You are on page 1of 184

ĐỀ CƯƠNG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX - 1945


A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI - VĂN HÓA

- Đây được coi là giai đoạn vàng, hội tụ nhiều vấn đề của văn học VN hiện đại, giai đoạn văn
học VN chuyển từ hệ hình trung đại sang hiện đại => có nhiều vấn đề của văn học sử (được
hiểu là lịch sử phát triển của văn học => từ đó nhìn thấy được quy luật phát triển của văn học)

1. Chính trị

- Nền chính trị thuộc địa

+ Là nền chính trị có 2 nhà nước trong 1 đất nước: nhà nước bản xứ Nam triều có vai trò bù
nhìn, đứng đầu là vua; và nhà nước bảo hộ của thực dân Pháp

+ Nhà nước Nam triều chỉ thừa hành nhà nước bảo hộ, đứng đầu là toàn quyền. Giai đoạn này
người dân phải sống trong cảnh một cổ hai tròng

→ Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, xã hội ngột ngạt

→ Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp

- Sau 1900, sau khi chiếm xong Hà Nội, nhiều cuộc nổi loạn yếu ớt của ng Việt nổi lên nhưng
k được coi là cuộc nổi loạn của ng Việt chống Pháp mà là sự nổi loạn của giặc cỏ

- Cuộc tiếp xúc với phương Tây là lớn nhất của VN, trước đó, VN nằm trong vùng ảnh hưởng
của văn hóa TQ

=> Đặt ra 2 nhiệm vụ bức thiết: độc lập và duy tân đất nước

- Gắn với 2 nhiệm vụ là 2 xu hướng cứu nước ở giai đoạn 1900 – 1945:

+ Đặt độc lập dân tộc lên trước, để canh tân đất nước xuống thứ 2. Phương pháp: bạo động,
giành lại quyền làm chủ VN cho người VN (tiêu biểu là Phan Bội Châu)

+ Đặt canh tân đất nước lên hàng đầu, chờ thời cơ giành độc lập (Phan Châu Trinh)

→ 2 xu hướng chi phối cả tâm thức và văn chương VN, hình thành 2 cảm hứng lớn là
anh hùng và nhân bản

=> Đây là giai đoạn của sự lựa chọn, của sự tìm đường, của sự hoài nghi

2. Kinh tế

- 2 cuộc khai thác kinh tế lớn: lần 1: 1897 – 1914 và lần 2: 1919 – 1929

- Kinh tế thực dân cố nắm vai trò chủ đạo. Kinh tế tư bản phát triển èo uột. Ng Pháp muốn
Đông Dương là thị trường lớn để tiêu dùng, coi trọng việc khai thác tài nguyên và đưa công
nghiệp vào VN nhưng lại muốn CN VN đi xuống, phát triển cn cầm chừng và có lựa chọn
(chỉ phát triển công nghiệp chế biến, lập đồn điền, hầm mỏ)
- Người Việt sống dựa vào nông nghiệp, ngư nghiệp và thủ công nghiệp. Nền KT VN ở trạng
thái tức tưởi. KT bản địa bị chèn ép

- Khu vực KT thực dân thu hút nhân công rẻ mạt, ng dân bị bần cùng hóa => hệ quả, 1 mặt
đời sống người dân vô cùng khốn khổ, mặt khác khiến tinh thần CM lên cao, giành lại quyền
sống cho mình. => Thảm kịch bị bóc lột là một trong những bức tranh ảm đạm nhất sẽ được
thể hiện trong văn học VN

- KT VN cũng xuất hiện những hạt giống tích cực: KT phát triển theo hướng hiện đại, thay
thế bằng kt hàng hóa, lưu thông hàng hóa phát triển, nhiều khu đô thị mọc lên => Cuộc sống
đô thi, con ng đô thị sẽ mang đến một làn gió mới cho văn học giai đoạn này

3. Xã hội

- Sự phân hóa giai tầng trong lòng xã hội:

+ Xh phong kiến: giai tầng phân hóa thành sĩ – nông – công – thương. Khái quát bằng tứ bình
là khái quát phổ biến của tư duy thời trung đại

+ Xh thuộc địa: có sự thay đổi, một mặt nó xuất hiện thêm cái mới, mặt khác lại khiến cái cũ
bị biến dạng

- Xh thuộc địa xuất hiện tầng lớp mới là tư sản và tiểu tư sản

+ Phần lớn nông dân ở nông thôn đói nghèo, rời bỏ quê hương tìm việc làm ở những cơ sở
kinh doanh, đi làm thuê (cu li) => cơ sở để xuất hiện tầng lớp công nhân

+ Xuất hiện bộ phận dân cư mới: thị dân (cư dân có địa bàn cư trú ở thành thị)

→ Xh có nhiều biến động về giai tầng: tầng lớp mới nảy sinh, tầng lớp cũ biến đổi

→ Sự phân hóa xh phức tạp hơn, có sự đan xen của 2 đối tượng

4. Văn hóa
- Tiền đề văn hóa: chữ quốc ngữ - báo chí – giáo dục – đô thị
+ Trước khi Pháp sang, văn hóa VN thuộc nền tảng văn hóa Nho giáo. Vòm kiến văn
chủ yếu nằm trong vùng tri thức phương Đông, TQ
+ Văn hóa Pháp gắn liền với cá nhân, khoa học, coi trọng tính chứng thực
+ Đừng trước hiện tượng này, văn hóa VN hình thành 3 thái độ:
● Sùng bái văn hóa phương Tây một cách thái quá => tự ti về mình => mô phỏng bắt
chước tạo nên những “ông Tây An Nam”
● Tẩy chay văn hóa p Tây và tự hào về văn hóa truyền thống một cách thái hóa (điển
hình là Nguyễn Đình Chiểu – từ chối dùng xà phòng Pháp, kem đánh răng Pháp)
- Tỉnh táo: tiếp thu duy trì cái tốt, phế bỏ cái lạc hậu (tiêu biểu là Ng Trường Tộ)
- Tầng lớp trí thức Tây học không có thẩm quyền xoay chuyển chính trị nhưng có khả
năng tiếp nhận, truyền bá văn hóa

a. Chữ quốc ngữ


- Là văn tự dùng mẫu tự Latinh ghi âm tiếng Việt, do một số giáo sĩ phương Tây và VN sáng
tạo ra từ thế kỉ XVII, lúc đầu để phục vụ nhu cầu truyền đạo, giao lưu của giáo sĩ phương
Tây.

- Lúc đầu, chữ quốc ngữ bị bài xích, đến cuối thế kỉ XIX mới thực sự đi vào đời sống xã hội,
chuyển từ sử dụng trong lĩnh vực tôn giáo sang địa hạt văn hóa , văn học. Đến đầu thế XX,
chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm chiếm được vị trí độc tôn trên văn đàn

“Chữ quốc ngữ là hồn trong nước

Phải đem ra tính trước dân ta

Sách Âu Mỹ, sách China

Chữ kia chữ nọ dịch ra tỏ tường”

(Trần Quý Cáp)

- Chữ quốc ngữ góp phần tạo nên tầng lớp công chúng văn học mới ngày càng đông đảo, ảnh
hưởng tích cực đến sự ra đời và phát triển của văn xuôi hiện đại

- Màu sắc Phương Tây của chữ quốc ngữ rất rõ: do các nhà truyền giáo phương tây (ít nhất
thế kỷ XVII)

- Tên đầy đủ: Quốc Ngữ được La tinh hóa

- Phạm vi: trong các xứ đạo

- Bước ngoặc: người Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kì

=> Thúc đẩy chữ Quốc Ngữ - cộng tác với người Việt Nam

- Trương Vĩnh Kí: chuyển hóa bản Nôm => chữ Quốc Ngữ trong tiềm thức của người Việt
CQN là chữ Tây

=> người Việt đã cự tuyệt chữ QN

Bối cảnh lịch sử khiến cho chữ quốc ngữ phổ biến : Mục đích của Pháp

+ Mục đích: sử dụng chữ Quốc Ngữ bình định Việt Nam => khiến dân ta thuần phục theo
Pháp

+ Lực lượng (các nhà nho, nhà trí thức): Pháp muốn đàn áp vì lúc này nhân dân ta đều đang
học tiếng Hán

+ Vai trò quan trọng của các nhà nho

+ Vì vậy Pháp mở Mở lớp quốc ngữ => Muốn nhân dân ta không học theo chứ Hán (vì chữ
Hán của Trung Quốc)

+ Cưỡng bức đi học (bắt buộc nhân dân ta phải đi học)


=> Tìm cách ly khai nhà nho với nông dân (các nhà nho truyền bá tư tưởng yêu nước bằng
chữ Hán vì vậy muốn tách biệt nhân dân ta với các nhà nho bằng cách bắt học chữ Quốc Ngữ

=> Thúc đẩy việc học chữ Quốc Ngữ

Mốc 1907

- Chuyển XHVN từ Trung đại => Hiện đại

- Nhận ra CQN dễ học, dễ nhớ => Mở mang dân trí (cả nhà nho và nhân dân đều bắt đầu học
chữ Quốc Ngữ) => Pháp hoảng sợ => Đàn áp

- CQN trả giá bằng sự hy sinh bằng tù đày của người con ưu tú của người Việt => trở thành
tài sản của dân tộc.

- 1913: Đông Dương Tạp chí (Chữ Quốc Ngữ đầu tiên)

- 1917: Nam Phong Tạp Chí của Phạm Quỳnh

- Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục bị đàn áp => thúc đẩy sự phát triển nhưng được dân tộc
hóa mở mang dân trí của người Việt.

=> Bắt đầu từ Phương Tây nhưng được dân tộc hóa mở mang dân trí của người Việt.

+ Hiện đại hóa: Chữ Quốc Ngữ (đa số, quần chúng) => Đại chúng (thuộc tính mới)

+ Việt hóa trung đại: Chữ Hán – Chữ Nôm => Văn hóa Đặc tuyển

b. In ấn, báo chí

- In ấn:

+ truyền thống: kĩ thuật khắc gỗ và bản dập => lâu, phức tạp, số lượng hạn chế. Hiện nay chỉ
có truyện Kiều là còn bản khắc gỗ

+ Đầu thế kỉ XX: in ấn hiện đại p tây xuất hiện => nhanh rẻ, số lượng lớn

- Báo chí hiện đại: vận hành từ công báo đến báo chí tư nhân

+ Báo chí bắt đầu từ miền Nam, thập kỉ XX nở rộ ở Nam Bộ. Lúc này chưa có một tờ báo
dành riêng cho văn học, nhưng hầu như tờ báo nào cũng có một trang cho văn học. Đây là cái
nôi nuôi dưỡng tầng lớp trí thức Việt.

+ Báo chí có vai trò như thế nào đối với quá trình hiện đại hóa văn học?

- Báo chí là nơi sản xuất, không gian tồn tại mới của văn học
- Tiêu biểu: Đông Dương tạp chí và Nam Phong
- Báo chí mang tính thời sự => khơi gợi óc hiếu kỳ, trí tò mò, quan tâm đến thực tại, là
tiền đề để xuất hiện 1 thuộc tính trong văn học: tính hiện thực, quan tâm đến những gì
đang xảy ra
- Văn học hướng tới cuộc sống hiện tại, quan tâm đến hiện tại, về những gì đang diễn ra
quanh họ, là lây nhiễm từ báo chí (văn học trung đại mang tính sùng cổ)
- Báo chí hiện đại:

+ Tờ báo nào cũng có một trang dành cho văn học, phổ biến là truyện dài kì. Nhu cầu
đọc thành nhu cầu thường trực, đực biệt rõ nét ở các đô thị.
+ Khi người đọc tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm

→ Báo chí đã tạo nên một kênh giao lưu trực tiếp giữa nhà văn với độc giả

→ Tóm lại: Báo chí là nhân tố quan trọng nhất để cấu thành một môi trường văn học mới. Nó
k chỉ kiến tạo nên mối quan hệ mới giữa nhà văn và độc giả mà còn hình thành một khuynh
hướng khai thác chất liệu, thể loại mới (phóng sự, tiểu thuyết). Báo chí cũng là tiêu chí để
phân biệt không gian xuất hiện của văn học hiện đại (tờ báo) và văn học trung đại (thi tập)

Phần lớn các tác phẩm quan trọng nhất của văn học Việt Nam thời kì này đều hiện diện
trên tờ báo trước khi được in thành sách. Đặc điểm trên dẫn đến một lệ quả quan trọng. Một
là, tồn tại trong môi trường báo chí, văn học cũng dần được thâm nhiễm cảm quan về tính
thời sự. Hai là, tờ báo là một dạng hàng hóa. Và vì các tờ báo đều có sự hiện diện của văn học
và xuất hiện mang tính chu kỳ nên theo thời gian dần hình thành nên một đội ngũ những
người viết chuyên nghiệp cũng như đọc chuyên nghiệp. Xuất hiện những nhà phê bình và
nghiên cứu văn học. Ba là, ở giai đoạn này, nhà báo và nhà văn tuy vẫn có sự khu biệt nhưng
về cơ bản là thống nhất với nhau. Điều này khiến văn học dù muốn hay không đều phải tham
dự vào những diễn ngôn tư tưởng hết sức phức tạp. Nhà văn không chỉ là người kể chuyện
mà còn là người trí thức, nhà tư tưởng và vì thế luôn hướng tác phẩm của mình đến những
vấn đề của đời sống xã hội. Vì những lý do này, có thể xem văn học Việt Nam hiện đại là văn
học báo chí.

(Thầy Toàn) Văn học hiện đại:

- Ảnh hưởng của báo chí và văn hóa hiện đại

- In ấn – báo chí với số lượng lớn => mở rộng tiếp cận với văn học = Đại chúng

- Chu kì các tờ báo xã hội:

+ Các nhà văn chuyên nghiệp => Số lượng tác phẩm lớp và đa dạng hơn

+ Nhà báo = nhà văn

+ Tương tác các nhà văn và độc giả => có sự phê bình, các nghiên cứu khoa học (văn học).

- Báo chí là môi trường chính của văn học, mọi trong môi trường. Hầu hết các tác phẩm của
các nhà văn đều được in báo trước khi in sách

=> Hệ quả:

- B/c mang tính chất chu kì: Theo tháng (nguyệt san); nữa tháng; Tuần báo (quan trọng)

- Xu hướng nhà văn và chuyên nghiệp: sáng tạo và sáng tạo thường xuyên, phải có thu nhập
từ báo chí

VD: Nguyễn Công Hoan có số lượng tác phẩm rất lớn; nhận lời viết cho tuần báo thứ 7 (tiểu
thuyết thứ 7); viết tác phẩm cho toàn đoàn; 1935 -1939 có trăm tờ báo.
- Kĩ thuật viết được hoàn thiện và đa dạng hóa.

Văn học Trung đại Văn học hiện đại

- Điểm cố + diện tích + cải tác - Xuất hiện độc giả chuyên nghiệp

- Dựa vào các tác phẩm khác của người + Đọc thường xuyên
khác để sáng tạo
+ Tiền để chi trả
+ vay mượn
- Quan tâm con người sự việc có thật:
+ cải tác phóng sự, lấy cảm hứng của người thật việc
thật
- Cảm xúc cá nhân
- Mang tính thời sự
- Sáng tác của nhà văn trung đại theo
+ màu sắc tư tưởng
+ cảm hứng
+ truyền bá quan điểm chính trị xã hội
+ không thường xuyên
- Phê bình, phản biện, nghiên cứu văn học.

=> Báo thay đổi đời sống văn học lúc bấy giờ

=> Có thể xem VHHĐ thời kì này là VH báo chí

c. Giáo dục
- Giáo dục trung đại gọi là giáo dục khoa cử, ít quan tâm đến khoa học => giáo dục
hiện đại theo mô hình nhà trường
- Giáo dục truyền thống (chữ hán): bị hạn chế rồi bãi bỏ. Năm 1915: hoa thu
- Hệ thống trường Pháp – Việt mở rộng tới cấp huyện, thị trấn, số lượng người học tăng
đột biến vào những năm 30
- Thế hệ học sinh trên ghế nhà trường Pháp – Việt tiếp nhận văn học và văn hóa Pháp
một cách tự nhiên và sâu sắc. Ngay từ độ tuổi hoa niên, họ đã hình thành một mô hình
thẩm mỹ mới về văn học. Khi ra trường, phần lớn trong số họ trở thành độc giả, số
còn lại
→ Sự thay đổi về giáo dục khiến công cuộc thay máu văn hóa diễn ra nhanh chóng và triệt để

Phân biệt đô thị phong kiến và đô thị hiện đại


Tiêu chí Đô thị phong kiến Đô thị hiện đại

Quy mô Nhỏ Lớn


Hoạt động kinh tế Thủ công nghiệp và Gắn với công nghiệp và
buôn bán nhỏ thương mại

Tính chất Tính chất đô lấn át tính chất Tính chất thị lấn át tính chất
thị (đô: trung tâm hành đô
chính, thị: trung tâm kinh tế)

Nhân vật trung tâm Nhà quý tộc và ấn tín Nhà tư sản và túi tiền

Giáo dục truyền thống (khoa cử) Giáo dục hiện đại (Pháp – Việt)

- Dạy chữ: chữ Hán => Dạy kinh điển nho - Mở rộng về CT: môn học khác: chữ quốc
gia ngữ; VHPT => Văn học Pháp

- Tư tưởng: Trung Quân Ái Quốc - Thế giới quan – nhân sinh quan (không
gian tri thức mới)
- Hại hóa – Trung Quốc Hóa
- Lối viết hệ thống mới

- Có các môn học mới: Địa lý – KHTN


(Toán, Lý)

- Đối tượng học

- Nhu cầu văn học mới

- Hình thành hiểu biết mới, nhu cầu mới …

Chốt lại: khiến văn học PT hóa 1 cách nhanh chóng (dưỡng chất mới)

Đô thị hiện đại tác động đến văn học


- Sự xuất hiện của đô thị hiện đại giúp hình thành địa bản cư trú mới là thành thị
và hình thành bộ phận dân cư mới là thị dân
- Văn học hiện đại là văn học thị dân. Thị dân vừa là chủ thể, vừa là công chúng
của văn học hiện đại
- Nhà văn viết theo thị hiếu đám đông
- Xuất hiện một dòng văn học chạy theo, ve vuốt thị hiếu của đám đông, nhân
nhượng, thỏa hiệp với độc giả (đôi lứa xứng đôi)
- Thị hiếu độc giả luôn biến đổi, vì thế văn học luôn phải tự đổi mới để theo kịp
sự phát triển đó. Độc giả trở thành nhân tố tác động trực tiếp đến sự phát triển của văn
học. Văn học vận hành theo quy luật gia tốc, cái mới xuất hiện dồn dập, gấp gáp,
hiếm có cây bút nào trụ lại ở đỉnh cao văn đàn trong thời gian dài, xung lực văn học
ngày càng gấp gáp, cột số đánh dấu sự phát triển văn học ngày càng dày đặc.
- Người đọc không chỉ cần cái mới, mà còn cần cái đa dạng, kích thích cá tính
sáng tạo của nhà văn => diện mạo văn học đa dạng như một vườn hoa đầy hương sắc
- Dưới áp lực của độc giả, nội dung tác phẩm nhiều khi lại do chính người đọc
sắp đặt (Hồ Biểu Chánh), không hiện khi ý nghĩ của độc giả nằm ngoài hay mâu thuẫn
với dự đồ ban đầu của tác giả

Đô thị truyền thống Đô thị hiện đại

- Đô > Thị - Thị > Đô

+ Đô có trước: Kinh Đô cơ quan hành chính - Phụ thuộc vào phương Tây
của nhà nước
- Cần có bộ máy hành chính sự gia tang về
- Không lấn áp lệ thuộc vào nông thôn, cung số lượng người việc làm
đình
- Xuất hiện kinh tế thị trường (cung cầu)
+ Phan Ngọc (chuyên gia văn học): phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều + văn học trở thành hàng hóa

+ Phan Ngọc gọi VH trung đại cho người tri kỉ + tất cả trở thành hàng hóa

- Thị hiếu của người quân tử - thôn dân (cung - Văn học – hàng hóa => (hướng đến) độc
đình – nông thôn) giả

- Phụm trù quan trọng chi phối quá trình


sáng tác của nhà văn: thị hiệu (thị dân)

- Hình thành cả 1 dòng văn học đại chúng


với những tác giả, tác phẩm luôn chạy theo
khai thác, ve vuốt, thỏa mãn nhu cầu đám
đông.

- Văn học hiện đại

+ Xuất hiện văn học đại chúng

+ Định hướng vào cái mới – luôn thay đổi

+ Đòi hỏi đa dạng => cái “tôi” được đề cao (cá tính sáng tạo được đề cao) => cái mới, sự
khác biệt

- Sáng tác theo ý thức của độc giả - thị hiếu của độc giả
→ Tóm lại: những tiền đề trên tồn tại xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình văn học thời kì
này, bất kỳ sự phát triển nào của một trong những tiền đề nói trên cũng tạo ra những bước
ngoặt trong quỹ đạo văn học. Với tất cả sự quanh co của nó,

B. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC


I. Nền văn học phát triển theo hướng hiện đại hóa
Khái niệm hiện đại hóa: Là quá trình làm cho văn học Việt Nam có tính chất hiện đại, có
thể nhịp bước và hòa nhập với nền văn học thế giới. Nói văn học thời kì này phát triển theo
hướng hiện đại hóa tức là khẳng định nó đã thoát khỏi những đặc trưng trung đại, tạo nên
những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện đại
1. Các phương diện hiện đại hóa văn học
- Quan niệm mới về văn học: Coi văn chương như một hoạt động nghệ thuật đi tìm và
sáng tạo cái đẹp, văn chương hiểu đời, nhận thức và khám phá hiện thực
- Văn học tồn tại độc lập, không còn tình trạng văn - sử - triết bất phân
- Thi pháp: thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đại, chuyển sang thi pháp
hiện đại (hướng tới cái thực, ở hiện tại, đào sâu vào cái tôi cá nhân)
- Thể loại:
+ các thể loại truyền thống biến đổi trong bản thân thể loại
VD: truyện ngắn trung đại thiên về miêu tả hành động của nhân vật (Chuyện người con gái
Nam Xương) >< truyện ngắn hiện đại đi sâu khắc họa diễn biến tâm lí nhân vật
+ xuất hiện những thể loại mới: kịch nói, phóng sự, phê bình văn học,...
- Ngôn ngữ, chữ viết:
+ ngôn ngữ văn học được hiện đại hóa
+ sử dụng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán, chữ Nôm
- Chủ thể sáng tạo: từ kiểu tác giả nhà Nho chuyển sang kiểu nhà văn nghệ sĩ chuyên
nghiệp
- Công chúng văn học: từ tầng lớp nho sĩ sang tầng lớp thị dân
2. Tiến trình hiện đại hóa văn học
a, Từ đầu thế kỉ XX - 1930
a1, Đầu thế kỉ XX đến khoảng 1913: sự hình thành của báo chí và văn học mới của văn học
Trung Bộ; những biến đổi trong nội dung và cảm hứng của văn học miền Bắc.
Văn học giai đoạn này mang tính vùng miền rõ nét, chia thành hai vùng chính:
- Văn học Sài Gòn và sáu tỉnh Nam Kì: trung tâm là Sài Gòn - Gia Định
- Văn học miền Bắc và miền Trung
● Văn học miền Nam
- Miền Nam sớm trở thành nhượng địa của Pháp, quyền tự do được thừa nhận, báo chí
Quốc ngữ phát triển sớm, sớm có thành tựu văn học, đặc biệt ở những thể loại mới du
nhập từ phương Tây như truyện ngắn, tiểu thuyết
- Cuối thế kỉ XIX: xuất hiện các sáng tác văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ: tiêu biểu là
truyện ngắn Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản
- Đầu thế kỉ XX: tác phẩm văn xuôi phát triển nhiều hơn, tiêu biểu: Phan Yên ngoại sử,
Hoàng Tố Anh hàm oan (1910)
- Phần lớn là truyện ngắn; tiểu thuyết còn vụng về, non nớt
Dấu ấn hiện đại hóa trong truyện ngắn Thầy Larazo Phiền:

· Về tác giả: Nguyễn Trọng Quản, là người theo đạo Cơ đốc, con rể của Trương Vĩnh Kí;
tiếp thu nhiều thành tựu văn học phương Tây

· Cốt truyện (tóm tắt truyện)


- Nhân vật tôi trên chuyến tàu đi Bà rịa gặp Phiền; Phiền sắp chết, muốn kể về cuộc đời
mình

è Mang tính chân thực, cảm động hơn; tp đưa ng đọc vào không khí mang tính
tâm linh, bi thương

- Phiền: gia đình đạo cơ đốc, bố mẹ bị giết, vào trường dòng, gặp Vero Liễu, gặp được
cô gái có em họ xa (nữ 1). Sau đó công cán vào Kiên Giang, gặp vợ quan ba Pháp (nữ 2). Nữ
2 yêu Phiền nhưng không được đáp lại nên trả thù Phiền, giả nét chữ Liễu, viết thư cho nữ 1
với lời lẽ tình tứ. Phiền trúng kế căm ghét Liễu, tìm cách giết Liễu. Về gặp nữ 1, nữ 1 ốm,
lưỡng lự, cắt cỏ ngoài vườn, cắt cỏ độc sắc thuốc cho vợ suốt mấy tháng trời. Nữ 2 mấy năm
sau chết, viết thư kể lại, Phiền ân hận, bệnh nhưng không chữa để sám hối. Dặn nhân vật
người kể chuyện tìm Phiền trong nghĩa trang xứ đạo

- Vĩ thanh: người kể chuyện thăm mộ Phiền.

· Cách tân:

- Kĩ thuật: chịu ảnh hưởng từ nguồn văn học Pháp, nguồn văn học khác với văn học
truyền thống

+ trần thuật từ ngôi thứ nhất -> giúp đời sống nội tâm nhân vật hiện lên rõ hơn trước mắt
người đọc, khoảng cách giữa người đọc và nhân vật được thu hẹp

+ cách kể chuyện: không theo trật tự tuyến tính, sự kiện mà có sự luân phiên đổi vai hiện tại
– quá khứ theo hồi tưởng của nhân vật (hệ quả của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất: khiến mốc
thời gian không được sắp xếp theo thời gian khách quan mà theo thời gian tâm lí; khiến đời
sống tâm lí nhân vật hiện lên rõ nét hơn)

+ kết thúc bi kịch, không phải kết thúc có hậu

+ cốt truyện: kiểu cốt truyện tâm lí: khai thác yếu tố hiểu lầm (tiếp thu từ văn học trung đại),
tình yêu tay ba, ghen tuông, mượn motif kẻ trả thù giấu mặt mang màu sắc phương Tây rất
rõ. Văn học truyền thống thường vay mượn cốt truyện của Trung Quốc

// So sánh với tình yêu tay ba giữa Thúy Kiều – Thúc Sinh – Hoạn Thư:

+ Truyện Kiều: tình yêu tay ba không phải trọng tâm của truyện; chỉ là 1 mắt xích nhỏ

+ Truyện Thầy Lazaro Phiền: là điểm mấu chốt trong câu chuyện, là tình tiết gay cấn nhất
để dẫn đến kết thúc truyện, giúp khắc họa nhân vật và thể hiện tư tưởng

// Motif kẻ trả thù giấu mặt: chi tiết viết bức thư nặc danh

- Tâm lí nhân vật bước đầu được chú ý:

+ truyện có tính sám hối: nhân vật có đời sống tâm lí phức tạp (khi giết Liễu và vợ: buồn vì
mình vốn là người lương thiện mà phải làm điều ác)

- Nội dung:
+ lấy khung cảnh đời sống xã hội VN đương thời (VHTĐ thường khai thác khung cảnh quá
khứ)

+ cuộc tình tay ba, những dục vọng đời thường của con người. Thầy Lazaro Phiền đã xây
dựng nên hình tượng con người bình thường, bị thiêu đốt trong lòng ghen và thù hận, khác
với con người cao cả, con người lí tưởng trong văn học cổ (kiểu nhân vật đấng bậc, một
chiều trong VHTĐ)

· Hạn chế:

- Văn xuôi nhưng ngữ pháp lủng củng

- Số lượng từ địa phương lớn

- Câu văn nhiều khi tăm tối, không rõ nghĩa nhưng hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của
ngữ pháp thơ, điều mà tận 1916 ở miền Bắc vẫn rất đậm

Ngay từ đầu, văn xuôi Nam Bộ đã mang văn phong khẩu ngữ (năm 1922, Tố Tâm vẫn tồn tại
những câu văn biền ngẫu)

=> Với Thầy Lazaro Phiền, văn học VN đã dịch chuyển từ quỹ đạo văn học truyền thống
sang quỹ đạo văn học phương Tây

● Văn học miền Bắc và miền Trung


- Cái mới gần như không thâm nhập; lực lượng sáng tác chủ yếu vẫn là trí thức Nho
học với các thể loại văn học truyền thống. Tuy đã có chữ Quốc ngữ nhưng chữ Hán và
chữ Nôm vẫn chiếm vai trò quan trọng.
- Chủ yếu là đổi mới về nội dung tư tưởng; thể loại, ngôn ngữ, văn tự, thi pháp vẫn
thuộc phạm trù văn học hiện đại
VD: cảm hứng yêu nước
- VHTĐ: yêu nước gắn liền với trung quân
- VHHĐ: cảm hứng trung quân - ái quốc phai mờ; cảm hứng yêu nước gắn liền với tình
thương dân; các nhà Nho cũng trăn trở với con đường cứu nước
- Nhà văn tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức
Kế,...
a2, Từ 1913 - 1930
- Vai trò của tầng lớp trí thức Tây học, sự đổi mới trong quan niệm văn học, văn học
dịch và sự hình thành của bộ khung thể loại mới: thơ - kịch - tiểu thuyết - phê bình
văn học
- Giai đoạn này, hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu. Quan niệm văn học có sự thay đổi,
tạo nên sự đổi mới có hệ thống và các chủ lưu
- Bối cảnh:
+ những cuộc khai thác thuộc địa lần 1 và 2 đã mang phạm vi toàn quốc
+ ảnh hưởng của văn học phương Tây đã lan rộng trên cả ba miền, một cơ tầng
chung cho văn hóa dân tộc đã được thiết lập, tính vùng miền bắt đầu mờ đi,
thay thế vào đó là tính nhất thể; văn học dân tộc bắt đầu được định hình rõ nét
- Những người mở đường: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh
+ họ là những người yêu nước chân chính
+ đặt vấn đề “đồng đẳng”, “muốn bình đẳng thì phải đồng đẳng” và chọn con
đường phát triển văn hóa rồi giành độc lập
// Đây là quan điểm đi ngược lại bánh xe lịch sử vốn quan niệm phải giành độc lập trước rồi
mới phát triển văn hóa
❖ Nguyễn Văn Vĩnh:
- Năm 1913: xuất bản Đông Dương tạp chí: đề cập đến nhiều vấn đề: thời sự, cải cách
hành chính, kinh tế,... trong đó có mục riêng thường kì dành cho văn học
- Trong mục này:
+ Dịch các tác phẩm văn học Pháp như tiểu thuyết Miếng da lừa, Những người
khốn nạn, Thơ ngụ ngôn Laphongten (bản dịch Kiến và Ve sầu), hài kịch
Molie
-> giới thiệu những thực đơn mới cho người Việt. Lần đầu tiên độc giả Việt Nam biết đến
những hình thức văn học mới, làm quen với một khung khổ mới
+ 1915: xuất hiện những tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên trong mục “Một
lối văn Nôm” do Tản Đà phụ trách. Mục này đã giới thiệu những nhà văn
chuyên nghiệp đầu tiên
❖ Phạm Quỳnh
- Năm 1917: mở Nam Phong tạp chí, giải quyết vấn đề Quốc văn
- Đẩy mạnh dịch thuật một cách có ý thức, nhằm hai mục tiêu:
+ phát triển vốn từ vựng của người Việt, là mầm mống của Hán Việt từ điển
(Đào Duy Anh)
+ học mô hình câu văn xuôi của Pháp, kiểu câu chủ ngữ - tân ngữ bắt đầu thông
dụng. Câu văn tiếng Việt bắt đầu đi từ quy phạm đến sáng rõ
- Giới thiệu 1 cách có hệ thống toàn bộ hệ thống văn học phương Tây: thơ, kịch, truyện
ngắn, tiểu thuyết (khác Nguyễn Văn Vĩnh ở chỗ Phạm Quỳnh có giải thích về thể loại,
củng cố từ khóa, nền tảng cho người đọc Việt). Trong các thể loại, Phạm Quỳnh tập
trung đi sâu vào tiểu thuyết vì cho tiểu thuyết là nòng cốt để kiến tạo văn xuôi Việt
Nam hiện đại, đẩy văn học Việt Nam - một nền văn học nặng về thơ sang quỹ đạo văn
xuôi
+ phân tiểu thuyết thành ba loại: trường thiên. trung thiên, đoản thiên. Theo ông,
văn học Việt Nam chỉ nên tập trung vào đoản thiên vì nó phù hợp với nhà văn
Việt Nam hơn cả
+ quan niệm về nhân vật tiểu thuyết: người bình thường, mang những trải
nghiệm nhân sinh phổ biến, những cảm xúc thường nhật, khác với các nhân
vật đấng bậc trong văn học truyền thống. PQ dịch tác phẩm “Câu chuyện anh
chàng đi tìm cảm giác rùng mình” của Pháp
-> việc tập trung vào cảm giác của những con người bình thường trong cuộc sống đời thường
đã khiến văn học thông tục giai đoạn 1913 - 1932 ở Việt Nam tương đối phát triển. Điều này
có cội nguồn từ truyền thống (yếu tố nội sinh), cuộc gặp gỡ với phương Tây đã kích hoạt cho
sức mạnh nội sinh này bừng dậy
+ đối tượng phản ánh chính trong tiểu thuyết: tập trung vào ba lĩnh vực chính
của nhân sinh: tình ái, hám lợi, danh vọng
+ kĩ thuật: tiểu thuyết có hai mạch: mạch kể (sự kiện) và mạch tả (chân dung,
trang phục, thiên nhiên, tâm lí)
-> thể hiện sự đổi mới trong tiểu thuyết, vì đã đi sâu vào miêu tả. Lối miêu tả dày đặc, chi tiết
xác thực, tỉ mỉ là chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XIX (khác tiểu thuyết
phương Đông, chủ yếu tả theo lối chấm phá, nắm bắt cái thần)
VD: So sánh tiểu thuyết Hồng lâu mộng (Trung Quốc) và Những người khốn khổ (Pháp)
- Hồng lâu mộng: miêu tả nhan sắc của Lâm Đại Ngọc qua hình ảnh đôi lông mày:
“Đôi lông mày điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không cau…”
- Những người khốn khổ: miêu tả tỉ mỉ ngoại hình nhân vật Javert: “Cặp lông mày ông
nhô lên trên đôi mắt âm u; những chòm râu rậm rạp phủ đầy đôi má của ông ta, tạo
cho ông một bộ mặt chó gộc.”
=> Đương thời, không có một tác giả, tác phẩm nào có khả năng thỏa mãn mọi tiêu chí mà
Phạm Quỳnh đưa ra. Tuy nhiên, từ 1932 trở đi, những ý tưởng của Phạm Quỳnh dần được
hiện thực hóa trong đời sống sáng tác, có thể hình dung ông như một kiến trúc sư của nền văn
học mới
● Diện mạo văn học:
- Tiểu thuyết: Hồ Biểu Chánh. Hoàng Ngọc Phách
- Truyện ngắn (Phạm Duy Tốn - thiên sang phương Tây; Nguyễn Bá Học - thiên về
truyền thống)
- Thơ: Tản Đà (lãng mạn), Á Nam Trần Tuấn Khải (hiện thực)
- Kịch: Vũ Đình Long (Chén thuốc độc), Nam Xương (Ông Tây An Nam)
- Phê bình văn học: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn (Phê bình và cảo luận 30 - 31)
=> Ở Việt Nam đã hình thành một bộ khung thể loại mới đậm màu sắc phương Tây, mặc dù
chưa có những kiệt tác đích thực (trừ thơ Tản Đà)
Những hình thức thể loại mới này sẽ là nền tảng cho sự phát triển đột biến của văn học giai
đoạn sau
Đóng góp của giai đoạn này chủ yếu ở việc chuẩn bị câu văn, quan niệm và hình thức thể loại
mới
b, Từ 1932 - 1945: giai đoạn kết tinh của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
● Tiền đề văn hóa - xã hội
- Tầng lớp học sinh, sinh viên đô thị bắt đầu chiếm tỉ lệ đáng kể, họ đóng vai trò là độc
giả chính của giai đoạn này. Tầng lớp trí thức trên ghế nhà trường Pháp - Việt đã
trưởng thành, trở thành chủ nhân của giai đoạn văn học này
- Văn học phương Tây thực sự ngấm sâu trong cấu trúc văn hóa Việt, trở thành một
thành tố nội tại. Những gì trước đó không lâu người ta còn thấy xa lạ, bỡ ngỡ bây giờ
trở nên quen thuộc, thậm chí trở thành thời thượng, được say mê, ngưỡng mộ
VD: truyện ngắn “Cô Kếu gái tân thời”: nhân vật Kếu sung sướng khi được vận lên mình bộ
quần áo tân thời: “Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại. Cô uốn éo. Cô
thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô bình phẩm. Cô khoái lắm!”
- Cùng với sự phồn vinh về kinh tế những năm 30, cái tôi cá nhân bắt đầu hiện diện tự
tin và quả quyết hơn, công khai khẳng định mình, đòi hỏi thỏa mãn phiêu lưu trong
tình ái, trong những chân trời mới lạ. Đây là tiền đề cho dòng văn học lãng mạn phát
triển, trở thành một khuynh hướng chủ đạo (từ “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng
đến “Thiếu quê hương” của Nguyễn Tuân)
- Tuy nhiên, bên cạnh sự phồn vinh, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đôi khi trở
thành đàng điếm. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng, mâu thuẫn giữa đô thị và nông
thôn nảy sinh. Những người nông dân bị bần cùng hóa, những người làm nhiều nghề
mạt hạng ở đô thị như đi ở, đánh giày, đánh xe đã kích thích sự phát triển của phóng
sự, hình thành dòng văn học tả chân (văn học hiện thực)
- Dòng văn học yêu nước có thêm sức sống mới, giai đoạn này đánh dấu sự trở lại của
những chí sĩ Cách mạng giai đoạn trước như Huỳnh Thúc Kháng. Đảng Cộng sản
ngày càng có sức tác động lớn tới đời sống xã hội (Đề cương văn hóa 1943, Hội Văn
hóa cứu quốc) khiến văn học yêu nước có bước phát triển mới về chất
=> Văn học thời kì này tồn tại nhiều trào lưu, khuynh hướng sáng tác đa dạng, phức tạp và
tác động qua lại với nhau
● Diện mạo văn học
CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
Khái niệm: Chủ nghĩa lãng mạn là một khuynh hướng cảm hứng thẩm mỹ được khơi nguồn
từ sự khẳng định cái tôi cá nhân được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó
phản ứng với tính duy lý, quy phạm mực thước của văn chương cổ điển, thích hợp với công
chúng thanh niên, vì tuổi trẻ thường giàu nhiệt tình, mơ mộng, thích những điều mới lạ, khác
thường
Đề tài: CNLM dễ có cảm hứng trước 3 đêf tài: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo; vì ba đề tài này
khơi gợi tình cảm đắm say và kích thích trí tưởng tượng
Bút pháp: Sử dụng rộng rãi bút pháp đối lập: ánh sáng - bóng tối, cái đẹp - cái xấu, cao cả -
thấp hèn,...
Đại diện tiêu biểu:
NHÓM TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
● Khái quát:
- Người sáng lập: Nguyễn Tường Lam (1906 - 1963), thuộc thế hệ nhà văn lớn lên trên
ghế nhà trường Pháp Việt, học tiểu học ở phố huyện Cẩm Giàng, về sau học ở trường
Bưởi (Hà Nội
+ Năm 1924: đỗ Đại học Y khoa, cuối năm thi Đại học Mĩ thuật Đông Dương, là
sinh viên khóa đầu tiên của trường này
+ Năm 1927, ông sang Pháp, say mê luật, kinh tế, báo chí, dùng báo để thể hiện
những day dứt nội tâm, là phương tiện để thể hiện ý tưởng xã hội
+ Năm 1930 về nước. Năm 1932, ông mua lại Phong hóa đang ế ẩm và cách tân
nó:
+ đưa mĩ thuật vào tờ báo
+ đưa tiếng cười vào báo do chủ trương báo chí phái dân chủ
+ Năm 1933: quyết định thành lập Tự lực văn đoàn, công bố tôn chỉ sáng tác,
gồm 10 điều:
+ (1) Tự mình làm sách có giá trị, không dịch thuật nữa
+ (2) Giới thiệu và viết những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho xã
hội ngày một hay hơn lên
+ (3) Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, tin vào sự tiến bộ
+ (4) Đề cao lối văn thật có tính cách An Nam
+ (5) Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của đất nước, những vẻ đẹp có tính
chất bình dân
+ (6) Ủng hộ phát triển bình dân, tránh phong cách trường giả, quý phái
+ (7) Trọng tự do cá nhân
+ (8) Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn thời nữa
+ (9) Đem phương pháp khoa học phương Tây ứng dụng vào văn chương
Việt Nam
+ (10) Theo một trong 9 điều trên cũng được, miễn là đừng trái ngược
với những điều còn lại
=> Nhận xét:
- Các vấn đề nổi bật: Coi trong văn học dân tộc; coi trọng tính bình dân đại chúng,
khước từ tính chất cao sang của văn học cổ điển; nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của văn
học, đưa vào văn học những vấn đề nổi cộm của xã hội. Những nội dung này đã đối
thoại lại với đạo lý của văn học trung đại, giúp mở đường cho sự thay đổi từ văn
chương răn đời sang văn chương hiểu đời
=> TLVĐ là nghệ thuật vị nhân sinh theo lập trường tiểu tư sản
- Nhân lực: nhóm cốt cán có 7 người (học tập nhóm Thất tinh ở Pháp - nhóm văn làm
cho văn học Pháp chuyển từ trung đại sang hiện đại)
+ Nguyễn Tường Lam (Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn)
+ Trần Khánh Dư (Khái Hưng) - phụ trách tiểu thuyết
+ Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, Tứ Li)
+ Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ, Lê Ta)
+ Nguyễn Tường Lân (Nguyễn Tường Vinh, Thạch Lam, Việt Sinh)
+ Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ)
+ Nguyễn Gia Trí (họa sĩ)
Giai đoạn sau có thêm 1 số cộng tác viên: văn xuôi có Trần Tiêu, Thanh Tịnh; thơ có Xuân
Diệu, Huy Cận; họa sĩ có Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Cát Tường
- Cơ quan ngôn luận: 2 tờ báo Phong hóa và Ngày nay (nay là NXB Đời nay)
- Giải thưởng thường niên cho những nhà văn có tác phẩm hay, có uy tín (Anh Thơ và
Nguyễn Bính đạt giải)
● Những đóng góp:
- Nội dung:
+ Cổ vũ tình yêu tự do, ý thức cá nhân: Hồn bướm mơ tiên (1933 - Khái Hưng),
Đoạn tuyệt (1935 - Nhất Linh), Lạnh lùng (1936 - Nhất Linh)
+ Cải cách nông thôn và hình tượng người nông dân (giai đoạn 36 - 39): Gia
đình (Khái Hưng), Thừa tự (Khái Hưng), Con đường sáng (Hoàng Đạo)
+ Thám hiểm về ý nghĩa sự sống, tra vấn ráo riết về ý nghĩa sự sống: Đời mưa
gió (Nhất Linh - 1934), Đôi bạn (1937 - Nhất Linh), Bướm trắng (1939 - Nhất
Linh)
VD: Tiểu thuyết Bướm trắng:
+ hình ảnh bướm trắng: là hình ảnh đẹp nhưng mong manh, hư ảo
+ thể hiện suy ngẫm về cuộc đời và cái chết khi đặt nhân vật trong hoàn cảnh éo le và
những tình huống ngẫu nhiên; con người rũ bỏ luân lý
Các tác phẩm mang đậm màu sắc hiện sinh chủ nghĩa
=> Các vấn đề TLVĐ quan tâm là những vấn đề nằm trong phổ hệ lớn, những mẫu số chung
của văn học phương Đông và thế giới
Hạn chế:
+ do sự thiếu hiểu biết về đời sống người nông dân dù có thừa thương cảm
+ mang màu sắc bi quan, thoát li
- Nghệ thuật:
+ hình thành mô hình tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, nghệ thuật kể chuyện biến
hóa, thường bắt đầu bằng thời gian hiện tại nhưng luôn có sự luân chuyển giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai. Điểm nhìn trần thuật luôn có sự hoán đổi,
chuyển giao; thích lối kết thúc để ngỏ
+ kĩ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả thiên nhiên và tả thực đạt được những
thành tựu đáng kể, khiến cho tiểu thuyết TLVĐ về cơ bản thoát khỏi sự đơn
điệu của lối kể truyền thống
+ bắt đầu xây dựng tính cách nhân vật có bề dày đời sống tâm lí, đặc biệt là
những chi tiết xây dựng nhân vật sinh động
+ Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, đặc biệt giàu có về mảng miêu tả âm thanh, màu
sắc, đặc biệt là miêu tả cảm giác ( -> tác phẩm của những hình dung từ)
+ Câu văn mềm mại, uyển chuyển, khoảng 70% câu văn xuôi tiếng Việt hiện đại
là được hoàn thiện bởi TLVĐ
=> Ở TLVĐ thấy rõ được sự kết hợp giữa dân tộc và phương Tây, truyền thống và hiện đại,
những tác phẩm xuất sắc của TLVĐ có giá trị nhân văn cao
THƠ MỚI
● Các cách phân loại thơ mới:
- Căn cứ vào nguồn ảnh hưởng: Hoài Thanh chia thành 3 dòng: Pháp, Đường, Việt
+ cách phân loại này đã xác định các nhân tố hình thành phong trào Thơ mới
+ khó khăn khi phân biệt từng tác giả. Những tác giả hạng 2, 3 dễ xếp vào các
dòng, nhưng những nhà thơ xuất sắc thường tích hợp cả 3 dòng
VD: thơ lục bát của Huy Cận khảm sâu nhiều chất liệu Đường thi
- Căn cứ vào thời gian: chia làm 3 giai đoạn: 32 - 35 (32 đến Xuân Diệu; đây là giai
đoạn xung đột, đi tìm tiếng nói chung với thơ cũ), 36 - 39 (giai đoạn hòa giải), 40 - 45
(giai đoạn thể hiện tiếng nói riêng tư)
+ trong giai đoạn đầu, để nhấn mạnh sự khác biệt với thơ cổ điển, thơ mới nhất
loạt tấn công vào tính quy phạm cứng nhắc của thơ cũ, đưa cú pháp văn xuôi
vào thơ, dỡ bỏ mọi niêm luật, cho phép cảm xúc tự do được bộc lộ
+ đến giai đoạn sau: nhiều nhà thơ tìm về các thể thơ cổ điển (thất ngôn, ngũ
ngôn,...)
- Phân chia theo vùng: Hà Nội, Nam Trung Bộ
● Đóng góp của thơ Mới vào tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc
- Về hình thức: Ngay từ khi mới ra đời, Thơ Mới được nhìn nhận từ phương diện hình
thức thể loại. Danh từ Thơ mới lần đầu được chính thức khởi xướng bởi Phan Khôi
trên báo Phụ nữ tân văn (số 122, năm 1932) khi ông muốn dấy lên một phong trào thơ
“đem ý thật có trong tâm khảm tả ra bằng những câu văn có vần mà không phải bó
buộc bởi những niêm luật gì hết” (Phan Khôi, Một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ)
+ thể loại:
● thơ luật hạn chế xuất hiện, nhưng Thơ mới lại phát triển thơ 7 chữ, chia
khổ, 4 câu 1 khổ, một bài thơ điển hình khoảng 5 khổ, mỗi khổ bỏ
niêm luật nhưng vẫn giữ được vần nhịp
● phát triển thể thơ 8 chữ - đặc sản của thơ mới, có công năng miêu tả
cao (VD: Bức tranh quê, Nhớ rừng, Chợ Tết,...)
VD: Bài thơ Chiều xuân (Anh Thơ): dựng lại những bức tranh quê giúp người đọc thấy được
khả năng miêu tả của thể thơ 8 chữ
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,


Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng


Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

+ khổ 1: chiều xuân trên bến vắng


+ khổ 2: chiều xuân ngoài đường đi
+ khổ 3: chiều xuân trong đồng lúa
● thể lục bát: rất phát triển; hầu như nhà thơ nào cũng có một bài thơ lục
bát
● thơ 5 chữ: không nhiều về số lượng nhưng có thành tựu (VD: Ông đồ -
Vũ Đình Liên; Tiếng thu - Lưu Trọng Lư; thơ Hàn Mặc Tử)
● thơ tự do: phát triển ở giai đoạn đầu nhưng càng về cuối càng ngần
ngại
=> thơ Mới đã phá bỏ sự độc tôn của một thể loại, chấp nhận nhiều thể loại cùng tồn tại; phá
bỏ tính chất gò bò của thơ Đường luật, tìm kiếm sự rộng rãi hơn, đa dạng hơn cho cảm xúc;
không hướng đến phương Tây mà chủ yếu hướng về những thể loại mang dấu ấn dân tộc (thể
hiện trong sự ứng xử với thơ tự do)
=> Thơ mới đã đi từ xung đột đến hòa giải, là phong trào thơ có tính dân tộc cao
+ Cách tổ chức câu thơ và xây dựng hình ảnh thơ:
● Tổ chức câu thơ: câu thơ điệu nói
// Câu thơ của Thơ Mới: câu thơ điệu nói >< câu thơ của thơ cũ: tổ chức theo điệu ngân,
chặt chẽ, cô đúc, có độ kết dính bởi niêm luật
+ câu thơ có cú pháp lỏng lẻo, nhiều hư từ
+ đặc biệt ưa thích hình thức câu thơ vắt dòng, nhiều dòng mới
hợp thành 1 câu, tạo sự liền mạch trong cảm xúc, những đoạn
miêu tả tạo thành những bức tranh hoành tráng. Thế giới miêu
tả vì thế mà sống động hơn, nới rộng biên độ câu thơ và khả
năng miêu tả
VD1: Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính)
“Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh”
+ bao quát bức tranh không gian mùa xuân từ cao xuống thấp theo từng mảng không
gian
+ câu thơ vắt dòng gợi miêu tả cảnh vật liền mạch, nối tiếp
-> bức tranh xuân mở rộng
VD2: So sánh:
(1) Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(2) Anh đi đó, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…

Truyện Kiều Không đề (I)

Giống Đều miêu tả hình ảnh cánh buồm đi xa

Khác + Buồn trông: trạng thái cảm xúc; tư + Hình ảnh con người đi xa, gợi cảm
thế ở không gian cửa bể, thời gian giác lưu luyến, nhớ nhung
“chiều hôm”, cánh buồm đang ở xa + “Anh đi đó”: khẳng định -> “Anh
+ Cánh buồm hiện lên qua con mắt về đâu”: không biết đi đâu về đâu
của Kiều, khi ẩn khi hiện ở 1 khoảng + “Cánh buồm…”: trạng thái mất
cách xa màu của cánh buồm khi xa khuất tầm
=> gợi cảm giác lo lắng về một mắt
tương lai mờ mịt, xa xôi => diễn tả khoảng cách xa dần

+ câu thơ giàu nhạc tính, thể hiện trong cách phối thanh, nhịp hài
hòa
VD: Tỳ bà (Bích Khê), Tình hoài (Thế Lữ), Huyền diệu (Xuân Diệu), Nhị hồ (Xuân Diệu)
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
+ Xây dựng hình ảnh thơ: chịu ảnh hưởng từ trường phái thơ
tượng trưng mà đại diện tiêu biểu là Baudelaire và Verlaine;
đặc biệt ưa thích hình ảnh dựa trên liên tưởng, chuyển hóa giữa
cái hữu hình với cái vô hình
VD1: Hàn Mặc Tử - Cô gái đồng trinh: chuyển hóa giữa thế giới hữu hình và thế giới vô
hình: xác chết - mùa xuân
“Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình”
VD2: Những giọt lệ - HMT
“Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu”
+ hình ảnh “bông phượng” - màu “huyết”
+ “nhỏ”: bông phương làm bằng máu nhỏ xuống “lòng tôi”
-> chuỗi liên tưởng tài tình: các vật thể tan vào nhau; những hình ảnh chìm trong một hình
thể, tạo trường liên tưởng về những đau thương, cái chết
VD3: Nguyệt cầm - Xuân Diệu
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
+ cung trăng - cung nguyệt
+ giọt - âm thanh, ánh sáng, nước mắt, châu báu
- Về nội dung:
+ đóng góp lớn nhất của thơ mới vào tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc là
đề cao cái tôi cá nhân. Hoài Thanh đã chỉ ra đích xác tinh thần thơ mới là cái
tôi cá nhân, chữ “tôi” với ý nghĩa tuyệt đối. Văn học trung đại đề cao tính phi
ngã, xóa bỏ cái tôi; đến thơ mới, lần đầu tiên cái tôi có cơ hội lên tiếng, trỗi
dậy
// Hoài Thanh: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc
gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc
gia như giọt nước trong biển cả
+ cái tôi và quan niệm cá nhân là thành tựu lớn nhất của cuộc cách tân về nội
dung, cảm hứng trong Thơ mới. Lúc đầu, nó xuất hiện trên thi đàn trong trạng
thái đầy bỡ ngỡ, “như lạc loài nơi đất khách”; về sau, nó được biểu hiện phong
phú với các cá tính độc đáo: “Trong lịch sử thơ ca Việt Nam, chưa bao giờ có
một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên.... và thiết tha,
rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”
=> Thơ mới có công giải phóng thơ ra khỏi chức năng tải đạo, ngôn chí, đưa đến một quan
niệm mới về thơ: thể hiện cảm xúc của cái tôi cá nhân
=> kích thích sự phát triển của ý thức cá nhân, khơi dậy khát khao yêu đời, khát vọng sống
mãnh liệt
+ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
VD: Nhớ rừng (Thế Lữ), Tiếng địch sông Ô (Phạm Huy Thông), Ông đồ (Vũ Đình Liên)
+ tình yêu thiên nhiên, những bức tranh đẹp, đầy mộng mơ về quê hương đất
nước
VD: các nhà thơ dòng Việt (Anh Thơ, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,...)
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
Khái niệm:
- CN hiện thực: là một khuynh hướng cảm hứng thẩm mĩ không tìm đến thế giới xa lạ
nào, thường đi vào những đối tượng quen thuộc, phổ biến của đời sống, thậm chí là
những mảng tầm thường, nhàm chán, vì nó muốn nói sự thật, tìm hiểu cuộc đời hiện
thực. CNHT không phản ánh những hiện tượng bề ngoài mà hướng đến phản ánh bản
chất và quy luật khách quan của đời sống
- CN hiện thực phê phán: khái niệm nhằm đặt tên cho CN hiện thực không thuộc ý thức
hệ vô sản, phân biệt nó với CNHT xã hội chủ nghĩa, một khái niệm phương pháp sáng
tác văn học do Hội Nhà văn Liên Xô đưa ra.
Các giai đoạn phát triển:
- 1930 - 1935: các nhà văn hiện thực viết riêng lẻ, tự phát
Nổi bật: Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang
+ Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên khẳng định phương pháp hiện thực xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực truyện ngắn. Truyện “Kép Tư Bền” gây tiếng vang
trong tranh luận nghệ thuật vị nghệ thuật - nghệ thuật vị nhân sinh. Khi “Kép
Tư Bền” xuất hiện, 17 tờ báo tranh luận, chủ yếu là cơ ngợi; NCH được chọn
như nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất. Có thể nói, NCH đã cắm lá cờ vinh
quang cho chủ nghĩa hiện thực trên lĩnh vực truyện ngắn.
+ Vũ Trọng Phụng với các thiên phóng sự “Cạm bẫy người”, “Kĩ nghệ lấy Tây”
đã được Mai Xuân Nhân đánh giá là “Ông vua phóng sự đất Bắc”
+ Tam Lang là nhà văn đầu tiên viết phóng sự ở VN (1932, Tôi kéo xe)
=> VTP và Tam Lang là hai nhà văn mở đầu cho thể loại phóng sự trong văn học hiện đại
Việt Nam
+ thơ trào phúng: Tú Mỡ với tập “Dòng nước ngược” (1934)
=> Đánh giá: giai đoạn này tầm bao quát của chủ nghĩa hiện thực còn hạn hẹp, phản ánh cục
bộ, thế giới nhân vật chủ yếu là dân nghèo thành thị, thiếu chiều sâu hiện thực, chưa thể hiện
được mâu thuẫn cơ bản của xã hội. Chưa có tiểu thuyết hiện thực xuất sắc. Tính chiến đấu
chưa cao; một số cây bút còn dao động lập trường
- Giai đoạn 1936 - 1939:
+ thời kì mặt trận dân chủ, sục sôi Cách mạng. Lưỡi kéo kiểm duyệt không cắt
xén, thuận lợi cho sự phát triển của CN hiện thực
+ thời kì này tạo nên những đặc điểm nổi bật của văn học hiện thực: giàu tính
thời sự, mang tính chiến đấu cao
VD: Vũ Trọng Phụng (Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê), Nguyễn Công Hoan (Bước đường cùng),
Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Nguyễn Hồng (Bỉ vỏ),...
+ văn học hiện thực bắt đầu phát triển tự giác, thể hiện ở hàng loạt các cuộc bút
chiến
=> Đánh giá:
+ trực tiếp khai thác mâu thuẫn xung đột, tố cáo mặt trái của xã hội
+ tập trung thể hiện nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình; đã xuất hiện những
điển hình bất hủ
+ hình tượng người lao động không chỉ là nạn nhân đáng thương mà còn có vẻ đẹp tinh
thần đáng quý
+ CNHT vươn lên làm chủ văn đàn. Một số tác phẩm của TLVĐ chứa đựng nhiều yếu
tố hiện thực. Những đỉnh cao của tiểu thuyết TLVĐ đều là những tiểu thuyết mang
đậm hiện thực
Hạn chế: một số tác phẩm còn bộc lộ tư tưởng cải lương, văn chương còn ảnh hưởng phong
cách báo chí
Tuy nhiên, đây vẫn là thời kì đỉnh cao của CN hiện thực với những tác giả xứng đáng là nhà
văn lớn, “những cuốn sách ghê gớm có thể đem lại vinh dự cho cả thời đại” (Nguyễn Khải):
Tắt đèn, Số đỏ, Bỉ vỏ,..
- Giai đoạn 1940 - 1945: hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội không thuận lợi cho sự phát
triển của văn học hiện thực
+ hoàn cảnh lịch sử: 1939 - chiến tranh thế giới, Đảng hoạt động bí mật, sách
báo không được xuất hiện công khai; 1940 - Nhật vào Đông Dương, phát xít
Nhật thi hành chính sách văn hóa phản động; 1940 - 1945 - chặng đường
không thuận lợi, văn học công khai có sự phân hóa phức tạp, nhiều cây bút
hoang mang. VH hiện thực phê phán vẫn tồn tại, có những phương diện không
bằng giai đoạn trước, nhưng có những phương diện lại vượt trội
+ đội ngũ sáng tác:
● Bớt đi một số cây bút tiêu biểu, những nhà văn tiêu biểu giai đoạn
trước không viết nữa hoặc viết khác đi
VD: Vũ Trọng Phụng mất năm 1939
Nguyễn Công Hoan đề cao đạo đức phong kiến (do không giữ được lập trường): “Thanh
đạm”, “Danh tiết”
Ngô Tất Tố: chuyển sang dịch thuật, khảo cứu, tính chiến đấu của ngòi bút giảm xuống
● Xuất hiện nhiều cây bút trẻ tài năng
VD1: Nguyên Hồng (Những ngày thơ ấu). Từ 1940, Nguyên Hồng càng tỏ ra sung sức
Ông là con người giàu tình thương (họa sĩ Phan Kế An vẽ Nguyên Hồng, trong đôi mắt vẽ
trái tim vào đó). Ảnh hưởng từ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư (những người cầm bút CN hiện thực
đều chịu ảnh hưởng ban đầu của CN lãng mạn). Cuộc sống lam lũ, đói khổ đã kéo Nguyên
Hồng đến với CN hiện thực. Ánh sáng Cách mạng đã đưa đến cho sáng tác của Nguyên Hồng
yếu tố lãng mạn mới, vượt ra khuôn khổ của CN hiện thực, dự cảm về tương lai: hình thành
cảm quan lãng mạn khỏe khoắn (lãng mạn cách mạng)
VD2: Tô Hoài (tác phẩm Quê hương). Tô Hoài viết về phong tục tập quán ở nông thôn, nhìn
đời sống bằng con mắt đời thường, nhãn quan phong tục. Tác phẩm của Tô Hoài giúp người
đọc nhận ra một xã hội cùng quẫn, bế tắc, bần cùng không lối thoát. Tô Hoài có biệt tài quan
sát hóm hỉnh thế giới loài vật. Ông thường khắc họa được bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, thơ
mộng.
VD3: Bùi Hiển - cây bút truyện ngắn viết về con người vùng biển, miêu tả con người không
làm mất đi bản chất hồn nhiên
VD4: Kim Lân: viết về phong tục làng quê (thú chơi, sinh hoạt của vùng đồng bằng Bắc Bộ);
viết về cảnh ngộ buồn tủi của ông và những người đồng cảnh ngộ. Đằng sau những đề tài
phong tục, thế giới cùng khổ, truyện Kim Lân thể hiện sự lạc quan của người nông dân
VD5: Nam Cao: trực tiếp phân tích, truy tìm nguyên nhân sự sống của con người; cách tân về
nhiều mặt, có nhiều điểm mới trong tư duy nghệ thuật. Nam Cao kết tinh sự vận động của
văn xuôi VN trước CM, CN hiện thực đến Nam Cao đã hoàn tất chặng đường.
=> Đặc điểm:
+ không trực tiếp thể hiện mâu thuẫn cơ bản của xã hội (Tô Hoài hầu như không phản
ánh mâu thuẫn giai cấp)
+ đề tài có tính chất phong tục, hoặc đi vào truyện đời tư vặt vãnh hoặc gắn với tính
chất thời sự, ít đề cập đến vấn đề xã hội rộng lớn.
+ không tập trung xây dựng những điển hình phản diện
>< 36 - 39: điển hình thuộc tầng lớp thống trị: Nghị Quế, Nghị Hách
=> Nguyên nhân: hoàn cảnh xã hội kiểm duyệt. 40 - 45: người nông dân nghèo, trí thức tiểu
tư sản nghèo, những con người yếu đuối bất lực, không giống con người gân guốc giai đoạn
trước
// 36 - 39: nhạy cảm với vấn đề xã hội (VTP) -> CNHT phơi bàu >< 40 - 45: nhạy cảm với
vấn đề con người (Nam Cao) -> CNHT cắt nghĩa và lý giải
Đóng góp cho quá trình hiện đại hóa dân tộc

Văn học lãng mạn Văn học HT phê phán

Quy mô phản hiện thực tầng lớp trung lưu và đô mở rộng quy mô phản ánh, miêu tả
ánh thị VN mọi số phận, cảnh đời, bao quát
không gian xã hội rộng lớn từ nông
thôn đến thành thị

Nhân vật nhân vật ở bên trên, bên ngoài nhân vật ở trong mối quan hệ với
hoàn cảnh hoàn cảnh, nhân vật chính diện lí
VD: Jean Valjean, Huấn Cao tưởng biến mất, khai thác hai kiểu
nhân vật chính: phản diện và tha
hóa; nhân vật luôn có sự vận động
mà chính nó không lí giải được
(logic có tính chất quyết định)

Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế nhưng có tính khẩu ngữ, xô bồ, nhốn nháo, bụi
sách vở, dễ sáo rỗng bặm; có tính cá thể hóa cao, sinh
động

=> Mặc dù hướng đến bức tranh toàn cảnh nhưng VH hiện thực vẫn quan tâm đến những con
người bé nhỏ dưới đáy xã hội, không chỉ đồng cảm mà còn trân trọng
=> Khuynh hướng hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo luôn kết hợp nhuần nhuyễn

VĂN HỌC CÁCH MẠNG


● Chia thành 2 dòng:
- Văn học yêu nước cách mạng hải ngoại (Nguyễn Ái Quốc ở Pháp và Phan Bội Châu ở
Trung Quốc)
Bút pháp nghệ thuật cao nhưng phần lớn không được người đọc Việt Nam tiếp nhận
- Văn học yêu nước cách mạng trong nước (thơ ca Xô viết Nghệ Tĩnh, thơ ca trong tù,
vai trò của Tố Hữu)
Có tính chất tuyên truyền, cổ động, hầu như không có văn xuôi, chỉ có văn vần
● Đội ngũ sáng tác
- Nhà CM không sáng tác ở môi trường chuyên nghiệp, sáng tác bằng kinh nghiệm
truyền thống là chính. Mang nhiều tâm sự cao cả, nhiều vần thơ khí phách nhưng
không cập nhật với sự thay đổi tiến trình hiện đại hóa
- Bước ngoặt: 1938 - hiện tượng Tố Hữu. Là học sinh trường Pháp Việt, chịu ảnh
hưởng đậm của văn hóa Pháp. Khi bắt đầu sáng tác, Thơ mới cũng đạt tới độ chín
viên mãn của nó. Tố Hữu tiếp thu thành tựu Thơ mới, dùng nó để thể hiện lí tưởng,
nhiệt tình Cách mạng. Nhờ Tố Hữu, VH cách mạng không bị phong bế, được nhập
vào dòng chảy lớn: VH yêu nước
=> Thơ Tố Hữu = Thơ mới + nhiệt tình CM
II. Văn học hình thành hai bộ phận: công khai và không công khai, phân hóa thành
nhiều khuynh hướng, vừa đấu tranh, vừa bổ sung để cùng phát triển
1. Bộ phận văn học công khai và không công khai
1.1. Bộ phận văn học công khai
- Là bộ phận văn học hợp pháp được in ấn và xuất bản công khai, tồn tại trong vòng luật pháp
của chính quyền thực dân phong kiến

- Những tác phẩm này có tính dân tộc và tư tưởng lành mạnh nhưng không có ý thức cách
mạng và tinh thần chống đối trực tiếp với chính quyền thực dân

Phân hóa thành 2 khuynh hướng:

+ Lãng mạn

+ Hiện thực

Các khuynh hướng này đấu tranh với nhau. Vì

- Lãng mạn và hiện thực khác nhau ở cái nhìn và cách phản ánh thế giới:

+ Lãng mạn: Đào sâu vào thế giới chủ quan

+ Hiện thực: Phản ánh thế giới khách quan

Đến Nam Cao, hình thành kiểu hiện thực tâm lí, xây dựng con người trong mối quan hệ với
ngoại cảnh, chịu tác động của thế giới khách quan

Thế giới: Tù túng, đen tối

Nguyên nhân:

- Do sự khác biệt về tư tưởng, lập trường của người sáng tác

- Do sự khác biệt về hình thức thể hiện

- Do sự thúc bách của thời đại: sự cạnh tranh của thị trường văn hóa, thời kì văn chương trở
thành một thứ hàng hóa, viết văn trở thành nghề kiếm sống, các tác giả phải cạnh tranh sức
ảnh hưởng trên văn đàn, viết khác để tạo lập được bản sắc

Biểu hiện:

- Các nhà văn hiện thực


+ Nam Cao: phê phán khuynh hướng lãng mạn thoát li
+ Vũ Trọng Phụng: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và các nhà văn
cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”

VD:

- Lãng mạn:
+ Thơ Mới: Có khuynh hướng thoát ly hiện thực đời sống

VD: Tiêu biểu có thơ của Tản Đà trước 1930; tiểu thuyết “Tố tâm” của Hoàng Ngọc
Phách; tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn; sau đó có văn xuôi trữ tình Thạch Lam, Thanh Tịnh,
tùy bút truyện ngắn của Nguyễn Tuân.

=> Thời kì này đã xuất hiện các khuynh hướng nghệ thuật thực sự
Các khuynh hướng “bổ sung cho nhau để cùng phát triển”

- Hiếm có tác phẩm nào thuần túy lãng mạn hay hiện thực, hai tính chất này luôn đan cài, sự
khác biệt chỉ ở mức độ đậm nhạt

- Dẫu là lãng mạn hay hiện thực thì đều nằm trong bầu khí quyển của văn học thời kì ấy. Việc
chia các khuynh hướng không khiên cưỡng mà uyển chuyển, mềm dẻo

VD: Sáng tác của Thạch Lam đầy tính hiện thực, sáng tác của Nam Cao vẫn đầy chất lãng
mạn; tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng cũng có lãng mạn

1.2. Bộ phận văn học không công khai


- Là văn học cách mạng, phải lưu hành bí mật. Đây là bộ phận của văn học cách mạng
và là dòng chủ của văn học sau này.
- Nội dung: Đấu tranh chống thực dân và tay sai; thể hiện nguyện vọng của dân tộc là
độc lập tự do; biểu lộ nhiệt tình vì đất nước.
- Văn học công khai có sự phân hóa phức tạp, nhiều cây bút hoang mang.
- Bộ phận văn học không công khai có thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là thơ của
các chí sĩ và các chiến sĩ cách mạng sáng tác trong tù. Văn học cách mạng đánh thẳng
vào bọn thống trị thực dân cùng tay sai, nói lên khát vọng độc lập, đấu tranh giải
phóng dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn và niềm tin vào tương lai tất
thắng của cách mạng.
- Văn học cách mạng cũng có lúc được lưu hành công khai (văn thơ Đông Kinh nghĩa
thục, văn thơ cách mạng thời kỳ Mặt trận dân chủ) nhưng chủ yếu bị đặt ra ngoài
vòng pháp luật của chế độ thực dân phong kiến và đời sống bình thường.
- Ở thời kì này, nhà văn đồng thời là những chiến sĩ cách mạng. Họ coi văn thơ trước
hết là một vũ khí sắc bén chiến đấu chống kẻ thù của dân tộc, là phương tiện để
truyền bá tư tưởng yêu nước và cách mạng.
- Văn học cách mạng đã đánh dấu vào bọn thống trị thực dân cùng bè lũ tay sai, trực
tiếp đề cập đến vấn đề sống còn của đất nước, thể hiện khát vọng mãnh liệt độc lập, tự
do của toàn dân tộc. Các tác phẩm của dòng văn học này đã thể hiện tấm lòng yêu
nước nồng nàn, lòng căm thù sôi sục lũ giặc cướp nước và bọn bán nước, đã toát lên
khí phách hào hùng và niềm tin tưởng không gì lay chuyển nổi vào tương lai tất thắng
của dân tộc. => Ở bộ phận văn học không công khai, quá trình hiện đại hóa gắn liền
với quá trình cách mạng hóa văn học.

VD: Một số tác giả nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng

➢ Giữa các khuynh hướng trào lưu văn học luôn có sự đấu tranh với nhau về mặt chính
trị quan điểm nghệ thuật. Nhưng trong thực tế, ít nhiều chúng vấn tác động, thậm chí
còn chuyển hóa lẫn nhau để cùng phát triển. => Tạo nên sự đa dạng, phong phú, phức
tạp của văn học thời kì này
III. Văn học phát triển với nhịp độ mau lẹ
- VH phát triển mau lẹ cả về số lượng và chất lượng
- Nguyên nhân:
- Sự thúc bách của thời đại.
+ Sự vận động tự thân của nền văn học: Sức sống mãnh liệt mà hạt nhân chính là chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, biểu hiện rõ nhất là sự trưởng thành và phát triển của tiếng
Việt và văn chương Việt
+ Sự thức tĩnh và trỗi dậy mạnh mẽ "cái tôi" cá nhân của bộ phận thanh niên trí thức sau hàng
nghìn năm bị kìm hãm (Sự thức tỉnh ý thức cá nhân của tầng lớp trí thức Tây học
+ Còn một lý do rất thiết thực: sự thúc bách của thời đại (Lúc này văn chương trở thành một
thứ hàng hóa và viết văn là một nghề có thể kiếm sống)

+ Vũ Ngọc Phan: “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như 30 năm của người” (Người ở đây là
văn học Pháp)

- Sự phát triển đứng trên vai của những người khổng lồ

(Pháp vận động từ lãng mạn → hiện thực → siêu thực phải mất hơn 1 thế kỷ; Văn học VN
khoảng 13-15 năm, các khuynh hướng vh tồn tại ở phương Tây trong khoảng 100 năm đều
tồn tại ở VN trong 1 thời gian ngắn)

- Nhịp độ phát triển về số lượng

Trong vòng 15 năm giai đoạn kết tinh, khối lượng tác phẩm vô cùng đồ sộ trên nhiều thể loại:
thơ, tiểu thuyết, kịch, phóng sự, phê bình

+ Nguyễn Công Hoan có số lượng tác phẩm rất lớn; nhận lời viết cho tuần báo thứ 7
(tiểu thuyết thứ 7); viết tác phẩm cho toàn đoàn; 1935 -1939 có trăm tờ báo.
+ Vũ Trọng Phụng: mất năm 27 tuổi nhưng đã để lại 7 thiên phóng sự, 8 tiểu thuyết
+ Lê Văn Trương: sản xuất dăm chục tiểu thuyết trong mấy năm

- Văn học phát triển về chất:

Thời kỳ 1930-1945: có sự phát triển vượt bậc về chất lượng

+ Thời đầu thế kỉ: vẫn còn lối viết biền ngẫu, thiếu tự nhiên
+ Giai đoạn 1930-1945: hành văn hiện đại, có giá trị thẩm mĩ cao
TẢN ĐÀ (1889 - 1939)

1. Muốn làm thằng cuội (1916)

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi

Trần thế em nay chán nửa rồi

Cung quế có ai ngồi đó chửa

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió cùng mây thế mới vui

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

(Rút từ Khối tình con, q.1)

Muốn làm thằng cuội Sầu Mộng

Bố cục 2 câu đầu 4 câu 2 câu cuối

Biểu hiện Buồn - chán can chi tủi, vui cười

Không gian
- Đẹp (đêm thu) - không gian Không gian có cả trần

trần thế thế lẫn tiên giới
Tương Mộng đôi,
liên với sóng
Buồn chán không đến từ ngoại - Tác giả lên cõi tiên
chị Thượng đôi,
cảnh mà đến từ nội tâm của gặp chị Hằng ko phải
Hằng - giới, tiên quấn
tác giả, cho thấy sự cô đơn của chuyện nhất thời mà
người cảnh quýt
nhân vật, không tìm thấy tri là mãi mãi, ước
đẹp + với
kỉ, người có thể giãi bày trên nguyện nơi cõi tiên
người tri nhau
hiện thực nên hướng lên Tiên của Tản Đà là 1 ước
kỉ
giới, hướng đến cõi khác ao lâu dài, mãi mãi,
vĩnh cửu.
- dùng cuộc đời thật của tác
giả để cắt nghĩa cụm từ “chán Khoảnh khắc đẹp nhất
nửa rồi” (27 tuổi/nửa cuộc trong năm, mọi người
đời, công danh sự nghiệp ở trần gian mỗi năm
không thành => chán) đều phải ngước lên
chiêm ngưỡng.
Bài thơ “Giải sầu”
- Cười:
“Sầu không có khố, chặt sao
cho đứt, sầu không có khối +mãn nguyện
Tri kỉ -
đập sao cho tan” tri âm + ngông nghênh
=> Chán không có điểm kết +
cũng không có điểm đầu, sự + ám ảnh của trần
người
chán triền miên, ôm trùm lấy gian
đẹp
nhân vật
(có người đẹp có tri kỉ
==> vẻ cần phải được người
đẹp trần gian biết đến, tán
Không Sầu Cô đơn phong thưởng) cõi trần là
đến từ tình nơi ông ta chưa được
ngọai
biết đến, nơi ông ta cô
cảnh
==> thế giới ko còn sầu, vũ trụ đơn, thiếu tri kỉ, vì thế
mới xuất hiện, niềm vui của sự ông ta kì vọng rằng
Trần không có có đôi lan rộng trong trời đất ông ta phải được
thế điểm kết người trần gian biết
cũng đến trong tư thế có
không có người tình tứ, bầu bạn
điểm đầu,
sự chán ==> ám ảnh về sự
triền thiếu hụt ở trần gian.
miên, ôm
trùm lấy Sầu +Mộng đan bện
nhân vật vào nhau

Trần gian sầu: không được biết đến (thân thế, sự nghiệp )+ không có tri kỉ

Thượng giới: mộng (1) tri kỉ - người đẹp (2)- tôn vinh - ngưỡng mộ (của hạ giới)

=> chức năng bù đắp cho không gian ở cõi sầu

Phản chiếu: sầu - mộng

HẦU TRỜI
Giống nhau Khác nhau

- có trần gian gắn với sầu - Sầu ở hầu trời và sầu của muốn làm thằng
cuội nhiều hơn
- thời gian: đêm
(sầu là cội nguồn của mộng vì sầu nên mới có
- Bài thơ của Tản Đà mang bài thơ đặc mộng, muốn thoát đi cõi sầu nên mới mộng)
biệt cái sầu rất chất chứa ngay khổ thơ
đầu tiên liên quan đến bài Nguyệt hạ độc Muốn làm thằng Hầu trời
chước kỳ 1 (Lý Bạch) cuội
- Mộng gắn với không gian trên cao,
không gian của cõi tiên

- Thấy được sự đối lập của sầu và mộng.


