You are on page 1of 54

Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ÐỀ CHUNG VỀ VĂN HỌC TRUNG ÐẠI VIỆT NAM

I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi,
suốt hàng nghìn năm phát triển, văn học trung đại đã phản ánh đƣợc đất nƣớc Việt, con ngƣời Việt, đồng thời là ý
thức của ngƣời Việt về tổ quốc, dân tộc. Nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính quá trình đấu tranh dựng nƣớc, giữ
nƣớc vĩ đại của dân tộc, đồng thời lại là sức mạnh tham gia vào quá trình đấu tranh này. Chính từ văn học trung
đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát triển và ảnh hƣởng rất rõ đến sự vận động
của văn học hiện đại. Vì lẽ đó, nghiên cứu văn học trung đại nhằm mục đích:

- Tìm về với quá khứ hào hùng của dân tộc trong một nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc

- Nâng cao lòng tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc

- Tìm hiểu những nét đặc sắc trong đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời Ðại Việt xa xƣa

- Góp phần lý giải các quy luật phát triển của văn học dân tộc.

II. NHỮNG YÊU CẦU CÓ TÍNH PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHI NGHIÊN CỨU VHTĐ

- Phải đảm bảo yêu cầu trung thực, khách quan, không võ đoán, phiến diện.

- Phải có lƣợng kiến thức phong phú về ngôn ngữ, triết học, sử học.. đặc biệt là những hiểu biết về lịch sử và văn
chƣơng Trung Quốc.

- Phải đặt văn học trung đại trong mối quan hệ với văn học dân gian và văn học hiện đại để tìm ra sự kế thừa, phát
triển.

III. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

- Kho tàng VHTÐ đã mất mát khá nhiều theo thời gian do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan:

+ Do chiến tranh, loạn lạc, sách vở bị thiêu hủy.

+ Do các vụ án chính trị có dính dáng đến các nho sĩ quan liêu, lực lƣợng sáng tác chủ yếu của văn học trung đại.

+ Do công tác bảo tồn, sƣu tầm tƣ liệu chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.

- Một số tác phẩm chƣa xác định đƣợc thời điểm ra đời, tác giả, tính chính xác của văn bản..

- Việc tiếp cận, đánh giá tác phẩm khó tránh khỏi suy diễn, áp đặt do thiếu tƣ liệu để kiểm chứng.

IV. CƠ SỞ HỆ Ý THỨC VÀ QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC

1.Cơ sở hệ ý thức:

VHTÐ đƣợc sáng tác dựa trên cơ sở hệ ý thức Nho- Phật- Lão, chủ yếu là đạo Nho. Ảnh hƣởng của các học
thuyết triết học này đã dẫn đến việc hình thành những nét đặc thù trong quan niệm của con ngƣời trung đại về:

+ Bản chất của vũ trụ

http://diendankienthuc.net 1 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+ Không gian và thời gian

+ Thiên nhiên

+ Con ngƣời

Những quan niệm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trƣng về nội dung và hình thức nghệ thuật của
văn chƣơng trung đại. Vì vậy, muốn lý giải những vấn đề thuộc về bản chất của văn chƣơng trung đại, cái hay, cái
đẹp của các tác phẩm thời trung đại, tất yếu, phải dựa trên cơ sở những quan niệm nghệ thuật đặc thù về thế giới
và đời sống con ngƣời ở thời kỳ trung đại.

2. Về quan niệm sáng tác

Văn học viết là sản phẩm của trí thức dân tộc. Ngày xƣa, các tầng lớp trí thức luôn chịu ảnh hƣởng rõ rệt của Nho
học. Từ lâu, Nho gia đã gắn văn với đạo: Văn sở dĩ tải đạo dã. Chu Ðôn Di đời Tống, qua nhận định của mình,
thừa nhận một quan niệm rất quan trọng của rất nhiều thế hệ Nho gia trƣớc đó về tính chất và ý nghĩa của văn học.
Quan niệm này coi văn là cái hình thức, cái để chứa, để chuyên chở đạo lý. Vì vậy, đạo mới chính là nội dung.
Mệnh đề văn dĩ tải đạo và thi ngôn chí có thể khái quát đƣợc một cách căn bản quan niệm sáng tác của các nhà văn
thời trung đại.

Ngƣời xƣa đời hỏi tác phẩm phải thực sự chân thành, văn học phải là tiếng nói phát ra từ đáy lòng nhƣng nội dung
đó phải đƣợc thống nhất trong một hình thức đẹp để phục vụ, làm cho nội dung thêm hay.

Do nhận thức rằng văn là dùng để biểu hiện các chân lý phổ biến, là hình thức đẹp để chuyển tải nội dung đi xa
(Ngôn nhi vô văn, hành chi bất viễn- Khổng Tử) nên ở thời kỳ trung đại, phạm vi của văn học đƣợc quan niệm rất
rộng. Từ công việc chép sử, luận triết học, viết chiếu, chế, biểu, cáo, hịch,.. đều trau chuốt hình thức câu văn sao
cho ý đẹp lời hay.

Văn dùng để chuyên chở đạo lý nên ngƣời xƣa rất xem trọng văn chƣơng. Nó có chức năng giáo hóa (giáo dục,
làm thay đổi nhân cách của con ngƣời theo hƣớng tốt đẹp hơn) và di dƣỡng tính tình (giúp bản thân nhà văn thanh
lọc tâm hồn, bày tỏ tâm sự trung quân ái quốc, nuôi dƣỡng nhân cách ngƣời quân tử).

Nhìn chung, quan niệm Văn chở đạo ảnh hƣởng rất rõ đến mục đích viết văn, phạm vi đề tài, hình thức thể hiện.
Tuy nhiên, càng tách rời khỏi giáo điều Nho gia, càng gần với thực tế cuộc sống dân tộc, các tác giả trung đại càng
phát huy đƣợc mặt tích cực của quan niệm đó. Xu hƣớng này thể hiện rất rõ trong suốt chiều dài phát triển của
VHTÐ.

V. PHÂN KỲ LỊCH SỬ VHTĐ

Lịch sử văn học luôn quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc, đến cuộc đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân
tộc. Mỗi khi dân tộc bƣớc vào một thử thách mới, lập tức, nội dung văn học cũng phải có sự chuyển biến và dần
dần diễn ra những thay đổi về nội dung, hình thức thể hiện.

Lịch sử văn học có những quy luật nội tại và tính độc lập tƣơng đối của nó. Trong từng giai đoạn, có thể không có
sự trùng hợp hoàn toàn giữa lịch sử văn học và lịch sử dân tộc nhƣng vẫn có thể căn cứ vào lịch sử dân tộc để phân
kỳ lịch sử văn học, bởi, xét đến cùng, văn học bao giờ cũng là tấm gƣơng phản ánh trung thành thời đại. Căn cứ
vào các yếu tố lịch sử, đặc trƣng nội dung và hình thức nghệ thuật, có thể phân kỳ lịch sử VHTÐ VN nhƣ sau:

+ Giai đoạn văn học Lý- Trần (Từ TK XI đến TK XIV)

+ Giai đoạn văn học đời Lê (TK XV)

http://diendankienthuc.net 2 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+ Giai đoạn văn học từ TK XVI đến nửa đầu TK XVIII

+ Giai đoạn văn học từ nửa sau TK XVIII đến nửa đầu TK XIX

+ Giai đoạn văn học nửa cuối TK XIX (Văn học yêu nƣớc chống Pháp)

VI. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM

1. Chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa nhân đạo- hai dòng chủ lƣu của VHTÐVN.

a. Chủ nghĩa yêu nƣớc:

Văn hóa Ðại Việt, văn chƣơng Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ những
thành tựu văn hóa và từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm phƣơng Bắc.

Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm
nhƣ dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc
Minh. Quang Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại đƣợc tiến hành trong trƣờng kỳ
lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự
hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam:
Chủ nghĩa yêu nƣớc.

Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hƣớng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý chí
quật cƣờng, khát vọng chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gƣơng
yêu nƣớc, những ngƣời anh hùng dân tộc quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét
nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc.

Quá trình đấu tranh giữ nƣớc tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào dân
tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hƣng thịnh hay suy vong nhƣng ý thức dân tộc,
nội dung yêu nƣớc trong văn học vẫn phát triển không ngừng.

Các tác phẩm văn học yêu nƣớc thời kỳ này thƣờng tập trung thể hiện một số khía cạnh tiêu biểu nhƣ:

- Tình yêu quê hƣơng

- Lòng căm thù giặc

- Yï thức trách nhiệm

- Tinh thần vƣợt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc

- Ý chí quyết chiến, quyết thắng

- Ðề cao chính nghĩa của ngƣời Việt Nam trong những cuộc kháng chiến.

b. Chủ nghĩa nhân đạo

Văn học do con ngƣời sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con ngƣời. Vì vậy, tinh thần nhân đạo là
một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu
hƣớng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hƣớng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa
nhân đạo nhƣ:

http://diendankienthuc.net 3 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Khát vọng hòa bình

- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trƣớc hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân chia
giai cấp

- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con ngƣời, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến.

- Ca ngợi vẻ đẹp của con ngƣời lao động

- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.

2. Văn học viết phát triển dựa trên những thành tựu của văn học dân gian

- Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều phải phát triển trên cơ sở kế thừa
những tinh hoa của văn học dân gian. Trong tình hình cụ thể của VHTÐVN, mối quan hệ giữa văn học viết và văn
học dân gian chủ yếu là do các nguyên nhân sau:

+ Sau khi nƣớc nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nƣớc phong kiến Việt Nam cần phải chú ý là việc xây
dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại âm mƣu bành trƣớng, đồng hóa của kẻ thù phƣơng
Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc.

+ Những tác phẩm bằng chữ Hán trong thời kỳ này thƣờng dễ xa lại với quần chúng bình dân, tác phẩm ít
đƣợc truyền tụng rộng rãi. Vì vậy, càng về sau, nhu cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh
mẽ. Trong quá trình giải quyết vấn đề này, chỉ có văn học dân gian là nhân tố tích cực nhất.

Quá trình kế thừa, khai thác VHDG là một quá trình hoàn thiện dần các yếu tố tinh lọc từ VHDG bắt đầu từ thơ ca
Nguyễn Trãi về sau (Thời Lý- Trần, việc tiếp thu nguồn VHDG chƣa đƣợc đặt ra đúng mức).

+ Văn học viết tiếp thu từ văn học dân gian chủ yếu là về đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mỹ, chủ
yếu là khía cạnh ngôn ngữ và thể loại.

+ Trong quá trình phát triển, hai bộ phận luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để
cùng phát triển (Những tác động trở lại của văn học viết đối với văn học dân gian.

3. Văn học viết phát triển dựa trên cơ sở tiếp thu, tinh lọc những yếu tố tích cực của hệ ý thức nƣớc ngoài

- Sự du nhập của các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu do các nguyên nhân sau:

+ Vấn đề giao lƣu văn hóa giữa các dân tộc là một vấn đề mang tính quy luật. Từ xƣa, nƣớc ta và các vùng
phụ cận đã có sự giao lƣu văn hóa nhƣng chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu là từ Trung Quốc sang.

+ Hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta không tránh khỏi bị ảnh hƣởng bởi sự bành trƣớng văn hóa và nhất là
âm mƣu đồng hóa của kẻ thù. Những tên quan lại phƣơng Bắc sang đô hộ Việt Nam không chỉ bóc lột, vơ vét tài
nguyên mà còn truyền bá rộng rãi các học thuyết triết học có nguồn gốc từ Trung Quốc vào Việt Nam một cách
khéo léo và thâm hiểm.

+ Khi nhà nƣớc phong kiến VN bắt đầu hình thành, giai cấp thống trị không có mẫu mực nào khác hơn là
nhà nƣớc PK TQ đã tồn tại trƣớc đó hàng nghìn năm và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc lợi dụng các học
thuyết triết học nhƣ một công cụ đắc lực trong việc củng cố ngai vàng, thống trị nhân dân.

http://diendankienthuc.net 4 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Các học thuyết Nho- Phật- Lão đều có những điểm tích cực nhất định nên các nhà tƣ tƣởng lớn của Việt Nam
thời Trung đại đã chú ý khai thác, tinh lọc, vận dụng sao cho nét tích cực đó phát huy tác dụng trong hoàn cảnh cụ
thể của từng giai đoạn lịch sử.

4. Văn học chữ Hán phát triển song song với văn học chữ Nôm

Ngay từ khi đƣợc các nhà văn mạnh dạn đƣa vào sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng khẳng định vị trí của mình
bên cạnh chữ Hán vốn đã có ảnh hƣởng sâu sắc trong văn học thời Lý Trần.

Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao, biểu hiện lòng tự hào, ý
thức bảo vệ ngôn ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mƣu đồng hóa của kẻ thù.

Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học chƣa đƣợc phổ biến.

Từ thế kỷ XV về sau, Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đƣa chữ Nôm vào sáng tác văn học. Thơ ông tuy chƣa đƣợc trau
chuốt nhƣng đậm đà bản sắc dân tộc.Thành công của Nguyễn Trãi chính là tiền đề cho con đƣờng phát triển của
văn học chữ Nôm đến đỉnh cao Truyện Kiều.

5. Thơ phát triển sớm và mạnh hơn văn xuôi.

Ở thời trung đại, văn chính luận mang tính quan phƣơng chủ yếu là công cụ của nhà nƣớc phong kiến. Mặt khác,
những đặc thù trong tƣ duy nghệ thuật, truyền thống sáng tác dẫn đến một thực tế là các tác phẩm văn xuôi hình
tƣợng chỉ chiếm một số lƣợng khiêm tốn so với các tác phẩm thơ ca.

