Tự Hà Nam kinh loạn)
Thậm chí có khi trong một câu có đến hai quan hệ từ:
− Thử thời t ương vọng bất t ương văn.
(Trương Nhược Hư - Xuân giang hoa nguyệt dạ )
− Lạc hoa t ương dữ hận.
(Vi Thừa Khánh - Nam hành biệt đệ )
Trong khi đó, các quan hệ từ "tương", "dữ", "cộng" (đều có nghĩa là "cùng nhau") rất ít
xuất hiện trong thơ phản ánh hiện thực. Vì bộ phận thơ này phản ánh bằng quan hệ đối lập,
nên những từ chỉ quan hệ tương giao vắng bóng là điều dễ hiểu. Nhưng những từ chỉ quan hệ
đối lập, tương phản cũng ít. Đó là vì quan hệ đối lập trong bộ phận thơ này thường được phản
ánh bằng những "mảng", những bức tranh đối lập và tác giả đặt hai bức tranh, hai cảnh tượng
bên nhau, ý nghĩa đối lập nảy sinh giữa chúng.
Ví dụ :
Thiên tử hiếu chinh chiến

46
Bách tính bất chủng tang.
(Tào Nghiệp - Bộ ngữ dao )
(Vua ưa thích chinh chiến
Dân bỏ nghề tằm tang.)
hay :
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt.
(Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng Tiên... )
Khảo sát từng từ loại trong hai khuynh hướng thơ, ta thấy chúng cũng có sự khác biệt.
Về động từ : Một mặt động từ trong thơ phản ánh hiện thực có tỷ lệ cao hơn. Nhưng ngay
trong động từ cũng khác. Trong thơ phản ánh con người xã hội với không − thời gian bình
thường thì động từ thường là những động từ chỉ hoạt động cơ năng (đi lại, làm lụng, chiến
đấu,...) như các động từ t ẩu (chạy), đào (trốn), đả (đánh), tróc (bắt), sừ (cuốc), phao (vứt bỏ),
trịch (ném), đà (kéo), khiên (dắt), ... Do đó về mặt văn tự, các động từ này thường có bộ "thủ"
(tay), "túc" (chân),"xước" (dáng đi lại) ... Chúng làm cho các bức tranh sinh hoạt trong bộ phận
thơ này rất sinh động, gần với đời thường.
Còn trong bộ phận thơ thể hiện con người vũ trụ, do nhu cầu bày tỏ tâm tình, khát vọng
tương giao giữa nội tâm với ngoại cảnh nên các động từ được dùng thường là những động từ
chỉ hoạt động tâm thức ( hoài, ức, tư, niệm, tưởng, ái, lân, bi, sầu,oán, hận, ...) Về mặt văn tự,
những động từ này thường có bộ "tâm".
Hoạt động tâm thức chỉ diễn biến trong tâm, do vậy nhìn bên ngoài con người cơ hồ không
hoạt động. Đó là những con người của tấm lòng, con người trầm tư. Họ đem cái tâm của mình
đặt giữa càn khôn với khát vọng tìm được sự hoà hợp, tương thông với ngoại giới (kể cả với
tâm của người khác).
Sự có mặt của loại động từ này, vắng bóng của loại động từ khác hay ngược lại là có quy
luật, có "cái lý" của nó, do sự chi phối của nội dung cần thể hiện.
Sự phân lập này cũng diễn ra ở các loại danh từ.
Nhìn chung, trong thơ phản ánh hiện thực, danh từ thường là danh từ riêng, mang tính
chất cụ thể, cá biệt và thuộc lớp từ mà hạng bần dân hay dùng, gần gũi với cuộc đời của họ.
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê (tây).
(Đỗ Phủ - Binh xa hành)
(Ví bằng có người đàn bà lực lưỡng vác nổi cuốc cày
Lúa ngoài ruộng cũng mọc lung tung không ra hàng lối)
hoặc:
Cuốc dài ... cuốc dài, chuôi gỗ trắng
Đời ta lấy bác làm tính mạng
Dong, đao không mầm, tuyết núi dày
Áo ngắn níu hoài không kín cẳng.
Đó là vì bộ phận thơ hiện thực đi sát với đời thường, miêu tả cụ thể sự vật "ký hoạ" tỷ mỷ
bức tranh sinh hoạt.
Trong thơ thể hiện con người vũ trụ thì danh từ thường là danh từ chung, mang tính khái
quát. Bởi vì thơ trữ tình nội tâm không nhằm tạo cảm giác trực quan mà chỉ gợi tư duy liên
tưởng, nó dùng danh từ chung đủ để "ký hiệu". Ở đó, nhiều danh từ chỉ loại mà ít từ chỉ sự vật
cá biệt. Do nhu cầu hướng đến sự thống nhất, khái quát nên từ vựng của nó cũng mang tính