Bên cạnh sự đối là sự bù đắp. Những gì
nhân vật chính không nhìn thấy ở cõi sầu
thì có sự bù đắp ở cõi mộng
Sầu về sự cô đơn - Sầu về sự cô đơn
sự thiếu vắng sự tri (nghiên lúc canh ba
kỷ nằm 1 mình …)

- Nỗi sầu của tự - Ngâm thơ cho trời


tàn mộng: kết thúc và chị tiên được các
tác giả vẫn muốn chị tiên tán thưởng
sống trong cõi => sầu của thân thế
mộng sự nghiệp (văn
chương hạ giới rẻ
như bèo)

- ngày cả khi lên


cõi trời nhưng cãi
sầu của các giả vẫn
còn => thở than với
trời, buồn vã về sự
nghiệp in hằn lên
trên lời nói của tác
giả

- “Sức … học ngày


càng kém tuổi càng
cao …” => cái sầu
của sự ngắn gủi

- Kết thúc bài thơ là


sự li biệt … (về
trần ai…) => nỗi
sầu của tự tàn mộng
nhớ mộng

=> Nỗi sầu của bài


hầu trởi có nhiều
cung bậc, phong
phú hơn

Mộng trong 2 bài

Muốn làm thằng cuội Hầu trời

- Mộng tìm được - Tìm được tri kỉ, gia


người đẹp tri kỉ => nhân, vẫn là phong
tản đà hiện lên như 1 tình ngông nghênh
ng phong tình, ngông => nhưng ở đây
nghênh phong tình, ngông
nghênh đẩy lên mức
cao nhất (xung
quanh tản đà không
chỉ có chị hằng mà
có nhiều nàng tiên)

- Mượn lời của trời


tự khen thơ văn của
mình (trời nghe …
hay), tự đắc… tự
khen ngợi tán tụng
rất công khai

- Chất tự mê: tự phân


thân để chiêm
ngưỡng say mê tán
thưởng bản thân
(đậm nét hơn hẳn so
với Muốn làm thằng
cuội)

- Thân thế sự nghiệp:


trong giấc mộng TĐ
tự xem mình là trích
tiên có sứ mệnh thiên
lương, được trời giao
phó.

- Giấc mộng rất đẹp


trong tác phẩm

- So với muốn làm


thằng cuội giấc
mộng TĐ trở nên
thông minh hơn,
phong phú hơn.

- Đối với TĐ sầu và mộng tỉ lệ thuận với nhau. Sầu càng chất chứa thì mộng càng thêm tha
thiết lãng mạn bay bỗng…

TỐNG BIỆT

Lá vàng rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi !


Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi !

Đá mòn,rêu nhạt

Nước chảy, huê trôi

Cái hạc bay vút lên tận Giời !

Giời đất từ đây xa cách mãi.

Cửa động

Đầu non,

Đường lối cũ

Nghìn năm thơ thẩn bóng giăng chơi.

- “Tống biệt” là nỗi đau chia ly của cặp tình nhân nhưng đọc bài thơ lại cảm nhận rằng nỗi
buồn đau đớn nhất trong đang đè nặng trong lòng hai nàng tiên nữ. Nói như vậy không có
nghĩa là hai chàng Lưu, Nguyễn không buồn, không lưu luyến, bên cạnh nỗi buồn đó hai
chàng còn mang một tâm trạng khác đó là cái háo hức, rộn ràng của người sắp được trở về cố
hương có lẽ điều đó sẽ chen lấn sẽ vượt lên nỗi buồn của sự chia ly. Như vậy trong lòng
người đi giữa nỗi buồn đã có niềm an ủi của một chân trời mới bù đắp phần nào. Còn người ở
lại thì sao? Hai nàng hiểu rõ rằng đã đi là không có ngày quay trở lại, vì vậy một nỗi buồn, sự
trống vắng, nhớ nhung, sự mất mát không gì thay thế nổi:
“Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, luống ngậm ngùi”

Hai câu đầu mở ra cảnh chia ly, cảnh thần tiên đấy nhưng lại bao phủ tâm trạng buồn bã,
ngậm ngùi. Đào là loài cây ở trên tiên giới tượng trưng cho sự trường sinh. Thế mà hình ảnh
lá đào rơi, rắc khắp lối Thiên Thai đã nhuốm màu chia ly, sầu muộn.“Suối tiễn”, “oanh đưa”
hai hình ảnh được nhân cách hóa, vẽ ra trước mắt người đọc cảnh hai chàng Lưu, Nguyễn
quay lưng từ trên đỉnh Thiên Thai bước theo dòng suối xuống cõi trần để hai tiên nữ bùi ngùi
đứng trông theo. “Tiễn” và “đưa” đã cho người đọc hiểu rằng sẽ không bao giờ gặp lại nhau
nữa. Chữ “luống” thường được hiểu theo nghĩa là “khiến” (khiến cho), nhưng cũng có nghĩa
là uổng công, mất công, vô ích. Theo tôi hiểu theo nghĩa thử hai có lẽ sẽ hợp với toàn bài hơn
bởi hai chàng đi rồi còn mất công, vô ích ngậm ngùi làm gì điều đó càng thể hiện nỗi buồn
đang đè nặng trong lòng hai tiên nữ.

Một điều nữa theo ta thấy được cái tài diễn tả nỗi buồn của Tản Đà nằm ở nhịp điệu của
câu thơ. Câu thứ nhất với nhịp 3/1/3, chữ “rắc” được nhấn mạnh xuống như nỗi buồn đang
trĩu nặng trong lòng hai tiên nữ. Câu thứ 2 với nhịp 2/2/3 nỗi buồn như dàn trải, mênh mang
khắp cảnh vật. Ẩn trong nhịp điệu chậm buồn ấy vừa là sự níu kéo vừa là nỗi nhớ nhung của
người ở lại dành cho người ra đi.
“Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai”
Hai câu thơ ngắn với chữ dùng đối xứng rất hay vẽ ra lằn ranh giới giữa hai cõi Tiên và
Thực. Cái một bước chân thôi hai chàng sẽ xa rời mãi mãi để bước xuống cõi trần, dù biết
rằng cõi trần là bể khổ. Nửa năm trên tiên cảnh không thể níu kéo được bước chân về cõi trần
của hai chàng. Dường như với hai nàng nửa năm ấy nó thật ngắn ngủi làm sao, câu thơ diễn
tả nỗi bàng hoàng của người thấy được cuộc vui qua mau như giấc mộng. Hai câu thơ bốn
chữ được ngắt nhịp 2/2 như lời kể thủ thỉ như tiếng nấc, tiếng nghẹn ngào khẽ thổn thức.
“Ước cũ, duyên thừa có thế thôi”
Câu thơ như một tiếng thở dài, dấu phẩy được sử dụng thật tinh vi nó như bẻ câu thơ,
như sự giận dỗi rất người của hai tiên nữ. Những hẹn ước đã trở thành xưa cũ, người đi đâu
còn nhớ, tiên cũng tin vào những lời hẹn ước “lời nói gió bay” ấy sao ? Chữ “duyên thừa”
thật ngậm ngùi, gặp nhau đây là duyên nhưng chữ “thừa” nghe sao bi ai, tội nghiệp. Tiếng
thơ như trách móc, thở than nhưng đành cam chịu.
“Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi”
Chỉ qua bốn chữ được phân làm hai câu tác giả đã lôi kéo thời gian không biết là bao
nhiêu năm tháng vội lướt qua đỉnh Thiên Thai. Thời gian có sức tàn phá thật khốc liệt. Nó
làm cho đá phải mòn, rêu phủ kín huống chi lời hẹn ước của con người như gió thoảng qua.
Dòng thời gian trôi đi không níu giữ được cái đẹp bất tử. “Huê” chứ không phải là “hoa” bởi
từ “huê” với âm “uê” nghe sao thê lương, ảo não như ngân nga xoáy vào lòng người. Dấu
phẩy ở giữa câu thơ như muốn bẻ câu thơ làm đôi nhấn mạnh hơn sự chia ly mãi mãi.
“Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi”
“Cái hạc” sao đơn phương, lẻ bóng, “cái hạc” là hình ảnh của tiên nga, của sự vĩnh cửu,
người tình đã bỏ về với trần ai, để tiên nga vút bay hòa với sự vĩnh cửu, nhưng là sự vĩnh cửu
của sự cô đơn, câu thơ đầy sự ngậm ngùi, nuối tiếc. Chàng và nàng từ nay sẽ xa cách mãi
cũng như Trời và Đất không bao giờ gặp được nhau. Có lẽ đó cũng là cái lẽ thường tình của
tạo hóa, tiên nữ có thở than thì cũng đành phải chấp nhận. Câu thơ ngân dài như những tiếng
thở dài nào về.
“Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ.”
Một câu thơ bảy chữ nhưng được ngắt lắm ba hàng, nhịp ngắt quăng tựa như bước chân
nàng ngập ngừng quay về đường xưa, lối cũ, ngậm ngùi nhìn lại nơi chốn đã mang dấu tích
chàng khi xưa, có biết bao kỉ niệm nơi này, các nàng sống ở nơi bất tử hạnh phúc mà đâu có
hạnh phúc.
“Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi”
Có bao nhiêu ý nghĩa trong thơ ca cho một chữ “trăng”, trăng là mộng mơ là ảo hóa là
dịu dàng, là xa xôi… Nhưng ở đây tác giả sử dụng với hình ảnh là “bóng trăng” nó lại càng
bất định mơ hồ, trăng đây không soi, không ngời sáng, cũng không âm u, lạnh lẽo nhưng ánh
trăng lại thật cô đơn, lẻ bóng. “Nghìn năm” là khoảng thời gian cụ thể hay tượng trưng nhưng
nó thật là dài các nàng mãi mãi ngóng chờ, đau đáu với nỗi đau của riêng mình. Chữ “chơi”
cho thấy hết được tài năng của Tản Đà. Bởi chữ “chơi” như là nhăn tự kết thúc bài thơ nhưng
lại mở ra cả bầu trời với mênh mang là sự nhớ thương, cô đơn, trống trải. Bóng trăng mơ hồ,
huyền hoặc, thơ thẩn chơi vơi nghìn năm quanh đầu non lối cũ như kiếm tìm, như đợi mong
mà vẫn biết thời gian không bao giờ trở lại.

THỀ NON NƯỚC

Nước non nặng một nhời thề


Nước đi đi mãi không về cùng non

Nhớ nhời nguyện nước thề non

Nước đi chưa lại non còn đứng không

Non cao những ngóng cùng trông

Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày

Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương

Giời tây chiếu bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha

Non cao tuổi vẫn chưa già

Non thời nhớ nước, nước mà quên non!

Dẫu rằng sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa

Non xanh đã biết hay chưa?

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non chớ có buồn làm chi!

Nước kia dù hãy còn đi

Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước không nguôi nhời thề

Ngoài những chi tiết nghệ thuật vịnh bức cổ hoạ, bài thơ Thề non nước còn ca ngợi một mối
tình chung thuỷ sắt son của đôi lứa, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín sâu nặng.
Hình ảnh bức tranh sơn thuỷ. Nói là bức tranh sơn thuỷ nhưng không có “thuỷ” vì “Nước đi
đi mãi không về cùng non”. Chỉ có núi, một dãy “Non cao những ngóng cùng trông”. Có cây
mai già trụi lá trơ cành (xương mai). Có sương tuyết và mây phủ dày trên đỉnh núi. Có ngàn
dâu xanh tốt dưới chân núi gợi màu tang thương biến đổi. Bao phủ toàn bức tranh là màu
vàng tà dương:
Trời tây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.


Có thể nói, đó là một bức tranh cổ rất đẹp mà buồn, thấm đượm cái tình thương nhớ, tang
thương.
Nước non nặng một lời thề. Cũng như thuyền và bến, trong bài thơ này “non” và “nước” là
hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lứa đôi, cho trai và gái, cho giai nhân và người tình chung.
Lứa đôi, non và nước đã yêu nhau, đã thề nguyền, đã “nặng lời thề”. Lời thề sâu nặng và sắt
son, bền vững như non như nước. Cảnh ngộ thật éo le và đáng thương. Lứa đôi đang trải qua
những năm dài li biệt “Nước đi chưa lại, non còn đứng không”. Khi ngắm nhìn bức tranh, du
khách đã cảm động nói: “núi tương tư”.
Sau những năm dài đợi chờ, thương nhớ và đau buồn, giai nhân (non) đã trở thành nàng cô
phụ “non còn đứng không”. Khóc than thảm thiết, bao nhiêu nước mắt đã khô cạn: “Suối khô
dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Thân hình tiều tuỵ đáng thương như một gốc mai già trụi lá
trơ cành: “Xương mai một nắm hao gầy”. Mái tóc xanh mềm mại như mây ngày nào, nay đã
bạc trắng: “Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương”. Tình lang đi mãi chưa về, giai nhân tuổi
mỗi năm một cao, đã chiều tà ngả bóng, nhan sắc phai tàn. Còn đâu nữa “vẻ ngọc” và “nét
vừng” thời con gái xa xưa: “Trời tây ngả bóng tà dương - Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi
pha”.
Chẳng cần xem bức hoạ mà chỉ đọc vài câu thơ cũng thấy như hiện ra trước mắt chúng ta một
cái “núi tương tư” vậy:
Non cao những ngóng cùng trông,

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.

Xương mai một nắm hao gầy,

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời tây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.

Càng tương tư càng tủi hờn: “Non còn nhớ nước, nước mà quên non”. Nhưng nàng cô phụ
vẫn đinh ninh lời thề:
Dù cho sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thể xưa.

“Dù... hãy...” niềm tin được khẳng định. “Sông cạn đá mòn” là một thành ngữ, nêu lên một
giả định không bao giờ có thể xảy ra. Và cho dù có xảy ra trong muôn một, thì giai nhân vẫn
son sắt thuỷ chung “hãy còn thề xưa”. Ba chữ “còn” được láy lại trong vần thơ đã thể hiện
sâu sắc, cảm động mối tinh son sắt, thuỷ chung, bền đẹp của nàng cô phụ.
Nước đã đi xa, tình lang đã đi xa, chỉ còn lại tiếng đồng vọng trong không gian và thời gian li
biệt. Hẹn ngày trở lại, hẹn ngày tái ngộ, hội ngộ của lứa đôi. Chia sẻ nỗi buồn, an ủi tình
nhân:
Non cao đã biết hay chưa?

Nước đi ra biển lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn,

Bảo cho non chớ có buồn làm chi.


“Ngàn dâu xanh tốt” như một chứng tích của thời gian, như một nỗi tang thương đã biến đổi,
và còn lại như một kỉ vật, vì thế “non thì cứ vui”.
Hai câu kết như sự chung đúc một lời thề, Thề non nước:
Nghìn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước, không nguôi lời thề.

Đã có lời “thệ hải minh sơn” trong tình sử. Đã có “đám cưới bạc”. Cũng có “đám cưới
vàng”... Đời người hữu hạn trăm năm. Nhưng lời thề của “non” và “nước” là lời thề “nghìn
năm” kết đôi, thuỷ chung bền vững. Đó là một lời thề sâu nặng, bền đẹp đến muôn đời.
Nghệ thuật sử dụng biện pháp “phân - hợp” ngôn ngữ của Tản Đà rất điêu luyện để gợi tả và
biểu cảm thần tình. “Ngóng trông” được viết thành “những ngóng cùng trông” diễn tả cái
dằng dặc của sự đợi chờ, trông ngóng. Trong li biệt, hình ảnh “non” và “nước” nằm ở hai
phía không gian - đầu, cuối câu thơ: “Nước đi, đi mãi không về cùng non”. Trong cảnh sum
họp, hội ngộ của lứa đôi thì non và nước sẽ thành non non nước nước gắn bó keo sơn, bền
vững, lời thề chẳng bao giờ “nguôi”, chẳng bao giờ “quên” được!
Tóm lại, lời thề của non và nước được nói đến một cách thắm thiết, thuỷ chung và cảm động.
Trong bài thơ Thề non nước, hai chữ “non” và “nước” xuất hiện ở tần số rất cao: 27 lần, lúc
thì nước nhớ non, lúc thì non nhắn nước, lúc thì non non nước nước... Một giọng thơ thiết
tha, có không ít câu thơ để lại nhiều ám ảnh:
Nước đi đi mãi, không về cùng non...

Nước đi chưa lại, non còn đứng không,

Non cao những ngóng cùng trông,

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày...

Non còn nhớ nước, nước mà quên non...

Sắc điệu trữ tình dào dạt trong những vẫn thơ nói về sự thương nhớ, chờ mong. Chờ người
yêu nặng lời thề, xa vắng. Nhớ hồn nước bơ vơ.
XUÂN DIỆU (1916 - 1985)
VỘI VÀNG
Tặng Vũ Đình Liên

Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần trăng mật;


Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,


Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

GIỤC GIÃ
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! thời gian không đứng đợi.
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.

Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;


Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.
Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,
Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.

Vì chút mây đi, theo làn vút gió.


Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi?
Sớm nay sương xê xích cả chân trời,
Giục hồng nhạn thiên đi về cõi Bắc.
Ai nói trước lòng anh không phản trắc;
Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ?
- Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ,
Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lói;
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm,
Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự.
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…
● So sánh quan niệm thời gian trong Vội vàng và Giục giã:
- Hình ảnh thiên nhiên:

Vội vàng Giục giã

- Thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, căng tràn sức - Thiên nhiên rướm vị phôi phai:
sống: “Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.
“Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ”
Này đây hoa của đồng nội xanh rì; “Vì chút mây đi, theo làn vút gió.
Này đây lá của cành tơ phơ phất; Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi?
Của yến anh này đây khúc tình si. Sớm nay sương xê xích cả chân trời,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Giục hồng nhạn thiên đi về cõi Bắc.”
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
=> thiên nhiên mùa xuân được nhìn dưới lăng kính
ái tình, vạn vật đều đi thành đôi, thể hiện tình lứa đôi
khăng khít, sâu đậm

- Lời kêu gọi của thi sĩ:


Vội vàng Giục giã

- Thể hiện qua ham muốn chiếm giữ, điều khiển cả - Lời giục giã mãnh liệt:
thiên nhiên: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
“Tôi muốn tắt nắng đi Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Cho màu đừng nhạt mất; => gấp gáp, cuống quýt
Tôi muốn buộc gió lại - Nhìn vạn vật đều rớm vị chia phôi:
Cho hương đừng bay đi” Mau với chứ! thời gian không đứng đợi.
=> ước mơ giữ lại hương sắc của cuộc đời, không để Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
phai nhạt bớt; thể hiện tình yêu, sự trân trọng vẻ đẹp Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.
của cuộc sống Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
- Quan niệm thời gian: Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài;
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;
Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.
=> quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian một
khi đã chảy trôi sẽ không bao giờ quay lại được; Vì chút mây đi, theo làn vút gió.
lấy một đoạn sinh mệnh cá thể ngắn ngủi (tuổi Biết thế nào mà chậm rãi, em ơi?
trẻ) để đo đếm thời gian Sớm nay sương xê xích cả chân trời,
// HXH đã ý thức được thời gian hữu hạn của đời Giục hồng nhạn thiên đi về cõi Bắc.
người trước cái vô hạn của vũ trụ: “Ngán nỗi xuân Ai nói trước lòng anh không phản trắc;
đi xuân lại lại” Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ?”
XD đã hiện đại hơn, phát triển quan niệm này thoát => ý thức sâu sắc hơn sự đổi thay của vạn vật và của
ra khỏi vòng vũ trụ quan của người trung đại cả con người; vậy nên muốn thúc giục con người hãy
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, sống trọn vẹn, sống cuống quýt, vội vàng với những
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; phút giây ở hiện tại
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Cảm nhận được tâm trạng phấp phỏng, âu lo, hồi hộp
NT: cảm quan tương ứng đặc trưng của Thơ tượng trước sự tan biến nhanh chóng của mọi vẻ đẹp
trưng - Lời thúc giục của nhà thơ:
+ cảm nhận của khứu giác: “mùi tháng năm” - Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ,
+ cảm nhận của vị giác: “vị chia phôi” Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lói;
=> hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ: giọt lệ chia => muốn giữ lại những phần tươi tắn, đẹp đẽ nhất
phôi. Dường như thời gian đang chia tay với con Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
người, chia tay với không gian và cả chính dòng thời Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
gian, vĩnh viễn ra đi => quan niệm mới mẻ, táo bạo
=> tâm trạng đau đớn của thi nhân khi thấy thời Em vui đi, răng nở ánh trăng rằm,
gian, đặc biệt là thời gian ngày xuân chảy trôi. Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự.
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt... NT: cảm nhận tương giao (thơ tượng trưng)
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, + răng -> ánh trăng rằm
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? => nụ cười trong sáng, đẹp đẽ
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, + hút nhụy - giờ tình tự
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? => ham hố phần tinh túy nhất của thiên nhiên
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa… - Cuối bài: lặp lại hai dòng thơ đầu
- Tuyên ngôn bằng hành động: => nhấn mạnh sự giục giã
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
=> cái tôi đầy ham hố, đứng giữa đất trời để ôm hết
những vẻ đẹp thanh sắc tươi đẹp của thiên nhiên
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
=> cuồng si trước vẻ đẹp “thời tươi” của thiên nhiên
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
NT: câu thơ tổ chức theo điệu nói (đặc trưng của thơ
Mới)
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
=> say sưa hưởng thụ thanh sắc của thiên nhiên
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
=> cụ thể hóa tình yêu cuộc sống, ham hố và say mê
cuộc sống
// XD không cảm nhận thời gian bốn mùa, mà chia
thiên nhiên thành 2 thì: thời tươi và thời phai
=> cảm nhận thiên nhiên trong sự trôi chảy vô thủy
vô chung của nó; thiên nhiên chỉ đẹp khi ở trong
“thời tươi”
=> quan niệm thẩm mĩ mới mẻ: xuân gắn với tuổi
trẻ, gắn với sự tươi tắn

ĐÂY MÙA THU TỚI


- Mùa thu trong cảm nhận của Xuân Diệu: mùa của
phôi pha, mùa của lụi tàn, nhưng vẫn mang những
nét đẹp riêng
- Nhan đề: nhấn mạnh vào bước chuyển mình của
thời gian
=> XD nhìn cuộc sống theo chuyển động của thời
gian, nhấn mạnh vào thời khắc giao mùa, khi nàng
Thu đến và dần dần xâm chiếm không gian và lòng
người -> bức tranh nghiêng về thời gian, nghiêng về
tính động
Tặng Nhất Linh

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, - Hình ảnh rặng liễu nhuộm bóng dáng của con người
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; (“đìu hiu”, “chịu tang”); những dải liễu buông xuống
Đây mùa thu tới, mùa thu tới như những giọt lệ
Với áo mơ phai dệt lá vàng. => không gian nhuốm nỗi buồn
- Ngỡ ngàng: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”
- Cảm nhận thiên nhiên đến trong hình dáng con
người: nắng và lá đã dệt thành tấm áo cho nàng thu
đến với nhân gian
=> Vẻ đẹp thiên nhiên được quy chiếu bằng vẻ đẹp
của những giai nhân
NT:
+ câu thơ giàu tính nhạc (gieo vần -iêu, -iu, -ang, -
uôn, - uông)
=> tạo hình cho câu thơ, giúp người đọc hình dung
hình ảnh rặng liễu như sà xuống, trĩu xuống, tưởng
chừng như không mang nổi tâm trạng mình
+ ngắt nhịp 4/3 (Đây mùa thu tới/ mùa thu tới)
=> mô phỏng tiếng kêu ngỡ ngàng của thi nhân

- Cảm nhận sự biến chuyển trong cảnh vật một cách


Hơn một loài hoa đã rụng cành tinh vi; sự vật nhìn trong thế tàn phai: “Hơn một loài
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; hoa đã rụng cành”
Những luồng run rẩy rung rinh lá... - “Sắc đỏ rũa màu xanh”: sự phôi pha đang diễn ra
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. trong từng thớ lá; mùa hạ và mùa thu đang tranh chấp
nhau ngay trong màu lá; cuối cùng, sắc đỏ của mùa
thu đã xâm chiếm đến sắc xanh của lá
- Diễn tả cám giác của cảnh vật trước những cơn gió
heo may: “luồng run rẩy”
NT: chất nhạc (bốn chữ “r” trong một dòng thơ

- Không gian mùa thu và nhất là cảm giác khi sang


thu đã xâm chiếm đến cả “nàng trăng”
- Khung cảnh dần trở nên thanh vắng, đìu hiu

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ... - Quy luật thiên nhiên: mùa thu mây nhẹ hơn, mỏng
Non xa khởi sự nhạt sương mờ... mảnh hơn; đàn chim về phương Nam tránh rét
Đã nghe rét mướt luồn trong gió... => dưới lăng kính ái tình của XD, dường như cảnh
Đã vắng người sang những chuyến đò... vật đang ngập tràn nỗi buồn vì phải chia ly khi mùa
thu tới
Mây vẩn từng không, chim bay đi, - Nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn con người (qua tâm
Khí trời u uất hận chia ly. hồn người thiếu nữ)
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói => mùa thu đã hoàn toàn xâm chiếm không gian và
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì. cả lòng người

XUÂN KHÔNG MÙA


Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Mùa xuân không còn là thời gian của tự nhiên mà trở
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu thành thời gian của lòng người: “Xuân đã sẵn trong
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. lòng tôi lai láng”. Xuân đến trong mọi thời khắc,
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng. “không chỉ ở mùa xuân ba tháng” mà tồn tại trong
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng; mọi khoảnh khắc dù là hạ, thu, đông. Con người thấy
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ, xuân về khi “mỗi khi tình lại hứa”
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ; => quan niệm mùa xuân gắn với tình yêu. Đó là
Xuân là lúc gió về không định trước. không gian tình tự của lứa đôi, là khoảng thời gian
Đông đang lạnh bỗng một hôm trở ngược, tình yêu ở độ nồng nhiệt, say mê nhất: “Tình không
Mây bay đi để hở một khung trời tuổi và xuân không ngày tháng”
Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi, => Một quan niệm mới lạ, hiện đại về mùa xuân và
Như được nắm một bàn tay son trẻ... tình yêu: gắn khái niệm xuân với tuổi trẻ, tình yêu

Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé;


Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa;
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa
Lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng.
Nếu lá úa trên cành bàng không rụng,
Mà hoa thưa ửng máu quá ngày thường;
Nếu vườn nào cây nhãn bỗng ra hương,
Là xuân đó. Tôi đợi chờ chi nữa?

Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa,


Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta
Khi những em gặp gỡ giữa đường qua
Ngừng mắt lại, để trao cười, bỡ ngỡ.
Ấy là máu báo tin lòng sắp nở
Thêm một phen, tuy đã mấy lần tàn.
Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian
Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ?
Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay...
Ấy là thư hồi hộp đón trong tay;
Ấy dư âm giọng nói đã lâu ngày
Một sớm tim bỗng dịu dàng đồng vọng...
Miễn trời sáng, mà lòng ta dợn sóng,
Thế là xuân. Hà tất đủ chim, hoa?
Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa,
Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng.

THƠ DUYÊN
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên, - Cuộc giao duyên của cảnh vật
Cây me ríu rít cặp chim chuyền. + nhìn sự vật trong cảm quan ái ân, tình tự, có đôi có
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá, cặp
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền. + “ríu rít”: lời tình tự của vạn vật
+ “tiếng huyền”: không phải âm thanh cụ thể, mà là
tiếng lòng rung động của vạn vật trong một không
gian tình tự
=> 4 câu đầu vẽ ra một khu vườn tình ái rộn rã âm
thanh, vạn vật quấn quít, giao hòa
=> “chiều mộng”: buổi chiều đẹp như mộng/ buổi
chiều trong cõi mộng

- Không gian tình tự của con người:


Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu, + từ láy tiếng “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”
Lả lả cành hoang nắng trở chiều. => diễn tả sống động những chuyển động tinh vi của
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn, cảnh vật: con đường đang cố thu mình lại thật duyên
Lần đầu rung động nỗi thương yêu. dáng để sánh đôi cùng gió; gió “xiêu xiêu” như đang
say trong men ái tình; cành hoang lả mình vào nắng,
nhưng nắng “trở chiều”, dường như đang gượng né
tránh
=> cảnh vật đắm mình trong men say tình ái
- Cảm xúc của con người: “lần đầu rung động nỗi
thương yêu”
=> cảm xúc bâng khuâng, rung động của một chàng
trai lần đầu biết yêu

- Sự thay đổi xưng hô: “ta” - “bạn” -> “anh” - “em”


- Thái độ của nhân vật trữ tình:
+ em bước “điềm nhiên” không vướng chân: cô gái
còn dửng dưng, không bận lòng
+ anh đi “lững thững”: thả bước với thái độ hờ hững
Em bước điềm nhiên không vướng chân, => hành động, thái độ dường như “vô tâm”, nhưng
Anh đi lững đững chẳng theo gần. thực chất lại là sự “hữu ý”
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu, - Hai người đang đi giữa một bài thơ, đi giữa cuộc
Anh với em như một cặp vần. hòa thơ. Ở đó, anh với em “như một cặp vần”
=> cách liên tưởng độc đáo, gợi sự khăng khít,
không thể tách rời; đồng thời thể hiện sự duyên
dáng; cuộc tình duyên hiện lên đậm chất trữ tình.
Trời đất đã hoàn thành xong cuộc se duyên, buộc hai
người “vô tâm” vào thành “một cặp vần”

- Thiên nhiên của sự ly tán, chia rời


+ “mây biếc” - “con cò”: cảnh vật ly tán: đám mây
vội vàng bay về phương xa, chỉ trơ lại con cò đứng
phân vân trên ruộng
+ “gấp gấp”: sự vội vàng, cuống quít trong tâm hồn
con người; “phân vân”: sự do dự trong cảm nghĩ của
con người
=> bức tranh động, diễn tả những suy tư, trăn trở
trong lòng người
// Từ con cò của Vương Bột (Lạc hà dữ cô lộ tề phi/
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc) lặng lẽ bay với
Mây biếc về đâu bay gấp gấp, ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà
Con cò trên ruộng cánh phân vân. cánh phân vân có sự cách biệt của hơn một ngàn
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh, năm và của hai thế giới (Hoài Thanh) => đó là 2
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần. thế giới nghệ thuật: thơ Đường (tĩnh, con cò hòa
vào cùng ráng chiều) >< ảnh hưởng của thơ tượng
trưng (động)
+ chim, hoa dường như cũng đang chìm trong không
gian mênh mông vô tận, lạnh lẽo của cảnh vật
=> tâm tư, cảm hứng của Xuân Diệu có sự chuyển
dời từ “mảnh vườn tình ái” đến “hoang mạc cô liêu”,
từ “chiều mộng” đến “chiều thưa”
=> cái tôi cô đơn, giàu khát khao giao cảm với cuộc
đời của thi nhân

- Trong sự êm ái, bình lặng của buổi thu, một sự gắn


kết, giao duyên đã diễn ra
- “Cưới lòng”: một sự đính ước ngầm, một cuộc hôn
nhân tế nhị của hai tâm hồn
- “Thôi”: sự đã rồi, bất ngờ, không thể suy chuyển
được
=> cách nói ý nhị, duyên dáng

Ai hay tuy lặng bước thu êm,


Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.

NGUYỆT CẦM
Nhan đề “Nguyệt cầm” hiện lên trong cách hiểu của
Xuân Diệu là 1 sự giao thoa đầy lý thú:
- Tên một loại nhạc cụ
- Cuộc giao duyên trăng - đàn
- Một bản nhạc
- Tiếng đàn trong đêm trăng
=> mối giao duyên về ngữ âm: hai tiếng đều là hai âm
Hán Việt, trầm, đục -> “cất giữ sâu trong ngữ âm của
mình một thế giới huyền bí”
Giao duyên về ngữ nghĩa: khởi duyên cho một thế
giới làm bằng ánh sáng và âm thanh

- Sự ra đời huyễn hoặc của cây đàn nguyệt và cách cất


tiếng của nó:
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh, + cây đàn bắt đầu sinh mệnh của mình từ khi trăng
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần. “nhập” vào dây cung đàn
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm! Nghĩa đen: có nguyệt (trăng) nhập vào “cung” đàn ->
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân. “nguyệt cầm”
Nghĩa bóng: như 1 sự nhập hồn, mang tính linh thiêng
=> chiếc đàn đã làm xong phần thể xác, đợi trăng
“nhập” vào mới hoàn thiện linh hồn. Sau khi trăng
nhập vào đàn, trăng và đàn đã đồng thể
+ “cung” : vừa là cung trăng, vừa là cung đàn; như 1
cầu nối giữa hai thực thể
=> hai hình ảnh có sự giao thoa, tương ứng của bút
pháp thơ tượng trưng
NT: âm thanh: ba thanh trắc là dấu nặng => mở đầu
cho cả gam lạnh bao trùm lên bài thơ
=> Câu thơ đầu đã mở ra thế giới huyền diệu của
nguyệt cầm
- Âm thanh của tiếng đàn:
NT: thủ pháp trùng điệp, đối
+ diễn tả các cung bậc khác nhau của âm thanh và ánh
sáng
+ ngắt nhịp: mỗi câu cắt thành ba vế
=> hai câu thơ như hai chuỗi âm thanh nối tiếp nhau.
Âm thanh - ánh sáng có sự đan xen, giao thoa với
nhau
+ cách tổ chức câu thơ: 2 câu thơ có sự đối xứng với
nhau, gợi nghĩ đến nguyên tắc chồng âm trong âm
nhạc
=> giao thoa giữa âm nhạc và ngôn ngữ
- Mỗi âm thanh, ánh sáng hiện hình thành một “giọt”
+ “giọt”: tượng hình của âm thanh và ánh sáng
+ “rơi tàn”: giọt âm thanh biến thành giọt ánh sáng
=> giọt âm thanh thoát ra từ dây đàn, bay trong sáng
sáng, rồi rơi tàn trong không gian
=> giọt đàn cũng là giọt trăng
+ “như lệ ngân”
=> liên tưởng 3 hình ảnh: giọt trăng - giọt đàn - giọt lệ
=> giọt lệ ngân trong mắt những kiếp cầm ca tài hoa
bạc phận
+ “ngân”:
* danh từ: bạc
* động từ: ngân nga
=> giao thoa giữa âm thanh và ánh sáng

- Không gian: cao, rộng đến rợn ngợp


- Giao thoa ánh sáng - xúc giác: ánh sáng trắng đến
rợn ngợp khiến con người ớn lạnh
- Nguyên nhân: nương tử “đã chết đêm rằm theo nước
xanh”

- Không gian mùa thu gợi nỗi buồn, sự lạnh lẽo; ánh
Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh; sáng của trăng rợn ngợp càng khiến con người thấy
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình lạnh lẽo
Vì nghe nương tử trong câu hát - So sánh độc đáo: Tiếng đàn như dòng nước tạo cảm
Đã chết đêm rằm theo nước xanh. giác lạnh lẽo; tiếng đàn giao thoa với ánh trăng “tỏ
ngời” trong đêm thu lạnh lẽo càng nhấn mạnh đến cái
lạnh ghê người trong không gian
=> giao thoa thị giác và xúc giác
- Hai câu cuối:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời, + 2 câu ngắt nhịp 4/3 tạo sự đối xứng nhưng chỉ mang
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi... tính tương đối
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận: + giao thoa âm thanh - ánh sáng: tiếng sỏi vừa long
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người... lanh vừa vang vang tiếng hận; sỏi là ánh sáng của
trăng đọng lại long lanh,...
+ âm thanh và ánh sáng khiến cảnh và người tương tư
lẫn nhau
=> không gian được thu hẹp nhưng nỗi buồn lại trải ra
mênh mông

- Giao thoa thính giác - thị giác: ánh nhạc, biển pha lê
- Cái tôi cô đơn tuyệt đối: “đảo hồn”, cảm giác “rợn
bốn bề”
- Giao thoa giữa thính giác - thị giác: sương bạc làm
thinh, khuya nín thở
=> không gian như ngưng đọng, không trôi chảy được
- Giao thoa thính giác - cảm giác: nghe nhạc thấy sầu.

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.


Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
NGUYỄN BÍNH (1918 - 1966)
MƯA XUÂN
Em là con gái trong khung cửi - Giới thiệu về nhân vật “em”:
Dệt lụa quanh năm với mẹ già. + “con gái trong khung cửi”: cuộc sống êm đềm, trong
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng, khuôn khổ truyền thốn
Mẹ già chưa bán chợ làng xa. + tâm hồn trong sáng “như cây lụa trắng”
+ “mẹ già chưa bán”: chưa gả chồng

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay, Kết cấu: vòng lặp, tương phản
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy. - Mở đầu:
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ, + khung cảnh thiên nhiên: mưa xuân “phơi phới bay”,
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay. hoa xoan rụng “vơi đầy”
=> tâm trạng phơi phới những xúc cảm yêu đương của
Lòng thấy giăng tơ một mối tình. người con gái
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh. + “lòng thấy giăng tơ một mối tình”: diễn tả cảm xúc
Hình như hai má em bừng đỏ, yêu đương rất nhẹ nhàng, tinh tế, đằm thắm
Có lẽ là em nghĩ đến anh. + tâm trạng háo hức, khấp khởi vui mừng chờ đợi
người yêu: “xin phép mẹ vội vàng đi”, “mải tìm anh
Bốn bên hàng xóm đã lên đèn, chả thiết xem”
Em ngửa bàn tay trước mái hiên. - Biến cố: “Chờ mãi anh sang anh chả sang”
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh, => người con trai thất hẹn, để lại cô gái với “mùa
Thế nào anh ấy chẳng sang xem. xuân cũng bẽ bàng”
- Kết thúc:
Em xin phép mẹ vội vàng đi, + “mình em lầm lũi trên đường về”: sự tủi hổ, buồn
Mẹ bảo: xem về kể mẹ nghe. bã, cô độc
Mưa nhỏ nên em không ướt áo, + “Có ngắn gì đâu một dải đê” >< “Thôn Đoài cách có
Thôn Đoài cách có một thôi đê. một thôi đê”
=> không gian tâm lí: con đường như dài ra cùng nỗi
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm, buồn của người con gái
Em mải tìm anh chả thiết xem. + “lạnh lùng em tủi với đêm khuya”: con người cô độc
Chắc hẳn đêm nay đường cửi lạnh, với thiên nhiên
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em. => càng nhấn mạnh nỗi cô đơn
+ khung cảnh có sự đối lập: “mưa xuân đã ngại bay”,
Chờ mãi anh sang anh chả sang, “hoa xoan dẫm nát dưới chân giày”
Thế mà hôm nọ hát bên làng. => diễn tả tâm trạng đối lập của người con gái: càng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn, háo hức bao nhiêu thì càng hụt hẫng, bẽ bàng bấy
Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng. nhiêu
+ “mùa xuân đã cạn ngày”: không chỉ tả thời gian tự
Mình em lầm lụi trên đường về, nhiên mà còn để diễn tả tình yêu đã phai cạn, khiến
Có ngắn gì đâu môt dải đê! người con gái tủi buồn.
Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt, => điệp ngữ vang lên như tiếng kêu đau đớn của
Lạnh lùng em tủi với đêm khuya. người con gái
- Sử dụng liên tiếp những câu hỏi tu từ
Em giận hờn anh cho đến sáng, => Gợi sự hy vọng, chờ mong vào những mùa xuân
Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì. tiếp theo, nhưng cũng mang dự cảm tuyệt vọng sẽ
“- Thưa u họ hát...” Rồi em thấy không có cái “bao giờ” ấy
Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi. => tâm trạng của con người lỡ dở

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay,


Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,
Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày!


Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ Hội Đặng đi ngang ngõ,
Để mẹ em rằng hát tối nay?

1936

CHÂN QUÊ

Hôm qua em đi tỉnh về, Chân quê được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn
Đợi em ở mãi con đê đầu làng. Bính
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng. - Tứ thơ: cô gái từ quê ra tỉnh, khi về đã “hương đồng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi! gió nội bay đi ít nhiều”
Nào đâu cái yếm lụa sồi? - Hình tượng thơ: một cuộc xâm lăng của đô thị đến
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? thôn quê được hình tượng hóa bằng hình ảnh cô gái quê
Nào đâu cái áo tứ thân? từ quê ra tỉnh
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? + con đê đầu làng: ranh giới giữa quê và phố; cảnh cửa
của hai không gian: đô thị và thôn quê/ không gian thể
Nói ra sợ mất lòng em, hiện tâm trạng ngóng trông, chờ đợi của chàng trai
Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa. + khăn nhung quần lĩnh rộn ràng: từ “rộn ràng” diễn tả
Như hôm em đi lễ chùa, tâm trạng háo hức của người con gái khi được khoác lên
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh. mình bộ quần áo thị thành
Hoa chanh nở giữa vườn chanh, khuy bấm: sản phẩm của văn minh phương Tây
Thầy u mình với chúng mình chân quê. + Bài thơ khép lại trong nỗi tiếc nuối bâng khuâng về sự
Hôm qua em đi tỉnh về, thực nhỡn tiền đang diễn ra trước mắt, ko thể đổi thay:
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít
nhiều à đau xót về sự phôi pha của chất đồng nội.
+ các câu hỏi bật ra thể hiện sự thảng thốt của chàng trai
khi thấy những dấu ấn truyền thống, chân quê dần bay
biến
+ “van em: sự van xin, van nài nhưng cũng thể hiện sự
tuyệt vọng, bất lực vì biết người con gái sẽ không thể
“giữ nguyên quê mùa”
+ hình ảnh “hoa chanh nở giữa vườn chanh”: hình ảnh
thiên nhiên dân dã, mộc mạc, thuần khiết
=> “thầy u mình với chúng mình chân quê”: mong
muốn cô gái hãy giữ nguyên những nét đẹp truyền
thống, chân quê, mộc mạc không lai tạp; thể hiện khát
vọng bảo lưu chất chân quê trong mỗi người
+ hai câu thơ cuối: đau xót sự xâm lăng của đô thi, đe
dọa làm phai nhạt đi sự thuần khiết của thôn quê
=> tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính, khẳng định
dấu ấn: nhà thơ chân quê, nhà thơ bảo lưu trọn vẹn chân
ảnh của thôn quê mang vẻ đẹp thuần phác, nguyên sơ,
chưa bị phai tạp, biến chất, đổi thay. Còn sự được sự
thuần phác ấy, NB còn sự tự hào, hân hoan. Mất đi sự
thuần phác ấy, NB trở nên sầu tủi

1936

TƯƠNG TƯ
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, - Cách mở đầu lấp lửng => nỗi nhớ dường
Một người chín nhớ mười mong một người. như không chỉ của con người mà còn là của
hai miền không gian
Gió mưa là bệnh của giời,
- Câu thơ thứ 2 sử dụng “giọng kể lể” đặc
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. trưng trong thơ NB + nhiều số từ => đẩy 2
Hai thôn chung lại một làng, nhân vật trữ tình về hai đầu câu thơ, khiến
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? nỗi nhớ càng trải dài mênh mang
Ngày qua ngày lại qua ngày, - So sánh “bệnh của giời” với “bệnh của tôi
yêu nàng”
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
=> nỗi tương tư khiến lòng người khổ sở;
Bảo rằng cách trở đò giang, chỉ người tình mới chữa được căn bệnh này
Không sang là chẳng đường sang đã đành. - Không gian thu hẹp lại “Hai thôn chung lại
Nhưng đây cách một đầu đình, một làng” - trách móc, đợi chờ: “Cớ sao bên
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi... ấy chẳng sang bên này”
=> mong muốn được gần gũi với người yêu
- Thời gian: “Ngày qua ngày lại qua ngày/
Tương tư thức mấy đêm rồi, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho! => thời gian kéo dài, triền miên; hai người
Bao giờ bến mới gặp đò? vẫn không đến được với nhau
=> đoạn thơ mang giọng kể lể, trách hờn của
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
người con trai
- Hình ảnh thơ đậm chất dân gian: bến, đò,
Nhà em có một giàn giầu, hoa khuê các, bướm giang hồ, giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng. hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, => câu thơ ý nhị, tinh tế
- Sử dụng các câu hỏi tu từ: “Bao giờ”,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? “nào”?
=> sự chờ đợi đã mang màu thất vọng vì
không được trọn vẹn tình yêu
=> con người lỡ dở
NT:
- Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh cặp đôi:
thôn Đoài - thôn Đông; một người - một
người; tôi - nàng, bên ấy - bên này; hoa
khuê các - bướm giang hồ, trầu - cau
=> các hình ảnh đậm màu sắc dân gian. Đặc
biệt, hình ảnh trầu - cau thể hiện quan niệm
tình yêu của NB: hướng về cái đích trọn vẹn
của tình yêu - hôn nhân, nhưng không thực
hiện được
- Lối thơ kể lể, giãi bày tâm trang
- Giọng điệu linh hoạt: khi hờn ghen, trách
móc, khi khao khát, rồi dần rơi vào thất
vọng

MÙA XUÂN XANH


Mùa xuân là cả một mùa xanh Bức tranh mùa xuân thôn quê
Giời ở trên cao, lá ở cành
- Đồng nhất mùa xuân với mùa xanh => gợi
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
màu sắc tươi tắn, mới mẻ tinh khôi, tràn đầy
Đồng nàng và lúa ở đồng anh. sức sống và hy vọng
- Giời ở trên cao lá ở cành: đẩy không gian
cao và xa
Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh
- Hình thức câu thơ vắt dòng: gợi cánh đồng
Tôi đợi người yêu đến tự tình
rộng lớn, không gian mênh mông, ngút tầm
Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy
mắt
Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.
- Câu thơ sóng đôi “cỏ nằm trên mộ” - “tôi”/
“đợi thanh minh” - “đợi người yêu đến tự
tình”
=> thiên nhiên và con người giao hòa, gắn
kết: cỏ đợi đến ngày hội lớn đầu năm; con
người đợi tình yêu
- “Cái thắt lưng xanh”: có thể là thắt lưng
của người yêu; màu xanh: gợi hy vọng về sự
khởi đầu của tình duyên

1937

NGƯỜI HÀNG XÓM

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, - “Dậu mồng tơi”: không gian ngăn cách
“nàng” và “tôi”
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn. - Hoàn cảnh: “sống giữa cô đơn”, “có nỗi
buồn giống tôi”
Hai người sống giữa cô đơn, => chàng trai cảm nhận được dường như cô
gái cũng mang nỗi tương tư giống mình
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
- “Giá đừng có giậu mồng tơi/ Thế nào tôi
Giá đừng có giậu mùng tơi, cũng sang chơi thăm nàng”: cái cớ che đợi
sự rụt rè, nhút nhát của chàng trai
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...


- Mượn giấc chiêm bao và hình tượng “con
Có con bướm trắng thường sang bên này. bướm trắng” để giãy bày nỗi băn khoăn về
cô gái
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây! - Cô gái dường như đang cất chứa mỗi nỗi
buồn sâu xa
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
Chả bao giờ thấy nàng cười,

Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên,

Mắt nàng đăm đắm trông lên...

Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi! - Con bướm như cầu nối đưa tin cho chàng
trai và cô gái
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi, - “Hay tôi yêu nàng” - lập tức phủ nhận
“Không, từ ân ái nhỡ nhàng” => lo lắng tình
Tôi buồn tự hỏi: “Hay tôi yêu nàng?” yêu bị hờ hững nên không dám thừa nhận
tình cảm của mình
- Không, từ ân ái nhỡ nhàng,

Tình tôi than lạnh gio tàn làm sao!

Tơ hong nàng chả cất vào,

Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.

Mấy hôm nay chẳng thấy nàng, “Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ
nàng”: câu thơ như câu văn xuôi, nhịp thơ
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong. dồn dập => cố gắng đè nén cảm xúc, khiến
“ân ái nhỡ nhàng”, nhưng con tim vẫn “nhớ
Cái gì như thể nhớ mong? bạn vàng ngày xưa”
=> mượn con bướm để gián tiếp thể hiện nỗi
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nhớ cô gái
nàng!

Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng,

Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.

Tầm tầm giời cứ đổ mưa,

Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.

Cô đơn buồn lại thêm buồn...

Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?

“Nhớ con bướm trắng”, Nhớ tơ vàng nữa,


nhưng không nhớ nàng”
Hôm nay mưa đã tạnh rồi! => lý trí phủ nhận nhưng trái tim vẫn da diết
nỗi nhớ cô gái
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang.

Bên hiên vẫn vắng bóng nàng,

Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng rưng...

Nhớ con bướm trắng lạ lùng!

Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng.

Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!

Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!

Đêm qua nàng đã chết rồi,

Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng.


- Tiếc nuối vì tình yêu chưa kịp nói ra nhưng
cô gái đã không còn nữa; lúc bấy giờ mới
dám thừa nhận “Quả tôi yêu nàng”
Hồn trinh còn ở trần gian?

Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!

TRUYỆN CỔ TÍCH

Em ạ! Ngày xưa vua nước Bướm Kể một câu chuyện cổ tích để thay lời tình
Kén nhân tài, mở Điệp lang khoa tự với người con gái
Vua không lấy Trạng, vua thề thế - “Nàng đẹp như em, chả nói điêu”, “Vườn
Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa. đầy hoa, trắng như em ấy”
=> lối tán tỉnh vừa hài hước lại vẫn duyên
Vua liền gọi gả con gái yêu dáng, ý nhị
Nàng đẹp như em, chả nói điêu! - “Chồng hóa thành anh, vợ hóa em”
Vua nuông hai vợ chồng phò mã => lời tỏ bày của chàng trai mong muốn
Cho nhởn xem hoa sớm lại chiều. được nên duyên vợ chồng với người con gái
- Mượn chuyện tình yêu để nói nên ước mơ
Một hôm hai vợ chồng quan Thám công danh: Nguyễn Bính sinh ra trong thời
Mê mải xem hoa lạc lối về kì Nho học đã hoàn toàn chấm dứt, song con
Vợ khóc: “Mình ơi! em hãi lắm!” người ông vẫn ôm giấc mộng công danh của
Trời chiều lạc lối tới vườn lê. các nho sĩ thời cũ
+ “kén nhân tài, mở Điệp lang khoa”: ước
Vườn đầy hoa, trắng như em ấy mơ công danh qua các kì thi
Bỗng một bà Tiên hiển hiện ra + chàng trai đỗ Thám hoa được vua gả con
Sao mà đẹp thế? Tiên mà lại! gái
Nữ Chúa Vườn Lê đi xem hoa. // Giấc mơ anh lái đò:
Tước đay xe võng nhuộm điều, ta đi.
Bà thấy vợ chồng con Bướm dại Tưng bừng vua mở khoa thi,
Sụt sùi ngồi khóc dưới hoa lê Tôi đỗ quan Trạng, vinh quy về làng.
Đến bên âu yếm, bà thương hại: Võng anh đi trước võng nàng...
“Ý hẳn hai con lạc chốn về? Cả hai chiếc võng cùng sang một đò

Đây về nước Bướm đường thì xa


Về tạm nhà ta ngủ với ta
Có đủ chăn thêu, cùng gối gấm
Có nhiều bánh trái ướp hương hoa...”

Đêm ấy chăn êm kề gối êm


Vợ chồng ăn bánh của bà Tiên
Ăn xong thoắt chốc liền thay lốt
Chồng hoá làm anh, vợ hoá em.
HÀN MẶC TỬ (1912 - 1940)
ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ? - Mở đầu bằng câu hỏi như lời mời của
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. người con gái với chàng trai
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc => thực chất: nỗi lo lắng, ám ảnh về việc sẽ
Lá trúc che ngang mặt chữ điền. không còn có cơ hội “về chơi thôn Vĩ”
- Thiên nhiên:
+ điệp từ “nắng”
+ tính từ + mức độ “quá” + so sánh “xanh
như ngọc”
+ hình ảnh “ngọc”: HMT thường sử dụng
hình ảnh những vật liệu cao sang, quý giá
trong thơ: vàng, gấm, lụa, ngọc
=> tuyệt đối hóa vẻ đẹp cao sáng của không
gian - gắn với niềm thiết tha với cuộc đời
đến tuyệt vọng => câu thơ nhuốm màu sắc
đau thương: cảnh vật càng đẹp, càng rực rỡ,
thi nhân lại càng đau đớn vì nó xa tầm tay
=> không gian thiên nhiên trong sáng, rực
rỡ, khoáng đạt
- Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ
điền”:
+ cách hiểu 1: mặt của người thôn Vĩ
+ cách hiểu 2: mặt của người về thôn vĩ =>
hình tượng cái tối của thi nhân
=> câu thơ mang mặc cảm chia lìa: con
người đứng ngoài cuộc sống, vị “khách
đường xa” giơ lá trúc che ngang mặt từ thế
giới trong này để nhìn ra thế giới ngoài kia
+ cách hiểu 3: khung cảnh khu vườn vuông
vức hình chữ điền ở thôn Vĩ
=> khổ thơ vẽ nên bức tranh cảnh thôn Vĩ
Dạ yên bình, trong sáng, rực rỡ (thế giới
ngoài kia) >< những lo lắng, mặc cảm của
thi nhân

Gió theo lối gió, mây đường mây, - 2 câu đầu: cách ngắt nhịp 4/3 + phép điệp
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay... => cảnh vật tan đàn, xơ xác, trơ trọi, chia ly
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, + “hoa bắp lay”: mây, gió, dòng nước đều
Có chở trăng về kịp tối nay? phân tán, chỉ có hoa bắp là tĩnh tại, không
thể chuyển dời
=> “lay” như một cách để níu giữ, lưu luyến
của kẻ bị bỏ lại
- Hình ảnh thuyền, trăng:
+ thuyền trăng, sông trăng: những hình ảnh
không có thực, chỉ tồn tại trong tâm tưởng
của nhà thơ
=> phương tiện để nhà thơ thể hiện niềm
yêu sống cùng nỗi lòng của mình
+ “về”: nơi chốn bị xóa nhòa => người đọc
không biết thuyền trở trăng “về” thôn Vĩ hay
“về” thế giới “trong này” của HMT
+ trăng:
* là hiện thân của cái tôi HMT
=> liệu HMT có kịp trở về thế giới tươi đẹp
hay không
* là ẩn dụ cho cái đẹp của thế giới bên ngoài
=> lo lắng, cuống quít, không biết thế giới
tươi đẹp có kịp quay trở về hay không

Mơ khách đường xa, khách đường xa, - Khách đường xa:


Áo em trắng quá nhìn không ra... + mơ về người khách/ người khách đang mơ
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, + khách chính là bản thân HMT
Ai biết tình ai có đậm đà? => gián cách mình với thế giới bên ngoài,
mặc cảm chia lìa
- “trắng quá”:
+ cực tả sắc trắng đến chói lòa
=> không gian dần trở nên huyền ảo, vô
thực
+ gợi sự xa xôi
=> không nhìn rõ lòng người
- “Ở đây”: thế giới bóng tối, máu, nước mắt
nơi HMT đang sống
- “sương khói mờ nhân ảnh”: không gian u
tối, khói sương bao phủ, hư ảo, lạnh lẽo,
dường như không còn tồn tạo ở dương gian
- Thế giới ấy khiến HMT không còn nhìn rõ
tình người:
+ “tình”: sợi dây duy nhất níu giữ HMT với
cuộc đời
+ câu hỏi tu từ + 2 đại từ phiếm chỉ “ai”
=> hoang mang không biết tình người có
còn đậm đà

● Lối thơ “đầu Ngô mình Sở”, kết


cấu theo mạch liên tưởng siêu logic
- Những hình ảnh nằm trong các trường liên
tưởng rất xa nhau, lại kết nối trong 1 chỉnh
thể văn bản, tạo thành một cấu trúc hình
tượng như bất an, bất ổn. Tuy nhiên, bài thơ
vẫn tồn tại 1 mạch liên tưởng logic ở bề sâu.
- Ba khổ thơ được liên kết với nhau bởi ba
câu hỏi và 4 đại từ phiếm chỉ “ai”: “Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc”, “Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó”, “Ai biết tình ai có đậm
đà”.
- Mạch liên kết ngầm ẩn trong bài thơ
chính là lòng yêu sống, khát sống đến đau
đớn. Hàn Mặc Tử thấy chới với khi tất cả
tuột khỏi tay mình. Tử “hoài niệm” về thôn
Vĩ, thi sĩ khao khát hi vọng chở trăng về
kịp đêm nay, như khao khát được kết nối
với thế giới tươi đẹp, nhưng niềm hi vọng
lại quá đỗi mong manh, nên thi sĩ “hoài
nghi” chính mình, chính thế giới của mình,
hoài nghi cả người tình xa từng là hiện
thân cho những khao khát thầm kín của
mình. Hoài niệm thì rực rỡ mà hiện tại thì
âm u.
- Chính khao khát sống đến đau đớn đã tạo
nên mạch liên tưởng trong cấu trúc hình
tượng của bài thơ.

TRĂNG TỰ TỬ

Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh - Không gian: u tối, lạnh lẽo, cô độc (lòng
Sao chẳng một ai hay giếng lạnh, chẳng một ai hay): Lòng giếng
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ này lạnh giam cầm con người như một kiểu chôn
Tất cả âm dương đều tụ họp sống – nhân vật trữ tình ý thức rất rõ về cái
Và ta ưng mây ngừng lại ở nơi đây chết đang đến gần trong sự giam cầm này.
Để nghe, à để nghe Khoảng trống nho nhỏ của miệng giếng chỉ
Bao giờ bí mật đêm thời loạn đủ để nhân vật bị nhốt trong đó ý thức được
Bao giọng buồn thương gió đã thề mình đang thuộc về cõi âm u, thuộc về cõi
Bao lời ai oán của si mê chết.
Mà trai gái tự tình bên miệng giếng => Nơi ấy là 1 cõi dương mà âm khí bao
Miệng giếng há ra phủ, chỉ có mùa thu, buồn thương, oán hận.
Nuốt ực bao la Không gian ấy thăm thẳm khôn cùng,
Nuốt vì sao rơi rụng “miệng giếng há ra” nuốt vạn vật vào lòng
Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng loạn giếng
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng điên - Trạng thái: hoảng hồn, hoảng vía, hoảng
Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên. thiên
=> những trạng thái thường trực của tâm lí
đầy bất ổn trong thi sĩ.
- Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên
=> trăng tượng trưng cho thế giới ngoài kia
tốt đẹp mà HMT muốn bảo vệ khỏi “lòng
giếng lạnh”
=> cái tôi hoảng loạn khi thấy cái đẹp, sự
sống đang dần trôi xa
NHỮNG GIỌT LỆ

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi? - Câu hỏi mang ám ảnh
Bao giờ tôi hết được yêu vì, => con người hoảng loạn, tuyệt vọng trước
Bao giờ mặt nhựt tan thành máu, cuộc sống trong này đầy đau đớn, cuồng
Và khối lòng tôi cứng tợ si? loạn
- “mặt nhựt tan thành máu”
+ phép liên tưởng: ánh mặt trời -> tan thành
giọt máu
=> cảm hứng đau thương, chết chóc, hủy
diệt của ngày tận thế
=> khắc khoải, dự cảm về sự hủy diệt: cõi
lòng nhà thơ là nơi kết tụ những đau thương
trên thế gian: “khối lòng tôi cứng tợ si” =>
nỗi đau cô kết lại, vĩnh viễn ám ảnh con
người

Họ đã xa rồi khôn níu lại, - Cô đơn, xa cách với con người: “họ đã xa
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa... rồi khôn níu lại”
Người đi, một nửa hồn tôi mất, - Tâm trạng đau đớn của con người: “một
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. nửa hồn tôi mất”, “một nửa hồn kia bỗng dại
khờ”: hồn được phân mảnh thành hai nửa
=> tâm trạng đau đớn, giằng xé

- Câu hỏi bật ra đau đớn


Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? => con người mang mặc cảm chia ly
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu? - Trường liên tưởng: bông phượng đỏ ->
Sao bông phượng nở trong màu huyết, giọt máu -> giọt châu báu -> giọt lệ
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu? => chìm trong trường liên tưởng về cái chết
đầy đau thương
THẠCH LAM (1910 - 1942)
HAI ĐỨA TRẺ

Cốt truyện

- Cốt truyện, hiểu theo nghĩa hàm chứa xung đột kịch tính, hoàn toàn không có ở đây.-
hai đứa trẻ có một hoàn cảnh (tình huống tâm trạng) duy nhất là khi hai chị em đan
xen vào nhau và một người bán hàng rong ở một phố huyện. Liên đang đợi một
chuyến tàu từ Hà Nội để chở thêm hàng (theo lệnh của mẹ) – Chú ý của Liên là nhìn
thấy chuyến tàu. đoàn tàu đến, chiếu sáng một lúc, rồi lại rời đi, và những người bán
rong cũng rời đi. hai chị em đóng lều ngủ. – Nếu chỉ dựa vào các sự kiện của cốt
truyện trước thì hai cậu bé không thể kể rõ hơn về những hành động tẻ nhạt của hai
cậu bé trong một đêm nghèo và buồn ở thành phố.

Đoạn văn: “khuya rồi, muộn rồi”. một buổi chiều êm ả như lời ru, vọng lại tiếng ếch nhái
kêu trên cánh đồng mang theo gió hiu hiu … liên ngồi lặng lẽ … liền không hiểu vì sao,
nhưng lòng cô lại thấy một nỗi buồn da diết trước thời gian trong ngày. ”

- Đối tượng được miêu tả trong đoạn văn này là một người – Tư thế:“ ngồi yên lặng ”.-
trạng thái của tâm trí. “buồn” …- khung cảnh của truyện, ngay từ đầu đã đọc qua ánh
mắt. không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh đôi mắt lại xuất hiện ngay sau tư thế ngồi
của nhân vật: “đôi mắt dần lấp ló bóng tối” – khi đó hình dáng và màu sắc là sản
phẩm tất yếu của nhận thức về hiện tại. điều này có thật.- chìa khóa mở cánh cửa câu
chuyện nằm ở đây, ở nhân vật gắn liền với hai vận động của tri giác: qua năm giác
quan và cũng qua trực giác: buồn rất lãng mạn.

Nhân vật

a) số lượng và nghề nghiệp:

- Các nhân vật được nhắc đến trong truyện Liên, An, Chị Tí, vợ chồng xẩm, đó là
những nhân vật được miêu tả trực tiếp trong truyện.
- Về mặt nghề nghiệp, phố huyện trông gần giống như một cơ cấu hành chính thu nhỏ:
quân, quan, thầy, chồng, người giúp việc, người buôn bán, người bán hàng rong,
người ăn xin, người say xỉn ,....
- Thiếu các nhân vật quyền thế, giàu có, con người sống thoải mái và thừa của truyện là
quá nhiều người nghèo, con người dường như chỉ sống bằng một hy vọng nhỏ nhoi
trôi qua rất nhanh: chuyến tàu từ hà nội ..

b. vì bận rộn với cuộc sống từ sớm nên Liên có thái độ làm việc chăm chỉ và thường xuyên
lo lắng.

- Mặc dù Liên chỉ miêu tả cuộc sống của mình trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng
ấn tượng mà chúng ta nhận được ở đây là sự đơn điệu lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại ngày
này qua ngày khác. . Cần rất nhiều kiên nhẫn và can đảm để có thể làm được điều đó.
chuyện cơm áo khiến con người ta già đi, tước đi nhiều thú vui dù là vô cùng nhỏ
nhoi.- nhưng không vì thế mà nhân vật thạch lam khó sống. về quyền lợi, anh ta có
một trái tim bao dung và rộng lượng. Liên không chỉ yêu An mà còn biết ơn những
đứa trẻ nghèo sống gần chợ.
c) vai trò, vị trí của đôi mắt và tâm hồn của nhân vật.

- Đôi mắt và tâm hồn là hai đối tượng luôn được nhắc đến trong truyện. Nhưng chúng
không được cụ thể hoá để làm nổi bật tính cách của nhân vật. đối tượng như hiện thực
nhưng chúng chỉ được xem như kênh tiếp nhận hiện thực của nhân vật.
- Vì vậy các động từ đi sau chỉ nhằm miêu tả hoạt động thể chất của họ: trỏ, mở, nhìn
xuống, nhìn lên … ” theo ánh mắt của hai chị em, nhất là của liên, câu chuyện khép
lại không gian riêng trong góc nhìn đó. người kể chuyện rất khách quan, không có bất
kỳ sự can thiệp nào, để câu chuyện cứ hồn nhiên tiếp diễn theo cảm xúc của hai đứa
trẻ.
- Nguyên tắc kể chuyện truyền tải quan điểm này tạo cho truyện không khí cuộc sống
làng quê của phố huyện, đồng thời cũng cho thấy cách cảm nhận về cuộc sống ở nơi
đó.
- Như vậy bằng cách đặt tiêu đề truyện, thạch lam đã nói rõ ý đồ của mình: đây không
chỉ là về hai đứa trẻ, mà chủ yếu là về cách nhìn nhận cuộc sống của hai đứa trẻ.

6. nghệ thuật đảo ngược thời gian:

- đảo ngược thời gian từ thành phố huyện về thành phố Hà Nội xảy ra ba lần. cả ba thời
điểm đều liên quan đến công việc hoặc tâm trạng. Hà Nội, sau mỗi lần xuất hiện lại
càng thêm xót xa.
+ lần đầu tiên Thạch Lam kể cho chúng tôi nghe về hoàn cảnh của hai chị em:
vừa phải kiếm sống, vừa phải chăm sóc nhau vì thầy mất việc ở Hà Nội.
+ lần thứ hai Một lần, người kể đề ra sự so sánh xưa và nay, Hà Nội và phố
huyện: “nhớ khi ở Hà Nội được thưởng thức những món quà ngon, lạ… còn
kỷ niệm thì còn nhớ gì không. hiển nhiên, chỉ là một vùng sáng và rực rỡ ”.
+ Lần thứ ba, Hà Nội xuất hiện ngay trong đoạn độc thoại nội tâm của liên:“
Nhưng họ đã ở Hà Nội… xa Hà Nội, Hà Nội sáng sủa, vui vẻ và nhộn nhịp ”.
- người kể chuyện thay đổi quan điểm từ bên ngoài vào bên trong của Liên. động thái
này cho thấy nhận thức của liên về hoàn cảnh của mình về bản thân và những người
trong chợ ngày càng nghiêm túc hơn, về bầu trời, về sự đổi đời mãnh liệt hơn bao giờ
hà nội là thiên đường . giờ đã xa trong màn đêm, nỗi nhớ mong và nỗi đau càng thêm
da diết …

7. nghệ thuật đối thoại

- Lời thoại được xây dựng theo lối kể chậm lại.

- Phần lớn lời thoại dưới dạng câu hỏi. Trả lời câu hỏi là hành động chuyển câu chuyện. –
Một hình thức đối thoại phổ biến khác giữa hai đứa trẻ là dưới dạng câu hỏi: “Em thắp đèn
lên chị Liên nhé?. “Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?”

– Đối thoại trong truyện vừa có chức năng bắt nhịp với diễn biến của truyện vừa là tín hiệu
thẩm mĩ ấn tượng xuất phát từ nội tâm đầy khắc khoải, xúc động và lo lắng. , nỗi buồn, sự
thương cảm… của những điểm đến trong phiên chợ nghèo.

– trong sự hiu quạnh nơi phố huyện kia, bao mảnh đời tan nát nương tựa vào nhau mà sống.
họ không giúp đỡ nhau và không giúp đỡ nhau về vật chất, nhưng qua tiếng nói chung của
họ, chúng ta thấy đó là những điểm sáng về tinh thần, về bản lĩnh, giúp họ tự tin hơn trong
công việc, trong công việc. bàn thắng. .

8. hương

– hương tuy chỉ xuất hiện hai lần trong tác phẩm nhưng nó đã thực sự gây ấn tượng mạnh với
người đọc. nghĩ rằng phụ nữ là mùi riêng của đất và của quê hương này. đó là mùi chợ huyện:
lần thứ hai là mùi phở chú siêu: “tiếng thổi nghe rõ mồn một, gió thổi khói bay về phía hai
chị em. anh chàng siêu nhân đi qua, đặt gánh phở trên phố… và tôi liên tục ngửi thấy mùi
phở thơm phức. ”

9. ánh sáng

a) dải màu chủ đạo:

– ánh sáng gắn với thị giác vẫn là nỗi ám ảnh sâu sắc nhất của hai đứa trẻ.

- sau tiếng trống “gọi chiều” là màu của hình ảnh phố huyện. nó sáng sủa và ấm áp: “phía tây,
đỏ như lửa.” màu này được biểu thị dưới dạng một hình khối chứ không phải là một đường cụ
thể biểu thị trực tiếp mặt trời và hoàng hôn.

– các nhân vật được định hướng, nói đúng hơn là hướng tới bất kỳ ánh sáng nào thu hút sự
chú ý của họ. :

+ nhìn từ xa là ánh sáng mặt trời, ánh sao

+ gần hơn một chút là ánh sáng của đom đóm, ánh đèn của các loại đèn, các loại: đèn chùm,
đèn Mỹ, đèn dây xanh, đèn trẻ em, đèn lồng, đèn đốt, …

+ Xuất hiện nhiều loại ánh sáng: đỏ như ngọn lửa đang cháy, hồng như than sắp tàn, sáng
xanh, sáng lam, ánh sáng vàng lơ lửng trong bóng tối, ánh sáng trắng, kèm theo màu sáng là
cường độ ánh sáng: sáng, sáng, sáng. .

+ cụ thể hơn là sự xuất hiện của các dạng ánh sáng: khe sáng, vệt sáng, quầng sáng, đốm lửa
(hai lần), hạt sáng, vùng sáng, đốm (phát sáng) của than đá, …

+ đỉnh cao của sự hiển thị khác của ánh sáng là quan sát kỳ lạ nhất: “tất cả các nguồn ánh
sáng đều phát xạ. đường phố làm cho cát bóng ở những nơi và đường gập ghềnh hơn do đá
nhỏ. mặt sáng, mặt tối. ”

b) ánh sáng nhớ: không nhiều như ánh sáng khai thác bình thường, nhưng ánh sáng trí nhớ
của thạch nhũ thể hiện rõ hơn tâm trạng của con người. .

- Lần đầu tiên anh nhắc đến Hà Nội “khi cả gia đình rời Hà Nội về quê sống vì thầy liên mất
việc”, trong ký ức của Hà Nội điều đó không hề xuất hiện. nhưng ở lần thứ hai, liên “nhớ khi
anh ở hà nội” và hà nội nhớ mùi phở của chú hủ tiếu là “chén nước xanh đỏ lạnh” (kí ức trẻ
thơ) là “một vùng sáng và tỏa sáng”. . hà nội đồng nghĩa với ánh sáng.
- vì ánh sáng ấy, cho nỗi nhọc nhằn của bao mảnh đời ngoài kia, cho nỗi niềm thân phận của
chính mình, nên dẫu đôi khi “tâm hồn luôn tĩnh lặng” thì vẫn có những “điều ấy” .a mơ hồ.
cảm giác không hiểu ”.

- đoàn tàu mang đến ánh sáng, nhưng khi nó đi qua, con tàu làm sống lại ký ức, đó là niềm
khao khát, nỗi nhớ về Hà Nội sáng lên mãnh liệt.

c) ánh sáng của con tàu

- con tàu mang lại chút niềm tin tương lai cho làng.

- trước khi tàu xuất hiện, làng sống trong tình trạng ì ạch, xơ xác, thiếu sức sống và mọi hành
động. các hoạt động tập trung vào tâm lý chờ đợi chuyến tàu.

- thach lam dành tới 852 từ (gần 1/3 số từ trong Truyện: 852/2739) để tập trung khắc họa
cảnh đoàn tàu đi qua thành phố – rằng đoàn tàu là nguồn sống cả về vật chất và tinh thần của
người dân phố huyện.

- ánh sáng từ con tàu trở về Hà Nội đối với chị em. vẫn là cảm giác phảng phất trong đêm
tĩnh mịch:

+ âm thanh đến trước “tiếng gõ, tiếng xe vào thu”.

+ màu sắc: “làn khói trắng sáng bay xa” rồi lại vang lên “tiếng khách xôn xao”

+ hình thức: “tiếng còi thổi, tàu chạy ầm ầm. , những toa tàu lấp lánh, lung linh trên con
đường. chỉ thoáng thấy những toa sang trọng của tầng lớp thượng lưu chật ních người, đồng
và niken lấp lánh, và cửa kính sáng lấp lánh. ”

- một đoạn văn ngắn trong đó những măng đá sử dụng bốn danh từ và tính từ. chiếm ngôi .