Thể thơ thƣờng sử dụng nhất trong VHTÐ là thơ Ðƣờng luật. Ðây là hệ quả của quá trình giao lƣu văn hóa lâu dài
và nằm trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ cổ điển. Trong thời kỳ này, thơ Ðƣờng luật đã đƣợc chính quy
hóa trong văn chƣơng trƣờng ốc và văn chƣơng cử tử. Cho nên, sự thống trị văn đàn của thơ Ðuờng luật trong bất
kỳ một tập thơ nào thời trung đại là một điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Ðƣờng luật với tƣ cách là một thể thơ chính thống trong các kỳ thi và trong sáng tác
đã gây không ít trở ngại trong nội dung thể hiện do bị chi phối bởi sự ngặt nghèo của luật thơ chặt chẽ.

Ở thời Nguyễn Trãi, thơ luật Ðƣờng biến thể thành thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo, độc đáo, phóng
khoáng, rất phù hợp với cách nghĩ, cách nói, tâm lý của dân tộc nên đƣợc một số nhà thơ đời sau tiếp tục sử dụng
(Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm).

6. Việc sử dụng điển tích và các hình ảnh tƣợng trƣng ƣớc lệ- những thủ pháp nghệ thuật đƣợc sử dụng
phổ biến trong văn chƣơng trung đại

Ðể miêu tả, ngƣời ta cho rằng cần phải có những mẫu mực mà qua nhiều thời kỳ đã đƣợc mặc nhiên chấp nhận sử
dụng. Quan điểm ƣớc lệ không chú ý đến logic đòi sống, đến mối quan hệ thực tế của các hình ảnh mang tính chất
mẫu mực, công thức. Vì thế, khi phân tích các hình ảnh ƣớc lệ, chúng ta không cần đặt vần đề có lý hay không có
lý, đúng hay không đúng thực tế mà chỉ xem xét sức mạnh khơi gợi của hình tƣợng có sâu sắc hay không, hình
tƣợng có đƣợc dùng đúng tình đúng cảnh và thể hiện đƣợc tƣ tƣởng tình cảm của nhà thơ hay không

http://diendankienthuc.net 5 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Chƣơng 2: KHÁI QUÁT VĂN HỌC LÝ- TRẦN

Chọn thời đại Lý- Trần làm giai đoạn mở đầu cho VHTÐ Việt Nam, các nhà nghiên cứu nhằm khẳng định rằng
đây chính là thời đại phục hƣng của văn hóa dân tộc, thời đại mở đầu cho nền văn minh Thăng Long, đánh dấu
bƣớc trƣởng thành của một dân tộc vừa giành lại độc lập tự chủ sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

1. Về chính trị:

- Thời đại Lý- Trần đảm đƣơng hai sứ mệnh lịch sử to lớn: Hƣng văn trị và định vũ công, bảo vệ tổ quốc, chống
họa xâm lăng và xây dựng nền móng vững chắc cho chế độ phong kiến vừa hình thành.

- Ðời Lý, Lý Thƣờng Kiệt chống Tống; đời Trần, Trần Hƣng Ðạo chống Nguyên Mông (3 lần). Thời kỳ này, triều
đại Lý- Trần còn phải tiến hành những cuộc chiến tranh chống họa xâm lăng phƣơng Nam (Chiêm Thành). Chiến
tranh tất yếu phải có hủy hoại, hao ngƣời tốn của nhƣng tính chất chính nghĩa và thắng lợi vẻ vang của những
cuộc kháng chiến vệ quốc đã tạo thêm khí thế hào hùng, bản lĩnh, sự tự tin cho một dân tộc nhỏ bé ở phƣơng Nam.

- Mặt khác, thời đại Lý- Trần còn phải đảm đƣơng sứ mệnh xây dựng chế độ phong kiến, chế định kỷ cƣơng, điển
lễ, văn hiến cho một quốc gia phong kiến có chủ quyền, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển của chế độ
phong kiến Việt Nam trong các thế kỷ sau.

2. Về kinh tế:

a. Chế độ đại điền trang là một đặc điểm kinh tế cơ bản thời Lý- Trần. Nó dựa trên cơ sở xâm lấn đất đai của các
làng xã, biến ngƣời nông dân thành ngƣời nông nô. Ruộng đất trong thời kỳ này thuộc về công điền. Về thực tế,
ruộng đất do các làng xã quản lý và sử dụng bằng cách chia cho nông dân lĩnh canh rồi nộp tô thuế cho triều đình.
Ðó là nguồn thu nhập chủ yếu của chính quyền trung ƣơng vì ruộng đất công chiếm đại bộ phận trong thời đó. Vua
có quyền lấy ruộng đất công bất kỳ lúc nào để dùng vào những mục đích riêng của mình. Theo Thiền uyển tập
anh, sau kkhi chữa đƣợc bệnh cho Lý Thần Tông, nhà sƣ Nguyễn Minh Không bèn đƣợc phong mấy trăm hộ.
Ruộng thực hộ là do nông dân tự do cày cấy và nộp tô.

(Xét đến cùng, nến kinh tế độc lập- điền trang cho phép bọn quý tộc vừa có nông nô, địa vị, thế lực chính trị và đôi
khi còn có cả lực lƣợng quân đội riêng trong điền trang. Ðây là một trở ngại lớn cho xu hƣớng trung ƣơng tập
quyền khi chế độ phong kiến Việt Nam dần đi vào con đƣờng ổn định, phát triển)

- Ở thời Lý, chế độ đại điền trang vẫn còn mang một số yếu tố tích cực nên vẫn có khả năng thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế xã hội.

- Ðến đời Trần, kinh tế đại điền trang đi vào con đƣờng lạc hậu. Vua chúa, quý tộc lợi dụng chính sách này để
cƣớp giật ruộng đất của nông dân ngày càng nhiều. Sự khủng hoảng của nền kinh tế đại điền trang đã dẫn đến sự
bùng nổ của rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông nô, nô tỳ và một số ý kiến cải cách của các sĩ phu. Tính chất công
điền dần lỗi thời nhƣờng chỗ cho chế độ sở hữu cá nhân về mặt ruộng đất sẽ đƣợc thực hiện vào thời kỳ nhà Hậu
Lê.

- Những năm Hồ Quý Ly ở ngôi, ông đã có một số cải cách quan trọng về kinh tế đặc biệt là thực hiện nghiêm
khắc chính sách hạn điền hạn nô nhƣng những cải cách đó đều thất bại do các nho sĩ và quần chúng không ủng hộ
chế độ ngụy triều.

b. Các triều vua đầu thời kỳ Lý- Trần đều rất quan tâm phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đời Lê Hoàn đã tổ chức
lễ cày ruộng để thể hiện tinh thần coi trọng nghề nông (Cứ đến đầu tháng giêng, nhà vua đích thân cày một thửa

http://diendankienthuc.net 6 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

ruộng mở đầu năm sản xuất). Hệ thống đê ở các con sông lớn đƣợc quan tâm triệt để nhằm bảo vệ mùa màng,
chống lụt lội. Các chức quan Hà đê (chánh sứ và phó sứ) đƣọc đặt ra để chuyên coi việc đào kênh ngòi, đắp đê
phục vụ giao thông, thủy lợi. Việc mở rộng diện tích canh tác, tổ chức khuyến khích khai hoang cũng đƣợc quan
tâm.

c. Thủ công nghiệp, nhờ đƣợc quan tâm, cũng ngày càng phồn thịnh. Nghề dệt gấm, sản xuất nông cụ, vải lụa, đồ
gốm, đồ sứ, đồ đồng, vũ khí, xe thuyền, khắc bản in, nung vôi, dệt the,.. đã phát triển mạnh ở các làng nghề,
phƣờng hội truyền thống

3. Về xã hội

Sự phát triển của các học thuyết Nho- Phật- Lão trong giai đoạn đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam đã ảnh
hƣởng sâu sắc đến sự hình thành, phân chia đẳng cấp trong xã hội Lý- Trần. Cụ thể:

a. Ở thời Lý, đạo Phật lan truyền khắp nƣớc ta, có xu hƣớng phát triển thành quốc giáo, chủ yếu do các nguyên
nhân sau:

+ Chiến tranh ly loạn, lòng ngƣời chán nản muốn tìm đến con đƣờng siêu thoát của đạo Phật.

+ Ðạo Phật đã du nhập vào Việt Nam khá sớm, trong thời kỳ Bắc thuộc và đã có ảnh hƣởng rất sâu sắc ở
thời kỳ Ðinh, Tiền Lê.

+ Vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là ngƣời xuất thân từ đạo Phật. (Ðời Lê Ngọa Triều, ông giữ chức Tả thân
vệ điện tiền chỉ huy sứ. Về sau, vua Lê Ngọa Triều hoang dâm, hung ác, triều thần nổi dậy lật đổ ngôi vua Tiền
Lê, đƣa Lý Công Uẩn lên ngôi báu, sáng lập ra nhà Lý). Do xuất thân từ đạo Phật, Lý Thái Tổ đặc biệt quan tâm
đến sự phát triển của Phật giáo ở Việt Nam.

+ Nhân dân ta vốn có truyền thống nhân đạo nên rất dễ tiếp thu các lý thuyết từ bi, bác ái của đạo Phật

- Vai trò độc tôn của Phật giáo đã dẫn đến việc phân chia các giai cấp trong xã hội thời Lý nhƣ sau:

+ Giai cấp đƣợc trọng vọng nhất thời Lý là giai cấp quý tộc và tăng lữ. Các nhà sƣ thƣờng có vị trí cao trong
triều đình và thậm chí còn có mối quan hệ huyết thống với hoàng tộc. (Sƣ Viên Chiếu là ngƣời trong hoàng tộc, sƣ
Mãn Giác là con quan đại thần,..)

+ Giai cấp quần chúng bị trị thời Lý gồm nông dân ở các làng xã, nông nô, nô tỳ ở các điền trang, thợ thủ
công, lái buôn.

b. Ở thời Trần, đạo Phật vẫn còn ảnh hƣởng rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc nhƣng vị trí độc tôn của
nó đã dần phải nhƣờng chỗ cho Nho giáo do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Từ triều Trần trở đi, tính chất trung ƣơng tập quyền cao hơn dẫn đến nhu cầu gạt bỏ vị trí cố vấn tối cao của các
vị quốc sƣ trong triều đình.

- Chính sách đề cử và thế tập bị bãi bỏ. Nhà Trần tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài vào làm việc cho triều
đình. Nội dung thi cử là kinh sách của đạo Nho. Thực tế này đã dẫn đến việc hình thành một tầng lớp Nho sĩ tham
gia ngày càng nhiều vào công việc triều chính, lấn át dần vị trí của các nhà sƣ tham gia triều chính trong giai đoạn
trƣớc đó. Nhân sinh quan của các Nho sĩ có phần đối lập với nhân sinh qua Phật giáo vì thế, ngay từ rất sớm, đã
diễn ra hàng loạt các cuộc đấu tranh trên phƣơng diện tƣ tƣởng của các Nho sĩ nhằm chống lại Phật giáo mà những
ngƣời tiêu biểu là Ðàm Sĩ Mông, Lê Văn Hƣu, Trƣơng Hán Siêu,..

http://diendankienthuc.net 7 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Do đạo Nho phát triển, nho sĩ trở thành giai cấp đƣợc trọng vọng bên cạnh giai cấp quý tộc và trở thành lực
lƣợng chính trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, góp phần nắm giữ, thiết chế kỷ cƣơng, ca ngợi, bảo vệ uy
quyền phong kiến và đấu tranh chống nạn ngoại xâm.

Các giai cấp bị trị thời Trần vẫn là nông dân, nông nô, nô tỳ, thợ thủ công, lái buôn,..

4. Về giáo dục và nghệ thuật:

a. Việc giáo dục đã đƣợc quan tâm từ rất sớm. Năm 1070, Lý Thánh Tông lập Văn Miếu ở quốc đô Thăng Long.
Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi tam trƣờng và năm 1076 mở Quốc Tử giám chuyên lo việc giảng thuật
Nho giáo. Các năm 1086, 1152, 1165, 1193 đều có mở kỳ thi. Ðến đời Trần, các kỳ thi Nho giáo đƣợc tổ chức
thƣờng lệ và có quy mô rộng rãi hơn thời Lý.

b. Tiếp thu những thành tựu rực rỡ của văn nghệ dân gian, các ông vua thời Ðinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã nối tiếp
xây dựng một nền văn nghệ cung đình giàu bản sắc dân tộc. Ca múa nhạc cung đình ở các triều Lý- Trần đều bắt
nguồn từ ca múa nhạc dân gian (Múa rối, hát chèo, hát tuồng thƣờng đƣợc các ông vua thời Lý- Trần đặc biệt yêu
thích)

Phần lớn các công trình kiến trúc điêu khắc ở thời Lý- Trần đã bị hủy hoại trong 20 năm đô hộ của giặc Minh
nhƣng theo các tài liệu sử học, khảo cổ học và một số di chỉ còn lại, có thể khẳng định rằng vƣơng triều Lý- Trần
đã cho xây dựng nhiều công trình lớn (Năm 1031, có 950 ngôi chùa đƣợc xây. Tháp Báo Thiên cao 12 tầng. Tháp
Sùng Thiên ở Sơn Nam, Hà Nam Ninh ngày nay, cao đến 13 tầng. Các di tích chùa Một cột, chùa Keo, chùa Thầy,
tháp Bình Sơn, chuông Quy Ðiền,.. đều cho thấy sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lý
Trần)

II VĂN HỌC ĐỜI LÝ

1. Văn học đời Lý mang nặng hệ ý thức Phật giáo

a. Ðặc điểm của văn học đời Lý là lực lƣợng các nhà sƣ sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Theo sách Thiền uyển
tập anh, đời Lý có khoảng hơn 40 nhà sƣ sáng tác với những tên tuổi tiêu biểu nhƣ: Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên
Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm,..Trong số đó, nhiều nhà sƣ chiếm địa vị cao trong xã hội và triều đình nhà Lý.
Sự thống lĩnh văn đàn chủa các nhà sƣ đời Lý có thể giải thiïch bằng những nguyên nhân sau:

- Ở thời kỳ này, Phật giáo chiếm địa vị độc tôn trong đời sống tinh thần của dân tộc. Sự bành trƣớng của Phật giáo
dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân là tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. Ðể đáp ứng nhu
cầu đó, bên cạnh việc thuyết giảng, các nhà sƣ còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các nội dung
triết lý vốn rất trừu tƣợng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp ngƣời
học đạo đƣợc thuận lợi hơn trong quá trình nghiên cứu, học tập.