47
khái quát (để thể hiện cái chung, cái "vĩnh cửu"). Về điểm này, Nhữ Thành trong bài Thử tìm
hiểu tứ thơ của thơ Đường đã lý giải rất hay : "Cái tứ của thơ Đường không phải ở chỗ chạy
đuổi theo sự vật mà ở chỗ thống nhất sự vật lại bằng tư duy. Một khi đã đi con đường này thì
bản thân các từ gần nghĩa với nhau phải thống nhất lại...".
Đây là kết quả của kiểu tư duy nghệ thuật mới - tư duy quan hệ theo kiểu thiền học.
Thơ trữ tình đời Đường chịu ảnh hưởng khá đậm đà của tư duy thiền học, mà thiền học
Trung Hoa là sự dung hội của Phật giáo đại thừa và tư tưởng Lão - Trang. Đó là kiểu tư duy
loại bỏ những sai biệt vụn vặt để quy về ý nghĩa chung nhất, "chân như" để "quy kỳ căn". Đó là
con đường của sự giản dị hoá từ vựng thơ trữ tình.
Cũng do nhu cầu gợi liên tưởng mà loại thơ trữ tình nội tâm thường dùng hình ảnh và ngôn
từ có tính chất ước lệ - Một ''đông phong" luôn để ám chỉ người đàn ông; một "màu dương liễu"
hay động tác"chiết liễu" là biểu tượng của sự chia ly; một dòng sông gợi nên cảm khái về sự
trôi chảy; một ngọn núi cho một ý niệm về sự kiên định, vững vàng, về sự tĩnh tại vĩnh hằng, ...
Tính ước lệ góp phần làm cho ngôn ngữ thơ Đường trở nên hàm súc và nhiều sức gợi . Ví
dụ :
Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm toạ tần nga my
Đãn kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thuỳ.
(Lý Bạch - Oán tình)
(Người đẹp cuốn rèm châu
Lặng ngồi chau mày ngài
Chỉ thấy ngấn lệ ướt
Chẳng biết lòng giận ai.)
Bài thơ đầy tính chất ước lệ. Nó được cấu thành từ những hình ảnh, ngôn từ có tính ước lệ.
Từ ''mỹ nhân'' thông báo cho người đọc một ý nghĩa : người con gái đẹp. Còn vẻ đẹp của
nàng cụ thể như thế nào, không rõ. Nhưng trong người đọc ai mà chẳng có những "mẫu" người
đẹp của mình. Một từ "người đẹp" gợi nên vô số dáng vẻ trong tâm trí vô số người đọc. Khung
cảnh và cử chỉ của nàng cũng ước lệ "quyển châu liêm". Đây là một cử chỉ "muôn thuở" của
người phụ nữ khuê các Trung Hoa (họ không thể "khai môn" mà chỉ "quyển liêm) và "rèm châu"
là rèm ''truyền thống" che song cửa sổ của con người khuê các ấy. ''Tần nga my'' cũng lại ước
lệ. Mỗi cử chỉ của người khuê nữ bao giờ cũng dịu dàng, dè dặt, đến cả khi sầu oán, tức giận
cũng không thể "trừng mắt" mà chỉ khẽ "chau" mày. Đôi mày của nàng tưởng được "cụ thể
hoá", thì tác giả cũng chỉ vẽ bằng một nét ước lệ: "nga my" - đôi mày của người đẹp muôn
thuở. Nàng không khóc thành tiếng, "chỉ thấy ngấn lệ ướt'' mà thôi. Ngấn lệ ấy cho người ta
biết nàng đang oán hận. Nhưng chẳng biết lòng giận ai". Giận đời ? Giận người tình ? Hay giận
mình ? Không biết là giận ai, nên cũng có thể là giận"tất cả những ai'',...
Những nét vẽ ước lệ tạo nên một "người đẹp ước lệ'' với một tâm trạng cũng ước lệ nốt.
Thế nhưng đọc bài thơ, ai cũng thấy bâng khuâng như thấy người đẹp đang rơi lệ trước mặt
mình.
Tính ước lệ làm cho hình tượng được hư hoá, trừu tượng; nhưng nhờ thế mà nó lại có ý
nghĩa phổ quát. Còn quá trình cụ thể hoá nó lại diễn ra trong tâm trí người đọc.
Tôi nghĩ, đây là một bí quyết của thơ Đường : nói thật ít để gợi thật nhiều. Mà để có thể
"nói ít gợi nhiều" thì một phương tiện có hiệu lực là ước lệ.