- ngay cả khi biến mất trong đêm đen, vẫn còn đó ánh sáng của “than đỏ bay trên đường sắt”.
an toàn và vẫn hướng về phía trước.

d) Tương phản ánh sáng – bóng tối

- thach lam vẫn khai thác hai hình ảnh này nhưng không khẳng định sẽ giải thích ý thức
lý tưởng khác. nó chỉ nhằm mục đích gây ấn tượng, phân biệt rõ hơn hai phạm trù tác
động lẫn nhau (sáng và tối) để thể hiện một cách nhìn hiện thực, rất thực tế về cuộc
sống: có những người nghèo khổ, chờ đợi ánh sáng hạnh phúc, họ đợi mãi, hạnh phúc
qua đi. Nhanh như chuyến tàu kia, nhanh đến nỗi liên không thể nhận ra mặt người,
rồi đêm lại đến, đom đóm không còn hoạt động, sao vẫn sáng, cơn buồn ngủ ập đến,
thế là hôm sau anh lại thức dậy chờ con khác. day.train cũng …
- vòng đời lặp đi lặp lại đó đơn điệu vô cùng. bà không giấu giếm cái nghèo cùng cực
của mình cả về vật chất lẫn tinh thần ở thành phố không xa làng (bà già đi buôn)
- nhưng nhờ vậy mà bà có một khả năng vô hạn để in sâu vào tâm hồn chúng ta hình
ảnh về điều đó. thành phố huyện đông lạnh. Thành phố huyện thach lam là linh hồn
của bất kỳ thành phố huyện nghèo nào
- linh hồn còn sót lại của thành phố huyện không chỉ là sự nghèo nàn mà còn bị mai
một sâu hơn. Trong bối cảnh thực tế càng nghèo, càng ít người lên xuống các chuyến
tàu đi qua huyện, nhưng những thông điệp: có thể vẫn còn một số người mua sắm,
một số người luôn vắng bóng, ít người lên xuống [những chuyến tàu], không có người
… cũng giống như tình cảm phai nhạt trong thơ anh. do de vu dinh lien.
- Mặc dù bóng tối là hình ảnh cuối cùng của tác phẩm, nhưng với tư cách là nghệ thuật
mà bóng tối đảm nhận trong toàn bộ truyện, nó chỉ làm nền cho sự xuất hiện của ánh
sáng, chẳng hạn như bầu trời đêm đen soi sáng những vì sao, không gian tối tăm. để
cho đom đóm chớp mắt.
- và ngay cả khi đom đóm “không còn nữa”, ngay khi “tắt đèn” đi ngủ, cảm giác ánh
sáng trong mối liên hệ vẫn chưa tắt. Tác phẩm kết thúc khi liên tục quan sát, chiêm
nghiệm và giấc ngủ yên bình đến
- khác với bóng tối, thạch nhũ mô tả ánh sáng gấp ba lần ánh sáng trên phố huyện: ánh
sáng “đỏ rực” của buổi chiều, ánh sáng trong veo. Ký ức Hà Nội là “ngọn đèn soi
sáng”. và vùng sáng ”, và ánh sáng của đoàn tàu với những chiếc xe“ đèn sáng rọi
xuống phố ”.
- Ba lần đặc tả của ánh sáng là ba lần tác giả ngầm ví dụ, so sánh cuộc sống ở hiện tại
với quá khứ và tương lai của con người.
- hiện thực rõ ràng là không vui vì màu đỏ của buổi tối sớm chìm vào màn đêm vắng
lặng. bởi việc chọn thời gian buổi tối thach lam không chỉ mang đến trang thơ buồn
mà còn mang đến cuộc sống tẻ nhạt của người nghèo, nhưng không sự bất hạnh tột
cùng của thành phố huyện trên trang.

10. những nét đặc sắc về nghệ thuật

– những cách dùng từ đặc biệt đã khiến Hai đứa trẻ trở thành một trong những tác phẩm văn
học xuất sắc nhất của dân tộc

- dễ dàng nhận thấy những hình ảnh trong truyện thường được dựng theo phương thức lặp.
Mặc dù mỗi lần lặp lại được xử lý khác nhau, nhưng chính chủ ý này đã tạo ra một hiệu ứng
ấn tượng về sự đơn điệu và năng động của cuộc sống

– ngoài ra, việc sử dụng các từ ngữ nội tại luôn làm chậm lại câu chuyện. hai đứa trẻ rõ ràng
có tốc độ tường thuật chậm vì tính thực tế ở đây không cao và không có xung đột mặc dù
phương pháp tương phản rất thú vị.

11. thach lam niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp

– thach lam rất tin tưởng vào tương lai.

- dù đặt thực tại mất mát vào dòng đời, dòng vũ trụ không ngừng quay thì đá xanh vẫn luôn
nghĩ đến trong tương lai. phù hợp với quy luật khách quan: con người sẽ luôn tìm cách tồn tại
và tồn tại trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

- quan niệm này đã khiến thach lam đưa ra một cách so sánh rất sáng tạo, có ý nghĩa và ý
nghĩa, so sánh cái bất biến và cái bất biến: so sánh bên trong (không gian hẹp) với bên ngoài
(không gian rộng), so sánh cuộc đời hữu hạn và nhỏ bé của con người với vũ trụ bao la và
vĩnh hằng: nhưng nay họ đã khép lại thì im lìm, tối tăm như phố ”…
– thach lam chỉ ra triết lý: khi con người ta không thể làm gì khác hơn trong hoàn cảnh khó
khăn của mình, thì ước mơ là giải pháp hữu hiệu để vượt qua những thời khắc khó khăn nhất

– đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn, đặt cái thực hư vào giấc mơ tươi sáng. … con người vẫn
luôn hướng về nơi xa xăm ấy. chia sẻ và vững tin vào khát vọng của con người.

12. Những phát hiện mới của Thạch Lam so với các nhà văn hiện thực:

- Trong khi hầu hết các nhà văn hiện thực khác cùng thời tập trung chủ yếu vào miêu tả
cảnh thiếu thốn vật chất (điển hình là Nguyễn Công Hoan, Nam Cao) thì Thạch Lam
lại chủ yếu khai thác cái nghèo về tinh thần.
+ Không chú trọng miêu tả. của thế giới vật chất, nhưng chỉ sử dụng nó như một
lực hiển nhiên gây ra bi kịch trong đời sống tâm hồn. .- không phải ngẫu nhiên
mà quần thể nhân vật trong địa hạt tăm tối ấy lại có đại diện là người điên
(mấy ông già), người mù (nhà xẩm) và bốn nhân vật tiêu biểu còn lại trừ hai
chị em tiểu sử (trước khi sống ở hà nội, bố mất việc và phải về quê, mẹ không
xếp hàng chung vì bận mua sắm) và cô em gái, chú siêu nhân không có lịch
trình nào khác ngoài việc mang hàng đến. vì vậy, đời sống vật chất càng bị
kìm nén bao nhiêu thì đời sống tinh thần bộn bề càng chói lọi bấy nhiêu. đây
là cách mà thạch nhũ tạo ra ấn tượng riêng.

TỐI BA MƯƠI
Đến cửa buồng số 12, Liên chuyển những đồ lề sang bên trái, cúi cằm xuống giữ cho chặt,
còn tay phải vặn quả nắm. Những gói giấy chỉ chực tròng trành rơi. Liên cất tiếng khàn khàn
gọi:

- Huệ ơi! Huệ!

Nàng tưởng sẽ thấy nét mặt vui vẻ của Huệ thò ra đón, vớ lấy các thức mua và hỏi "Sao mày
về chậm thế?" nhưng trong phòng vẫn yên lặng. Liên mở cửa bước vào: Huệ đương cuộn
chăn nằm ngủ trên giường, tóc xõa ra cả trên gối trắng. Vẻ lạnh lẽo của căn phòng đến ngay
bao bọc lấy Liên, khiến cái vui trong lòng nàng mong manh sắp tắt. Liên để các gói xuống
bàn, giũ bụi mưa trên áo rồi vội vàng đánh thức bạn:

- Dậy đi, Huệ!

Huệ ậm ự mở mắt lờ đờ nhìn, rồi lại định quay mặt vào trong ngủ. Bực mình Liên tung chăn
ra bên, vừa xốc Huệ lên vừa nói:

- Gớm, ngủ cả ngày không biết chán.

Huệ đã tỉnh hẳn, vươn vai ngáp rồi ngồi dậy, kéo chăn trùm lên vai:

- Mày bảo chả ngủ thì làm gì?

Rồi nàng rùng mình:

- Lạnh quá! Kìa cô ả, vào không khép cửa lại; mà sao đi lâu thế?

Liên ra đóng cửa phòng, quay trở vào:


- Tao phải chạy vội khắp các phố đấy. Các hiệu đã sắp đóng cửa cả. Giá cứ nghe mày thì chả
kịp mua bán gì, đành là nhịn đói ăn Tết.

- Thì đã chết chưa. Không ăn, ngủ cũng được.

Liên nhận thấy nét mặt mỏi mệt của bạn. Nàng nhìn quanh căn phòng bẩn thỉu. Dưới ánh
ngọn đèn mờ, lổng chổng các đồ đạc quen thuộc: cái giường Hồng Kông cũ, đồng han và gỉ
xạm, cái bàn gỗ ẩm ướt ở góc tường, hai cái ghế long chân. Liên nghĩ đến sự trơ trọi của đời
mình. Tết đến nơi rồi. Tết đến thăm nàng ở đây, trong cái buồng nhà "săm" này cũng như đến
những nơi thơm tho đầm ấm.

Nàng không muốn nghĩ vơ vẩn nữa. Cái buồn ghê gớm chỉ chực kéo đến giày vò nàng, Liên
vội cười lên. Nàng đến cạnh bàn giở các gói bọc giấy nhật trình buộc bằng dây cói: những
thức ăn rẻ tiền mua hấp tấp ở các hiệu khách trước giờ đóng cửa đêm ba mươi.

- Nào, xem mày mua những gì nào.

Huệ cũng trở dậy đến bên giúp Liên giở các gói và để thức ăn ra ngoài.

- Lạp xường này, bánh chưng này, giò lụa, lại cả gan kho nữa cơ à? Oai nhỉ! Còn gói gì thế
này? À... cam. Tuyệt! Cam này thì phải biết!

Mấy quả cam đỏ lăn ra bàn. Huệ cầm một quả toan bóc. Liên giằng lấy:

- Con khỉ! Ăn trước à? Còn để cúng đã chứ.

- Ừ thì để mà cúng! Nhưng vàng hương đâu?

Liên đáp:

- Chỉ có hương thôi. Còn vàng không cần. Tiềm tiệm thôi cũng được.

Huệ lặng im, tự dưng thoáng nghĩ đến thân thế lưu lạc của hai chị em và lòng se lại. Huệ nhìn
bạn, âu yếm. Giờ chỉ còn Liên là người thân thiết với nàng.

Xếp các giấy gói sang một bên, Liên quay lại bảo Huệ:

- Chúng mình bầy cỗ cúng đi chứ?

- Bầy làm quái gì vội. Bây giờ mấy giờ rồi?

- Không biết. Dễ gần mười một giờ rồi đấy. Sửa soạn đi thì vừa.

Huệ không đáp, đi đến cửa sổ, tì trán vào cửa kính nhìn xuống đường. Mưa bụi vẫn bay tơi tả,
hình như ở bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp bùn,
không một bóng người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu ở khắp cả các
phố Hà Nội đêm nay. Huệ tưởng đến những căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài chặt,
mọi người trong nhà đang tấp nập sửa soạn đón năm mới trong sự thân mật của gia đình. Chỉ
có hai chị em nàng xa cửa, xa nhà. Nhưng nàng còn nhà đâu nữa mà về? Mẹ chết rồi, cha đi
lấy vợ khác không biết ở đâu. Đã bẩy, tám năm nay, nàng không về đến làng. Những người
quen thuộc còn ai không? Huệ nghĩ đến lại thương hại cho Liên, em họ nàng. Liên còn cha
mẹ, nhưng Liên không dám về. Hai người sống cái đời trụy lạc ở Hà Nội từ lúc bỏ nhà ra đi.
Hôm nay, ngày cuối năm sum họp hai người ở căn buồng này, trong một cảnh ăn Tết lạnh
lẽo.

Huệ nhắm mắt lại. Vì trông mưa bụi hay vì nàng khóc thật? Hình như có chút nước mắt vừa
rơm rớm ở mi nàng. Huệ chớp khẽ rồi nhớ đến cuộc đời mình, lúc trẻ thơ, lúc còn con gái, ở
nhà quê. Một buổi sáng mồng một Tết,- nàng không nhớ rõ là tết năm nào, nhưng đã lâu lắm
rồi thì phải - nàng mặc áo mới đứng trên thềm nhìn mấy bông hoa đào nở ở trước vườn. Tại
sao nàng lại chỉ nhớ rõ có cái cảnh ấy? Huệ không biết, nàng chỉ mang máng cảm giác một sự
gì trong mát, tươi non... Khác hẳn bây giờ. Tâm hồn Huệ u ám và nặng trĩu xuống.

Bỗng Huệ giật mình quay lại; Liên vỗ vai nàng, cười:

- Nghĩ gì mà thần người ra thế? Phải vui vẻ lên một tí chứ! Sắp giao thừa rồi đây này.

Huệ theo Liên đi vào và gật đầu.

- Thôi, cúng đi. Chị sửa soạn xong chưa?

Trên chiếc bàn rửa mặt đầy vết bẩn, Liên đã đặt đĩa cam quít, cái bánh chưng và thếp vàng.
Mấy gói lạp xường và giò cũng để ngay bên. Các đồ cúng nghèo nàn bỗng bầy lộ ra trước
mắt hai người. Huệ tìm lấy thẻ hương. Nàng quay lại hỏi Liên:

- Chị có mua gạo không?

- Có, gạo đây. Nhưng đổ vào cái gì bây giờ?

Hai chị em nhìn quanh gian buồng, nghĩ ngợi. Liên bỗng reo lên:

- Đổ vào cái cốc này này. Phải đấy, rất là...

Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí nàng. Cái cốc bẩn ở góc tường, mà cả đến
những khách làng chơi cũng không thèm dùng đến, nàng định dùng làm bát hương cúng tổ
tiên! Liên cúi mặt xuống, rồi đưa mắt lên trông Huệ; hai người thoáng nhìn nhau. Liên biết
rằng những ý nghĩ ấy cũng vừa mới đến trong trí bạn.

Huệ cất tiếng nói trước, thản nhiên như không có gì:

- Hay cắm trên cái chai này... Không! Cắm trên tường này cũng được, mày nhỉ.

Liên không dám trả lời, sẽ gật đầu.

Nàng đến cạnh giường lật đệm lên lấy bao diêm.

Nhưng giật mình nàng quay lại: có tiếng người gõ cửa buồng.

- Ai đấy?

- Tôi. Cô mở cửa cho tôi với.


Hai chị em luống cuống nhìn các đồ cúng trên bàn. Hai người muốn cất dọn hết, nhưng chắc
không kịp. Nhanh trí, Huệ đứng dựa bên bàn che khuất đi, trong lúc Liên ra mở cửa. Người
bồi "săm" ngó đầu vào.

- À, bác Tâm. Hỏi gì thế?

- Tôi gửi cô giữ hộ chiếc chìa khóa.

- Bác về đằng nhà bây giờ à?

Anh bồi "săm" tươi cười:

- Vâng, phải về ăn Tết chứ. Thôi, cô làm ơn trông hộ nhà nhé. Giờ này cũng chẳng có ai đến
nữa mà sợ.

Liên thấy đằng sau, tiếng Huệ đáp:

- Đêm nay thì còn ma nào đến. Bác cứ về.

Người bồi sắp bước đi, lại quay lại:

- À chút nữa quên, tôi xin chúc mừng trước hai cô nhé! Chúc hai cô sang năm mới được...
được...

Người bồi ấp úng, không biết nói thêm gì. Liên vội đỡ lời, cám ơn, rồi đóng cửa buồng lại.
Một lát, tiếng cánh cổng sắt dưới nhà rít lên trong yên lặng lạnh lùng.

Giờ chỉ còn hai chị em trong căn nhà. Gian buồng bỗng trở nên rộng rãi quá chừng: một cái
lạnh thấm thía đến tâm hồn. Ngoài đường trời hẳn còn mưa, mưa buồn rầu và âm thầm trong
tối. Trong gian buồng, ẩm ướt tăng thêm. Liên và Huệ đưa mắt nhìn mọi vật chung quanh.
Cái giường sắt lạnh, đệm và gối hoen bẩn, cái thau gỉ, cái bô, và cái bàn rửa mặt gỗ đã mọt...
Đó là khung cảnh của cuộc đời trụy lạc đã từ lâu... Huệ đứng dậy hỏi bạn để cho tan sự yên
lặng:

- Chị đã thắp hương chưa?

Liên cũng tự nhiên gọi Huệ là chị:

- Chưa. Chị thắp đi. Bao diêm ở bên cạnh đĩa ấy.

Khói hương lên thẳng rồi tỏa ra mùi thơm ngát đem lại cho hai nàng kỷ niệm những ngày
cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây thơ.

- Sắp đến mười hai giờ rồi đấy, Liên nhỉ?

- Có lẽ đến rồi. Năm mới!

Huệ đặt lại các đĩa trên bàn, xếp vàng cho ngay ngắn. Nàng quay lại bảo Liên:

- Chị ra khấn đi.


Liên tiến đến trước bàn thờ, đứng yên.

- Em biết khấn làm sao bây giờ?

Nàng bỗng nấc lên, rung động cả vai rồi gục xuống ghế, tay ấp mặt. Những giọt nước mắt
nóng chảy tràn mi mắt, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh mang tràn
ngập cả người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt với
những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường.

Huệ nhìn Liên rồi nhẹ nhàng đến gần, buồn rầu vỗ vai bạn:

- Liên, khóc làm gì nữa, buồn lắm.

Tiếng nàng cũng cảm động nghẹn ngào. Dưới bàn tay thân mật của bạn, Liên càng nức nở.
Hai chị em giờ này cảm thấy trơ trọi quá. Liên ngửng mặt lên nhìn Huệ, cố gượng một nụ
cười héo hắt:

- Chị cũng khóc đấy ư?

Huệ gục xuống vai bạn, không trả lời. Nước mắt cũng ứ lên rồi lặng lẽ dào ra má. Nàng
quàng tay ôm hết sức chặt lấy Liên.

Tiếng pháo giao thừa bỗng nổi vang gần đấy rồi từ nhà nọ sang nhà kia lan rộng mãi vào đêm
tối. Liên nói sẽ như thì thầm:

- Giao thừa.

Huệ không trả lời. Hai chị em nép vào nhau, yên lặng.

Phân tích:
Tối ba mươi là một truyện ngắn viết về cuộc sống của hai cô gái ăn sương ( gái giang hồ ) là
Liên và Huệ trong một đêm ba mươi ở căn phòng tồi tăm, lụp xụp, bẩn thỉu của một xóm làng
chơi Hà Nội. .
Giữa thời khắc thiêng liêng đêm giao thừa cuối năm, thời gian mà những ai đi xa cũng đều
trở về sum họp với gia đình, quây quần đoàn tụ bên mâm cơm tất niên, bên hương khói nghi
ngút cúng đón ông bà thì họ cũng làm những thủ tục đó, nhưng với nỗi buồn nặng trĩu cho
kiếp người ở một chốn mà người đời cho là một vũng bùn nhơ của xã hội.

Thạch Lam đã dùng ngòi bút của mình ,vừa tả chân hiện thực một cách sâu sắc, vừa diễn tả
tâm lý tuyệt vời đến mức độ người đọc cảm thấy mình rất gần gũi, đồng cảm với tác giả và
nhân vật. Ở đoạn đầu câu truyện, Thạch Lam đã rất khéo khi phác họa bối cảnh và tâm lý của
Liên vui mừng khi mua được chút quà Tết ế ,ẩm ,rẻ tiền về cúng ông bà, Nhưng giữa lúc mọi
người đều chuẩn bị ồn ào đón giao thừa, họ đi ra đường, như lễ hội, đi hái lộc, xin xăm, vui
vẻ thì Huệ lai nằm ngủ để quên đi những nỗi buồn cô đơn, thấm thía thân phận tủi nhục cho
kiếp người Hai cảnh đời đối nghịch đó đã làm chúng ta cảm thông với nhân vật và gần gũi
với họ hơn.
"Đến cửa buồng số mười hai, Liên chuyển những đồ lề sang bên trái, cúi cằm xuống giữ cho
chặt, còn tay phải vặn quả nắm. Những gói giấy chỉ chực tròng trành rơi. Liên cất tiếng khàn
khàn gọi:
- Huệ ơi! Huệ!
Nàng tưởng sẽ thấy nét mặt vui vẻ của Huệ thò ra đón, vớ lấy các thức mua và hỏi "Sao mày
về chậm thế?" nhưng trong phòng vẫn yên lặng. Liên mở cửa bước vào: Huệ đương cuộn
chăn nằm ngủ trên giường, tóc xõa ra cả trên gối trắng. Vẻ lạnh lẽo của căn phòng đến ngay
bao bọc lấy Liên, khiến cái vui trong lòng nàng mong manh sắp tắt. Liên để các gói xuống
bàn, giũ bụi mưa trên áo rồi vội vàng đánh thức bạn:
- Dậy đi, Huệ!
Huệ ậm ự mở mắt lờ đờ nhìn, rồi lại định quay mặt vào trong ngủ. Bực mình Liên tung chăn
ra bên, vừa xốc Huệ lên vừa nói:
- Gớm, ngủ cả ngày không biết chán.
Huệ đã tỉnh hẳn, vươn vai ngáp rồi ngồi dậy, kéo chăn trùm lên vai:
- Mày bảo chả ngủ thì làm gì?
Rồi nàng rùng mình:
- Lạnh quá! Kìa cô ả, vào không khép cửa lại; mà sao đi lâu thế?
Liên ra đóng cửa phòng, quay trở vào: "
Như một đứa trẻ , Liên liến thoắng khoe về :"chiến công " sắm Tết của mình cùng với những
thức ăn, đồ cúng vừa mua được ở chợ , cái khu phố vắng ngắt , trống trải , cái chợ chiều ba
mươi Tết vắng teo còn lơ thơ vài cửa hàng cố bán vest nột những món hàng rau cải thừa thải
còn lại như tống khứ những điều xui xẻo cuối năm Trong khi người phu quét chợ vẫn cúi đầu
quét những đống rác sau cùng , cánh tay già yếu run run trước làn gió lạnh
Trong đoạn văn này, Thach Lam đã phác hoạ về khung cảnh một căn phòng" săm" tồi tàn,
nơi ở ,cũng là nơi hành nghề của hai cô gái giang hồ Liên và Huệ, nơi trú ngụ của hai số phận
nghiệt ngã, cô đơn, vất vưởng sống lang thang về đêm như những cánh vạc ăn sương thật
tuyệt vời :
"Tao phải chạy vội khắp các phố đấy. Các hiệu đã sắp đóng cửa cả. Giá cứ nghe mày thì chả
kịp mua bán gì, đành là nhịn đói ăn Tết.
- Thì đã chết chưa. Không ăn, ngủ cũng được.
"Liên nhận thấy nét mặt mỏi mệt của bạn. Nàng nhìn quanh căn phòng bẩn thỉu. Dưới ánh
ngọn đèn mờ, lổng chổng các đồ đạc quen thuộc: cái giường Hồng Kông cũ, đồng han và gỉ
xạm, cái bàn gỗ ẩm ướt ở góc tường, hai cái ghế long chân. Liên nghĩ đến sự trơ trọi của đời
mình. Tết đến nơi rồi. Tết đến thăm nàng ở đây, trong cái buồng nhà "săm" này cũng như
đến những nơi thơm tho đầm ấm.
Nàng không muốn nghĩ vơ vẩn nữa. Cái buồn ghê gớm chỉ chực kéo đến giày vò nàng,
Liên vội cười lên. Nàng đến cạnh bàn giở các gói bọc giấy nhật trình buộc bằng dây cói:
những thức ăn rẻ tiền mua hấp tấp ở các hiệu khách trước giờ đóng cửa đêm ba mươi. "
ào, xem mày mua những gì nào.
Huệ cũng trở dậy đến bên giúp Liên giở các gói và để thức ăn ra ngoài.
- Lạp xường này, bánh chưng này, giò lụa, lại cả gan kho nữa cơ à? Oai nhỉ! Còn gói gì thế
này? à... cam. Tuyệt! Cam này thì phải biết!
Mấy quả cam đỏ lăn ra bàn. Huệ cầm một quả toan bóc. Liên giằng lấy:
- Con khỉ , ăn trước à? Còn để cúng đã chứ.
- ừ thì để mà cúng! Nhưng vàng hương đâu?
Liên đáp:
- Chỉ có hương thôi. Còn vàng không cần. Tiềm tiệm thôi cũng được.
Huệ lặng im, tự dưng thoáng nghĩ đến thân thế lưu lạc của hai chị em và lòng se lại. Huệ
nhìn bạn, âu yếm. Giờ chỉ còn Liên là người thân thiết với nàng.
Xếp các giấy gói sang một bên, Liên quay lại bảo Huệ:
- Chúng mình bầy cỗ cúng đi chứ?
- Bầy làm quái gì vội. Bây giờ mấy giờ rồi?
- Không biết.Dễ gần mười một giờ rồi đấy. Sửa soạn đi thì vừa. Họ chuẩn bị cúng kiến mà
lòng nặng trĩu những nỗi buồn cô đơn dành riêng cho thân phận, cho kiếp nghèo. Người
nghèo thường có những mơ ước, cũng có thể họ nghĩ về tương lai, hay một chút hoài niệm
nào đó về quá khứ với những nuối tiếc xa xôi trong tiếng thở dài não nuột.

"Huệ không đáp, đi đến cửa sổ, tì trán vào cửa kính nhìn xuống đường. Mưa bụi vẫn bay tơi
tả, hình như ở bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp
bùn, không một bóng người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu ở khắp cả
các phố Hà Nội đêm nay. Huệ tưởng đến những căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài
chặt, mọi người trong nhà đang tấp nập sửa soạn đón năm mới trong sự thân mật của gia
đình. Chỉ có hai chị em nàng xa cửa, xa nhà. Nhưng nàng còn nhà đâu nữa mà về? Mẹ chết
rồi, cha đi lấy vợ khác không biết ở đâu. Đã bẩy, tám năm nay, nàng không về đến làng.
Những người quen thuộc còn ai không? Huệ nghĩ đến lại thương hại cho Liên, em họ nàng.
Liên còn cha mẹ, nhưng Liên không ám về. Hai người sống cái đời trụy lạc ở Hà Nội từ lúc
bỏ nhà ra đi. Hôm nay, ngày cuối năm sum họp hai người ở căn buồng này, trong một cảnh
ăn Tết lạnh lẽo ".
"Huệ nhắm mắt lại. Vì trông mưa bụi hay vì nàng khóc thật? Hình như có chút nước mắt vừa
rơm rớm ở mi nàng. Huệ chớp khẽ rồi nhớ đến cuộc đời mình, lúc trẻ thơ, lúc còn con gái, ở
nhà quê. Một buổi sáng mồng một Tết,- nàng không nhớ rõ là tết năm nào, nhưng đã lâu lắm
rồi thì phải - nàng mặc áo mới đứng trên thềm nhìn mấy bông hoa đào nở ở trước vườn. Tại
sao nàng lại chỉ nhớ rõ có cái cảnh ấy? Huệ không biết, nàng chỉ mang máng cảm giác một
sự gì trong mát, tươi non... Khác hẳn bây giờ. Tâm hồn Huệ u ám và nặng trĩu xuống. Nhưng
rồi thực tại không cho họ tiếp tục suy nghĩ về quá khứ nữa , trước mắt họ là phải tiếp tục
bước đi bằng những bước chân tập tễnh trên những mảnh gai chông đời đến khi gót chân họ
đã chai sần vì sỏi đá , rướm máu vì những vết thương thể xác lẫn tâm hồn :
Huệ giật mình quay lại; Liên vỗ vai nàng, cười:
- Nghĩ gì mà thần người ra thế? Phải vui vẻ lên một tí chứ! Sắp giao thừa rồi đây này.
Huệ theo Liên đi vào và gật đầu.
- Thôi, cúng đi. Chị sửa soạn xong chưa?
Trên chiếc bàn rửa mặt đầy vết bẩn, Liên đã đặt đĩa cam quít, cái bánh chưng và thếp vàng.
Mấy gói lạp xường và giò cũng để ngay bên. Các đồ cúng nghèo nàn bỗng bầy lộ ra trước
mắt hai người. Huệ tìm lấy thẻ hương. Nàng quay lại hỏi Liên:
- Chị có mua gạo không?
- Có, gạo đây. Nhưng đổ vào cái gì bây giờ?
Hai chị em nhìn quanh gian buồng, nghĩ ngợi. Liên bỗng reo lên:
- Đổ vào cái cốc này này. Phải đấy, rất là...
Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí nàng. Cái cốc bẩn ở góc tường, mà cả đến
những khách làng chơi cũng không thèm dùng đến, nàng định dùng làm bát hương cúng tổ
tiên! Liên cúi mặt xuống, rồi đưa mắt lên trông Huệ; hai người thoáng nhìn nhau. Liên biết
rằng những ý nghĩ ấy cũng vừa mới đến trong trí bạn.
Huệ cất tiếng nói trước, thản nhiên như không có gì:
- Hay cắm trên cái chai này... Không! Cắm trên tường này cũng được, mày nhỉ.
Liên không dám trả lời, sẽ gật đầu.
Nàng đến cạnh giường lật đệm lên lấy bao diêm " Ta hãy mỉm cười thông cảm cho sự lúng
túng của hai chị em khi mới cúng giao thừa lần đầu , trong khung cảnh tối tăm, thiếu những
vật dụng tối thiểu cho cuộc sống con người , họ như những đứa trẻ còn ngơ ngác khi phải làm
những công việc người lớn mà họ chưa hề làm Trong đoạn này tác giả đã phối hợp giữa
không gian , thời gian , ngôn ngữ của nhân vật một cách rất nhuần nhuyễn như sau :
"Một lát, tiếng cánh cổng sắt dưới nhà rít lên trong yên lặng lạnh lùng. Giờ chỉ còn hai chị
em trong căn nhà. Gian buồng bỗng trở nên rộng rãi quá chừng: một cái lạnh thấm thía đến
tâm hồn. Ngoài đường trời hẳn còn mưa, mưa buồn rầu và âm thầm trong tối. Trong gian
buồng, ẩm ướt tăng thêm. Liên và Huệ đưa mắt nhìn mọi vật chung quanh. Cái giường sắt
lạnh, đệm và gối hoen bẩn, cái thau gỉ, cái bô, và cái bàn rửa mặt gỗ đã mọt... Đó là khung
cảnh của cuộc đời trụy lạc đã từ lâu...
Huệ đứng dậy hỏi bạn để cho tan sự yên lặng:
- Chị đã thắp hương chưa?
Liên cũng tự nhiên gọi Huệ là chị:
- Chưa. Chị thắp đi. Bao diêm ở bên cạnh đĩa ấy.
Khói hương lên thẳng rồi tỏa ra mùi thơm ngát đem lại cho hai nàng kỷ niệm những ngày
cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây thơ.
- Sắp đến mười hai giờ rồi đấy, Liên nhỉ?
- Có lẽ đến rồi. Năm mới!
Huệ đặt lại các đĩa trên bàn, xếp vàng cho ngay ngắn. Nàng quay lại bảo Liên:
- Chị ra khấn đi.
Liên tiến đến trước bàn thờ, đứng yên.
- Em biết khấn làm sao bây giờ?
Nàng bỗng nấc lên, rung động cả vai rồi gục xuống ghế, tay ấp mặt. Những giọt nước mắt
nóng chảy tràn mi mắt, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh mang tràn
ngập cả người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt với
những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường.
Huệ nhìn Liên rồi nhẹ nhàng đến gần, buồn rầu vỗ vai bạn:
- Liên, khóc làm gì nữa, buồn lắm.
Tiếng nàng cũng cảm động nghẹn ngào. Dưới bàn tay thân mật của bạn, Liên càng nức nở.
Hai chị em giờ này cảm thấy trơ trọi quá. Liên ngửng mặt lên nhìn Huệ, cố gượng một nụ
cười héo hắt:
- Chị cũng khóc đấy ư?
Đoạn kết Thạch Lam viết thật là cảm động, có những ngôn ngữ thầm kín bằng cử chỉ âu yếm
nhau, của đôi bạn như vừa trao cho nhau như những lời an ủi, chia sẽ nỗi khổ đau từ tâm hồn,
Cuộc sống có những điều không cần nói ra, những bằng ánh mắt, cử chỉ người ta đã hiểu
nhau và đón nhận chia sẻ đó bằng những giao cảm tuyệt vời, không phải từ hiện tại mà từ ký
ức. Những lắng đọng tiềm ẩn đó rất mong manh, nhưng nặng trĩu tình người. Khi tiếng pháo
giao thừa rền nổ ở khắp mọi nhà, Liên và Huệ im lặng, hài bối cảnh trái ngược đó đã làm tôi
rất xúc động khi Thach Lam đã khắc họa bức tranh hai mặt trái phải của cuộc đời, một chỗ
giàu sang, một chỗ nghèo khó trong vũng lầy của xã hội.
"Huệ gục xuống vai bạn, không trả lời. Nước mắt cũng ứ lên rồi lặng lẽ dào ra má. Nàng
quàng tay ôm hết sức chặt lấy Liên.
Tiếng pháo giao thừa bỗng nổi vang gần đấy rồi từ nhà nọ sang nhà kia lan rộng mãi vào
đêm tối. Liên nói sẽ như thì thầm:
- Giao thừa.
Huệ không trả lời. Hai chị em nép vào nhau, yên lặng".
Về cách kết cấu cốt truyện, Thạch Lam đã chon hai lối kết cấu rất đơn giản là kết cấu hình
tượng và kết cấu trần thuật.

Về kết cấu hình tượng: Thạch Lam đã cho ta thầy hai nhân vật Liên và Huệ mặc dù họ sống
trong vũng bùn của xã hội nhưng vẫn còn bản chất, thiên lương. tâm hồn họ còn cao thượng,
họ rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào đó mà không thể vươn lên được khiến người đọc đồng
cảm, thương hại mà không rẻ khinh. Nó là một kết cấu bề sâu, một hệ thống nối dài những sự
kiện tiềm ẩn trong nhân vật và cốt truyện như cây sinh ra trái và trái sinh ra cây .Nó là một
chuỗi hệ thống liên hoàn đến chi tiết từ nhân vật, sự kiện, không gian và thời gian .

Về kết cấu trần thuật: Thạch Lam đã xâu chuỗi những sự kiện tâm lý với cử chỉ nhân vật
trong từng thời khắc rất tuyệt vời. Từ lúc Liên mua hàng về cho đến khi Giao Thừa đến, lời
nói, cử chỉ hai người, cho ta thấy một tình bạn tuyệt vời trên cả tình bạn. Trong kết cấu trần
thuật, bề mặt cốt truyện giãi bày trước mắt chúng ta những hoàn cảnh éo le của xã hội mà
chúng ta không thể có cái nhìn phiến diện về con người và những tầng lớp trong xã hội theo
định kiến cổ điển mà hãy dấn thân thực sự với họ để rút ra những nhận định chính xác chứ
không phải ngồi đó mà suy luận quy ước nông nổi . Tuy không phải là một truyện dài phải
chia ra nhiều phần, nhiều chương, những truyện ngắn "Tối Ba Mươi" của Thạch Lam đã đạt
đến đỉnh cao của nghệ thuật viết văn này.

ĐÓI
Một cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc. Anh ta thấy cái hơi lạnh của mùa đông thấm qua lần
chăn mỏng, và thấy người mệt mỏi vì suốt đêm đã co quắp trên chiếc phản gỗ cứng.

Sinh cuốn chăn ngồi dậy. Thế là, cũng như những buổi sáng khác, một cái buồn rầu chán nản,
nặng nề ở đâu đến đè nén lấy tâm hồn.

Những đồ vật quanh mình ẩn hiện trong bóng tối lờ mờ khiến Sinh lại nghĩ đến cái cảnh
nghèo nàn khốn khó của chàng. Một cái bàn con xiêu vẹo bên góc tường, một cái chõng tre
đã gẫy dăm ba nan, một cái ấm tích mất bông và mấy cái chén mẻ, nước cáu vàng... Trong
cùng, một cái hòm da, dấu vết còn lại, của cái đời phong lưu độ trước...

Tất cả đồ đạc trong căn phòng chỉ có thế. Mà đã lâu lắm, quanh mình Sinh vẫn chỉ có những
thứ đồ tồi tàn ấy, đã lâu lắm chàng đến ở cái căn phòng tối tăm, ẩm thấp này. Những ngày đói
rét không thể đếm được nữa. Tiếng gió vi vút qua khe cửa ban đêm chàng nghe đã quen, cả
đến cái mệt mỏi lả đi vì đói, chàng cũng đã chịu qua nhiều lần rồi.

Sinh thở dài. Chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết và lạnh
lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em cùng một cảnh ngộ
với chàng... Từ lúc đó, bắt đầu những sự thiếu thốn, khổ sở, cho đến bây giờ...

Một tiếng guốc ngoài hè làm cho Sinh ngẩn lên trông ra phía cửa: vợ chàng về. Nàng vén cái
màn đỏ treo ở cửa bước vào. Sinh thoáng trông cái thân hình của vợ in rõ trên nền sáng, một
cái thân thể mảnh giẻ, gầy gò trong chiếc áo the mỏng phong phanh. Cảnh tượng ấy làm cho
chàng xót thương...

Vợ chàng đi lại cạnh giường, yên lặnh nhìn Sinh không nói gì.

Sinh vơi lấy tay nàng kéo xuống bên mình, âu yếm hỏi :

- Em đi đâu mà sớm thế?

- Em lại đằng bà Ba ở cuối phố vay tiền.

- Thế có được không?

Vơ Sinh nhìn chồng, thở dài lắc đầu :

- Ai cho chúng mình vay bây giờ. Bà ấy còn nhớ đâu đến khi trước vẫn nhờ vả mình.

Sinh buồn rầu, nói một cách chán nản:

- Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhưng bây giờ làm thế nào?
Chàng nghĩ đến cái thạp gạo đã hết, mà trong túi không còn được một đồng xu nhỏ... Đã hai
hôm nay, chàng và vợ chàng thổi ăn bữa gạo cuối cùng, đã hai hôm, cái đói làm cho chàng
khốn khổ...

- Làm thế nào?

Vợ chàng nhắc lại câu hỏi ấy, rồi cúi mặt khóc. Một mối tình thương tràn ngập vào trái tim
chàng như một làn sóng mạnh. Sinh nắm chặt lấy tay vợ ôm vào lòng, đắm đuối, thiết tha.
Chàng chỉ muốn chết ngay lúc bấy giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở
trên vai...

Buổi chiều đến đem theo những cơn gió lạnh lùng. Sinh bắc ghế ra cái hiên nhỏ trước cửa
phòng, tựa vào bao lơn nhìn xuống nhà... Chỗ chàng thuê ở là một căn nhà hẹp và dài, chia
làm nhiều phòng. Mỗi gian phòng là một gia đình che chúc ở, toàn là những người nghèo
buôn bán ở các nơi.

Giờ này là giờ họ làm cơm. Trông thấy họ tấp nập làm lụng, Sinh lại nghĩ đến cái bếp nhà
mình bây giờ vẫn còn tro lạnh, chàng lại lo không biết vợ đi từ sáng đến giờ sao mãi không
thấy về, mà về không biết có đem cái gì không, hay lại chỉ một mối thất vọng như nhiều lần...

Nghĩ đến, Sinh lại đem long thương, thương người đàn bà xưa nay vẫn quen thói đài điếm
phong lưu, mà bây giờ phải chịu khổ vì chàng... Hai bên gặp gỡ nhau trong một tiệc rượu
dưới xóm cô đầu. Hồi ấy, chàng còn là một người có việc làm, còn là một người có lắm tiền.
Quen biết nhau, rồi yêu mến nhau, chàng đã chẳng quản sự ngăn trở của nhà lấy nàng về. Đôi
vợ chồng đã cùng nhau sống những ngày sung sướng, ái ân, những ngày còn để lại trong trí
chàng một kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi. Rồi sự nghèo
nàn đến, đem theo những cái nhọc nhằn, khổ sở, đem theo những ngày đói rét.

Tuy vậy, sự khổ sở chàng nhận thấy không làm cho vợ chàng bớt tình yêu đối với chàng.
Cũng vẫn nồng nàn, đằm thắm như xưa, cái ái tình của đôi bên chỉ có thêm màu cay đắng vì
xót thương nhau.

Cái hình ảnh một thân thể yếu đuối, mảnh giẻ in trên nền trời sáng buổi sớm mai lại thoáng
hiện ra trước mắt Sinh. Chàng nhớ lại cái thất vọng không vay được tiền, đôi con mắt buồn
rầu, đắm đuối nhìn chàng như ngụ biết bao nhiêu âu yếm, bao nhiêu hy sinh.

Một cơn gió đến làm cho Sinh thấy lạnh buốt tới xương. Chàng thấy đói, một sự đói vô cùng
như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa
lên, trong vật gì cũng lờ mờ như lay động.

Khi còn đủ ăn, đủ mặc, chàng không hề để ý đến cái đói, không bao giờ nghĩ đến. Bây giờ
chàng mới được hiểu biết cái đói như thế nào. Chàng rùng mình khi nghĩ đến trước cái mãnh
liệt của sự đói, chàng cảm thấy sự cần dùng của thân thể tràn áp đuợc hết cả những lệ luật của
tinh thần.

Mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân nhà đưa lên làm cho chàng khó chịu vô cùng. Sinh cúi đầu trên
bao lơn nhìn xuống xem họ làm bữa cơm chiều. Các thức ăn tuy tầm thường, nhưng Sinh lấy
làm lạ rằng chàng chưa bao giờ thèm muốn những cái đó như chàng thèm muốn bây giờ. Mấy
miếng đậu vàng trong chảo mỡ phồng dần trên ngọn lửa, mấy con cá rán bắt đầu cong lại làm
cho chàng ao ước đến rung động cả người...
Không bao giờ chàng thèm muốn như bây giờ cái miếng ăn kia.

Trước kia, khi nghe chuyện người ta tranh giành nhau vì miếng ăn, chàng vẫn mỉm cười
khinh bỉ. Chàng cho rằng miếng ăn là một sự không đáng kể, chỉ có cái thanh cao trong sạch
của linh hồn mới là cần. Nhưng bây giờ, trong cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần
mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào.

Và chàng, trước kia phong lưu trưởng giả, trước kia khi đi qua đám bình dân bẩn thỉu và
nghèo nàn này, chàng vẫn khinh và tự hỏi không biết họ sống để làm gì, sống để mà khổ sở,
để mà đói rét, không biết sống đối vơi họ có ý nghĩa gì mà còn ham mê quyến luyến. Bây giờ
chàng lại ao ước được một miếng ăn như họ để sống qua cái rét mướt bây giờ...

Một bàn tay nhẹ nhàng để lên trên vai Sinh quay lại, vợ chàng tươi cười, giơ ra trước mặt
mấy cái gói giấy bóng, gọn gàng, sạch sẽ, mà chàng thoáng trông, Sinh cũng nhận biết ngay
là những thức ăn được, mà rất ngon, ở các hiệu tây mới có. Mùi thịt ướp và mùi giò thoang
thoảng đưa qua. Sinh rung động cả tay khi lần cởi những giây buộc chung quanh. Chàng sung
sướng hỏi:

- Ồ! Ở đâu thế này? Em Mai lấy tiền đâu mà mua thế?

Mai nghe Sinh hỏi:

- Anh cứ ăn đi đã! Ăn cho đỡ đói, rồi em kể chuyện cho anh nghe. Thật là may quá, mà cái bà
ấy thực phúc đức quá, anh ạ...

- Ai thế? Kể đi cho anh nghe.

Mai âu yếm nhìn chồng:

- Không, anh cứ ăn đi đã kia. Vừa ăn, em sẽ vừa nói chuyện...

Rồi nàng nhanh nhẹn đặt mấy cái gói giấy lên bàn, mở những tờ giấy bọc ngoài. Sinh nhìn
thấy mấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong như thủy tinh, mấy khoanh giò nạc mịn
màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ...

Mai cất tiếng vui vẻ:

- Thế này nhé, em ở nhà đi cũng là đi liều chứ thật không biết đến nhờ vả ai được. Anh còn lạ
gì các bạn hữu bây giờ: họ thấy mình nghèo khổ, thì ai người ta giúp, vì có mong gì mình trả
lại người ta được. Vì thế em mới lang thang ngoài phố, nghĩ lúc bấy giờ cực thân quá, anh ạ,
chỉ muốn đâm đầu xuống sông cho rảnh...May quá, vừa lúc ấy, lại gặp ngay bà Hiếu, một
người quen biết từ trước. Bà trông thấy em, vồn vã hỏi han như người bắt được của...

Mai nói nhanh, liếng thoắng:

- Bà tử tế quá... Cho em vay tiền, lại còn hứa giúp vốn để em buôn bán nữa. Rồi nay mai, em
đi buôn cau, anh nhé. Thật không ngờ có bà biết thương người đến như thế...

Sinh sung sướng:

- Nếu không thì chúng ta đành nhịn đói ngày hôm nay. Nhưng sao em mua hoang thế này?
Mai cúi đầu cười, hai má đỏ hồng, mấy sợ tóc rối tung trên trán càng tăng thêm vẻ kiều mỵ
của nàng.

Nàng thò tay vào trong túi áo, rút ra một tập giấy bạc, vứt ra trước mặt Sinh rồi nhanh nhẹn
vui vẻ bước vào trong nhà.

- Anh đợi em một lát, em đi lấy dao cắt bánh.

Nàng quay lưng đi, Sinh chợt trông thấy trên mặt đất một mảnh giấy gấp rơi xuống đất.
Chàng vô tình cúi xuống nhặt lên mở ra đọc:

Em Mai,

Đây, anh đưa em số tiền anh đã hẹn. Em muốn lấy nữa, anh sẽ cho em nốt, nhưng thế nào tối
nay em cũng phải đúng hẹn đến đấy, anh đợi...

Tờ giấy trên tay Sinh rơi lúc nào chàng cũng không biết. Một cái sức nặng nề như đè nén lấy
quả tim, làm cho chàng ngừng thở. Hình như một giây phút, bao nhiêu cái hy vọng sung
sướng của đời chàng tan đi mất.

Sinh tưởng có thể chết ngay trong lúc ấy. Cái đau đớn chàng cảm thấy thấm thía, và sâu xa
quá.

Còn mong gì đó là một sự không thật, một giấc mộng nữa. Không còn phải ngờ vực gì, cái số
tiền kia chính là cái số tiền bên trong thư này. Ai cho vay mới được chứ! Sinh nhớ lại những
ngày đi hỏi tiền, những buổi trở về thất vọng và buồn rầu, những lời tha thiết và oán hờn của
vợ chàng kể lại, về cái lãnh đạm, hững hờ của những người nàng quen biết. Bà Hiếu là bà
nào! Chẳng qua là một sự bịa đặt ra để che mắt chàng.

Sinh thấy cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng; đôi môi chàng tự nhiên nhách lên một
cách khinh bỉ, chàng run người lên, khẽ rằn từng tiếng:

- Đồ khốn nạn.

Quả tim buốt như có kim đâm. Sinh nắm chặt lấy thành ghế, nhìn cuốn bạc giấy để trên bàn,
nhìn gói đồ ăn đang mở dở rồi cúi mình xuống nhặt tờ giấy gấp lên.

Một lát, yên lặng. Rồi Sinh nghe rõ tiếng tấm màn vải ở cửa vắt lên trước gió, tiếng dép đi
nhẹ nhàng, gần đến bên chàng... Sinh cố hết sức cắn môi để đè nén cơn giận dữ đang sôi nổi
trong lòng, nắm chặt tay hơn nữa cho khỏi rung động cả người.

Tay vuốt nhẹ trên tóc Sinh, vợ chàng đưng sát hẳn ngay bên người. Nàng giở giấy ra, lấy dao
cắt bánh, vui vẻ:

- Anh xem bánh này có ngon không? Em mua ở hàng Trống kia đấy. Miếng thịt ướp này là
hạng ngon nhất, em đã phải trả đến năm hào đấy, anh ạ. Để em cắt cho anh nhé. Hinh như
anh đói lắm thì phải. Em cũng thế. Thôi chúng ta hãy ăn cho no đã, rồi sẽ liệu sau...

Nàng cắt xong miếng thịt ướp, xếp lên đĩa, tươi cười nói tiếp:
- Kìa, anh ăn đi chứ? Thật là may cho chúng mình quá. Nếu hôm nay em không gặp bà Hiếu
thì không biết chúng ta làm thế nào nhỉ?

Nàng vỗ vào vai Sinh, lay chồng:

- Làm thế nào? Lại nhịn như mọi hôm, chứ còn làm thế nào nữa, anh Sinh nhỉ! Anh nên cám
ơn bà ta đi. Bà thật là một người tốt, hiền hậu biết thương người. Em vừa mở miệng hỏi, thì
bà đã lần ruột tượng đưa ngay cho em 15 đồng tất cả đấy, anh ạ...Cuốn giấy bạc anh chưa
đếm à? Em không nói dối anh đâu.

Cái giận của Sinh lên đến cực điểm: chàng không nén nổi nữa. Cái tên bà Hiếu làm chàng uất
ức, vì chàng rõ những nhời giả dối của vợ chàng, giả dối một cách khôn khéo, tự nhiên như
thật vậy...Mai lại đến nỗi như thế ư? Đôi mắt trong, cái khuôn mặt hiền hậu như thế kia
không ngờ lạicó thể giấu được những sự tối tăm như bây giờ...

Vùng mạnh cánh tay, Sinh hất Mai ra xa như người ta hất một con vật đáng ghê sợ. Mai lảo
đảo lùi lại sau ngã dúi vào tường, vành khăn tung, tóc xổ. Nàng giương to con mắt ngạc nhiên
nhìn chồng:

- Ô hay! Anh làm sao thế?

Sinh cất tiếng cười, hai hàm răng rít lên, cái tiếng cười ghê gớm như tiếng cười của một
người điên:

- Làm sao à? Cô lại còn hỏi tôi tại làm sao nữa...Thôi, đừng vờ đi, đừng giả dối nữa...

Sinh mở bàn tay giơ ra tờ giấy gấp đã nát nhàu:

- Thế cái giấy gì đây mới được chứ?

Mai trông thấy mặt xám đi, hai tay ôm lấy đầu, người run lẩy bẩy. Giọng nói của Sinh càng
thêm vẻ chế riễu, mỉa mai, chua chát:

- Bà Hiếu tử tế đấy! Úi chà! Nào là bà ấy tử tế, nào là thương người, nào là hiền hậu... Sao
không nói, bà ấy hẹn đến đêm nay lại đến nữa.

Mai cúi đầu ôm mặt khóc nức nở. Cái tiếng khóc ấy không làm cho Sinh bớt giận, lại chỉ làm
tăng thêm lên như ngọn lửa đổ thêm dầu. Càng nói Sinh lại càng thấy cái giận như sôi nổi,
bồng bột trong lòng. Mai sợ hãi nép vào tường, thổn thức, ngập ngừng, khẽ gọi:

- Anh Sinh...Anh...

Sinh như không nghe thấy tiếng, nói luôn:

- Cô còn khóc làm gì nữa... Cô đi ngay đi, đi ra khỏi cái nhà này, tôi không muốn thấy mặt cô
một phút nào nữa. Cô cầm lấy cái này...

Sinh giơ tay vơ cuốn giấy bạc trên bàn ném mạnh vào người Mai; giấy bạc tung ra rơi lả tả
trên thềm. Chàng hất cả mấy gói đồ ăn xuống đất, những mẫu bánh, miếng thịt bắn tung tóe
dưới bàn...
- Không ai thèm ăn những thứ khốn nạn này!

Rồi chàng mệt nhọc ngả người trên ghế, hai tay dây mỡ ôm lấy trán, không để ý đến Mai
đang sợ hãi giơ tay về phía chàng cầu khẩn, van xin. Rồi nàng nấc lên khóc, kéo vạt áo che
mặt, đi ra phía ngoài.

Sinh cúi đầu ngẫm nghĩ; cái giận dữ đã tan đi, để lại một nỗi buồn rầu chán nản vô cùng. Sinh
thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột gan. Nghĩ đến những
ngày đói rét khổ sở đã qua, đến mấy năm sống trong cảnh nghèo nàn, Sinh uất ức căm giận
cho cái số phận của mình. Nhưng tại sao lại có thêm một sự đau đớn nữa? Tại sao Mai trước
kia đã từng bao phen khổ sở cùng chàng, đến bây giờ đem thân bán đi lấy một vài đồng bạc,
tại sao Mai lại làm sự khốn nạn như giờ...

Bao nhiêu đau đớn trong tâm can làm Sinh thổ thức, nghẹn ngào. Quả tim không đủ chứa nổi
nỗi đau thương, Sinh gục xuống bàn.

Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng nhiên tất cả người chàng
chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và béo của những miếng thịt ướp mỡ
còn dính ở tay.

Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, ác hẳn cả nỗi buồn. Chàng muốn
chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác đói đã lan ra cả khắp người như
nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo của miếng
thịt ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng, mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm
thấu tận ruột, gan, như thấm nhuần vào xương tủy.

Sinh cúi xuống nhìn gói đồ ăn tung tóe dưới bàn, chàng lấm lét đưa mắt nhìn quanh, không
thấy Mai đứng đấy nữa... Khẽ đưa tay như ngập ngừng, sợ hãi, Sinh vớ lấy miếng thịt hồng
hào.

Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm chặt miếng thịt trong tay, nhây nhớp
mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng...

Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính trên mặt giấy bóng mỡ. Sinh
thấy nóng ran trong bụng. Chàng ưỡn người ra đằng sau khoan khoái thở dài. Nhưng chàng
nhớ lại bức thư, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng khóc thổn thức của Mai nép bên tường, nhớ lại
những lời khinh bỉ, mỉa mai, chua xót. Chàng nhớ lại nỗi uất ức, đau đớn của mình...

Một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh lấy hai tay ôm mặt, cúi đầu khóc nức
nở.

Phân tích:

● Cái đói sinh lý:


- Sinh thất nghiệp, không còn tiền, nhà lại hết gạo
- Bị kích thích bởi “mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân”
● Cái đói trong tâm lý:
- Đau xót khi nhớ về quá khứ:
+ khi còn đủ ăn, đủ mặc, Sinh không bao giờ nghĩ về cái đói; chỉ khi lâm vào
cảnh kiệt quệ, chàng mới hiểu rõ cái mãnh liệt của sự đói
+ chàng vốn khinh bỉ khi thấy người ta tranh giành nhau vì miếng ăn, cho rằng
“miếng ăn là một sự không đáng kể, chỉ có cái thanh cao trong sạch của linh
hồn mới là cần”. Nhưng giờ đây, chàng mới hiểu rõ cái cần mạnh mẽ của
miếng ăn
+ chàng từng khinh thường “đám bình dân bẩn thỉu và nghèo nàn”, coi họ không
có mục đích cuộc sống; giờ đây lại chỉ mong có cái ăn như họ để sống qua cái
rét mướt
=> bi kịch của người trí thức thất nghiệp: những hoài bão, ước mơ cao cả bị vùi lấp, cuộc
sống gặp cảnh “áo cơm ghì sát đất”; khi ấy họ mới thấm thía được những giá trị bình dị của
cuộc sống
- “Đói” khi nhân cách cao đẹp bị xúc phạm:
+ khi Mai mua đồ ăn từ tiền mà nàng nói là vay được của bà Hiếu: Sinh sung
sướng vì có đồ ăn lấp đầy chiếc bụng đói
+ khi thấy mảnh giấy “bán thân” của vợ: cảm thấy “tưởng có thể chết ngay trong
lúc ấy”, “cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng”
=> nhân cách không cho phép Sinh tiêu những đồng tiền không trong sạch
+ sau khi đuổi Mai đi: “thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và néo của những miếng
thịt ướp mỡ còn dính ở tay”; lúc ấy, “cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé
gan”; chàng nhặt miếng thịt mình vừa ném xuống đất, “ăn vội vàng, không kịp
nhai, kịp nuốt”
=> cái đói, cái nghèo đã làm con người tha hóa về nhân phẩm

GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA


Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo trước. Vừa mới ngày hôm qua giời
hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm nứt nẻ đất ruộng, và làm ròn khô
những chiếc lá rơi. Sơn và chị chơi cỏ gà ở ngoài cánh đồng còn thấy nóng bứt, chảy mồ hôi.

Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người
ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng khôg bước xuống
giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc, bên cạnh đứa em bévẫn nắm tay
ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy, đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn
nhìn thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi.

Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió vi vu làm bốc lên những màn
bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời không u ám, toàn một màu trắng đục. Những
cây lan trông chậu, lá rung động và hình như sắc lại vì rét.

Sơn cũng thấy lạnh, vội vơ lấy cái chăn trùm lên đầu rồi cất tiếng gọi chị. Mẹ Sơn nghe thấy,
đặt chén nước chè xuống, bảo chị Lan:

- Con vào buồng lấy thúng áo ra mẹ mặc cho em, đi.

Rồi quay lại bảo Sơn:

- Con sang đây mà ngồi cho ấm. Bước khéo để cho em bé ngủ.

Sơn kéo chăn lên đắp cho em, ngồi xếp bằng bên khay nước. Mẹ Sơn rót cho một chén, Sơn
cầm lấy chén chè nóng ấp vào mặt, vào má cho ấm, rồi để mặt vào miệng chén cho hơi bốc
lên. Bà Sơn thường vẫn bảo làm thế cho tỉnh mắt.
Người vú già xù xù cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ dưới nhà lên, vừa xuýt xoa vừa
nói:

- Rét quá! Múc nước cóng cả tay.

Vú giơ tay hơ trên hỏa lò. Mẹ Sơn hỏi:

- Năm nay rét sớm hơn mọi năm vú nhỉ?

Người vú già ra vẻ nhớ lại, đáp:

- Cũng chả bằng cái năm mợ đi cân gạo bên Sông. Gớm, mới rét làm sao! Sáng tôi dậy, bà sai
đi chợ, cứ run lên cầm cập.

Sơn cũng nhớ cái rét năm ấy rõ rệt lắm, như mới đây thôi. Buổi sớm hôm ấy, mẹ Sơn cũng
ngồi uống nước chè như sáng hôm nay và cũng lấy áo rét ra mặc.

Chị Lan từ trong buồng đi ra, khệ nệ ôm cái thúng quần áo đặt lên đầu phản. Mẹ Sơn đặt cái
vỉ buồm lục đống quần áo rét. Sơn nhận ra cũng những cái áo Sơn đã mặc năm ngoái, năm
kia: một cái áo vệ sinh màu nâu sẫm với một cái áo dạ khâu chỉ đỏ. Sơn cầm giơ những cái áo
lên, thấy mát lạnh cả tay. Từ bộ quần áo thoảng ra hơi mốc của vải gấp lâu trong hòm, làm
Sơn nhớ lại những buổi đầu mùa rét từ bao giờ, lâu lắm, ngày Sơn còn nhỏ.

Mẹ Sơn giơ lên một cái áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn, nói:

- Đây là áo của cô Duyên đây.

Duyên là đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Mẹ Sơn nhắc đến làm Sơn nhớ
em, cảm động và thương em quá. Vú già là người đã nuôi Duyên từ lúc mới đẻ, với lấy cái áo
lật đi lật lại ngắm nghía,tay mân mê các đường chỉ:

- Giá bây giờ em nó có còn cũng chả mặc được.

Mẹ Sơn yên lặng không nói gì. Nhưng đến lúc nói với Sơn lại để mặc áo, Sơn thấy mẹhơi
rơm rớm nước mắt.

Sơn đã mặc xong áo ấm áp: cả cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải
thâm dài. Sơn đứng trên giường trước mặt mẹ, đã quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ Sơn
ngắm áo. Sau cùng, mẹ Sơn vuốt các tà áo cho phẳng phiu, rồi đẩy Sơn ra, bảo:

- Thôi, con đi chơi.

Sơn xúng xính rủ chị ra chợ chơi. Nhà Sơn ở quay lưng vào chợ, cạnh một dãy nhà lá của
những người nghèo khổ mà Sơn quen biết cả vì họ vẫn vào vay mượn ở nhà Sơn. Sơn biết lũ
trẻ con các gia đình ấy chắc bây giờ đương đợi mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo.

Không phải ngày phiên, nên chợ vắng không. Mấy cái quán chơ vơ lộng gió, rác bẩn rải rác
lẫn với lá rụng của cây đề. Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh, và cay mắt. Nhưng chân trời
trong hơn mọi hôm, những làng ở xa Sơn thấy rõ như ở gần. Mặt đất răn lại, và nức nẻ những
đường nho nhỏ, kêu vang lên lanh tanh dưới nhịp guốc của hai chị em.
Đến cuối chợ đã thấy lũ trẻ đang quây quần chơi nghịch. Chúng nó thấy chị em Sơn đến đều
lộ vẻ vui mừng, nhưng chúng vẫn đứng xa, không dám vồ vập. chúng như biết cái phận
nghèo hèn của chúng vậy, tuy Sơn và chị vẫn thân mật chơi đùa với, chứ không kiêu kỳ và
khinh khỉnh như các em họ của Sơn.

Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của
Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường, vẫn những bộ quần áo nâu bạc
đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó tím lại, và qua những chỗ áo rách, da
thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau.

Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo của Sơn, nó chưa thấy cái áo như thế bao giờ. Sơn lật vạt
áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem. Một đứa tắc lưỡi, nói:

- Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc mua phải đến một đồng bạc chứ không ít, chúng mày
nhỉ.

Đứa khác nói:

- Ngày trước thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán cho ông lý mất.

Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn:

- Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?

Sơn ưỡn ngực đáp:

- Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo len nhiều tiền hơn
nữa kia.

Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào cột quán, gọi:

- Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.

Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn thấy chị gọi nó không lại,
bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở
cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:

- Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc? Con bé bịu xịu nói:

- Hết áo rồi, chỉ còn cái này.

- Sao không bảo u mày may cho?

Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề đi mò cua bắt ốc thì còn
lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động lòng thương, cũng như ban sáng Sơn
đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn cùng nói với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một
ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí, Sơn lại gần chị thì thầm:

- Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.

- Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.


Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo. Sơn đứng lặng yên đợi,
trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui.

Nhưng cái vui của Sơn không được bao lâu. Bữa cơm về tới nhà, Sơn không thấy mẹ đâu cả,
hỏi vú già:

- Mợ tôi đi đâu hở vú?

- Chị Lan và cậu cứ ăn cơm trước đi. Mợ còn đi ăn giỗ đến trưa mới về.

Rồi vú già nhìn rõ vào mặt Sơn, hỏi:

- Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?

Sơn ngạc nhiên đáp:

- Phải. Nhưng sao vú biết?

- Con Sinh nó nói với tôi đấy-Sinh là đứa em họ của Sơn, vẫn hay nói hỗn với vú già, nên vú
ấy ghét-Nó lại còn bảo hễ mợ về nó sẽ sang mách với mợ cho cậu phải đòn.

Sơn lo quá, sắp ăn, bỏ đũa đứng dậy, van:

- Thế bây giờ làm thế nào, hở vú? Mợ tôi biết thì chết.

- Ai bảo cậu dại dột đem cho áo nó? Bây giờ cậu sang bảo cái Hiên trả lại thì không việc gì.

Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên nhưng không thấy con bé ở đó. Đến nhà cũng không thấy
ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ, đi ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Gần đến
buổi chiều, Sơn và chị chưa đòi được áo. Lan trách em:

- Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ me mắng chết không.

- Ai bảo chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu.

Chị Lan đấu dịu:

- Thôi, bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào.

- Nhưng mà em sợ lắm.

Chị Lan thở dài, nắm chặt lấy tay em, an ủi:

- Đằng nào cũng phải về cơ mà. May r a có lẽ me không mắng đâu.

Hai chị em lo lắng dắt nhau lẻn về nhà. Đến cửa, Sơn nghe thấy tiếng mẹ nói ở trong với
tiếng một người đàn bà khác nữa, nghe quen quen. Lan dắt tay Sơn khép nép bước vào, hai
chị em ngạc nhiên đứng sững ra khi thấy mẹ con Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất trước
mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ.

Thấy hai con về, mẹ Sơn ngửng lên nhìn rồi nghiêm nghị bảo:
- Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện đem cho đấy?

Sơn sợ hãi, cúi đầu lặng im, nép vào sau lưng chị. Bác Hiên vừa cười vừa nói:

- Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông tôi hỏi ngay. Nó bảo của cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu
ở đây đùa, nên tôi phải vội vàng đem lại đây trả mợ. Thôi, bây giờ, xin phép mợ tôi về.

Mẹ Sơn hỏi:

- Con Hiên không có cái áo à?

- Bẩm nhà cháu độ này khổ lắm, Chẳng để dành được đồng nào may áo cho con cả. Thành
thử vẫn cái áo từ năm ngoái nó mặc mãi.

Mẹ Sơn với cái âu đồng, lấy tiền đưa cho bác Hiên:

- Đây, tôi cho mượn năm hào cầm về mà may áo cho con.

Khi bác Hiên bước ra khỏi cửa, mẹ Sơn vẫy hai con lại gần, rồi âu yếm ôm vào lòng mà bảo :

- Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta không sợ mẹ mắng ư?

Phân tích:
- Đề tài: là một khái niệm về loại của hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu
loại hiện tượng đời sống thì có bấy nhiêu đề tài. Tuy nhiên, cần thấy rõ, đề tài mang
dấu ấn rõ rệt của đời sống khách quan nhưng nó cũng là sự ghi nhận dấu ấn chủ quan
của nhà văn. Bản chất đề tài không mang tính tư tưởng những cách thức lựa chọn đề
tài trong tính hệ thống của quá trình sáng tác đã mang tính tư tưởng. Bởi vì, việc lựa
chọn đề tài này chứ không phải đề tài khác để thể hiện đã cho thấy, nhà văn coi chính
đề tài ấy là lựa chọn quan trọng hơn cả, đáng quan tâm hơn cả trong cái thời điểm
sáng tác đó. Qua sự lựa chọn ấy, nhà văn đã thể hiện khá rõ tính khuynh hướng trong
lập trường tư tưởng của mình
- Gió đầu mùa của Thạch Lam hiện lên trước mắt người đọc những cảnh đời khó khăn,
khốn khổ luôn chịu nhiều bất công trong xã hội. Cuộc sống của những người dân rơi
vào hoàn cảnh khốn cùng, phải sống một cuộc đời đầy tăm tối, cái nghèo đói luôn đeo
bám họ, số phận bất hạnh của những con người cùng khổ. Khung cảnh của một phố
chợ nghèo nàn, những cảm xúc của một kiếp người phải sống trong bóng tối của cuộc
đời đã được nhà văn đề cập đến một cách cặn kẽ.
- Chủ đề: Nếu đề tài là một nhân tố tương ứng với đối tượng miêu tả của tác phẩm thì
chủ đề lại là một bộ phận quan trọng của tác phẩm theo một chiều tư tưởng nhất định.
Chủ đề là vấn đề “toát lên” từ nội dung trực tiếp của tác phẩm theo một chiều hướng
tư tưởng nhất định. Chủ đề là một nhân tố khái quát, chủ đề không chỉ là chất liệu trực
tiếp mà còn được thể hiện thông qua những chất liệu trực tiếp. Khi đi vào phân tích
tác phẩm, có thể thấy những trường hợp cách khai thác chủ đề của người phân tích
không giống nhau tùy theo quan điểm tư tưởng và trình độ nhận thức của từng người.
Truyện ngắn Gió đầu mùa của Thạch Lam là một chuỗi những tác phẩm nói về số
phận bất hạnh của những con người cùng khổ, gánh chịu nhiều khổ cực trong cuộc
sống, phải sống trong bóng tối của cuộc đời. Và qua tác nhầm đó Thanh Lam nhằm
hiện thực nhân nhân xã hội thực dân bất công tàn bạo, áp bức người dân. Ông cảm
thương cho những con người sống trong hoàn cảnh khó khăn, cái nghèo đói luôn đeo
bám họ, nhưng đâu đó trong họ vẫn luôn ánh lên những hy vọng về một cuộc đời mới,
thoát khỏi cảnh nghèo đói đã theo họ suốt năm tháng của một đời người.
- Nội dung tư tưởng: Cùng với chủ đề, tư tưởng là một yếu tố cơ bản trong nội dung
của tác phẩm văn học. Khái niệm tư tưởng tác phẩm có ý nghĩa rộng bao gồm nhiệt
tình, thái độ, cũng như toàn bộ quan điểm nhận thức và đánh giá của nhà văn về hiện
thực được miêu tả trong tác phẩm. Tư tưởng của tác phẩm có thể được biểu hiện ở
nhiều mức độ khác nhau tùy theo ý thức giác ngộ của nhà văn về lý tưởng, cuộc đấu
tranh xã hội, cũng tùy thuộc vào khuôn khổ, những giới hạn của thời đại tạo điều kiện
cho nhà văn nhận thức và giải quyết vấn đề đến mức độ nào. Trong tập truyện Gió
đầu mùa của Thạch Lam luôn xoay quanh những kiếp người cùng khổ, phê phán xã
hội thực dân đã đẩy người dân vào tình cảnh khốn cùng không lối thoát. Giá trị hiện
thực nhân đạo vẫn luôn hiện diện trong từng tác phẩm, Thạch Lam cảm thông và thấu
hiểu những nỗi khổ mà người dân phải gánh chịu, họ luôn vật vã để tìm thấy một chút
ánh sáng của cuộc đời nhưng thổi đời đen bạc không cho họ một tia hy vọng và ngày
mai tươi sáng.Tác phẩm cũng phần nào đã cho người đọc thấy được những cảnh đời
khó khăn, vất vả trong cuộc sống nhưng họ trong bao giờ chịu đầu hàng trước số
phận, dù cuộc đời phía trước vẫn là bóng tối nhưng ý chí và nghị lực vẫn luôn đánh
bại bóng tối ấy, ánh sáng của niềm tin là ngọn lửa duy nhất cho họ để vượt qua bản
thân vượt qua cảnh nghèo đói
CÔ HÀNG XÉN
Cô Tâm bớt mệt hẳn đi khi nhìn thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù. Cùng
một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và nghe thấy tiếng lá
rào rào và tiếng thân tre cót két. Cô sắp về đến nhà rồi, gánh hàng trên vai nhẹ đi, và những
cái uốn cong của đòn gánh bây giờ nhịp với chân cô bước mau. Cô thấy chắc dạ và ấm cúng
trong lòng, bỏ hẳn nỗi lo sợ từ nãy vẫn quanh quẩn trong trí khi cô qua quãng đồng rộng, trơ
gốc rạ dưới gió bấc vi vút từng cơn.

Qua cái cổng gạch cũ, cô vào hẳn trong làng. Ngõ tối hơn, đất mấp mô vì trâu bước, nhưng
cô thuộc đường lối lắm. Chân cô dẫm lên lá tre khô và tai nghe tiếng xao xác đã quen; mùi
bèo ở dưới ao và mùi rạ ướt đưa lên ẩm ướt. Ði ngang các nhà quen, cô thấy ánh sáng đèn
chiếu qua rào, và tiếng những người quen thuộc ở trong đưa ra.

- "À, bác cả Sĩ đã về rồi". Lần nào hàng bác cũng bán hết sớm, bác cũng ra về trước vì nhà có
con mọn. Còn cô, cô cũng có thể về sớm được vì chợ chiều cũng vắng người mua. Nhưng cô
còn cứ vui chị vui em, lần khần ở lại. "Chỉ tại con Liên nó cứ giữ mình để về một thể. Bây
giờ nó đã về đến nhà chưa ?"

Cô Tâm lại nghĩ đến mình, mẹ già đang mong đợi và các em đang nóng ruột vì quà. Gói kẹo
bỏng cô đã gói cẩn thận để ở dưới thúng, mỗi đứa sẽ được hai cái. Chắc hẳn chúng sẽ vui
mừng lắm.

Tâm vội vã bước mau. Trước đình, sân gạch rộng đầy bóng tối và yên lặng; con sấu đá vẫn
phục yên trên bệ ở ngoài, hình dáng quen thuôc quá. Bỗng cô dừng lại; cô suýt va phải một
người ở ngõ rẽ ra. Người kia cũng tránh sang bên, sát vào hàng rào. Nhưng Tâm nhận ra
ngay:

-- Bác Mỹ đấy ư ? Ði đâu mà tối thế ?

Người kia tiến một bước, nhìn tận mặt: "Ai ? A, cô Tâm, cô đi chợ về."

Tâm đã bước xa rồi, hàng tre vi vút thêm, trời lại lấm tấm mưa lạnh rơi xuống mặt. Cô đi qua
nhà bà cụ Nhiêu rồi về đến ngõ. Cánh cửa gỗ chưa đóng. Cô xoay đầu đòn gánh đẩy cửa rồi
bước vào. Tất cả cái tối tăm rét mướt, và cánh đồng hoang vắng cô để lại ở ngoài. Ðây là nhà
rồi. Mùi phân trâu nồng ấm sặc ngay vào cổ; thoáng qua, cô nghe tiếng chân trâu đập trong
chuồng. Con vá thấy động sủa lên, rồi chạy lại vấp vào chân quấn quít. Trong nhà mấy đứa
em reo:

-- A, á. Chị Tâm đã về.

Tâm đặt gánh ở trên thềm. Ánh đèn chiếu ra, cô thấy quần áo lấm tấm ướt vì mưa bụi. Thằng
Lân chạy ra trước nhất, xuýt nữa vấp vào cửa bực bàn. Rồi thằng Ái, con Bé cũng theo ra.

-- Quà của chúng em đâu, chị ?

Nó cúi xuống định lục vào gánh hàng, Tâm vội bảo em:

-- Ấy chớ, để chị lấy cho, không khéo vỡ cả kính.

Cô nhìn xuống ô hàng; mưa chỉ hơi phớt trên kính, chưa việc gì. Hàng không có cái gì ướt.

-- Kẹo đây, mỗi đứa hai chiếc.

Chúng nó xúm cả chung quanh chị.

-- Em bé ngoan ngoãn quá, đây phần riêng chị dành em đây này.

Bỗng tiếng dịu dàng của bà Tú ở dưới nhà đưa lên:

-- Tâm con đã về đấy ư ?

-- Thưa u, vâng ạ.

Bà Tú đến dắt lũ con, khẽ bảo:

-- Chúng mày háu ăn quá, không để cho chị vào đến nhà nữạ Rồi quay lại Tâm:

-- Con rửa chân tay rồi đi ăn cơm kẻo đói. Sao về muộn thế, con ?

-- Thưa u, hôm nay con ngồi chợ Son ạ. Con Gái từ nãy ở dưới bếp lên cứ đứng mải góp
chuyện ở trên thềm. Bà Tú quay ra bảo:

-- Kia không cất hàng vào cho cô, còn đứng làm gì ở đấy ?
Trong nhà ấm cúng, khác hẳn ở ngoài. Ngọn đèn thân mật chiếu trên án thư, những nét vàng
đã cũ của câu đối hoành phi lờ mờ ánh trong bóng tối. Mâm cơm đậy lồng bàn còn để ở giữa
phản.