- Văn học thời kỳ này viết bằng chữ Hán nên chủ yếu, chỉ có các nhà sƣ mới có đủ trình độ uyên bác để sáng tác
thơ văn

b. Thiền Tông là chi phái thể hiện khà rõ quan niệm triết học trong tác phẩm của các nhà sƣ đời Lý. Nó thiên về sự
tu dƣỡng tự thân, lấy tâm định làm phép tu dƣỡng. Ðiều này đƣợc Thƣợng sĩ Trần Quốc Tảng tóm tắt trong một
câu ngắn gọn nhƣng có giá trị khái quát toàn bộ những vấn đề cơ bản của triết học Thiền tông: Phật tức tâm, tâm
tức Phật (Phật tâm ca)

c. Quan niệm Thiền tông rất gần với đạo Phật nguyên thủy ở thuyết phiếm thần luận, cho rằng:

http://diendankienthuc.net 8 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+ Thiên địa vạn vật cùng một bản thể và chính vì thế, trƣớc đức Phật, mọi ngƣời đều bình đẳng. Dựa trên
quan niệm đó, văn học Phật giáo đời Lý thƣờng thể hiện sự tƣơng đồng, sự vĩnh cửu của bản ngã

Bát nhã chân vô tông

Nhân không ngã diệc không

Quá hiện vị lai Phật

Pháp tính bản tương đồng (Lý Thái Tông)

Bản ngã của mọi ngƣời đều giống nhau, đều quy về chữ Không vốn là bản thể vũ trụ, là cái hằng thƣờng, bất diệt,
là điểm tận cùng của mọi quá trình biến đổi. Cho nên, Ðoàn Văn Khâm trong bài Vãn Quảng Trí thiền sƣ đã viết:

Các đạo hữu không nên đau thƣơng về sự vĩnh biệt

Nùi sông trƣớc chùa trông ra ấy là chân hình của nhà sƣ

Nhà sƣ đã mất nhƣng chân thể, bản thể vẫn còn tồn tại trong thế giới, trong vạn vật. Ðó chính là sự tƣơng đồng và
vĩnh cửu của bản ngã.

+ Quan niệm Sắc không cho rằng thế giới biến hóa vô cùng. Kiều Bản Tịnh trong Kính trung xuất hình
tƣợng đã so sánh cái có trong thế giới hiện hữu của con ngƣời thực chất chỉ là huyễn, cái không mới chính là thực,
là sự tồn tại vĩnh cửu của con ngƣời. Ðiều này giống nhƣ sự tồn tại của cái bóng trong gƣơng:

Huyễn thân bản tự không tịch mịch

Do như kính trung xuất hình tượng

Hình tượng giác liễu nhất thiết không

Huyễn thân tu du chứng thực tướng

Nguyên phi Ỷ Lan kêu gọi hãy gạt bỏ mọi phán đoán về cái sắc và cái không trong thế giới vật chất và chỉ có nhƣ
vậy, ngƣời học đạo mới tiến đến chỗ khế hợp với chân tông:

Sắc tức không, không thị sắc

Không thị sắc sắc tức không

Sắc không câu bất quản

Phương đắc khế chân tông

Bài kệ nổi tiếng Cáo tật thị chúng của nhà sƣ Mãn Giác là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm sắc không thâm thúy
của nhà Phật qua sự đối sánh giữa thời gian tuần hoàn, vô cùng vô tận của vũ trụ với thời gian tuyến tính ngắn
ngủi trong cuộc đời con ngƣời. Bài thơ tuy thể hiện quan niệm triết học của Phật giáo nhƣng cũng mang lại niềm
hy vọng cho con ngƣời trong cuộc sống:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai


http://diendankienthuc.net 9 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

d. Tuy nhiên, là nhà thơ, các vị tăng lữ vẫn trải cảm xúc chân thành của mình trong những bài thơ tả cảnh thiên
nhiên tƣơi đẹp. Khung cảnh thiên nhiên trong thơ của các nhà sƣ vẫn chịu sự chi phối của cái nhìn sắc không.
Chẳng hạn:

Vạn lý thanh giang vạn lý thiên

Nhất thôn tang giá nhất thôn yên

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền (Ngƣ nhàn- Không Lộ)

e. Mặt khác, trong thơ văn của các nhà sƣ đời Lý, ta còn có thể bắt gặp những tƣ tƣởng tích cực, tiến bộ, xa lạ với
quan niệm của phật giáo chính thống:

- Những ý kiến chống quan điểm giáo điều của trƣờng phái cực đoan cho rằng phải tuyệt đối thoát ly trần tục.

- Thái độ nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của các nhà sƣ, khát vọng hòa nhập vào cuộc đời, tham gia gánh vác
những khó khăn của đất nƣớc trong thời kỳ đầu xây dựng.

2. Thơ văn đời Lý phản ánh tinh thần yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc

Có thể nói, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nƣớc trong văn học hình thành và phát triển mãi mãi trong các
giai đoạn sau. Hai tác giả tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nƣớc trong văn học đời Lý là Lý Công Uẩn và Lý Thƣờng
Kiệt. Chủ đề yêu nƣớc trong thơ văn họ thƣờng thể hiện ở những cung bậc trầm hùng khác nhau nhƣng ý nghĩa
chung nhất vẫn là tiếngnói lạc quan, chiến đấu của thời đại, tiếng nói tự hào của một dân tộc đang vƣợt qua những
thử thách để khẳng định mình

a. Tác giả Lý Công Uẩn: Trong lịch sử văn học, tên tuổi của ông gắn liền với bài Chiếu dời đô có giá trị lịch sử to
lớn bởi lẽ việc đổi quốc hiệu, quốc đô đánh dấu bƣớc chuyển mình trong công cuộc xây dựng cơ đồ độc lập tự chủ
của dân tộc Ðại Việt, đáp ứng nhu cầu củng cố vƣơng quyền phong kiến và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Giá trị văn học của tác phẩm là ở chỗ nó đánh dấu những thành công bƣớc đầu về nghệ thuật viết văn chính luận
trong VHTÐ.

Bài chiếu đã nâng Lý Thái Tổ lên một tầm cao khác thƣờng. Nó khẳng định một cái nhìn đúng đắn về xu hƣớng
phát triển tất yếu của lịch sử của vị vua khai sáng nhà Lý cách đây gần nghìn năm.

b. Tác giả Lý Thƣờng Kiệt: Tên tuổi của ông gắn liền với chiến công chống Tống và hai tác phẩm có giá trị là Văn
lộ bố và bài thơ Thần.

- Văn lộ bố:

http://diendankienthuc.net 10 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ðặc điểm của bài văn là ngắn gọn, trang trọng, nêu cao chính nghĩa, vạch trần phi nghĩa, lời lẽ hòa nhã nhƣng
không kém phần đanh thép và thuyết phục

- Bài thơ Thần:

Chiến thắng quân Tống vẻ vang gắn liền tên tuổi của Lý Thƣờng Kiệt với bài thơ Nam quốc sơn hà nổi tiếng. Ra
đời trong khoảnh khắc nhƣng bài thơ lại có giá trị vĩnh viễn bởi nó biểu hiện bản lĩnh, khí phách dân tộc, khẳng
định chân lý ngàn đời: chính nghĩa bao giờ cũng thắng phi nghĩa. Bài thơ còn là viên ngọc quý trong kho tàng văn
học cổ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

3. Nhận định chung về văn học đời Lý:

- Với một lực lƣợng sáng tác đông đảo, các nhà sƣ đời Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ. Hƣớng
sáng tác của các nhà sƣ tuy tập trung thuyết lý cho đạo phật nhƣng vẫn chứa đựng những yếu tố tích cực.

- Giá trị chủ yếu của văn học đời Lý vẫn là những tác phẩm thể hiện chủ nghĩa yêu nƣớc mà trong đó, Chiếu dời
đô và bài thơ Thần là hai viên ngọc ngời sáng, một bản tuyên ngôn dựng nƣớc, một bản tuyên ngôn giữ nƣớc. Số
lƣợng sáng tác không nhiều nhƣng chủ nghĩa yêu nƣớc vẫn đƣợc nêu cao và hình thành nhƣ một truyền thống phát
triển mãi mãi trong các giai đoạn sau.

III. VĂN HỌC ĐỜI TRẦN

1. Bối cảnh lịch sử và những đồi thay trong tầng lớp nho sĩ đời Trần

- 1226- Nhà Trần cƣớp ngôi nhà Lý

- 1257, 1285, 1287- ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông

- Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc gắn liền với xây dựng đất nƣớc.

- Thuật trị nƣớc khoan sức dân tiến bộ đời Trần đã kích thích xã hội ngày càng ổn định và phát triển

- Tầng lớp Nho sĩ trở thành lực lƣợng chính tham gia xây dựng đất nƣớc. Họ gần gũi với quần chúng hơn nên thơ
họ phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng.

- Những vấn đề văn hóa, xã hội, nghệ thuật cũng phát triển mạnh mẽ dƣới triều Trần.

2. Nội dung văn học:

a. Văn học Trần phản ánh lòng yêu nƣớc tinh thần dân tộc

- Cũng nhƣ mảng thơ văn đời Lý, văn học đời Trần tập trung xoáy mạnh vào đề tài chống quân Nguyên xâm lƣợc
với cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nƣớc và tinh thần tự hào dân tộc. Ðiển hình cho chủ nghĩa yêu nƣớc trong văn
http://diendankienthuc.net 11 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

học đời Trần là tác phẩm Hịch tƣớng siî của Trần Quốc Tuấn, bởi lẽ tác phẩm tập trung phản ánh những khía cạnh
sâu sắc nhất của lòng yêu nƣớc cao độ. Ðây là một tác phẩm có giá trị lịch sử và văn học cao, khẳng định bƣớc
tiến của lịch sử dân tộc và lịch sử văn học.

- Bên cạnh đó, cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông cũng là đề tài phong phú của nhiều nhà thơ khác đời Trần.
Tác phẩm của họ mang âm hƣởng chung hào hùng, ca ngợi khí phách, chiến thắng vẻ vang của dân tộc:

Ðoạt sóc Chương Dương độ

Cầm hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu nỗ lực

Vạn cổ thử giang san

(Tùng giá hoàn kinh sƣ- Trần Quang Khải)

Các nhà thơ thƣờng tập trung miêu tả hào khí Ðông A bằng những hình ảnh đẹp đẽ, kỳ vĩ cùngvới ý thức trách
nhiệm của mỗi ngƣời công dân trong công cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc:

Hoành sóc giang san cáp kỷ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Thuật hoài- Phạm Ngũ Lão)

Các nhà thơ cũng chú ý nêu cao sức mạnh của chính nghĩa, của vấn đề đức trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc:

Giặc tan muôn thuở thanh bính

Phải đâu đất hiểm cốt mình đức cao

(Bạch Ðằng giang phú- Trƣơng Hán Siêu )

Nội dung yêu nƣớc không chỉ đƣợc thể hiện trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc mà còn phát triển
trên những khía cạnh tình cảm phong phú của nhà thơ. Có khi, đó là nỗi nhớ nhà thầm lặng nhƣng mãnh liệt của
một nhà Nho xa quê hƣơng:

Dâu già lá rụng tằm vừa chín

Lúa sớm nở hoa cua béo ghê

Nghe nói quê nhà nghèo vẫn tốt

Giang Nam vui thú chẳng bằng về

(Quy hứng- Nguyễn Trung Ngạn)

http://diendankienthuc.net 12 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Có khi, đó là niềm khát khao đƣợc xây dựng một đất nƣớc thịnh vƣợng hòa bình muôn đời:

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng

(Xuân nhật yết Chiêu lăng- Trần Nhân Tông)

Yêu nƣớc còn đƣợc thể hiện bằng niềm hạnh phúc đƣợc nhìn thấy đất nƣớc hòa bình, đƣợc sống trong hòa bình:

Trăng vô sự chiếu người vô sự

Nước ngậm thu lồng trời ngậm thu

Bốn bề đã yên nhơ đã lắng

Chơi năm nay thú vượt năm xưa

(Hạnh Thiên Trƣờng hành cung- Trần Thánh Tông)

Có thể nói, trong lịch sử dân tộc, vƣơng triều nhà Trần là một vƣơng triều hùng mạnh nhất. Ðây là thời kỳ mà mọi
ý thức về quốc gia dân tộc đều phát triển mạnh mẽ và đó cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của văn học yêu
nƣớc.

b. Văn học đời Trần thể hiện lòng yêu mến cảnh thiên nhiên tƣơi đẹp

So với thiên nhiên trong thơ văn đời Lý, thiên nhiên trong thơ văn đời Trần thực hơn, đẹp hơn. Các nhà thơ đã bắt
đầu chú ý miêu tả đời sống thôn dã bình dị. Cảm xúc đƣợc thể hiện tinh tế hơn. Ðặc biệt, qua việc miêu tả thiên
nhiên, các tác giả thƣờng chú ý bộc lộ niềm tự hào về những chiến tích oanh liệt của dân tộc.