48
Bí quyết này sẽ trở thành thủ pháp chung của thơ, hội hoạ và tuồng cổ.

3. Ngữ âm
Nhìn chung, thơ thể hiện con người vũ trụ thiên về quan hệ thống nhất, tương giao và thường
dùng kim thể. Trong loại thơ này, âm điệu thơ êm dịu, hài hoà. Trong cả bốn thể : thất luật, ngũ
luật, thất tuyệt, ngũ tuyệt có một đặc điểm chung là trong mỗi bài thơ đều có số thanh bằng và
thanh trắc bằng nhau. Các thanh bằng, trắc luân phiên, với đòn cân thanh điệu ổn định (nhị tứ lục
phân minh), số lượng bằng, trắc quân phân. Bài thơ có một sự cân bằng âm dương thể hiện sự ổn
định trong thế hài hoà của trạng thái tĩnh. Lại nữa, vần của thơ kim thể là vần bằng, khiến cho hợp
âm chủ của bài luật thi là bằng, là ''âm", thuộc gam thứ. Vậy là về tính chất âm nhạc, thơ kim thể
thuộc "gam thứ, thuộc âm tính, thích hợp cho việc thể hiện trạng thái tĩnh, thể hiện những tư duy
xúc cảm lắng đọng, trầm tư.
Mỹ học luật thi cũng "dĩ hoà vi quý" như triết lý Nho, Phật, Đạo. Cái "thái hoà" ấy của bài
luật thi cũng có thể coi là bóng dáng của thời đại thái bình.
Còn trong thơ cổ thể, thể thơ thường được dùng để phản ánh xã hội, thì ngữ âm lại phong
phú, linh hoạt và thường là nhiều thanh trắc. Nếu luật thi chỉ gieo vần bằng thì thơ cổ phong
hay gieo vần trắc, thậm chí có bài chỉ dùng nhập thanh hay chủ yếu là nhập thanh (tức những
âm tiết có phụ âm cuối là p, t, c) như những bài Tự kinh phó Phụng Tiên, Bắc chinh, Ai giang
đầu, Mao ốc vi thu phong sở phá ca, Hỷ vũ (Đỗ Phủ); Túc Huỳnh dương, Phóng lữ nhạn, Mai
thán ông, Tỳ bà hành, Văn khốc giả (Bạch Cư Dị), Vịnh điền gia (Nhiếp Di Trung),...
Sự phong phú của âm thanh, nhất là thanh trắc làm cho loại thơ cổ thể mang dương tính rõ
hơn, và chủ yếu là thuộc "gam trưởng". Nó thích hợp với việc phản ánh hiện thực đời sống sinh
động, phong phú, phức tạp. Tình cảm ở trong những bài thơ đó cũng mạnh mẽ hơn - xót
thương, căm giận, bất bình, phẫn nộ,... đều có cường độ cao, khác với sự trầm tư sâu lắng
trong thơ kim thể.
Đó là hai mặt âm - dương của chỉnh thể thơ Đường.
Nhưng nhìn tổng thể, ta nhận thấy, âm hưởng chủ đạo, chiếm ưu thế trong thơ Đường vẫn
là sự hài hoà, trầm tĩnh. Sự hoà điệu vẫn là tính chất chính yếu của tổng thể. Điều ấy một phần
lý giải vì sao mà nói đến thơ Đường là người ta trước hết nhớ đến luật thi, nhớ đến thơ trữ tình
lãng mạn, mặc dù thơ hiện thực đời Đường thực sự vĩ đại.