-- Con ngồi đây rồi ăn cơm. Trời rét thế này thì mai nghỉ chọ thôi con ạ. Di làm gì cho nó khổ
?

Em bé nói theo:

-- Chị ở nhà với chúng em chị ạ. Mai chủ nhật chúng em được nghỉ.

Tâm mỉm cười xoa đầu em. Cô sung sướng vì thấy mẹ săn sóc, các em mến yêu. Bao nhiêu
nỗi mệt nhọc cô thấy tiêu tán cả. Những lúc này khiến cô quên hết cả bao nhiêu nỗi e ngại
khó khăn. Cô thấy vui vẻ và nẩy nở trong thâm tâm những ý muốn tốt đẹp cho gia đình. Bà
Tú lại âu yếm giục:

-- Con ăn cơm đi, không đói. Thôi, hãy để đấy rồi bảo con sen nó cất cho có được không.

Tâm đáp: "vâng"; nhưng cô vẫn chưa lại ngồi ăn ngay. Cô còn thu xếp hàng đã; hai cái hộp
gỗ vuông đựng các thức hàng, và những gói buộc kỹ trong thúng. Tất cả vốn liếng quý báu,
bởi nhờ nó, cô kiếm lời nuôi các em, giúp đỡ cha mẹ từ ngày trong nhà sút đi và ông Tú ở
trên tỉnh dọn về đã ba bốn năm nay rồi. Ruộng nương chỉ còn hơn mẫu, cấy đủ thóc ăn, và
căn nhà gạch cũ này là nhà thờ, chung cả họ. Ông Tú độ mắt kém cũng thôi không dạy học
nữa. Tâm hỏi mẹ:

-- Thầy con chưa về cơ, u ?

Bà Tú chậm rãi đáp lời con, an phận:

-Thầy sang chơi bên ông chánh từ hôm qua, dễ thường còn ở vài ngày mới về.

Hai mẹ con biết rằng, có về nhà ông Tú cũng buồn chả biết làm gì, rồi lại đến đi chơi quanh
quẩn các người trong làng.

Bữa cơm ngon lành quá, Tâm ngồi ăn dưới con mắt hiền từ và thương mến của mẹ. Các em
cô quây quần cả chung quanh, hỏi chuyện chợ búa của chị. Tâm ngắm nghía các nét mặt xinh
xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới mái tóc tơ của các em: cô thấy lòng đầm ấm và
tự kiêu, lòng người chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học. Cô hỏi han sách vở
của thằng Lân và thằng Ái, học lớp ba ở trường làng. Ngày trước, thời còn sung túc, cô cũng
đã cắp sách đi học và về nhà lại được ông Tú dạy thêm chữ nho. Nhưng đã lâu, cô rời bỏ
quyển sách, để bước chân vào cuộc đời rộng rãi hơn, khó khăn và chặt chẽ. Buôn bán bây giờ
mỗi ngày một chật vật, bởi cô vốn ít. Tất cả gánh hàng của Tâm chỉ đáng giá hai chục bạc.
Giá nàng có nhiều tiền để buôn vải bán các chợ như Liên.

-- Thôi, các em đi ngủ đi, mai còn dậy sớm mà đi học chứ.

Lân cười, trả lời chị:

-- Mai chủ nhật cơ mà, chị quên rồi à ? Tối nay em thức rõ khuya để nói chuyện với chị.
Nhưng một lát sau, trong căn nhà yên tĩnh, chỉ còn Tâm và bà Tú ngồi trên phản: cô kiểm
điểm và xếp đặt lại các thức hàng để mai đi phiên chợ Bằng chính. Những thứ hàng nho nhỏ,
khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp bút, cúc áo, giấy lơ, một trăm thức lặt vặt qua
lại trên ngón tay nhỏ của thiếu nữ, vừa quý báu lại vừa ít ỏi. Mỗi thứ đối với Tâm có một linh
hồn riêng, và cô hàng lờ mờ đoán hiểu trong thâm tâm những khó nhọc và công của đã làm
thành chúng. Tâm đã thêm vào vài thức hàng mới bắt đầu bán được ở chợ: phấn xoa mặt, dầu
bôi tóc và son thoa môi. Cô ngắm nghía trên tay cái ống sáp con bằng đồng, hào rưỡi một cái
-- đựng một chất đỏ thơm làm thắm tươi môi các thiếu nữ ở trên tỉnh. Ðôi khi trong buổi chợ
Tâm đã được thấy một vài cô gái tỉnh về quê, da trắng, môi đỏ, lịch sự và sang trọng. Có lần,
một đêm khuya, Tâm đã lấy sáp bôi lên môi mình và ngắm trộm bóng trong chiếc gương tròn
nhỏ. Cô Ba. Cô hơi thẹn thấy bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ như sẫm máu...

-- Ðộ này, hàng có bán được không con ?

-- Thưa u, cũng khá ạ.

Chị Liên bán vải cũng chẳng đẹp bằng. Tâm biết mình xinh nhất chợ. Bọn con trai cứ hay
quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời tròng ghẹo. Nhưng cô không để ý: Tâm thấy vững vàng
ở giá trị và lòng cao quý của mình.

Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà, với lại, trừ phi là cô gái hư không kể, còn ai ở địa vị
nàng cũng phải tảo tần buôn bán như thế. Làm việc, đối với Tâm, là lệ chung của người ta.
Cô thấy chung quanh toàn những đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con.
Không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô.

Nhưng Tâm cũng không khỏi thắc mắc vẩn vơ cho thân thế; Tâm ngửng lên nhìn nét mặt hiền
từ của bà Tú, rồi quay đi, hơi e thẹn. Vì nàng có tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con
trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng,
Tâm thường thấy người ấy ra hàng Tâm mua kim chỉ. Nàng mặt xuống hàng thấy cái nhìn âu
yếm của người con trai ấy đè nặng trên người. Má Tâm phơn phớt đỏ. Câu chuyện ngượng
nghịu và gióng một nhưng nàng thấy tâm hồn say sưa như nhấp rượu.

Người ta bảo đó là cậu giáo trường làng. Vẻ người đúng đắn, có tư cách, chứ không chớt nhả
như những anh trai làng khác. Nhưng nhìn cái áo lương cũ, Tâm cũng đoán là cậu giáo nghèo
thì phải. Cũng như nàng.

Lúc lên giường nằm, dưới tấm chăn mỏng và lạnh. Tâm còn tơ tưởng mãi đến con người xinh
trai ấy. Trong nhà đã ngủ yên tĩnh cả rồi. Trên án thư, bên ngọn đèn hoa kỳ, chồng sách và
cái ống bút của Lân, Ái che khuất ánh sáng. Các em nàng -- những đứa em thông minh và
ngoan ngoãn quá -- không biết nàng có tảo tần mãi được để kiếm tiền mua giấy bút cho
chúng ăn học không ? Tâm mơ màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: đỗ đạt rồi
làm trên tỉnh giúp thầy mẹ. Nhà nàng lại sung túc và mát mặt như xưa.

Người chị mộc mạc và âu yếm ấy nghĩ ngợi trong đêm yên lặng. Tiếng trống cầm canh đã
qua nửa đêm, nàng mới khẽ thở dài, nhắm mắt ngủ.

Tất cả những nỗi lo lắng lui đi và tâm hồn giản dị của thiếu nữ được nghỉ yên tĩnh.

Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở cổng gánh hàng lên chợ. Sương trắng còn
đầy ở các ngõ trong làng; mùi rơm rác và cỏ ướt thoang thoảng bốc lên, mùi quen của quê
hương và của đất mầu khiến Tâm thấy dễ chịu và thêm can đảm. Nàng rảo bước cho mau
chóng đến chợ.

Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước
đi. Chịu khó, chịu khó từng tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi.
Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào
cũng chịu khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô; trong
những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để
kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ
thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng.

Tâm cứ bước đều chân và đến chợ vẫn còn sớm. Nàng bày hàng trên khoảng đất nàng vẫn
ngồi xưa nay. Ánh sáng đầu tiên của mặt trời lấp lánh trên mặt kính các ô hàng. Các màu đua
nhau thắm tươi dưới ngón tay xinh xắn của Tâm: những cuộn chỉ mượt, những cái cúc xà cừ,
những gương lược sáng loáng. Cái gì cũng sạch sẽ ngăn nắp, nhỏ nhắn như công việc, như ý
nghĩ của cô hàng xén.

Không khí giá và trong của buổi sáng làm hồng da dẻ và khiến máu chạy mạnh. Tâm thấy vui
vẻ nhanh nhẹn trong người. Chị Liên với thằng nhỏ gánh vải cũng đã đến rồi. Hai chị em
cười nói chuyện trò như đôi chim sẻ:

-- Hôm qua mày bán được bao nhiêu ? Tao ngồi mãi chỉ bán cho bà lý có một tấm lụa.

Tâm đáp:

-- Thế còn gì nữa; bằng cả ngày lãi của tao kiếm.

Chợ mỗi lúc một ồn ào. Ngưòi đến họp đã đông. Cái đông đúc và ồn ào ấy khiến cho Tâm
như lịm đi. Tiếng nói, tiếng cười đùa, chửi rủa tràn đầy cả mấy gian hàng. Sự hoạt động rực
rỡ và nhiều màu. Các hàng quà bánh, các thức hàng rẻ tiền và vụn vặt ở thôn quê, những hoa
quả chua chát hái xanh trong vườn nhà, và bên kia đường, mùi thơm nồi cháo nóng của chị
Tư bay ra ngào ngạt.

Tâm không nghĩ ngợi, lo lắng gì nữa. Sự buôn bán, mặc cả bao bọc lấy nàng như một hơi gió
nóng.

Tất cả hàng tổng trong buổi phiên này. Từ những người đàn bà nghèo ăn mặc rách rưới, cho
đến các bà tổng, bà lý, váy sồi, thắt lưng đũi và áo bông mềm, túi nặng những tiền. Một hai
cô trên tỉnh, chừng con gái ông thừa hay ông chủ ty ở huyện, vui đùa đi lại trong chợ, răng
trắng và môi đỏ. Tâm thấy họ hình như vô tâm và sung sướng lắm thì phải: các cô bá vai
nhau mua hết thức này, thức nọ không tiếc tiền, ngây thơ như con trẻ. Tâm và Liên nhìn nhau
mỉm cười.

Gần trưa, cậu giáo ra. Vẫn con người mảnh rẻ và nho nhã trong chiếc áo lương cũ. Bốn mắt
nhìn nhau: Tâm má đỏ bừng, tay không biết làm gì. Cậu giáo ngượng nghịu, nửa muốn ngồi
xuống bên hàng, nửa không dám. Chỉ có Liên là tinh nghịch, sống sượng lại hay nói đùa:

-- Kìa ông giáo, mời ông mua hàng của em nó đi.

Rồi cô ngả đầu ra sau cười ngặt nghẽo, trong lúc Tâm đưa mắt trách và cậu giáo khẽ mỉm
cười.
Vụ gặt hái xong, cậu giáo Bài nhờ người mối lái đến hỏi Tâm. Bà mối là người cô trong họ
như bà Tú. Sai khi khen ngợi cậu giáo là người chí thú nết na, bà mối bảo:

-- Tôi cũng vì tình chị em nói giúp cho cháu nó nên vợ chồng. Cậu giáo tuy nghèo nhưng là
con nhà thế gia, ông cụ trước cũng có đi dạy học. Cháu Tâm nó mà về làm dâu nhà ấy thì
không còn phải quản ngại điều gì nữa.

Bà Tú cảm ơn và đáp:

-- Vâng, bà để cho rồi tôi hỏi cháu xem thế nào đã.

Bà mối cười, vừa đứng dậy vừa trả lời:

- Ðược nơi xứng đáng, mình bằng lòng thì gả, chứ còn cần gì phải hỏi nó nữa.

Sau khi bà mối về, bà Tú đem câu chuyện hỏi ông Tú; ông bảo:

-- Bà xem chỗ nào nên gả thì gả, không phải hỏi tôi làm gì.

Rồi ông lại xách ô đi chơi sang làng khác. Bà nhìn theo ông, thở dài. Từ ngày trong nhà kém
sút đến giờ, ông Tú như người mất hồn, chẳng còn để ý đến công việc gì nữa. Việc trong nhà
ông để bà trông nom. Bà nghĩ đến Tâm âu yếm, Nếu không có nó sớm hôm buôn bán thì bà
cũng không biết xoay sở vào đâu. Nhà năm, sáu miệng ăn, lại hai con đi học, hơn mẫu ruộng
cấy chỉ đủ thóc dùng. Bà lại chợt nghĩ: nếu Tâm đi lấy chồng thì làm thế nào ?

Tuy vậy, buổi chiều hôm ấy bà gọi Tâm vào buồng và nói cho Tâm biết. Tâm yên lặng nghe,
rồi thưa:

-- Con mà đi lấy chồng thì ai kiếm tiền cho các em ăn học ? Thôi u cứ để con ở nhà buôn bán
và trông nom nhà cửa cho thầy u.

Bà Tú nhìn con, thương mến:

-- Không được, con gái đến tuổi phải đi lấy chồng, chứ con ở nhà mãi hay sao ? U sẽ làm
hàng sáo để kiếm thêm chi tiêu trong nhà. Con cứ nghe u đi.

Bà thêm:

-- Với lại không đám nào hơn đám này nữa. Bà cụ đằng ấy cũng hiền lành và cậu Bài là
người nết hạnh đứng đắn. Con về nhà ấy thì u mừng lắm.

Tâm cúi mặt thẹn đỏ hai gò má; nàng tưởng đến cậu giáo, con người xinh trai và nhã nhặn,
mà mới buổi gặp lần đầu, nàng đã mến yêu ngay. Nhưng bỏ nhà đi lấy chồng ? Thằng Lân và
thằng Ái lấy tiền đâu mà mua sách vở học ? Nghĩ đến mẹ già phải làm lụng vất vả lòng Tâm
lại không nỡ. Nàng khóc nói:

-- Thôi, u cứ để con ở nhà hầu hạ thầy và săn sóc các em. Chúng nó còn bé dại cả, nếu con đi
thì ai là người trông nom nhà cửa.

Nhưng thương con, bà Tú không ngần ngại chút nào. Bà bằng lòng cho Tâm và nhắn tin cho
bà mối biết. Bên nhà trai xin cưới ngay trước Tết.
Ngày về nhà chồng, Tâm buồn rầu không thiết gì trang điểm. Nàng gọi các em vào trong
buồng để từ biệt: Lân và Ái níu lấy cổ Tâm quấn quít, không muốn rời ra. Nàng âu yếm dặn
dò:

-- Các em ở nhà chịu khó ăn, học nhé đừng để cho thầy u phải phiền lòng. Rồi tháng tháng
chị sẽ gửi tiền về cho các em tiêu.

Tâm ngừng lại, ứa nước mắt không nói được nữa. Nàng xốc em bé lên hôn rồi ra ngoài lễ tạ
cha mẹ.

Ðám rước dâu theo con đường nhỏ trong làng đi ra cánh đồng. Hai bên ngõ, người trong làng
đứng xem cô dâu và chú rể mới.

Buổi chiều hôm ấy, trong nhà bà Tú trở nên lạnh lẽo và vắng không. Bữa cơm chỉ có mấy mẹ
con ngồi ăn. Lúc thắp đèn, bà tú gọi con sen lên bàn nói chuyện về Tâm cho đỡ buồn. Thằng
Lân và Ái cũng ngẩn ngơ nhớ chị. Không còn những buổi tối chờ đợi chị Tâm gánh hàng về,
nghe tiếng cười nói vui vẻ của chị và mong đợi chia quà nữa. Chúng ngồi nghe chuyện bà tú
mãi tới khuya rồi gục trên sách ngủ.

Về nhà chồng được vài hôm, Tâm lại phải đi bán hàng ngay để khỏi mất mấy phiên chợ Tết.
Nhà chồng nàng cũng nghèo, nhà cửa không có gì. Cậu Bài dạy học trong làng được dăm bẩy
bồng bạc lương. Bao nhiêu việc chi tiêu trong nhà lại trông cả vào mình nàng.

Bây giờ gánh hàng trở nên nặng quá trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc đòn gánh càng cong xuống và
rên rỉ. Ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh vác, Tâm lại còn lo sao kiếm được đủ tiền
để thêm cho cho các em ăn học. Trong sương muối sớm rét và giá lạnh, nàng đã phải bước ra
ngõ để đi chợ rồi. Trên con đường mấp mô và đất rắn, Tâm bước những bước nhỏ và mau.
Ðời nàng lại khó nhọc và cố sức kế tiếp nhau. Có khi Tâm tưởng nàng vẫn còn ở nhà, vẫn
còn con gái và buổi chiều nàng sẽ gánh hàng về căn nhà cũ, thấy các em ra đón và nghe tiếng
mẹ nàng dịu dàng săn hỏi. Nhưng không, bây giờ nàng không được về nhà mẹ luôn nữa. Gia
đình của chồng là gia đình của nàng: nàng phải lo tiền cho chồng vụ thuế. Những lúc giỗ Tết,
phải may vá cho Bài: chiếc áo lương mới chàng sắm ngày cưới bây giờ đã bắt đầu bạc và
rách rồi.

Ngày phiên chợ đối với nàng cũng kém vui. Má nàng hồng hơn, môi nàng thắm thêm, người
ta bảo nàng bây giờ đẹp ra hơn trước. Nhưng nàng cần gì những cái đó nữa. Bọn trai làng
không còn chòng ghẹo nàng, và trong lòng nàng cũng không còn cái thời con gái duyên thắm
và chờ mong đã hết rồi. Nàng chỉ còn là một người đàn bà tảo tần hôm sớm để nuôi chồng.
Buổi phiên chợ Bằng, Liên ngồi cạnh nàng nhí nhảnh khoe:

-- Này Tâm xem, tôi mới sắm được cái này đẹp lắm.

Liên đưa ra một đôi khuyên vàng cô mới gửi đánh ở trên tỉnh. Tâm cầm lấy ngắm nghía trên
tay. Mắt nàng sáng lên, Tâm nghĩ đến những buổi nói chuyện với Liên khi nàng chưa lấy
chồng. Hai chị em bàn về những đồ trang sức, và đôi khuyên là cái ước vọng tuyệt đích của
hai cô gái quê. Hai người buổi vào cũng nhắc đến, và cùng hẹn nhau dành dụm để sắm một
đôi đeo Tết.

-- Ðẹp quá nhỉ. Chị mua hết bao nhiêu ?


Nàng ngẩn ngơ đưa trả lại Liên, yên lặng nhìn bạn mắc vào tai. Tâm nghĩ không bao giờ nàng
có thứ ấy nữa. Làm sao dành dụm được chừng ấy tiền, mà nếu có số tiền ấy nữa nàng cũng
còn phải để tiêu việc nhà, hay gửi cho các em. Lân đã lên học trường tỉnh, sự tốn kém lại tăng
thêm. Dạo hè năm ngoái nó đã lấy của nàng hơn chục bạc. Hôm qua, bà Tú lại nhắn người
bảo gửi thêm cho nó để nộp giấy đi thi. Nàng lo quá. Những số tiền nàng cho em là tiền dành
dụm riêng của nàng; Tâm phải đưa giấu, sợ mẹ chồng và chồng nàng biết. Nhiều lần Bài đã
gắt với nàng, vì Tâm không còn tiền đưa. Và những lời của mẹ chồng nàng đã bắt đầu có vẻ
đay nghiến và nghi ngờ.

Hai năm sau, Tâm đẻ đứa con trai. Ở cữ được nửa tháng, nàng phải để con cho mẹ chồng
trông nom, rồi lại gánh hàng đi chợ. Mấy năm khó nhọc đã thay hẳn người nàng. Tâm bây
giờ không còn là cô gái xinh xắn hồi trước. Nàng già đi nhiều lắm. Ðã lâu nàng không còn
chú ý đến sắc đẹp của mình và cũng không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô ích cho nàng
khi đã có chồng rồi. Tâm thấy mình già và yên tâm trong sự đứng tuổi. Những ngày chợ
phiên, nàng nhìn các cô gái với ý nghĩ an phận của người đã qua tuổi trẻ rồi. Bây giờ nàng
còn thì giờ đâu trang điểm nữa. Cái cô hàng xén xinh đẹp trước kia nổi tiếng cả một vùng,
bây giờ không còn ai nhớ đến nữa. Ðã có những cô con gái khác mới lớn lên, rực rỡ và tươi
tắn, cười nói có duyên với những cậu con trai khác. Nhiều khi nhìn vẻ hân hoan sung sướng
của họ, Tâm lại nghĩ đến ngày trước kia, hình như đã lâu lắm, nàng còn là cô hàng xén má
hồng môi đỏ, e lệ cúi mặt dưới cái nhìn âu yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong
tấm áo lương. Thời ấy bây giờ đâu ? Chị Liên may mắn đã lấy được chồng giàu, lên buôn
trên tỉnh, chị ấy vẫn trẻ đẹp chư xưa. Tâm khẽ thở dài, bây giờ các chị em bạn cũ không còn
ai ở lại để cùng chia sẻ những nỗi khó nhọc với nàng.

Tâm rảo bước đi qua cánh đồng nghĩ ngợi. Ðã lâu, nàng không có dịp sang thăm nhà vì bận
con mọn và buôn bán. Chiều nay Lân ở trên tỉnh về, nên nàng đến để gặp em và hỏi thăm ông
tú, mệt đã mấy tháng nay.

Cây đa cỗi và cái quán gạch vẫn đứng đợi nàng ở đầu làng. Ðường ngõ vẫn lồi lõm vì trâu đi,
hai bên vệ vẫn mùi bèo và mùi rạ ướt. Trong làng chẳng có gì thay đổi.

Khi nghe thấy tiếng bà Tú âu yếm đón hỏi trên thềm, tiếng thằng Ái và em bé reo mừng chị,
lòng Tâm dịu lại như ngày nàng còn gánh hàng về. Tâm bước vào ngồi trên phản bên cạnh
mẹ; căn nhà đối với nàng hình như rộng rãi và lặng lẽ hơn trước nhiều.

-- Em Lân đâu ?

Nó vừa mới chạy đâu sang hàng xóm. Chả biết cần gì mà nó còn đợi con để xin tiền.

Tâm thở dài:

-- Con chả có đồng nào để ra cả.

Bà Tú nhìn con ái ngại:

-- Cậu giáo lại thôi dạy học, thì nhà con túng thiếu thật.

Hai mẹ con yên lặng không nói nữa. Tâm thấy mẹ già đi quá, hai mái tóc đã bạc phơ. Bỗng
nhiên, nàng đau xót trong lòng, thương mẹ và buồn cho cảnh nhà nghèo.

-- Kia, chị đã đến. Em chờ chị mãi từ sáng đến giờ.


Lân ở ngoài bước vào, nhanh nhẹn. Cậu lớn hẳn lên, dáng điệu mạnh mẻ và hơi xấc lấc, rõ ra
một cậu học trò lanh lợi trên trường tỉnh. Tâm nhìn em mừng rỡ. Mắt nàng sáng lên vì kiêu
hãnh có người em như thế:

-- Em chơi đâu về ? Bao giờ lại lên tỉnh học ?

Nàng ân cần săn sóc, hỏi em. Lân trả lời chị qua loa, hơi bực mình về những câu hỏi lẩn thẩn
của chị. Cậu nói ngay đến chuyện cần:

-- Em xin chị một chục bạc để mua sách học.

Tâm hoảng sợ:

-Sao nhiều thế, chị lấy đâu ra. Ðộ này buôn bán khó khău lắm, một ngày vài hào chỉ lãi, em
bảo chị làm thế nào được ?

Thấy Lân có vẻ không bằng lòng, Tâm vội đáp:

-- Hãy để thong thả chị lo rồi gửi chị Liên cho em.

-- Thế thì lấy tiền đâu mà nộp đơn và mua sách bây giờ ? Không có thà rằng ở nhà cho xong.

Lân vùng vằng đứng gậy bước ra ngoài thềm. Bà Tú ngước mắt trông theo, rồi vội vã bước ra
gọi em lại. Nàng dịu giọng ngọt ngào:

-- Gớm, chưa chi em đã giận. Có phải chị tiếc em đâu, vì chị chưa có thật.

Lân yên lặng rồi không nói gì, quay mặt đi chỗ khác. Lòng chị lại không nỡ thấy em buồn:

-Thì đây, chị có chục bạc này là tiền lấy hộ cho anh ấy đây. Em cầm lấy rồi chị liệu vay sau
cũng được.

Tâm lần ruột tượng lấy ra gói bạc giấy cuộn tròn. Số tiền nàng vừa lấy định trang trải các
công nợ và lo sưu thuế cho Bài. Nhưng thấy vẻ mặt vui mừng của em, nàng quên mất cả
những nỗi lo sợ đang chờ nàng.

Lúc Tâm ra về, trời đã tối. Nàng vội vã bước mau để về cho con bú. Sương mù xuống phủ cả
cánh đồng, và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi. Lòng nàng
mệt nhọc và e ngại: lấy đâu mà bù vào chỗ tiền đưa cho em ? Tâm nhớ lại những lời dằn của
mẹ chồng và những câu giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền. Nàng nghĩ đến
những ngày buôn bán được, ngày không, Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bàng
bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dầy đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng,
cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày kia như tấm vải thô
sơ. Nàng cúi đầu đi mau nào trong ngõ tối.

Phân tích:

- Tác phẩm bắt đầu bằng một câu ca dao dung dị, mộc mạc để từ đó Thạch Lam dẫn chúng ta
bước hẳn vào thế giới của một cô hàng xén nào đó ở thôn quê Việt Nam. Cô Tâm đẹp người
đẹp nết, ngồi bán hàng kim chỉ, gương lược... lấy tiền nuôi gia đình và em trai đi học. Rồi cô
đi lấy chồng, một cậu tú nghèo. Trách nhiệm với nhà chồng và nhà mình dồn lên vai cô như
một thứ quang gánh vô hình nhưng nặng trĩu. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh Tâm “ cúi
đầu đi nhanh trong bóng tối”. Tác phẩm chỉ có thế. Cũng như hầu hết những truyện ngắn
khác của mình, Thạch Lam chẳng đan cài nhiều tình tiết, cũng không kéo ai đi vào một ma
trận chữ nghĩa, câu văn gọn gàng, “ co duỗi mềm mại”, nội dung giản dị dễ hiểu, chừng ấy
thôi sẽ khiến nhiều người đặt câu hỏi: vậy cái “bụi quý” đẹp đẽ nằm ở đâu trong tác phẩm?
Có lẽ văn Thạch Lam không nên tóm tắt, điều đó chẳng khác nào việc chúng ta ngồi đếm
những ngôi sao trên trời. Sao sáng đấy những có bao giờ ta đếm hết được đâu… Vì không thể
làm công việc của một người đếm sao nên chúng ta sẽ phải tìm đến con chữ, nhờ con chữ giải
đáp hộ vướng bận trong lòng ta mà thôi

- Cô hàng xén tên Tâm trong cái buổi chợ phiên hôm ấy là người xinh đẹp nức tiếng lại đảm
đang nết na. Có lẽ nhiều người sẽ chỉ nhớ đến cô bởi vẻ ngoài dễ thương, người sâu sắc hơn
thì ấn tượng bởi sự thùy mị, tháo vát ở một cô gái sớm biết lo toan việc nhà. Thạch Lam
không phải một người qua đường vội vã, hời hợt, ông đứng từ xa, quan sát và khám phá
những nỗi niềm ẩn đằng sau gương mặt xinh xắn, hiền dịu kia để rồi hòa cùng với nỗi lo âu,
hoang mang của người ta như một người bạn tri kỷ. Và có xa xôi gì đâu, tấm lòng thông cảm,
đồng cảm sâu sắc ấy của nhà văn chính là “bụi quý” chúng ta đang tìm kiếm.

- Đặt mình vào hoàn cảnh của nhân vật chính, Thạch Lam cảm nhận được sự nhọc nhằn vất
vả của cô hàng xén, đó là cái khổ vì thiếu thốn vật chất. Trong tác phẩm của ông, kẻ trí thức
lẫn nông dân đều phải vật lộn trở trăn với miếng cơm manh áo hàng ngày, hàng giờ. Con
người ta bị cái nghèo, cái đói dày vò đến nỗi không tìm ra lối thoát cho cuộc đời. Đó là những
mẹ Lê ( nhà mẹ Lê), Sinh ( đói), Bào ( Người bạn trẻ)…Cùng là cái đói nghèo, nhưng mỗi
nhân vật, nỗi khổ sở thiếu thốn ấy lại ở những trạng thái và dạng thức khác nhau. Với cô hàng
xén Tâm, cái nghèo đói vẫn chưa xô đuổi Tâm đến mức cùng quẫn như những nhân vật kể
trên nhưng tưởng như nó là một thứ khí quyển thứ hai vây quanh cuộc sống của cô, nó hắt lên
những món hàng xén lặt vặt của Tâm một tương lai mịt mờ vô vọng. Từ thời còn son trẻ theo
bạn bè gánh hàng xén đi khắp chợ buôn bán cho đến lúc về làm vợ nhà người, cũng vẫn gánh
hàng bé xíu ấy, Tâm chắt chiu từ đó để nuôi gia đình mình. Những đồng tiền cô kiếm được -
trước là để lo cho em, sau lại thêm gia đình chồng- vốn đã ít ỏi, nay bị xẻ nhỏ lại càng ít ỏi
hơn. Và cuộc đời cô cứ như một tấm vải , ngày qua ngày cần mẫn dệt đều những đường chỉ
thô ráp, nối dài cơ cực và mệt mỏi cho một đời người. Đến cuối tác phẩm, sau khi đưa hai
chục bạc- số tiền lấy họ của chồng cho em Lân, Tâm trở về nhà trong nỗi buồn và lo sợ,
“nàng cúi đầu đi nhanh vào bóng tối”. Sự sợ hãi loang dần trong bóng tối ở kết thúc tác phẩm
không phải một nỗi sợ sinh lý, mang tính bản năng mà đó là sự sợ hãi, hoang mang của một
mảnh đời loanh quanh trong nghèo đói, không tìm ra được lối thoát cho ngày mai. Nếu như
Sinh vùng vẫy trong cái đói với trạng thái hèn hạ cay đắng, Bào lại trong tình trạng bơ vơ, bất
lực thì Tâm lại gắn cái nghèo đói với nỗi lo âu không vun vén chu toàn được cho hai gia đình
nội, ngoại. Cái tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam là ở đó, ông len lỏi vào ngõ ngách tâm hồn
người, lắng nghe những vang động sâu thẳm bên trong để thông cảm đồng cảm với những
thân phận khác nhau. Nếu không bằng một tấm lòng chân thành và giàu tình yêu thương liệu
Thạch Lam có thể viết về những mảnh đời ấy chân thực và sinh động đến thế?

- Thạch Lam đã từng tâm sự về thiên chức của nhà văn là “ phải nâng đỡ những cái tốt để
trong đời có nhiều công bằng, yêu thương hơn”, trung thành tuyệt đối với lý tưởng mình nêu
ra, Thạch Lam giống như người thợ hót rác già Samet, ông đi vào buổi chợ đời, tìm trong đó
“ những hạt ngọc ẩn giấu bên trong con người” ( Nguyễn Minh Châu). Thật may mắn, Thạch
Lam đã không mất quá nhiều thời gian để tạo nên những “bông hồng vàng” bởi cái tốt, cái
đẹp trong đời với nhà văn còn nhiều lắm. Thạch Lam dùng tấm lòng đôn hậu, bao dung của
mình để soi chiếu lên các nhân vật, dễ dàng tìm ra những phẩm chất cao đẹp trong họ và từ
đó trân trọng, ngợi ca con người như những biểu tượng đẹp trong cuộc sống. Quay lại với cô
hàng xén, vẻ đẹp đầu tiên chính là ngoại hình.

- Cô hàng xén Tâm trong truyện của Thạch Lam cũng xinh, cũng nổi tiếng khắp vùng đến
mức “ bọn con trai cứ hay quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời chòng ghẹo”. và cái đẹp
ngoại hình ấy lại càng tươi thắm, rực rỡ hơn khi cô cũng mang trong mình một tâm hồn tinh
khiết như hoa huệ. Trong các truyện ngắn của Thạch Lam, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của
Tâm trong những cô Liên, cô Nga… Ta tự hỏi phải chăng Tâm chính là hiện thân cho cái đẹp
truyền thống đoan trang, thùy mị, đẹp người đẹp nết của người con gái Việt Nam?

- Cái đẹp ở Tâm mà Thạch Lam muốn ngợi ca đâu chỉ là ngoại hình, mà cái chính là ở tâm
hồn cô- một tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ vô ngần. Tâm là chị Cả, là con gái đầu, lại là vợ của
một thầy giáo nghèo. Dẫu biết một con người thì luôn có rất nhiều mối quan hệ xã hội, trong
mỗi mối quan hệ lại đóng những vai trò khác nhau, nhưng với Tâm, cô phải hoàn thành tốt ba
vai trò ấy cùng một lúc là một việc quá sức và áp lực. Nào là “ lo tiền cho chồng vụ thuế,
những lúc giỗ tết, phải may vá cho Bài: chiếc áo lương mới chàng sắm ngày cưới đã bắt đầu
bạc và rách rồi”, nào là “em Lân đã lên trường tỉnh, sự tốn kém lại càng tăng thêm” , về nhà
chồng ít lâu Tâm còn sinh con, gánh nặng trên vai cô càng “ cong xuống và rền rĩ”. Tâm
không muốn mang tội nợ với bất cứ người thân nào của mình cho nên cô đã chọn cách quên
đi bản thể, hy sinh đi lợi ích của riêng mình, sống vì người khác chứ không sống cho mình.
Con đường đi chợ của Tâm mỗi ngày dài thêm, chợ này bán ít thì cô lại sang chợ khác, cứ thế
mà dài ra mãi, gánh hàng xén đong đưa theo nhịp chân đi và đôi vai gầy càng thêm còm cõi.
Ngày qua ngày tần tảo hôm sớm, ra đi khi trời còn sương muối xót và lạnh, ra về lúc trời
chập tối gió bấc và mưa phùn hiu hắt, cuộc đời Tâm cứ thế trôi đi thầm lặng. Cô Tâm xinh
đẹp dễ thương ngày xưa nay trở thành một người đàn bà đứng tuổi. Nghĩ đến Liên, người bạn
ngày xưa hay đi chợ cũng cô đã có một cuộc sống sung túc giàu sang, Tâm cũng khẽ chạnh
lòng và thở dài “ bây giờ các chị em cũ không còn ai ở lại để cùng sẻ chia những nỗi khó
nhọc với nàng”. Đây là lần đầu tiên Tâm nghĩ cho mình, thoáng chút băn khoăn, than thở cho
số phận, nhưng rồi giây phút riêng tư ấy cũng nhanh chóng trôi đi bởi còn cha mẹ, các em rồi
còn chồng con đang trông chờ ở Tâm, ở gánh hàng xen vụn vặt mà nuôi sống được bao nhiêu
con người. Đức hy sinh đối với Tâm tưởng như một bản năng hình thành từ trong máu thịt và
chấp nhận nó như một lẽ hiển nhiên của cuộc sống bởi vì “ có đâu chỉ một mình cô: trong
những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó, và nhọc nhằn, để
kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con , nuôi các em”.

- Khi miêu tả về Tâm, Thạch Lam chắc chắn có vấn vương hình ảnh người chị Nguyễn Thị
Thế đảm đang, tháo vát của mình. Hình ảnh Tâm với đức hy sinh không biết mệt mỏi chính là
hình ảnh của các bà , các mẹ, các chị- những người phụ nữ Việt Nam. Qua nhân vật Tâm,
Thạch Lam bày tỏ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn cao quý, trong sáng vô ngần của
người phụ nữ Việt Nam.

- Cô hàng xén cũng có cái lo lắng toan tính vật chất, cũng có cái bi kịch không lối thoát của
con người thời đại nhưng ta lại không cảm thấy ngột ngạt ức chế như khi đọc những tác phẩm
hiện thực phê phán. Có lẽ bởi vì nhân vật trong văn Thạch Lam dễ thương lắm, ngọt ngào
lắm. Cô Tâm gánh hàng đi chợ suốt một ngày dài đằng đẵng nhưng cô vẫn có thể gác đi nỗi
vất vả để lắng tiếng xao xác giẫm lên lá khô, ngửi mùi bèo dưới ao và mùi rạ ướt đưa lên ẩm
ướt, hoặc ngay trong chính buổi chợ ồn ào, Tâm vẫn đủ thư thái để cảm nhận “ không khí giá
và trong buổi sáng làm hồng da dẻ và khiến máu chảy mạnh”, những chi tiết tưởng như thừa
thãi ấy lại là thứ làm nên đặc điểm văn phong của Thạch Lam. Mùi hương, màu sắc, khí vị
của làng quê bình yên và trong trẻo, lại được cảm nhận qua nhân vật chính đã phần nào giảm
đi cái khắc nghiệt của cuộc sống, mang vào cho trang văn chất thơ man mác, dìu dịu. Cái chất
thơ bay bổng ấy, cái tâm hồn tinh tế ấy cứ tác động lên độc giả chầm chậm nhưng lâu tan như
hương hoa nhài thoang thoảng, để rồi có những lúc ta cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn thư
thái cùng với khung cảnh thôn quê mộc mạc, gần gũi. Và quan trọng hơn, từ những chi tiết
ấy, ta cảm nhận rằng, Thạch Lam đã không để nhân vật của mình bị tha hóa, có thể nghèo
đói, nhưng trong cảnh khốn khó, bùn đen, con người vẫn còn giữ lại được những cảm xúc
tinh tế đủ để tâm hồn không bị chai sạn, đủ để biết rung cảm và trân trọng những cái đẹp tồn
tại xung quanh con người. Phải chăng đây chính là thứ “bụi quý” của con người mà chỉ có
Thạch Lam mới nhìn thấy, và phải chăng vì đặc điểm này mà nhân đạo trong văn của Thạch
Lam lại có nét gì độc đáo và có sức hút như thế.

DƯỚI BÓNG HOÀNG LAN


Thanh lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy mát hẳn cả người; trên con
đường lát gạch bát tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhẩy múa
theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Thanh rút khăn lau mồ hôi
trên trán - bên ngoài trời nắng gắt - rồi thong thả đi bên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến
đầu nhà. Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào
ở ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa.

Thanh bước lên thềm, đặt vali trên chiếc trường kỷ, rồi ngó đầu nhìn vào trong nhà: bóng tối
dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào; Thanh chưa
nhìn rõ thấy gì cả; một lát, quen bóng tối, chàng mới nhận thấy cảnh tượng gian nhà cũ không
có gì thay đổi, cũng y nguyên như ngày chàng đi xưa. Sự yên lặng trầm tịch đến nỗi Thanh
trở nên nghẹn họng; mãi mãi chàng mới cất được tiếng lên gọi khẽ:

- Bà ơi!

Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn; Thanh định rõ nhìn: con mèo của bà
chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe
phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch xanh dương lên nhìn người. Thanh mỉm cười lại gần
vuốt ve con mãn:

- Bà mày đâu?
Thanh bước xuống giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy
trúc, ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mững rỡ, chạy lại gần.

- Cháu đã về đấy ư?

Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt hiền từ dưới làn tóc trắng đưa lên nhìn cháu, âu yếm và mến
thương.

- Ði vào trong nhà không nắng cháu.

Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy chàng cảm thấy chính bà
che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ.

- Nhà không có ai ư bà?

- Vẫn có thằng Nhân, hôm nay nó đi đong thóc bên kia xóm. D- chốc nó về. Con đã ăn cơm
chưa?

- Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói.

Bà nhìn cháu, giục:

- Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?

Thanh cười:

- Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày cũng được.

Nhưng Thanh cũng vẫn theo lời bà. Chàng đến bên bể múc nước vào thau rửa mặt. Nước mát
rợi và Thanh cúi nhìn bóng chàng lay động trong lòng bể với những mảnh trời xanh tan tác.

Tất cả những ngày thuở nhỏ trở lại với chàng. Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà
chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch
mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ.
Trên trường kỷ, ngọn đèn con và cái điếu cũ kỹ. Con mèo già tròn mình nằm bên cạnh, mắt
lim dim trong sự bình yên và nhàn nhã. Thanh trông thấy cảnh ấy đã nhiều lần. Lần nào trở
về với bà chàng, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế. Căn nhà với thửa vườn này
đối với chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành, ở đấy bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ
đợi để mến yêu chàng.

- ấy, bà làm gì thế? Bà để mặc cháu.

Bà cụ vẫn không thôi phẩy chiếc phất trần lên đầu giường:

- Ðã lâu không có ai nằm nên bụi bám đầy khắp cả.

Thanh phải để mặc cho bà sửa chiếu và xếp lại gối. Chàng thấy mình bé quá.

- Cháu đi nghỉ chẳng mệt. Ðể bà hái mấy lá rau nấu canh ăn cho mát.

Bà cụ đi ra. Thanh bỗng thấy mệt mỏi. Chàng lặng nằm xuống giường, ruỗi chân tay, khoan
khoái. Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng; lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một
thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: "cây hoàng lan!", mùi hương
thơm thoang thoảng đưa vào. Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng
thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Ðã từ lâu lắm, ngày mới có căn nhà này, ngày cha mẹ
chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quấn quít nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về
hàng năm, các ngày nghỉ. Bây giờ cây đã lớn.

Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí
tươi mát này. Những ngày bận rộn ở tỉnh giờ xa quá. Khu vườn với các cây quen đã nhận biết
chàng rồi.

Nghe tiếng bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ. Bà lại gần săn sóc buông màn, nhìn cháu và
xua đuổi muỗi. Gió quạt đưa nhẹ trên mái tóc chàng. Thanh vẫn nằm yên, nhắm mắt nhưng
biết bà ở bên mình. Chàng không dám động đậy, yên lặng chờ cho bà lại đi ra. Bà xuống bếp
làm cơm hẳn. Tiếng dép nhỏ dần.
Chàng cảm động gần ứa nước mắt. Bà yêu thương cháu quá, giờ chỉ có mình cháu, với mình
bà. Mà bà làm bếp có một mình thôi ư? Không, hình như có tiếng người khác nữa, tiếng trong
và mau hơn. Thanh lắng nghe: một tiếng cười sẽ đưa lên. Tiếng ai? Nghe quen quá mà Thanh
không nhớ được.

Chàng lẳng lặng ngồi dậy, tỳ trên cửa sổ, cúi mình nhìn ra phía ao. Bóng cây hoàng lan lay
động cả một vùng. Chàng chợt nhớ, chạy vùng xuống nhà ngang, gọi vui vẻ:

- Cô Nga...

Người thiếu nữ đương nhặt rau nghe tiếng gọi vội ngửng đầu: một nụ cười, đôi mắt trong
sáng lên; rồi tiếng nhẹ nhàng:

- Anh Thanh! Anh đã về đấy à?

Thanh đứng tựa bên cột, chưa trả lời. Chàng nhìn cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái
tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái tóc bạc trắng của bà chàng. Cô Nga, cô bé hàng
xóm vẫn sang chơi với chàng trong vườn, và mỗi lần về, chàng lại gặp ở nhà như một người
thân mật.

Một lát cô Nga nói:

- Anh Thanh độ này khác hẳn trước. Anh chóng nhớn quá.

- Tôi vẫn thế đấy chứ.

Bà cụ cúi trên rổ rau, không nhìn cháu đáp:

- Cô trông em có phải gầy đi không. Không bằng độ còn ở nhà.

Nga ngửng nhìn Thanh, cười:

- Ðấy em có nói sai đâu. Anh trông lại đen đi nữa.


Lá rau tươi xanh ngắt bên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn. Thanh cũng ngồi ghé xuống. Thế là
lại như lúc còn ở nhà, ngày ngày chàng cũng vẫn với Nga xuống bếp xem bà làm cơm. Câu
chuyện vẫn vui vẻ và vẫn đậm, có lúc chàng lầm tưởng Nga chính là em gái ruột của mình.

<><><><><><><><><><><><><>

Lúc Nga bưng cơm đặt lên bàn, bà cụ bảo cô thiếu nữ:

- ở đây ăn cơm một thể, cháu ạ.

Thanh nhìn lên:

- Ăn cho vui, cô Nga.

- Xin phép cụ và anh thôi, em vừa mới ăn cơm xong ở nhà. Em đứng đây cũng được chứ gì.

Thanh ra vẻ không bằng lòng:

- Không, cô phải ngồi ăn cơ. Cô làm khách mãi.

Nga sợ, vén áo ngồi bên cạnh bà cụ, nhưng nàng chỉ ăn nhỏ nhẻ, cầm chừng, và buông đũa
luôn để xới cơm cho Thanh. Bữa cơm vui quá. Thanh ăn rất ngon miệng, lòng thư thái và
sung sướng. Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng. Và nụ cười tươi
nở, nàng nhìn lại Thanh, một chút thôi, nhưng bao nhiêu âu yếm.

Ngoài vười, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tà áo trắng của Nga. Những búp
hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ
lại hai bàn chân xinh xắn của Nga, ngày nào, đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để
dấu tự ngoài ao trở về... Chàng đột nhiên mỉm cười, rồi hỏi:

- Cô Nga có còn hay đi nhặt hoàng lan rơi nữa không?

Nga cũng cười hơi thẹn:

- Vẫn nhặt đấy. Nhưng không có ai tranh nữa.


Nàng nhìn Thanh, nắng như tụ lại những hình ảnh tự bao giờ, và sẽ vuốt mấy sợi tóc mai ra
một bên. Thanh thấy quả tim đập nhẹ nhàng.

Bà cụ thì mải nhìn cháu. Bác Nhân khoanh tay đứng dựa bên cột nghe; bác cũng vui mừng vì
thấy cậu về, vẫn khỏe mạnh và xinh trai như ngày trước. Còn cô Nga vẫn tươi đẹp và vui vẻ
như thế. Có cô nhà cũng đỡ vắng, và bà cậu cũng đỡ buồn; hàng ngày cô chạy sang chơi giúp
đỡ bà cụ giã cối trầu và nói chuyện đến người đi vắng ở trên tỉnh đã lâu không về thăm nhà.

Bữa ăn xong. Thanh với Nga đã trở lại thân mật như khi còn nhỏ. Thanh dắt nàng đi thăm
vườn; cây hoàng lan cao vút, cành lá rủ xuống như chào đón hai người. Có lúc gần nhau,
Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như có giắt hoàng lan. Nhưng hoa lan chưa
rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành, Nga bảo Thanh:

- Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá.

Thanh chẳng biết nói gì; chàng vít một cành lan xuống giữ ở trong tay để Nga tìm hoa, rồi
nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Nắng soi vào vai hai người, nhưng dưới chân đất
vẫn mát như xưa.

- Bao giờ anh lên tỉnh?

- Ngày mai thôi. Kỳ này được nghỉ ít. Nhưng mai kia, tôi sẽ về ở đây lâu hơn.

Lòng Thanh dịu lại. Nga đến bên bể múc nước rửa hoa, rồi xếp bầy lên trên quả trầu. Bà cụ
nhìn cô, âu yếm:

- Hoa hãy còn non lắm, sao hái sớm thế, con?

Nga thưa:

- "Anh con hái đấy ạ" và nàng nhìn Thanh mỉm cười.

Ðêm ấy, một bà, một cháu với một cô láng giềng chuyện trò dưới bóng đèn mãi tới khuya,
khi trăng lên. Qua vườn, Thanh ti-n Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi
hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát. Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên
trong tay mình, Nga cũng đứng yên lặng. Lâu lâu, Nga rút tay sẽ nói:

- Thôi em về.

Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương
phải. Chàng đến trường kỷ ngồi ở bên đèn.

<><><><><><><><><><><>

Sáng hôm sau, Thanh đã phải lên tỉnh. Chiếc vali chàng nặng những thức quà bà chàng đã
ban cho. Thanh cầm mũ đứng nghe lời khuyên bảo ân cần của bà dưới giàn hoa lý. Chàng vẫn
bé quá và lại đi xa.

Tới cổng, Thanh còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn. Bác Nhân
nhanh nhảu cầm đỡ vali cho chàng, Thanh dặn khẽ:

- Bảo tôi có nhời chào cô Nga nhé.

Rồi chàng bước ra đi nửa buồn mà lại nửa vui. Thanh nghĩ đến căn nhà như một nơi mát mẻ
và sung sướng để chàng thường về nghỉ sau việc làm. Và Thanh biết rằng Nga sẽ vẫn đợi
chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi mùa cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để
tưởng nhớ mùi hương.

Phân tích:

Dưới bóng hoàng lan kể lại hành trình của một chàng trai từ phố thị trở về tìm lại những phút
giây ấm áp và thanh thản nơi khu vườn cũ và căn nhà cũ. Đấy là một tình cảm vô cùng đẹp
(cũng như vẻ đẹp và nhân hậu trong cách đặt vấn đề và lựa chọn đề tài của tác giả truyện
ngắn). Bởi lẽ đó, tất cả các nhân vật xuất hiện đều mang trong mình sự sáng trong, hồn hậu.
Chỉ có bốn nhân vật, và tần suất xuất hiện về cơ bản đều như nhau. Bác Nhân - có vẻ là lão
bộc - xuất hiện ít hơn, ở phần cuối tác phẩm nhưng cũng được nhắc tên ngay từ phần đầu.
Tên gọi của họ tạo những liên tưởng nhẹ nhàng.

Tên nhân vật trong Dưới bóng hoàng lan, về cơ bản vẫn giữ vẻ bình đạm hồn nhiên ấy,
nhưng không phải không tỏ ý khuấy động một chút suy tư của người đọc. Cái tên Thanh của
nhân vật trung tâm được xướng lên ngay mở đầu tác phẩm gợi một cảm nhận về sự thanh
sạch của tình cảm. Thậm chí, còn vang khẽ một khát vọng thanh lọc tâm hồn trong ám ảnh
của một hành trình trở về mang tính biểu tượng: “Thanh lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng
bước vào” . Trong thế giới tràn ngập thứ rung cảm yên lắng của những vòng ánh sáng, mùi lá
tươi non, mùi hoàng lan thoang thoảng với con đường lát gạch bát tràng rêu phủ, căn nhà và
chiếc trường kỉ cũ kĩ ấy, các nhân vật đều xuất hiện với tên gọi nền nã và gợi lên những tình
cảm nhân hậu hay một vẻ đẹp gần gũi và gợi một phẩm chất hay nỗi niềm: bác Nhân, cô Nga.

Dưới bóng hoàng lan không quá chú trọng việc miêu tả tính cách nhân vật, mà chủ yếu từ
nhân vật để gợi tình cảm và giá trị. Các nhân vật không có một cá tính, một tính cách rõ ràng
trong sự miêu tả trực tiếp, mà người đọc chỉ có thể cảm nhận trạng thái tâm hồn họ trong
cách họ cư xử với nhau và cảm nhận về thế giới. Đấy là sự đối xử ân cần, đầy tin yêu, không
chỉ giữa bà cháu Thanh, mà cả bác Nhân, và nhất là cô Nga - hàng xóm. Sự nhẹ nhàng, thân
mật và tôn trọng đã xóa nhòa mọi khoảng cách để họ thực sự trở thành những người trong
một gia đình. Tình cảm gia đình sâu nặng ấy khởi từ tiếng gọi trong nghẹn ngào (mà cũng
mãi mới cất lên được) “Bà ơi” của Thanh, đến những cử chỉ ân cần, âu yếm của bà, những
quan tâm có phần ngập ngừng, e lệ của Nga, bữa cơm thân mật và cuộc chuyện trò dưới ánh
đèn mãi tận tới khuya…

Các nhân vật của truyện đều xuất hiện không hề đường đột. Hình như Thạch Lam rất có ý
thức chuẩn bị cho sự góp mặt của họ một cách kĩ lưỡng khi mô tả những tín hiệu - nhất là tín
hiệu âm thanh báo trước rằng có ai đó đang đến: trước khi người bà bước vào là một vật chắc
chắn rất thân thiết: “Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn; Thanh định thần
nhìn rõ: con mèo của bà chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước”. Tiếp đó, bà
chàng mới xuất hiện, song, còn được dẫn dắt bởi những tiếng bước chân: “Thanh bước xuống
giàn thiên lí. Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn
vào”. Và rồi, Nga xuất hiện sau tiếng nói, tiếng cười... Việc để những nhân vật này xuất hiện
một cách chậm rãi và có chuẩn bị, dường như là sự cố ý đặt Thanh vào tâm thế phải đợi chờ,
hoặc để chàng kịp sửa soạn tâm lí cho những hạnh ngộ hẳn đang rất được chờ đợi; để dung dị
hóa sự tồn tại của con người… Và dĩ nhiên, thông qua sự chậm rãi, từ tốn ấy, người đọc cũng
cảm được cái khiêm nhường, điềm tĩnh của các nhân vật.

Các đối thoại dạng câu hỏi trong tác phẩm thường không kết thúc bằng chữ “à”, “hả” mà kết
thúc bằng “ư” - một nguyên âm hẹp, hàng giữa, âm sắc trung hòa cùng với thói quen sử dụng
của nó tạo nên niềm trắc ẩn, mến thương. Nó hình thành một liên kết nhẹ nhàng nhưng bền
chặt giữa những người trong gia đình và những người vừa chớm nở một tình cảm tinh khôi.

Một điểm đáng chú ý nữa là các nhân vật của Dưới bóng hoàng lan đều đẹp. Bác Nhân
đẹp ở sự đôn hậu tận tụy; Thanh đẹp với tấm lòng lương thiện luôn hướng về cội nguồn, với
những tình cảm sáng trong vô trùng; cả thể chất và tinh thần của người bà khiến ta dễ liên
tưởng đến một bà tiên bước ra từ cổ tích; Nga đẹp vẻ đẹp của một thiếu nữ đương độ xuân e
ấp; nàng đẹp một cách khiêm nhường nhưng quyến rũ - một vẻ đẹp phảng phất màu hoa
chanh hoa bưởi đã từng khiến Nguyễn Bính xao lòng: cô “xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc
đen lánh buông trên cổ nhỏ”. Sự xuất hiện của Nga khiến không gian, sự vật chung quanh
cũng đẹp lây: “Lá rau tươi xanh ngắt bên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn”

Tất cả những hành động, những đối thoại, chi tiết kể trên cũng chính là những yếu tố cơ bản
của cốt truyện. Nói vậy để khẳng định thêm một lần nữa rằng cũng như phần lớn các tác
phẩm của Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan là một truyện không có cốt. Tất cả đều tiến triển,
vận động theo cách hết sức nhẹ nhàng, không phải để kể, mà để gợi một tình cảm, một trạng
thái tâm hồn và cả một trạng thái của hiện thực. Xin nói thêm rằng, Dưới bóng hoàng lan
không chỉ miêu tả niềm vui, sự bắt gặp tâm hồn mình trong hành trình trở về của nhân vật,
mà còn báo hiệu một điều gì đó có thể xảy ra trong một dự cảm chẳng lành. Những dự cảm
ấy xuất hiện ngay trong cái “nghẹn lại” của cổ họng Thanh, trong những mảnh trời xanh tan
tác dưới đáy bể lúc chàng rửa mặt, và trong cả câu chuyện ba bà cháu nói với nhau dưới bóng
đèn mãi tới khuya với cuộc tạm biệt đầy e ấp khiến “Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì
dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải. Chàng đến trường kỉ ngồi ở bên đèn”.
Một dáng ngồi khắc khoải gợi nỗi buồn vô hạn!

Nếu không gian trong Dưới bóng hoàng lan là không gian mở ra sau khi cánh cửa gỗ khép
lại, thì thời gian dường như là thời gian đóng, thời gian đứng im để chiều lòng một khách bộ
hành trên con đường trở về quá khứ, trở về với những giá trị xưa. Chỉ có một lần thời gian
tương lai được nhắc đến trong câu Thanh nói với Nga khi được hỏi về việc bao giờ lên tỉnh:
“Ngày mai thôi. Kì này được nghỉ ít. Nhưng mà mai kia, tôi sẽ về đây lâu hơn” , một vài từ
nhắc đến thời gian quá khứ như “ngày nào bước chân Nga đi trên đó” không có từ nào miêu
tả thời gian quá khứ, còn về cơ bản, thời gian ở đây được không gian hóa. Thời gian hiển hiện
đặc biệt ấn tượng trong hình ảnh người bà. Nếu hình ảnh người già là một trong những
phương tiện để thể hiện quá khứ thì Thạch Lam trong Dưới bóng hoàng lan đã sử dụng
“chiêu thức” này một cách rất thành công. Hình ảnh người bà, trong quan hệ gia tộc, quan hệ
thời gian, dĩ nhiên là quá khứ, là biểu tượng quá khứ. Nhưng tính chất này được gia tăng, sự
cũ kĩ xưa xa được gia tăng khi người bà ấy tóc bạc phơ, lưng còng, chống gậy trúc. Quá khứ
hiện rõ hơn khi hình ảnh người được đặt bên cạnh đứa cháu người thẳng, mạnh… Từ trung
tâm là hình ảnh người bà, tất cả đồ vật chung quanh đều phủ bụi thời gian: chiếc trường kỉ cũ
kĩ, chiếc điếu cũ kĩ, căn nhà cũ kĩ, thời gian ngưng đọng ngay cả trong cái dáng khoanh tròn
nằm, lim dim mắt của con mèo già… Và điều đặc biệt là khu vườn, căn nhà… dường như đều
đứng yên, bất động từ bao giờ, từ cái ngày xưa cũ hoặc ít nhất là lần trước Thanh về thăm.
Chữ vẫn(3) được nhắc lại 21 lần (cùng với đó là cũng, vẫn còn) chính là phương tiện neo quá
khứ lại trong mọi biểu hiện của không gian. Phần lớn, chữ “vẫn”, không phải để chỉ một
trạng thái “cũng thế” của sự vật, mà sau rốt là hướng đến chỉ trạng thái ngưng tụ của thời
gian. Khi đọc câu văn “Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như
vẫn ở nhà tự bao giờ. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc
bạc phơ và hiền từ”, tất nhiên người đọc đều hiểu đấy là trạng thái xưa cũ, nhưng chưa dễ
mấy ai hiểu rằng khi Thạch Lam viết “ngoài vườn, trời vẫn nắng”, thì không phải là vẫn như
ban nãy, lúc Thanh về, mà vẫn là cái nắng của ngày xưa. Cái nắng cũng theo tâm hồn thanh
neo lại một cách bền vững, cho đến lần này chàng trở về.

NGUYỄN TUÂN (1910 - 1987)


TẬP VANG BÓNG MỘT THỜI

Yếu tố hội họa trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân

- Nguyễn Tuân ảnh hưởng nhiều của hội họa Trung Hoa.

- “Người Châu Âu bảo người Trung Hoa vẽ được mùi hương của đóa hoa, cái chập chờn của
cánh bướm, cái mờ tỏ của sương mai ven núi vì họ đã sử dụng tối – sáng để làm mọi chuyện
như diễn tả xa gần (xa thì nhạt, gần thì đậm), nặng, nhẹ (đậm thì nặng, nhạt thì nhẹ)... ”

- Trong tranh của các bậc thầy hội họa Trung Hoa xưa, mật độ các nét được xử lý tạo hình chỉ
bằng một số nét chấm phá tưởng như ngẫu nhiên nhưng đã làm nên thiên nhiên sơn thủy vô
cùng vô tận. Ít nét, kiệm phương tiện tạo hình song lại làm cho tranh của họ có cái vô cùng
trong cái hữu hạn, cái không nắm bắt được trong cái cụ thể. Nghệ thuật đó được mệnh danh
là nghệ thuật “bỏ trống”. Cách vẽ đó theo tinh thần vận động của cái không, cái tĩnh tuyệt
đối.

- Trong hội họa, nét vốn mang tính chất đại diện cho vận động cụ thể của bàn tay người vẽ,
cái mà người Trung Quốc xưa gọi là “cốt pháp dụng bút”. Nói cốt pháp dụng bút là nói kỹ
thuật điêu luyện khi sử dụng sự phong phú của ngọn bút lông, làm sao cho nét trên tranh là
hình ảnh thị giác của vận động bàn tay. Cốt pháp dụng bút cũng là cốt cách con người. Nét
bút ghi dấu vận động bàn tay người không phải là sự điểm chỉ, mà ghi dấu cả trạng thái tâm
hồn, suy tư và cảm xúc người vẽ lúc bấy giờ.

- “Đối lập tối sáng là một đối lập căn bản của nghệ thuật tạo hình. Các bậc thầy vẽ mực nho
đã triệt để sử dụng đối lập này để thể hiện mọi sự vật và trạng thái. ”

- Mười hai truyện ngắn trong Vang bóng một thời được viết dưới “con mắt của một nghệ sĩ
đam mê thanh sắc”, vì vậy đọc “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân ta có cảm tưởng như
ngắm những bức tranh cổ. Như một nhà văn theo chủ nghĩa tả thực mỹ thuật, Nguyễn Tuân
chú ý chắt chiu gạn lọc cho được những nét đẹp khi biểu hiện cuộc sống”. Vũ Ngọc Phan
nhận xét thật đắc địa. Người đọc sớm nhận ra ngay từ nhan đề của tập truyện và nhiều truyện
trong Vang bóng một thời qua nghệ thuật sử dụng, kết hợp từ độc đáo - rất Nguyễn Tuân, tự
bản thân nó đã mang chất tạo hình – gợi nhắc hình và bóng của một thời đã xa. Dường như
Nguyễn Tuân đã dùng sắc màu, nét khối, âm thanh để tô vẽ bức tranh cổ. Đặc trưng của bức
tranh ấy là kiệm nét, bởi Nguyễn Tuân đã lựa chọn nghệ thuật chấm phá là một dụng công
chính. Đặc trưng nữa của bức tranh đó còn là nhẹ màu thanh và nặng màu trầm. Phải chăng
nó không chỉ là nét màu của cảnh mà còn là nét màu tâm lí – nét màu của lòng người, bởi nhà
văn đã dùng tình cảm để pha màu cho không gian. Vâng! Tâm hồn ấy được đắm mình trong
mảnh đất cổ xưa mang vẻ đẹp hoàn mỹ - đó là những bóng trầm nhưng thanh và đẹp đã làm
nên những đường nét, khung cảnh hợp với một con người đang ủa sầu.

- Bức họa cổ Vang bóng một thời có biết bao mảnh tranh, bao gam màu. Trong đó, có những
mảng tranh với những gam màu trong sáng, thuần khiết dành riêng cho những nét đẹp văn
hóa như trà đạo trong Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm hay thú Thả thơ, Đánh
thơ, uống rượu Thạch lan hương và bình thơ trong Hương Cuội...

- Truyện ngắn Những chiếc ấm đất nói về thú thưởng thức trà đạo. Để làm nên nhã thú này,
người ta cầu kì từ cách chọn nước pha trà. Đó là thứ nước phải được lấy từ giếng nhà chùa.
Bức họa khung cảnh người gánh nước từ chùa về mang những nét thanh khiết, bình yên:

- “Bọn xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước
chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm
màu. Những hình sao ướt nổi nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài
bò sát. Vi buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi, và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa
non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách
tục trở lại trần.

- Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không
khi bốc từ mặt đất. Giống như vệt khỏi nhờ, nắng vờn qua những màu xanh bóng loáng của
một dãy xóm làng cây cối im lìm...Bọn người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi
chuyển động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ”.

- Khung cảnh được nhìn từ gần ra xa và bao quát rộng. Một bức tranh sơn thủy đậm chất tạo
hình của hội họa qua một lối công bút thành công. Đó là những đường nét của hình ảnh con
đường dài “ngoằn ngoèo như lối đi của loài bò sát”, những giọt nước từ nồi nước của người
đầy tớ già rỏ xuống mặt đường đã tự vẽ lên mặt con đường đầy cát bụi ấy hình những ngôi
sao thẫm màu nối nhau. Hình ảnh của cái nắng già hiện lên qua lớp không khí, qua cái áo
bóng loáng nó khoác cho cây lá im lìm, qua cái sáng lòa của không gian...Chắc hẳn người
họa sĩ này đã dùng chiếc bút lông mềm mại, nhẹ nhàng vẽ lên hình ảnh con đường dài ngoằn
ngoèo nhỏ dần theo những bước chân người gánh nước. Trong hội họa đường nét cong nhẹ
đó tạo sự thoải mái nhẹ nhàng. Theo ý này có thể thấy con đường trở về của những người lấy
nước nó giống như con đường từ cõi thoát tục trở về với chốn bụi trần. Hơn thế bức tranh
người gánh nước đó qua con mắt sư cụ chùa Đồi Mai còn điểm xuyết những gam màu thẫm
của những ngôi sao nước, xanh của cây cối và nhiều nhất là màu vàng phủ lên không gian của
nắng. Cảnh có sự kết hợp uyển chuyển giữa đường nét và màu sắc qua cái nhìn liên tưởng so
sánh đầy thi vị. Thủ pháp tạo khoảng cách xa gần, cao thấp đã tạo nên cảm giác của không
gian ba chiều mang nhịp điệu nhẹ nhàng giàu chất thơ. Trong khoảnh khắc này của cuộc
sống, người chiêm ngưỡng nó thấy được có gam màu trội của cái nắng sáng lòa, già dặn buổi
trưa chiếu thẳng mà soi tỏ thấy “một kiếp chúng sinh còn vướng mãi vòng nghiệp chướng”.
Đúng như thế, chính gam màu nóng ấy nó đã biểu hiện tâm sự luôn sục sôi trong nhà sư ngộ
đạo. Khuôn mặt vị sư già ấy đã được ngòi bút nhà văn vẽ nhanh những nét cơ bản: “Trên
khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp thiết tha. Nó chỉ đủ hiền lành thôi.” Và
cũng đủ để người đọc hiểu được tấm lòng một con người nhìn thấu cõi chúng sinh mà lo lắng,
thở dài. Và cũng đủ để hiểu thêm cảnh chay tịnh, thanh khiết, có sự vật, có con người... thi vị
mà sao vẫn u buồn đến thế.

- Khung cảnh gặp gỡ giữa cụ Sáu và sư cụ chùa Đồi Mai càng bộc lộ rõ nét hơn nữa cái thanh
tịnh đến hư huyền của chốn sơn thủy hữu tình: “Nhà sư ít nhời, trầm tĩnh ngắm bóng cụ Sáu
trong lòng đáy giếng sâu. Cái bóng nhà sư già ít khi được đậu hình cho lâu trên phiến gương
nước giếng mát lạnh; chốc chốc một vài giọt nước ngọt lại rời mạch đá tổ ong, thánh thót rớt
xuống, tiếng kêu bì bõm... ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này, xem ra còn
dụng võ được...”

- Tiểu cảnh “thủy tự” này càng làm tôn cao thêm cái không gian thanh khiết “vô nhiễm” của
ngôi chùa. Và đó cũng là cái thanh, cái tĩnh, cái đức ngự trị vĩnh hằng nơi đây. Bức tranh quả
là kiệm nét, kiệm màu. Nó gợi tranh của các bậc thầy Trung Hoa cổ tạo nên sơn thủy vô cùng
vô tận mà rất ít phương tiện tạo hình. Một nghệ thuật được mệnh danh là nghệ thuật “bỏ
trống”. “Cách vẽ đó theo tinh thần vận động của cái không, cái tĩnh tuyệt đối. Cái quan hệ
phức tạp giữa đạo là cái tuyệt đối – tĩnh, vĩnh hằng – với cái đức như là biểu hiện của đạo vẫn
luôn ở đâu đó trong mỗi thân phận con người cụ thể.”. Đó là cái thanh tĩnh đến mát lành như
nước giếng chùa Đồi Mai. Thứ nước tinh túy được chắt lọc từ sâu thẳm trong lòng đất mẹ.
Thứ nước giếng làm nên cái quãng đời “khoáng hoạt” của một con người có tài uống trà đạt
tới độ tuyệt kĩ, tuyệt mĩ. Nghệ thuật tạo bóng trong hội họa được sử dụng thật hợp lí và đắt.
Lòng giếng sâu, nước giếng trong như phiến gương soi bóng hai con người song thứ nước
tinh túy, mát lành và quyến rũ con người ta kia chỉ có thể “nhốt” cái bóng của cụ Sáu như
một định mệnh. Bởi “Phật dạy rằng hễ muốn là khổ”.

- Khung cảnh của chùa chiền thanh tịnh đóng kín với thế tục được ngòi bút phóng khoáng của
Nguyễn Tuân vẽ lên với mật độ nét không dày. Chỉ là nét ngoằn ngoèo của con đường, là
những chiếc bóng trong lòng giếng sâu, là những giọt nước rời mạch đá tổ ong rớt thánh thót
theo hướng thẳng xuống gợi lực đè nén và tiếng bì bõm gợi những vòng tròn lan tỏa kia
chẳng đã mang lại giá trị tạo hình cho trí tưởng tượng của độc giả được chắp cánh để khám
phá cái huyền thoại về cuộc đời cụ Sáu, huyền thoại với thú thưởng trà đã nâng lên thành
nghệ thuật.
- Chén trà trong sương sớm cũng nói về nghệ thuật uống đẹp. Trong cảnh trời đất lờ mờ ấy,
khung hình bức tranh đã đóng kín không gian nhà cụ Ấm, mà trọng tâm là hình ảnh cụ Ấm
bên hỏa lò với công việc pha trà. Điểm xuyết bằng những nét chấm phá cho bức tranh có
người có cảnh, tác giả vẽ thêm hình ảnh ngọn đèn dầu với ánh sáng yếu ớt, làn khói thuốc,
những nét lửa ngang dọc ngoằn ngoèo, những hòn than tàu và không quên những chiếc ấm,
nhất là chiếc độc ẩm cụ . Ấm. Tất cả những nét vẽ kia thật nghệ thuật nhưng đều mờ ảo và
mang Số phận mong manh. Chỉ có con người với cái “kỳ vật” là rõ nét của sự tồn tại nhưng
vẫn được bao phủ bởi lớp sương mờ mờ. Bức tranh hiện lên với gam màu trắng chủ đạo. Màu
của sương sớm, màu của áng khói trắng, màu mái tóc trắng của cụ Ấm. Pha thêm những gam
màu xanh, đỏ của lửa, của than. Đỏ ửng, đỏ tươi, xanh lè...song những màu sắc ấy chẳng thể
tồn tại lâu, chúng nhanh chóng “hấp hối” để trở về là cái “tàn tro dày và trắng xốp”.

- Cảnh được vẽ gần, ánh sáng có mà không xua tan được cái tranh tối của khoảnh khắc
chuyển đêm sang ngày. Bức tranh vì thế vừa tĩnh lặng, vừa mong manh mà thuần khiết đến
độ tưởng đó là cảnh ảo, cảnh trong mộng.

- Không chỉ trong không gian Chén trà trong sương sớm, khung hình mới khép kín. Bức tranh
Hương cuội cũng được gắn chặt bởi một khung hình và trong đó là không gian nhà cụ Kép.
Có lẽ nếu không làm thế, e sợ thứ hương thanh quý của món Thạch lan hương kia sẽ vô tình
bay đi ít nhiều thì sẽ giảm mất cái nồng nàn trong thú vui tao nhã “nhằm đẹp” của cụ Kép. Đó
là một bức tranh cổ, có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt. Có những tao nhân mặc khách ưa nhàn
tản, thích bình yên. Có những lễ nghĩa của gia đình Nho giáo nền nếp. Bức tranh dựng lại cả
nghệ thuật cổ xưa qua kỳ thú thưởng xuân bằng uống rượu, nhắm kẹo Thạch lan hương, làm
thơ... nhưng cũng dựng lại cả một bức tranh sinh hoạt gia đình trọng lễ nghĩa, đầy gắn bó yêu
thương, mang nét đẹp trong lối sống văn hóa của người Việt. Kỳ thủ này thật ấn tượng...
nhưng có lẽ đã theo cánh hạc bay về một miền cổ tích xa xăm từ bao giờ. Chỉ mỗi khi ai đó
đọc đến Hương cuội với những đoạn như: “Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khi
lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ và bố già
đánh hơi mũi: những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ vào khoảng không trong vắt như có
ý theo dõi luồng hương thơm đang thẩm nhập dần vào các lớp khi trời. Cơn gió nhẹ pha
loãng hương thơm đặc vào không gian. Chợt giật mình thốt lên: Thi vị quá. Hay quá. Đẹp
quá. Và luyến tiếc quá!

- Đến với Thả thơ, ta cũng bắt gặp bức tranh thu hẹp trong không gian tư thất gia đình cụ Phủ
tịch lặng đến hư huyền qua vài nét chấm phá bằng ngôn từ: một cụ Phủ ngồi nhà giữa thâu
canh làm bạn với thánh hiền bên cây đèn, một cô Tú ngồi âm thầm bên bóng. Có những khi,
khung cảnh ấy được điểm thêm một cây lư trầm vào những đêm mưa gió. Song cảnh vật và
con người ở đây không phải dễ mà vẽ, nhất là hình ảnh tương phản giữa ánh sáng leo lét của
ngọn đèn và cái bóng của cô Tú in trên lá màn vải xô. Gam màu và đường nét gợi cô đơn, gợi
lạnh lẽo và gợi cái nhòe mờ trong nỗi u hoài của “một gia đình đang lúng túng vì sự hiu
quạnh”. Đằng sau bức tranh đó tác giả muốn gửi gắm sự trân trọng một nền nếp nho nhã, đạo
đức của gia đình xưa.

- Bức vẽ bằng ngôn từ về cuộc “chơi đẹp” – Thả thơ lại mang những gam màu dịu dàng, nhẹ
nhàng của ánh trăng mười bốn – “vầng trăng đi tới chỗ toàn thịnh”: “Vầng trăng mười bốn
lúc chếch về đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thôi
thiếc vừa nguội. Đấy là bóng chiếc nhà bè lợp lá gồi mà trong đó, cụ Nghè Móm đang ngồi
làm nhà cải, thả thơ cho hàng chục người con đánh. Người ta đang sát phạt nhau bằng tiền,
đem cái may rủi cả vào đến cõi văn thơ và trên mặt nước sông thu, tiếng ngâm một câu thơ
được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc mất ăn tiền, những tiếng đó đều âm hưởng trên
làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội
tao đàn nào.” Cảnh hiện lên dưới cây bút lông mềm mại và phóng túng, có nét dài của con
sông, nét tạo khối của bóng chiếc nhà bè. Thủ pháp đối lập trong sử dụng gam màu càng tăng
nghệ thuật tạo hình trong dựng cảnh. Nếu cái “bóng thẫm” kia gợi cho thị giác độ gần thì
hình ảnh con sông với gam màu “trắng như thỏi thiếc” lại gợi cái xa xăm mộng ảo. Hai gam
màu tối sáng hay đen trắng của cảnh, nó như muốn nói lên canh bạc đỏ đen, may rủi của “cõi
văn thơ”, của những kẻ trên cái nhà bè lợp lá gồi kia. Kết hợp với những gam màu và đường
nét ấy dưới ánh sáng dịu nhẹ của trăng càng làm khung cảnh mênh mông, tịnh lặng, xa xăm
mà huyền ảo nhưng cũng không kém phần thanh bình.