Bài thơ Thiên Trƣờng vãn vọng của Trần Nhân Tông là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cái nhìn mới của các
nhà thơ đời Trần đối với cuộc sống bình dị của ngƣời lao động:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Mục đồng địch lý ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền

Cảnh vật đƣợc miêu tả bằng ngôn từ giản dị nhƣng vẫn thể hiện đƣợc cái thần, cái đẹp của bức tranh đƣờng đi
Lạng Sơn, cảnh chùa Bảo Phúc, động Chi lăng, Thạch Môn sơn, cảnh Thiên Trƣờng, cảnh hồng rụng, tiếng
chuông văng vẳng, tiếng sáo thuyền câu,..:

Mƣa tạnh vƣờn cây màn biếc rủ

Tiếng ve chiều tối rộng bên tai (Hạ cảnh- Trần Thánh Tông)

Hoặc:

Cổ tự thê lương thu ái ngoại


http://diendankienthuc.net 13 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ

Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá

Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ

(Lạng Sơn vãn cảnh-Trần Nhân Tông)

Cảm xúc và cách miêu tả của nhà thơ thực sự tinh tế:

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ quy

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi

(Xuân hiểu- Trần Nhân Tông)

Yêu thiên nhiên, các nhà thơ càng tự hào hơn nữa về những chiến tích oanh liệt của dân tộc:

Lâu Lãi hang sâu hơn đáy giếng

Chi Lăng ải hiểm tựa trời cao

Ngựa leo, gió lướt ngoảnh đầu lại

Cửa khuyết trời tây mây ráng treo

(Ải Chi Lăng- Phạm Sƣ Mạnh)

Các tác giả thƣờng khai thác đề tài sông Bạch Ðằng với cảm hứng ca ngợi đầy sảng khoái, tự hào:

Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé

Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô

(Bạch Ðằng giang- Trần Minh Tông)

Có thể nói, thiên nhiên trong thơ văn đời Trần hết sức phong phú đa dạng. Các nhà thơ đã phát hiện, cảm nhận
những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên chứng tỏ họ ngày càng gắn bó hơn với cuộc đời, với con ngƣời.

c. Tinh thần nhân đạo và tƣ tƣởng bi quan yếm thế trong thơ văn đời Trần

- Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ văn đời Trần chủ yếu thể hiện qua sự tn tƣởng vào khả năng của con ngƣời, khát
vọng một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, không còn chiến tranh đổ máu, chết chóc. Trƣơng Hán Siêu ca ngợi cái
đức, cái chính nghĩa của dân tôc Ðại Việt. Sử Hy Nhan trong Trảm xà kiếm bộc lộ ý muốn gói giáo kiếm vào da
hùm, rèn binh khi làm nông cụ và tuyên bố rõ thái độ chán ghét chiến tranh:

Kiếm này! Kiếm này là vật chẳng lành

http://diendankienthuc.net 14 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Bậc thánh túng kế mới dùng phải đâu vật quý

- Tuy nhiên, càng về sau, nhà Trần không tránh khỏi con đƣờng suy thoái. Một số nhà nho tiết tháo chán nản lui về
cảnh sống ẩn dật trong một tâm trạng đầy uất hận. Thơ của họ bộc lộ rõ nỗi đau của kẻ sĩ chân chính bất lực trƣớc
tình cảnh khốn cùng của quần chúng. Những tƣ tƣởng yếm thế thoát ly của họ chứa đựng ít nhiều giá trị tích cực
khi thấm nhuần tinh thần nhân đạo cao cả:

Hạn rồi qua lụt đã bao phen

Thương nỗi đồng điền lúa chẳng lên

Ðống sách hóa ra chồng giấy nát

Bạc đầu luống những phụ dân đen

(Nhâm dần lục nguyệt tác- Trần Nguyên Ðán)

Không chỉ đau thƣơng, phẫn uất, các nhà thơ còn bộc lộ niềm mong ƣớc, khát vọng cứu dân giúp đời của kẻ sĩ
chân chính:

Ví làm ống bễ lò rèn được

Thổi thấu lòng người khắp chín châu (Nguyễn Phi Khanh)

Hoặc:

Liễu phố tam thu vũ

Quân bồng bán dạ thanh

Cô đăng minh hựu diệt

Hồ hải thập niên tình

(Hoàng giang dạ vũ- Nguyễn Phi Khanh)

- Tất nhiên, càng khát vọng, họ càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng cho nên, thơ của họ chứa đựng những tình
cảm bi quan, tiêu cực:

Trước mắt mọi chuyện đều đáng lo

Hết bệnh sao bằng bệnh vẫn mang (Nguyễn Phi Khanh)

3. Nhận xét chung về thơ văn đời Trần

- Thơ văn đời Trần đánh dấu một bƣờc phát triển mới của VHTÐ

- Chủ đề yêu nƣớc là chủ đề tập trung và đạt đƣợc nhiều thành tựu trong văn học đời Trần. Tuy nhiên, thời kỳ này
chƣa có những tác phẩm mô tả một cách toàn bích cuộc chiến đấu mang tầm vóc lịch sử to lớn. Ðây là một thiết
sót mà văn học thế kỷ XV sẽ bổ sung

http://diendankienthuc.net 15 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

CHƢƠNG 3: VỀ TÁC PHẨM “HỊCH TƢỚNG SĨ” CỦA TRẦN QUỐC TUẤN

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI

Những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của bài hịch

- Ý kiến 1: Cho rằng tác phẩm ra đời vào năm 1285 khi quân Nguyên Mông kéo sang nƣớc ta lần thứ II. (Trần
Trọng Kim, Bùi Văn Nguyên,..)

- Ý kiến 2: Cho rằng bài Hịch phải ra đời trƣớc thời điểm 1285 (Khoảng 1282- 1283) ( Quan niệm của Hà Văn
Tấn trong Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lƣợc ở thế kỷ XIII)

- Ý kiến 3: Cho rằng bài Hịch cần phải ra đời sớm hơn thời điểm 1282.

II THỂ LOẠI

- Hịch thuộc loại văn chính luận đƣợc vua, lãnh tụ khởi nghĩa hay tƣớng lĩnh quân đội viết ra nhằm động viên mọi
ngƣời chiến đấu. Văn phong hịch trang trọng, cách xƣng hô rõ ràng, lập luận chặt chẽ, bố cục hợp lý.

III. TỰA ĐỀ CỦA BÀI HỊCH

Hƣng Ðạo đại vƣơng dụ chƣ tỳ tƣớng hịch văn. Qua tựa đề có thể xác định:

- Tác giả viết bài hịch

- Ðối tƣợng chủ yếu cần thuyết phục

- Thể loại của tác phẩm

IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

1. Nêu gƣơng trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nƣớc

2. Tâm trạng của tác giả trƣớc họa xâm lăng và mối quan tâm của tác giả đối với các tỳ tƣớng.

3. Phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của các tỳ tƣớng và vạch ra hậu quả tai hại của nó.

1. 4. Xác định nhiệm vụ của các tỳ tƣớng trong tình thế khó khăn của đất nƣớc và khẳng định
lập trƣờng quan hệ bạn thù.

CHƢƠNG 4: KHÁI QUÁT VĂN HỌC THẾ KỶ XV

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

1. Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV

http://diendankienthuc.net 16 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Chế độ phong kiến Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIV bƣớc vào tình trạng suy sụp nghiêm trọng.

- Các vị vua cuối đời Trần ngày càng phản bội lại lợi ích của nhân dân, tự mãn, ăn chơi sa đọa. Chính sách thuế
khóa thắt ngặt. Bọn quý tộc lợi dụng chế độ Ðại điền trang để cƣớp đoạt ruộng đất của nông dân biến họ thành
nông nô và nô tỳ. Nền kinh tế bị kìm hãm cùng với nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên khiến nhân dân phải rơi
vào tình cảnh cùng khốn, bất mãn dẫn đến sự bùng nổ của rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân và nông nô

- Sự rối ren từ nhiều phía tạo nên một hoàn cảnh xã hội đầy phức tạp và mâu thuẫn dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của
triều đại nhà Trần.

2. Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam thế kỷ XV

a. Chính sách cải cách của nhà Hồ:

Năm 1400, Hồ Quý Ly cƣớp ngôi nhà Trần lập nên nhà Hồ. Ông là ngƣời có tài, có đầu óc tiến bộ, cải cách, có cái
nhìn thực tế trƣớc tình thế nguy ngập của đất nƣớc. Ông đƣa ra một loạt cải cách quan trọng:

- Thiên đô về Thanh Hóa

- Tăng cƣờng quân sự võ bị

- Ðề ra chính sách hạn điền hạn nô

- Phát hành tiền giấy

- Mở khoa thi chọn ngƣời tài với quan điểm trọng chữ Nôm hơn chữ Hán.

Tháng 11 năm 1406, quân Minh lấy chiêu bài Phù Trần diệt Hồ tràn sang xâm lấn nƣớc ta. Hồ Quý Ly tiến hành
chống giữ nhƣng thế yếu lại không đƣợc nhân dân tin theo nên đành chịu thất bại. Tháng 4- 1407, trận phản công
cuối cùng của Hồ Quý Ly cũng đại bại, cha con và toàn bộ triều thần bị bắt về Ttrung Quốc.

b. Ách đô hộ của nhà Minh

Sau khi bình định đƣợc nƣớc ta, nhà Minh thiết lập một chhế độ cai trị hà khắc và dã man:

- Ðổi nƣớc ta thành Giao Chỉ, đặt bộ máy cai trị với hệ thống đồn trại khắp nơi để tiến hành trấn áp ngay những
cuộc khởi nghĩa của ngƣời Việt.

- Bóc lột nhân dân bằng hệ thống thuế khóa, khai thác, vơ vét tài nguyên, khoáng sản.

- Tiến hành chính sách đồng hóa, ngu dân, bắt ngƣời dân theo phong tục phƣơng Bắc, thiêu hủy kkho tàng, sách
vở, bia mộ, hạn chế trƣờng học, tuyên truyền mê tín dị đoan.

(Sắc lệnh của Minh Thành Tổ, ngày 21/8/1406:

Bắt và giải về Trung Quốc những ngƣời giỏi kinh sử, làm thuốc, địa lý, coi số âm dƣơng, bói toán, đờn ca,.. cũng
nhƣ nghệ nhân, nhạc công, những thơ chuyên nghiệp gỏi về gạch ngói, chế thuốc súng, biết điều khiển thuyền đi
sông, đi biển. Ðối với các hạng kể sau- nghệ nhân, công nhân chuyên nghiệp- thì sắc truyền phải bắt tất cả gia tiểu,
đem toàn số về Yên Kinh

Sắc lệnh 1407:

http://diendankienthuc.net 17 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ta thƣờng bảo các ngƣời nhất thiết An nam có thƣ bản văn tự gì cho đến các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ
và các bia mà xứ ấy lập ra, hễ thấy là phải phá huỷ ngay lập tức, một mảnh, một chữ cũng không để còn. Nay nghe
nói những sách vở quân lính bắt đƣợc không ra lệnh đốt ngay, để xem xét rồi mới đốt. Từ nay phải làm đúng lời
sắc truyền cho quân lính hễ bất cứ ở nơi nào nếu thấy sách vở, văn tự là phải đốt ngay lập tức, không đƣợc lƣu lại.

- Trong tình hình đó liên tiếp những cuộc khởi nghĩa bùng nổ điển hình là hai cuộc khởi nghĩa của các vị tông thất
nhà Trần là Giản Ðịnh đế và Trùng Quang Ðế nhƣng do sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đã chấm dứt nên cả hai
cuộc khởi nghĩa lớn này đều thất bại.

c. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1417- 1427)

Ðƣợc tiến hành trong 10 năm dƣới sự chỉ huy của Lê Lợi, một ngƣời hào trƣởng đất Lam Sơn. Ông biết dựa vào
dân, tập hợp quần chúng, dấy động phong trào kháng chiến mạnh mẽ.

Cuộc khởi nghĩa trải qua những thất bại ban đầu nhƣng sau đó, nhờ biết tập hợp sức mạnh của nhất dân, biết vận
dụng những chiến lƣợc, chiến thuật tài tình nên cuộc khởi nghĩa đã phát triển mạnh và tiiến đến thắng lợi hoàn
toàn vào cuối năm 1427.

Thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh dấu một bƣớc ngoặc mới trên con đƣờng trƣởng thành của dân
tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thịnh trị của triều đại Hậu Lê.

d. Giai đoạn xây dựng, củng cố địa vị thống trị của chế độ phong kiến Hậu Lê ở nửa sau thế kỷ XV.

Kháng chiến thành công, Lê Lợi lên ngôi vua lập nên nhà Hâụ Lê. Tuy nhiên, Lê Thái Tổ chỉ là ngƣời đặt nền
móng. Phải đợi đến triều đại của Lê Thánh Tông, chính quyền phong kiến hậu Lê mới thực sự bƣớc đến giai đoạn
cực thịnh.

Ở thời Lê, các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị,.. đều phát triển mạnh mẽ:

- Về chính trị, Lê Thánh Tông chủ trƣơng xây dựng một chính quyền quân chủ chuyên chế cao độ, tất cả quyền
hành đều tập trung trong tay nhà vua. Thế lực của tầng lớp đại quý tộc bị hạn chế tối đa, chính sách thân dân tiết
kiệm đƣợc thực hiện nghiêm túc nhằm điều hòa mâu thuẫn giữa nhân dân với giai cấp thống trị.