49
KẾT LUẬN
Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ cổ điển Trung Quốc. Vì vậy nó rất phong
phú, đa dạng. Những điều đã trình bày chỉ là một số vấn đề, một số yếu tố của hệ thống đó
chứ chưa phải là toàn diện.
Qua sự khảo sát một số yếu tố của hệ thống hình thức, trên đại thể, chúng ta có thể rút ra
những kết luận :
1. Đặc điểm chung nhất của tư duy nghệ thuật thơ Đường là tư duy quan hệ. Nó đã tìm
được sự hài hoà trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự hoà điệu. Vì thế,
nó "bất bình" khi sự hoà điệu bị phá vỡ và nó ứng xử bằng cách vạch trần những quan hệ đối
lập bất công trong xã hội.
2. Điều đó dẫn đến hệ quả là : từ một kiểu tư duy quan hệ, tư duy nghệ thuật, thơ Đường
phân ly theo hai khuynh hướng và được tập hợp thành hai hệ thống.
2.1.a. Nếu đứng ở góc độ phương thức sáng tác mà xét thì thơ Đường có hai khuynh
hướng, hai"kiểu" sáng tác :
- Trữ tình lãng mạn, tái tạo thế giới theo nguyên tắc chủ quan, là sự tự thể hiện của chủ
thể thẩm mỹ.
- Phản ánh hiện thực, tái hiện cuộc sống, phản ánh đối tượng thẩm mỹ theo nguyên tắc
khách quan.
2.1.b. Nếu đứng ở góc độ hệ thống thi pháp mà xét thì thơ Đường có hai "kiểu" quan niệm
nghệ thuật về con người là chủ yếu : con người vũ trụ và con người xã hội (thể hiện con người
vũ trụ bằng quan hệ tương giao, thống nhất và phản ánh con người xã hội bằng quan hệ đối
lập, tương phản).
Vì quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố trung tâm nên nó chi phối các yếu tố khác
của hệ thống thi pháp.
2.2. Không gian nghệ thuật thơ Đường được tâp hợp thành hai hệ thống :
- Không gian vũ trụ làm thành môi trường của con người vũ trụ, mang đặc tính cao viễn vô
hạn, ở đó tâm hồn con người được giao hoà, tương thông cùng thế giới.
- "Không gian đời thường" là nơi hoạt động của con người xã hội. Không gian này có xu
hướng thu hẹp, ở đó người dân đen, kẻ sĩ,... bị dồn vào những địa dư chật chội để vật lộn
trong cuộc tồn sinh đầy gian lao nguy hiểm trong một xã hội loạn ly và suy thoái.
2.3. Thời gian nghệ thuật cũng được tập hợp thành hai hệ thống :
- "Thời gian vũ trụ" là nơi tâm hồn con người rong ruổi suốt quá khứ, tương lai. Nó mang
tính chất tuần hoàn và thiên về thời quá khứ. Nó có nhịp đi vội vàng, gấp gáp, phản ánh cuộc
đời tất bật của con người đời thường.
2.4. Tâm tình con người vũ trụ thường được thể hiện trong thơ kim thể. Sự cân đối, hài
hoà, hàm súc của thể thơ này phù hợp với sự thể hiện tâm hồn sâu lắng "trầm tư" của con
người vũ trụ.
- Cuộc đời vất vả gian lao của con người đời thường được phản ánh trong thơ cổ thể, thể
thơ có dung lượng lớn hơn, gần gũi hơn với ngôn ngữ đời thường, có điều kiện phản ánh được
những bức tranh sinh hoạt, những biến động lớn của cuộc đời.
2.5. Ngôn ngữ thơ Đường cũng được tập hợp theo hai "trường":
- Trong thơ thể hiện con người vũ trụ, ngôn ngữ thường mang tính khái quát, xác lập quan
hệ. Ngôn ngữ thường cổ kính, trang nhã, nhiều hình ảnh, ngôn từ ước lệ mang tính chất tượng