- Cũng vẫn cái “kỳ thứ” giống như Thả thơ, trong Đánh thơ ta bắt gặp không gian sông nước
gắn với cuộc đời giang hồ “xê dịch” của Phó Sứ và Mộng Liên: “Nước một con sông hiền
lành đẩy nhẹ cánh hoa vô định lừ đừ trôi một mình, theo những cái xoáy nước yếu đuối.”
Đường nét của dòng sông, của những xoáy nước. Gam màu trắng của nước. Nhẹ nhàng. Êm
đềm. Trong khung cảnh hiền hòa ấy vẫn vang lên tiếng hát, tiếng đàn: “Tiếng đàn hát trên
mặt nước một con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vắng đưa rất rộng”. Cảnh thi
vị trên sông nước ấy đã khiến bao người nhớ nhung, nuối tiếc và chờ đợi khi họ không còn
quay trở lại như “chờ một cái bóng chim, đợi một cái tăm cá”. Bức tranh sông nước thơ mộng
càng tô lên cái nghệ thuật sống thuần khiết, cao sang và tài tử của con người. Bức tranh còn
có một gam màu ẩn tàng của sự luyến tiếc xa xăm. Bức tranh sông nước ấy cũng chỉ còn là
nơi lưu giữ những kỉ niệm, những vẻ đẹp một thời vang bóng, bởi Mộng Liên và Phó Sứ
“trăng gió đuề huề thơ một túi / mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm”.

- Và cũng vẫn như Thả thơ, ta lại được “ngắm” khung cảnh “chiếu bạc bằng thơ” trong
truyện Đánh thơ. Nguyễn Tuân sử dụng nhiều màu đặt cạnh nhau cho chúng chuyển hóa trên
một nền hình thống nhất của không gian bức tranh như trong hội họa: “Ông Kinh Lịch châm
thêm dăm bảy cây sáp nữa đã gắn sẵn vào để đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây
nến, chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi thơm gắt ngát của một bình hoa rộng miệng chứa
gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ mãn khai cuộn cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng
và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh, của hơi thở dồn vang càng
hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả, có người rút mạnh mồi thuốc lào, đã
lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa huệ. Hơi huệ ngùn ngụt bốc lên, quyện lấy mùi
dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng ngồi ép sát vào
chồng, mặc một chiếc áo lụa năm thân nhuộm màu khói nhang đột chỉ trứng vận.” Giống như
một bức tranh pha sắc cổ điển và hiện đại. Không gian cảnh khép kín trong tư thất nhà ông
Kinh Lịch. Phác họa mười cây nến, một bình hoa huệ lớn và có thêm con người nhưng nổi
bật là Mộng Liên và Phó Sứ. Màu sắc nổi bật là hai gam màu trắng của hoa huệ, hỏa hoàng
trên áo Mộng Liên. Màu vàng vốn là gam màu nóng, gợi cảm giác rực rỡ, chói gắt nhưng lại
được pha với gam màu trắng tinh khiết của hàng trăm bông huệ có cánh cuộn cong gợi cảm
giác nhẹ nhàng, thoải mái. Đối lập nhưng lại hòa vào nhau, tôn nhau lên bởi cả hai gam màu
này lại được phủ một lớp ánh sáng nến lung linh trùm lên những cảnh huệ và tràn sang cả
Mộng Liên để kịp tôn lên màu áo hỏa hoàng của cô ca nữ. Đúng như quan niệm của Nguyễn
Tuân về hội họa: “Cấu tạo nên bức tranh, công việc dàn màu thuốc nhiều khi quan hệ hơn
cách dàn đề, với những cảnh vật vẽ lên”.

- Không gian mang không khí, sắc màu cổ xưa song nhìn kĩ lại thấy nó hội tụ đủ cả hương
hoa, sắc hình, ánh sáng được sắp đặt thật hài hòa như trên sân khấu hiện đại. Với quan năng
đa chiều, độc đáo của ngòi bút đậm chất tạo hình Nguyễn Tuân, cảnh “chiếu bạc bằng thơ”
hiện lên gợi cái thơ mộng của cảnh “ca kỹ bên hoa huệ” nào đó. Lãng mạn. Lung linh. Và mờ
ảo hóa đi cái “canh bạc đỏ đen rất tri thức” này.
- Đánh thơ và Thả thơ - hai câu chuyện đẹp như hai bài thơ nâng tâm hồn người đến với tình
yêu những giá trị tinh hoa dân tộc.

- Bức tranh ngôn từ đẹp lóng lánh về không gian thiên nhiên trong sáng, dịu dàng và tươi mới
trong truyện Ngôi mả cũ đã đem lại những cảm giác “thanh lọc” cho tâm hồn người: “Giàn
bầu nậm ở ngoài sân, dây leo và lá chằng chịt lấp chật ô giàn nứa, đã làm dịu hẳn cái nắng
tháng tư ở trước mặt nhà. Ánh nắng đổ xuống giàn, khi lọt xuống sàn bị cái cốt xanh ngắt của
cây lá lọc qua một lượt, rồi đổ dồn vờn vào áo vải trắng dài, cậu Chiêu đang hấp háy mắt,
ngừng đầu ngắm những quả bầu nậm buông thõng xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng cậu
Chiêu đã biển thành một áo lụa màu xanh của người phong lưu và đa tình. Đấy là cái màu dịu
mát của chất ngọc bích; đấy là cái thứ áo xanh của ông quan tư mã đất Giang Châu dùng lau
nước mắt khi thương đến một người con hát giữ một khoang thuyền trống trải trôi trong đám
lau sậy ven sông. Hoặc là vì màu đỏ là màu xanh ở những cánh đồng lúa non ngút ngàn của
những xứ yên ổn không bao giờ có nạn binh lửa cũng vẫn cứ là đúng”.

- Người họa sĩ vẽ tranh bằng ngôn từ, nhưng thể hiện rõ quan năng cảm thụ của nghệ thuật thị
giác...Nắng được miêu tả thật sinh động. Nắng mang vẻ đẹp tinh khiết và tươi mới. Qua liên
tưởng và nghệ thuật nhân hóa độc đáo, nắng như có hồn. Ánh nắng tháng tư vốn gay gắt
nhưng đã được “thanh lọc” bởi những sắc xanh dịu mát của giàn bầu nậm, chắc chắn nắng sẽ
bớt đi cái chói chang. Hòa trộn hai gam màu nóng lạnh đối lập để tả cái dung nhan của nắng
đạt được ấn tượng đẹp nhất khi cái sắc nắng được thanh lọc ấy còn tinh nghịch “đổ vờn” lên
cái áo và biến cái áo vải trắng của cậu Chiêu “thành một ảo lụa màu xanh của người phong
lưu và đa tình”. Một màu ngọc bích. Màu xanh của chiếc áo đẫm nước mắt thương nhớ. Một
màu xanh lúa non ngút ngàn trên cánh đồng không binh lửa. Hay chính là màu xanh non.
Xanh nhạt. Xanh dịu mát. Xanh thanh bình. Xanh hoài vọng. Đọc đoạn văn, trước mắt người
đọc không còn là câu chữ nữa, mà là một thế giới ảo ảnh của màu xanh mê dụ người ta lạc về
chốn làng quê với nếp sống thanh bạch. Nơi sẽ khiến người ta thêm nhớ, thêm yêu và cũng hi
vọng vào một cái gì đó dù biết là đã xa xăm lắm.

- Bên cạnh những khung cảnh thanh lãng, trong sáng, thuần khiết trong Vang bóng một thời
còn có những bức tranh về “cảnh đặc biệt”, về những chân dung đầy huyền bí, bất thường,
nhiều khi gây cảm giác rùng rợn, mang chất “yêu ngôn”.

- Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Nhiều đoạn trong Chữ người tử tù có thể làm đầu đề cho những
họa sĩ nào ưa vẽ cảnh đặc biệt Việt Nam. Đó là chòi canh và những người tử tù ở đầu truyện,
cảnh cho chữ ở cuối truyện...Cảnh có đủ đường nét, hình khối, màu sắc, độ tương phản đậm
nhạt. Quả đúng như vậy, hãy đọc lại những đoạn văn đó để cảm nhận những “cảnh đặc biệt”
trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

- Cảnh chòi canh được nhìn toàn cảnh gần xa, thấp cao. Các từ láy thăm thẳm, văng vẳng,
lốm đốm, nhấp nháy mang đậm tính gợi hình. Không gian có gì đấy vừa thinh lặng, vừa ớn
lạnh nhưng cũng phi thường. Dưới thấp tác giả sử dụng gam màu “tối mịt” bao phủ không
gian rộng và đồng điệu với nó còn là cái màu đen của những con song. Đối lập với gam màu
ấy là ánh sáng “nhấp nháy” của những vì tinh tú ở trên cao, mà nổi nhất là ngôi sao Hôm.
Hình khối của bốn cái chòi canh, của “khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen và
thẳng lên nền trời” và cả nét hình được vẽ bằng tâm tưởng của những “thanh âm phức tạp”
bay lên cao “nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Những đường nét của
cảnh vật như muốn hướng lên với bầu trời kia. Và ngay chính những “thanh âm phức tạp”
cũng muốn bay lên “nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Trừu tượng hóa
âm thanh thành những nét, điểm, hòa cùng sắc độ của không gian tạo nên nhịp điệu cho bức
tranh về mang ; tính huyền bí như dự báo điều gì đó bất thường. Và cái bất thường ấy chính
là sự “từ biệt” một con người “văn võ song toàn”, viết chữ đẹp nổi tiếng “ngôi sao chính vị”
đó đang khiến vị quản ngục kia phải nghĩ suy, phải băn khoăn, trăm mối tơ vò ngổn ngang.

- Cảnh những người tử tù trước cổng đề lao cũng thật “đặc biệt”. Với những mảng màu ít ỏi
nhưng đủ rõ thấy được sự đối lập: màu bóng nhoáng và màu xỉn đen sánh của chiếc gông dài;
màu nền đá xanh nhạt và màu nâu đen của rệp. Con mắt tinh tế trong nhìn nhận sự việc hiện
tượng đã đem lại sự phối màu ít mà hợp lí. Màu bóng đẹp trên gông là nơi có bàn tay người
tù cầm vào. Và chỉ có cái thiện, lẽ phải mới làm nên những gam màu đẹp trên cái gông dài
đến tám thước với bản chất đen sánh của kẻ thù, kẻ bán nước. Những nét vẽ bằng ngôn từ của
Nguyễn Tuân không có nét đau khổ, sợ sệt, yếu đuối mà dành trọn những nét mang sức
mạnh, uy vũ, phi thường cho những chân dung trong những ngày cuối cùng. Bức họa góp
phần tô đậm thêm màu sắc huyền thoại ở nhân vật Huấn Cao, ở những người tử tù và ẩn tàng
một sắc màu yêu nước của ngòi bút Nguyễn Tuân. Phần cuối truyện Chữ người tử tù, người
đọc gặp “cảnh cho chữ”... “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”: “Đêm hôm ấy, lúc trại
giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có
đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân
chuột và gián.

- Trong một không khí tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của một bộ đuốc tẩm dầu rọi lên
trên ba cải đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc
tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa. Một tên tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét
chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Tên tù viết xong một chữ, tên quản
ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiền lụa ông. Và cái
thầy thơ lại gầy gò thì run run bung chậu mực.”

- Giữa cái gam nền của đêm đen, diễn ra một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” nơi buồng
gian kẻ tử tù Huấn Cao – người sẽ cho chữ. Địa điểm không phải trong căn phòng ở của viên
quản ngục. Phải chăng nếu thế khung cảnh sẽ không còn là “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có” nữa, mà có thể sẽ chỉ là cảnh bên cạnh hai người, có một người viết chữ “nơi góc án
thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây đèn nến vợi dần mực tầu. Hai ngọn bấc lép
bép nổ, làm rụng tàn đèn xuống...”. Đơn giản hơn rất nhiều.

- Cảnh buồng giam được điểm tô bằng những nét vẽ, những gam màu đối lập. Vuông lụa
bạch trắng và bóng đêm. Bóng đêm đen và ngọn đuốc “ánh sáng đỏ ngòm”. Chậu mực thơm
và mùi hôi hám của “mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột và gián”. Khung cảnh gợi
nhớ những dòng văn tạo hình của Nguyên Hồng: . những bức vách nứt nét, loang lỗ, những
kèo cột xộc xệch, chằng chịt mạng nhện...dưới ánh đèn treo vàng cặn, tất cả những vật ấy úp
súp, tồi tàn thêm.” Cả Nguyên Hồng và Nguyễn Tuân đều sử dụng nghệ thuật đối lập và từ
láy để tạo hình. Song, ở Nguyễn Tuân sự tạo hình rõ nét hơn, gợi cảm giác lạ mà vẫn giữ
được cái nhìn khách quan, tạo khoảng trống cho độc giả suy nghĩ.

- Chân dung mỗi nhân vật chấm phá bằng một từ láy. Người quản ngục “khúm núm”, viên
thơ lại “run run”. Còn Huấn Cao vị chủ ngục tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô
nét chữ”. Viên quản ngục và thầy thơ lại tự do về thân thể nhưng tâm hồn lại bị tử tù trói
buộc. Huấn Cao thân thể bị trói buộc bởi gông xiềng nhưng nhân cách lại tự do. Bức tranh
thu lại trong căn buồng tử tù tối và ẩm ướt nhưng đó lại không phải gam màu nổi bật của nó.
Mà hơn thế nữa, gam màu ấy đã bị nhòe đi, mờ đi, át đi nhường chỗ cho gam màu nổi bật của
ánh sáng ngọn đuốc, của “vuông lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Trên cái phông nền của
đêm đen u tối đề lao (ẩn dụ cho cái không gian xã hội đương thời), ba con người Huấn Cao –
quản ngục – thầy thơ lại hiện lên như ba đốm sáng hiếm hoi. Dù lẻ loi, nhỏ bé so với cái
không gian rộng lớn kia nhưng ba đốm sáng ấy đủ sức mạnh để gom tụ thành ngọn lửa soi
sáng phòng giam, tỏa sáng cả nhà ngục. Với bút pháp hội họa, chân dung Huấn Cao được tô
vẽ đẹp hơn, sáng hơn và trở thành tâm điểm của bức tranh cùng với vuông lụa kia, nét chữ
kia. Bức lụa với chữ Hán đẹp ấy do Huấn Cao sáng tạo nên, tự nó cũng chính là một bức thi
họa. Trong tranh có bức châm. Lồng ghép này đã xóa đi khoảng cách xã hội của các nhân vật,
xóa đi lằn ranh đối lập giữa thiện và ác.

- Sự phối hợp của ánh sáng, hình ảnh, màu sắc...bức tranh cận cảnh “cho chữ” với ba con
người xung quanh tâm điểm là bức châm qua ngòi bút lãng mạn của Nguyễn Tuân mang
không khí cổ kính, trang trọng, gợi nhắc ta một nét đẹp văn hóa của dân tộc nhưng ngay thời
của nhà văn cũng đã là “vang bóng” rồi. “Cảnh cho chữ” nổi bật với thủ pháp đối lập còn là
“một thiên anh hùng ca” về sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với
cái xấu xa, của cải thiện đối với cái ác.

- Chém treo ngành thách đố một lối viết riêng, ngòi bút vừa lạnh vừa sắc, phác họa thật kiệm
nét nhưng nét nào ra nét ấy sắc cạnh đến ám ảnh, nhiều cảnh mang “một không khi rùng rợn,
quyến rũ, khác thường”

- Bút pháp hội họa với những mảng tối, mảng chói, với những nét rầu rầu, lẫn nét táo bạo.
Mở đầu Chém treo ngành là khung cảnh khoảnh đất mà Bát Lê tập rượt lối “chém treo
ngành”. Nó giống như một bức họa thiên nhiên nơi tử địa: “Phía tây thành Bắc Ninh, trên một
nền đất rộng đổ sát vào chân thành cho lần gạch ngoài thành được thêm vững chãi. Lũ cây
chuối mật tha hồ mặc sức mà mọc. Nó um tùm, tàu lá rộng và không bị gió đánh rách, che kín
cả bóng mặt trời. Trên ảng cỏ bốn mùa ẩm ướt, loài nấm dại sinh nở hết sức bừa bộn.

- Khoảng đất ấy ở phía sau kho lúa xây trong thành quanh năm không có vết chân người.

- Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm
u này để ngủ. Những thân chuối cao vút và tàu lá chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài
chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa
Ngâu đổ lên vườn chuối một khúc nhạc suông nghe buồn thiu buồn thiu.” Cảnh chia làm hai
phần trên dưới rõ rệt. Nó được ngăn cách bởi một “kẻ trung gian” – những tàu chuối. Kẻ thực
vật ngăn cản mối tương giao giữa đất và mặt trời này (che kín cả bóng mặt trời) khiến cho
bên dưới nó là bóng tối, trên nó là ánh sáng và chẳng giúp những áng cỏ có cơ hội đón nắng
khiến chúng ẩm ướt hoài. Kẻ thực vật này cũng chẳng chịu làm bến đậu cho những cánh
chim mỏi mệt, bởi sinh mệnh của nó chỉ là những thân cao vút, tàu lá trống trải. Và cái sinh
mệnh ấy chỉ chịu đón nhận những trận mưa Ngâu đổ kèm theo “khúc nhạc suông nghe buồn
thiu buồn thiu”. Với không gian thật rộng, có đủ các hình ảnh của cỏ cây, thoáng bóng chim
mỏi cánh bay vào...có vẻ đẹp đấy nhưng “không có vết chân người”.

- Những từ láy gợi giá trị biểu đạt và tạo hình cao gợi không gian âm u, vắng lạnh đến ghê
người. Màu sắc phủ kín “pháp trường thử nghiệm” của Bát Lê là cái màu âm u, cái màu
“buồn thỉu buồn thiu”, lạnh lẽo, rờn rợn. Dường như sự sống lành mạnh đang bị nơi này từ
chối. Nó như nơi tử địa. Nó cũng như dự báo cho số phận của kẻ thực vật kia dưới lưỡi gươm
tập lại lối chém “treo ngành” và rồi đây số phận của những con người bị coi là xấu số cũng
không khác gì.

- Cũng vẫn tiểu cảnh thiên nhiên trời chiều đầy bất thường trong Chém treo ngành nhưng lại
xuất hiện ở pháp trường: “Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thì sáng hơn nền trời. Nền
trời vẫn những đám mây tim và đỏ vẽ đủ mọi hình quái lạ. Bức tranh mây chó màu thẫm hạ
thấp thêm mãi và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt. Màu sắc thực được tả nhiều
hơn. Đó là những gam màu đỏ, tím, thẫm gợi cảm giác gần. Đặc biệt màu đỏ gợi cảm giác
nóng. Tất cả những sắc màu ấy kết hợp với nhau tạo cảm giác nặng nề đè nặng xuống khung
cảnh pháp trường gây nên cái oi bức của cả không gian và lòng người. Ngòi bút lạnh đến
tuyệt đối của Nguyễn Tuân đã vẽ lên cái cảnh huống ngược đời “mặt đất thì sáng hơn nền
trời”. Tương phản giữa cái sáng của mặt đất và cái tối thẫm của nền trời đã soi rõ dường nét
bất thường của bức tranh. Những nét vẽ mây trên nền trời bằng gam màu đậm đã làm thành
“đủ mọi hình quái lạ”. Phải chăng nó đang mang nặng những u uất của con người trước giờ
hành quyết.

- Cảnh tương hợp với con người. Bức họa về tên đao phủ được phác họa lướt qua trong từng
tiểu cảnh mà hiện lên thật sống động trong tâm thức người đọc. Khi thì “mảnh khăn vuông
vải trắng bịt tóc” đã xuống màu, tay hoa thanh quất, khi “y hồi hộp chống gươm xuống mặt
đất ẩm ngổn ngang sự tàn phá” và có khi y múa lượn bên hai hàng tử tù với những cái đầu
chẻ gục, “những tia máu phun kêu phì phì, vọt lên nền trời chiều. Trên ảng cỏ hoen ố không
một chiếc thủ cấp nào rụng xuống.

- Và cảnh đó là cảnh kì dị, rùng rợn chất “yêu ngôn”, nó cảnh báo sự chết chóc đang đe dọa.

- Kết thúc Chém treo ngành, cảnh u uất, bất thường đó lại tiếp tục tạo dư ba cho câu
chuyện...ám ảnh người đọc: “Trận gió xoắn giật, hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đảm tử thi
và đuổi theo các quan đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi
xuống bãi cỏ lăn lộn mấy vòng... Những đường nét miêu tả con đường đi của gió: xoắn, hút,
xoay vòng rồi đột ngột đổi sang đuổi theo chiều đi của các quan. Thiên nhiên lộ rõ sự căm
hờn nên bất thường mà thay đổi (trước đó không gian rất tĩnh lặng, oi bức) dữ dội hất cái mũ
trên đầu quan Công sứ xuống như một lời cảnh báo các ngươi hãy chờ đến lượt thủ cấp của
mình cũng sẽ được chém nghệ thuật như vậy.

- Nếu Chém treo ngành mang hơi hướng “yêu ngôn” thì đến Bảo oán màu sắc “yêu ngôn” ấy
hiện ra rõ nét.

- Cảnh trường thi trong Báo oán mang một màu sắc ớn lạnh như nghĩa địa. Nó hiện lên như
một bức tranh ngôn từ mà hội tụ đủ đường nét, màu sắc đậm nhạt được vẽ lên bằng nghệ
thuật tương phản. Cái đàn tế mang sự đối lập giữa “con dê đen thui” và “con lợn cạo trắng
mở to cặp mắt chết” đầy cảm giác ghê sợ. Đàn tế ấy lại tương phản với nền trời: “mặt đất
sáng hơn nền trời”. Mấy chục ngọn nến sáng đối lập với “màu mây đục đùn lên những hình
Quỷ Đông” và “màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn” của cái cầu vồng cụt một chân ở phía Tây.
Có thể thấy tần số tương phản dày đặc làm cho không gian trường thi mang sắc độ âm u đậm
đặc gây cảm giác ớn lạnh, ma quái. Những cảnh huống ngược đời chưa từng thấy: mặt đất
sáng hơn nền trời, gió cũng không muốn thổi, mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi
bình hương bốc lên thẳng thắn nơi bàn tam sinh...Tất cả cho thấy trạng thái dị thường, nó
hướng đến chiêu dương, dự báo những điềm dữ đang đến với họ. Cuộc tế tiến trường “đang
lắng chờ một tai biến gì” mà sáng tối chưa phân tách, âm dương hỗn loạn không chia biệt.
Phông màn nhập nhoạng đó thật phù hợp để những hồn ma trở về báo oán.

- Bên cạnh đoạn tả cảnh trường thi, Báo oán cũng có đoạn văn đọc lên mà khiến người ta cảm
tưởng như đang ngắm tranh: “Gió thổi vào đống lửa vàng hóa bùng bùng, lửa kêu vù vù và
trong tiếng ngọn lửa reo, lại có tiếng người nói cười lanh lảnh. Khói bốc lên, tỏa xuống soai
soải, như những vệt nước thời gian trượt trên đầu ngọn tường xuống lần vách gạch những đền
chùa xưa cũ có mốc vẽ hình, có rêu phong dấu. Những vòn khói nhẹ đã đổ xuống nhanh, đổi
màu rất mau chóng. ” Cảnh được vẽ bằng những ngôn từ mang liên tưởng thi vị trong sự đối
lập của gam màu đậm nhạt, đường nét của sự vật hoạt động. Cảnh báo hiệu cuộc báo oán
dành cho ông Đầu Xứ Em.
- Bức chân dung về hồn ma báo oán được phác họa trong nhập nhằng sương khói trường thi.
Ấn tượng nhất là cách vẽ chồng hình bằng ngôn từ của Nguyễn Tuân. Nhấp nhoáng sau
khuôn mặt cô Phương là diện mạo người đàn bà ẵm con, xõa tóc, báo oán anh em ông Đầu
Xứ.

- Còn nhớ Báo oán mở đầu bằng một màu vàng của bìa cuốn lịch nhòe nét son dấu kim ấn và
tiếp đên là bức tranh đậm màu vàng: “Bên bờ đường cải quan, hoa hoè nở vàng khè. Dậm hoè
đất Sơn Nam hạ trổ bông đã từ lầu. Hoè đã rầu cảnh, màu vàng úa tối mãi xuống”. Nhưng đó
là bức tranh với những màu vàng của hoa hòe rầu cánh, úa tối mãi xuống...Tiếp đến chuyển
sang khung cảnh âm u mưa gió mùa thu dầm dề, ảm đạm nơi trường thi...Còn có cả khung
cảnh hiện lên trong giấc mơ với những âm oán u hiển...Và cảnh cuối cùng là bữa rượu ba
bình vào một cái đêm dài nhất trong một đời của người sĩ tử hỏng thi. Tất cả những khung
cảnh ấy như hòa trộn vào nhau làm nên một bức tranh lớn đầy kì dị, ma quái là Báo oán. Bức
tranh muốn gửi đến thông điệp về số phận của tài hoa. Phải chăng tất cả được tạo tác lên
trong một ám ảnh văn hóa của tâm thức “tài mệnh tương đố”. Sẽ còn những ám ảnh khôn
khuây về bi kịch của một lớp người tài hoa bị lịch sử dồn vào chân tường. Ngòi bút tài hoa
Nguyễn Tuân “hoài cổ” tìm lại cái tài hoa mạt vận như một sự lên án buổi giao thời đã làm
cho những giá trị xưa cũ không còn đất sống. Người họa sĩ nào muốn vẽ về khung cảnh đặc
biệt của thời quá vãng này, hãy tìm đến với Khoa thi cuối cùng - với Bảo oán.

- Rõ ràng, Vang bóng một thời hiện lên qua bút pháp hội họa mang thật nhiều vẻ u trầm.
Thống kê những từ ngữ đã cho thấy điều đó, đồng thời phong cách độc đáo trong sử dụng
gam màu của nhà văn họ Nguyễn cũng được bật lên rõ nét. Cụ thể về những từ ngữ độc đáo
diễn đạt sắc màu u trầm: Lác đác được sử dụng ở Những chiếc ấm đất (nước rỏ xuống đường:
hình sao ướt và thẫm màu), Thả thơ (Vầng trăng...in một cục bóng thẫm), Một cảnh thu muộn
(cụ Thượng mặc chiếc áo...màu tím than đã bợt); và tần số tăng nhiều ở Chữ người tử tù (Nơi
góc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, nơi góc án thư vàng đã nhọt, son đã mờ, màu nâu đen
của đám rệt...), Chém treo ngành (những dòng nhựa thẫm, chất nhựa xám, những đám mây
chó màu thẫm), Báo oán (hoa hòe màu vàng úa, tối mãi xuống, màu mây đục, những vờn
khói bỗng sẫm lại thành một mớ tóc xõa).

- Trước khi gập trang sách Vang bóng một thời, độc giả kịp chiêm ngưỡng Trên đỉnh non Tản
- chốn Bồng Lai thơ mộng, một thế giới bí mật, huyền ảo khiến người ta mộng ước. Truyện
dựng lên khung cảnh đền Tản Viên – nơi mà theo truyền thuyết, Sơn Tinh đã đưa nàng công
chúa xinh đẹp về chung sống. Mỗi năm khi cuộc đánh ghen của “hai kẻ tình địch muôn năm
trong cái mơ hồ vô tận của một thiên tình sử” xảy ra, tốp thợ trần gian được gọi lên để sửa
đền thượng. Nơi đây khung cảnh diệu kì: “vách đá cao, trên mỗi chỏm nhọn màu xanh cảnh
trời Hà Nội thơ mộng của Nguyên Hồng: “... những làn ánh sáng trắng xóa. Trời cao xanh
mênh mông, mây tuyết và nắng vàng lung linh”. Cả hai nhà văn đều vẽ lên trước mắt người
đọc vẻ đẹp của thiên nhiên song dễ dàng nhận ra độ sắc nét hơn hẳn trong dòng văn tạo hình
kiệm lời của Nguyễn Tuân.

- Cảnh trên đỉnh non Tản còn hiện lên với: “hoa quả lành ngọt và thơm”, “bờ suối có lều cỏ
khinh bồng dựng sẵn ...suối Tịch Mịch nín bặt. Nó trôi một cách lửng lơ ốm yếu và lũng lờ.
Nó trong như pha lê gọt. Nó hiền lành”, “chim chóc trên cành, cá dưới lòng khe” ,hoa cỏ
xung quanh thì rực rỡ sắc màu và luôn tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Cây trái cho những quả
ngon lành chưa từng thấy. Còn những hòn sỏi ven suối khi đập ra sẽ cho con người cả cơm
lẫn rượu sẵn sàng... “Cái ánh sáng trên này lúc nào cũng nhờ nhờ như nước gạo loãng, không
kể sớm, không kể trưa, không kể cả tối...”. Đúng là một khung cảnh thần tiên, thoát tục. Bức
tranh dịu hiền, mềm mại của những đường nét, bình ổn trong các gam màu, ánh sáng. Nó gợi
nhịp điệu của cuộc sống tiên cảnh thật êm đềm, thơ mộng, thanh bình. Nó phảng phất phong
vị của “Tản Viên từ phán sự lục”.

- Nguyễn Tuân viết Trên đỉnh non Tản khi “Nguyễn Tuân chưa hề lên núi Ba Vì” . Điều đó
khiến độc giả thực sự ngưỡng mộ trí tưởng tượng, liên tưởng kì ảo của nhà văn. Với một viễn
cảnh thần tiên, Trên đỉnh non Tản như một mảng sáng trong các bức tranh “yêu ngôn”.

Yếu tố điêu khắc trong Vang bóng một thời

- Nguyễn Tuân - “người thợ kim hoàn của chữ” (Tố Hữu). Nhà văn gọt giũa, trau chuốt từng
câu chữ đẹp và độc đáo, sắc cạnh khiến thứ ngôn ngữ của mình như có thể thay thế những
công cụ dao, đục để chạm khắc.

- Vang bóng một thời bên cạnh việc khắc chạm thành công vẻ đẹp dịu dàng, thuần khiết của
những con người tài tử phong lưu còn khắc tạc trong ký ức người đọc những bức chân dung
ám ảnh về những kẻ gắn với pháp trường, đề lao. Những nhân vật ấy được nhà văn dùng thứ
ngôn ngữ tài hoa, uyên bác khắc chạm diện mạo bề ngoài nhưng lại là phương tiện biểu hiện
phẩm chất bên trong. Bên cạnh đó, trong Vang bóng một thời cũng thấp thoáng đâu đây
những bức tượng huyền kỳ, những kỷ vật đập mạnh vào giác quan người đọc ấn tượng sâu
sắc về những nét đẹp văn hóa của một thời nay chỉ còn “vang bóng”.

- Viết về người trí thức, Nam Cao - ngòi bút hiện thực, đã tạo hình được những chân dung
Thứ, San, Hộ...Song, khác hẳn với những nhân vật mạnh mẽ, cá tính và nhiều khi an nhàn
của Nguyễn Tuân, nhân vật trí thức của Nam Cao hiện lên mang những nét dáng khắc khổ,
đau đớn, nhiều khi “dòng nước mắt ứa ra bởi những lo toan của cuộc sống cơm, áo, gạo, tiền.
Viết về người tài hoa, tài tử, Kim Lân đã dựng được những bức điêu khắc bằng ngôn ngữ,
hình ảnh kĩ lưỡng, tinh tế của mình. Nhưng đó lại không phải những nhà nho nhàn tản mà là
những chân dung con người nông dân “thuần hậu nguyên thủy”. Viết Vang bóng một thời,
Nguyễn Tuân đã chạm khối, tạo dáng được những trí thức tài hoa, tài tử phong lưu, say mê
những thú chơi tao nhã, những nét đẹp văn hóa truyền thống. Những nhân vật ấy có khi được
miêu tả tinh vi, kĩ lưỡng nhưng có khi chỉ thoảng qua song đều mang lại những nét đẹp như
chạm, như khắc gợi những liên tưởng, tượng thú vị.

- Đọc Hương cuội ta ấn tượng với hình ảnh được chạm khắc tỉ mỉ dáng vẻ và cốt cách cụ Kép
làng Mọc như một tiên ông: “Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những
buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày
bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong đám lá xanh. Cụ
Kép nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý. ”
Những dòng văn khắc chạm diện mạo bề ngoài của cụ Kép với cái áo lông cừu trắng, tóc bạc
trắng, lông mày bạc, râu bạc và dáng lom khom. Khối hình một con người được tạc dựng với
gam màu trắng: lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng. Đồng điệu, hài hòa. Bức
điêu khắc phù hợp với cái khung cảnh của vườn cây xanh với những hoa thơm cỏ quý. Tôn
nhau lên. Đẹp thuần khiết. Đẹp thanh bình. Nguyễn Tuân đã đi trước thời đại sao? Khi mà
trước đây người ta chỉ biết chạm khắc để đem lại những sản phẩm trong tư thất, mãi đến gần
đây, nghệ thuật ấy mới được đem ra điểm tô cho khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp hơn. Dưới
những dòng văn của Nguyễn Tuân, khu vườn kia sẽ u buồn, giảm thi vị biết bao khi thiếu
vắng một tiên ông đạo cốt như cụ Kép. Cái đẹp ở đây hiện lên không chỉ là diện mạo bề
ngoài mà quan trong hơn nó là cái đẹp bên trong, vẻ đẹp phẩm chất ở con người tài hoa tài tử
- một nhà nho “sinh bất phùng thời” qua sự đối đãi với lũ hoa cỏ quí kia: “Chơi hoa nhiều khi
phải lấy cái chí thành chỉ tình ra mà đối đãi với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng kia.
Như thế mới phải đạo, cải đạo của người tài tử”.
- Đến Chén trà trong sương sớm bàn tay của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân tiếp tục dùng ngôn
từ chạm khắc thật tinh vi về phong thái của cụ Ấm. Đó là một ông già ngồi bên gối xếp, cặp
mắt lim dim sau làn khói. Cụ giống như một nhà sư. Có khi cụ ngồi bên bếp vừa chăm sóc lũ
than trong hỏa lò, vừa không quên vuốt lại hai mái tóc trắng. Cụ giống như một tiên ông. Có
khi “trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả
phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian. Nhân vật cụ Ấm được xây dựng
như một tác phẩm điêu khắc trong nghệ thuật tạo hình. Tác phẩm ấy tồn tại trong không gian
ba chiều để có thể cảm nhận sự đa dạng qua mỗi hướng nhìn. Song dù ở hướng nào, nhân vật
này cũng cho độc giả thấy được lối sống tài tử của mình khi đem tất cả lòng thành kính vào
nghi lễ pha một ấm trà tàu, khi độc thân mà vô đơn vì biết tạo ra đối thoại ngoài con người là
than và lửa vô tri kia. Cuộc sống tinh thần của cụ đã biến những chén trà sương có mùi vị thơ
và triết lí. Chén trà sương vì thế là một buổi luận đàm về trà đạo đáng ngưỡng mộ vượt ra cả
xứ sở Phù tang.

- Hình tượng một tướng Cờ Đen đầy tài hoa, lùng lẫy trong Ngôi mả cũ bao bọc trong bầu
không khí huyền sử: “...mỗi lúc cụ trương lá cờ đầu khi xuất quân, trông oai phong lẫm liệt.
Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoản mã và phía bên phải
là một khẩu súng thập bát hưởng bắn một lúc những mười tám phát liền”[35;73]. Song khi về
với cuộc sống nhàn tản của một thầy địa lí, con người ấy lại giữ một lối sống khá cầu kỳ
phong lưu được chạm khắc qua ngôn ngữ của cậu Chiêu: “Gớm, không hiểu ông cụ Hồ để
móng tay làm gì mà dài đến thế. Móng tay út lá lan của cụ uốn hai vòng như râu rồng.” Chỉ
phác họa thoáng qua ta đã liên tưởng đến một con người tài tử phong lưu, đạo mạo trong cái
“áo dài “sườn xám”, đội mũ “sườn chỉ” có quả bông đỏ, cầm quạt” và cái móng tay út lá lan
uốn hai vòng như râu rộng của cụ thì được lộ hẳn ra, nom thật “nhàn nhã và văn vẻ lắm.”

- Cũng trong truyện Ngôi mả cũ, cụ Án được nhắc tới thoáng qua là một người có tài viết chữ
cổ: chữ thày viết có gân cứng cỏi như chữ lá thiếp...những nét sổ rất khỏe và rất thẳng”. Nét
chữ nét người. Con người viết được thứ chữ ấy, hẳn phải có một phong thái của một tao nhân
điềm đạm, sành về phương pháp dụng bút: “Bao giờ thày cũng cầm bút đứng thẳng cải quản,
chỉ thẳng vào đầu mũi và cùi tay không tì xuống văn kỉ”. Chưa sử dụng đến bốn dòng văn
nhưng Nguyễn Tuân đã tạo dựng được bức điêu khắc ấn tượng về cụ Án đang dụng bút và
thứ chữ cụ viết mang đầy nghệ thuật. Không chỉ khắc chạm những con người dịu dàng, nho
nhã, an vui trong không gian tư thất, Vang bóng một thời còn hội tụ đầy đủ những bức điêu
khắc về đao phủ, về quản ngục, về thơ lại, về tử tù đầy ấn tượng.

- Chém treo ngành hay còn gọi là Bữa rượu máu đã dùng những ngôn từ “lạnh” để chạm khắc
được bức tượng về tên đao phủ: Tay cầm thanh gươm, “mảnh khăn vuông vải trắng bịt tóc
Bát Lê đã đẫm ướt và nhựa chuối chát thẩm vào đẩy, gặp ảnh nắng sớm, đã xuống màu dần
dần”, “y mặc áo dài trắng, một dải dây lưng điều thắt chẽn ngang bụng”. Cấu tạo được bức
điêu khắc này hẳn tác giả đã sử dụng khối đá trắng làm chất liệu để tạc lên những đường nét,
cơ thể y với mảnh khăn trắng, áo dài trắng... Thứ đá ấy lạnh băng từ ngoài vào trong. Có thế,
mới xây dựng được một kẻ máu lạnh chém người không chút ghê tay, không mảy may
thương cảm. Bát Lê gắn liền với mười hai cái chết nghệ thuật kia. Y thật đáng sợ. Y thật ma
quái. Y cũng thật tài hoa nghệ thuật.

- Đọc xong Chém treo ngành người đọc vẫn còn lạnh người và ám ảnh với bức phù điêu về
những kẻ tử tù: “Lũ tử tù bị trói giật cánh khuỷu, quỳ gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp
theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn
đầu đang bóp hông, nắn xương cổ và tuổi cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần om thế nào
cho tội nhân quỳ phải để được gót chân ngửa đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như
thế, tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lưỡi đao thả mạnh xuống cái cổ căng thẳng. Họ lạnh
người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi người họ. Trông xa, họ có cái củng thản
nhiên của những tượng đá tạc hình người Chiêm thành quỳ trước sân đền thờ vua Lý.” Rõ
ràng đây là bức phù điêu khá dài để chạm khắc hết được cảnh tượng những mười hai kẻ bị
trói vào “mười hai cái cọ tre bị về gỗ đập xuống toét cả đầu” ở trước nhà rạp. Các từ ngữ thể
hiện rõ các mảng, nét: trói giật cánh khuỷu, quỳ gối, khom khom lung, rướn mình...Lối chạm
khắc trong sự tỉ lệ thuận giữa vật và người của Nguyễn Tuân độc đáo và lạnh đến ghê người.
Người thợ điêu khắc ở đây chỉ vất vả vì số lượng chân dung mình phải chạm khá nhiều thôi
chứ cái điệu nghệ để khắc hình hài, tinh thần họ thì đã được sự quả cảm của lòng yêu nước
nói hộ rồi. Thật khỏi phải đắn đo người thế này, người thế khác. Dưới lưỡi đao hành quyết
đầy nghệ thuật của Bát Lê, mười hai tội nhân lĩnh nhận những cái chết bằng lưỡi đao ngọt và
sắc. Vũ khúc xử trảm điệu nghệ kèm theo những lời hát chiêu hồn được mười hai con người
này “rướn lên” mà đón nhận để “được chết cho nhanh, cho đẹp”. Khung cảnh gợi nhớ tới
mười hai liệt sĩ đồng hành của Nguyễn Trọng Thuật, gợi nhớ tới những tông đồ của Chúa cứu
thế. Phải chăng Nguyễn Tuân muốn thánh hóa tử tù qua con số mười hai này.

- Nếu trong Chém treo ngành, người đọc bắt gặp bức phù điêu về những tử tù đầy thinh lặng
trong tư thế sẵn sàng cho những nhát chém điệu nghệ của Bát Lê thì trong Chữ người tử tù ta
lại bắt gặp bức phù điêu tuy hẹp hơn về kích thước nhưng đầy sinh động và ấn tượng về
những phạm nhân trước khi bước vào cánh cửa đề lao: “...Sáu phạm nhân đều mang chung
một chiếc gông dài đến tám thước. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến
loạn, nếu đem cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. ” Và tư thế của họ “Sáu người đều quỳ cả
xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông, đầu củi cả về phía trước” nhưng không phải là thi hành
trước một kẻ quyền lực nào, mà họ đang thực hiện theo mệnh lệnh của vị thủ lĩnh để loại trừ
bọn rệp xấu xa. Huấn Cao đứng đầu gông, “chúc mũi gông xuống thềm đá tảng, khom mình
thúc mạnh đầu thành gông xuống . Then chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau,
làm họ nhăn mặt.” Bức phù điêu với tỉ lệ các đường nét rõ ràng, chạm khắc bằng những mảng
đặc như thể nói lên cái dũng mãnh, hổ báo của những người mà được gọi là “quân phiến
loạn”. Mà nổi bật nhất là Huấn Cao.

- Viên quản ngục trong Chữ người tử tù được miêu tả ngoại hình và nội tâm thật thành công
qua những câu văn giàu chất thơ: “Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả mầu.
Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy giờ chỉ còn mặt
nước ao xuân bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ...cái bộ mặt quắc thước, nhẹ nhõm...”. Với sự
liên tưởng độc đáo và khả năng quan sát tinh tế, “nhà điêu khắc Nguyễn Tuân” đã dựng lại
trước mắt người đọc bức chân dung mang những nét khối ấn tượng trong biểu hiện tinh thần
của một con người cai quản ngục tối. Bức tượng này có ai nghĩ là một viên quản ngục? Và
chính cách miêu tả quản ngục như vậy gợi sự tò mò nơi độc giả chú ý vào những tâm tình của
nhân vật hơn để phát hiện ra y đúng là “một thanh âm trong trẻo” giữa cái xã hội “hỗn loạn
xô bồ”.

- Trong Chữ người tử tù Nguyễn Tuân, người đọc dành nhiều tình cảm xúc động trước bức
tượng đài về những con người trong cuộc hội ngộ kỳ thú: “Một người tù cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người
tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ
đặt trên phiến lụa ông. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực...”

- Huấn Cao có tài “viết chữ rất nhanh và đẹp”, những nét chữ do ông viết “vuông lắm, đẹp
lắm” và khi được được viết chữ tặng quản ngục, Huấn Cao được khắc chạm một phong thái
uy nghi trong tỉ lệ thân hình trên dưới với các mảng khắc sắc nét: “Một tên tù cổ đeo gông,
chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván.”
- Viên quản ngục - hắn đường đường là một kẻ nắm giữ uy quyền, vậy mà được tạc dựng
trong vẻ “khúm núm”. Đó là dáng hình của kẻ nô lệ. Nô lệ cho cái đẹp. “Thày thư lại gày
gò...run run bung chậu mực”, đã gầy gò lại thêm vẻ “run run”, thầy thơ cũng làm mất đi hết
cái uy quyền của mình. Chỉ còn lại cái sợ sệt, sẵn sàng hết mình trong vai trò nô lệ cho cái
đẹp. Thầy thơ lại hay quản ngục trong hoàn cảnh này là những kẻ chí thành, chí tình. Họ sẵn
sàng làm nô lệ để cái đẹp kia được thăng hoa. Huấn Cao là kẻ trực tiếp sáng tạo cái đẹp. Như
vậy, kỳ thú đã nối kết ba con người này lại gần nhau, trở thành những kẻ tri âm (Huấn Cao
từng nói chỉ cho chữ những người tri âm tri kỉ). Và vì thế: “Cuộc kì ngộ đã hoàn toàn thành
cuộc hạnh ngộ. Quản ngục thì bày tỏ được niềm ngưỡng mộ và có được chữ của Huấn Cao,
đồng thời có được lối để vượt thoát ra khỏi tình trạng cầm tù chung thân của mình. Còn Huấn
Cao, vào giờ phút chót của đời mình, lại bất ngờ được thấy một đoá hoa mai giữa thế giới ô
trọc, lại được số phận ban tặng một tri kỉ nữa. "Sống trong đời, có được một tri kỉ, chết cũng
thoả lòng", chẳng phải đó là niềm hạnh phúc vô song mà người xưa coi là điều lí tưởng đó
v ?” (Chu Văn Sơn).

- Đoạn văn giàu tính kịch, đậm chất điêu khắc. Nhóm tượng được tạc dựng với hình khối rõ
nét, cấu tạo theo tỉ lệ con số ba đầy ẩn ý cho sự vững chãi, thiêng liêng và bất tử. Nhóm
tượng đài ấy có thể đặt một cái tên để lưu lại mãi khoảnh khắc đẹp – một khoảnh khắc mà cái
đẹp được vút lên từ trái tim, từ tâm hồn những con người yêu say cái đẹp. Bức tượng đài
“Tam vị thiên lương” (Chữ dùng của Văn Tâm).

- Vang bóng một thời bên cạnh những nhân vật hiện thực với cuộc sống, còn khắc chạm
thành công những nhân vật là hồn ma quái dị hay là thần tiên kì bí.

- Trong truyện Báo oán, hai anh em ông Đầu Xứ Anh và ông Đầu Xứ Em đều là những con
người trẻ tuổi, tài giỏi nổi tiếng. Song khi vác lều chõng đi thi, họ đều bị hỏng bởi sự báo oán
của oan hồn ma nữ (vốn là thiếp của ông Huấn cha họ. Ông Huấn do phạm vào một việc thất
đức, đã mang lấy cái trách nhiệm tinh thần về cái chết của một người nàng hầu tài hoa nổi
tiếng một thời. Người thiếp chết trẻ khi có mang sáu bảy tháng). Hồn oan này hiện lên ám
ảnh, quấy nhiễu trong thực mà còn cả trong mơ, không chỉ một lần mà trở đi trở lại với sĩ tử:
khi thì với hiện thực trường thi của ông Đầu Xứ Anh: “Một người đàn bà trẻ, xõa tóc ẵm con,
hiện ngay giữa lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào giữ gịt lấy tay không cho viết. Gào khóc
chán người đàn bà ấy lấy mớ tóc xõa quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên và cười sằng sặc, lấy
nghiên mực đổ vào quyển ông”, khi nó hiện lên trong trí nhớ của ông trong sự so sánh:
“khuôn mặt cô Phương cũng hao hao tự như người đàn bà ẵm con xõa tóc ngồi rú kêu than
nơi đầu chiếc chõng tre trong trường thi năm nọ”, khi thì trong giấc mơ của ông: “bóng cái
người đàn bà mặc đồ trắng, xoã tóc, kiễng gót, thu một đứa trẻ con vào tà ào sổ gấu, đi tuột
vào phía nhà cầu...Cải người đàn bà mặc đồ trắng, chân không sát đất, lại lẻn trở ra và, khi
lướt qua mặt ông, cười gằn một tiếng, lấy tà áo quất vào mả ông, buốt đức và giá lạnh”, và có
lúc lại xuất hiện trong cuộc thi của ông Đầu Xứ Em: “những vòn khỏi – thoảng mùi gây gây
khét và tanh lợm – bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xoã và mở tóc u hiển không chờ đợi
ấy đóng khung lấy một khuôn mặt người. Lửa vàng gần lụn, vụt bùng lên và tiếng cười lanh
lảnh trở nên the thẻ”. Cấu trúc trọng vào mái tóc xõa, nhà văn đã sử dụng bút pháp điêu khắc
tạc dựng được hình ảnh một hồn ma rùng rợn, và cũng đầy thảm thiết. Hình ảnh ấy lặp lại
nhiều lần đến trong mơ họ cũng vẫn hình dung ra. Đó là nhân vật hồn ma duy nhất trong các
trang văn Vang bóng một thời, và cũng đầy ám ảnh khôn khuây như bức tượng kinh dị khó
quên. Phải chăng Nguyễn Tuân đang muốn góp thêm vào cái xã hội Vang bóng một thời đó
cái không khí bạo lực, không khí của sự phi lí đến kinh sợ. Đó cũng là một cách để nhà văn
đả kích cái xã hội trong buổi giao thời hỗn loạn xô bồ. Và đó cũng là một cách để thể hiện sự
luyến tiếc cho cái tài hoa khi nó bị bủa vây bởi sự tàn lụi, bị dìm xuống đáy vực sâu.
- Hình ảnh thần non Tản trong Trên đỉnh non Tản được hiện lên vào thời điểm ảo ảo của một
buổi chiều nhá nhem: “một ông cụ già râu tóc lông mi trắng xốp như bông, chống một cây
gậy trúc đùi gà vàng óng, khoan thai tiến vào cổng trước làng Tràng Thôn. Trông ông cụ đĩnh
đạc, cổ kính, đội cái nón cỏ giống kiểu nón tu lờ người tu hành, dân làng không hỏi căn vặn
và chỉ nhìn theo ông cụ đi khuất vào ngõ nhà ông cụ Sần, bước đi có đủ cái vững vàng của
một người quắc thước thuộc lòng con đường đi của mình”. Một vị tiên ông thật đẹp! Hài hòa
trong cấu trúc tạc dựng từ râu, tóc, lông mi trắng xốp như bông đến cái nón tu lờ, từ cây gậy
trúc vàng đến bước đi khoan thai mà vững vàng. Những từ ngữ dưới ngòi bút giàu trí tưởng
tượng của Nguyễn Tuân đã khắc chạm được một bức tượng đẹp nhất và nghệ thuật nhất. Màu
sắc trắng, vàng cùng với dáng vẻ cổ kính, quắc thước mà khoan thai đã làm cho “bức tượng
thần tiên” này đầy sống động, uy nghi và thiêng liêng, dù là chiêm ngưỡng theo mọi góc độ.
Song thần non Tản hiện lên cũng vừa hư ảo xa vời lại vừa gần gũi đời thực. Có lẽ vì vậy mà
thần cũng biết yêu, biết ghen, có phép thuật cao cường nhưng cũng không thể tự mình sửa
ngôi đền mà phải hạ sơn để nhờ những bàn tay nhỏ bé của người trần. Lằn ranh ảo, thực thật
khó phân tách. Hình ảnh thần non Tản hiện ra trong khung cảnh nhập nhoạng vừa hư vừa
thực, phải chăng đã gợi cho ta thấy ở cái buổi giao thì nhập nhoạng ấy thực, ảo lẫn lộn lắm.
Song chính sự hòa trộn thực - ảo đó đã mang lại hiệu quả nghệ thuật hài hòa trong tạc dựng
một tượng đài đẹp vừa uy nghi, lồng lộng vừa thân thuộc, gần gũi. Tất cả là nhờ vào dụng
công của ngòi bút lãng mạn tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân.

- Khắc chạm thành công con người đam mê với nghệ thuật trà đạo, đương nhiên sẽ chạm
khắc thành công vật đồng điệu với con người ấy. Trong Chén trà trong sương sớm người đọc
làm sao quên chiếc độc ẩm, được Nguyễn Tuân chạm khắc bằng ngôn ngữ: “Cụ khẽ nâng
vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhành, khoan thai, cụ m nhắc
cả đĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Đến lúc dờ tới cái ấm con chuyên trà thì
cụ kềnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn.
Dáng ấm làm theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, người thợ Tầu lấy dáng cho
ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Ấm thử mãi da lòng tay mình vào mình cái ấm độc
ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng hoàn toàn sau khi
nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quả. Ngôn ngữ đậm chất điêu khắc. Chiếc ấm độc
ẩm màu đỏ da chu, bóng nhẵn, hình quả sung và chất liệu đất nung. Người thợ có hoa tay đã
làm ra nó. Nó đẹp và quý lắm. Thế nên dù đã dùng nhiều lần, đã biết rõ nó không có chút
gợn, cụ Ấm vẫn cố sờ để cảm nhận cái sung sướng khi được tự mình khẳng định một lần nữa
là nó nhãn nhụi quá. Chiếc ấm độc ẩm thật xứng đáng với tình cảm, công phu, niềm đam mê
và tinh thần sống hết mình cho nghệ thuật trà đạo của cụ Ấm.

- Cũng vẫn là viết về nghệ thuật trà đạo, nhưng cụ Sáu trong Những chiếc ấm đất không chỉ
có một chiếc độc ẩm mà cụ có cả “một lũ ấm”. Cái con người “dám cả gan” đánh đổi sự
nghiệp lấy một ấm trà tàu và khi tiêu tan cơ nghiệp đến phải bán cả lũ ấm đất mà trước đây
người ta có “trồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chửa chắc cụ đã bản”. Trên mặt đất, cụ
bày ra “những cái thân ẩm đất đủ màu, cái thì dáng giỏ dâu, cái thì múi na, hình quả vả, quả
sung...”. Thật đủ các dáng khối của ấm, đã vậy lại còn là những ấm tàu quý giá.

- Còn nhớ trước đó, khi còn cơ ngơi, sung sướng trong thú thưởng trà, cụ Sáu và khách có
đàm đạo về những chiếc ấm của mình: “...khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi
và khen:

- Cái ấm của cụ quỷ lắm đấy. “Thực là ấm Thế Đức gan gà; thứ nhì Lưu Bội; thứ ba Mạnh
Thần”. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thân song ẩm của tôi ở nhà, mới
dùng nên cũng chưa có mấy cao.
- Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách:

- Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ẩm đồng không? Tàu, họ gọi là kim
hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cải kim hóa đấy.”

- Cứ theo lời vị khách này thì cái ấm của cụ Sáu là nhất. Nó mang tên Thế đúng vị trí đầu
trong tam ẩm. Đặc biệt nó đã có “cao nhiều lắm rồi”. “Cao” ở đây không phải chỉ kích thước
của ấm, mà chỉ thứ bám vào thành ấm đã thành lớp chặt. Có thế mới thấy cái ấm ấy được sử
dụng bền lâu và tốt quý đến thế nào. Theo cụ Sáu, ấm pha trà phải là ấm Thế Đức màu gan
gà, có đủ năm kim hỏa để nước mau sủi. Chọn ấm thì phải cho ấm ngửa trộn lên, xem miệng
vòi với gờ quai, gờ miệng đều cắn sát mặt bằng hoặc thả ấm vào chậu nước, thấy nó nổi đều,
cân nhau không triềng, thế là đích ấm Tàu.

- Những chiếc ấm đất quý giá được Nguyễn Tuân miêu tả lại thật sống động và đầy ấn tượng,
rõ ràng như chạm, như nặn, như khắc bởi một bàn tay tài hoa và người đọc thì như được sờ
lên chúng, được thử chúng xem có đích thị là ấm tàu không. Chúng là những kỳ vật. Và phận
vật ấy cũng theo phận chủ mà an bài. Những chiếc ấm đất. Ca ngợi nhiều. Nghệ thuật nhiều.
Và cũng luyến tiếc, ngậm ngùi nhiều.

- Nghệ thuật chơi chữ còn gọi là thư pháp được nhắc đến với những chữ vuông, tươi tắn, bay
bổng (Vũ Đình Liên nói là “như phượng múa rồng bay”). Vậy thì bản thân mỗi chữ vuông
(chữ Hán) cũng đã là một ký hiệu, một hình vẽ giàu nhịp điệu rồi. Đọc “Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân, người đọc được chiêm ngưỡng một bức châm như được chạm, khắc bằng khối
hình vuông vắn hài hòa cùng nét chữ. Đó là bức thư pháp với những nét chữ vuông vắn rõ
ràng trên vuông lụa bạch. Mùi thơm của mực trên các nét chữ đó có lẽ vẫn còn phảng phất.
Nét chữ hiện hình cũng chính là cái đẹp nảy sinh. Nhưng đó cũng chỉ là những dòng chữ cuối
cùng. Phải chăng Nguyễn Tuân muốn nói tới sự biến mất của một thứ nghệ thuật mang đậm
tính người, đậm chất dân tộc.

- Bức châm được chạm khắc bằng ngôn từ, càng làm hiện lên cái linh hồn của nó. Màu trắng
tinh khiết, mùi mực thơm của tấm lụa, nét mực gợi “cái hoài bão tung hoành của một đời
người”, gợi vẻ đẹp khí phách của người nghệ sĩ tài hoa, vẻ đẹp của tấm lòng “biệt nhỡn liên
tài”, vẻ đẹp của thiên lương. Nó như một kỳ vật điểm tô cho một kỳ nhân trong những giờ
phút cuối cùng của cuộc đời.

Đến với Trên đỉnh non Tản, người đọc được hòa mình với nghệ thuật điêu khắc và chiêm
ngưỡng bức điêu khắc “Tản Viên đài ngõa”: “Hiệp thợ mộc vẫn tuần tự tiến hành công
việc.... Những buổi trời tái hẳn lại vì khí núi âm u, thì một vài hòn ngói trên lòng trần đền
hình mai luyện lại sáng rực hẳn lên như một nguồn lửa. Ở những hòn ngói phát hào quang
ấy, đọc rõ được bốn chữ Tản Viên Đài Ngoã. Vào những phút này, mấy thân cây cột gỗ chò
vẫy mới tỏ rõ cái đẹp cải quý của một thứ gỗ đặc biệt. Dưới ánh lửa ngói sáng choang, cột
gỗ chò nhấp nhánh lộng lẫy chớp chớp lên như vẩy rồng vàng cốm chạm nổi.

Những đầu kèo vai và câu đầu, đều chạm tứ quý tử linh. Bức trần gỗ thì chạm bát bửu cổ đồ.
Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài khác ở dưới núi. Họ
chia nhau ra mà chạm, người thì tỉa hình thư kiểm, quạt và phất trần, kẻ thì gạt dáng tù và
với túi roi hoặc là tủi thơ cùng bầu rượu, cái nọ ghép vào với cái kia thành một bộ đôi bằng
những sợi cẩm đới nét dẻo như tung bay được.

Đến hôm chạm đến tám cánh cửa bức bàn theo hình Bát tiên hoả thì trời xám quả, ánh sáng
ngói đền không đủ để làm việc. Sơn chủ phải cho nổi hiệu khánh đá gọi đôi tê giác xanh tới
đền. Người thợ nào cần thêm ánh sáng thì con tê giác xanh lại ghé đến bên cạnh, lấy cái
sừng âm rọi sáng cho đường chạm. Sừng tê giác là những vệt lân hoả sáng xanh và dịu.
Nhiều con anh tước lắng tai nghe những tiếng đục đánh xuống tràng kêu lách cách các cách
gieo những âm thanh thô lạ và gắt vào cái êm ả của ngàn mềm ... Hôm nay, bọn thợ mộc
làng Chàng Thôn đã làm đến cái diềm gỗ hàng hiên phải chạm thủng đường sòi. Nghĩa là
công việc chữa đền Thượng gần xong. ”

- Tọa lạc trên một đỉnh núi cao, nơi ngự trị của chúa ngàn thiêng nên ngôi đền thượng đòi hỏi
những tay thợ khéo léo, tài hoa “chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các
đền đài khác ở dưới núi”. Cảnh những người thợ mộc chạm khắc được miêu tả như những
người nghệ sĩ đang làm những công việc thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng trong khung
cảnh kỳ ảo, trang nghiêm nơi non tiên. Không gian huyền hoặc nơi đây và cái trang trọng ấy,
cùng sự uy nghiêm của thần Tản Viên...gợi liên tưởng đến một cuộc hành trong giáo đường
thần thánh. Hiệp thợ đã có một không gian để sáng tạo nghệ thuật và được sự trợ giúp đắc lực
để hoàn thành công việc. Bức điêu khắc về ngôi đền vì thế đẹp đến lộng lẫy, uy nghi, huyền
ảo...có lẽ chỉ chốn thần tiên mới có. Từ những hình khối rõ nét như: cột gỗ chò, đầu kèo, bức
trần gỗ, tảm cảnh cửa bức bàn hay cái diềm gỗ hàng hiên..đến tỉ lệ hài hòa giữa các mảng
miếng, cấu tạo mọi bộ phận của đền đều phải tinh vi, lộng lẫy. Ngôi đền thượng – sản phẩm
của điêu khắc đầy kì thú dưới bàn tay chạm trổ của hiệp thợ tài hoa dưới trần gian. Nó được
hòa vào thiên nhiên tươi đẹp, huyền ảo của non Tản và điểm tô cho khung cảnh thần tiên ấy.
Ngôi đền nơi cao xa vời vợi ấy chính là biểu hiện của mơ ước. Giấc mơ về sự hòa hợp với
thiên nhiên. Giấc mơ về sự vươn tới cái đẹp vĩnh hằng.

- Đọc Vang bóng một thời, độc giả không chỉ được ngắm những bức điêu khắc về con người
mà còn được chiêm ngưỡng nhiều bức điêu khắc về cảnh vật.

- Trong Thả thơ, khung cảnh cuộc thả thơ đêm mười bốn tháng tám như được hiện ra rõ nét
trước mắt người đọc những khối, nét, mảng phối hợp với nhau tạo nên dáng điệu của một bức
điêu khắc cảnh vật tự nhiên tịch lặng: “Vầng trăng mười bốn lúc chếch về Đoài đã in một cục
bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội. Đấy là bóng chiếc
nhà bè lợp lá gồi mà trong đó, cụ Nghè Móm đang ngồi làm nhà cái, thả thơ cho hàng chục
người con đánh. ”

- Khí vị của đêm trăng, chiếu bạc trong Thả thơ được “chạm trổ” những hình khối lớn, tỉ lệ
nghiêng về con người mà vẫn hòa hợp giữa khung cảnh sông nước bao la. Đến Đánh thơ
cũng với bút pháp điêu khắc Nguyễn Tuân đã “khắc dựng” một “canh bạc bằng thơ” nơi tư
thất nhà ông Kinh Lịch:“Ông Kinh Lịch châm thêm dăm bảy cây sáp nữa đã gắn sẵn vào để
đèn đồng. Tất cả thành thử đến hơn mười cây nến, chung nhiệt độ lại để tăng bốc cái mùi
thơm gắt ngát của một bình hoa rộng miệng chứa gần trăm gốc huệ trắng. Hoa huệ mãn khai
cuộn , đầu cảnh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của
người thở mạnh, của hơi thở dồn vang càng hết sức nhả mùi hương...Hơi huệ ngùn ngụt bốc
lên, quyện lấy mùi dầu dừa nơi mái tóc Mộng Liên. Mộng Liên mặc chiếc áo màu hỏa hoàng
ngồi ép sát vào chồng, mặc một chiếc áo lụa năm thân nhuộm màu khỏi nhang đột chỉ trúng
vận.” Cấu trúc bức điêu khắc mang tỉ lệ hài hòa giữa hình khối người và vật: Ông Kinh Lịch
bên những cây nến, bao kẻ đánh thơ, trong đó nổi bật vợ chồng Mộng Liên, Phó Sứ bên bình
huệ lớn hàng trăm gốc. Đặc tả thêm nét của hoa huệ cuộn cong đầu như những râu rồng và
nét dáng của mái tóc Mộng Liên. Bức điêu khắc điểm thêm màu sắc vàng, trắng phù hợp với
từng nét, mảng. Thả thơ hay Đánh thơ dưới ngòi bút tạo hình của Nguyễn Tuân hiện lên
những khoảnh khắc thật và đẹp để có thể chạm khắc vào nỗi hoài vọng của những người thời
nay.
- Trong Hương cuội, người đọc được chiêm ngưỡng tiệc rượu Thạch Lan Hương: “Bố già đã
bày ra sân bốn cái bát đôn sử Bát Tràng màu xanh lam. Trước mặt mỗi đôn, bố già đặt một ản
thư nhỏ, trên đó ngất nghểu hai chậu lan, còn lù lù chiếc lồng bàn úp, và một hũ rượu lớn có
nút lá chuối khô...” Đó là khung cảnh đặc biệt dưới bàn tay sắp đặt thông thạo của một người
hầu cận trung thành trong nhà cụ Kép. Với sự rõ nét về mảng, khối trong tỉ lệ sắp xếp hài hòa
của bát, của án thư, của chậu lan và lồng bàn, hũ rượu. Cảnh vật hiện lên như một bức điêu
khắc chạm sâu được đến niềm nuối tiếc của người đọc về một thú chơi tao nhã mà có lẽ
không bao giờ quay trở lại nữa.

- Đến Chén trà trong sương sớm, cũng là một cuộc sắp đặt thông thạo nhưng tự chính bàn tay
người thưởng thức: “. cây đèn dầu sở phố thêm màu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.
La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh, cũng đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng
và hỏa lò đất. Cái điều bát vẽ Mai Hạc kêu vang lên một hồi rất giòn, rất đều... Sau màn khói,
ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻ
nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng khói trắng hiếu động đang trôi
trong không khí gian nhà gạch”. Cảnh vật và con người trong khoảnh khắc giao hòa giữa đêm
và ngày hiện lên gói gọn kích cỡ trong gian nhà gạch của cụ Ấm. Cảm nhận như một bức
điêu khắc tĩnh lặng và hòa hợp trong tư thế từ những khối vật như: khay trà, ống nhổ, ấm
đồng và hỏa lò đất trên chiếu cói, cây đèn dầu sở, cái điếu mai hạc đến khối hình một con
người duy nhất – cụ Ấm. Giữa những làn khói trắng, dường nét trên khuôn mặt và dáng điệu
cụ được tạo hình bằng ngôn từ đầy trang trọng qua nghệ thuật so sánh. Để thưởng thức trà
ngon, cụ Ấm đã tạo được một thói quen dậy sớm chuẩn bị cho công việc pha trà đầy công
phu. Bức điêu khắc bằng ngôn từ mở đầu truyện vì thế vừa chạm khắc thành công vẻ đẹp cổ
xưa vừa lôi cuốn người đọc vào sự tìm hiểu thuật thưởng trà của nhân vật.

- Bức điêu khắc về khung cảnh: một cụ già bên lửa và than: “...những hòn than tàu cháy đều,
màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn ở chung quanh...Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một
khối đỏ tươi...” gợi nhớ tới cách tạo hình của Thạch Lam cũng qua hình ảnh lửa và than:
“Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ảnh hồng như hòn than sắp tàn”. Hình
khối của những khoảng không gian khác nhau, song dưới ngòi bút lãng mạn giàu chất tạo
hình, cả hai nhà văn đều tạo được những cảm giác mới lạ cho độc giả.

- Nếu những bức điêu khắc bằng ngôn từ trên mang dáng vẻ tịch lặng, u trầm thì đến Một
cảnh thu muộn, khung cảnh gia đình cụ Thượng đông vui, đầm ấm như được khắc dựng qua
đoạn văn: “Có người học trò cũ ở Sơn Tây về qua Hà Nội, biết ông cử có con, đem đến biểu
thầy học cũ một cái bánh dẻo mặt trăng, mặt bảnh to một thước, thế nào lại nhằm ngay vào
giữa hôm ông cử Hai thử đèn xẻ rãnh. Ông bày đèn ra sân, đốt hết cả mười con bấc cháy
sáng. Ông bày luôn ra sân bộ đồ trà, mời cụ Thượng ra ngồi vào cái ghế đẩu đã để sẵn trước
đèn. Cụ Thượng ngồi ăn bánh, uống nước và trịnh trọng như người được mời tới để định giải
thưởng cho đèn xẻ rãnh. Rồi cả nhà mỗi người một miếng, trông vui vẻ lạ. Vui nhất là Ngộ
Lang. Cả đến con Tố Tâm bé thế mà cũng ăn được hai mảnh bánh mặt trăng.” Tạo hình các
đồ vật như đèn xẻ rãnh, bánh trung thu với các khối, nét cụ thể về hình dạng, kích thước. Kết
hợp với việc tạo hình dáng vẻ, tư thế con người với đủ ba thế hệ, bức điêu khắc ngôn từ hiện
lên sống động, tự nhiên và đầm ấm biết bao.

- Đọc Ngôi mả cũ, có khung cảnh cảm giác như những hình khối được nhìn qua cặp mắt của
nhà điêu khắc: “Giàn bầu nậm ở ngoài sân, dây leo và lá chẳng chịt lấp chật ô giàn nứa...giả
những quả bầu mà được khô lần cùi như chất vỏ cây khô, thì mỗi khi cơn gió vèo đẩy những
bình rượu ấy văng cụng vào nhau, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái hình và cái tiếng của lũ
khánh đất nung và cả đất ở cái sân cây cảnh một gia đình thanh bạch.
- Cậu Chiêu nắm từng quả bầu nậm. Lúc buồn tay, lắc quả bầu thật mạnh, ở trong nghe như
có tiếng nước ọc ạch. Trông sướng mắt và có thể vui tai đến chừng nào! Chẳng trách được,
chiều chiều ông cụ Hồ Viễn cứ ra sân đùa mãi được với lũ bầu nậm lòng thông trước khung
cửa sổ như nhắc nhóm một người đã mệt với cuộc sống chỉ còn nên uống rượu chơi thôi. Trái
bầu nậm còn tươi dưới lỗ giàn là một cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và
bóng!” Đọc đoạn văn tưởng như được sờ, nắn, vuốt nhẹ lên làn da từng quả bầu để cảm nhận
đường nét, kích thước thòng lọng của chúng. Hình khối của quả khô liên tưởng đến những
bình rượu va vào nhau mang tiếng kêu của cái khánh đất nung, cả đất nung. Hình khối của
quả tươi thì lại liên tưởng đến cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và bóng.
Sự vật như được chạm khắc mà lại mang tâm hồn trong những cơn gió. Con người cũng thả
hồn mình vui đùa, suy tư niềm yêu thích mà thiên nhiên nhắc gọi.

- Thiên nhiên trên chốn Non Ngàn được những dòng chữ của Nguyễn Tuân trong Trên đỉnh
non Tản chạm khắc lại: “Đây là một khu đá bằng mặt rộng độ hai mẫu mà chung quanh là
những vách đá cao, trên mỗi chỏm nhọn màu xanh cảnh chả lại có mây trắng và vàng đánh
đai lấy.” Kích cỡ rộng lớn. Mảng, khối rõ ràng. Sắc trắng của đá, của mây, điểm thêm nét
vàng đánh đai mây càng khiến cảnh vật độc đáo, hài hòa trong tỉ lệ, gợi liên tưởng núi đội
mũ. Chốn thần tiên kì vĩ, đẹp lộng lẫy làm ngơ ngẩn hiệp thợ mộc Tràng Thôn. Thiên nhiên
dù được miêu tả bằng bút pháp hội họa hay điêu khắc cũng chỉ là bức tranh tâm trạng của
người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Bởi trước cách mạng ông luôn mang trong mình nỗi buồn chán,
cô đơn, bế tắc nhưng thẳm sâu trong tâm hồn nhà văn vẫn luôn sáng lên vẻ đẹp của tấm lòng
yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.

- Rõ ràng, bên cạnh bút pháp hội họa, bút pháp điêu khắc trong Vang bóng một thời đã góp
phần quan trọng làm nên vẻ đẹp tạo hình của tác phẩm. Bằng bút pháp tạo hình, nhà văn đã
sáng tạo nên những hình tượng văn học của “một thời vang bóng”, đánh thức trí tưởng tượng
của người đọc về một miền miên viễn xăm xa trong sự luyến tiếc khôn khuây. Và ở đó, ta
càng thấu hiểu thêm một Nguyễn Tuân mang nhỡn giới “vòi vọi như lúc nào cũng mong một
cái bến xa nào đó trong sương mù”.

Điểm nhìn và góc quay trong “Vang bóng một thời”

- Nguyễn Tuân viết về hiện thực với cái nhìn phủ nhận song khác với các nhà văn cùng thời
như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan... Nguyễn Tuân có cái nhìn phủ nhận xã hội
dưới góc độ thẩm mĩ. Nhà văn thấy rằng, chính xã hội xấu xa ấy đã không cho cái đẹp có cơ
hội tồn tại và phát triển. Nguyễn Tuân đã “hiện thực hóa quá khứ”, bởi nó là quá khứ vàng
son, là vang bóng một thời và nhà văn cũng đặt điểm nhìn vào một vị trí duy nhất, cố định
trong quá khứ. Vì vậy, dù thử thách ở những góc quay nào, xa hay gần, thấp hay cao thì
khung cảnh vẫn “mang mang mùi hoài cựu” và luôn thể hiện điểm nhìn sự vật và con người
dưới góc độ tài hoa. Chính vì vậy, các trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên đầy rẫy những
nhân vật chính là kẻ tài hoa nghệ sĩ. Nhà nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân giống như một đạo
diễn đặc tuyển thành công từng diễn viên chính xuất sắc vào vai cho các bộ phim của mình.
Và khi quay phim, “vị đạo diễn ấy” cũng luôn biết sử dụng những điểm nhìn, góc quay hợp lí
làm nổi bật chất tài hoa nghệ sĩ ấy của nhân vật.

- Trong Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm, Nguyễn Tuân cùng nhắc thú thưởng
trà. Song với điểm nhìn mang phong cách tài hoa, uyên bác, nhà văn đã có những góc nhìn
độc đáo và nâng công việc ấy lên thành nghệ thuật trà đạo.

- Đọc Chén trà trong sương sớm, độc giả cảm nhận như đang xem một đoạn phim về các
công đoạn có được hai chén trà để thưởng thức buổi sớm mai Ấm. Nhà văn như ngồi ở ngay
vị trí đối diện với cụ Ấm để “quay” lại thật kĩ, chú ý đến từng động tác nhỏ và phát hiện ra sự
cầu kỳ trong cách pha trà, trong uống trà. Thưởng thức trà đã không còn là thú vui bình
thường mà trở thành lễ nghi. Bằng “góc quay” thẳng, cụ Ấm hiện lên đầy đủ phẩm chất của
như một nghệ sĩ sành trà đạo, một triết nhân: “Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có
một mùi thơ và một vị triết lí.”

- Đọc Những chiếc ấm đất, độc giả bắt gặp “góc quay” viễn cảnh của tác giả. Từ vị trí nhìn
cao (cổng chùa) và hướng ra xa đã mang lại sự bao quát được cái mênh mông trước mặt thấu
tỏ sự vật hiện tượng. Những liên tưởng thú vị nhờ đó mà có được: “nồi nước tròng trành theo
bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và
thẫm màu”. Người lão bộc gánh nước, những giọt nước rơi xuống đất nhìn như đang gieo
xuống mặt đất những ngôi sao. Những ngôi sao nước nối nhau từ chùa Đồi Mai theo con
đường đầy cát bụi cùng về với con người trần tục. Phải chăng những ngôi sao đang làm bừng
sáng cuộc đời. Nhờ điểm nhìn mà có được sự cảm nhận thật thơ, thật thi vị và ẩn chứa sự trân
trọng đối với một công việc bình dị nhưng lại hiện lên cả một sự cầu kì trong việc lựa chọn
nước pha trà. “Góc quay” này được thu nhỏ dần, để rồi cuối cùng chỉ còn là góc nhìn cận
cảnh cụ Sáu ngồi bán lũ ấm đất quý giá ngoài chợ. Cuộc đời không rộng mở, mà thu hẹp dần
với cụ nhưng cái đam mê phong vị trà tàu thì ắt hẳn vẫn còn nguyên.