- Về kinh tế, nhà Lê thủ tiêu chế độ đại điền trang, thi hành chính sách quân điền, thực hiện lĩnh canh nộp thuế
(Phƣơng thức sở hữu cá nhân về mặt ruộng đất).

- Dƣới triều Lê Thánh Tông, một ông vua hay chữ, siêng năng đọc sách và làm chính trị, việc giáo dục, thi cử, Nho
học đƣợc kích thích phát triển mạnh mẽ.

II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC

1. Một số đặc điểm của văn học thế kỷ XV

- Hai nội dung chủ yếu của văn học thế kỷ XV:

+ Ca ngợi cuộc kháng chiến chống Minh và ngƣời anh hùng Lê Lợi- Tập trung thể hiện trong các tác phẩm ở
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV

+ Ca ngợi sự thịnh trị của triều đại Hậu Lê và vua Lê Thánh Tông- tập trung thể hiện trongcác tác phẩm ở
giai đoạn nửa sau thế kỷ XV

http://diendankienthuc.net 18 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Sự thể hiện rõ nét hình ảnh quần chúng, những ngƣời làm nên lịch sử và những quan niệm mới về đất nƣớc, dân
tộc của các nhà tƣ tƣởng thời Hậu Lê.

- Văn học phản ánh phần nào ý thức cá nhân và khuynh hƣớng trữ tình.

2. Những nội dung chính:

a. Nội dung yêu nƣớc, ca ngợi tinh thần quật khởi anh dũng và chiến thắng vẻ vang của dân tộc:

Thơ văn viết về đề tài này tập trung vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV, phát triển mạnh mẽ, đa dạng với nhiều loại
thể nhƣ: thực lục, chiếu, chế, biểu, cáo, văn bia, thơ, phú. Nổi bật nhất và thành công nhất chính là tác phẩm Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.

Rất nhiều bài phú xoay quanh chủ đề chống Minh xâm lƣợc và chiến thắng oanh liệt của dân tộc. Nhiều ngƣời
cùng làm đề tài giống nhau, lựa chọn thể loại sáng tác giống nhau nhƣng ý tứ, tình cảm, phong cách có những khác
biệt tạo nên tính đa dạng, phong phú cho các tác phẩm phú thời kỳ này (Cùng đề tài Núi Chí Linh, rất nhiều tác
giả đã viết phú núi Chí Linh nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn..

Thời kỳ này còn chứng kiến sự phát triển vƣợt bậc của loại văn chính luận mà Nguyễn Trãi kế thừa ở những thời
kỳ trƣớc, phát triển thành một thứ vũ khí sắc bén phục vụ cho chiến thuật Tâm công đặc sắc.

Nội dung chủ yếu của các tác phẩm xoay quanh quá trình chiến đấu từ lúc gian khổ, nếm mật nằm gai:

Trời đất mịt mờ đang lúc

Sấïm mây gian khổ những ngày

(Chí Linh sơn phú- Nguyễn Mộng Tuân

đến lúc trƣởng thành, chiến thắng oanh liệt:

Bốn cõi mây mờ quét sạch

Giữa trời ánh sáng huy hoàng

(Xƣơng giang phú- Lý Tử Tấn)

- Các tác giả thƣờng ca ngợi chính nghĩa, xem đó là cơ sở, giá trị của chiến thắng:

Nếu không gặp thánh tổ sao được gọi là hiểm

Nếu không nhân chiến thắng sao truyền mãi danh

(Phú Xƣơng Giang- Lý Tử Tấn)

- Hơn thế, các tác giả còn ca ngợi, so sánh công lao của Lê Lợi với công lao của Hán Cao Tổ, ngƣời sáng lập cơ
nghiệp nhà Hán:

Cờ nghĩa vua ta cao phất

Che rợp cả bậc Hán Ðường

http://diendankienthuc.net 19 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

(Phú cờ nghĩa- Nguyễn Mộng Tuân)

- Ca ngợi công cuộc xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ mới:

Phòng ngừa bờ cõi cần ra sức

Giữ vững cơ đồ phải gắng công

(Chinh Ðèo Cát Hãn hoàn quá Long Thủy đê- Lê Lợi)

- Thể hiện niềm tự hào sâu sắc:

Thung mộc mai hà xuân thảo lục

Ðộc lâu khiếu nguyệt dạ triều hàn

(Hàm Tử quan- Nguyễn Mộng Tuân)

(Chông gỗ chốn lòng sông bờ cỏ mùa xuân xanh biếc- Ðầu lâu kêu bóng nguyệt ngọn triều đêm tối lạnh lùng)

b. Nội dung thù phụng, ca ngợi sự thịnh trị của chế độ phong kiến và tài đức của vua Lê Thánh Tông.

Văn học nửa sau thế kỷ XV chứng kiến một sự bột phát về cả số lƣợng lẫn chất lƣợng tác phẩm. Lực lƣợng sáng
tác chủ yếu là các nho sĩ quan liêu, nhất là các triều thần đƣợc Lê Thánh Tông tuyển chọn vào Hội Tao Ðàn. Các
nhà thơ sáng tác dƣới sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà vua về đề tài, cảm hứng nên đôi khi, khuynh hƣớng ca ngợi, thù
tạc không kém phần khiên cƣỡng, thụ động.

Một số tác giả không chịu sự gò bó theo những khuôn mẫu của văn học cung đình và đã có những nét tiến bộ rõ rệt
trong nội dung sáng tác:

Nguyễn Trực có nhiều nét độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên đơn giản nhƣng có ý nghĩa sâu sắc:

Xa đất nên bụi ít

Trên cao được trăng nhiều (Chùa Cực lạc)

Thái Thuận chú ý đến cái bình thƣờng, dung dị của đời sống đồng quê:

Nhà cỏ in làn khói

Thuyền con ghé mái bồng

Trẻ con ba bốn tốp

Bắt cáy ở ven sông (Hoàng giang tức sự).

c. Xu hƣớng bất mãn thời thế

Ngay trong thời kỳ cực thịnh của nhà Hậu Lê, tƣ tƣởng bất mãn thời thế vẫn có ở một số sĩ phu tiết tháo, khao khát
đem tài trí giúp đời nhƣng bị vùi dập, phải trở về ở ẩn, trong đó có cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Húc,.. Tâm sự u ẩn
của các nhà thơ phản ánh rõ bản chất xấu xa của chế độ phong kiến.

http://diendankienthuc.net 20 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

CHƢƠNG 5 NGUYỄN TRÃI- CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

A. CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRÃI

I. VÀI NÉT VỀ DÕNG DÕI NGUYỄN TRÃI:

- Về dòng họ nội của Nguyễn Trãi, đến nay, chƣa biết rõ lắm. Gia phả họ Nguyễn ở làng Nhị Khê chỉ ghi chép từ
đời Nguyễn Phi Khanh trở xuống. Có nhiều nguyên nhân ẩn giấu gốc tích của họ Nguyễn ở làng Nhị Khê nhƣng
nguyên nhân trực tiếp vẫn là vụ án Lệ Chi viên, vụ án chính trị thảm khốc giết chết toàn gia tộc Nguyễn Trãi.

Theo quyển Văn chƣơng Nguyễn Trãi (Bùi Văn Nguyên), ông nội của Nguyễn Trãi là Nguyễn Minh Du có 3
ngƣời con: Nguyễn Sùng, Nguyễn Thƣ và Nguyễn Ứng Long. Nguyễn Sùng và Nguyễn Thƣ đều là võ quan dƣới
triều Trần Phế Ðế, sau đƣợc Hồ Quý Ly trọng dụng.

Riêng Nguyễn Ứng Long (1336- 1408) lại gặp nhiều trắc trở trên đƣờng công danh, sự nghiệp. Ông rất thông
minh, ham học, nổi tiếng hay chữ, thi đỗ nhị giáp tiến sĩ đời Trần Duệ Tông (Năm Long Khánh thứ 3, 1374)
nhƣng không đƣợc nhà Trần tuyển dụng phải trở về quê làm nghề dạy học.

Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, Nguyễn Ứng Long mạnh dạn đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh ra phục vụ triều đình
nhà Hồ, giữ chức Hàn lâm học sĩ kiêm Tƣ nghiệp quốc tử giám.

Giặc Minh sang, nhà Hồ thất bại. Cả triều thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh đều bị bắt về Trung Quốc. Cuối
đời, ông chết ở Yên Kinh (TQ )

- Ông ngoại của Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Ðán. Ông là ngƣời thuộc dòng hoàng tộc (Cháu 4 đời của Chiêu
Minh Vƣơng Trần Quang Khải), tính tình điềm đạm, khẳng khái, có thành tích xuất sắc chống giặc Chiêm Thành
dƣới thời Trần Nghệ Tông nên đƣợc vua nhà Trần giao cho chức vụ Tƣ đồ, quyền ngang Tể tƣớng. Tuy nhiên, khi
ông lên nắm quyền, cơ nghiệp nhà Trần đã suy vi. Chán nản thời thế, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn năm 1385
(Xƣơng Phù thứ 9) và mất năm 1390.

- Ông ngoại và cha là những ngƣời trực tiếp ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng yêu nƣớc thƣơng dân của Nguyễn Trãi sau
này.

II. CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRÃI

Sống trong một giai đoạn lịch sử nhiều biến động phức tạp, cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với từng bƣớc đi của
lịch sử. Có thhể chia cuộc đời ông thành 3 giai đoạn:

1. Nguyễn Trãi- thời chuẩn bị bƣớc vào đời:

Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, sinh năm 1380, quê quán làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng sau dời về
làng Ngọc Ổi (Nhị Khê) huyện Thƣờng Tín tỉnh Hà Sơn Bình.

Ông là con thứ của Nguyễn Phi Khanh (Có sách nói là con trƣởng). Tròn 6 tuổi, mẹ mất, ông phải về Côn Sơn ở
với ông ngoại. Năm 1390, quan Tƣ đồ cũng mất, NT theo cha trở về sống ở làng Nhị Khê.

Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhƣng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một ngƣời
học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nƣớc thƣơng dân.

http://diendankienthuc.net 21 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

2. Nguyễn Trãi- thời đánh giặc cứu nƣớc:

- Năm 1400 thi đỗ Thái học sinh triều Hồ

- Năm 1407, giặc Minh sang xâm lƣợc, Hồ Quý Ly thất bại, Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về tìm đƣờng cứu nƣớc
nhƣng bị giặc giam nơi thành Ðông Quan suốt mƣời năm dài.

- Năm 1416, ông tìm đến cuộc khời nghĩa Lam Sơn, dâng cho Lê Lợi tác phẩm Bình Ngô sách. Từ đó, ông gắn bó
với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn, tham gia xây dựng đƣờng lối quân sự, chính trị phù hợp và đảm đƣơng những
nhiệm vụ quan trọng nhƣ soạn thảo thƣ từ địch vận, tham mƣu, vạch ra chiến lƣợc chiến thuật cho nghĩa quân.

- 1428, kháng chiến thành công, ông đƣợc Lê Lợi giao cho soạn bài cáo Bình Ngô nổi tiếng.

3. Nguyễn Trãi- thời hòa bình.

- Ðƣợc phong chức vị cao trong triều đình và trở thành đầu tàu gƣơng mẫu trong công cuộc xây dựng đất nƣớc

-Tuy nhiên, tài năng và đức độ của ông cũng bắt đầu bị bọn quyền thần ganh ghét. Ðặc biệt, sau vụ Trần Nguyên
Hãn và Phạm Văn Xảo bị bức tử, Nguyễn Trãi bị bắt giam một thời gian ngắn. Thời kỳ này, ông bắt đầu cay đắng
nhận ra sự độc ác của miệng đời:

Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn

Lòng người quanh nữa nước non quanh

(Bảo kính cảnh giới 9)

- Sau đó, ông đƣợc tha nhƣng không còn đƣợc tin dùng.

- 1433, Lê Thái Tổ mất. Ông chán nản xin về ở ẩn ở Côn Sơn

- Khi Lê Thái Tôn lớn lên, hiểu rõ Nguyễn Trãi, nhà vua đã cho vời ông trở lại làm quan, giữ chức Tả gián nghị
đại phu.

- Rất mừng rỡ, ông viết bài Biểu tạ ơn hết sức xúc động và lại hăng hái ra giúp nƣớc, chỉnh đốn kỷ cƣơng, đào tạo
nhân tài.

- Năm 1442, vụ án Lệ Chi viên xảy ra. Nguyễn Trãi bị can tội giết vua, cả dòng họ bị tru di tam tộc.

- Sau này, khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã tiến hành minh oan, phục hồi chức tƣớc và sai Trần Khắc Kiệm tìm lại
toàn bộ trƣớc tác của Nguyễn Trãi.

4. Nhận xét chung:

- Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ- chiến đấu chống bạo lực xâm lƣợc và chống
gian tà

- Tƣ tƣởng nhân nghĩa là đỉnh cao chói sáng trong thơ ông. Quan điểm xem văn chƣơng là vũ khí chiến đấu thể
hiện rõ trí tuệ sáng suốt của một thiên tài và bản lĩnh của một chiến sĩ dũng cảm.

http://diendankienthuc.net 22 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Cuộc đời Nguyễn Trãi cho chúng ta bài học quý báu về tinh thần nhân đạo, nhiệt tình chiến đấu, quan điểm mạnh
dạn đổi mới, sáng tạo.

B. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

Tác phẩm của Nguyễn Trãi dự đoán là rất nhiều nhƣng đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi viên. Hiện nay, chỉ còn lại
một ít có thể kể tên sau:

I. VỀ VĂN

- Tác phẩm Bình Ngô đại cáo ghi trong Lam Sơn thực lục và Ðại Việt sử ký toàn thƣ.

- Quân trung từ mệnh tập: Ðây là một tập văn chính luận thƣ từ địch vận (Có hơn 70 bức thƣ, trong đó đa số các
bức thƣ gửi cho tƣớng tá nhà Minh, phần còn lại là những thƣ từ viết gửi cho quân ta.

- Văn loại gồm chiếu biểu làm thay cho Lê Lợi

- Băng Hồ di sự lục soạn năm 1428

- Văn bia Vĩnh Lăng soạn năm 1435

- Dƣ địa chí soạn năm 1435

II. VỀ THƠ

- Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán

- Quốc âm thi tập, gồm 254 bài thơ Nôm (ƣớc đoán, đây là quyển thơ Nôm duy nhất còn sót lại sau thảm án Lệ
Chi viên.

CHƢƠNG 6 PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “BÌNH NGÔ ÐẠI CÁO”

Ngƣời ta chọn Nam quốc sơn hà, Hịch tƣớng sĩ và Cáo bình Ngô là 3 dấu mốc đánh dấu những chặng đƣờng phát
triển của chủ nghĩa yêu nƣớc trong văn học thƣợng kỳ trung đại. Ðặc biệt, phải đến cáo bình Ngô, ý thức độc lập
chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nƣớc và dân, vấn đề nhân nghĩa,.. mới thực sự phát triển rực rỡ

I. VÀI VẤN ĐỀ CHUNG

1. Hoàn cảnh ra đời:

Cuối năm 1427, Vƣơng Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở Việt Nam, đã phải mở cửa thành Ðông
Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10 năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt vua Lê, Nguyễn Trãi viết bài cáo nhằm
tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập triều đại mới.

2. Về thể loại Cáo:

Nếu văn học động viên mọi ngƣời chiến đấu thì văn Cáo lại có ý nghĩa tuyên ngôn nhằm công bố cho mọi ngƣời
biết những chủ trƣơng chính trị trọng đại của toàn dân tộc nhƣ việc xác lập hòa bình, đánh đuổi giặc ngoại xâm và
xây dựng vƣơng triều mới.

http://diendankienthuc.net 23 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Cáo viết bằng thể văn biền ngẫu, số câu chữ không hạn chế, văn phong mang tính chính luận nên trang trọng, sắc
bén, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.

Kết cấu của bài đại cáo bình Ngô tuân thủ đúng kết cấu của các tác phẩm Thang cáo (đƣợc chép trong chƣơng
Thƣơng Thƣ của sách Kinh Thƣ) và Vũ cáo hay đại cáo Vũ Thành (đƣợc chép trong chƣơng Chu thƣ của sách
Kinh Thƣ).

3. Về tựa đề bài Cáo:

Những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo

- Ngô: Một cách gọi theo thói quen của ngƣời Việt Nam thời đó để chỉ chung ngƣời trung Quốc.

- Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chƣơng (tức Minh Thành tổ).

- Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác, tàn bạo.

II. PHÂN TÍCH

1. Nêu luận đề chính nghĩa:

- Luận đề này đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa 3 yếu tố: Nhân nghĩa, dân và nƣớc:

+ Nhân nghĩa: điếu dân phạt tội, bênh vực cho kẻ khốn cùng, chống lại các thế lực phi nhân.

+ Dân: Dân trong tác phẩm là những ngƣời thuộc tầng lớp thấp nhất nhƣng lại chiếm đa số trong xã hội nông
nghiệp thời đó. Ðó là những dân đen, con đỏ, thƣơng sinh, phu phen, manh lệ, những ngƣời có vai trò lịch sử quan
trọng, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng đất nƣớc.

+ Nƣớc: Khái niệm nƣớc bao gồm mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố

* Văn hiến

* Ðịa lý

* Phong tục tập quán

* Các triều đại chính trị

* Hào kiệt

* Truyền thống lịch sử vẻ vang

Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo về Nhân nghĩa, Dân, Nƣớc đều xuất phát từ chính thực tiễn kế
thừa phát triển của truyền thống yêu nƣớc, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đƣơng thời.
Những quan niệm này, so với trƣớc, đã có nhiều biến đổi, phát triển do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử.

2. Vạch trần tội ác giặc:

Các nhà nghiên cứu xem đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh
trong 20 năm trên mảnh đất Ðại Việt.
http://diendankienthuc.net 24 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ðể đảm bảo vừa tăng cƣờng sức thuyết phục vừa đạt đƣợc tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chƣơng, Nguyễn
Trãi sử dụng đan xen, kết hợp hàihòa giữa những hình ảnh mnag tính chất khái quát với những hình ảnh có tính
cu, sinh động.

3. Tổng kết quá trình kháng chiến:

a. Hình ảnh của Lê Lợi buổi đầu kháng chiến

Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nƣng phẩm chất tiêu biểu nhất của con
ngƣời yêu nƣớc ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con ngƣời yêu nƣớc trong văn học thời kỳ này thƣờng có đặc
điểm sau:

- Xuất thân bình thƣờng:

Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

- Có tấm lòng căn thù giặc sâu sắc:

Ngẫm thù lớn há đội trời

Căm giặc nước thề không cùng sống

- Khở đầu gặp nhiều khó khăn nhƣng luôn có tinh thần vƣợt khó, kiên trì:

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng chí khắc phục gian nan

- Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân:

Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

- Biết sử dụng chiến lƣợc, chiến thuật tài tình:

Thế trận xuất kỳ lấy yếu chống mạnh

Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều

- Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động:

Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân mà thay cường bạo

Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con ngƣời yêu nƣớc dám hy sinh quên mình đứng dậy
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.
http://diendankienthuc.net 25 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

b. Miêu tả quá trình kháng chiến

- Ơí đây, ta không tìm thấy những anh hùng cá nhân trong văn chƣơng trung đại hay trong các tác phẩm anh hùng
ca của Hy Lạp cổ đại. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của một tập thể anh hùng, những ngƣời mà trƣớc kia
văn học bác học chƣa quan tâm đi sâu, khai thác

- Tuy nhiên, đối với tƣớng giặc, tác giả lại miêu tả đầy đủ, cụ thể từng gƣơng mặt, họ tên, chức tƣớc và tƣ thế thất
bại của từng tên một.

- Cách sử dụng liệt kê ngày tháng thể hiện rõ nhịp độ dồn dập của những trận chiến thắng.

4. Tuyên bố hòa bình, xây dựng vƣơng triều mới:

- Nhịp thơ dàn trải, trang trọng

- Khẳng định thế thịnh suy tất yếu

C. Tổng kết

CHƢƠNG 7: THƠ NGUYỄN TRÃI

Nguyễn Trãi không những là nhân chứng cho những biến động bão táp của lịch sử thế kỷ XV mà còn là ngƣời trực
tiếp tham gia vào chính những biến động đó. Ngay cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng
trầm. Vì vậy, thơ ông thể hiện rõ một vốn sống đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp và
một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con ngƣời.

Qua thơ Nguyễn Trãi, ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về con ngƣời Nguyễn Trãi với những khát vọng lớn lao và
những tâm tƣ u uất.

I. TÌNH YÊU QUÊ HƢƠNG TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI

- Ðối với Nguyễn Trãi, quê hƣơng chính là nơi xuất phát của những tình cảm cao đẹp. Thơ ông nói rất nhiều về
quê hƣơng bằng một tình cảm thiết tha, lắng đọng.

Có khi, đó là những hồi ức đẹp thời thơ ấu:

Quê cũ nhà ta thiếu của nào

Rau trong nội, cá trong ao (Ngôn chí 13)

Có khi, đó là nỗi nhớ day dứt trong những năm tháng xa quê tìm đƣờng cứu nƣớc:

Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng

Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền (Mạn hứng)

Có khi, đó là tình cảm thân thiết của tác giả đối với quê cũ, ngày trở về ở ẩn:

Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai (Côn Sơn ca)

http://diendankienthuc.net 26 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Nhà thơ cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống thanh bần, trong sách nơi quê hƣơng, nơi thanh lọc tâm hồn, gìn giữ
phẩm giá ngƣời quân tử:

Ngày tháng kê khoai những sản hằng

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng

Yêu quê hƣơng, nhà thơ luôn trăn trở với khát vọng: làm gì cho quê hƣơng

Gia sơn cách đường nghìn dặm

Sự nghiệp buồn, đêm trống ba

II. TẤM LÕNG ƢU QUỐC ÁI DÂN SÂU NẶNG

Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thƣờng bắt gặp những từ tiên ƣu, ƣu ái. Ðây là nét ngời sáng trong tâm hồn Nguyễn
Trãi:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông

(Thuật hứng 5)

Oải ốc thê thân kham độ lão

Thương sinh tại niệm độc tiên ưu

Bình sinh độc bão tiên ưu chí

Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên

Gia sơn đường cách nghìn dặm

Ưu ái lòng phiền nửa đêm

Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái,..

Xuất phát từ một câu nói nổi tiếng của Phạm Trọng Yêm đời Tống, từ tiên ƣu thể hiện rõ quan niệm sống cao cả:
yêu nƣớc thƣơng dân, chiến đấu suốt đời vì nƣớc vì dân.

Suốt đời mình, Nguyễn Trãi xem công danh chỉ là điều kiện giúp đời:

Một thân lẩn quất đường khoa mục

Hai chữ mơ màng việc quốc gia

Vì nợ quân thân chưa báo được

Hài hoa còn bận dặm thanh vân (Ngôn chí 11)

Nhà thơ luôn ý thức rõ ràng về trách nhiệm của một kẻ sĩ chân chính:
http://diendankienthuc.net 27 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ

Tài còn lọ hái cúc Uyên Minh (Mạn thuật 9)

Quốc phú binh cƣờng chăng có chƣớc

Bằng tôi nào thuở ích chƣng dân

Những khát khao, mơ ƣớc của Nguyễn Trãi luôn đi trƣớc, chỉ đạo mọi hành động:

Lẽ có Ngu câìm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

(BKCG 43)

Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn

Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền

(Tự thán 4)

Từ mơ ƣớc, tác giả thể hiện rõ một quyết tâm hành động:

Khó ngặt qua ngày xin sống

Xin làm đời trị mỗ thái bình

(Tự thán 28)

Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân, có trí, có anh hùng

(BKCG 5)

Những năm cuối đời nhiều bất hạnh, thơ Nguyễn Trãi đôi khi lắng đọng một nỗi niềm u uất, chán nản, bi quan,
thậm chí thấm thía giọng điệu mỉa mai cho sự nghiệp anh hùng dở dang của mình:

Say mùi đạo trà ba chén

Tả lòng phiền thơ bốn câu

Uất uất thốn hoài vô nại xứ

Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh

Có lúc, ông mỉa mai chính bản thân mình:

Cưỡi gió lên cao chín vạn tầng

Xưa kia lầm ví với chim bằng


http://diendankienthuc.net 28 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Có lúc, thơ ông thấm lạnh một nỗi cô đơn tê tái trong những đêm dài trên núi Côn Sơn:

Rượu đối cầm đâm thơ một thủ

Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người

Có lúc, ông ví mình nhƣ một chiếc thuyền con, giữa trời chiều mênh mông chẳng biết ghé bến nào:

Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ

Trời ban tối biết về đâu

Tuy nhiên, vƣợt qua tất cả những bất hạnh, thăng trầm của cuộc đời làm quan bị ganh ghét, đố kỵ, Nguyễn Trãi
vẫn giữ cho mình Một tấc lòng son còn nhớ chúa- Tóc hai phần bạc bởi thƣơng thu. Có âm điệu buồn trong thơ
ông nhƣng đó không phải là âm điệu chủ đạo. Vấn đề lớn lao nhất mãi làm ông quan tâm chính là ƣu quốc, ái dân,
lo cho đất nƣớc và thƣơng nhân dân. Ðiều làm tỏa sáng nhân cách lớn lao của một ngƣời anh hùng, một kẻ sĩ chân
chính.

III. MỘT TRÍ TUỆ UYÊN BÁC LUÔN TÌM HIỂU ĐỂ NẮM BẮT NHỮNG QUY LUẬT VẬN ĐỘNG CỦA
ĐỜI SỐNG

Trong thơ ông, ta thƣờng thấy những tƣ tƣởng triết học phƣơng Ðông đƣợc dân tộc hóa và những kết luận có giá
trị về quy luật của đời sống. Nhà thơ là con ngƣời giàu suy tƣ để dằn vặt với nỗi đau hữu hạn của đời ngƣời cho dù
đó là cuộc đời của ngƣời anh hùng:

Kim cổ vô cùng giang mạc mạc

Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu

(Vãng hứng)

Giang san như tạc anh hùng thệ

Thiên địa vô tình sự biến đa

Họa phúc hữu môi phi nhất nhật

Anh hùng di hận kỷ thiên niên (Quan hải)

Nhà thơ có những kết luận có giá trị về vai trò và sức mạnh vĩ đại của quần chúng, những ngƣời làm nên lịch sử:

Phúc chu thủy tín dân do thủy

Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên (Quan hải)

Ở yên thì nhớ lòng xung đột

Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày

Có khi, chính vốn sống, sự nếm trải trong cuộc đời thăng trầm đã giúp nhà thơ thấy rõ hơn bản chất của lòng
người:

http://diendankienthuc.net 29 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Dễ hay ruột biển sâu cạn

Khôn biết lòng người ngắn dài

Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn

Lòng người quanh nữa nước non quanh

Phải là ngƣời có vốn sống, sự từng trải mới có thể có những nhận xét sâu sắc về cuộc đời:

Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến

Nhàn trung nhật nguyệt trị thiên kim (Thu nguyệt ngẫu thành)

IV. MỘT CHÍ KHÍ HÀO HÙNG, MỘT NHÂN CÁCH CAO THƢỢNG:

Mạnh mẽ, hào hùng, khẳng khái, trong sách, đó là nhân cách và chí khí Nguyễn Trãi đƣợc thể hiện qua thơ ông.