50
trưng, gợi liên tưởng. Động từ thường chỉ hoạt động tâm thức. Ngữ âm, nhạc điệu hài hoà,
thiên về gam thứ, thể hiện nội tâm sâu lắng, trầm tư.
- Trong thơ phản ánh hiện thực, ngôn ngữ thơ thường mang tính cụ thể. trực cảm. Về ngữ
pháp, tỷ lệ câu trần thuật cao hơn, phù hợp với tự sự. Danh từ thì nhiều danh từ riêng, cụ thể,
cá biệt hầu như không có tính ước lệ. Tỷ lệ động từ cao và thường là động từ chỉ những hoạt
động cơ năng. Nhạc điệu, ngữ âm thường khẩn trương, sôi động, nhiều thanh trắc, thiên về
gam trưởng, gây xúc cảm mạnh trước những nghịch cảnh, nghịch lý.
Ta thấy mỗi yếu tố của hình thức đều có "cái lý" của nó, mỗi yếu tố đều mang đặc tính của
hệ thống.
3. Trong hai bộ phận thơ ấy thì thơ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn thể hiện tâm
tình của chủ thể thẩm mỹ,... vẫn chiếm ưu thế.
4. Lãng mạn hay hiện thực, con người vũ trụ hay con người xã hội đều là những cống hiến
quý báu của thơ Đường cho văn học Trung Quốc.
5. Nói rằng thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của thơ Trung Quốc chính là vì cả hai
khuynh hướng thơ, hai "kiểu" con người chủ yếu trong thơ cổ (con người vũ trụ và con người
đời thường) đều đạt đến trình độ tiêu biểu.
Hai hệ thống thi pháp gắn với hai kiểu con người ấy cũng đạt đến độ "tiêu chuẩn", đáng
được coi là mẫu mực.
6. Hai khuynh hướng thơ, hai hệ thống thi pháp đã thống nhất trong chỉnh thể thơ Đường.
Chúng như hai mặt "âm - dương" vừa khác biệt vừa thống nhất trong "đạo" thơ. Hai khuynh
hướng, hai hệ thống thi pháp chiếm đỉnh cao, thống nhất lại, làm nên vị trí "cao phong" của thơ
Đường trong truyền thống thơ ca Trung Quốc.