- Với điểm nhìn thời gian hoài cổ kết hợp với những “góc quay” được lựa chọn, Nguyễn
Tuân đã làm sống lại vẻ đẹp xưa ấy với cái đẹp của thú thưởng trà toát ra từ tận cùng của
nghệ thuật uống trà: cách chọn trà, chọn nước pha, chọn ấm, chén, cách pha và không khí
thưởng thức trà...đồng thời thành công trong xây dựng hình ảnh những con người tâm – trà
hợp nhất và dám hi sinh vì cái đẹp. Đánh thơ hiện lên với “góc quay” cận cảnh trong nhà ông
Kinh Lịch. Ông kính của “nhà quay phim” Nguyễn Tuân đã tập trung cao độ vào cảnh này để
miêu tả tỉ mỉ từng hình ảnh, chuyển động của sự vật, con người. Cặp đôi tài tử, Phó Sứ gieo
thơ để làng đánh, Mộng Liên tựa chồng đầy lãng mạn và nổi bật với áo hỏa hoàng, phụ họa
cho cuộc đánh thơ bằng tiếng đàn tiếng hát giữa bao nhiêu những con người đang mê mệt vì
thơ. Ánh nến lung linh, hương huệ tỏa ngát càng làm khung cảnh thêm thơ mộng, lãng mạn.
Thả thơ hiện lên như một bộ phim quay chậm với các “góc quay” phong phú. Khi thì là góc
quay hẹp, cận cảnh để quan sát rõ nét hơn bóng hình của hai cha con cụ Phủ trong tư thất
lạnh lẽo. Khi thì lại là góc quay mở rộng ra viễn cảnh, có lúc phải dùng động tác hất máy
ngược lên cao, có lúc máy lại phải lia ngang quét một cảnh rộng đẹp, thơ mộng của trăng
mười bốn và thu gọn vào một cảnh đỏ đen của một cõi văn thơ ảo mộng trên mặt nước sông
thu. Có lẽ trước một thú chơi gợi nhiều mỹ cảm, nhà văn đã ngắm nó ở nhiều góc độ để cảm
nhận cái đẹp sâu sắc của nó. Rõ ràng, cuộc thả thơ được bày ra từ cụ Nghè Móm, phụ điệu
bởi tiếng đàn của cô Tú. Họ đều là những con người tài giỏi, đức hạnh “đủ làm vinh dự cho
một gia phong”. Kỹ xảo “đổ bóng” làm tăng thêm chất điện ảnh cho câu chuyện. Bóng hình
cô Tú khi thực, khi ảo ở đầu và cuối truyện càng gợi cái mờ nhòe...đưa Thả thơ vào một miền
không gian miên viễn. Đọng lại cái lưu luyến, hoài tiếc, bâng khuâng.

- Dù trong Đánh thơ hay Thả thơ, sau mỗi lần tìm được chữ thả, cả người thua cuộc lẫn người
thắng đều ngâm vang câu thơ hay với một niềm sảng khoái. Với điểm nhìn thời gian hoài
cựu, “góc quay” cận cảnh hay viễn cảnh đều như được phủ một lớp sương mờ huyền ảo, lãng
mạn cho thú chơi văn chương nhờ cách bài trí không gian. Thả thơ và Đánh thơ là hai thú
chơi mà nếu nhìn từ góc độ xã hội, đó sẽ là trò cờ bạc của văn chương nhưng khi đọc truyện
Nguyễn Tuân viết ta lại cảm giác mình đang được thưởng thức và đắm mình vào không gian
của những cuộc đánh thơ, thả thơ ấy. Bởi Nguyễn Tuân đã chọn lựa những điểm nhìn, góc
nhìn thú vị khiến thú chơi ấy hiện lên thật đẹp, thật thi vị và hấp dẫn.
- Thú vui thi ca trong văn Nguyễn Tuân thường gắn với hoa. Nếu khung cảnh Đánh thơ đẹp
lãng mạn nhờ sắc và hương hoa huệ thì khung cảnh đọc thơ, bình thơ, câu đối bên một món
Thạch lan hương trong Hương cuội đã điểm tô thêm một nét đẹp đầy thi vị trong văn hóa
người Việt. Điểm nhìn hoài niệm về một không gian kí vãng được đóng khung trong bức
tranh sinh hoạt đón tết nhà cụ Kép. Góc độ toàn cảnh này đã soi chiếu rõ sự tỉ mỉ trong công
việc, lòng trân trọng với loài hoa lan - một trong tứ mộc cao quý, cụ Kép đã thể hiện đạo sống
của một người quân tử.

- Cũng là “góc quay” trung cận cảnh, cũng không gian của nghi lễ giống như Hương cuội, gia
đình ông Cử Hai trong Một cảnh thu muộn hiện lên với thú vui làm đèn trung thu cho con trẻ
đầm ấm, vui vầy, mang nét đẹp văn hóa cổ truyền của Một thời vang bóng. Và ở đó, người ta
cũng thấy được dòng máu nghệ sĩ đã ăn vào mấy đời nhà cụ Thượng. Một điểm nhìn hoài
niệm, đậm cái tôi cá nhân qua nhân vật ông Cử Hai, Nguyễn Tuân mở rộng “góc quay” dõi
theo lối sống tự do, tài hoa nghệ sĩ ấy để say sưa ca ngợi. Cử Hai chính là hình bóng của
Nguyễn Tuân. Tình cảm với những kẻ “văn hay chữ tốt” của nền Hán học xưa cũ song phải là
người có cái tâm thanh cao và cái “chữ thánh hiền không phải ở chỗ nào cũng đem bố thi
được” Cần chọn đất lành cho chữ thánh hiền. Đó là một điểm nhìn thể hiện cái thời gian đã
“vang bóng một thời”. Đó cũng là một “góc quay” thể hiện sự đối lập, bất hòa với thực tại
ngột ngạt của xã hội đương thời ở nhà văn.

- Với những “góc quay” đẹp, không gian của những thú chơi tao nhã hiện lên như được bao
bọc bởi một lớp sương mờ quá vãng. Các thú chơi ấy lại được nâng lên thành nghệ thuật và
người đọc hiểu hơn vẻ đẹp tinh thần của kỳ thủ. Qua điểm nhìn về một không gian kí vãng
xen lồng điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong, Nguyễn Tuân đã xây dựng được một
hệ thống nhân vật là những con người biết yêu nghệ thuật, trọng cái đẹp, họ còn là những
người cốt cách thanh cao, không màng danh lợi...Bao nhiêu con người, bấy nhiêu cái tên, bấy
nhiêu phẩm giá, ...đã gợi lại cả một nền văn hóa xa xưa vô cùng thanh lịch.

- Nguyễn Đình Thi trong Câu chuyện xung quanh sáng tác nghệ thuật, nghiên cứu nghệ thuật,
số 1 năm 1982 đã viết: "Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một
cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái rất xấu, một tội ác,
một tên giết người, nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả". Chữ người tử tù – có chăng
một cách nhìn, một điểm nhìn cao cả?

- Chữ người tử tù - một tác phẩm thể hiện điểm nhìn, góc độ cảm nhận đặc biệt, lạ có một
không hai. Đoạn tả Huấn Cao cho chữ được cho là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đọc lên ta cảm nhận như đang được chứng kiến một bộ phim với góc quay hiểm hóc, thu hút
người xem khám phá một mê cung bí ẩn để tìm cái đẹp đang ngự trị trong đó. Vẫn là điểm
nhìn thời gian, song được đặt vào một đêm sâu và điểm nhìn không gian của một buồng giam
tử tù. Góc quay thẳng là góc quay vẫn hay được sử dụng trong điện ảnh. Ở đây Nguyễn Tuân
đã sử dụng nó để trực tả không gian buồng giam với sự đối lập tương phản cao độ, kĩ thuật
ánh sáng đạt đỉnh cao trong tạo hình. Ở đây, cái đẹp của nghệ thuật đã không có sự đòi hỏi
quá khắt khe như trong những tác phẩm khác về không gian và đối tượng thưởng thức. Dưới
điểm nhìn của con người tài hoa về tài hoa nghệ sĩ, dưới “góc quay” của điện ảnh, hình ảnh
Huấn Cao người anh hùng tung hoành ngang dọc, bàn tay có thể bẻ khóa vượt ngục nhưng
vẫn mềm mại bút hoa. Nét chữ ấy đã trở thành huyền thoại. Không có nét chữ ấy liệu quản
ngục có kính nể Huấn Cao? Không có nét chữ ấy liệu có một Huấn Cao như vậy? Xóa nhòa
mọi ranh giới, cái đẹp được thăng hoa. Chất điện ảnh còn thể hiện ở việc nhà văn xây dựng
thành công một nguyên mẫu đời thường – Huấn Cao không ai khác chính là Cao Bá Quát,
người cầm đầu cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương. “Bộ phim” vì thế ngoài ca ngợi cái đẹp, cái tài,
khí phách và thiên lương, còn thẩm sâu một tinh thần yêu nước. Lợi thế của ngôn từ đã khiến
“điểm nhìn cao cả” và “góc quay tinh tế” của “nhà đạo diễn” Nguyễn Tuân “ăn đứt” bất cứ
một cảnh tạo hình thực sự nào của nhà làm phim điện ảnh nếu chọn việc chuyển thể cảnh này
sang phim truyện.

- Bộ ba nhân vật Cai Xanh, Lý Văn, Phó Kình trong Ném bút chì dưới điểm nhìn thời gian
quá khứ, điểm nhìn bên trong, Nguyễn Tuân đã khoác cho họ những tấm áo mang dòng chữ
“anh hùng chốn giang hồ”. Cảnh thử nghiệm những ngón bút chì, bút chùng của những tay
anh chị giang hồ độc đáo và phủ đầy huyền thoại này ...được “quay” lại như một “đoạn phim
hành động” với những “góc quay lụa là” của một “tay cầm máy tầm cỡ” vẫn đầy chất thơ và
mang bóng dáng của cuộc khởi nghĩa Yến Thế, của những anh hùng Lương Sơn Bạc thế kỉ
XX. Họ thật sự là những nghệ sĩ của ngón phóng đao, phóng mai thượng đẳng, của sự tài hoa
trong thuật “ném bút chì”. Cướp của người giàu chia cho người nghèo, chém từ xa mà không
đứt hết, giò gà vẫn dính bởi một chút da. Nếu sinh đúng thời họ - những người tài nghệ đẹp
liệu có là một đám bất đắc chí? Họ đúng là những kẻ nhúng tay vào tội ác nhưng vẫn còn
dính chút lương tri con người. Họ là những người “Nghèo. Cực. Khái. Lấy chỗ tiền bạc của
bọn bất nghĩa, đem chia cho anh em khác nghèo như mình”. Họ vừa là những kẻ mang tội,
vừa là kẻ có chữ nhân. Có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới dựng lên được những “đoạn phim ngôn
từ” đập mạnh vào giác quan và ấn tượng như vậy.

- Báo oán như một “bộ phim kinh dị” về cảnh trường thi Hà Nam khoa Mậu Ngọ. Nhà làm
phim ngôn từ đã mở rộng ống kính để có thể quay được toàn cảnh. Khi thì ống kính mở ra xa
để nhìn cảnh mênh mông nước; khi lại phải hất cao ống kính để quay cảnh bầu trời với màu
sắc lạ lùng, kì quái; khi lại thu ống kính chiếu cận cảnh để có được những “góc quay” rùng
rợn nhất, gay cấn nhất, ma quái nhất về cảnh anh em ông Đầu Xứ bị hồn ma người thiếp tài
hoa của cha mình báo oán; khi lại hất sang quán nhỏ nhà cô Phương...Sự phong phú trong
những “góc quay” kết hợp với điểm nhìn đa dạng đã làm nên một không khí khác hẳn với
không khí trường thi vốn đã quen gặp trong thơ Tú Xương, Nguyễn Khuyến hay Lều chõng
của Ngô Tất Tố. Góc nhìn điện ảnh cũng thể hiện rõ ở “kĩ thuật chồng hình”, nghệ thuật “soi
gương” đầy sâu sắc. Ông Đầu Xứ Anh nhận ra: “khuôn mặt cô Phương cũng hao hao tự như
người đàn bà ẵm con xõa tóc ngồi rú kêu than nơi đầu chiếc chõng tre trong trường thi năm
nọ” Cô Phương rõ ràng là hình bóng của hồn ma âm oán kia và cái ông Đầu Xứ Em kia cũng
chỉ là cái bóng của ông anh mình trong trường thi năm Ất Mão mà thôi. Điểm nhìn bên trong
này càng làm bật lên tư tưởng truyện. Cái đẹp như gần mà như xa, đáng yêu mà cũng đáng sợ
và sắc đẹp có khi là ma quái, có khi là âm oán. Những kẻ “tài tình mà không được gặp gỡ”,
tài hoa mà bất đắc chí. Cái sự tài hoa cũng mang vận mệnh, số phận.

Cái đẹp "vang bóng một thời"

- Một trong những quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân là cái đã qua, đã thuộc về dĩ vãng.
Chúng tôi lấy nhan đề một tác phẩm của nhà văn để định danh cho quan niệm này: Cái đẹp
Vang bóng một thời.

- Quan niệm này của Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện trong tác phẩm mang tên Vang bóng
một thời mà còn thể hiện rải rác ở nhiều tác phẩm khác của nhà văn như tuỳ bút Cửa Đại, Tóc
chị Hoài, các truyện Vườn xuân lan tạ chủ, Phu nhân họ Bồ, Xác ngọc lam, Đới roi, Rượu
bệnh, Răng người tình,v.v... Quan niệm này không chỉ thể hiện trong văn xuôi mà còn thể
hiện trong vài bài thơ hiếm hoi của Nguyễn Tuân như Khúc tương tư, ...Nếu chỉ tính những
mảnh vụn của Vang bóng một thời thì nó còn nằm rải rác ở hầu hết các tác phẩm của Nguyễn
Tuân: Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn, Tuỳ bút I, Tuỳ bút
II,... Có thể nói, đây là quan niệm rất cơ bản về cái đẹp của Nguyễn Tuân, nó bao trùm hầu
hết các tác phẩm của ông trước Cách mạng tháng Tám.
- Nhìn vào sáng tác trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân, chúng ta dễ dàng nhận
thấy những nhân vật mà ông yêu thích thường là những nhân vật thuộc về quá khứ, thể hiện
cái đẹp có màu sắc cổ điển.

+ Trong văn chương cổ, những giai nhân thường có sự kết hợp giữa tài và sắc. Đó là người
phụ nữ trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, là những cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của
Nguyễn Gia Thiều hay nàng Kiều của Nguyễn Du. Ở họ ngoài sắc đẹp, còn giỏi cầm, kì, thi,
hoạ. Những nhân vật nữ của Nguyễn Tuân như Cúc Tiểu Muội (Ấn tín người con hát tỉnh
Việt), Mộng Liên (Đánh thơ), Đào Tâm (Chiếc lư đồng mắt cua), Phu nhân họ Bồ, chị Hoài
(Tóc chị Hoài) ... đều có dáng vẻ của người phụ nữ thời trung đại. Ở họ cũng có sự hội tụ sắc
và tài : Cầm, kì, thi, hoạ.

+ Ngay từ tập du kí Một chuyến đi, sáng tác đánh dấu sự hình thành phong cách của nhà văn,
chúng ta đã gặp Cúc Tiểu Muội. Đó là người con gái có vẻ đẹp riêng, độc đáo, đầy ưu tư với
"một dáng đi rất đài các, một vẻ mặt băn khoăn, đời sống tư của Cúc Tiểu Muội lúc nào cũng
có thắc mắc hiện rõ trên trán”. Một vẻ đẹp nổi trội tới mức không có gì sánh nổi với cái tên
rất đỗi kiêu sa: Cúc Tiểu Muội. Nàng có một thú chơi rất đài các, sang trọng: dùng ấn tín
"bằng pha lê gọt" khắc tên mình bằng một câu thơ cổ theo lối chữ triện tiên Tần.

+ "Chắc nàng phải đẹp quá. Đẹp hơn cả Mỹ Thuật. Không được biết người nhưng cái tên Cúc
Tiểu Muội cũng đủ dọn một lối đi rất đẹp cho nàng trong cuộc sống rồi. Tôi còn đoán chắc
rằng nàng còn phải kiêu ngạo và tự phụ vô ngần nữa. Tên mình là Cúc, là một đoá hoa quí,
rồi lại mượn một câu cổ thi khắc vào dấu pha lê gọt. Tự ví rằng sau khi mình nở trong một
mùa, một năm, một thời thì không còn hoa gì nở nữa. Châu cha! Cái sắc đẹp ấy phải làm lu
mờ tất thảy những vật gì muốn tỏ rạng ở cạnh mình và cái lối của người này yêu, có thể là
thứ tình bén vào ai là đốt cháy người ấy".

+ Không chỉ có sắc đẹp phi phàm và thái độ kiêu hãnh về sắc đẹp của mình. Cúc Tiểu Muội
còn là một người phụ nữ tài hoa: "Đàn được, hát được, múa được, uống rượu không biết say
và cưỡi ngựa không biết nhức đầu". Tài đàn hát của nàng nổi tiếng đến mức muốn "mời cho
được cô xuống uống rượu dưới những thuyền hoa trên sông Châu Giang, phải có nhiều tiền".

+ Đến Vang bóng một thời, ta lại gặp Mộng Liên (Đánh thơ) "bằng cái sắc, bằng tiếng ca,
bằng cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu... đã thừa tô điểm cho xứ Huế một
thời..., Mộng Liên đêm đêm kề đầu tựa má ông Phó Sứ lại đánh đàn, lại ca Nam bằng, ca
Nam ai".

+ Cô Đào Tâm (Chiếc lư đồng mắt cua) bị rơi vào hoàn cảnh sống truy lạc, bị xã hội rẻ rúng
nhưng vẫn toả sáng bởi cái duyên, cái tài hoa. Nàng có dáng người giòn dẻo, có điệu ngồi quí
phái và với một giọng hát mê hồn, bay bổng. Tiếng hát Đào Tâm cất lên, người ta nhận ra đó
là những âm thanh trong sáng, diệu kì, có thể gột rửa hết mọi tội lỗi nhơ bẩn. Nghe nàng hát
người ta quên đi thân phận bọt bèo, trôi nổi của nàng, chỉ còn lại tiếng hát của một tâm hồn
thanh cao vời vợi.

+ Ấy là những phụ nữ tri âm, tri kỉ với nhà văn. Họ đều là những người của quá khứ còn
vương sót lại, có khi đã thành người thiên cổ như Phu nhân họ Bồ hay chị Hoài. Họ sống giữa
thế giới này, nhưng tâm hồn dường như thuộc về thế giới của thời xưa: Vẻ đẹp của phu nhân
họ Bồ "hàm ở cái duyên trong tất cả những cái gì trên khuôn mặt, ở dáng điệu, ở khoé mắt, ở
đầu lưỡi, càng nhìn lắng, càng muốn xem, nghe lại thêm một lần nữa. Vẻ đẹp của Bồ phu
nhân không có gì là rực rỡ, quanh năm chỉ lạnh lẽo và nín thít như nét trắng tượng đá chạm
chìm. Tia mắt phu nhân thê lương như ánh loáng lạnh chất kim màu bóng. Phu nhân nhìn mà
hình như không trông thấy vật gì ở trước mặt, ở quanh mình, ở giữa cuộc đời này". Và phu
nhân có cách nói chuyện như "một người thời trung cổ", gợi lại thời xa xưa. Đây là dòng tái
bút trong một bức thư duy nhất khi ở xa, phu nhân gửi về cho tác giả: "Tôi ở xa nhà trạm, ở
đây không có dấu vết gì của đời văn minh có tổ chức". Con người này có vẻ sung sướng khi
được lánh xa cuộc sống thực tại, để sống lại thời xưa cũ.

+ Với chị Hoài, chúng ta gặp một áng tóc dài tha thướt, gợi lên không biết bao nhiêu tứ thơ.
Chị Hoài cũng là người yếu đuối, lạc lõng giữa cuộc đời và lòng cũng nặng nỗi ưu tư. Chị
đẹp, "một người đẹp như lá non thuỳ dương, suốt nửa đời không đi tu mà cũng như ở chùa,
lòng dục có thừa mà đều bị diệt hết, lửa tâm chưa nhóm mà đã dập tắt ngấm". Người phụ nữ
đẹp ấy có một lối sinh hoạt đài các của một người đã từng có cuộc sống phong lưu. Món ăn
đạm bạc dưa khú nấu với cá trê ăn với rau diếp thái chỉ nhưng lại được bày biện trong những
đĩa bát cổ gợi lại nền văn hoá xưa. Bát múc canh là "bát sứ to vẽ đàn cá hoá long vượt qua
những đợt sóng Vũ Môn". Đũa dùng là "Đôi đũa mun bít bạc hai đầu và ở giữa có khảm xà
cừ một dòng thơ đời Tống". Chị Hoài có một cách kể chuyện cũ "một cách mơ hồ thủ thỉ,
một giọng kể gợi lên một cái gì "gây gây mùi hoài cựu". Chị kể hay tới mức như kể về chính
cuộc đời mình, truyền sang cho người nghe một nỗi u hoài khó tả, đến nỗi tác giả "ước muốn
được làm ngay đời chị Hoài “cũng chỉ là đời một nàng Hạnh Nguyên, bước đi một bước là
thêm một bước cống hồ.”

+ Trong Những đứa con hoang, Nguyễn Tuân tỏ ra rất gắn bó với một bà chủ nhà hát nọ, một
"lão kỹ-già" rất có cá tính: "Nổi tiếng vì cái tính khinh người và lúc đã quí được người nào thì
chiều như chiều vong và lắm lúc còn tự đắc về những điều thua thiệt. Thế rồi là lăn vào nói
chuyện. Những buổi cao hứng, chuyện của chủ nhân nhiều đoạn thừa giá trị những trang dã
sử về lớp người cũ gần đây". "Lão kỹ-già" chủ nhân lại "có một u già nguyên là một nàng hầu
một vị lệnh doãn đã thất lộc - biết nấu nướng đúng cái sở thích của tửu đồ, coi cá thịt ở mâm
chỉ là cái cớ làm vui cho riêng mắt và mũi thôi". Nguyễn Tuân dường như bị hút hẳn vào cái
không khí có “mùi vị cũ kĩ" ấy.

+ Đánh cờ là một thú chơi hấp dẫn của người xưa. Đã có biết bao giai thoại lưu truyền trong
dân gian về những nhân vật đánh cờ nổi tiếng. Thú chơi tao nhã cổ điển được Nguyễn Tuân
diễn tả trong Vang bóng một thời. Ngôi mủ cũ kể chuyện hai người đánh cờ tướng trên
đường trường. Họ nằm trên cáng, đánh cờ với nhau bằng miệng và trí nhớ, không cần bàn cờ,
quân cờ. Trong Chiếc lư đồng mắt cua cũng có một nhân vật cao thủ trong thú chơi cờ tướng
"nhiều người chơi cờ tướng đã biết ông vào loại kì hầu"( ) "trông ông gõ một nước cờ… lắm
lúc thật là tử công phu. Cờ đất cũng vậy mà cờ bàn cũng vậy. Bao nhiêu đau khổ mệt nhọc
hiện cả lên mặt", để đến nỗi khi thua, ông gục ngã và bán thân bất toại.

+ Trong các tài cầm, kỳ, thi, hoạ, thì tài thơ (Thi), tài văn chương vẫn được coi trọng nhất.
Hầu như tất cả các nhân vật yêu thích của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám đều có
cái tài này. Ông Phó Sứ (Đánh thơ) có tài sáng tạo thơ ca tới mức có thể sánh ngang với
những thi nhân đời Tống, đời Đường. Tài năng ấy đã trở thành giai thoại. Ông thuê mấy
người thợ bên Tàu khắc riêng cho mình mấy thạch bản in thành một tập thơ mỏng. Ông ra
khuôn mẫu cho họ in nhiều câu hay, chữ lạ, mỗi khi đem ra thả, thực không ai ngờ đến. Khi
các quan đánh thơ thua đòi phải dẫn chứng cổ thi, ông cho xem câu thơ thả đó và đủng đỉnh
tủm tỉm trình với cả làng rằng đó là câu thơ Tống. Nhiều người thua thường chỉ tự trách mình
xem cổ thi ít quá. Nhờ ông Phó Sứ biết chọn những câu thơ hay, từ đắt để thả làm cho cuộc
vui vừa ham mê ráo riết, vừa thú vị. Dẫu được hay thua, các con bạc đều lấy làm thích vì
được ngâm ngợi, thưởng thức những câu thơ tuyệt tác. "Mở xong mỗi tiếng thơ có khi ăn
thua từng mấy chục bạc, người ta đều ngâm đi ngâm lại câu thơ thả. Nhà con, nhà cái đều
ngâm vang cả nhà, chừng như muốn thi nhau cái giọng tốt”.
+ Mỗi bữa rượu "Thạch lan hương" của những cụ kép, cụ Tú trong Hương cuội là một cuộc
bình thơ: "Mỗi ông già đọc một câu thơ. Rồi mỗi chén rượu ngừng là một lời thơ ngâm trong
trẻo ... mỗi cụ thường khen lẫn nhau là thơ hay".

+ Viết chữ đẹp (thư pháp) cũng là một loại hình nghệ thuật độc đáo của người xưa. Tất nhiên
là viết chữ Hán. Đó là những bức tranh bằng chữ không chỉ thể hiện cái đẹp ở bố cục cân đối
hài hoà, ở đường nét cứng, mềm, uốn lượn của con chữ... mà còn ở cái thần bút thể hiện được
trí tuệ, tài năng, tâm hồn của người nghệ sĩ. Nhìn bức tranh chữ, ta chẳng những được thưởng
thức tài hoa của người viết mà còn hiểu được tính cách, tâm hồn của người sáng tạo ra nó.
Chung quanh thú chơi đấy nghệ thuật này, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên một thiên truyện
đáng gọi là kiệt tác: Chữ người tử tù. Nhìn chung, trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân
đã sáng tạo ra một thế giới nhân vật thuộc lớp nhà nho cuối cùng của xã hội phong kiến. Đấy
là lớp người thất thế, tàn lụi, cảm thấy bất lực trước thời buổi "Tây Tầu nhố nhăng làm lạc
mất cả quan niệm cũ, làm tiêu mất bao nhiêu giá trị tinh thần” (Hương cuội). Nhưng khác với
Ông đồ của Vũ Đình Liên, họ vẫn giữ cốt cách phong lưu, đài các. Bất lực trước thời thế,
nhưng họ không chịu làm lành với xã hội mới. Họ đặt mình lên trên thiên hạ bằng lối sống
thanh cao và bằng tài hoa hơn đời của mình. Thông qua những nhân vật này, Nguyễn Tuân đã
làm hiển hiện trước mắt những lối sống đẹp, những phong tục đẹp, những thú vui rất tinh vi
tao nhã tuy khá cầu kỳ của người xưa.

+ Ấy là quan án họ Trần hay cụ Kép làng Mọc trong Vườn xuân lan tạ chủ và Hương cuội,
dành hết cả thời gian còn lại của đời mình để vun trồng loài lan quí. Ấy là cụ Ấm trong Chén
trà sương hay cụ Sáu trong Những chiếc ấm đất mỗi buổi sớm ban mai, thưởng thức chén trà
với tất cả nghi lễ thiêng liêng ... Họ là những con người danh lợi không màng, "coi cái phú
quí nhỡn tiền không bằng một ấm trà tàu". Ấy là cụ Nghè móm (Thả thơ) thâu canh làm bạn
với sách vở thánh hiền hay những tập Đường thi bên một chiếc lư trầm và một ngọn bạch lạp:

Cứ đốt lò hương cho tới sáng

Thử xem mưa gió đến bao giờ...

+ Cái đẹp "vang bóng" còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua cách miêu tả thiên nhiên. Với
Nguyễn Tuân, thiên nhiên còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, cổ kính hoặc gợi lại cái đẹp ấy. Đây
là cảnh Hồng Kông trong mưa phùn, qua con mắt “hoài cổ” của Nguyễn Tuân:

+ "Trời nắng... trời mưa. Lớp nhựa đường phố Hương Cảng đã bóng nhoáng dưới trận mưa
phùn. Ngoài bến nước, những mình tàu lớn lờ mờ sau làn mưa bay trông tựa hình ảnh nhạt
nét của tranh thuỷ mặc vẽ cảnh mưa tuyết trên núi ven hồ đầy dẫy những thuyền đánh cá"

+ Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân viết rất hay về Cửa Đại. Ở đây con người "chưa
biết đánh lừa người ta mỗi khi bán mớ tôm mớ cá" và đàn bà chưa biết đến việc mãi dâm.
Nguyễn Tuân so sánh cửa Đại với bãi biển Đồ Sơn, Sầm Sơn. Ông ngợi ca cửa Đại - một cửa
biển chưa bị hiện đại hoá. Khác với Sầm Sơn, Đồ Sơn mà ông gọi là những "cửa biển đánh
đĩ" tràn ngập những âm thanh hỗn xược của khiêu vũ, của tiệc tùng, của nhạc Tây... "Mỗi lúc
say sưa, người ta lấy dao, lấy thìa, lấy chĩa ba gõ vào miệng cốc thành đĩa để bắt chước cái
tiếng động của một chiếc máy chữ của những nước cơ khí hoá đến cả tấm lòng"(Cửa Đại).

+ Đó là một câu đánh giá xác đáng. Nguyễn Tuân quả đã làm sống lại, làm thăng hoa, toả
sáng những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Ông cần cù tìm kiếm, phát hiện và diễn
tả cái đẹp vang bóng một thời bằng một bút pháp rất mực tài hoa.
- Hướng về cái đẹp quá khứ thực ra là một trong những khuynh hướng chung của chủ nghĩa
lãng mạn.

+ Tản Đà cũng thường trở về với quá khứ. Ông mơ lên cõi tiên, tìm gặp những người trong
hội tài tình của thời xưa. Ông gặp những người tài danh: Lư Thoa, Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên,
Đông Phương Sóc... Đặc biệt, ông tìm gặp các mĩ nhân: Tây Thi, Dương Quí Phi, Chiêu
Quân. Không chỉ có thế, ông còn tìm gặp cả những người đẹp trong truyền thuyết dân gian:
Hằng Nga, và đòi cầu hôn cùng nàng. Tản Đà tìm về quá khứ để giải toả giấc mộng yêu
đương không thành nơi trần thế. Xuân Diệu, người thơ của tình yêu cũng có những dòng thơ
thật hay về quá khứ.

+ Tuy nhiên, nếu như ở những cây bút khác, viết về quá khứ không hẳn chỉ coi quá khứ mới
là đẹp, thì ở Nguyễn Tuân, quan niệm đó là dứt khoát: cái đẹp chỉ có trong quá khứ, nếu nó
có trong hiện tại thì chẳng qua chỉ là những gì còn vương sót lại của thời xưa mà ông gọi là
Vang bóng một thời.

+ Trong quan niệm về cái đẹp. Nguyễn Tuân đối lập quá khứ với hiện tại, đối lập cái cổ xưa
với cái thuộc thời hiện đại. Theo ông trong thời hiện đại, cái đẹp không thể tồn tại được. Có
hai lý do khiến ông khẳng định như vậy.

+ Một là, theo Nguyễn Tuân xã hội hiện đại là xã hội của đồng tiền. Đồng tiền đã làm thay
đổi, biến dạng con người, làm mất đi bản ngã tự nhiên, biến con người thành những kẻ đáng
khinh bỉ. Đồng tiền đi đến đâu, làm mất cái đẹp đến đó. Chứng kiến cảnh đi lĩnh tiền ở kho
bạc, nhân vật Hỗ (Hai tấm vé số) đã phải thốt lên "Ờ cái lão béo ăn mặc chững chạc kia, lúc
lấy tiền việc gì mà phải chật cả mũ ra, hai tay nắm lấy mép mũ một cách nhà quê đến thế?
Việc gì mà phải chào người ta. Lại còn cái người đàn ông thân hình rất thể thao kia, việc gì
mà phải lịm người đi đến nỗi Tây hỏi "bao nhiêu" thì đứng đực ra đấy, mắt trợn mồm há?
Một bà có cái mặt đẹp hồn hậu, lúc vồ lấy tập bạc, việc gì mà rơm rớm nước mắt?". Đồng
tiền đã làm cho "cái quí báu trong con người họ đã chết cả rồi". "Họ trở thành nô lệ ngoan
ngoãn". Theo Nguyễn Tuân, xã hội đồng tiền làm cho con người trở nên xảo trá, lọc lừa, đạo
đức giả. Trong xã hội đó, cái đẹp, cái thật không đi liền với nhau, cái tài hoa không được coi
trọng. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân có một định nghĩa dứt khoát về nghệ thuật :
Theo ông, nghệ thuật là cái mà bọn con buôn coi là vô ích. Nguyễn Tuân chán ghét xã hội
thực tại, ông tự cho mình là người sinh nhầm thế kỉ, sống lạc lõng giữa cuộc đời. "Hồi ấy đối
với hiện tại, đối với những cái nhỡn tiền - dĩ nhiên là trong phạm vi môi trường sống gắn liền
với những tầng lớp quen thuộc đối với ông - ông chỉ thấy chất văn xuôi phàm tục. Ông không
hoàn toàn thoát li khỏi thực tại nhưng nhìn thực tại, ông chỉ thấy vẻ dẹp, chất thơ thuộc về
những cái của ngày xưa còn vương sót lại"

+ Hai là, theo Nguyễn Tuân, xã hội hiện đại là xã hội của văn minh vật chất đối lập với văn
minh tinh thần của thời xưa. Ấy là văn minh cơ khí - thời đại cơ khí khiến người ta bị cơ khí
hoá đến cả tâm hồn. Tâm hồn trở thành máy móc thì làm gì còn có thơ, làm gì có cái đẹp nữa.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân không có cảm tình đối với thành phố Hải Phòng.
Một thành phố mới xây dựng thời hiện đại, một trung tâm kĩ nghệ và một hải cảng lớn của
miền Bắc. Nhưng chính vì thế mà dưới con mắt Nguyễn Tuân, Hải Phòng là một sự phản mĩ
thuật. Ở đó, người ta "sống như ăn cướp", người ta ăn "chỉ cốt lấy nhiều, không cần lấy
ngon". Cảng Hải Phòng cũng đơn điệu, thô thiển: Nhà gạch ở phố cái nào cũng giống cái nào
"trông như một lũ hộp". Tên phố xóm thì lủng cà lủng củng, cầu Hạ Lý thì "trông như một cái
máy chém trên một con sông bẩn". Theo Nguyễn Tuân, ở đây người ta không thể làm thơ
được. Cái hiện đại đã làm cho "các giá trị đạo đức và tinh thần của con người tiêu ma hết"
(Thiếu quê hương).
NGUYỄN CÔNG HOAN (1903 - 1977)
NGƯỜI NGỰA, NGỰA NGƯỜI
Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đằng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ
bao giờ đấy?
Trông anh ấy có vẻ "đói" khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn
lang thang phố nọ sang phố kia thế? Mà hàng phố, nhà nào nhà nấy đóng cửa cả rồi, còn mấy
ai ra ngoài đường làm gì, mà còn hòng một "cuốc" tất niên?
Ấy thế! Trả xe cho xong quách, về nhà hú hí với vợ con có hơn không, tội gì! Vợ anh, con
anh, đương chờ anh ở cửa đó nọ. Năm hết tết đến rồi. Còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi, chứ còn
lâu la gì?
Ấy, giá trong túi có nặng cái đồng tiền, thì chả phải bảo, anh ta cũng về nhà cho xong quách,
việc gì còn phải vơ vẩn vẩn vơ như thế này! Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một
trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm,
mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.
Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.
Quái, không hiểu cái ngày nay là ngày gì, mà từ chiều đến bây giờ, anh ấy mới được có hai
hào chỉ! Ban chiều, khách áo gấm, áo nhung, đi nhan nhản ở đường, mà mời mỏi miệng, cũng
không có một ai lên xe, nữa là bây giờ! Bực nhất là thỉnh thoảng lại lẹt đẹt tràng pháo nổ, làm
cho anh ấy nóng cả ruột gan. Nghĩ đến cái cảnh tết nhà giàu mà thèm rỏ dãi. Họ quăng tiền đi
về dịp tết, thi nhau tiền trăm bạc nghìn để xa phí vô ích, mà mình thì lo méo mặt mấy hào bạc
gạo ngày mai không xong.
Thỉnh thoảng, anh ta dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đằng xa không. Thì chỉ thấy đánh đẹt,
lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh ta giật mình đánh thót. Giật mình, rồi lại thở dài, ngán
cho cái đời bấp bênh, lắm lúc muốn quẳng phăng cái xe đi, làm nghề khác. Nhưng bỏ nghề
này thì xoay ra nghề gì?
Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà
thương Phủ Doãn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn.
- Xe!
- Đây!
Ba chân, bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía có người gọi, hạ hai càng xuống.
- Bà về đâu?
Một bà trạc độ ngót ba mươi tuổi, mình mặc xa tanh nâu, đầu quàng khăn bịt trắng, bỏ giọt
xuống tận bụng, đứng ở đầu hè:
- Anh có đi giờ không?
- Bà đi mấy giờ?
- Một giờ.
- Xin bà sáu hào.
- Sao anh lấy đắt thế? Hai hào!
- Thưa bà, xe ngày tết vẫn thế, vả lại bây giờ còn ai kéo nữa, mà bà giả rẻ thế. Con kéo một
chuyến, rồi cũng đi giả xe, về ăn tết đây!
Bà khách thấy anh xe nói ra ý không thiết kéo, nên quay lưng đi.
- Này, bà giả bao nhiêu?
- Hai hào là đắt rồi, ngày dưng chỉ có hào rưỡi một giờ thôi.
- Thôi, năm hào rưỡi, bà có đi, không thì thôi.
- Thôi.
Bà khách lại quay lưng đi, lần này thì đi thẳng.
Anh xe vắt chân chéo kheo, chỏng càng lên trời mà nhìn theo mãi một lúc. Anh đoán có lẽ
người này cũng là khách kiết, nên mới trả rẻ quá như vậy. Thôi thì người già thì ta non. Anh
chạy theo và gọi:
- Này, mời bà lên xe!... Hai... hào..! Xin bà hai hào rưỡi.
Bà khách vừa bước chân lên sàn xe, thấy anh xe vòi hai hào rưỡi, vội nhảy tọt ngay xuống
đất:
- Không hai hào thì thôi.
- Thôi, đây, mời bà lên.
Bà khách vạch cổ tay áo, xem đồng hồ:
- Chín giờ năm nhé, nhưng kể là chín giờ đúng cũng được.
Anh xe kéo giờ, nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm mạnh, mà bước ngắn. Vì thì
giờ là tiền bạc, chậm phút nào là tiền phút ấy.
Trước anh xe tưởng bà khách đi có việc gì, cho nên còn chạy. Sau thấy bà cứ trỏ vơ vẩn hết
phố nọ sang phố kia, mà chả đỗ ở phố nào cả, thì mới đoán có lẽ là cánh "ăn sương" chi đây.
Anh bèn đi bước một. Nhiều lúc muốn hỏi thực, nếu có phải giăng há thì mình giới thiệu cho
một món sộp đáo để.
Nhưng lỡ không phải thì họ mắng cho và không trả tiền thì khổ.
Qua chợ Đồng Xuân, vòng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đông, bà khách bỗng hỏi:
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.
- Được.
- À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.
Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá,
bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để cắn.
Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới
đánh bạo hỏi một câu rõ khôn:
- Bà tìm ai, thưa bà?
- Tôi tìm người quen.
- Người quen bà ở phố nào?
- Anh cứ kéo đi.
Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành,
Hàng Vải Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn không tìm thấy ai quen.
- Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo
tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đi. Các cửa đóng kín
mít. Đi một lúc, qua Ngõ Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ. Lúc ấy, bốn bên
im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo
nổ, đì đẹt pháo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.
Anh xe mới nghĩ: "Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế
nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc
năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng
mười bằng trăm năm nay".
Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phấn chấn trong lòng, như có cái sức gì nó xúi giục anh
quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
"Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh
ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất
vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc,
để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả".
Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phủ Doãn. Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại,
nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.
Bà khách có ý luống cuống, nói:
- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.
- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
- Này, chả nói giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai
hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may
gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, cô không giả tiền tôi à?
- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?
- Tôi kéo cô lên Cẩm.
- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!
- Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
- Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm!
- Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
- Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
- Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thức gì thì lấy.
- Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
- Thôi này, đừng cáu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng là đi kiếm khách cả.
Nhỡ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
- Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩ diện
mãi.
- Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ anh bỏ
tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy anh cố kéo
tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
- Tôi thật là nợ nần gì cô kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này. Đầu năm mà
đã rấp! Rắc rối!
- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá!
Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng
tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội
vàng.
Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rụng, đuổi
nhau ở trên đường nhựa.
Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ sáng
rồi cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra dáng ăn chơi,
đang tất tả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn
nạn, anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều:
- Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mời đốc tờ cho vợ tôi ốm
đây!
Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nào. Anh xe lại từ từ
tiến bước.
- Cô làm thế này thì tôi chết mất!
- Thôi anh bằng lòng vậy.
- ấy cũng may cho cô, vớ vẩn mãi ở ngoài phố thế này mà gặp mật thám hoặc đội con gái thì
khốn!
- Mật thám tôi cũng chả sợ, đội con gái tôi cũng chả cần, vì tôi có "ba tăng".
Đi một lúc lâu, chẳng gặp một ai cả, cô ả bảo anh xe:
- Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo
tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn,
áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi
ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
- Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
- Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi
cũng bằng lòng.
- ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
- Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
- Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền
xe!
- Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
Anh xe bụng bảo dạ, thôi thì cầm bằng như mất tất cả buổi đêm nay là cùng. Nhưng ta chịu
khó kéo nó về, may xem có cái gì thì ta lấy, còn hơn về không. Thật là đò nát đụng nhau.
- Nhà cô ở đâu?
- Trên Hàng Bún.
Anh xe vừa kéo, vừa lẩm bẩm nói một mình:
- Không có tiền, cũng leo lên xe mà ngồi, chỉ sĩ diện hão thôi, lại còn tí tách hạt dưa, với phì
phèo thuốc lá mà không biết ngượng!
Cô ả đành chịu mặt dày cho anh xe mắng một ít câu cho bõ hờn, cứ ngồi im như phỗng.
Lúc ấy, gió bấc thổi căm căm, buốt đến tận xương. Nhà hàng phố đã thấy có người dậy.
Nhưng họ dậy có phải để đi tìm gái đâu!
Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo:
- Anh hãy ghé vào đây một tý cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không.
Anh xe hơi có hy vọng, đỗ lại để cho cô ả vào. Rồi vì mệt lử, anh ngồi phịch xuống sân xe,
tựa lưng vào thành, vừa chờ, vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn.
Một lúc lâu, một tràng pháo nổ vang trời, làm anh giật mình. Anh sực nghĩ đến cô ả, không
biết cô ta vào đấy làm gì mà lâu thế. Hay có lẽ đã có món khách nào chăng. Nhưng thế nào
cũng phải trả tiền cho mình về đã chứ, lại bắt mình chờ đến sáng hay sao? Anh gõ cửa gọi.
Người bồi săm ra.
- Ông ơi, tôi hỏi thăm ông, người con gái quấn khăn quàng trắng vào đây ban nãy, nằm ở
buồng nào?
- Chả có buồng nào có khách cả.
- Thế người con gái ấy đâu?
- Ra ngay từ bao giờ rồi, còn đâu mà hỏi?
- Thôi chết tôi rồi, ra cửa nào?
Người bồi lấy ngón tay cái, hất ngang về phía cổng sau. Anh xe choáng người như nghe tiếng
sét đánh. Anh bàng hoàng như chợt tỉnh giấc chiêm bao.
Người bồi săm nói xẵng:
- Đi cho người ta đóng cửa. Ai bảo anh xông nhà cho tôi? Năm mới đừng bí beng!
- Ông ơi!...
Người bồi giúi vai anh xe, đẩy ra, rồi đóng ập cửa lại. Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi
ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt
vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi.
Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch…
Phân tích:

● Cốt truyện:
- Mở đầu truyện là hình ảnh lam lũ của anh phu xe vào đêm ba mươi Tết, khi tất cả mọi
người đều đang quây quần bên gia đình thì anh vẫn phải vác xe đi tìm khách. Vì mới
trải qua một trận ốm nặng, tiền của dành dụm bấy lâu đều mất hết, nên bây giờ anh
phải làm việc chăm chỉ gấp đôi để lo cho vợ con có cơm ăn, áo mặc.
- Dù đã cố vay vốn thuê xe để kéo ngày ba mươi nhưng may mắn lại không đến với
anh, khi vất vả mời khách cả ngày cũng chỉ kiếm được có được hai hào. Chính vào lúc
đang lúc tuyệt vọng thì anh phu xe nghe có người gọi. Vị khách của anh là một người
phụ nữ ăn mặc khá sang trọng nhưng lại có phần bủn xỉn, sau một hồi kì kèo giá cả,
phu xe quyết định chở bà khách này với giá hai hào.
- Dù giá cuốc xe không cao nhưng trong hoàn cảnh túng quẫn, anh nghĩ chỉ cần có tiền
mang về cho vợ con và khiến họ vui mừng là đủ. Suy nghĩ đó không chỉ tiếp thêm
động lực mà còn giúp anh phu xe vơi đi phần nào nỗi vất vả từ chặng đường mưu sinh
phía trước.
- Những tưởng đã có thể về nhà cùng số tiền nhận được từ công sức của mình thì anh
ngậm ngùi phát hiện vị khách kia chỉ là một cô gái bán hoa đang tìm khách, không có
tiền trong túi.
- Cô gái nói với anh rằng hãy kéo cô ấy đi tiếp, nếu tìm được khách thì sẽ trả tiền cho
anh ngay. Một thoáng thất vọng hiện lên trong mắt anh nhưng vì đã lỡ giờ nên anh
quyết định ôm tia hy vọng cuối cùng và kéo cô gái đó đến tận sáng.
- Cái kết lấp lửng kèm theo tiếng pháo hoa cùng dáng đi lủi thủi của anh đã khiến độc
giả ngậm ngùi và xót thương cho số phận của người phu xe nghèo.
- Tình huống truyện được tác giả xây dựng tuy đơn giản nhưng vẫn chứa đựng tinh thần
nhân văn và phong cách trào phúng đặc trưng của nhà văn. Qua đó, Nguyễn Công
Hoan đã làm nổi bật lên thái độ phê phán xã hội bất công cùng sự xót thương cho
những kiếp người nghèo khổ.
- Bằng lối kể chuyện mộc mạc, giản dị cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn của nghệ
thuật ngôn từ, Nguyễn Công Hoan đã thành công tái hiện bối cảnh hiện thực của Việt
Nam dưới chế độ thực dân nửa phong kiến trước Cách mạng tháng Tám.
- Tuy đều sống dưới đáy xã hội nhưng cách mà cả hai mưu sinh lại không giống nhau,
nếu anh phu xe đổi sức lao động của mình để có được những đồng tiền chân chính thì
vị khách trên xe lại vô cùng lười biếng, không chịu lao động.
- Chính sự đối lập này đã cho thấy tài hoa của tác giả trong việc xây dựng cốt truyện,
đồng thời mang đến cho độc giả nhiều góc nhìn khác nhau về các mảnh đời trong xã
hội đương thời. Ngay ở phần nhan đề Người ngựa ngựa người, Nguyễn Công Hoan
đã thể hiện thái độ châm biếm, giễu cợt.

Nhan đề: Người ngựa, ngựa người: đọc xuôi hay đọc ngược cũng giống nhau

=> gợi đến công việc của anh phu xe: kéo xe bằng sức người thay sức ngựa => thân phận con
người bị hạ ngang hàng với súc vật, kiếp người cũng chỉ ngang kiếp ngựa kéo
- Nhìn chung thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gồm nhiều
loại người nhưng chủ yếu chỉ xoay quanh hai tầng lớp là quan lại, quý tộc và người
nông dân nghèo, chính vì vậy nên các tác phẩm đã dễ dàng chạm đến những góc
khuất của xã hội.
- Dù được nhận định là một tác phẩm trào phúng nhưng Người ngựa ngựa người lại
mang đến cho độc giả nhiều suy tư về số phận con người hơn là tiếng cười thoải mái.
- Với ánh nhìn đầy chiêm nghiệm, Nguyễn Công Hoan đã thành công khắc hoạ lại cuộc
đời của những con người lao động nghèo, cũng như làm sáng ngời ý chí kiên cường
và bản tính lương thiện bên trong họ.
● Mâu thuẫn trào phúng: mâu thuẫn giữa hy vọng và thất vọng: hy vọng càng cao
thì thất vọng càng lớn

Hy vọng càng lớn Thất vọng càng nhiều

- Anh phu xe ế khách đêm ba mươi, gặp một - Bẽ bàng nhận ra đó chỉ là một cô gái bán
người đàn bà ăn mặc sang trọng, lịch sự hoa cũng đang đi tìm khách
=> hy vọng lớn => thất vọng lần 1
- Cô gái hẹn anh đứng ở đầu ngõ rồi sẽ ra - Anh phu xe đợi mãi mới nhận ra cô gái đã
đưa tiền cho anh trốn đi từ lúc nào
=> nhóm lên hy vọng lần 2 => truyện kết thúc trong tiếng pháo hoa báo
hiệu năm mới
=> càng nhấn mạnh nỗi thất vọng đến cùng
cực, sự bẽ bàng, khốn cùng của người phu
xe nghèo

KÉP TƯ BỀN

Các ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên Kép Tư Bền. ấy anh ta chỉ nổi
tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu, chẳng cần nói một câu khôi hài nà, nhưng chỉ
nhìn một cái điệu bộ cỏn con của anh ta, các khán quan cũng đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ
tay đôm đốp.

Anh ta Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay. Vì anh ta có tài riêng mà tính lại thích tự do,
nên anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào . Nhưng hễ rạp nào khéo dùng anh một độ,
là cũng đông khách. Cho nên, tối nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy
kép Tư Bền đóng vai giễu là cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm, phải mang tiền về
không phàn nàn rằng rạp chật quá.

Cho nên những tối hát có anh giúp, thì các hý viện đều trưng lên là buổi hát đặc biệt.
Nhưng đã hơn một tháng nay, anh không diễn ở đâu cả. Vì đã hơn một tháng nay, cha anh ta
ốm. Ðã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái gác tối om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm Công,
cái tiếng rên rỉ của ông cụ cũng hoà lẫn với tiếng rầu rỉ của siêu thuốc mà làm anh Tư Bền
phải rầu gan nát ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn. Bệnh cha anh càng ngày càng nặng, thuốc
thang chữa chạy, nào anh có quản ngại gì. Nhưng cái số tiền để giành của một vai kép dần
dần cũng đi bài tẩu mã, đến nỗi anh phải đi bài tẩu mã, đến nỗi anh phải đi vay trước của các
ông chủ rạp hát ít nhiều.
Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta chơi. Sau một vài câu hỏi thăm chiếu lệ,
ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món nợ:
- Sao? Cái số tiền đó, cậu đã để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả, tôi sẽ đi làm và nộp sau.
Ông chủ bĩu môi, nói:
- Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả lời, tôi sẽ đem ra toà đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ: - Bấy lâu cậu
nghỉ ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy cậu liệu liệu mà đi làm ăn chứ?
- Vâng, tôi định thế...
- Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Vậy cậu ra
giúp tôi vai chính. Vì phi cậu, không còn ai xứng đáng.
- Diễn vở mới thì phai học, thưa ngài?
- Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.
Trong nửa tháng! Chà!

Anh Tư Bền nhắc lại ba tiếng đó, nhưng trong óc anh lần vẩn nghĩ ngợi biết bao nhiêu điều:
Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng
hồ để đi học diễn. Cha anh ốm. Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Nghĩ
vậy anh đáp phắt:
- Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà!
Rồi anh trở vào màn và nói tiếp:
- Cha tôi yếu, tôi phải ở nhà.

Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò tay ra cái ghế đẩu kê cạnh, để với lấy cái
ống nhổ. Nhưng lật bật cầm không vững, cụ đánh rơi ngay xuống sàn gác, đờm rãi nổi lềnh
bềnh.
Anh Tư Bền giật mình, chạy lại đỡ cha:
- Sao ông không gọi con?
Rồi anh đỡ lấy chổi quét chỗ nước lênh láng đi, đoạn nét mặt rầu rầu, anh nói.
- Ðó, ông coi, vắng tôi sao đặng.
- Không, cậu cứ nhận lời giúp tôi, tôi sẽ sai người đến trông nom hộ cậu. - Ða tạ ông, nhưng
tôi không yên tâm.

Lúc ấy, trong màn có tiếng leng keng của chiếc đũa đập vào bát sứ. Ðó là hiệu gọi. Anh Tư
Bền lật đật chạy lại gần cha. Giọng khàn khàn của ông cụ sai anh rót chén nước. Nhân muốn
gãi cảm tình, ông chủ rạp Kịch trường lại gần giường, mở màn, rồi hỏi:
- Chào cụ, cụ có biết tôi là ai không.

Ông già giương hai mắt lên. Rồi như đã nhận biết bèn nhăn bộ răng ra cười, cái cười khó đăm
đăm, và gật gật mấy cái, rồi run lẩy bẩy, giơ tay ra bắt. Các ngài đừng tưởng rằng ông cụ
quen gọi lối tây, nên mới bắt tay đâu. Ðến phải nhăn bộ răng ra cười còn là sự bất đắc dĩ nữa
là. Nay sở dĩ ông cụ phải bắt tay, vì tiếp khách theo lối lịch sự của những người mà con mình
có nhờ vả.
- Cụ cũng yếu lắm nhỉ. Sao cậu Tư Bền 0nhận lời cho tôi?
Ông cụ hất hàm, có ý hỏi.
- Tôi sắp cho tập vở mới, định nhờ cậu ấy sắm vai chính.
Ông cụ lại nhăn ra cười và gật, nhưng anh Tư Bền nói ngay với cha.
- Ông mệt lắm, con phải ở nhà.

Ông cụ cau mặt. Chỉ có anh Tư Bền hiểu. Bởi vì ông cụ chẳng muốn vì mình mà con làm trái
lòng người chủ nợ. Ông chủ dỗ dành, nói:
- Cậu cứ giúp tôi đi. Cậu mà nhận lời, thì món tiền ấy, cậu để đến bao giờ cũng được. Còn
tiền khoả hồng khi diễn tấn "Ông huyện ba phải" này, cậu cứ lấy cả để thuống thang cho ông
cụ.

Cái sức làm cho anh kép Tư Bền có thể nghĩ đến sự bỏ cha ốm một mình là ở câu nói ấy. Mà
cha anh cũng vì câu nói ấy mà nở nang cả lồng xương ngực. Ông cụ cố thở mạnh mấy cái cho
khoan khoái trong lòng.
- Cậu nghĩ sao?
- Nhưng nửa tháng trời! Ai trông nam cho cha tôi?
- à, thôi, thế này thì cậu bằng lòng nhé. Cậu cứ ở nhà mà học vở. Ðến hôm diễn thử lần cuối,
cậu hãy đến rạp cũng được. Vì tôi biết cậu thông minh và có tài hơn người khác. Tội chi, có
dịp trổ tài, vả lại để cho thiên hạ nhớ mong lâu cũng không tiện!

Nghe câu nói sau cùng như được ăn miếng bánh thánh, anh Tư Bền có vẻ nghĩ ngợi. Anh
nhìn cha. Ông cụ thấy con còn ngần gừ, thì lộ ra vẻ không bằng lòng. Cụ nhăn mặt, cố cất lên
cái tiếng khàn khàn để gắt:
- Nận lời đi!
Nói xong, lại ho sù sụ.
Anh Tư Bền cảm động, nhìn ông chủ rạp Kịch trường và trả lời.
- Vâng!

Ông chủ vì chờ cái tiếng vâng này mất nhiều công quá, nên sợ nó không được chắc chắn. Ðến
hôm diễn, mà cha anh Tư Bền có làm sao, anh cứ vắng mặt ở rạp hát, thì lỡ bét. Ông bắt anh
làm giấy giao kèo.

Bà con sính xem hát, hôm đó thấy ôtô quảng cáo chạy rong khắp phố để thả chương trình, và
vải căng ở các ngã tư, đều nô nức rủ nhau đi xem buổi biểu diễn đặc biệt, có Tư Bền sắm vai
chính.

Tối đến, cửa rạp Kịch trường đèn thắp sáng trưng như ban ngày, chiếu rõ cái cảnh người
đứng lơ nhơ như luống hoa trăm bông ngàn tía, bướm ong chờn vờn. Trên thềm, dưới chậc,
giữa đường, nom nghìn thiếu niên nam nữ túm tụm lại, tìm chỗ để đứng ngắm nhau cho đỡ
nóng ruột chờ đợi. Tiếng nhạc hoà trong rạp, du dương trầm bổng, chứa chan biết bao tình ái
ân, như câu, như kéo, làm cho người ta quên hẳn, mà bất giác moi túi lấy tiền mua vé.
Rồi cái làn sóng người dần dà tràn vào trong. Trên các hàng ghế, chỗ nọ nhắc lại câu bông
lơn của kép Tư Bền, chỗ kia bắt chước điệu bộ của kép Tư Bền. Ai nấy đều nóng ruột sốt
lòng, mong cho chóng đến giờ mở màn sân khấu, để được cười, được vỗ tay, được học thêm
vào lối pha trò mới, để mai làm nhếch mép người yêu.

Vinh dự thay, anh kép Tư Bền! Nhưng mà khốn nạn thân anh! Người ta biết đâu rằng hiện
giờ này, ở nhà, cha anh đương dở chứng khò khè, chỉ chờ từng phút để thở một hai hơi nữa là
hết nợ, và ở trong phòng trò, anh cũng đang nẫu ruột nhầu gan. Thật vậy, ai ngó vào trong
buồng trò mới thấy được cái khổ tâm của anh Tư Bền. Anh ngồi ủ rũ trước cái gương, bụng
thì rối beng, mặt thì nhăn nhó, nhưng tay vẫn phải sờ vào hộp phấn hồng để đánh mặt, quệt
vào đĩa mực để bôi nhọ cái mồm. Rồi anh phải mặc trái cái áo lụng thụng thêu, lận đôi hia
xanh và đội cái mũ chuồn ngược. Anh đóng vai này, trông ra phết giàu sang sung sướng.
Chốc nữa, anh còn phải làm cho chủ anh bằng lòng, các bạn trông anh mà gắng sức, các
khách quan được một phen cười vỡ bụng, vỗ rát tay kia mà! Nhưng mà cha anh Tư Bền sắp
chết! Ban nãy lúc anh ở nhà ra đi, đã thấy nguy lắm rồi. Thôi! nhưng mà mặc kệ. Anh phải
quên đi, mà bông, mà đùa, mà pha trò trên sân khấu, cho chúng tôi cười, hét lên mà cười,
cười đến nỗi lăn ra cả đất chứ?
***

Một hồi chuông vừa dứt, màn kéo lên. Một tràng tay đôm đốp như pháo nổ để hoan nghênh
ông chúa khôi hài. Anh Tư Bền lững thững bước ra, cúi đầu chào, rồi đứng thần người ra như
phỗng một lúc. Tiếng reo, tiếng hò, tiếng vỗ tay lại làm dữ hơn trước! Mà khách quan thấy
anh ăn mặc ngộ nghĩnh, cái mồm bôi nhọ nhem, thì ai nhịn cười được! Càng thấy anh đứng
yên, họ càng được ngắm, và cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già! ác thật! Vai
anh Tư Bền hôm ấy cứ phải đứng trên sân khấu. Nhất là anh phải làm nhiều điệu bộ hơn mọi
khi. Lắm lúc còn phải rặn ra mà cười ha hả!

Hết cảnh đầu. Sao mà lâu thế! Anh được nghỉ một chốc, mới nhớ người về xem tình hình cha
anh ra làm sao. Rồi anh lại phải ra trò. Anh lại phải hò, phải hét phải dằn từng tiếng, phải
ngân từng câu, phải làm những điệu bộ, phải cười ha hả như cảnh thứ nhất. Người xem hát thì
cứ trông thấy anh là cũng đủ cười rồi. Nào họ có để ý và nhìn rõ đâu được cái vẻ lo âu của
anh, nó hiện ra ở mắt. Bỗng khi anh đương phệnh phạo trên sân khấu, khi người ta đương vỗ
tay đôm đốp, thì anh nghe thấy có người ở trong phòng nói ra:
- Nguy hơn ban nãy. Ðã cấm khẩu rồi!

Cha anh cấm khẩu rồi! Ðành vậy. Nhưng chính là bây giờ mới nhiều cái vui trò. Khán giả
dưới kia, hàng mấy nghìn con mắt, đương chăm chắm vào anh và im phăng phắc. Họ chỉ chờ
anh há miệng là họ được lăn ra mà cười và vỗ tay mà thôi.

Cảnh thứ hai cũng lâu như cảnh đầu, mãi mới hết. Lúc anh đang ngồi thừ trong buồng trò, thì
anh lại nhận được tin áo nữa, là hiện nay cha anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi.
Còn gì đau đớn hơn cái tin ấy nữa! Anh Tư Bền bỗng ứa hai hàng nước mắt, rồi khóc nức nở:
- Cha ơi!

Ông chủ thấy vậy, sợ quá. Anh mà bỏ dở vở kịch đương vui thì nguy. Ông cố khuyên giải, và
cấm không ai được báo tin gì cho anh biết hết.

Sân khấu bài trí đã gần xong. Ông chủ bắt anh đánh lại tý phấn cho thêm xuân sắc, và sửa lại
bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn. Ông thấy anh vừa dắt lại dải áo, vừa sụt sịt mếu máo, thì
bắt anh im đi, chùi nước mắt. Rồi ông đẩy anh ra sân khấu. Anh lại phải hò, hét, ngâm, cười,
múa, nhảy để mua gượng lấy những tràng vỗ tay. Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền, đi
đôi với cái bông lơn, cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên. Mà càng thấy
vắng bặt tin nhà, ruột anh càng nhàu như dưa, xót như muối. Cái cảnh cuối cùng mà anh cho
là lâu tới, thì khán giả cho anh là chóng quá. Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào, thì cả rạp
vỗ tay đôm đốp thật dài, dài mãi. Anh tưởng phen này quyết hết nợ, quyết được về cạnh
giường bệnh của cha để nhìn mặt cha một lượt sau cùng trước khi tắt nghỉ, thì ở hàng ghế
hạng nhất, người ta kêu ầm:
- Bis! Bis!(1)
Ông chủ rạp lại cho kéo màn lên. Anh Tư Bền lại hải giấu bộ mặt rầu rầu mà anh thích Ä vì
nó hợp với tâm lý anh hơn, - để vui vẻ mà diễn lại đoạn cuối lượt nữa.
Rồi khi bàn kèn chào nổi lên, hồi vỗ tay sau cùng như làm vỡ rạp. Cái màn từ từ buông
xuống. Anh cúi đầu thong thả chào. Nhưng bao nhiêu người, chẳng để chậm thì giờ, đã tranh
nhau chạy lên gần anh. Người thì tặng hoa, người thì bắt tay, người thì véo mũi. Người thì
khen. Làm cho anh ruột càng như thiêu đốt.

Khi không còn phải thở dài để hoan nghênh những cái hoan nghênh của công chúng, anh Tư
Bền mới lật đật chạy vào buồng trò, cởi vội mũ áo và rửa quàng mặt mũi.
Lúc ấy, trong khi anh đang rối beng nghĩ đến cha anh, không biết bây giờ đã lạnh tới đâu, thì
một người bạn hát chạy đến, vội vã ấn vào tay anh tập giấy bạc của ông chủ để sẵn cho anh,
và nói:
- Mau mà vè. Anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân anh quá!
1933

Phân tích:
- Đề tài cho cuộc bút chiến giữa hai quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật
vị nhân sinh: nghệ thuật tôn vinh cái đẹp >< nghệ thuật khiến con người thờ ơ với
những cảnh khổ đau
=> NCH đã cắm lá cờ thành công cho chủ nghĩa hiện thực phê phán
- Kép Tư Bền: hiện tượng bên ngoài pha trò, cười cợt, nhưng bên trong tan nát ruột
gan. Anh kép hát muốn khóc lại phải cười.
- Đối lập giữa các sự cố: Hiện tượng >< bản chất
● Mâu thuẫn trào phúng: kịch lồng trong kịch:
- Xung đột nhân vật: giàu - nghèo, chủ - tớ, xung đột tình huống: phải diễn trò cười cho
thiên hạ trong khi anh ta cần khóc nhất. Mâu thuẫn giữa hoàn cảnh đáng khóc (bố
chết) và tình thế buộc phải cười (đóng vai hề) vì đã trót bán tự do cho kẻ có tiền.
- Người kép: tài hoa, hiếu thảo nhưng nghèo túng
- Người chủ rạp ko xuất hiện mà 1 bạn diễn đưa xấp tiền vào tay Kép Tư Bền: thể hiện
xã hội lạnh lùng, “tiền trao cháo múc”, không có tình người
ĐỒNG HÀO CÓ MA
Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe
mạnh, béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao
nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả. Thì đấy, các ngài cứ hãy nhìn
ông huyện Hinh, hẳn các ngài phải chịu ngay rằng tôi không nói đùa.

Chà! Chà! Béo ơi là béo! Béo đến nỗi giá có thằng dân nào vô ý, buột mồm ra nói một
câu sáo rằng: "Nhờ bóng quan lớn", là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông. Tức thì, mặt bàn là
một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp. Mà rồi thằng khốn nạn ấy, ông truy cho đến kỳ cùng,
không còn có thể làm ăn mở mày mở mặt ra được. Bởi vì ông có sẵn trong tay hàng mớ pháp
luật, thì ông ngại gì không khép thằng bảo quan béo vào tội "làm rối cuộc trị an". Thế là việc
công việc tư, ông đều được trọn vẹn. Vì không những ông được hả giận, lại còn được tiếng
mẫn cán là khác nữa.

Nhưng cớ sao từ ngày xuất chính tới nay, hai mươi năm trời rồi, ông vẫn còn lẹt đẹt tri
huyện mãi. Cái đó không quan hệ. Các bạn học cùng ông, họ đều thăng đường quan cả, vẫn
thường phàn nàn hoạn lộ quá chậm chạp của ông. Trước mặt họ, nghe câu nói thành thực ấy,
ông chắp tay, cúi đầu, làm ra vẻ buồn rầu. Nhưng lúc quay lưng đi, ông bĩu môi, chửi thầm
một câu, bụng bảo dạ:

- Làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn!

Lý lịch của ông huyện Hinh cũng xấu thật. Bởi vì ngồi huyện nào, ông cũng bị dân
kiện. Mà quan trên xét ra ông lại trễ nải việc quan. Đời làm quan của ông chỉ có hai việc
chính: đánh bạc và chơi gái.

Năm nay, ông đã ngoại tứ tuần. Ông vẫn lấy cái tuổi của ông để lên mặt tiền bối, khinh
những ông huyện trẻ khác, nếu tụi này dám chỉ coi ông là bậc ngang hàng. Ông liền khoe
thằng Cả nhà ông đã hai mươi nhăm, rồi ông cặp ngón tay trỏ và ngón tay cái với nhau, vê vê
trên mép. Trên mép ông, ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu. Ông để râu, cho
khác hẳn với tụi huyện trẻ nhãi. Nguyên cái da mặt ông nhỏ, mà có lẽ vì ông béo quá, nên lỗ
chân lông căng ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu không có chỗ nào lách ra ngoài được. Đến nỗi
năm bốn mươi tuổi, mà mặt ông nó cứ nhẵn thín như thường. Ông bực mình, bèn ra lệnh cấm
thợ cạo lia lưỡi dao lên môi ông một dao, để ông nuôi râu. Thì sau hết, những lông tơ nó cũng
dài ra, và trông rõ hơn. Và đến bây giờ, đứng ở hai bên miệng ông, nó thành hai cái dấu chua
nghĩa (...).

Buổi hầu sáng hôm ấy.

Con mẹ Nuôi, tay cầm lá đơn, đứng ở sân công đường. Nó hớt hơ hớt hải qua cổng
chòi, rồi sợ sệt bỡ ngỡ, không biết quan ngồi buồng nào. Bỗng một người mặc áo cánh nái
nhuộm vỏ già chạy xồng xộc đến trước mặt nó, và hỏi:

- Đi đâu?

Con mẹ biết ngay rằng đó là cậu lính lệ. Và như hiểu rõ phép vào quan, nó giúi đưa cậu
lệ hai hào đã cầm sẵn ở trong tay, rồi nói nhỏ:

- Nhờ cậu bẩm quan cho tôi vào hầu.


Cậu lệ tuy đã cầm tiền, nhưng làm như ta không để ý đến việc nhỏ nhen ấy, bèn vừa thò
tay, vừa nói to:

- Đưa xem đơn, việc gì?

Rồi trong khi nhà Nuôi kể lể, thì cậu lệ đánh vần để đọc lá đơn. Đoạn cậu lắc đầu, nhăn
mặt bảo:

- Vào kia, nhờ bác nho Quý bác ấy làm hộ cho. Đơn này không được.

Con mẹ tái mặt, hỏi:

- Không được thế nào, thưa cậu?

Cậu lệ giơ hai tay ra giảng:

- Nghĩa là nếu nhà chị muốn việc chóng xong, nghe chưa?

- Thưa cậu, cậu cứ vào trình quan hộ. Chả nói giấu gì cậu, nhà tôi bị mất trộm hết sạch
cả đồ đạc lẫn tiền nong. Sáng nay, vay mãi mới được đống hai bạc, để đi trình quan, cậu làm
ơn thương hộ cho.

Cậu lệ nhìn nét mặt nằn nì của nhà Nuôi, song vẫn thản nhiên:

- Tôi bảo nhà chị không nghe thì tôi mặc kệ. Tôi thấy nhà chị ăn mặc thế này, lại bị lúc
vận hạn đen đủi, tôi lại chẳng động lòng hay sao? Nhưng ở đây, cái lệ nó thế. Tôi tử tế, nên
bảo trước. Nếu nhà chị không theo, thì quan quở, chớ có trách tôi đấy.

Muốn chứng thực lời nói của mình, mẹ Nuôi cởi nút dải yếm ra, rồi xỉa năm đồng hào
đôi còn lại lên gan bàn tay, và nói:

- Đây này, chẳng tin, cậu đếm mà xem, chỉ còn vừa vặn tiền trình thôi.

Cậu lệ lắc đầu. Con mẹ vừa buộc lại tiền, vừa nhăn nhó, van lơn:

- Lạy cậu, thương cháu, cho cháu được nhờ. Cậu cứ vào bẩm quan hộ. Hễ quan bắt làm
lại đơn, thì cháu xin ra nhờ bác nho Quý ngay.

Bỗng một tiếng chuông gọi. Cậu lệ dạ giật một tiếng, rồi ù té chạy. Con mẹ Nuôi nhìn
theo, biết rằng buồng quan ngồi ở chỗ ấy. Nó đánh liều tiến đến, vừa tiến, vừa lo. Nó bước
chân lên thềm, trống ngực bắt đầu nổi mạnh. Nó đã trông thấy quan. Nó lại sợ nữa. Vì lo sợ
quá, nên quên đứt rằng chính nó đi trình việc mất trộm. Nó lại tưởng như nó là đứa trộm vậy.
Nó rón rén, đứng nép vào cạnh cửa, thập thò, ghé vào trong, và lắng tai nghe. Nó thấy quan
đang dặn cậu lệ xuống bảo nhà bếp ninh cho thật dừ cái chân giò.

Và đến khi cậu lệ dạ tiếng cuối cùng và đi vào sân sau, mé cửa trong, thì nó hiểu ngay
rằng đã mất toi hai hào cho thằng xỏ lá nó chẳng bẩm cho mình một tiếng nào.
Bỗng hai con gà tây béo sù quàng quạc kêu ở sân trước. Nó thốt giật nảy mình. Quan
đang ngồi, choàng một cái, ngài đứng dậy, chạy vội ra hiên, đứng ngay cạnh nhà Nuôi, và gọi
váng:

- Có đứa nào đấy, lừa hai con gà vào cho tao!

Tức thì, người ta chạy tán loạn để xua gà, và nhà Nuôi thì chắp hai tay, quỳ ngay xuống
gạch, và nâng ngang đầu cái lá đơn.

Khi đôi gà đã chạy về, quan bèn nhìn con mẹ và bảo:

- Vào đây.

Nó mừng quá, lóp ngóp đứng dậy, vội vã theo vào trong buồng giấy.

Nó đứng ở cạnh bàn, run lên bần bật. Nó liếc nhìn quan. Ngài oai vệ quá. Nó lại sợ hơn
nữa. Nhưng dù run hay sợ, nó cũng không quên được việc vi thiềng quan.

Nhưng tiền trình diện quan, nó lại buộc vào trong dải yếm. Nó cởi ra mới lấy được.

Nó mới lúi húi rút cái nút buộc ra. Nó sợ quan chờ lâu, nên phải vội vàng. Mà vì vội
vàng, lại lo quan gắt, nên nó lóng cóng. Cái nút vừa xổ ra, thì loẻng xoẻng, cả món tiền rơi
tiệt cả xuống gạch.

Năm đồng hào đôi nảy lên mấy cái, và từng ấy tiếng kêu làm nó giật mình. Tự nhiên, nó
choáng cả người và hoa cả mắt. Nó cúi nhìn chỗ nhiều hào rơi nhất, ngay bên cạnh nó. Đồng
thì chui nằm ẹp gần chân nó, đồng thì xoay tít mấy vòng, đồng thì bắn ra góc buồng. Mấy
đồng nữa thì thi nhau lăn ra tận chỗ xa.

Nó không thấy quan nói gì, nên cũng hơi tĩnh tâm. Nó bèn cúi xuống để nhặt tiền. Một
đồng, hai đồng. Đồng thứ ba nghiêng ở mé tường. Nó tìm đồng thứ tư. Mãi nó mới thấy ở tận
gần chân bàn giấy của quan. Nó tìm đồng thứ năm. Quái, nó tìm mãi, mà không thấy đâu cả.

Nó phải có năm hào đôi. Năm hào đôi mới thành đồng bạc được. Vừa ban nãy, nó giở
ra cho cậu lệ xem, và lại buộc cẩn thận vào dải yếm. Không lẽ đồng hào ấy có ma, đã biến đi
đâu mất chóng thế được. Vậy chỉ quanh quẩn ở trong buồng này mà thôi. Nhưng nó đã tìm kỹ
lắm rồi. Mà trình đơn tám hào, tất nó bị quan chửi. Không biết làm thế nào được, nó tần ngần
chắp hai tay, vái:

- Lạy quan lớn ạ.