- Nhà thơ luôn có ý thức vƣơn lên trong thử thách để khẳng định chí khí hào hùng của mình:

Khó khăn thì mặc có màng bao

Càng khó bao nhiêu chí mới hào

Ông thƣờng thể hiện chí chí của mình bằng những hình ảnh kỳ vĩ:

Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ

Tráng tâm hô khởi bán phàm phong (Quá hải)

Với bản lĩnh và nghị lực của một ngƣời anh hùng, ông luôn tự hào, tự tin về mình:

Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt

Túi thơ chứa hết mọi giang san (Tự thán 2)

Gánh khôn đương quyền tướng phủ

Lui ngõ được đất Nho thần (Trần tình 1)

Vì tự tin, tự hào nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà thơ vẫn giữ đƣợc phong thái ung dung, tự tại:

Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay

Trông thế giới phút chim bay

Ðạp áng mây, ôm bó củi

Ngồi bên suối gác cần câu

Quét trúc bước qua lòng suối

http://diendankienthuc.net 30 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Thưởng mai về đạp bóng trăng

Không chỉ có phong thái ung dung tự tại, cách nói của nhà thơ cũng thật khẳng khái, mạnh mẽ:

Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi

Ông này đã có thú ông này

Chớ cậy sang mà ép nề

Lời chẳng phải vẫn không nghe

- Là một kẻ sĩ có nhân cách cao thƣợng Nguyễn Trãi luôn tự hào về những năm tháng làm quan thanh liêm của
mình:

Nhất phiến đan tâm chân hống hỏa

Thập niên thanh chức ngọc hồ băng

Ðó là một con ngƣời Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hóa, luôn sống thanh bạch, giản dị, không chấp nhận luồn
cúi để nhận bổng lộc:

Mắt hòa xanh đầu dễ bạc

Lưng không uốn, lộc nên từ

Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ

Aïo người vô nghĩa mặc, chẳng thà

Ðó cũng là con ngƣời trải bao thăng trầm dâu bể, bao đau đớn bất hạnh vẫn cứ nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh,
con mắt tin yêu, hy vọng:

Tuổi cao tóc bạc cái râu bạc

Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh

Không những thế, Nguyễn Trãi luôn luôn có ý thức bảo vệ nhân cách trong sáng của mình, chống lại mọi cám dỗ
của đời sống:

Ngọc lành nào có tơ vết

Vàng thực âu chi lửa thiêu

V. MỘT TÂM HỒN NHẠY CẢM RỘNG MỞ

Thơ Nguyễn Trãi luôn chan hòa tình cảm đối với thiên nhiên, con ngƣời. Ông có cách nhìn, cách cảm tuyệt với
trƣớc vẻ đẹp của thiên nhiên, chân thành tha thiết trong tình bạn, hóm hỉnh nhƣng tế nhị, sâu sắc trong tình ngƣời.

- Ông xem thiên nhiên là bạn, láng giềng, anh em, những ngƣời an ủi mình trên đỉnh Côn Sơn cô độc

Cò nằm hạc lặc nên bầy bạn


http://diendankienthuc.net 31 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ủ ấp cùng ta làm cái con

Láng giềng một áng mây bạc

Khách khứa hai ngàn núi xanh

Vì yêu thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã viết đƣợc những câu thơ tuyệt vời về vẻ đẹp của thiên nhiên:

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi

Ðêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu

Hương cách gác vân thu lạnh lạnh

Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh

- Với bạn, tác giả luôn bày tỏ tấm lòng chân thành tha thiết:

Có thuở biếng thăm bạn cũ

Lòng thơ ngàn dặm nguyệt ba canh

Danh thơm một áng mây nổi

Bạn cũ ba thu lá tàn

- Với con ngƣời, tác giả tỏ ra rất sâu sắc, nhạy cảm trong khi phát hiện những biến đổi, xao động phức tạp trong
tâm hồn con ngƣời:

Bài thơ Tiếc cảnh 10, Cây chuối, cảnh hè,..

VI. NGHỆ THUẬT THƠ

Sáng tác thơ của Nguyễn Trãi có trên 100 bài thơ chữ Hán và 254 bài thơ chữ Nôm. Ðặc biệt, qua Quốc âm thi
tập, ta có thể thấy rõ những đóng góp đáng trân trọng của Nguyễn Trãi về nhiều phƣơng diện mà tiêu biểu nhất là
phƣơng diện thể thơ và ngôn từ:

1. Về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi

- Ðây là một thể thơ đƣợc sáng tác dựa trên quy cách và cấu trúc của thơ Ðƣờng luật. Ðiểm khác biệt là ở hiện
tƣợng xen kẽ những câu sáu tiếng vào các câu 7 tiếng của bài thơ bát cú lẫn tứ tuyệt luật Ðƣờng.

- Số lƣợng các bài thơ đƣợc sáng tác theo hình thức này rất lớn (186/254) chứng tỏ rằng Nguyễn Trãi hoàn toàn có
ý thức khi vận dụng thể thơ này nhƣ một sự thử nghiệm cho việc tìm ra một thể thơ mới cho dân tộc, chống lại ảnh
hƣởng quá sâu sắc của thi ca Trung Hoa.

- Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6 tiếng trong bài thơ thất ngôn xen lục ngôn khiến lời thơ trở nên cô đọng,
giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thƣờng phù hợp với việc diễn đạt những chân lý của đời sống, những quyết tâm
hành động của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp phong phú của câu thơ 6 chữ khiến nó có khả năng diễn đạt đƣợc
những cung bậc tình cảm đặc biệt tinh tế, sâu sắc của con ngƣời.

http://diendankienthuc.net 32 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

- Tuy nhiên, sự xuất hiện của các câu thơ 6 chữ đã làm phá vỡ kết cấu hoàn chỉnh của bài thơ Ðƣờng luật, dẫn đến
việc thất niêm, thất luật. Vì vậy, thể thơ này ngày càng ít đực sử dụng, nhƣờng chỗ cho những thể thơ dân tộc khác
hoàn chỉnh hơn về mặt cấu trúc và niêm luật.

2. Ngôn từ thơ Nôm Nguyễn Trãi:

- Bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ của văn chƣơng trung đại, thơ Nôm Nguyễn Trãi vẫn mang tính uyên bác, sử
dụng nhiều điển cố và các hình ảnh tƣợng trƣng ƣớc lệ.

- Tuy nhiên, nhờ sử dụng chữ Nôm, thơ Nguyễn Trãi đã ngày càng dung dị, tự nhiên, gần gũi hơn với cuộc sống
của nhân dân lao động. Từ ngữ trong thơ Nôm thƣờng có sức gợi tả mạnh và đặc biệt độc đáo.

- Nhờ chữ Nôm, Nguyễn Trãi đã thành công trong việc đƣa vào thơ ca bác học nguồn thi liệu vô cùng quý giá của
tục ngữ, thành ngữ, ca dao.

Giảng văn: Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi

CHƢƠNG VIII: KHÁI QUÁT VĂN HỌC

TỪ THẾ KỶ XVI ÐẾN NỬA ÐẦU THẾ KỶ XVIII

Lê Thánh Tông mất ở thời điểm cuối thế kỷ XV. Triều đại Hậu Lê chấm dứt thời kỳ hƣng thịnh và bắt đầu trƣợt
dài trên con đƣờng suy thoái kể từ đầu thế kỷ XVI. Trong hoàn cảnh mới, văn học vẫn phát triển mạnh mẽ nhờ đáp
ứng kịp thời những nhu cầu của thời đại.

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

1. Sự phân hóa trầm trọng nội bộ giai cấp thống trị dẫn đến nội chiến phong kiến gần một thế kỷ:

- 1497- Lê Thánh Tông mất

- 1505- Lê Uy Mục lên ngôi, nổi tiếng là một vua dâm bạo, tàn ác. Kể từ đây, nội bộ giai cấp thống trị mâu thuẫn
nghiêm trọng do xung đột giữa các phe phái quý tộc trong việc tranh quyền đoạt lợi. Từ năm 1505 đến 1527, đã có
đến 6 triều vua thay nhau nối ngôi.

- 1527- Mạc Ðăng Dung cƣớp ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc

- Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa cùng với một số tôn thất nhà Lê thành lập triều Lê Trung Hƣng tiến hành
chống nhà Mạc. Sử gọi là cuộc chiến tranh Nam- Bắc triều kéo dài gần 50 năm (1546- 1592)

- 1592- Nam thắng Bắc. Nhà Mạc thua trận phải chạy về Cao Bằng. Tại Thăng Long chế độ vua Lê- chúa Trịnh
hình thành.

- Trịnh Kiểm giành quyền. Nguyễn Uông bị giết. Nguyễn Hoàng hoảng sợ xin vào khai phá vùng đất phía Nam rồi
lập nên nhà Nguyễn tiến hành chống lại vua Lê- chúa Trịnh ở đàng ngoài. Sử gọi là Trịnh- Nguyễn phân tranh, kéo
dài gần 50 năm (1627- 1672). Trong suốt thời gian nội chiến có 7 lần đánh nhau to nhƣng không bên nào giành
phần thắng nên đành lấy sông Gianh làm giới tuyến chia đôi sơn hà.

2. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và sự bành trƣớng của thế lực đồng tiền.

http://diendankienthuc.net 33 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Trong hoàn cảnh chiến tranh, kinh tế vẫn có sự phát triển mạnh mẽ :

- Khẩn hoang lập đất ở đàng trong

- Sự phát triển tiểu thủ công nghiệp ở cả hai đàng

- Sự hình thành các đô thị lớn

- Ngoại thƣơng phát triển nhanh do bắt đầu thiết lập quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa với các thuyền buôn
phƣơng Tây.

Kinh tế hàng hóa phát triển dẫn đến sự bành trƣớng của thế lực đồng tiền dần dần phá hoại nền tảng truyền thống
đạo đức của dân tộc.

3. Về tƣ tƣởng

- Ðạo Nho ngày một suy vi

- Ðạo Phật chấn hƣng- Ðạo Lão phát triển

- Sự ra đời của đạo Hoa Lang.

II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC

1. Những đặc điểm chung

+ Lực lƣợng sáng tác nho sĩ bình dân và ẩn dật chiếm đa số.

+ Văn học chữ Nôm phát triển mạnh do:

- Kế thừa những thành tựu của giai đoạn trƣớc

- Hán học suy vi

- Nho sĩ bình dân ẩn dật chiếm đa số

+ Sự xuất hiện của nhiều thể loại mới:

- Lục bát- Truyện thơ Nôm, diễn ca lịch sử

- Song thất lục bát- Khúc ngâm

2. Nội dung chính:

a. Nội dung thù phụng, ca ngợi chính quyền phong kiến

b. Nội dung ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên, đất nƣớc

c. Nội dung tố cáo hiện thực xấu xa thối nát của chính quyền phong kiến đƣơng thời:

http://diendankienthuc.net 34 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Ðây là nội dung tiêu biểu và có giá trị của văn học thời kỳ này. Tập trung vào một số tác giả tiêu biểu nhƣ:
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, NguyễN Cƣ Trinh, Ngô Thế Lân, Nguyễn Hàng. Thơ văn họ hoặc tố cáo trực
tiếp bản chất xấu xa của chế độ phong kiến hoặc ca ngợi chữ Nhàn nhƣ một cách phản kháng gián tiếp. Vì vậy, nội
dung này có giá trị hiện thực sâu sắc.

+ Tố cáo nội chiến phong kiến tàn khốc.

+ Tố cáo sự xấu xa, thối nát của bọn vua chúa, quan lại đƣơng thời.

+ Phản ánh sự suy đồi của đạo đức phong kiến do ảnh hƣởng của thế lực đồng tiền.

d. Phản ánh số phận bi thảm của con ngƣời, nhất là ngƣời phụ nữ

đ. Ca ngợi tình yêu tự do, phóng khoáng

Trong hoàn cảnh chế độ phong kiến và Nho giáo ngày một suy vi, văn học bắt đầu đề cập đến những nhu cầu giải
phóng tình cảm con ngƣời. Các tác giả đã tỏ ra rất táo bạo, nhiệt tình, mới mẻ khi phản ánh, ca ngợi tình yêu,
khẳng định hạnh phúc nơi trần thế và đề cao vai trò chủ động của ngƣời phụ nữ trong tình yêu (Lâm tuyền kỳ ngộ,
Song Tinh bất dạ,..). Những tác phẩm này thể hiện rõ sự phát triển của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học

III. NHẬN XÉT CHUNG

Văn học thời kỳ này có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

CHƢƠNG 9: NGUYỄN BỈNH KHIÊM- CUỘC ÐỜI VÀ THƠ VĂN

I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

Sinh năm 1491 mất năm 1585, tên húy là Văn Ðạt, tự là Hanh Phủ, đạo hiệu Bạch Vân cƣ sĩ. NBK vốn ngƣời làng
Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dƣơng. Cha ông là Văn Ðịnh (Cù Xuyên tiên sinh), mẹ là con gái quan
thƣợng thƣ Nhữ Văn Lan

Lúc nhỏ, ông theo học bảng nhãn Lƣơng Ðắc Bằng, nổi tiếng thông minh khác thƣờng, đƣợc thầy yêu mến.