51
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
I − CÂU HỎI
1. Ý nghĩa thực tiễn của việc tìm hiểu thi pháp thơ Đường.
2. Vị trí của phương pháp hệ thống đối với việc nghiên cứu thi pháp.
3. Ảnh hưởng của thời đại và tư tưởng đối với thơ Đường và sự hình thành thi pháp thơ.
4. Vị trí của "quan niệm nghệ thuật về con người" trong hệ thống thi pháp.
5. Sự tương ứng giữa hai khuynh hướng sáng tác thơ Đường và hai "kiểu'' quan niệm nghệ
thuật về con người trong thơ.
6. Thế nào là "con người vũ trụ", "con người xã hội" ?
7. Nguyên nhân dẫn đến sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người.
8. Đặc trưng của con người vũ trụ trong thơ Đường.
9. Đặc trưng của con người xã hội trong thơ Đường.
10. Tinh thần nhân văn của hai quan niệm về con người trong thơ.
11. Thế nào là không gian vũ trụ ?
12. Đặc trưng của không gian vũ trụ trong thơ Đường.
13. Đặc trưng của không gian đời thường trong thơ Đường.
14. Vị trí của không gian nghệ thuật trong hệ thống thi pháp.
15. Quan niệm về thời gian vũ trụ.
16. Đặc trưng của thời gian vũ trụ trong thơ Đường.
17. Đặc trưng của thời gian đời thường trong thơ Đường.
18. Vị trí của thời gian nghệ thuật trong hệ thống thi pháp.
19. Các thể thơ đời Đường - mỗi thể thơ chọn hai bài làm dẫn chứng.
20. Đặc trưng cơ bản của luật thi.
21. Vì sao khi thể hiện tâm tình, thi sĩ đời Đường thường sử dụng thơ kim thể và khi phản
ánh hiện thực họ thường sử dụng thơ cổ thể ?
22. Đặc trưng của ngôn ngữ trong thơ thể hiện con người vũ trụ.
23. Đặc trưng của ngôn ngữ trong thơ phản ánh con người xã hội.
24. Ý nghĩa của hệ thống hình thức (tức thi pháp) thơ Đường.
II − BÀI TẬP
1. Thử tìm hiểu "tư thế vũ trụ" của con người trong thơ Đường.
2. Giá trị nhân văn của hình tượng người '' dân đen" trong thơ hiện thực đời Đường (hoặc
trong thơ của một tác giả tiêu biểu).
3. Tính chất cao - viễn của không gian vũ trụ trong thơ Đường.
4. Không gian đời thường trong thơ Đỗ Phủ.
5. Tâm trạng hoài cổ trong thơ Đường.
6. Thử tìm hiểu đặc trưng thi pháp của luật thi.
7. Thử tìm hiểu tính ước lệ của luật thi.
8. Thử tìm hiểu tính ước lệ trong thơ của một nhà thơ cổ điển Việt Nam.
9. Ứng dụng những tri thức về thi pháp để phân tích một số bài thơ Đường tiêu biểu (tự
chọn).
10. Trình bày một vấn đề tâm đắc nhất của mình về thi pháp thơ Đường.

52
III − TƯ LIỆU THAM KHẢO
A. Tác phẩm
− Nam Trân,... dịch, Trương Chính giới thiệu, Thơ Đường (2 tập) NXB Văn học. H., 1987.
− Tản Đà (dịch), Thơ Đường, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1989,
− Trần Trọng San (dịch), Thơ Đường, Tủ sách Đại học Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh,
1990.
B. Sách nghiên cứu, lý luận, phê bình
− Trương Chính, Nguyễn Khắc Phi − LươngDuy Thứ, Văn học Trung Quốc, Tập I, NXB Giáo
dục, 1988.
− Kim Thánh Thán, Phê bình thơ Đường, Trần Trọng San dịch, Tủ sách Đại học Tổng hợp,
Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
− Phan Ngọc, Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen, NXB Đà Nẵng, 1990.
− Bùi Văn Nguyên − Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại.
8. Trần Đình Sử, Giáo trình thi pháp học, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
− Nhữ Thành, Thử tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường, Tạp chí Văn học , số 1 − 1992.

53
Chịu trách nhiệm nội dung:
TS. NGUYỄN VĂN HÒA
Bên tập:
TỔ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG KHẢO THÍ - ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC

54

You might also like