Rồi nó lùi lùi bước ra cửa. Rồi nó đi về...

Ông huyện Hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. Rồi khi thấy
nó đã đi khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giầy ra một tý. Và vẫn tự nhiên như
không, ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giầy
bám vào, rồi bỏ tọt vào túi.

Phân tích:
- Đồng hào có ma: hiện tượng bên ngoài: quan là tôn nghiêm, cao cả, nhưng thực chất
là ti tiện.
- Đối lập giữa các nhân vật:
+ Ở những truyện có chủ đề phê phán xã hội, thường có kết cấu đối lập giữa hạng nhà
giàu quyền thế với hạng người nghèo khổ lép vế
- khắc họa hình tượng nhân vật không phải là điểm mạnh của Nguyễn Công Hoan,
nhân vật của ông ít có chiều sâu nội tâm. Nhân vật của ông, chủ yếu là nhân vật phản
diện thường có những nét tính cách sau. Bọn đàn ông nhà giàu, quyền lực: tham, ác,
đê tiện, đểu cáng, trắng trợn; bọn đà bà: dâm đãng và xảo quyệt. Tất nhiên các nét tính
cách trên tùy nhân vật mà đậm nhạt khác nhau. Đồng hào có ma nổi bật là tham lam,
đê tiện
● Nhân vật: hai tuyến đối lập: người nông dân bi thảm >< quan lại xấu xa
- Nhân vật quan huyện Hinh:
+ lời giới thiệu hài hước: “bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh
thích ăn bẩn cả”; chơi chữ “ăn bẩn”, “nhờ bóng quan lớn”
=> chế giễu thói tham ăn tục uống; đồng thời vạch trần bản chất giả tạo, tham lam (chơi chữ
“ăn bẩn”)
+ bịp bợm, dùng quyền lực để trị thẳng tay những kẻ nói xấu mình
+ giả dối: giả vờ buồn rầu khi nghe bạn bè phàn nàn hoạn lộ chậm chạp của
mình, nhưng đằng sau lại chửi “Làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn”
=> muốn ở lại huyện để vơ vét, đàn áp nhân dân
+ thường xuyên bị dân kiện vì trễ nải việc quan do mải đánh bạc và chơi gái, dù
đã ngoại tứ tuần
=> bản chất dâm ô, tham lam
+ khoe râu trên mép => ra vẻ mình là bậc tiền bối với những ông huyện trẻ (//
Cụ cố Hồng) nhưng vì béo quá nên râu không mọc được => bộ dạng lố bịch,
trơ trẽn
+ bản chất bịp bợm: giẫm chân xuống đồng hào của người lên kiện quan
=> bất nhân, độc ác, tham lam
- Nhân vật cậu lính lệ:
+ là tay sai đắc lực của quan huyện Hinh
+ cầm tiền của người đàn bà nhưng vẫn làm khó dễ dể vòi vĩnh
=> tham lam, xỏ lá (nhận tiền nhưng không bẩm quan cho chị ta)
+ nhìn vẻ mặt khổ sở của con mẹ Nuôi nhưng vẫn thản nhiên, dửng dưng
=> máu lạnh, độc ác
- Nhân vật con mẹ Nuôi:
+ là người nông dân lâm vào cảnh khổ cùng: bị trộm hết sạch đồ đạc, tiền nong,
vay mãi mới được hai đồng bạc để đi trình quan
+ hiểu những “thủ tục” phải làm trước khi vào trình quan: “và như hiểu rõ phép
vào quan”, đưa trước cho tên lính lệ 2 hào
=> người nông dân bị bần cùng hóa vì sự tham lam của tầng lớp thống trị
● Nghệ thuật trào phúng
- Để gây cười, truyện thường kết thúc đột ngột, truyện Nguyễn Công Hoan luôn có kết
thúc đột ngột như thế.Đồng hào có ma: tác giả kết truyện: «Vẫn tự nhiên như không.
Ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng,… rồi bỏ tọt vào túi».
- Chơi chữ trong văn trần thuật: “Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy người ta ăn
uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai,
nghìn lần sai vì tôi thấy sự thực ở đời, bao nhiêu những anh béo khỏe, đều là những
anh thích ăn bẩn cả...”
- Xây dựng những chi tiết gây cười:
+ ông huyện Hinh để râu nhưng da mặt nhỏ, mặt béo quá nên lỗ chân lông căng
ra, râu không có chỗ nào lách ra ngoài được”
=> cách miêu tả biếm họa vẽ nên chân dung của 1 kẻ đểu cáng, bất nhân từ ngoại hình
// Mã Giám Sinh: “Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
+ hai con gà tây béo sụ nhảy ra ngoài
=> tạo khung cảnh hỗn độn, tiếng cười giải trí bật lên

TINH THẦN THỂ DỤC

Có lính huyện mang trát quan về làng:


Quan tri huyện huyện X.X.
Sức hương lý xã Ngũ Vọng tuân cử.
Nay thừa lệnh Tỉnh đường, ngày 19 Mars này, tức 29 tháng Giêng An Nam, tại sân vận động
huyện có cuộc đá bóng thi, nhiều chiến tướng đá rất hay, mọi nhẽ.
Vậy sức các thầy phải thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm người, đúng
12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện.
Những người đã cắt đi dự cuộc khánh thành sân thể dục tháng trước, thì lần này được miễn.
Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn
luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách.
Làng Ngũ Vọng lại phải có năm lá cờ, sẵn sàng từ 10 giờ sáng.
Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ
bị cữu.
Nay sức
Lê Thăng
oOo
Anh Mịch nhăn nhó, nói:
- Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy
đánh chết.
ông lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
- Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi
- Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con
khổ.
- Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
- Đối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con
nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
- Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm, đứa
nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao .Hôm ấy mày mà không đi,
tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.
oOo
Bác Phó gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông lý:
- Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêu lạy
thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội.
- ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!
- Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin
thầy hoãn cho đến lượt sau.
- ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì
người ta đá bóng cho chó xem à?
- Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêu. Nhưng, thưa thầy, từ đây lên
huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà con đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan gia.
- Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâu. Vợ chồng thu xếp với nhau thế nào, đây mặc
kệ!
- Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?
- Không! Phải là đàn ông kia, chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể?
Người đàn bà thở dài:
- Thế thì con biết làm thế nào được!
oOo
Bà cụ phó Bính, mắt kèm nhèm, vừa nói, vừa cười rất vô duyên:
- Thì lòng thành, ông lý cứ nhận đi cho cháu. Cháu hôm ấy không bận đi ăn cưới thì cháu
cũng xin vâng. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cho cháu cũng thế. Ông ngơ đi là được.
- Thế ngộ quan biết, có chết tôi không!
- Quan đếm đủ đầu người là xong, chứ ai xem thẻ mà ông sợ.
- Tôi nhận lễ của con bà mà tôi lo lắm. Việc quan nào phải việc chơi.
- Thì cũng như ông làm phúc ấy mà lị.
- Nhưng thằng Sang có khăn áo tử tế, hay lại ăn mặc như thằng ăn mày ấy
- ông không phải lo việc ấy. Nó đã dạm mượn được đủ cả rồi. Cháu mặc cả và đã khoán đủ
với nó như thế.
ông lý nhăn mặt, nhặt ba hào, bỏ túi:
- Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất.
- Thì ông không cho phép cháu ở nhà, cháu phải thuê người khác đi thay cũng thế chứ gì.
- Thế đến gà gáy hôm 29, bà phải bảo thằng Sang chực sẵn ở đình, tôi dẫn đi.
- ấy, ông cho nó cơm nước thong thả đã chứ. Đá bóng ít ra ba bốn giờ chiều mới bắt đầu kia
mà. Tôi tưởng mười hai giờ ở nhà đi cũng vừa. Buổi sáng, tôi còn mượn nó cuốc mảnh vườn.
- Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưa để ngài điểm. Mà
quan sức mười hai giờ, thì mình phải đến từ 11 giờ cho sớm sủa. Vả lại, tôi còn phải mang cờ
lên lúc 10 giờ, thì chả đi từ năm sáu giờ thì đi vào lúc nào. Cho nên, mọi người phải chờ tôi ở
đình từ gà gáy.
- Thế thì sớm quá.
ông Lý gắt:
- Tôi không lôi thôi. Bà không bằng lòng thế, thì tôi cứ bắt đích danh con bà. Mặc kệ!
Bà phó sợ hãi:
- Không, lệnh ông thì thế nào tôi chả phải nghe. Là tôi nói chuyện thế đấy chứ.
- Mấy lị bao nhiêu người đều phải thế, chứ riêng gì bà. Bà bảo thằng Sang nắm cơm từ chiều
hôm trước, chứ sáng hôm ấy dậy mới thổi thì không kịp đâu.
- Vâng.
oOo
Ngay từ sáng tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông lý quát tháo om sòm:
- Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra
đây. Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!
Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tinh kéo đi các ngả. Ông lý dặn theo, tiếng oang
oang:
- Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố chúng nó! Việc quan
thế này chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây cho ông!
Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậy. Ngọn lửa đỏ như nổi lềnh bềnh trong
biển sương mù.
Thì đại khái cái cảnh diễn ra như thế này:
Hai người tuần, một người cầm đuốc, một người cầm tay thước, đạp cửa vào nhà thằng Cò.
Sau khi tìm sục khắp gian ngoài, buồng trong, không thấy một ai, họ xuống bếp, chọc tay
thước vào cót gio và bồ trấu. Rồi họ lùng ra mé sau nhà. Cũng vô hiệu.
Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên, thì hai anh tuần mới khám phá ra chỗ người trốn:
Thằng Cò nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm.
Nó bị lôi ra ngoài. Nó van lạy:
- Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn.
- Sao anh đã hẹn với ông lý, lại không đi, để ông ấy chửi địa lên kia kìa.
- Tôi đi thì tôi mất cả ngày, mà mất buổi làm thì tôi với cháu nhịn đói.
- Tôi không biết!
- Mấy lị tôi không mượn đâu được quần áo.
- Không biết! Anh ra đình mà kêu với ông lý.
Thằng bé con nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữa. Thằng Cò
chưa kịp trả lời, đã bị lôi sềnh sệch đi.
oOo
Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi xem đá bóng.
Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác. Họ làm như lánh
nạn.
Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói:
- Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan
thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.
Rồi ông ra lệnh:
- Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm
chung quanh giúp tao. Đứa nào mà trốn về thì ông bảo.
Đoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.
- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc!

Phân tích:
- Tinh thần thể dục: hiện tượng bên ngoài là chăm lo sức khỏe và sự giải trí cho dân;
nhưng thực chất là đem tai họa đến cho dân.
- Trong sáng, giản dị có tính chất bình dân. Văn chương Nguyễn Công Hoan trong sáng
phát huy khả năng diễn đạt của tiếng nói dân tộc. Ngôn ngữ một bà nhà quê:
«Thưa thầy, từ đây lên huyện những chín cây-lô-mếch, sợ nhà đi nắng thì cảm, rồi
phải lại thì oan gia…»
VŨ TRỌNG PHỤNG (1912 - 1939)
TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ
Ngôn ngữ khắc họa chân dung trào phúng
- Thế giới nhân vật trong Số đỏ rất sống động, đa dạng, phong phú.Bức chân dung nhân vật
được xây dựng bằng hai phương pháp. Thứ nhất, nhà văn nắm lấy những nét tiêu biểu, hài
hước nhất của nhân vật mà cường điệu, tô đậm nó. Thứ hai, tác giả biến các nhân vật thành
con rối
- Đặc biệt là VTP cũng rất có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ hành động hài hước thể
hiện qua các cuộc thoại. Các cuộc thoại này thường diễn ra trong một bối cảnh nhất định theo
số một đoạn: Nhân vật nhại lại ngôn ngữ của một nhân vật khác; Nhân vật lặp lại những từ,
những mệnh đề.
Đặc sắc trong cách đặt nhan đề chương
- Tiểu thuyết Số đỏ gồm 21 chương. Cấu trúc trong hồi của Vũ Trọng Phụng có vẻ mang màu
sắc chơng hồi truyền thống, nhưng là một cách tân vì nó gây cười, nó nhại lại cả truyền
thống.
- Đa số câu tiêu đề chương được kiến tạo theo kiểu câu khuyết thành phần. Các tiêu đề này là
những liên kết từ rời rạc, chuệch choạc, không ăn nhập vào nhau. Người đọc vì vậy mà lòng
phải đứng trước sự lựa chọn giữa nội dung và nghĩa, với những cách luận giải riêng, và
những kết luận mới, tự biện.
- Trong các tiêu đề chơng, tác giả dùng khá nhiều các phụ từ và số từ. Số từ gây áp lực về sự
chính xác, nhấn mạnh sự tồn tại của sự việc, hiện tượng, khẳng định một giá trị tuyệt đối.
Ngoài ra tác giả còn thể hiện nét độc đáo, hài học qua việc sử dụng linh hoạt các hỗ ngữ.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong Số đỏ
- Lớp sóng ngôn từ phát đi từ Số đỏ là lớp sóng ngôn từ đô thị. Ở đây tác giả rất chú trọng
đến lớp từ thuần Việt có sắc thái trung hòa, khiếm nhã, suồng sã và một số lượng lớn từ láy
góp phần làm gia tăng sắc thái hài hóc.
- Một đặc điểm nổi bật trong cách sử dụng từ của Vũ Trọng Phụng là dùng định ngữ nghệ
thuật. Những định ngữ nghệ thuật này có đặc điểm là thông dùng phụ từ "của" để nhấn mạnh
đặc điểm, tính chất của đối tượng.
Đặc sắc câu văn trong Số đỏ
- Trong Số đỏ tác giả thường để cho nhân vật sử dụng một dạng cấu trúc câu nhất định để tạo
ra hiệu quả trào phúng theo những phương thức: Dùng nguyên tắc đối chọi mâu thuẫn; Dùng
phép lập luận phi logic; Đánh tráo vật quy chiếu; Đánh đồng khái niệm; Dùng câu tỉnh lợi.
Hiệu quả trào phúng của một số biện pháp nghệ thuật
- Trong tác phẩm, tác giả đã sử dụng khá nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật để gây hiệu
quả trào phúng.
- Biểu hiện ở biện pháp lặp cú pháp, biện pháp liệt kê để tạo độ sâu của tiếng cười nhằm mục
đích đánh giá sự vật, hiện tượng, để biểu cảm và gây ấn tượng thẩm mỹ. Dùng biện pháp
nghệ thuật phóng đại để xây dựng chân dung các nhân vật. Dùng biện pháp so sánh một cách
độc đáo thể hiện ở sự không đồng nhất các đối tượng so sánh. Ngoài ra còn dùng các biện
pháp ẩn dụ, vật hóa, chơi chữ để gia tăng tính hài cho câu văn.
Cái nhìn nghệ thuật về thế giới con người của Vũ Trọng Phụng trong “Số đỏ”

- Ở trường phái văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945, Vũ Trọng Phụng là nhà văn
có phong cách nghệ thuật độc đáo, ông có cái nhìn nghệ thuật về thế giới và con người qua
việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, biểu tượng độc đáo và trường liên tưởng riêng. Đó là
hình tượng nhân vật Xuân Tóc Đỏ không chỉ lưu manh mà còn đểu cáng, giả dối, bịp bợm.
Cụ Hồng là đứa con đại bất hiếu, rất háo danh, khoe của, ngu dốt. Những ông bạn cụ Hồng
điển hình cho kiểu người dâm ô. Bà Phó Đoan điển hình cho hạng đàn bà dâm đãng. Nhân
vật Tuyết là gái lãng mạn, trưng diện, lẳng lơ. Ông Phán điển hình cho hạng người không
liêm sỉ. Văn Minh đại diện cho cải cách rởm,... Như vậy, với hàng loạt hình tượng nghệ thuật
đặc sắc riêng này Vũ Trọng Phụng đã vạch trần bộ mặt xấu xa, thối nát, giả dối, bịp bợm và
dâm đãng của xã hội đương thời.

- Ở phương diện xây dựng những biểu tượng nghệ thuật, Vũ Trọng Phụng đã đi sâu vào từng
lớp nghĩa của nhan đề Số đỏ, chân ngựa người, con chó, lô tự thiếu khanh,... Từ đó nhà văn
phanh phui, bốc trần một hiện trạng xã hội đương thời vô số kẻ bất tài, không có đạo đức lại
được danh và lợi trong khi những người có tài, có đức lại bị ức hiếp, lăng nhục thê thảm.

- Vũ Trọng Phụng có sự liên tưởng độc đáo, sử dụng thành công các phép nghệ thuật như so
sánh, ẩn dụ, phóng đại, đối lập...làm cho câu văn hay, lời văn thêm sức thu hút, hấp dẫn, hình
tượng nghệ thuật sống động và phản ánh hiện thực sâu sắc. Tuyết quá sung sướng khi hôn sự
đã định nên nghĩ đến nhảy hồ tự tử. Cái bảng hiệu của tiệm may u hóa Xuân nghĩ đến cái xấu
xa. Ông Phán “mọc sừng” bị vợ phản bội nhưng chỉ thấy bất ngờ vì được chia thêm tiền và có
cơ hội làm ăn lớn. Sân quần vợt mới được xây dựng nên y như gái tân, còn tưởng xây dựng
nên chỉ để phơi quần. Đám tang cụ tô tung bùng được liên tưởng đến sự náo nhiệt vui vẻ ở
hội chợ,... Từ sự liên tưởng riêng độc đáo nhà văn đã lên án, phê phán lối sống lãng mạn
thoát li, phong trào nữ quyền rởm, phong trào thể thao giả dối, bịp bợm; lật mặt bọn văn sĩ
đầu cơ xảo quyệt; đàn ông dâm bôn, đàn bà hư hỏng; con người đóng kịch giả dối, bất nhân,
thiếu tình người.

=> Tóm lại, tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng có phong cách riêng độc đáo thông qua
cái nhìn nghệ thuật về thế giới và con người qua những hình tượng, biểu tượng độc đáo và
qua trường liên tưởng riêng. Từ đó nhà văn thể hiện niềm căm phẫn, lên án gay gắt sự thối
nát, giả dối, bịp bợm và dâm đãng của xã hội đương thời.

Một số biểu hiện khác của phong cách nghệ thuật tiểu thuyết “Số đỏ”

- Tiểu thuyết phóng sự là sự kết hợp giữa hai thể loại tiểu thuyết và phóng sự của văn bản báo
chí, ưu điểm của thể loại mới này là vừa cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu trong đời sống
xã hội, vừa phản ánh hiện thực xã hội. Vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, một số nhà
văn đã thử nghiệm và thành công với thể loại tiểu thuyết phóng sự như Nam Cao, Ngô Tất
Tố, Nguyễn Công Hoan,... nhưng nổi trội hơn hết là Vũ Trọng Phụng. Bởi, Vũ Trọng Phụng
không chỉ bộc lộ khả năng nắm bắt hiện thực một cách rất nhạy bén mà còn phản ánh hiện
thực sâu sắc. Vì vậy, nhiều tác phẩm của ông đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật mà tác phẩm Số
đỏ là minh chứng.

- Vũ Trọng Phụng là nhà văn có cảm quan hiện thực sâu sắc cho nên ông đã phát hiện ra hàng
loạt những mâu thuẫn trào phúng đang diễn ra trong xã hội đương thời như mâu thuẫn giữa
phái mới và cái cũ, lời nói và hành động, nội dung và hình thức, tang gia mà hạnh phúc,...
Trên cơ sở mâu thuẫn nhà văn đã xây dựng hàng loạt những tình huống trào phúng mang tính
độc đáo riêng như tình huống ngẫu nhiên, tình huống gây hiểu nhầm và tình huống vô nghĩa
lí trong tiểu thuyết Số đỏ. Từ đó nhà văn bày tỏ niềm căm phẫn đối với xã hội nửa thực dân,
nửa phong kiến đương thời.

- Tiểu thuyết Số đỏ đa giọng điệu từ hài hước, hóm hỉnh đến suồng sã, giễu nhại và châm
biếm, đả kích. Khi thể hiện giọng điệu đặc sắc này trong tiểu thuyết Số đỏ Vũ Trọng Phụng
mang đến cho văn học những tràng cười giòn giã, sảng khoái nhưng đằng sau tiếng cười nhà
văn đã lật mặt bọn trí thức tân tiến lại văng tục, chửi thề, rủa xả người khác; lật tẩy sự ngu dốt
của những nhà cải cách xã hội; vạch mặt những kẻ bất tài, thất đức nhưng được khen tài,
khoe đức; phê phán những hạng đàn bà lẳng lơ, hư hỏng,... Có thể nói, giọng điệu của tiểu
thuyết Số đỏ mang nét độc đáo riêng, tạo nên phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Số đỏ.

- Có thể khẳng định hệ thống ngôn ngữ trong tiểu thuyết Số đỏ mang nét đặc trưng của tầng
lớp thị dân đang dần lai căng, mất gốc trước sự thâm nhập văn hóa phương Tây. Cụ thể trong
ngôn ngữ đối thoại của nhân vật Xuân Tóc Đỏ, Phó Đoan, Văn Minh, cụ Hồng, cụ bà, Tuyết,
Hoàng Hôn, ông Phán, Lang Tỳ, Lang Phế, sư Tăng Phú, cảnh sát Minđơ, Mintoa, nhà mỹ
thuật (Typn),... mọi điều dối trá, phi lí, tư lợi, tư tưởng nông cạn, hẹp hòi, bảo thủ, phóng
túng, dâm đãng, khoe khoang, ngu dốt, bất nhân, bất hiếu, tân tiến rởm điều bị lột trần. Tiểu
thuyết Số đỏ thể hiện tính mới tính phức điệu, đa thanh với nhiều âm thanh, giọng điệu đan
cài, xen lấn nhau tạo được sức mạnh trong lời phát ngôn của nhân vật để nhằm phanh phui
bản chất thối nát của xã hội đương thời. Vì lẽ đó, ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Số đỏ
góp phần hình thành phong cách tiểu thuyết Số đỏ.

→ Kết luận

- Phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Số đỏ được qua cái nhìn nghệ thuật về thế giới và con
người sắc sảo qua những hình tượng, biểu tượng độc đáo và qua những trường liên tưởng
riêng. Đó là hình tượng nhân vật Xuân Tóc Đỏ điển hình cho hạng người gian manh, đểu
cáng, giả dối, bịp bợm và dâm đãng nhờ số đỏ, vận may một bước lên mây có đủ cả tình, tiền,
học thức, địa vị xã hội. Cụ Hồng điển hình cho hạng người háo danh, khoe khoang, ngu dốt,
bất hiếu âm mưu giết bố để được gọi cụ cố và hưởng tài sản đồ sộ. Bà Phó Đoan điển hình
con buôn trá hình, sống phú quý, hưởng vinh hoa và có bản tính cực kì dâm đãng. Cô Tuyết
đại diện cho kiểu gái mới lãng mạn, trưng diện, lẳng lơ. Ông Phán “mọc sừng” điển hình cho
hạng người không liêm sỉ, hám lợi, bất nhân. Văn Minh đại diện cho những nhà cải cách
rởm,... Cùng với những biểu tượng riêng độc đáo riêng như chân ngựa người, con chó, lô tự
thiếu khanh, Số đỏ, mọc sừng, Tiết hạnh,... trong tiểu thuyết Số đỏ lật mặt những kẻ theo
chân bảo hộ, cải cách rởm, kẻ hạ lưu mượn áo thượng lưu, lối sống, đạo đức văn hóa xuống
cấp trầm trọng. Phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Số đỏ còn được thể hiện qua sự kết hợp
nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, phóng đại, đối lập, trùng điệp,...
làm cho câu văn hay, nội dung hấp dẫn, hình tượng nhân vật sống động và phản ánh hiện
thực sâu sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể qua tên bảng hiệu của tiệm may u hóa với chữ
cái lộn ngược, chữ lộn xuôi và có thẹo chấm ở giữa lại biểu trưng cho sự phồn thực. Người bị
“mọc sừng” rất sung sướng vì được chia thêm tiền “mọc sừng” và được giao dịch làm ăn.
Còn sân quần vợt được xây dựng nên nhằm phục vụ cho phong trào thể thao lại được ví như
những cô gái trinh nguyên, nó còn là nơi lí tưởng để hẹn hò, phơi quần, khoe quần, kích thích
giác quan con người. Đối với không khí náo nhiệt của đám tang người ta nghĩ đến sự tưng
bừng của hội chợ, hỉ sự, tiệc ăn mừng... Có thể khẳng định, phong cách nghệ thuật tiểu thuyết
Số đỏ đã được thể hiện qua cái nhìn nghệ thuật về thế giới và con người thông qua những
hình tượng, biểu tượng độc đáo và qua trường liên tưởng riêng, nó phơi bày, lên án, phê phán
một xã hội thối nát, giả dối, bịp bợm và dâm đãng đương thời.

- Trong tiểu thuyết Số đỏ đã có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa thể loại tiểu thuyết
với thể loại phóng sự của văn bản báo chí để là tăng tính hiện thực nhằm bốc trần những hành
vi vô đạo đức làm trái lương tâm và pháp luật của con người. Cụ thể con cháu âm mưu giết
ông bà, cha mẹ, anh em giết nhau chỉ vì tài sản; con người sống vô cảm, thiếu tình người; nhà
sư phong lưu, bút chiến; lối sống lãng phí, hưởng thụ cực độ; nghiện hút; mại dâm; mặc trang
phục hở hang gây phản cảm; tình trạng buôn bán thuốc trái phép,... nó khiến cho đạo đức
xuống cấp tình hình xã hội phức tạp. Tác phẩm Số đỏ đậm chất phóng sự, nó đã khái quát
được một phạm vi cuộc sống vừa rộng, vừa sâu không thể tìm thấy ở tác phẩm khác cùng
thời.

- Ở tiểu thuyết Số đỏ có nhiều mâu thuẫn trào phúng cứ liên tiếp xảy ra suốt cả hai mươi
chương. Trong đó có sự mâu thuẫn giữa lời nói và hành động, giữa nội dung và hình thức,
giữa mới và cũ, giữa tang gia mà hạnh phúc,... Thế nên tình huống trào phúng được xây dựng
trong tiểu thuyết Số đỏ mang tính độc đáo riêng từ tình huống ngẫu nhiên đến tình huống gây
hiểu nhầm và tình huống vô nghĩa li. Từ đó tiểu thuyết Số đỏ phản ánh tình trạng bất công xã
hội, phơi bày bản chất xấu xa, nhố nhăng, ô hợp, bịp bợm, gian trá của con người trong xã
hội, nhằm tố cáo những người dán nhãn mác cải cách nhưng toàn là một lũ bán nước, hại dân.

- Phong cách tiểu thuyết Số đỏ còn được thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu biến đổi linh
hoạt, sáng tạo mang nét đặc sắc riêng. Về giọng điệu thể hiện trong tiểu thuyết Số đỏ từ hài
hước, hóm hỉnh đến suồng sã, giễu nhại và châm biếm, đả kích. Đó là tiếng cười mỉa mai
những người đàn ông son phấn họ không đáng mặc đàn ông hay con người nhưng lại nói năn
như vẹt. Song song đó nhà văn giễu nhại tính bảo thủ của phái cũ, sự phóng túng của phái
mới. Và nhà văn đã châm biếm, đả kích phong trào thể dục thể thao, phong trào giải phóng
phụ nữ, chuyến thăm hợp tác và hữu nghị của nước láng giềng,... Tất cả hành vi của những
chính khách chỉ là giả dối, chiêu trò bịp bợm, cải cách nửa vời. Ngôn ngữ nghệ thuật là yếu tố
then chốt góp phần hình thành phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Số đỏ. Ngôn ngữ nghệ thuật
trong tiểu thuyết Số đỏ mang tính đối thoại. Bởi bản chất của ngôn ngữ đối thoại giúp đối
tượng giãi bày tình cảm, xóa tan hoài nghi, thích ứng môi trường, tạo mối quan hệ hợp tác và
hiểu rõ về đặc điểm con người thiên về ngoại hình, tính cách, phẩm chất, năng lực trong giao
tiếp. Thông qua ngôn ngữ đối thoại của những nhân vật như Xuân Tóc Đỏ, Phó Đoan, Văn
Minh, cụ Hồng, cụ bà, Tuyết, Hoàng Hôn, ông Phán, gã tình địch của ông Phán, Lang Tỳ,
Lang Phế, sư Tăng Phú, cảnh sát,... tất cả sự giả dối, ích kỷ, hẹp hòi, phô trương, ngu xuẩn, tư
lợi, cơ hội, nhẫn tâm, vô cảm của con người trong xã hội đương thời. Vì thế, ngôn ngữ đối
thoại thể hiện rõ phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Số đỏ. Tiểu thuyết Số đỏ được sáng tác
theo hình thức mới tính phức điệu, đa thanh. Trong tiểu thuyết Số đỏ có nhiều tạp âm, giọng
điệu khác nhau, lời phát ngôn chen lấn, đan cài, cùng bổ trợ, xô đẩy, xung đột, tẩy chay, trừ
khử, bợ đỡ, nịnh nọt, tranh giành địa vị, địa bàn, giật chồng, đoạt vợ, chiếm nhân tình và mồi
chài làm ăn buôn bán,...Nó không phân biệt giọng chính, giọng bè, giọng bình luận, giọng
người kể hay giọng nhà văn, nói chung mọi phát ngôn đều bình đẳng cốt yếu là phơi bày tất
cả sự thối nát, bịp bợm, xảo trá. Có thể nói, chính tính mới tính phức điệu, đa thanh này tạo
nên phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Số đỏ.
NAM CAO (1915 - 1951)
MỘT BỮA NO

Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con.
Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng thế thật. Chồng bà chết từ
khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để
khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết.
Công bà thành công toi.
Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu! Chồng chết vừa mới xong
tang, nó đã phải vội vàng đi lấy chồng ngay. Nó đem đứa con gái lên năm giả lại bà. Thành
thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng
nó. Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu, mà nào được trông mong gì?
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta
lấy mười đồng. Thì cải mộ cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi
buôn, kiếm mỗi ngày dăm, ba xu lãi nuôi thân. Có chạy sạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ
xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy
cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có
đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân
tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên,
hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì
còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.
Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao?
Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có. Nhưng bây giờ yếu đuối
rồi, bà không còn khám được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng
sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con
bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng:
những bà già tính cẩn thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã
không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem
chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên
người ta chán. Người ta nhận ra rằng: thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo
trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu: ác! Những
bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà
xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bè
thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì xì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run
run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi,
quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài
với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm
sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác…
Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá.
Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm
bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu
được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bào: bà chỉ có thể
mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong.
Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã
khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà
về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày
ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi.
Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một
tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia
một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm
nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc
đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm
ép bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ
đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.
oOo
Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghỉ. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà
mới hết đánh, tại bà hết lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ
tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà
phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của
anh con trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con
trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.
Bà nghĩ đến con, để mà ghen với nó thêm lần nữa, trong khi ngồi nghỉ ngoài đầu ngõ nhà bà
phó Thụ. Ngoài đầu ngõ nhà bà phó Thụ, có một cây sung lớn. Bà tựa lưng vào gốc. Từ đầu
ngõ vào đến nhà, còn những hai lần cổng. Có gọi thật to, ở trong nhà mới nghe tiếng. Mà bà
thì còn hơi sức đâu mà gọi? Tiếng bà bải hải. Hơi nói to một chút, nó đã ra đằng lỗ tai. Vả lại,
chó nhà giàu dữ lắm. Nhà bà phó Thụ có những hai con chó đẫy đà, lực lưỡng. Lúc thiến,
người ta rắc mảnh chai tán nhỏ vào. Vết thiến lành dúm mảnh chai ở bên trong gây cho con
vật một nỗi đau ngứa ngáy, suốt đời không khỏi. Nỗi đau làm tội nó. Nó bứt rứt, khổ sở, cáu
kỉnh, nên bạ thấy người nào lại nào cũng lăn xả vào chân, hoặc một miếng, rây thịt người ta
cho hả giận. Trời ơi! Những con chó nhà bà phó Thụ, chúng dữ ghê gớm lắm. Bà lão nghĩ
đến chúng còn chết khiếp. Cái lần bà đưa cái đĩ vào, một người nhà phải cầm một cái gậy to
tướng ra đe. Ấy thế mà cả ba con cũng hồng hộc chạy ra. Chúng vây lấy bà già rách rưới.
Con nào cũng uốn cong cái lưng xuống, hếch cái mõm đen thui lên, nhe ra những chiếc răng
trắng hơn hớn và nhọn sắc. Bị cái gậy của người nhà cản lại, chúng càng tức tối. Chúng lồng
lộn chung quanh. Chúng nhảy chồm lên. Chúng ngoạm những cái cột giậu, kêu sồn sột.
Chúng lay thật mạnh, hục hặc như muốn bẻ gãy cái cột, để lao vào đầu người ta… Bà lão với
đứa cháu cứ rúm cả tay chân lại. Cháu nép vào bà, bà nép vào người bà phó Thụ. Chị người
nhà thì luôn tay vụt cái gậy bên này, bên nọ, đằng sau, đằng trước, và quát mắng. Ấy thế mà
một con chó còn xông vào được, và chỉ một tí nữa nó xơi chân bà một miếng. Nhưng chị
người nhà đánh kịp. Nó mới đấm được mõm vào cái bắp chân gầy đét của bà lão thôi. Hú
hồn!… Bây giờ dám gọi sao? Chó thính tai mà lại rất mau chân. Chúng xộc cả ra thì khốn.
Ấy thế là bà lão đành ngồi đợi dịp. Cái đĩ bế em ra ngõ chơi chẳng hạn… Hay là có người
nào trong nhà đi đâu… Hay là có người đàn ông khỏe mạnh nào đến nhà bà phó Thụ, để cho
bà đi ghẹ… Bà ngồi rỗi, tưởng tượng ra đủ mọi cái may mắn tương tự thế. Chỉ còn mỗi một
cái bà chưa nghĩ đến: ấy là lúc chính bà phó Thụ ra, hoặc đi đâu về. Thì chính bà phó Thụ đi
chợ về. Mới thoạt trông thấy bà lão, bà tưởng là một con mẹ ăn mày. Bà hơi cau mặt:
- Ai kia? Ai ngồi làm gì kia? Chó nó ra, nó lỗi mở ra cho đấy. Sao mà bạo thế?
Bà lão quay lại mỉm cười móm mém:
- Bẩm bà đi chợ về!…
Bà phó Thụ mở to đôi mắt đỏ ngầu, nhìn kĩ hơn một chút. Bà nhận ra bà cái đĩ ở. Tức thì mặt
bà nguỷu xuống. Bà lão này còn muốn quấy quả gì nữa đây? Để vòi tiền thêm chăng? Bà lão
rên một tiếng và chống tay lên đầu gối, bẩy rẩy đứng lên. Bà phó hỏi:
- Bà đi đâu thế?
Bà lão lại rên tiếng nữa để mở đầu câu nói (bà rên cũng như một vài người khác bạ lúc nào
cũng thở dài. Cái ấy thành thói quen).
- Bẩm bà, con lên chơi với cháu. Lâu lắm, cháu không được về, con nhớ cháu quá!
- Úi dào ôi! Vẽ cái con chuột chết! Nó phải làm chứ có rỗi đâu mà bà chơi với nó? Nhà tôi
không có cơm cho nó ăn để nó cứ nồng nỗng nó chơi. Bà muốn chơi với nó thì đem ngay nó
về nhà, tìm cơm cho nó ăn, bà cháu chơi với nhau vài ba tháng cho thật chán đi, rồi hãy bảo
nó lên. Tôi không giữ. Bà tưởng nó đã làm giàu làm có cho tôi rồi đấy, hẳn?
Bà cần phải nói ráo riết ngay để chặn họng, không cho bà lão mở mồm vòi vĩnh. Bà lão bị
những lời tàn nhẫn ấy hắt vào mặt quả nhiên không còn nói sao được nữa. Bà cúi đầu, như
một con mẹ ăn cắp lúa, bị tuần xương tóm được. Bà phó chiếp chiếp mồm luôn mấy cái, rồi
vác mặt lên trời mà bảo:
- Chơi với bời! Cái lúc nó mới đến, trông như con giun chết, cạy gỉ mũi còn chưa sạch thì
không thấy chơi với bời. Người ta nuôi mãi, bây giờ mới trơn lông đỏ da một tí, đã phải đến
mà giở quẻ. Tưởng báu ngọc lắm đấy! Tưởng người ta đã phải giữ khư khư lấy đấy!… Cúi
chào! Có phải mả tổ nhà người ta đâu mà người ta giữ? Muốn bắt nó về, cho nhà nào nó nuôi
làm bà cô tổ nhà nó thì cứ bắt. Ai người ta thiết? Cứ trả lại tiền người ta!…
Bà lão rưng rưng nước mắt. Khốn nạn, bà có ý quắt quéo thế đâu? Bà lão mếu máo:
- Bẩm bà, bà dạy thế thật oan cho con quá. Trời để con sống bằng này tuổi đầu, con còn dám
lừa lọc hay sao? Thật có trời trên kia làm chứng, nếu con quả định đến đây để dỗ dành cháu
về để đem cho người khác thì trời cứ vật chết con đi! Con chỉ xin bà cho được trông thấy
cháu, bà cháu chơi với nhau một lúc. Cũng chẳng còn mấy chốc nữa mà con chết, con cũng
tưởng đi chơi dối già một bận…
- Nó không được rỗi mà chơi với bà. Chẳng chơi bời gì cả! Bà đã trót lên thì vào đây, tôi cho
một bữa cơm. Bận sau thì đừng vẽ con khỉ nữa. Nhà tôi không có thói phép cho chúng nó như
thế được. Con tôi đi học tại Hà Nội, và tôi cũng phải nay ra chơi, mai ra chơi với nó đấy! Đã
đi ở mà còn không biết phận… Chơi với bời!…
Môi bà lại chiệp chiệp và chìa ra…
oOo
Cái đĩ vừa trông thấy bà, mừng rối rít. Nó cười rồi nó khóc chẳng biết vì sao cả. Nhưng đôi
mắt khoằm khoặm của bà phó Thụ dội nước vào lòng nó. Nó tự nhiên ngượng nghịu. Nó
không dám xoắn xuýt bà nó nữa. Nó cúi đầu, khẽ hỏi:
- Bà đi đâu đấy?
- Bà đến xin bà phó một bữa cơm ăn đây! Bà đói lắm.
Câu nói rất thật thà ấy, bà lão dùng giọng đùa mà nói. Như thế người ta gọi là nửa đùa nửa
thật. Một cách lấp liếm cái ý định của mình bằng cách nói toạc nó ra. Cái đĩ bế em, dắt bà ra
đầu trái, để không bị ai nhìn nữa…
- Da bà xấu quá! Sao bà gầy thế?
- Chỉ đói đấy thôi, cháu ạ. Chẳng sao hết.
- Lớp này bà ở cho nhà ai?
- Chẳng ở với nhà ai.
- Thế lại đi buôn à?
- Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được. Người nhọc lắm.
- Thế thì lấy gì làm ăn?
- Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn!
Bà cháu mới kịp trao đổi với nhau từng ấy câu thì bà phó đã the thé hỏi:
- Nó bế em đi đâu rồi?
Ấy là dấu hiệu bà sắp gọi. Cái đĩ vội đặt em xuống đất, bảo:
- Bà giữ nó hộ con một tí.
Nó cởi dải yếm lấy ra một cái túi rút con con. Trong túi xóc xách mấy đồng trinh. Nó rút ra,
đếm lấy hai xu, giúi cho bà…
- Con biếu bà để bà ăn bánh đúc. Bà về đi!
Tiếng bà phó giục:
- Cái đĩ đi đâu rồi? Đem em về đây, rồi quét nhà, dọn cơm.
- Vâng!
Nó tất tưởi bế em chạy về. Bà lão hãi chó, lẽo đẽo đi theo cháu. Bà phó trông thấy mà lộn
ruột. Bà xa xả:
- Bà đừng theo đít nó thế. Bà cứ ngồi một chỗ rồi mà ăn cơm, Khiếp thật thôi!
- Vơơơng!…
Bà lão “vâng” thành một tiếng rên. Bà vào nhà, ngồi xón vén vào một xó ngay xuống đất. Bà
phó cất lấy con. Cái đĩ lụt cụt chạy xuống nhà dưới. Một lát sau, tiếng đũa bát bắt đầu lạch
cạch… Bà phó bảo:
- Bà xuống dưới này mà ăn cơm.
Bà bế con ra. Bà lão theo sau. Tiếng khung cửi đã ngừng. Mấy cô dệt cửi đều là con gái hoặc
con nuôi bà phó Thụ, đang tới tấp, cô xới cơm, cô bỏ rau, cô sẻ mắm, chung quanh cái mâm
gỗ đặt ngay trên mặt đất. Cả nhà quây quần vào, chỉ ngồi có một mâm. Bà lão chẳng đợi ai
phải bảo, ngồi ngay xuống cạnh cháu, tay run run so đũa. Trông bà so đũa mà ngứa mắt! Bà
phó muốn giật xoét lấy làm thật nhanh cho đỡ bực. Nhưng bà nhịn đuợc. Bà chỉ chép miệng
và lừ lừ đôi mắt, tỏ ý khó chịu. Cái đĩ hiểu nên chỉ nhìn xuống đất. Nó giận bà nó lắm. Nó đã
bảo bà nó về đi mà bà nó không chịu về…
Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hầm hầm. Lũ con gái, con nuôi, con
ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát
cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:
- Mời bà phó…
Nhưng bà vừa mới há mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:
- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!
Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt.
Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà
lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả
mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:
- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!
Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai
lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi nguời khác cũng
thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy. Thật ra thì lệ mỗi người chỉ
được ăn có ba vực cơm thôi. Mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen
sống vô tổ chức, làm gì hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn
như vậy? Bà đoán rằng họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất
bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy
thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì
dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật. Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy
miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
À! Bây giờ thì bà lão hiểu. Người ta đứng lên tất cả rồi. Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà
phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí
tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi
bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc.
Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?
- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa.
Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?
Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà
rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới
thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thỏa thích. Mồ hôi bà toát
ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta
cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì
người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
oOo
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức
bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ
càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà
quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.
Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc
sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì
không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà
đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà
chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài
học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ
chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…

Phân tích:
- Trong Một Bữa No ta thấy Nam Cao đã xây dựng nhân vật Người Bà luôn gặp những
vận rủi trong cuộc sống. Sớm góa bụa, một mình gà mái nuôi con, nhưng niềm hy
vọng duy nhất cũng sớm tắt lịm. Đứa con mà bấy lâu nay bà đã thắt lưng buộc bụng
chăm lo cho nó nhưng chưa được nhờ cậy gì nó đã vội ra đi bỏ bà bơ vơ. Sự cùng cực
đến thế thì thôi! Nhưng dường như định mệnh vẫn chưa buông tha bà, đứa con dâu
bất nhân chồng chết vừa mới xong tang, nó vội đi lấy chồng ngay,để lại cho bà đứa
cháu nội vừa tròn năm tuổi, thế là bà lại phải gồng gánh nuôi đứa cháu dại. Thời gian
dần trôi, đứa cháu giờ đã khôn lớn và đã biết đi ở mướn giúp bà vơi bớt nỗi cơ cực.
Số vào món tiền mọn từ công đi ở của đứa cháu bà dùng làm vốn đi buôn sống đắp
đổi qua ngày. Buôn gánh bán bưng, đi ngược về xuôi suốt ngày cũng chỉ đủ ăn chứ
chẳng tích cóp, dành dụm được gì. Cuộc sống ấm no chẳng được bao lâu thì bà lại
lâm bệnh, số vốn ít ỏi của bà theo cơn bạo bệnh mà biến mất, bà chỉ còn hai bàn tay
trắng với một thân xác gầy mòn ốm yếu. Không còn sức lực, tiền của cũng hết bà
đành mang tấm thân mệt nhọc của mình đi ở đợ để tìm hai bữa cơm. Thời gian đầu
còn có người chịu mướn, nhưng vì tuổi cao, sức yếu nên bà không kham nổi công
việc. Vì thế cho nên: Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần
đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng
năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào.Thế
rồi bà thất nghiệp, nhờ vào năm đồng tiền thương hại mà người chủ cuối cùng cho bà,
bà sống lay lắt qua ngày. Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn
được ngày ba tấm. sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Đến nước này bà đành lê
tấm thân tàn tạ của mình ra chợ xin ăn. Mới đầu mọi người còn thương hại cho bà ăn,
nhưng lòng thương của thiên hạ cũng có giới hạn. Dần dà bà không còn xin được nữa,
và điều không nên xảy ra đã xuất hiện, không còn cách nào kiếm được miếng ăn bà
đành ôm bụng nhịn đói.
- Ông bà ta nói “cái khó ló cái khôn”. Trong lúc cùng quẫn nhất, tuyệt vọng nhất bà
chợt nhớ mình còn đứa cháu. Như Buồn ngủ gặp chiếu manh, bà hồ hởi ra đi. Tuổi già
sức yếu, lại nhịn đói mấy hôm rày nên cuộc hành trình của bà vô cùng khó nhọc. Tuy
nhiên nghĩ đến miếng ăn, được ăn nên bà phải cố gắng. Đúng là không gì đáng sợ hơn
cái đói! Cái đói có thể làm biến chất, hủy hoại nhân cách con người. Chính vì đói mà
bà Cái Đĩ trong lúc sức tàn lực kiệt cũng phải lê bước đi để tìm cái ăn. Mò mẫm mãi
bà cũng đến được nhà bà phó Thụ nơi Cái Đĩ đang ở. Nhưng nhà giàu thì thường cổng
cao rào kín, lại lúc nào cũng có một bầy chó hộ pháp để giúp gia chủ được ăn ngon
ngủ yên. Và nhà bà phó Thụ cũng không ngoại lệ, để vào được nhà phải qua hai lần
cổng, nhưng đáng ngại hơn là làm thế nào để qua mặt được những con chó hung tợn
đang lăm lăm bộ nanh trực chờ đốp lấy con mồi. Không có cách nào vào được nhà, bà
đành ngồi chờ vận may xem có người trong nhà đi ra hoặc có ai vào để vào theo. Cuối
cùng bà cũng vào được nhà nhờ sự trợ giúp của bà phó Thụ.
- Thế rồi điều bà mong đợi đã đến. Bữa cơm dọn ra, bà cũng được mời cùng ăn. Nhưng
vì nhịn đói lâu ngày, tay chân run rẩy, bà lống ngống như đứa trẻ mới tập cầm đũa,
không làm sao gắp thức ăn được, làm đổ tháo cả ra mâm. Nóng tiết trước sự vụng về
của bà cái đĩ, bà phó Thụ ra lệnh: Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm
cho bà ấy. Mặc dù bị khinh bỉ, chỉ trích suốt bữa ăn nhưng bà vẫn không thấy xấu hổ
và ăn một cách ngon lành. Trong khi mọi người đã nghỉ bà vẫn miệt mài ngồi ăn, ăn
như chưa bao giờ được ăn! Bà tự an ủi mình: Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào
cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Dường như vì lâu quá không được ăn cơm
(trước đó hơn ba tháng bà chỉ ăn toàn bánh đúc), nên bà ăn mãi vẫn không thấy no.
Những bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí tiết. Vả đã đi ăn trực thì còn
danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm
vừa hết. Đã thế bà vẫn còn thấy tiết mấy hạt cơm còn sót lại trong nồi, thế là bà ăn
nốt. Ừ, thì bà ăn nốt vây! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rắm nốt.
- Sau bữa ăn huy hoàng, bà về nhà với cái bụng căng tròn đầy mệt nhọc. Có lẽ vì bà ăn
quá nhiều, lại ăn mặn (ăn mắm) nêm bà uống rất nhiều nước mà vẫn còn thấy khát.
Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm
tức bụng. Điều đó làm cho bà khó chịu vô cùng, bà đau bụng, bà thổ, bà tả,…kéo dài
nửa tháng thì bà chết. Cái chết no nhưng hèn hạ, tủi nhục. Trong cơn đói khát hành
hạ, bà không còn giữ được nhân phẩm, bà đã ăn một bữa ăn đầy tủi hờn, để rồi chết
một cách nhục nhã. Bà vốn là một người nhân hậu, hiền lành nhưng định mệnh cuộc
đời đã cướp đi của bà quá nhiều khiến bà phải lâm vào hoàn cảnh bần cùng, đói khát.
Bà đã không còn giữ được phẩm chất của mình, bà đã bị cái đói làm cho tha hóa, biến
chất. Người Bà Trong Một Bữa No chỉ là một cá nhân tiêu biểu trong số rất nhiều con
người cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự trong xã hội Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám. Họ vốn là những người lương thiện, nhưng sự hà khắc của chế độ phong
kiến cùng với sự bóc lột của bọn thực dân đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện.
- Trong những sáng tác của Nam Cao trước cách mạng, hình tượng người nông dân
hiền lành bị biến chất, tha hóa do sự tàn nhẫn, hà khắc của chế độ phong kiến là rất
nhiều. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ khảo sát hai tác phẩm Một Bữa No và
Tư Cách Mõ do đó những tác phẩm cùng đề tài khác chúng tôi chỉ đề cập đến chứ
không đi sâu vào nội dung.
- Trên đây chúng tôi đã tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao qua tác phẩm Một
Bữa No mà cụ thể là thông qua nhân vật người Bà. Tiếp theo đây chúng tôi sẽ khảo
sát tác phẩm Tư Cách Mõ nhằm góp phần củng cố thêm cho cơ sở lí thuyết nêu trên.
- Tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám thiên hẳn về thân
phận của những người nông dân thấp cổ bé họng. Ông đồng cảm đến lạ lùng với
những thân phận con người thấp hèn trong xã hội. Những nhân vật của Nam Cao phần
lớn đều là những người lương thiện, nhưng do không đủ sức đề kháng trước những
cạm bẫy của chế độ xã hội nên họ dần bị biến chất và tha hóa. Tiêu biểu cho những
nhân vật như thế là anh cu Lộ trong Tư Cách Mõ. Anh vốn được sinh ra trong gia
đình quan viên tử tế. Anh sống rất tử tế, hiền lành, không cờ bạc rượu chè nên được
mọi người yêu mến. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ
chăm chắm, chúi chúi làm để nuôi vợ, nuôi con. Mặc dù gia đình nghèo khó nhưng
anh tịnh không táy máy tay chân, trộm cắp đồ hàng xóm cho dù nó có bày ra trước
mắt. Những túng thì súng thật, mà bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ làm mà ăn với nuôi
vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của ai. Cái sự túng làm liều, anh tịnh là
không có. Nhà hàng xóm có con gà, con vịt chạy sang, hoặc buồng chuối, quả mít liền
kề ngay với giậu nhà anh, anh cũng mặc thây, không hề có cái tính tắt mà, tắt mắt.
Nói cho phải thì anh cu Lộ ăn ở phân minh lắm. Bởi vậy kẻ trên, người dưới, hàng
xóm láng giềng ai cũng mến. Hiền đến thế, sống thanh bạch đến thế thì thôi! Nhưng
cuộc sống không ai nói trước được điều gì. Anh cu Lộ từ một anh nông dân chất phác,
hiền lành bỗng trở thành một anh mõ tham lam đê tiện, điều đó tại nơi lòng người
nham hiểm, tục lệ xã hội thối nát mà ra.
- Lộ trình từ một anh nông dân lương thiện trở thành một tên mõ tham lam của anh cu
Lộ được bắt đầu từ câu chuyện của họ đạo Lưu An. Họ đạo Lưu An có khoảng sáu
mươi suất đinh thì đã có quá nữa là quan viên. Vì danh dự, sĩ diện chả ai chịu làm mõ
cả, (mõ là việc làm bị cho là thấp hèn vì phải đi mời mọi người khi có yến tiệc, họp
hạt). Người bên lương, tất không ai chịu làm mõ cho bên đạo. Mà người bên đạo tật ai
chịu làm mõ ngay trong họ mình? Nhưng cuối cùng họ cũng giải quyết ổn thỏa bằng
cách thay cách gọi tên mõ bằng lềnh. Có như thế mọi người mới chịu làm vì họ cho
rằng không bị sỉ nhục. Nhưng một hôm trong họ đạo xảy ra một sự kiện, có một tên
vô gia cư không biết từ đâu đến làm thuê cuốc mướn không may vợ mất. Vì anh ta
không phải người họ đạo nên làng không chịu cho chôn vợ, anh ta nài nỉ van xin mãi
họ mới chấp nhận. Sau khi chôn cất vợ, anh ta được nàng cho làm sao để thay cho
người lềnh.
- Mãi về sau khi người sãi qua đời, người trong đạo cùng với thời gian đã quên bẵng lệ
lềnh ngày xưa. Đến lúc này họ mới sốt sắng tìm người thay thế, và ngưởi được nhắm
đến là anh cu Lộ. Dựa vào nhược điểm của anh là nghèo khó, người ta đã vẽ vời, bày
ra những thứ lợi lộc để nhử anh. Lộ đến. Người ta kể tất cả những cái lợi lộc ra để
nhử. Rồi người ta lại cố cắt nghĩa cho anh hiểu: làm sãi chẳng có gì là nhục, cũng là
làm việc họ đấy thôi; ai cũng ngại không chịu đứng ra cáng đáng, thì mình đứng ra
cáng đáng giùm cho cả họ; có phải mình tham lợi, tự nhiên đem trầu cau đến xin làm
đâu mà sợ tiếng?…
- Không, thế này, anh cu a: giá anh cầu cạnh để làm thì còn có người nói được. Đằng
này anh không cầu cạnh, chúng tôi gọi anh đến, cho làm, thì việc gì anh không làm?
Ấy là tất cả các cụ, cùng quan viên trên, quan viên dưới đều mến cái bụng anh hiền
lành… Anh cứ làm.
- Vốn hiền lành, chất phác lại ít học, nghe những lời đường tiếng mật anh cu Lộ gật gù
thích chí và đồng ý làm sãi. Ôi, người đời thật nham hiểm! Ai cũng muốn mình được
hưởng những điều tốt đẹp và đùn đẩy những khó khăn, hèn hạ cho người khác. Họ
cậy quyền, ỷ thế để chèn ép những người thua thiệt về địa vị, kinh tế. Anh cu Lộ chỉ
vì nghèo cùng với sự hiền lành đến khờ khạo của mình nên bị người khác lừa gạt gán
ghép cho việc làm mà hầu hết mọi người đều né tránh vì cho là hèn hạ.
- Cuộc đời làm mõ của anh cu Lộ thăng tiến rất nhanh, cuộc sống của anh sung túc
khấm khá hẳn lên. Và quả nhiên, hắn làm được ít lâu thì nhà đỡ xơ dụi hơn trước thật.
Bởi vì hắn chăm chỉ lắm. mấy sào vườn họ cho, hắn cuốc xới rất kĩ càng. Hắn làm
ngô, làm mía được mấy vụ tốt luôn. Tiền của họ cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn.
Thói đời nghĩ cũng lạ, khi cần thì chẳng ai chịu làm đến khi người làm được thì tỏ ra
tiếc nuối, ghen tị. Ông bà ta thường nói trâu buộc ghét trâu ăn quả thật chẳng sai. Anh
cu Lộ nhờ làm mõ mà khấm khá hẳn lên, nhưng cũng từ đó anh bị mọi người hiềm
khích ghen tị. Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới sinh ra tiếc. Họ thấy Lộ làm
sãi ngon ăn quá. Họ ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng người nào bảo người nào, họ
vô tình về hùa với nhau để báo thù.
- Mọi người bắt đầu coi khinh Lộ, phân biệt đối xử, xem Lộ như một người hèn hạ
không xứng đáng được giao tiếp với họ.Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui
miệng nói chõ vào một vài câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt
chuyện…Sự rẻ khinh, lạnh nhạt của mọi người đối với anh cu Lộ ngày một lớn thêm,
điều đó vô hình chung đã tạo nên vết thương nơi tâm hồn Lộ, anh cảm thấy xấu hổ và
mặc cảm trước hành động của mọi người. Ý định thoái thác trách nhiêm nảy sinh
trong đầu anh, nhưng anh vẫn cảm thấy tiếc cơ ngơi mình tạo dựng nên. Hắn thở
ngắn, thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ cho đỡ tức. nhưng
nghỉ thì cũng tiếc. Hắn chăm cái vườn tốt lắm rồi. Để thằng khác ăn, nó hoài đi. Hắn
lại tặc lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!…”.Hành động đó cho ta thấy anh
cu Lộ cũng là một người biết coi trọng liêm sỉ, biết thế nào là nhục là vinh. Tuy
nhiên , sự rẻ rúng, miệt thị của mọi người dần làm cho tâm hồn anh chay san, tha hóa.
- Như để chống lại sự khinh bỉ, lạnh nhạt của một người, anh cu Lộ dần trở nên đanh đá
hơn, sắc cạnh hơn. Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng
mày nói chán! Ông cần gì!…” Sức chịu đựng của con người có giới hạn, tức nước vỡ
bờ. Đến lúc này anh cu Lộ đã trở thành mõ chính hiệu, đúng với tư cách mõ. Hắn bắt
đầu trả thù cho sự ghẻ lạnh của mọi người bằng cách tham lam. Muốn báo thù lại
những ảnh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấy một cỗ thật to để các
anh trông mà thèm.
- Từ đấy cuộc đời làm mõ của anh cu Lộ rẽ sang hướng khác, tiến bộ hơn, thành công
hơn. A! Họ bảo hắn là mõ vậy!… Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!… Từ đấy, không
những hắn đòi cổ to, lúc ăn hắn còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. không
đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm cổ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết,
còn hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu để lại ăn
hai, ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khỏe đi!
- Ở cuối tác phẩm ta thấy có một phát ngôn mang tính triết lí của Nam Cao và phần nào
cũng bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của
chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người
không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách
rất diệu để khiến người sinh đê tiện…

ĐỜI THỪA

Từ ngẩng đầu lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đang
đọc chăm chú quá. Ðôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút.
Ðôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Ðôi lưỡng quyền (1) đứng sừng sững
trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như
vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ
tợn. Từ thấy sợ...
Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Từ
bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi
xuống nỗi đau khổ của Từ. Hộ đã cúi xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm
yếu của Từ, giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới
đẻ. Gã tình nhân vô liêm sỉ (2) ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã tin
như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và xác thịt. Và khi
biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may: Từ rất bằng lòng. ấy thế
mà hắn đã phụ từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn, ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để
bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật
rành rành. Rồi khi sự sửng sốt qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ
còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai,
trừ bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm
sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con, và cả mẹ
lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước
mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ. Hộ nuôi
Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu
lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng ra làm ma cho bà mẹ
Từ, khi bà cụ mất. Biết bao nhiêu là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có
làm nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm
trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải
sung sướng lắm.
Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy
được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao
nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng
của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực
khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say
mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn (3). Hắn khinh những lo lắng
tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn
đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ
thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến
một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép
đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị
của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói
rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần
lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài
báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một
đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình
như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là
một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là
một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã
viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn
một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn
chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người
thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì
buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một
cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo
cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy
sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn
nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: "Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho
mạnh mẽ". Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy
sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu
nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải
là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác
để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn
biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?... Hắn
tự bảo: "Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn!
Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!". Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác
đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và
quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm
một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà
không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội
quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính
mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi
bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt
nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán
nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát
nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói
chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các
báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực
hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ
mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u
buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày
xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: "Thôi thế là hết!
Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi". Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những
tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng
hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn...
oOo
Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường
hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo,
tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải
chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối
xuống gáy hắn, và cố nhấc chân, nhấc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại... Nhưng cũng
có đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt.
Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón tay trỏ vào
trán Từ và dọa như người ta dọa trẻ con:
- Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình
ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan
nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con
mẹ nữa, con mẹ là mình ấy... cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi
ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ
khổ thằng này thôi!
Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn vào tận mắt Từ. Từ
chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống, như một đứa trẻ con biết mình có
lỗi khi nghe người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng trộ một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi
quần, cởi áo, hắn vất bừa bộn xuống giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào
một xó nhà. Có khi máy tay, hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về
tội không biết thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng
lên, treo quần áo cho hắn lên mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vứt lổng chổng ra đầy
nhà.
Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao. Từ đoán chồng nghe ai nói nên ghen bóng, ghen
gió chi đây. Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng
hôm sau, hắn không để cho Từ phải nói. Hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén hôm qua, hỏi Từ
về những thủ đoạn vũ phu của mình rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một
người cha tốt. Hắn tuyên bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say
như lần trước để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi, Từ
quen đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra cho
chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm
khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Ðã nhiều lần Từ muốn ẵm con
đi. Ðã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hy sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu
biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm thông thường của đàn bà. Từ rất
yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ
ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Ðối với
các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo
mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng
vồ vập lắm... Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn: nghĩ thế
nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải thổn
thức đến bật tiếng khóc ra được rồi... Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ
nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng.
Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng.
Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không
dám nói lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.
CaoNhưng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc,
ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Ðôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách
đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười. Hắn bảo:
- Này, Từ ạ... Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi
khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu
bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi
được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn
ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình
tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!... Mình
có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như thế này...
Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn định nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu
được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn
nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:
- Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?
- À phải! Hôm nay mồng ba... Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên... Tôi phải đi xuống phố.
Từ nhắc khéo:
- Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến...
Hộ sầm mặt lại:
- Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn
quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.
Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần hắn bực tức hay chán
nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử hết tiền sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng,
nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ
hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con
quá, và ân hận vì mình đã tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không
ra khỏi nhà để chẳng phải tiêu thêm tí gì...
Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:
- Nhất định hôm nay không đi đâu cả... Lấy tiền xong là về ngay...
Nhưng Từ bảo:
- Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai
trả tiền rồi lấy thêm luôn một thể... Em không để cơm mình đâu đấy... Nhà chẳng còn gì ăn...
Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người
bạn... và khi ấy thì... ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!... Hắn sẽ uống rất khỏe,
nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một
chút rồi hắn bảo:
- Ðược! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.
- Ðừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.
- Ðừng ăn trước... Ðợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói
khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.
- Vẽ chuyện!
Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và
mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ giũ mấy cái bụi ở
tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.
Ở tòa báo ra, Hội đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt, vài cái bánh
tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát,
rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và môi bóng nhờn những
mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thỏa thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn
chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt... Ðến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ
dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và
nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!... Không! Không có gì đáng ngại,
ngoài đường phố... Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả... Hắn đành đợi vậy.
Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào
gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng
lẽ và Mão cười ầm ĩ, cùng đưa tay cho hắn bắt:
- Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?
Hộ ấp úng:
- À! Các anh!...
- Không theo gót sen nào đấy chứ?
- Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi và đến muôn năm cũng vẫn
còn trinh bạch.
- Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.
- Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?
- Chẳng theo nàng nào cả!
- Thế thì đi theo hai thằng này!
Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:
- Làm chi?
- Chẳng làm chi cả!
- Thế thì đệ kiếu. Ðệ phải về kẻo hết tàu điện.
Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:
- Sao lại có người điên đến thế? Về giữa lúc chiều thì đẹp mà phố thì vui thế này!
Hộ trở nên đứng đắn:
- Không đùa nữa... Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.
- Ờ! Nói vậy còn dễ nghe... Thôi thế anh về nhé!... Nhưng mà... này! Anh đã biết gì chưa?
Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung...
- "Ðường về" sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản quyền (4) tác giả ba nghìn đồng.
Hộ trợn mắt lên. Người hắn bổi hổi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung:
- Có đích không?
- Ðích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem.
Hộ có vẻ hoài nghi:
- Không mà lại!... Tôi biết lắm... Nhưng lại đằng này đã, về làm gì vội? Chúng mình làm cốc
bia...
Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển "Ðường về" của
Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát
ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia
xuống mặt bàn:
- Cuốn "Ðường về" chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì
muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng
lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là
một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái (5), sự công bình... Nó
làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không?
Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi,
nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel (6) và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!
Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng
lên vì hứng khởi (7). Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về,
Hộ bảo luôn:
- Thong thả đã! Ði đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu... Tôi có tiền...
oOo
Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu
nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để
uống. ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao
nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây
sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột
nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà... Chắc hẳn
trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ
lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm
quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo
về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo.
Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng
thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ.
Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại
gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi
xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm.
Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi
má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng
nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay,
những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh.
Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... một vẻ
bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì
để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như
nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc
nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào
ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và
Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi
hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng
khóc:
- Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...
- Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...
Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai
Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn
ướt lệ, Từ dỗ nó:
- A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương...
Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:
Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…

Phân tích:

- Truyện ngắn Đời thừa là truyện ngắn tập trung đi sâu vào tấm bi kịch tinh thần đau
đớn ,dai dẳng của người trí thức nghèo khao khát một cuộc sống có ý nghĩa ,ôm ấp
một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương có ích cho xã hội ,nhưng rút cục chỉ vì
gánh nặng cơm áo gia đình mà phải sống một cuộc sống vô nghĩa ,vô ích ,một đời
thùa chẳng những thế ,trong tâm trạng bế tắc đau khổ ,con người có tấm lòng vô cùng
nhân hậu và cõi tình thương là trên hết ấy đã nhiều lần có thái độ phũ phàng thô bạo
với vợ con, vi phạm về lẽ sống tình thương của chính mình .Trong cả tác phẩm Nam
Cao đã có một cách nhìn ,một cái nhìn rất thông cảm cho những nhân vật trong tác
phẩm của ông .Nhung nhân vật trong truyện của ông đều rất đáng thương ,là những số
phận đau khổ ,điển hình là nhân vật Tù và Hộ .Hộ là đại diện cho tầng lớp trí thức
nghèo trung thực sống trong một hoàn cảnh bế tắc ,cố vươn lên để giữ cũng lẽ sống
nhân đạo .
- Hộ là nhà văn nghèo vì thương người nên anh đã lấy Tù sau một thời gian sống hạnh
phúc ,Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi ,sau những hành vi tốt đẹp hắn dành cho
Tù ,và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, nhưng do gánh
nặng gia đình trĩu xuống đôi vai gầy của hắn ,hắn trở nên phũ phàng thô bạo với vợ
con .
- Nam Cao đã hoá vào nhân vật Hộ để an ủi và chia sẻ ,giúp đỡ Tù lúc khó khăn nhất
mà Tù gặp phải ,lúc mà gã tình nhân bỏ Tù với đứa con mới đẻ à Từ phải nuôi một bà
mẹ già .Hộ giang tay ra cứu giúp Tù như một ân nhân .Hộ là đại diện cho tầng lớp trí
thức nghèo sống cuộc sống ''Đời thừa''
- Qua đây Nam Cao cho ta thấy được cách nhìn của ông đối đối với con người sống
trong xã hội phong kiến ,xã hội ngột ngạt bóp chết mọi ước mơ, cướp đi ý nghĩa cuộc
sống chân chính của con người ,đồng thời đã đầu độc tâm hồn con người ,làm cho
quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người bị mất đi. Mặt khác Nam Cao cho ta
thấy sự đấu tranh tư tưởng của người trí thức trung thực sông trong hoàn cảnh bế tắc
cố vươn lên. Qua Hộ Nam Cao đã phát biểu trực tiếp nhiều ý kiến tiến bộ sâu sắc về
quan điểm nghệ thuật của ông.
- Từ những quan niệm về sợi dây liên kết giữa cuộc đời và nghệ thuật, NC đã có những
khái quát về quan niệm mang tính triết lí, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải
thể hiện được những rung động của đời, đó là tác phẩm vượt lên trên tất cả các bờ cõi
và giới hạn, phải là tác phẩm chung cả cả loài người, Nó phải chứa đựng một cái gì đó
lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. NC cho rằng nghề văn là nghề đòi
hỏi sự sáng tạo không ngừng của nghệ sĩ để tạo ra những điều mới mẻ, có ý nghĩa …
- Có thể nói đời thừa không chỉ thể hiện tấn bi kịch tinh thần không lối thoát của người
tri thức mà còn là tuyên ngôn nghệ thuật của NC. truyện ngắn có chất tiểu thuyết ở
chỗ nó chứa đựng hai chủ đề đan cài, xuyên thấu vào nhau. Qua tác phẩm, NC đã thể
hiện quan niệm, đánh giá về đời sống, về trách nhiệm của nhà văn cũng như mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.

GIĂNG SÁNG
Ðiền có bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ có bốn cái ghế mây này là có giá.
Không phải Ðiền mua. Tính Ðiền rất ghét mua. Từ ngày ra ở riêng đến giờ, Ðiền mới mua có
một lần. ấy là một cái giường bằng gỗ bưởi của một người cô nghèo khó. Người cô cần tiền
để lấy thuốc ngã nước cho chồng. Còn Ðiền thấy cũng cần một cái giường. Tháng ba vừa rồi
vợ Ðiền mới sinh một con trai. Nghĩa là bây giờ Ðiền có những hai con. Cả nhà đúng bốn
người, bốn người chất cả vào một cái giường! Giá mùa rét thì cũng được, chen chúc nhau một
tý càng ấm áp. Nhưng mùa nực, còn gì là vệ sinh?

Năm chừng mười họa, Ðiền cũng còn nghĩ rằng: nên theo phép vệ sinh. Bởi Ðiền là người có
học hẳn hoi. Ðiền đã có lần làm một ông giáo trường tư trong ngót ba năm, mà Ðiền có bốn
cái ghế mây vừa mới nói. Năm ngoái đây, cái trường vẫn thuê Ðiền dạy lớp nhất, lấy hai chục
bạc lương một tháng, đột nhiên phải dẹp. Dẹp để nhường lại mấy căn nhà cho người ta dùng
vào việc khác, cần cho lúc này hơn. Ông hiệu trưởng còn chịu của Ðiền nửa tháng lương.
Tiền học tháng cuối cùng thì chưa thu được. Chỗ anh em biết tính thế nào cho tiện? Giá ông
xoay được, thì ông trả phắt Ðiền chục bạc, cho đẹp mặt cả đôi bên. Nhưng ông không xoay
được. Mà chẳng lẽ Ðiền phải thiệt? Thôi thì... thôi thì... - biết nói ra sao bây giờ? - Ông cười
một cách ngượng nghịu bảo Ðiền:
- Thôi! Thế này này, ông Ðiền ạ! Giá ông không ngại, thì ông đem bộ ghế mây về quê mà
dùng. Lão hàng phở nó trả có bảy hào một cái. Hôm nọ, chỉ căng mây lại cho hai cái cũng đã
mất một đồng. Bán cho lão thì phí đi. Mà ở nhà ông chưa có ghế...

Lúc ấy, Ðiền phải cố giữ, cái mặt mới không xị xuống. Thật ra thì Ðiền chán lắm. Ðiền chẳng
muốn lấy bốn cái ghế tý nào. Chao ôi! Cũng mang tiếng là ghế mây!... Cái thì xộc xệch, cái
thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái nào là nước sơn không róc cả ra như là da thằng hủi. Trông
đủ thảm. Ðiền phải bỏ ra bảy hào chịu lấy một cái vé tàu hỏa để tải mình về quê đã đủ xót
ruột lắm rồi, còn phải nợ mà bỏ tiền ra tải bốn cái ghế già nua ấy nữa. Nhưng từ chối thì
không tiện. Ra sự rằng mình dỗi. Có lẽ tủi lòng ông hiệu trưởng. ấy là một điều mà Ðiền
chẳng muốn, bởi ông với Ðiền là chỗ bạn nghèo với nhau. Họ bị tủi vì người ngoài đã lắm.
Chẳng nên để người nọ bị tủi vì người kia... Ðiền đang nghĩ một cớ gì để thoái thác. Thì ông
lại bảo:

- Ông nên đi tàu thủy. Có đắt mới đến năm hào. Năm hào với năm xu màn là năm hào rưỡi.
Vậy cho rằng có phải trả tiền cước bốn cái ghế, thì cũng chỉ bằng tiền tàu hỏa thôi. Mà rộng
rãi. Ông để hai cái ghế ra, một cái để ngồi, một cái gác chân, ung dung như ngồi nhà ông vậy.
Tội gì đi tàu hỏa mà chen chúc.

Kể thì cũng là một ý hay. Như thế tránh được cả cái nạn huých khuỷu tay vào ngực nhau để
tranh một cái vé đi xe lửa. Tránh được cả cái nạn ngồi lên đùi người khác và để người khác
ngồi lên đùi mình. Và ngửi mùi mồ hôi với mùi phân lợn của những toa tàu hạng tư ...
Nhưng...Ông hiệu trưởng không đợi Ðiền phải nói ra. Ông đã đoán mà hiểu trước. Nên ông
bảo:

- Còn cái sự chuyển những cái ghế thì không ngại. Tôi sẽ bảo thằng nhỏ buộc hai cái làm
một, dùng cái đòn gánh nước, gánh ra tàu cho ông. Còn từ bến màn về nhà ông, sẽ thuê một
thằng bé nào độ năm xu, hay một hào.

Ðiền nhẩm tính. Như vậy, tất cả có già giặn lắm mới tốn chừng đồng bạc. Nghĩa là tiêu quá
đằng kia hai hào. Hai hào bốn cái ghế mây! Cho có xộc xệch nữa cũng còn rẻ chán... Ðiền
ưng thuận. Thế là bốn cái ghế mây của ông hiệu trưởng mà lão hàng phở trả có bảy hào một
chiếc, được đi tàu thủy về quê của Ðiền.

Và thế là Ðiền có bốn cái ghế mây. Ðiền không biết giá. Nhưng Ðiền đoán chừng mua mới
thì cũng đắt. Bây giờ, mỗi chiếc có khi tới ba bốn đồng. Ba bốn đồng một chiếc! Thế nghĩa là
cả bộ đáng giá ngót hai chục bạc. Xóm Ðiền cũng chả nhà nào có những đồ đạc đắt tiền như
thế. Vợ Ðiền quý lắm. Thị rất xót xa khi thấy những ông khách cục súc, sau khi đã nắc nỏm
khen bộ ghế vừa đẹp vừa thanh, liền đặt cái mông đít to bành bạnh như cái vại lên mặt ghế,
khiến mấy sợi mây lún xuống, rồi co cả hai chân bẩn thỉu lên, ngả cái lưng to như lưng trâu
tựa vào vành ghế, khiến cái vành ghế phai oải hẳn về đằng sau. Như thế phỏng còn gì là ghế?
Có mà ghế sắt cũng phải hỏng, đừng nói gì ghế mây!... Một hôm thị bàn với chồng rằng:

- Này, cậu ạ! Người nhà quê họ vô ý lắm. Mình có của thì mình phải giữ gìn. Hay là ta đem
cất những cái ghế mây đi, kẻo để ai vào cũng leo lên ngồi chồm chỗm, mấy chốc mà vứt đi?

Thoạt nghe, Ðiền phải bật cười. Ðiền nghĩ đến tính bủn xỉn của đàn bà. Họ may áo để cất đi.
Và mua ghế để chẳng cho ai ngồi sốt. Ðiền đã toan phản đối. Nhưng nghĩ ngợi một giây,
Ðiền lại bằng lòng. Vợ Ðiền thế nào chả hơn Ðiền trong cái môn lo liệu việc nhà? Vả bây giờ
Ðiền chỉ là một kẻ ăn nhờ. Vợ Ðiền phải lo cho chồng từ năm xu húi cái đầu. Thị đã phải
gánh lấy tất cả cái ách gia đình, thì cũng nên để cho thị có quyền trong gia đình một tý. Kẻo
thị lại bảo: dẫu có hỏng cái gì, Ðiền cũng không phải bỏ tiền thay, nên điền không xót ruột...
Từ hôm ấy, bốn cái ghế mây được treo lên bốn cái mỏ móc buộc ngoài đầu chái. Chỉ những
khi có khách khứa nào sang trọng, Ðiền mới ra bê vào.

Nhưng những buổi tối có trăng thì dù chẳng có ai, Ðiền cũng khuân đủ bốn cái ghế ra sân.
Rồi Ðiền gọi vợ, con ra. Vợ bế con nhỏ ngồi một chiếc. Con lớn một chiếc. Còn một chiếc
Ðiền dùng mà gác chân. Họ ngồi ghế, đợi trăng lên. Nếu con nhỏ không khóc, con lớn không
bắt gãi thì hạnh phúc thật hoàn toàn. Gió thổi tan những lo lắng, chua cay chất ở lòng. ánh
trăng êm xoa nước mát lên da. Da mềm dịu. Những nét cau có chìm đi tất cả. Trán vợ Ðiền
hóa phẳng phiu, mặt thị tươi hẳn. Thị trẻ ra mười tuổi. Những phút thảnh thơi ấy, sao mà thị
hiền dịu thế! Ðáng yêu đến thế! Ðiền không nhận ra một chút gì ở thị nó có dính dáng đến
người đàn bà cau có vẫn ngoác mồm ra mắng con, mắng con ở, mắng mèo, mắng chó khiến
nhà cứ om lên suốt ngày. Thị cúi xuống đứa con nhỏ, đồng thời ngước đôi mắt âu yếm nhìn
con lớn. Ðứa con lớn cười với thị. Thị cười với nó. Thị cười với chồng. Ðiền nhìn vợ, nhìn
con, lòng sung sướng. Ðiền mỉm cười với giăng.

Ðiền rất yêu giăng. Cái ấy cũng là thường, bởi óc Ðiền đẫm văn thơ. Có đọc văn thơ, mới
biết giăng là một cái đẹp và quý lắm. Giăng là cái liềm vàng giữa đống sao. Giăng là cái đĩa
bạc trên tấm thảm nhung da trời. Giăng tỏa mộng xuống trần gian. Giăng tuôn suối mát để
những hồn khát khao ngụp lặn. Trăng, ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy mà thi sĩ của muôn đời
mon man! Ðiền không ân hận chút nào. Hai thân Ðiền bán cả ruộng, vườn đi để cho Ðiền đi
học chẳng phí đâu. Ðã đành các người chỉ có cái mục đích con làm nên ông phán, ông tham
để ấm thân; các người hoàn toàn thất vọng khi thấy con leo cau đến tận buồng mà lại hỏng
ăn. Ðiền tạng yếu quá, không được nhận vào công sở; và các người đã vội cho là tiền con đi
học thật là tiền vất xuống sông. Nhưng Ðiền tin rằng: cái học thức của Ðiền tuy chẳng giúp
Ðiền kiếm nổi miếng ăn, nhưng cũng có ích cho Ðiền nhiều lắm. Chỉ nói một cái nhờ nó mà
Ðiền đọc nổi văn thơ, và nhờ văn thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. Và Ðiền rất
phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi như tâm hồn của vợ Ðiền. Ðối với thị, giăng chỉ là ... đỡ
tốn hai xu dầu! Dầu lạc lúc này mỗi chai lít hai đồng. Mới biết các nước đánh nhau cũng có
thiệt cho con nhà nghèo thật. Mỗi tối, thị đốt đèn một lát. Nhưng một lát cũng đủ tốn hai xu
rồi. Những tối có trăng đỡ tốn hai xu. Hai xu chẳng là bao nhưng mười cái hai xu đã được hai
hào; mười cái hai hào đã được hai đồng bạc; và mười cái hai đồng bạc... chao ơi! Nếu cứ tính
toán mãi thế, thì biết đến bao giờ cũng được? Sao thị lại cứ phải luôn luôn tính toán? Những
kẻ chỉ suốt đời tính toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời... Ðiền vẫn trách vợ Ðiền như
thế đấy. Ðiền có ngờ đâu chính Ðiền cũng một tật. Và ngay lúc này đây, lúc ngồi ngắm trăng
để tạm quên những cái lo nhỏ nhen của kiếp người, Ðiền cũng còn tính vẩn vơ. Ðiền thấy
giời rộng quá và sao nhiều quá. Ðiền nhớ đến câu thơ của một thi sĩ Tây phương ví khoảng
trời sao như một cánh đồng. Nếu trời là một cánh đồng thì cánh đồng ấy thật bao la. Và Ðiền
chỉ cần được một mảnh bằng cái mảng ở sau nóc nhà Ðiền kia, cũng đủ cho Ðiền không còn
phải lo sinh kế nữa. Ðiền sẽ trao cho vợ Ðiền cai quản. Còn Ðiền lúc ấy có thể rảnh rang theo
đuổi cái mộng của Ðiền...

Ðó là một cái mộng văn chương. Ðã có một thời, Ðiền chăm chỉ đọc sách, viết văn. Ðiền nao
nức muốn trở nên một văn sĩ. Ðiền sẽ nguyện cam chịu tất cả những thiếu thốn, đọa đày mà
văn nhân nước mình phải chịu. Ðiền vẫn thường bảo với một người bạn cùng chí hướng:
Ðiền sẵn lòng từ chối một chỗ làm kiếm mỗi tháng hàng trăm bạc, nếu có thể kiếm được năm
đồng bạc về nghề văn... Nhưng viết luôn mấy năm trời, Ðiền chẳng kiếm được đồng nào.
Trong khi ấy Ðiền vẫn phải ăn. Nhà Ðiền kiết xác xơ. Các em Ðiền không được đi học. Mà
cũng không được ăn no nữa. Sự túng thiếu đưa đến bao nhiêu là lục đục. Bố Ðiền bỏ nhà đi.
Mẹ Ðiền gồng thuê, gánh mướn kiếm tiền nuôi hai đứa con thơ. Những đứa con lớn, đứa đi ở
bế em, đứa đi ở chăn trâu, đứa đi xin những cái hoa chuối, những nắm khoai đội đi chợ xa
bán để kiếm vài xu ăn cho khỏi chết. Ðiền thấy mình ích kỷ. Sự nghiệp mà làm gì nữa? Bổn
phận Ðiền phải nghĩ đến gia đình. Ðiền phải gây dựng lại gia đình! Ðiền phải tạm quên cái
mộng văn chương để kiếm tiền. Ðiền đi dạy học. Chao ôi! Dạy học lấy mỗi tháng có hai
mươi đồng. Bà mẹ Ðiền tưởng thế đã là phong lưu lắm. Bà bắt Ðiền cưới vợ. Vợ Ðiền là một
con nhà khá giả, lấy Ðiền vì Ðiền là người có học. Rồi Ðiền có con. Cái gia đình lớn của
Ðiền đã chẳng được nhờ Ðiền, bây giờ lại thêm một gia đình con con nữa. Không một phút
nào Ðiền không phải nghĩ đến tiền. óc Ðiền đầy những lo lắng nhỏ nhen. Một đôi khi chợt
nhớ lại cái mộng xưa, Ðiền lại thở dài. Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết. Nhưng Ðiền biết:
chẳng bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền cũng không có tiền...

Tối nay lại có giăng. Nhưng Ðiền chỉ đem có hai cái ghế ra sân. Vợ Ðiền hôm nay luật quật
suốt cả ngày. Con ở xin đi ăn giỗ một hôm. Thị lại phải dệt vải lấy tấm vải để mai đi bán về
đưa lãi nợ. Dệt xong thị vội vàng đi đòi món tiền. Về đến nhà, con bé khóc hết hơi. Con lớn
thì lem luốc, mũi dãi nguếch ngoác bôi đầy mặt. Nhà cửa còn bề bộn. Con ở vẫn chưa về.
Mình thị biết xoay sở làm sao kịp? Thị thấy lòng sôi lên sùng sục, thị giậm chân bành bạch
kêu trời. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống
không. Rồi thị bế con đi nằm sớm. Ðứa con lớn thút thít khóc chán cũng lăn ra ngủ. Mình
Ðiền ngồi ngoài sân. Ðiền cố thản nhiên. Nhưng da mặt cứ rồm rộm; nó có vẻ dày lên và tê
tê. Ðiền thấy gần như tủi cực. Vợ Ðiền có lẽ rất yêu Ðiền. Nhưng thị chỉ biết rằng người ta
cần ăn cơm, mặc áo và uống thuốc khi đau ốm. Thị chỉ cố lo cho chồng ba thức ấy. Thị nhịn
ăn để chồng ăn. Thị nhịn mặc cho chồng mặc. Thị bán đến cả yếm, áo để lo thuốc thang cho
chồng. Thị tưởng thế là chồng sung sướng lắm. Nhưng không phải, Ðiền đã quen với những
tình cảm nồng nàn và những lời nói vuốt ve. Nét mặt cau có, ngân ngữ cục cằn, và nhất là cái
lối yêu quá đơn sơ - có thể nói thô sơ - của vợ Ðiền làm cho Ðiền khổ. Ðiền thấy cái đời tình
cảm của Ðiền thiếu thốn. Ðiền không được yêu ai. Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa
những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền
vẫn ao ước có ngày lại khơi... Trên kia, giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân
tình. Gió nhẹ nhàng đặt trên lá những bước chân vũ nữ. Những tàu lá chuối láng trăng đưa
đẩy... Ðiền nghĩ đến những người đàn bà nhàn hạ, vừa tắm bằng một thứ nước thơm tho, mặc
áo lụa xanh, ngả tấm thân mềm trên chiếc ghế xích đu và đưa đẩy đôi chân thưỡn thẹo...

Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình ảnh lả lơi ấy? Chính Ðiền cũng không thể hiểu. Có
lẽ Ðiền ước ao một cái mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay ve vuốt. Có những
người đàn bà đẹp, yêu rất khéo, bởi họ được ăn ngon, mặc đẹp, chăm sóc thịt da và chẳng làm
gì cả. Phải rồi, vợ Ðiền chỉ là một kẻ tục tằn. Thị chẳng đáng cho Ðiền yêu quý. Cũng chẳng
đáng cho Ðiền thương hại. Ðiền phải đi. Ði để giữ cho lòng mình tươi lâu. Ðiền sẽ làm bất cứ
cái gì đó để có ăn. Rồi Ðiền bình tĩnh viết. Có như vậy Ðiền viết mới ra hồn được. Lời phải
đẹp. ý phải thanh cao. Ngọn bút của Ðiền mới khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ mộng.
Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ
tầm thường, xấu xa...

Ðiền lại thấy hiện ra cái bóng dáng yêu kiều của những người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên
những cái ghế xích-đu nhún nhảy... Những người ấy sẽ đọc văn Ðiền. Lòng họ đẹp thêm lên.
Họ sẽ yêu Ðiền. Họ sẽ gửi cho Ðiền những bức thư xinh xinh ướp nước hoa. Tưởng tượng
của Ðiền tỏa rộng ra như một ánh trăng. Ðiền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với
những người đàn bà đẹp chỉ biết trang điểm và yêu đương. Những tiếng gắt gỏng ở trong nhà
lại đưa ra. Vụt cái, trăng mất đẹp. Ðiền cúi mặt, bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu. Ðiền
lắng tai nghe. Tiếng vợ Ðiền gay gắt hỏi:
- Làm sao thế?

Ðứa con gái vừa mếu máo vừa đáp lại.

- Con đau bụng.

- Giời ơi là giời!

Ấy là tiếng vợ Ðiền rên lên. Rồi thị mắng con:

- Ăn bậy lắm! Chết là phải, còn kêu ai?

Ðứa con không dám khóc to. Nó chỉ oằn oại và rít nho nhỏ trong cổ họng. Thỉnh thoảng nó
không còn sức nén, tiếng khóc bật ra Ðiền nghe một vài tiếng nức nở như tiếng người nôn oẹ,
Ðiền vẫn ngồi cúi mặt. Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng Ðiền.
Nó dâng lên đến cổ, xông lên óc. Nước mắt Ðiền ứa ra.

Vợ Ðiền gượng nhẹ đặt đứa con đang ngủ mệt xuống võng. Thị cầm một con dao ra vườn
moi mấy nhánh gừng về rửa sạch, giã ra. Thị vắt thêm vào đấy nửa quả chanh. Thứ thuốc
bách bệnh của con nhà nghèo chỉ gồm có thế. Thị gạn lấy nước đem lại cho con. Con bé mới
ngửi thấy hơi gừng đã sợ. Nó mím chặt môi. Dỗ thế nào nó cũng không chịu uống. Thị phải
bế nó, đặt nằm ngửa trên đùi, một tay thị đỡ đầu, một tay thị kề chén nước gừng vào tận môi
con. Con bé mím môi thật chặt. Bực mình thị quát:

- Há mồm ra!

Con bé khóc. Thế là cốc nước gừng đã dốc tuột vào mồm nó. Nó giãy lên như đỉa phải vôi.
Nó phun phè phè. Nó gào lên. Bao nhiêu nước gừng bắn ra áo mẹ. Thằng cu con giật mình,
khóc thét lên. Vợ Ðiền tức quá, phát đen đét vào lưng con bé ốm và quăng nó xuống giường
như quăng một con mèo:

- Kệ cha mày! Cho mày chết đi!

Con bé vừa gào vừa van lạy:

- Con lạy bu; Con cay lắm! Con lạy bu! Cay mồm...

- Mày câm ngay không tao tát cho vỡ mặt.

Nó vẫn không chịu lặng. Thị sừng sộ, chực vồ lấy nó:

- Mày có câm không nào?

Nó sợ quá đành phải nín. Nhưng những tiếng rên nho nhỏ vẫn còn thoát ra... Ðiền thương con
lắm. Vút cái, Ðiền thấy Ðiền không thể nào đi được. Ðiền không thể sung sướng khi con
Ðiền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng
trong trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người
quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến
răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Ðiền không thể nào mơ
mộng được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những ước mơ lãng
mạn gieo trong đầu óc Ðiền cái thứ văn chương của bọn nhàn rỗi quá. Ðiền muốn tránh sự
thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Ðiền khổ, con Ðiền khổ, cha mẹ Ðiền khổ. Chính
Ðiền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ như Ðiền! Cái khổ làm héo một
phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta. Tiếng đau khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao
ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ
kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Ðiền. Ðiền chẳng cần
đi đâu cả. Ðiền chẳng cần trốn tránh, Ðiền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả
những vang động của đời...

... Sáng hôm sau, Ðiền ngồi viết. Giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ
ngoài đầu xóm. Và cả tiếng chửi bới của một người láng giềng ban đêm mất gà.

Phân tích:

- Truyện ngắn “Trăng sáng” được viết năm 1943, truyện viết về người trí thức nghèo
Điền là nhân vật chính xuyên suốt tác phẩm. Điền là nhân vật đại diện cho anh trí
thức nghèo trong các truyện ngắn viết về người trí thức của Nam Cao. Điền là anh
giáo khổ trường t, nhng nay đã thất nghiệp tiền dạy học tháng cuối cha thu được của
học sinh, lai bị ông hiệu trưởng nợ mất nửa tháng lương không có tiền trả Điền, ông
bảo Điền mang bộ ghế mây của ông về dùng. Bất đắc dĩ Điền phải cầm bốn chiếc ghế
mây vì Điền rất nể ông hiệu trưởng. Đoạn đầu truyện Nam Cao đã diễn tả cuộc sống
của Điền rất êm đẹp, đầy lãng mạn với bốn chiếc ghế mây bắt ra sân ngồi ngắm trăng.
Điền luôn suy nghĩ và mơ mộng, Điên yêu trăng, anh cho rằng trăng và cái gì đó rất
cao đẹp và thơ mộng. Điền không ân hận vì bố mẹ đã mất nhiều tiền của cho anh ăn
học giờ anh chẳng làm được gì, nhưng có một điều anh luôn tin rằng cái việc học của
anh đã giúp ích cho anh nhiều lắm, nhờ nó mà anh đọc nổi văn thơ và nhờ văn thơ mà
anh hiểu được cái đẹp của gió của trăng. Anh cảm thấy cuộc đời như vậy là anh toại
nguyện, anh hơn ngời, anh vui vẻ, nhưng ngược lại với người vợ thì lúc này Nam Cao
lại có cái nhìn khác, tác giả nh hoá thân vào chính nhân vật để nhân vật ấy tức Điền
có một cách nhìn nhận về vợ anh, anh phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi nh tâm
hồn của vợ Điền. Đối với thị trăng chỉ là ... đỡ tốn 2 xu dầu mỗi tối. Hai xu dầu chẳng
là bao nhng thị nghĩ mời cái hai xu cũng là khá nhiều. “những kẻ chỉ suốt đời tính
toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời” anh vẫn trách vợ anh nh vậy. Những chính
lúc này đây anh lại có những suy nghĩ và cách nhìn nhận khác anh lúc ban đầu. Và
ngay lúc này lúc ngồi ngắm trăng để tạm quên đi những lo toan thường ngày, lo toan
cho cuộc sống, cái lo nhỏ nhen của kiếp người, Điên cũng còn tính vẩn vơ, Điền ớc có
một thật thanh bình, đơn giản, để cho anh không còn phải lo tính kế nữa và anh có thể
rảnh rang theo đuổi cái mộng của anh ... đó là cái mộng văn chương. Nhưng đó chỉ là
ước mơ Điền không bao giờ thực hiện được bởi cuộc sống cơm áo không cho phép
anh theo đuổi sự nghiệp mà anh từng mơ ước, anh phải tạm quên nó đi và phải nghĩ
đến gia đình, nghĩ đến việc kiếm tiền.
- Đến phần này Nam Cao miêu tả cảnh gia đình Điền thật nheo nhóc khổ sở, lúc này tác
giả có cái nhìn khác hẳn so với lúc ban đầu, vì vậy mà ngôn ngữ của Nam Cao cũng
thay đổi: “con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi nghếch ngoác bôi đầy
mặt ... thị thấy lòng nổi lên sôi sục, thị giậm chân bành bạch lên kêu trời. Thị đánh
con lớn, chửi con nhỏ, quẳng cái chổi, đá cái thùng và càu nhàu trống không”. Nét
mặt cau có, ngôn ngữ cục cằn và nhất là cái lời yêu quá đơn sơ của vợ Điền làm Điền
khổ. Anh cảm thấy thiếu thốn tình cảm, nếu cứ sống trong cái cảnh này, trong cái gia
đình này, với những cái lo lắng nhỏ nhen sẽ làm cho anh chết dần và cạn kiệt nguồn
văn thơ quý báu của anh ta, lúc này anh ta lại nghĩ đến những người đàn bà nhàn hạ,
suốt ngày chỉ ăn chơi nhàn hạ. Chính cuộc đời anh cảm thấy khổ cực quá nên anh
luôn ao ước và nghĩ đến những điều xa xôi và đẹp đẽ về những người đàn bà vợ anh,
anh cảm thấy cha bao giờ có, và anh cho là thị chẳng đáng được yêu quý, chẳng đáng
được cho Điền thương hại. Vì cuộc sống gia đình nên Điền có cái nhìn về người vợ
trở nên xấu xí méo mó.
- Trong các tác phẩm lúc thì tác giả nhập vào vai Điền, lúc thì nhập vào vai vợ Điền lúc
đứng là người ngoài để nói lên nhưng cuộc sống xã hội thời phong kiến. Ngôn ngữ
của Nam Cáo lúc thì nhẹ nhàng, lúc thì cay độc tất cả những cái đó làm cho văn ông
trở nên là những tác phẩm bất hủ.

TƯ CÁCH MÕ
Bây giờ thì hắn trở thành mõ thật rồi. Một thằng mõ đủ tư cách mõ, chẳng chịu kém một anh
mõ chính tông một tí gì: cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn. Hơi thấy nhà nào lách cách
mâm bát là hắn đến ngay. Hắn ngồi tít ngoài xa, ngay chỗ cổng vào. Người ta bưng cho một
mình hắn một mâm. Hắn trơ tráo ngồi ăn. Ăn xong, còn thừa bao nhiêu, hộn tất cả vào, lấy lá
đùm thành một đùm to bằng cái vế đùi, để đem về cho vợ, cho con. Có khi hắn còn sán đến
những chỗ người ta thái thịt, dỡ xôi, lấy cắp hoặc xin thêm một đùm to nữa. Hắn bỏ cả hai
đùm vào cái tay nải rất to, lần đi ăn cỗ nào hắn cũng đem theo. Thế rồi một tay xách tay nải,
một tay chống ba toong, hắn ra về, mặt đỏ gay vì rượu, và trầu, đầy vẻ phè phỡn và hể hả…
Mùa đến, hắn vác một cái đòn càn có quấn mấy sợi thừng ở một đầu, đo hết ruộng nọ đến
ruộng kia:

- Mùa màng, anh em đến xin cụ lượm lúa… Mùa màng, anh em đến xin ông lượm lúa… Đến
xin bà, hay thầy, hay cô lượm lúa…

Mồm hắn nói, tay hắn lượm. Hắn cứ chọn những gồi nào to nhất, mẩy nhất thì lượm. Cụ hay
ông, hay bà, hay thầy, cô, bằng lòng cho hay không, cũng mặc! Mặc cho ông, bà, thầy, cô
tiếc. Hạt thóc quý như hạt ngọc. Nhưng tiếc cũng chẳng làm sao được. Ai nấy đều im như
thóc cả. Người ta đã nói: tham như mõ. Nếu nó không tham, sao nó làm mõ? Còn mình
không lẽ mình lại keo với cả từ thằng mõ trở đi?… Hà hà! Cứ vậy là ăn câu đấy. Hắn biết
thóp người ta như vậy, nên hắn lại càng làm dữ. Hết mùa rồi đến Tết. Trước Tết, hắn xách ba
toong đi trước, vợ thì đội một cái thúng cái đi sau. Chúng đến từng nhà, xin mỗi nhà bát gạo.
Mùng một Tết, bố con hắn xách một bao chè với năm quả cau, đến mừng tuổi các ông quan
viên để kiếm cỗ và kiếm tiền phong bao. Bao chè với cau của hắn, hắn đem đến rồi lại đem
về: có ông nào ngu đến nỗi lấy cau chè của hắn? Người ta thừa biết hắn chỉ có độc trọi một
bao chè ấy, đem đi hết nhà này sang nhà nọ, xong mấy ngày Tết lại đem đi bán lại… Thế rồi
độ mùng năm, mùng sáu, vợ chồng hắn lại đi tua lần nữa, để xin bánh chưng thừa…

Cứ thế, hắn ỷ vào cái địa vị hèn hạ của mình để nhiễu người ta, và lấy sự nhiễu dược của
người ta làm khoái lắm. Nhiều người phải bực mình. Họ lại còn bực mình vì cái cách hắn ưng
nịnh những người rộng rãi và tỏ vẻ xấc láo, bùng phỉu đối với những kẻ không lấy gì mà rộng
rãi với hắn được. Thật hắn đã vô liêm sỉ quá. Mỗi lần hắn đi khỏi, những người đàn bà nguýt
theo, chúm mỏ ra và lẩm bẩm:

- Giống mõ có khác! Không trách được người ta gọi là đồ mõ!… Trông ghét quá!…

Người ta tưởng như ông trời đã cố ý sinh ra hắn như thế để mà làm mõ; hắn có cái cốt cách
của một thằng mõ ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ, và là mõ ngay từ ngày mới sinh…

**
Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên tử tế, hẳn hoi. Và chỉ mới cách đây độ ba năm,
hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không,
anh chỉ chăm chăm, chút chút làm để nuôi vợ, nuôi con. Bố mẹ chết cả rồi. Chị cu thì y như
con mài mại: lúc nào cũng chửa. Vừa mới dạo nào, trông bụng chị to bằng cái thúng, rồi bẵng
đi một dạo không gặp chị, đến lúc gặp thì bụng đã lại mây mẩy rồi. Người đàn bà mắn quá!
Vườn đất hẹp. Gia sản không có gì. Anh cu Lộ chỉ độc nai lưng ra cày thuê, cuốc mướn. Nói
thế, nghĩa là nhà cũng túng. Nhưng túng thì túng thật, mà bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ làm
mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của ai. Cái sự túng làm liều, anh
tịnh là không có. Nhà hàng xóm có con gà, con vịt chạy sang, hoặc buồng chuối, quả mít liền
kề ngay với giậu nhà anh, anh cũng mặc thây, không hề có cái tính tắt ma, tắt mắt. Nói cho
phải, thì anh cu Lộ ăn ở phân minh lắm. Bởi vậy, kẻ trên, người dưới, hàng xóm láng giềng ai
cũng mến…

Họ đạo Lưu An có tất cả chừng sáu chục suất đinh. Sáu mươi suất đinh tập họp lại với nhau,
thành một cái làng nhỏ trong cái làng to. Trừ những việc sưu thuế, tạp dịch là những việc họ
cùng chịu chung với dân lương, còn thì giáo dân nhất nhất cái gì cũng theo ước lệ riêng. họ
ăn họp, khao vọng riêng với nhau, đặt ra những tước vụ riêng. Ông trùm bên họ, cũng như
người lí trưởng bên dân. Dưới ông trùm, đến ông quản giáo, trông coi việc dạy trẻ học kinh.
Sau cùng đến ông sơ, tức là những ông đã đỗ bằng Sơ học yếu lược, và đã nộp lệ và làm rượu
trình bằng. Đấy là hạng quan viên. Bởi làm người đàn anh bên họ đạo, không quá nặng nề,
tốn kém như làm ông lí ông phó bên dân lương, nên đến gìa nửa người trong họ là quan viên.
Chỉ còn hơn vài chục trai em. Bởi vậy, bọn trai em cứ phải đi phu choanh choách. Đã có quan
viên, có trai em, tất cũng phải có một thằng mõ nữa cho đủ bộ. Nhưng tìm đâu ra mõ? Các cụ
bèn nghĩ một cách. Người mõ không gọi là mõ nữa. Các cụ gọi là lềnh. Lềnh chuyên việc
quét dọn nhà thờ, và đi mời từng nhà một, chứ không phải rao. Mỏi chân một tí nhưng không
xấu hổ. Họ sẽ cắt lượt các trai em ra làm lềnh mỗi người ba năm. Người lềnh được ngồi
ngang với trai em khác, và hết hạn rồi, nếu có tiền hay tài cán, muốn làm quan viên, vẫn
được. Như vậy, thì cũng chẳng có gì là mất giá trị. Đến lần, đến lượt thì làm, ai cũng làm…

Nhưng một năm xưa, một tên vô gia cư, chẳng biết quê quán nơi đâu, đem một con vợ theo
đến ngụ ở làng này. Vợ chồng đi làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Chúng ở nhờ nhà bà lão mù,
bán thuốc cam, sài, ghẻ, lở bên cạnh chợ. Một hôm, chẳng may người vợ chết. Cả hai vợ
chồng cùng chưa vào làng. Vậy cố nhiên là làng không chịu chôn cho. Hàng xóm cũng nhất
định không chôn. Họ còn hạch sách nọ kia, toan làm rầy rà cho người chồng và người chứa
chịu. Không biết liệu ra sao, anh chồng bèn mua một chục cau đem lên kêu với họ đạo, xin họ
chôn làm phúc, rồi anh ta xin nhập đạo. Họ nhận, làm ma cho người vợ. Rồi nhân tiện muốn
giúp đỡ anh chồng, họ bèn cho anh ta làm sãi để thay cho người lềnh và cấp cho anh ta mấy
sào đất bên cạnh nhà thờ để làm vườn, lại cho anh ta tiền để làm một cái nhà con con. Từ đấy
trai em trong họ không còn phải cắt lượt nhau làm lềnh nữa. Được bốn mươi năm như vậy.
Rồi người sãi chết. Hắn không có con để mà nối nghiệp. Chân sãi khuyết. Bọn trai em quên
hẳn cái lệ lềnh ngày xưa rồi, chỉ biết có sãi là một anh na ná như thằng mõ, bây giờ nhất định
bướng, không chịu làm việc ấy. Bàn định mãi, các cụ bỗng nhớ đến anh cu Lộ. Nghĩ đến một
cách rụt rè thôi.

- Giá anh ta chịu cáng đáng cho thì hay quá! Anh ta cẩn thận mà sạch sẽ…

Mà nhà cũng túng. Vườn đất hẹp. Cáng đáng được thì thêm bốn sào vườn nữa, sưu thuế
không phải đóng.

- Mà mỗi kì thuế họ lại còn cho thêm tiền…


Kể ra thì chỉ toàn cái lợi. Nhưng chỉ sợ anh ấy còn e cái tiếng…

- Tiếng tăm gì! Quét dọn nhà thờ thì cũng là làm việc thờ phượng, ai làm không được. Còn đi
mời quan viên, thì mình là người dưới, đi mời người trên một tiếng, cũng không đáng à.

Một cụ kêu lên thế. Cụ tiên chỉ mủm mỉm cười, rồi hỏi:

- Hay là ta cho tìm anh ấy đến, dỗ anh ấy xem sao?

Lộ đến. Người ta kể tất cả những cái lợi ra mà nhử. Rồi người ta lại cố cắt nghĩa cho anh
hiểu; làm sãi chẳng có gì mà nhục, cũng là làm việc họ đấy thôi; ai cũng ngại, không chịu
đứng ra cáng đáng, thì mình đứng ra cáng đáng giùm cho cả họ; có phải mình tham lợi, tự
nhiên đem trầu cau đến xin làm dâu đâu mà sợ tiếng?…

- Không, thế này anh cu ạ: giá như anh cầu cạnh để làm thì còn có người nói được. Đằng này
anh không cầu cạnh. Chúng tôi gọi anh đến cho làm thì việc gì anh không làm? Ấy là tất cả
các cụ, cùng quan viên trên, quan viên dưới đều mến cái bụng anh hiền lành… Anh cứ làm.

Lộ bùi tai, làm vậy. Và quả nhiên, hắn làm được ít lâu thì nhà đỡ xo dụi hơn trước thật. Bởi vì
hắn chăm chỉ lắm. Mấy sào vườn họ cho, hắn cuốc xới rất kĩ càng. Hắn làm ngô, làm mía
được mấy vụ tốt luôn. Tiền của họ cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn. Sưu thuế không mất
một đồng trinh, làm được đồng nào được cả. Làm gì không dễ chịu?

Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới sinh ra tiếc. Họ thấy Lộ làm sãi ngon ăn quá. Họ
ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng người nào bảo người nào, họ vô tình về hùa với nhau để
báo thù.

Những lời tiếng mỉa mai truyền từ người nọ đến người kia. Lộ thấy những bạn bè cứ lảng
dần. Những người ít tuổi hơn, nói đến hắn, cũng gọi bằng thằng. Trong những cuộc hội họp,
nếu hắn có vui miệng nói chõ vào một vài câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm
bắt chuyện… Hắn nhận thấy sự thay đổi ấy, và bắt đầu hối hận. Nhưng sự đã trót rồi, biết làm
sao được nữa? Hắn tặc lưỡi và nghĩ bụng: “Tháng ba này, thằng nào thằng ấy đến ba ngày
không được một bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn làm bộ!…” Một ý phấn khích đã bắt đầu nảy
mầm trong khối óc hiền lành ấy… Một hôm, trong một đám khao, Lộ vừa chực ngồi cỗ thì ba
người ngồi trước đứng cả lên. Lộ ngồi trơ lại một mình. Mặt hắn đỏ bừng lên. Hắn do dự một
lúc rồi cũng phải đứng lên nốt, mặt bẽn lẽn cúi gầm xuống đất. Chủ nhà hiểu ba anh kia có ý
gai ngạnh không chịu ngồi chung với mõ. Ông tìm một người khác, xếp vào cho đủ cỗ, và an
ủi Lộ:

- Chú ăn sau cũng được.

Lộ ầm ừ cho xong chuyện, rồi nhân một lúc không ai để ý, lẻn ra về. Hắn tấm tức rất lâu.
Trông thấy vợ, hắn cúi mặt, không dám nhìn thị, làm như thị đã rõ cái việc nhục nhã vừa rồi.
Hắn thở ngắn thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ đỡ tức. Nhưng nghĩ
thì cũng tiếc. Hắn lại tặc lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!…” Hắn chỉ định từ giờ
chẳng đi ăn cỗ đám nào nữa là ổn chuyện… Nhưng khổ một nỗi, không đi, không được. Đám
nào có ăn, tất nhiên chủ nhân không chịu để hắn về. Làm cỗ cho cả họ ăn còn được, có hẹp gì
một cỗ cho thằng sãi? Để nó nhịn đói mà về, nó chửi thầm cho. Mà thiên hạ người ta cũng
cười vào mặt, là con người bủn xỉn… Ấy, người ta cứ suy hơn, tình thiệt như vậy, mà nhất
định giữ thằng sãi lại. Không ai chịu ngồi với hắn, thì hắn sẽ ngồi một mình một cỗ trong
bếp, hay một chỗ nào kín đáo cho hắn ngồi…
Mới đầu, Lộ tưởng ngồi như thế, có lẽ là yên ổn đấy. Nhưng người ta tồi lắm. Người ta nhất
định bêu xấu hắn. Trong nhà đám, một chỗ dù kín đáo thế nào, mà chả có người chạy qua,
chạy lại. Mỗi người đi qua lại hỏi hắn một câu:

- Lộ à, mày?

Cũng có người đế thêm:

- Chà! Cỗ to đấy nhỉ? Đằng ấy hoá ra lại … bở!

A! Thế ra họ nói kháy anh cu Lộ vậy, cáu lắm. Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn
nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!…” Hắn lập tức bê cỗ về sân, đặt lên phản, ung
dung ngồi. Nói thật ra, thì hắn cũng không được ung dung lắm. Tai hắn vẫn đỏ như cái hoa
mào gà, và mặt hắn thì bẽn lén muốn chữa thẹn, hắn nhai nhồm nhoàm và vênh vênh nhìn
người ta, ra vẻ bất cần ai. Sau cái bữa đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai đã
quen quen, không ngượng nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen hẳn. Muốn báo thù lại
những anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấu một cỗ thật to để các anh
trông mà thèm. Bây giờ thì đến lượt người chủ không được bằng lòng. Có một mình nó ăn mà
đòi một cỗ to hơn bốn người ăn!…

- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: “Tham như mõ”.

A! Họ bảo hắn là mõ vậy… Tham như mõ vậy!… Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!… Từ
đấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn lại còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm
nữa. Không đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì
hết, còn lại hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu lại để ăn
hai ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khoẻ đi!

**

Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn,
hắn càng không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến
cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không
được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…

Bây giờ thì hắn mõ hơn cả những thằng mõ chính tông. Hắn nghĩ ra đủ cách xoay người ta.
Vào một nhà nào, nếu không được vừa lòng, là ra đến ngõ, hắn chửi ngay, không ngượng:

- Mẹ! Xử bẩn cả với thằng mõ…

Phân tích:

● Mở đầu:

- “Bây giờ thì hắn trở thành mõ thật rồi”

=> thời gian ở hiện tại


lời trần thuật ẩn chứa một câu chuyện về sự tha hóa
- “một thằng mõ đủ tư cách mõ”: đê tiện, lầy là, tham ăn, trơ tráo, không còn sĩ diện, liêm sỉ
+ “mõ”: những người làm nhiệm vụ truyền tin; vốn xuất thân là dân ngụ cư, bị dân làng khinh
miệt. Sau mỗi vụ mùa thu hoạch, mõ sẽ đi đến từng nhà trong làng để “đòi được bố thí”
+ “tham như mõ”: những người làm mõ thường gắn liến vời tính tham lam
=> tư cách mõ: định danh con người: con người với đầy đủ những tính xấu, có đủ tư cách của
“thằng mõ”
● Quá trình tha hóa:
- Ban đầu:
+ xuất thân: con một ông quan viên tử tế, được mọi người gọi là anh cu Lộ
+ hiền như đất, không rượu chè, bài bạc, chỉ chí thú làm ăn để nuôi vợ con
+ gia đình đông con khiến gia cảnh nghèo túng
+ dù vậy, anh không túng làm liều, không ăn trộm, ăn cắp của ai
=> người nông dân với bản tính tốt đẹp, thiện lương
- Biến cố:
+ người sãi chết, không có ai cáng đáng công việc => các cụ nghĩ đến anh cu Lộ một cách rụt

+ các cụ trong đạo Lộ dụ dỗ, hứa hẹn với anh Lộ
=> Lộ bùi tai nên nhận lời
+ bạn bè ghen tức, kéo bè phái, mỉa mai anh Lộ
=> anh không dám ngồi chung mâm với những người đó
+ dù đã bê mâm xuống bếp hoặc một chỗ kín đáo ngồi ăn nhưng anh vẫn bị người ta mỉa mai
=> anh báo thù bằng cách bê mâm cỗ lên, ngồi một mình một mâm giữa thanh thiên bạch
nhật
=> dần đánh mất đi lòng tự trọng và liêm sỉ của mình
- Người ta càng khinh ghét, làm nhục, Lộ càng không biết nhục
=> chính thái độ của người đời đã đẩy con người vào cảnh tha hóa

NƯỚC MẮT

Gà gáy lần thứ nhất... Ðiền mở mắt ra rồi, nhưng vẫn còn tiếc cái giường. Cả đêm hắn chưa
ngủ được giấc nào ngon. Tính ra hắn phải dậy đánh diêm đến năm lần. Thằng bé nóng đầu,
quấy suốt đêm, vợ Ðiền phải thức luôn mấy đêm rồi thành ra gắt gỏng với con. Chốc chốc
Ðiền lại phải dậy châm đèn, lấy thuốc hay lấy nước cho con uống. Như vậy làm gì mà chả
nhọc?

Ðiền uể oải ngồi lên, xuống giường. Trời đã sáng lờ mờ. Vợ Ðiền mới nằm yên. Thằng ở
chợp mắt đi cũng chưa lâu. Ðiền chẳng muốn phiền ai. Tự thổi cơm lấy mà ăn bây giờ thì
ngại lắm. Ðiền bèn nhất định không ăn cơm sáng nữa. Ði sớm cho được mát!... Hắn đi rửa
mặt xong, về mở tủ, thay quần áo, luồn cái ví vào túi, khóa tủ và rón rén bỏ cái chìa khóa vào
túi vợ. Nhưng vợ hắn chưa ngủ mệt. Thị giật mình, thức giấc. Thấy chồng đã áo mũ sẵn sàng,
thị hỏi:

- Mình đi đấy à?

- Ði.

- Gọi nó dậy, nó thổi cơm cho mà ăn đã chứ?


- Thôi không ăn nữa. Ăn rồi mới đi thì nắng mất.

- Mãi đến chiều mới về mà không ăn thì đói, chịu sao được?

- Ra tỉnh, lĩnh tiền rồi tôi sẽ vào hiệu ăn.

Hắn ra đi. Nhưng thị gọi giật lại:

- A này! Lúc về mình nhớ tạt vào cụ lang ngõ Huyện lấy thuốc cho em nhé!

- Thuốc thằng Chuyên ấy à? Còn nhiều lắm...

- Không! Thuốc cho con Hường kia!... Mặt nó lại lấm tấm đầy những mụn.

- Vẽ chuyện, tìm thứ lá gì mát cho nó uống rồi nó khỏi. Mấy cái mụn việc gì phải thuốc?
Thuốc bây giờ rẻ cũng phải một đồng một thang. Nay thuốc mai thuốc thì rồi lấy gì mà ăn?

- Không có ăn, cũng phải cho nó uống. Chứng sài của nó ngày xưa đấy. Nó mới phát, uống
dần đi vài, ba thang thì nó khỏi. Chả hơn để nó phát ra đầy người, rồi mù ế như ngày xưa cho
tốn hàng chục thang ấy à?

- Ngày xưa khác: ngày xưa nó còn bé; bé mới sài chứ lên năm rồi còn sài ư?

- Lên năm cũng còn sài. Con nhà người ta lên tám rồi còn sài kia. Mình đừng tiếc vài đồng
bạc. Tiền thì ai chẳng tiếc bằng trăm mình ấy. Nhưng cái thế không tiếc được. Mình cứ lấy
cho nó uống!

- Ừ thì lấy: Con lớn thuốc, con bé thuốc...

Thuốc lắm rồi sau cũng có lúc được đi ăn mày!

Hắn hầm hầm bước ra. Làm chẳng đủ ăn, hắn vốn cân nhắc việc tiêu tiền hơn một người keo:
Chỉ tiêu những món nào chẳng thể đừng. Mà chính hắn cũng đã đươc ốm nhiều rồi nên hắn
không ghét gì bằng ghét thuốc. Theo ý hắn, thuốc chẳng chữa được bệnh gì, uống lắm chi tổ
hại dạ dầy: Hắn có một chứng bệnh tim uống không còn biết bao nhiêu thứ thuốc rồi mà vẫn
tiền mất tật mang: sau cùng hắn bực mình, chẳng thèm uống một giọt thuốc nào nữa, thì cũng
thế thôi, có chết đâu? Hắn còn có cảm tưởng như mình khỏe mạnh hơn trước nữa! Ờ, nếu
thuốc quả có công hiệu như người ta vẫn khoe khoang thì chỉ những nhà giàu là sống mãi
thôi, còn bao nhiêu những người nghèo thì sẽ chết hết, không còn một mống; mà cái nhà bà
Hàn Hưng vẫn cho hắn vay tiền lãi mười phân, chẳng thiếu gì cao, quế, sâm, nhung kia, đã
chẳng đời nào chịu không con. Còn cái nhà thị Ðắc sản hậu hao ở cạnh nhà hắn kia, tất đã
chết nghẻo từ đời tám vánh nào rồi, đâu có còn sống đến bây giờ để thỉnh thoảng lại sang nhà
hắn, ngoẹo đầu, ngoẹo cổ xin dăm xu ăn bánh đúc?... Thành thực hay mai mỉa? Ðiền vẫn
thường nói thế để có cớ mà hà tiện và tự yên ủi mình một chút. Nhưng vợ Ðiền không nghĩ
thế. Ðối với thị, hai đứa con là cả cuộc đời. Thị có thể nhịn mặc, nhịn ăn, chịu nhục với người
ta; nhưng đừng ai cấm thị bán đi một cái nồi đồng hay một cái mâm thau hoặc cầm cố ruộng
vườn để chạy chữa cho con, khi chúng ốm. Thị không thể bỏ liều chúng được. Chúng hơi
nóng đầu, sổ mũi thị đã lo sốt gáy. Khi một đứa ho chẳng hạn, thị thấy đau ở chính ngay ngực
thị...

Thì ra đàn bà họ đều như thế cả, Ðiền tự bảo khi đã ra khỏi nhà một lúc. Mà họ cũng cần phải
thế; nếu vợ Ðiền lại khác, nếu thị không thiết gì con chẳng hạn, thì tất nhiên là hắn đã ghét và
khinh thị rồi... Vậy Ðiền không nên tức. Hắn không tức nữa, nhưng bắt đầu tính toán: hắn sẽ
lĩnh được ba mươi đồng bạc; thuốc cái Hường ba thang độ ba đồng, với một đồng ăn là bốn;
tiền thuốc thằng Chuyên bảy đồng bạc còn khất đấy; bốn với bảy, mười một... Còn bao nhiêu
thì đóng họ, đưa lãi nợ nữa là vừa hết xoẳn. Lại mãi đến đầu tháng sau mới có tiền. Suốt một
tháng giời, lấy gì mà ăn, mà giặt, mà cắt tóc, mà cho anh phu trạm mõi lần anh đưa thư hoặc
báo? Ấy thế là lại vay!... Ðiền nghĩ đến tất cả những món nợ chồng chất lên đầu hắn. Hắn
nghĩ đến quyển sách ước ao mua đã mấy tháng nay, hắn nghĩ đến một cái sơ-mi nằm trong tủ
kính một hiệu may kia cứ tăng giá rất mau... Hắn lại phải xót xa một lần nữa, mười đồng bạc
nữa bỏ ra cho hai đứa con uống thuốc. Hắn xót xa lắm lắm. Nhưng hắn không tức tối như lúc
nãy. Hắn chỉ thở dài ngao ngán cho kiếp mình...

Mãi đến mười giờ Ðiền mới tới trạm Quỳnh Nha, nắng rất gắt đã từ lâu. Mặt hắn đỏ gay, đẫm
mồ hôi và chân hắn thì bụi. Lần này là lần đầu tiên, hắn lĩnh thư ở trạm này. Người đội trạm
mặt xương xương, khi thấy hắn xưng tên, há hốc miệng ra và nhìn hắn một cách rất buồn
cười. Có lẽ hắn là người nhận được nhiều thư từ, báo, sách nhất ở vùng này. Ông đội trạm
thuộc tên. Nhưng khi soạn thư, ông trông những phong bì gửi cho Ðiền phần nhiều đánh máy
và có in dấu, mà đoán là ông Lê Cư Ðiền ở Phú Ninh là một ông rất oai, rất nhiều tiền. Ông
sửng sốt khi thấy ông Lê Cư Ðiền chỉ là một anh chàng gầy như một cái tăm, mặc áo the, đi
chân không và đội một chiếc mũ trắng cũ kỹ đến mấy năm chưa đánh phấn. Ông nhìn Ðiền từ
đầu đến chân rồi mới hỏi Ðiền:

- Vu ở Phu Ninh lên đây bằng gì mà sớm thế?

- Tôi đi bộ đấy thôi.

- Nhanh quá nhỉ? Lại không đến hai mươi cây số à? Chắc ở mạn dưới ấy xe hiếm lắm, ít khi
gặp được?

- Kể thì cũng sẵn, nhưng ưa đi bộ. Xe đắt lắm!

Ông không đợi một lời nói toạc móng heo ra như vậy. Ông đoán Ðiền phải thú nhận việc dè
xẻn của mình thì ngượng lắm. Bởi thế ông đùa để chữa thẹn cho Ðiền:
- Tay này cừ thật, có vậy những anh xe mới không bắt bí. Cứ khinh chân học trò không quen
đi bộ thì ngồi trơ mắt ếch.

Ðiền hiểu ý tốt của ông, mỉm miệng cười.

- Thực ra thì cũng chẳng anh xe nào bắt bí tôi đâu, bởi vì tôi đã định ngay ở nhà chỉ đi chân.
Nhờ giời tôi chưa đến nỗi già. Không có lý gì người phu xe phải kéo một cái xe với một tôi
mà còn có thể chạy một mạch từ Phú Ninh đến đây, mà tôi chỉ có tay không, mà lại không đi
được. Thưa có phải thế không ạ?

- Vâng! Vâng!

Ông đội trạm gật đầu rất hăng và cười. Ðiền vừa ký tên vào quyển sổ thư bảo đảm, vừa cười
với ông. Trao phong thư cho hắn xong, ông vồn vã mời hắn ngồi nghỉ xơi chén nước. Hắn
nhận ngay, bởi đang nhọc và khát như cháy họng. Nhưng đang uống thì đứa con ông đội trạm
chạy vào. Ðiền thưỡn mặt ra ngay. Hắn khổ sở vì không có dăm, ba hào, để cho thằng bé, cho
đúng phép trong những dịp tương tự thế. Bởi vậy, mới uống hết một chén nước, hắn đã vội
đứng lên từ biệt ông đội trạm...

- Ấy! Ông ngồi chơi đã!... Ði bây giờ nắng chết!...

- Ông tha phép... Tôi phải ra tỉnh ngay cho kịp.

- À! ông đi lĩnh măng-đa? Vâng! Vậy thì ông đi... Con! Chắp tay vào chào ông!

Ðiền ngượng quá. Những lúc như lúc này mới càng thấy rõ không có tiền là nhục. Hắn lắp
bắp mấy tiếng không rõ rệt cúi gằm mặt, bước vội ra khỏi nhà trạm, đi một quãng thật xa rồi
vẫn chưa hết nóng tai. Ông đội trạm chắc đang nghĩ rằng hắn là một thằng rất kiệt, rất tồi, có
thể gọi là ngu... Hắn chép miệng luôn luôn. Thêm một nỗi: bụng hắn đẵ bắt đầu thấy đói.
Người thì nhọc. Nắng gắt thêm, chân hắn bỏng như bước trên một cái nồi rang. Hắn tưởng có
thể khóc òa lên được. Chao ôi! Chẳng là gì cả... Ðó chỉ là những cái rất tầm thường, chẳng
đáng cho một người cao thượng phải quan tâm: Sự đói nhọc... Một chút lòng khinh của một
người chẳng hiểu mình... Nhưng Ðiền cực lắm. Hắn thấy một lớp buồn tủi nữa chất thêm vào
lòng...

Ở nhà dây thép tỉnh, Ðiền phải đợi khá lâu. Người gửi tiền, lĩnh tiền đông. Ðiền thì lại ghét
chen chúc và xô đẩy. Nhưng kết cục rồi cũng phải len vào. Nếu cứ muốn làm người nhã nhặn
mãi ở đây thì có lẽ chẳng bao giờ hắn lĩnh được ba chục bạc. Hắn lễ phép đưa căn cước và
tấm bưu phiếu cho người thư ký:

- Thưa ông, ông làm ơn...


- Ơn oán gì? Ðợi đấy!

Ðiền sửng sốt. Sao người ta lại có thể cục cằn đến thế? Hắn hối hận vì đã phí một lời lịch sự.
Gã kia thì vẫn cứ cúi đầu lia lịa viết, cau có, phụng phịu, làu nhàu, như cáu kỉnh với công
chúng đến làm phiền gã. Ðiền lộ vẻ khinh bỉ và yên lặng đợi... Một lúc lâu sau, gã mới ngẩng
đầu lên. Tức thì hàng chục cái bàn tay cầm căn cước chìa vào. Gã hùng hổ giật xoét lấy từng
cái một, đập cả chồng đánh bẹp xuống bàn. Rồi vẫn hầm hầm, gã lần lượt giở từng chiếc một
ra xem để phát tiền. May cho Ðiền, cái bưu phiếu của hắn ở trên cùng. Viên thư ký biên
những điều cần, cộp cái dấu đề ngày, vào sổ, rồi ném cái giấy căn cước trả Ðiền. Gã ném theo
cho Ðiền ba tập giấy bạc chỉ thoáng trông cũng biết là rách lắm. Ðiền nhăn mặt: ở nhà quê,
giấy bạc rách quá người ta không chịu lấy. Ðiền kiểm lại. Kể thì cái nào cũng rách, nhưng cố
nhiên là hắn không dám khó tính đến đòi đổi cả. Hắn chỉ nằn nì xin đổi một cái vừa rách làm
ba, vừa nhòe nhoẹt mực. Viên thư ký lắc đầu quảy quày:

- Không biết! không biết! không biết!

Ðiền không còn thể bình tĩnh nữa. Hắn đỏ bừng mặt, ném tờ giấy bạc vào:

- Thế này thì ông bảo tôi tiêu làm sao được?

Lập tức người thư ký đứng phắt lên, sừng sộ với Ðiền:

- Anh muốn tù phải không?

Ðiền biết gã nhận lầm mình bởi cái mũ tàng và cái áo the sờn, nên cứng cỏi nói bằng tiếng
Pháp:

- Ông nên có lễ độ một chút, ông phải biết: ông ăn lương để làm việc cho công chúng chứ
không phải đối đãi với công chúng như những người đi lĩnh chẩn.

- Nhưng... nhưng...

Gã nói không thành câu nữa. Mặt gã cũng đỏ lên như một hòn gạch. Gã lại ngồi phịch xuống.
Gã nhặt tờ giấy bạc, ném ra giả Ðiền:

- Không tiêu được thì vất đi!

Cái quạt điện đang quay, nên tờ giấy bạc bay vèo. Những người chưa lĩnh được tiền sốt ruột,
đẩy Ðiền ra. Ðiền chạy theo tờ giấy bạc, và xô ngã một con bé độ năm sáu tuổi, theo mẹ đi
gửi giấy. Hắn vội vàng đỡ nó dậy, giũ áo quần cho nó. Ðến khi hắn quay ra thì tờ giấy bạc đã
biến đi đâu mất. Trông thấy cái mặt ngây ra của hắn, một vài người cười chế nhạo. Ðiền thấy
mình lố linh. Hắn bực tức chạy vội ra khỏi nhà dây thép, và cúi cổ bước thật nhanh, đi một
quãng dài, không dám quay đầu lại. Ðến khi gần ra khỏi tỉnh, hắn mới đi chậm hơn một chút.
Ấy thế là một đồng bạc mất! Hắn tức lên đến họng. Hắn vừa đi vừa nguyền rủa người thư ký.
Rồi hắn lại nguyền rủa hắn. Bởi vì chính hắn cũng có lỗi một phần vào đấy nữa, hắn ân hận
vì đã không chịu cứ nhận tờ giấy bạc rách ấy để đem lại nhà băng đổi. Hắn cứ loanh quanh
nghĩ đến nó và tiếc mãi. Hắn nhất định nhịn bữa ăn đã định, để bù vào đấy. Hắn buồn bã đi
thẳng về...

Về đến nhà thì trời đã sâm sẩm tối. Ðiền nhọc ươn người. Hắn đi tập tễnh như một người què,
bước vào sân. Vợ hắn gọi hắn ngay:

- Thuốc của cái Hường đâu?

Hắn chợt nhớ ra, thừ mặt, rồi chẳng đáp nửa lời, hắn lại ấm nước, rót ra chén, ừng ực uống.
Hắn uống hết chén này đến chén khác, không còn biết bao nhiêu chén. Mồ hôi vã ra như tắm.
Uống xong, hắn mới vừa thở vừa bảo vợ:

- Tôi quên rồi!

Người đàn bà buông mặt xuống ngay. Thị giận dỗi với chồng:

- Quên! Chỉ quên suốt đời... Có mà tiếc tiền ấy!... Quên... quên thế nào! Người đâu mà có
người tệ thế!...

Ðiền gần muốn nhảy lại vợ mà bóp cổ. Con vợ thật là khốn nạn! Sau một ngày hắn đã phải
chịu không còn biết bao nhiêu nỗi khổ, đấy là những lời thở ra để mà đón hắn! Hắn quắc mắt
lên, và nghiến răng...

- Im ngay! Câm cái mồm!

- Câm... câm cái gì? Mình trông con kia kìa! Mặt nó sưng lên bằng cái lệnh, chẳng còn trông
thấy mắt, và mụn thì đầy lên kia!

Thị nói như người gào. Ðiền đưa mắt nhìn con gái. Mặt nó sưng to thật. Hắn nghẹn ngào
trong cổ, không nói được. Vợ hắn càng gào mãi lên:

- Tiếc tiền! Tiếc tiền!... Nó chết rồi để tiền mà tiêu.

Ðiền tức sùi bọt mép. Mắt hắn lòe ra lửa. Hắn giơ một bàn tay run lên, đánh nhịp cho lời nói
bực dọc đến thành tàn nhẫn:

- Cho nó chết! Cho nó chết!...

Sống làm gì nữa? Nay ốm, mai đau thì chết đi cũng phải!... Sống lắm cũng chỉ khổ và làm
người ta khổ thôi, được gì? Chết đi! Mày chết đi!...

Nói xong, Ðiền hét lớn:


- Thằng Bình đâu?

Không thấy thằng ở chạy lên, Ðiền quát hỏi con:

- Thằng Bình nó đi đâu Hường?

Hường sợ hãi, trả lời bằng một câu đứt làm mấy đoạn:

- Nó lại đau bụng xin về rồi.

- Cả thằng ấy nữa!... Nó cũng chết đi cho rảnh! Nay đau bụng, mai đau bụng... Nay xin về,
mai xin về!...

Hắn vùng vằng đi vào nhà, quăng mũ quăng áo, quăng nốt cả cái thần xác mỏi mệt xuống
một cái giường, thở hổn hển, như để đẩy bớt ra ngoài cái khí giận đang cuồn cuộn trong
ngực. Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy. Hắn nhịn đói từ sáng đến giờ. Hắn
đi bộ què chân, nắng hơ sém cả da. Hắn xẻn từ đồng xu uống nước trở đi. Hắn chịu nhục với
mọi người... Như thế, bởi vì đâu? Chẳng phải vì vợ vì con ư? Nhưng nào vợ con có thèm biết
cho đâu! Ðã chẳng an ủi một lời, vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên để mà đay nghiến hắn.
Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy thuốc cho con là cố ý, là muốn
khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói tệ hắn như vậy hay không? Hắn hà tiện vì
ai? Hắn khổ sở vì ai, riêng vào cái thân hắn chẳng phí phạm một đồng xu nào cả. Mấy mươi
lần vợ hắn giục hắn may một cái áo sơ-mi, hắn chỉ ư hừ rồi để đấy, chưa bao giờ dám bỏ tiền
ra mà may cả. Thế rồi bao nhiêu tiền cũng vào vợ, vào con hết... Hắn bủn xỉn, hắn tiếc tiền...
ừ, nhưng mà hắn tiếc tiền cho ai?... Ðiền cứ càng nghĩ càng thấy hắn là người khổ, vợ hắn là
người tệ bạc. Hắn muốn chẳng thiết gì vợ con, nhà cửa nữa. Hắn sẽ đi phắt một nơi nào, sống
cho mình, đứa nào chết mặc thây, bấy giờ họa chăng vợ hắn mới biết thân!...

Ở ngoài hè, vợ Ðiền bảo thầm con:

- Con vào hỏi xem thày có xơi cơm thì u thổi.

Ðiền nghe thấy mà nuốt bọt. Hắn đang thèm cơm lắm. Nhưng không hiểu sao Ðiền muốn
nhịn, muốn đầy đọa mình cho khổ hơn thế nữa, hơn nhiều nữa. Hắn thấy một cái thú chua
chát trong sự tự làm khổ mình như vậy. Bởi thế khi Hường vào, rụt rè nhắc lại câu mẹ dặn,
Ðiền quát lên với nó:

- Không ăn!

Nó bịu xịu đi ra. Mẹ con thì thầm. Rồi Hường lại rón rén vào.

- Thầy có xơi cháo đậu, để u con đi nấu.


- Không ăn!

Biết rằng chồng giận, vợ Ðiền phải thân hành vào vậy.

Thị ôn tồn nói:

- Mình ăn cơm rồi à?

Ðiền không đáp. Thị lẳng lặng một thoáng, rồi lại bảo:

- Mình ăn từ trưa thì bây giờ đói rồi, còn gì? Hay là mình nhọc, không muốn ăn cơm? Tôi
quấy cho mình một chút bột sắn mình ăn nhé?

- Không ăn! Ðừng hỏi gì lôi thôi!

Vợ Ðiền sầm mặt, ẵm con đi nằm. Ðiền thấy hơi hả dạ. Nhưng bỗng con bé Hường chạy vội
ra đầu chái, về phía giường Ðiền. Ðiền nghe tiếng đôi guốc của nó lẹc kẹc rất nhanh một
thoáng, rồi im lặng. Rồi Hường xịt mũi. Nó xụt xịt rất lâu ngoài ấy. Nó nghẹt mũi hay nó
khóc? Ðiền cố lắng tai nghe. Hắn nghe thấy những tiếng Hường nức nở. Hắn đột nhiên rún
người. Lòng hắn quăng ra. Những ý giận hờn bừa bộn vụt tan. Còn lại cái hình ảnh bé nhỏ
của Hường, với cái mặt đầy mụn và sưng lên của nó, đôi mắt giàn giụa nước và miệng mếu.
Con bé còn nhỏ tuổi nhưng đã rất hay khóc vụng; mỗi lần muốn khóc, nó lại tránh ra một
chỗ, cố nén tiếng, không cho ai biết. Ðiền thấy thương nó quá. Tội nghiệp cho con bé! Nó ốm
đau luôn và thường bị mẹ mắng chửi suốt ngày như tát nước. Mẹ nó mắng chửi nó, nhiều khi
bất công và vô lý. Nhưng lạ thay! Lúc này Ðiền không vin vào đấy mà trách vợ. Hắn thấy vợ
hắn không tệ. Thị vốn thương con lắm. Những lúc thị gắt gỏng với con như thế chỉ là những
lúc thị sốt ruột quá, lo lắng quá. Cũng như hắn vậy, sao hắn nỡ đem lòng giận thị? Ai chả
thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua chát. Khi người ta lam lũ quá,
lại còn lo trăm thứ, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng?
Gắt gỏng thì chính mình khổ trước. Không giữ được thì phải bật ra ngoài như vậy. Thật ra có
ai muốn cau có làm chi?... Vậy thì vợ hắn gắt lên với hắn lúc này cũng chỉ là việc thường
thôi. Cũng như hắn gắt lại với thị và gắt với con. Cũng như ông ký nhà dây thép...

Ngẫm nghĩ một lúc, Ðiền thấy thương ông ấy quá. Ðiền tưởng ra cho ông ấy một gia đình
đông con và túng thiếu tựa nhà Ðiền. Số lương chẳng đủ tiêu. Sau mỗi ngày công việc rối tít
mù, loạn óc lên vì những con số, vì những cái bưu phiếu cái nọ chưa xong đã đến cái kia, ông
mỏi mệt trở về nhà, lại phải nghe mấy đứa con lớn chí chóe đánh nhau, đứa con nhỏ khóc,
chủ nợ réo đòi và vợ thì sưng sỉa hoặc gào thét như một con mẹ dại. Nhà cứ om lên như chợ.
Ðêm nằm ông nghe vợ bàn bạc; ông nghĩ đến trăm thứ tiền, trăm thứ việc, ông nằm mơ thấy
mình trúng số, để sáng hôm sau tưng hửng, lại mải mốt đi đến sở, nhăn mặt lại khi thấy
những người gửi tiền, người lĩnh tiền đi vòng trong, vòng ngoài, và người nào cũng muốn
ông làm trước cho...
Ðiền nhớ đến một ông phán láng giềng nhà hắn, khi hắn còn là một ông giáo một trường tư ở
một vùng ngoại ô kia. Ông có năm con, một mẹ già, một vợ một em. Ông mặc những cái áo
sờn vai và những cái áo sơ-mi nếu không rách cổ thì cũng mạng vá lung tung. Nhà ông chẳng
lúc nào yên, đàn trẻ khóc như ri. Mẹ chồng nghiến rứt con dâu, con dâu cãi lại mẹ chồng. Cô
em nói mỉa mai. Chỉ vì người nào cũng khổ cả, và người nọ cứ tưởng vì người kia mà khổ.
Chiều nào cũng tận đến lúc lên đèn ông phán mới về được đến nhà. Ông ngồi cắm mặt, ăn vội
vàng mấy bát cơm chẳng nói với ai, chẳng nhìn ai. Rồi rút một cái tăm, ông mải mốt đi nằm
để thở một cách hẳn hoi. Nhưng nào ông có được thở hẳn hoi? Bà mẹ vơ lấy ông mà trách
móc nọ kia để chì chiết vợ ông. Vợ ông cũng vơ lấy ông mà khóc mếu, đay chì lại mẹ ông.
Ông chẳng biết bênh ai, chỉ nằm thẳng người ra như kẻ chết rồi, mắt trừng trừng ngó lên trần,
nhiều lúc bực tức quá phải giàn giụa nước... Một buổi chiều đang ngồi trong tiệm ăn, Ðiền
thấy ông lủi thủi bước vào. Ông đến ngồi ở cái bàn con tận trong góc phòng, quay mặt vào
tường. Ông bảo bồi lấy cho ông năm cái chả bánh đa. Ông ăn rất ngon lành. Ăn xong, ông lại
lủi thủi đi ra, nét mặt vô cùng hể hả. Ðiền đưa mắt theo dõi ông từng cử chỉ, chợt nhớ ra rằng
hôm ấy là cuối tháng. Hắn có cảm tưởng như ông đi ăn vụng vợ, con ở nhà...

Ðiền rất bùi ngùi. Hắn bùi ngùi cả cho ông ký đã gây sự với hắn sáng hôm nay. Hắn chắc
rằng vì việc ấy mà tối hôm nay ông còn buồn bực hơn tối mọi ngày. Hắn cũng vậy, hắn chả
thường buồn bực rất lâu vì những việc xảy ra không đáng kể đó ư? Chao ôi! Chẳng qua hắn
và ông cũng cùng khổ như nhau cả đấy thôi! Yên ủi nhau còn chẳng thấy đâu, còn làm khổ
lẫn nhau làm gì nữa? Ðiền hối hận vì cái cử chỉ của mình đối với ông vô cùng...

Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả
những người phải khổ đau. Lòng hắn thiết tha rướn lên, muốn vươn ra để ấp ôm lấy mọi
người. Mắt hắn đầm đìa. Hắn gọi con rất dịu dàng:

- Hường ơi!... Vào đây với thầy con!...

Con bé lau nước mắt xong rồi mới chạy vào. Nó rón rén đứng bên giường:

- Thầy bảo con gì cơ?

- Con lên đây nằm thầy quạt cho.

Vợ hắn biết là chồng mình đã hết giận, bảo chồng:

- Mình lại đây này... Cả cái Hường cũng lại đây, nằm ghé bên em. Em nó ngủ rồi. Mình quạt
cho cả thằng Chuyên với cái Hường. Tôi đi lấy gạo thổi cơm. Lúc nãy còn một ít cơm nguội,
chúng nó ăn, tôi cũng chưa ăn gì…

Phân tích:

- Nước mắt là truyện ngắn được đăng tiểu thuyết thứ bảy số 488 ra ngày 22-11-1943
truyện viết cũng không nằm ngoài đề tài người trí thức nghèo, cảnh nghèo hèn của xã
hội phong kiến sao mà khổ mà bi thảm đến như vậy. Khi Nam Cao miêu tả cách Điền
bị cái quạt điện thổi mất tờ giấy bạc, Điền chạy theo tờ giấy bạc và xô ngã con bé năm
tuổi gì đấy, hắn đỡ nó dậy phủi quần áo cho nó khi quay ra thì tờ giấy bạc đã bị mất,
hắn vừa tủi vừa tức, thế là hắn đành nhịn ăn để tiết kiệm 1 đồng. Cuộc sống vất vả
thiếu thốn làm cho Điền trở nên tính toán, hắn tính toán cả những tiền mua thuốc cho
con, hắn nhịn đói cả ngày vì mất 1 đồng. Lúc thì cái nhìn của tác giả như hoà vào
nhân vật để chia sẻ, an ủi, động viên.
- Ngôn ngữ Nam Cao rất tinh tế, nhạy bén, luôn thay đổi để có một cách nhìn cảm
thông. Sau một ngày mệt nhọc vất vả, hắn cũng quên mất không lấy thuốc cho con.
Về đến nhà vợ hắn không hiểu, không thông cảm cho hắn, không biết ngày hôm đó
hắn phải khổ cực như thế nào, vất vả ra sao, thì giận dỗi vì chồng thì quên không lấy
thuốc cho con, vợ Điền không nghĩ là anh ta quên mà thị chỉ nghĩ chồng tiếc tiền. Thị
thương con ốm đau sưng cả mặt, thị gào lên và oán giận chồng. Nào anh chồng có
sung sướng gì, cuộc sống xã hội phong kiến mang lại đầy rẫy những bất công trong đó
có gia đình nhà Điền. Cái nhìn của Nam Cao về xã hội phong kiến thật bất công đã
đẩy con người đến những bước đường cùng của xã hội.
- Điền cũng như bao anh trí thức nghèo, có học thức mà cái học thức ấy cũng chẳng
làm cho anh sung sướng hơn, luôn sống trong cảnh túng quẫn, những lo toan về cơm
áo chẳng còn làm cho con người thực hiện được những hoài bão ước mơ, phát huy
được những tài năng vốn có của mình.

HỒ CHÍ MINH (1890 - 1969)


MỘ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
VỌNG NGUYỆT
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Phân tích: cả 2 bài phía trên


Hai bài đều là bài thơ mang đủ yếu tố về phong cách sáng tác của Bác
- Tính giản dị và vĩ đại
+ Tính giản dị thể hiện trước hết ở khuôn khổ, kích thước mỗi tác phẩm. Hầu hết các
sáng tác của người tù Hồ Chí Minh là bài thơ tứ tuyệt. Do đó mỗi bài thường chỉ gồm
4 câu thơ, mỗi câu 5 đến 7 chữ, vô cùng ngắn gọn, nhẹ nhàng
+ Tính vĩ đại: Tuy chỉ được sáng tác trong một thời gian ngắn, trong hoàn cảnh tù ngục
khó khăn thiếu thốn, song bài thơ vẫn thể hiện trong đó những sâu sắc, tinh tế về nội
dung và cả tài năng điêu luyện, độc đáo trong bút pháp, nghệ thuật. Nó thể hiện tâm -
tài - trí của một người nghệ sĩ vĩ đại, lớn lao.
=> Giản dị và vĩ đại trong thơ Hồ Chí Minh là hai mặt đối lập mà thống nhất. Điều đó tạo nên
phong cách thơ riêng biệt cho tập Nhật kí trong tù.
- Tính cổ điển và hiện đại
+ Tính cổ điển:
● Khái niệm này thường được đề cập tới trong những bài thơ mang tính nghệ thuật cao
của Hồ Chí Minh. Màu sắc cổ điển trong thơ Người được thể hiện qua các phương
diện sau
● Sử dụng thể thơ cổ điển, nhất là thể thơ tứ tuyệt
● Đề tài chủ yếu là thiên nhiên, đặc biệt là trăng. Có lẽ tâm hồn Á Đông phù hợp với vẻ
đẹp trong sáng, hiền hòa, kín đáo của ánh trăng mà thơ Bác cũng đầy trăng: Nguyên
tiêu, Vọng nguyệt,
● Bút pháp miêu tả: quan sát từ cao đến xa với cái nhìn bao quát, toàn cảnh. Bút pháp
chấm phá là bút pháp nổi bật nhất (chỉ bằng vài nét đơn sơ mà có thể thâu tóm được
linh hồn chung của toàn bộ bức tranh).
+ Tính hiện đại:
● Tính hiện đại ấy thể hiện ở một số đặc điểm sau:
● Điểm thứ nhất, nhân vật trữ tình trong thơ mang cốt cách của một chiến sĩ cách mạng
vĩ đại. Đúng là các bậc “hiền triết”, những con người được gọi là “đại trí” ngày xưa
thường có thái độ hết sức ung dung, tự tại.
● Điểm thứ hai, trong cổ thi, thiên nhiên là chủ thể, con người hay cuộc sống là khách
thể
=> Nhưng trong thơ Bác sự sống con người bao giờ cũng là trung tâm của cảnh. Con người
luôn luôn hành động để cải tạo thế giới, làm chủ thế giới (Mộ - Chiều tối).
● Điểm cuối cùng, cảnh vật trong thơ Người không tĩnh mà luôn vận động, một sự vận
động khỏe khoắn hướng tới ánh sáng và tương lai.Như trong bài Mộ - Chiều tối,
người phân tích thơ nhất thiết phải chú ý đến chữ “hồng”. Một chữ “hồng” mà thắp
sáng cả bức tranh chiều muộn, u buồn nơi hoang vu, heo hút. Con người bấy giờ trong
tư thế làm chủ cuộc sống, cải tạo thiên nhiên.

- “Thép” & “tình”


+ Trong tập Nhật kí trong tù, mỗi vần thơ của Bác đều có sự hòa quyện giữa thép và
tình. Trong đó, thép chính là biểu tượng của người chiến sĩ trong hiện thực cách
mạng, còn tình ở đây là biểu tượng của người thi sĩ trong tinh thần lãng mạn. Hồ Chí
Minh từ một thanh niên mang trong mình một lí tưởng cách mạng cao đẹp ra đi tìm
đường cứu nước đã trở thành một chiến sĩ cách mạng, một vị lãnh tụ luôn cống hiến
hết mình vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Khi Người bị chính quyền Tưởng
Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, Người vẫn cứ ung dung, tự tại, tự coi mình là
“khách quý” của nhà giam. Cái nơi ngục tù ấy chỉ có thể giam hãm được thân xác của
Bác chứ không thể giam hãm được tâm hồn và lý tưởng của Bác.
+ Người nghệ sĩ trước hết phải là người thi sĩ nhưng đồng thời cũng phải là chiến sĩ. Ta
nhận thấy trong “Nhật kí trong tù” có rất nhiều tác phẩm biểu hiện chất thép và tình
một cách trực tiếp của một con người hoàn toàn tự chủ về mặt tinh thần, luôn bình
thản, ung dung, tự tại, tâm hồn như bay lượn trên bầu trời tự do không sức mạnh của
nhà tù nào có thể giam hãm được.

“Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;


Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”

Bài thơ này hoàn toàn không thấy nhà thơ nói đến nỗi đau khổ, bồn chồn vì mất tự do, mà chỉ
thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Thực ra,
trong chốn lao tù, làm sao người thi sĩ có thể được thưởng trăng một cách thoải mái, có lẽ
song cửa nhà lao chỉ đủ để lọt qua một chút ánh trăng thấp thoáng mà thôi. Khi độc giả tiếp
xúc với bài “Vọng nguyệt”, nếu ai chưa được biết đến tập “Nhật kí trong tù” và cũng không
biết rằng bài thơ “Vọng nguyệt” nằm trong tập nhật kí trong tù thì tuyệt nhiên sẽ không nhận
ra bất cứ dấu hiệu nào cho thấy khi sáng tác bài thơ, Bác đang ở trong tù phải cam chịu biết
bao cực khổ và mệt nhọc mà chỉ thấy được một cảm hứng lạc quan và vô cùng lãng mạn của
Bác mà thôi. Qua bài “vọng nguyệt”, ta không thể nào thấy được chút dấu vết của hiện thực
lúc bấy giờ - một hiện thực cách mạng đầy gian truân với cảnh tù đày xiết bao khổ cực đối
với người chiến sĩ cách mạng.

Khi nói đến chất tình cũng chính là thép, hay nói đúng hơn là không phải cứ giương cao tính
chiến đấu, giọng điệu hừng hực khí thế đấu tranh, mỗi câu thơ là một mũi tên tấn công kẻ thù
thì mới là chất thép mà có những tác phẩm mang giọng điệu trữ tình đằm thắm ta vẫn thấy có
chất thép ở trong đó.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.”

(Chiều tối)

Giữa khung cảnh âm u, mịt mùng của rừng núi, trên đường chuyển lao bị áp giải không một
phút được dừng chân, trong khi người tù đã mỏi mệt thì tưởng chừng như cảnh vật cũng bị
chìm vào trong bóng tối. Nhưng không, chỉ bằng một từ hồng, nhà thơ đã xóa sạch đi đêm
tối. Thay vào đó là niềm vui, sự hân hoan, đó cũng chính là màu hồng trong tư tưởng của
Bác, là cái tình mênh mông bát ngát Bác dành cho con người và cảnh vật. Chữ hồng cũng
ngụ ý cho ta thấy rằng tuy trong cảnh tù đày mà Bác coi cảnh vật và cuộc sống như một màu
hồng, Người luôn hướng về cuộc sống lạc quan với một tư tưởng cách mạng kiên cường,
cứng rắn như thép, không chút sờn lòng.

You might also like