Học giỏi nhƣng lúc còn trẻ,ông không chịu ra thi làm quan, thích sống đời ẩn dật. Mãi đến năm 45 tuổi, ông đột
ngột ra thi và đỗ ngay Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Ðại Chính thứ 6 (1535) đời Mạc Ðăng Doanh.

Ở triều đƣợc 8 năm, ông lại xin về ở ẩn nhƣng vẫn theo giúp nhà Mạc khi có yêu cầu.

Về Trung Am, ông cho xây dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân bên dòng sông Tuyết để dạy học trò nên
ngƣời đời sau còn gọi ông là Tuyết giang phu tử. Học trò ông có nhiều ngƣời lỗi lạc nhƣ Nguyễn Dữ, Phùng Khắc
Khoan,..

Khi mất, ông đƣợc nhà Mạc truy phong Lại bộ thƣợng thƣ Trình quốc công, cho xây dựng miếu thờ

II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

Chữ Hán: Bạch Vân am tập, một bài tựa, tác phẩm Trung Tân bi quán ký, Thạch Khánh ký.

Chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài thơ)
http://diendankienthuc.net 35 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

III. NỘI DUNG THƠ VĂN

1. Tố cáo hiện thực xã hội đƣơng thời

Sống gần trọn thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm chứng kiến toàn vẹn sự suy sụp từng bƣớc của chế độ phong kiến.
Thơ văn ông phản ánh rõ nét thực chất phi nghĩa, tàn khốc của nội chiến phong kiến và những mặt trái của xã hội
đƣơng thời. Ở đó, từ vua, quan đến tầng lớp kẻ sĩ xu nịnh đều xem đồng tiền là trên hết. Lễ giáo phong kiến ngày
một suy vi:

Cương thường nhật điệu thi

Lễ nghĩa thán quải trượng (Cảm hứng).

Bọn vua chúa gian dâm vô độ, thích gây chiến tranh khiến đồng ruộng biến thành bãi chiến trƣờng, khắp nơi đều
là lũy giặc:

Nguyên dã tác chiến trường

Tỉnh ấp biến tặc lũy.

Bọn quan lại đƣợc tác giả so sánh với bọn chuột lớn bất nhân chuyên dựa vào thế lực vua chúa để đục khoét của
cải của nhân dân khiến mọi ngƣời oán đầy bụng

Thành xã ỷ vi gian

Thần dân oán mãn phúc (Tăng Thử)

Lý tƣởng trọng nghĩa khinh tài của kẻ sĩ bị bôi nhọ bởi đồng tiền:

Còn bạc còn tiền còn đệ tử

Hết cơm hết rượu hết ông tôi (Thói đời)

Xã hội phong kiến chỉ đầy dẫy nhựng cảnh cá lớn ăn thịt cá nhỏ. Tinh thần nhân nghĩa giờ bị mờ nhạt bởi sức
nặng của đồng tiền:

Ðời nay nhân nghĩa tựa vàng mười

Có của thì hơn hết mọi lời

2. Triết lý chữ Nhàn trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm

Ðể chỉ tƣ tƣởng nhàn tản, có nhiều thuật ngữ: an nhàn, nhàn tản, nhàn dật, nhàn phóng, ản dật, nhàn,.. Nói chung
đều có nghĩa là làm rất ít hoặc không làm gì cả. Thể xác an nhàn, tâm hồn thanh thản, những kẻ sĩ ẩn dật thƣờng
không còn lo nghĩ việc đời, thích ngao sơn ngoạn thủy, xem danh lợi nhƣ một áng phù vân.

Tƣ tƣởng Nhàn của kẻ tu hành chịu ảnh hƣởng của thuyết xuất thế của nhà Phật. Tƣ tƣởng nhàn của những kẻ trốn
tránh nhiệm vụ, hƣởng lạc, vinh thân phì da là những tƣ tƣởng có tính chất tiêu cực. Nhàn đối với Nguyễn Bỉnh
Khiêm, một kẻ sĩ có khát vọng cứu dân giúp đời nhƣng bất lực trong hoàn cảnh rối ren, là sự phản kháng, không
cộng tác với nhà nƣớc phong kiến để giữ tròn phẩm giá của kẻ sĩ chân chính trong thời buổi loạn lạc:

http://diendankienthuc.net 36 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Lúc nhàn ngẫm việc xưa nay

Không gì hiểm bằng đường đời (Trung Tân ngụ hứng)

Lòng vô sự, trăng in nước

Cửa thảng lai, gió thổi hoa (Thơ Nôm 34)

Rượu đến cội cây ta sẽ nhắp

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Cũng có lúc tác giả nhắc đến sự chọn lựa vụng dại của mình mà thật ra là để chê trách sự gian xảo của ngƣời đời:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Người xảo thì ta vụng

Âúy vụng thế mà hay

Ta vụng thì người xảo

Ấy xảo thế mà gay (Trung Tân ngụ hứng)

Qua việc ca ngợi chữ Nhàn, có thể thấy rõ tấm lòng yêu nƣớc thƣơng dân chân thành của nhà thơ.

3. Những quan niệm triết lý sâu sắc về cuộc sống

Cuộc đời nhàn tản giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể chiêm nghiệm đƣợc thời thế hƣng vong. Ông đƣợc xem là một
nhà thơ triết học nhờ những nhận xét mang tính khái quát, hàm súc cao độ về bản chất của đời sống, lẽ hƣng vong,
đắc thất, sang hèn:

Hoa càng khoe nở hoa nên rữa

Nước chứa cho đầy nước ắt vơi (Trung Tân ngụ hứng)

Ðối với NBK, sự biến đổi có tính chất tuần hoàn của tạo hóa (theo quan niệm triết học của ngƣời trung đại) đƣợc
đồng nhất với sự biến đổi, hƣng vong, đắc thất của chế độ phong kiến. Sự biến đổi này, theo ông, là rất ghê gớm:

Thế gian biến cải vũng nên đồi

Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi

Dựa vào lẽ tƣơng sinh tƣơng khắc, ông đã thể hiện rõ những xung đột gay gắt trong xã hội đƣơng thời: chiến tranh
phong kiến, sự phân chia giai cấp nghèo giàu, sang hèn trong xã hội, mâu thuẫn giữa hạnh phúc và bất hạnh trong
đời ngƣời,..Chính những xung đột đó đã dẫn đến một quá trình suy thoái mà những kẻ sĩ chân chính thời đó luôn
đau lòng khi chứng kiến. Dựa vào lẽ tuần hoàn, ông cố gắng lý giải sự biến đổi, sự suy thoái của chế độ phong
kiến nhƣ là một giai đoạn tất yếu trong chu kỳ hết hƣng thịnh đến suy vong. Ðiều này cũng có nghĩa là ông rất tin
tƣởng vào tƣơng lai, lúc mà CÐPK tìm lại đƣợc sự ổn định, cân bằng :

http://diendankienthuc.net 37 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Tái nhất âm hề phục nhất dương

Tuần hoàn vãn phục lý chi thường (Khiển hứng)

Tuy nhiên, sự vận động của lịch sử dân tộc không đồng nhất với sự vận động của chế độ phong kiến. Vì vậy, bản
thân những tƣ tƣởng của ông cũng chứa đựng những mâu thuẫn giữa ý muốn giải quyết những khó khăn của
phong kiến trong hoàn cảnh suy thoái và sự bất lực trƣớc hoàn cảnh nan giải đó

4. Khát vọng cứu nƣớc giúp đời trong hoàn cảnh nhàn tản.

Nói đến tính chất tích cực trong tƣ tƣởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là nói đến một tấm lòng tiên ƣu
đến già vẫn chƣa thôi:

Lão lai vị ngãi tiên ưu chí

Ðắc táng cùng thông khởi ngã ưu (Tự thuật)

Sống trong hoàn cảnh loạn lạc, tâm sự lo âu khiến tóc ông bạc trắng (Nguy thời ƣu quốc mấn thành ti- Thu tứ).
Tóc bạc trắng, bởi tấm lòng ƣu ái vẫn đêm đêm day dứt:

Ưu thời thốn niệm bằng thùy tả

Duy hữu hàn sơn bán dạ chung (Trung Tân quán ngụ hứng)

Tóm lại, NBK thân nhàn nhƣng tâm không nhàn, suốt đời lo nƣớc thƣơng dân

5. Tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời sâu nặng.

Tác phẩm của ông phần lớn viết trong bối cảnh cuộc sống nhàn tản ở nông thôn và ông tỏ ra rất tâm đắc với đời
sống ẩn cƣ đó:

Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Thơ ông thể hiện một sự gắn bó chân thành giữa con ngƣời với cảnh vật:

Non nước có mùi lòng khách chứa

Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng (Thơ Nôm bài 33)

Ba gian am quán lòng hằng mến

Ðòi chốn sơn hà mặt đã quen (bài 8)

Ông dành trọn tình cảm chân thành của mình cho nhân dân lao động:

Vũ Dương khoái đỗ thời thời nhược

Thượng thụy ưng tri đại hữu niên (Hạ nhật vũ tình)

http://diendankienthuc.net 38 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

(Mừng thấy mƣa nắng đúng kỳ- Biết điềm lành đƣợc mùa lớn)

6. Những yếu tố tiêu cực trong tƣ tƣởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

CHƢƠNG 10 : NGUYỄN DỮ VÀ TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ

II. TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

1. Về tựa đề tác phẩm


2. Về kết cấu tác phẩm
3. Giá trị đích thực của tác phẩm.

Ðây là một tác phẩm chứa đầy những yếu tố thần linh ma quái nhƣng thực chất là tác giả chỉ mƣợn những câu
chuyện hoang đƣờng đó để phản ánh những vấn đề nóng bỏng của xã hội đƣơng thời.

4. Nội dung tác phẩm

a. Tác phẩm thể hiện rõ tinh thần dân tộc

Tác phẩm lấy cơ sở từ những truyền thuyết trong dân gian, con ngƣời, bối cảnh đều trên đất Ðại Việt. Ðặc biệt,
trong một số truyện ngắn, tác giả đã thể hiện rõ ý thức tự hào dân tộc qua cách ca ngợi các danh nhân Việt Nam và
đánh giá táo bạo về những danh nhân Trung Quốc. Quan niệm địa linh nhân kiệt của Nguyễn Dữ rất phù hợp với
quan niệm chung của tầng lớp trí thức yêu nƣớc đƣơng thời.

b. Tác phẩm tố cáo sự xấu xa thối nát của chế độ phong kiến đƣơng thời

Chủ yếu thể hiện qua hình ảnh của boûn vua chúa, quan lại, kẻ sĩ phong kiến, sự xấu xa của thế lực đồng tiền và
đặc biệt là số phận bi thảm của con ngƣời trong chính xã hội đó.

c. Vấn đề ngƣời phụ nữ trong tác phẩm

Tiếp nối các tác giả trƣớc đó, Nguyễn Dữ đã có cách nhìn đúng đắn, rất nhân đạo, cảm thông đối với ngƣời phụ nữ
có cảnh ngộ éo le trong chế độ phong kiến khắc khe, tàn nhẫn.

d. Tình yêu trong tác phẩm

5. Vài nét về nghệ thuật:

- Truyền kỳ mạn lúc đánh dấu một thành công mới của thể loại văn xuôi tự sự bằng chữ Hán.

- Một số truyện ngắn có chất lƣợng nghệ thuật cao nhờ kết cấu tình tiết phức tạp và các nhân vật đƣợc xây dựng
khá công phu, có đời sống, tính cách, số phận riêng

- Cách miêu tả những nhân vật phản diện khá thành công .

- Ngôn ngữ chính xác, cô đọng,các biện pháp nghệ thuật đƣợc sử dụng khá nhuần nhuyễn.

http://diendankienthuc.net 39 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Chƣơng 11: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XVIII,NỬA ÐẦU THẾ KỶ
XIX

-Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền
văn học dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vì sự phát triển rực rỡ của nó mà nhiều nhà nghiên cứu đã mệnh
danh cho giai đoạn này là giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam. Khái niệm giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam ở
đây tạm hiểu là một di sản văn học thuộc về quá khứ, có giá trị ƣu tú và đã đƣợc thử thách, đƣợc khẳng định qua
thời gian.

-Vậy, một vấn đề đặt ra là tại sao văn học giai đoạn này lại phát triển rực rỡ nhƣ vậy? Văn học giai đoạn này
phát triển rực rỡ, điều đó không có gì là ngẫu nhiên. Có hai nguyên nhân:

+Văn học giai đoạn này đã kế thừa những thành tựu của nền văn học dân gian và những thành tựu của
nền văn học viết-một nền văn học đã đƣợc phát triển trong gần tám thế kỷ.

+Tuy nhiên cái quyết định vẫn là bối cảnh lịch sử-xã hội, tƣ tƣởng, văn hóa.

I.BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI, TƢ TƢỞNG, VĂN HÓA

1. Giai đoạn khủng hoảng, suy vong trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam và bi kịch lịch sử dân tộc.

1.1.1. Chế độ phong kiến Việt Nam bƣớc vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng

-Chế độ phong kiến Việt Nam cực thịnh vào thế kỷ XV. Sang thế kỷ XVI, XVII chế độ này đã bộc lộ
những dấu hiệu của sự suy yếu. Mầm mống của cuộc khủng hoảng nội bộ đã xuất hiện. Ðây là hai thế kỷ nội chiến
phong kiến.

-Ðến nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX thì sự suy yếu này không còn là dấu hiệu nữa. Có thể nói
chế độ phong kiến Việt Nam đã bƣớc vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng, chuẩn bị cho sự sụp đổ toàn
diện của chế độ này vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự khủng hoảng này đƣợc bộc lộ trên nhiều phƣơng diện
nhƣng nổi bật nhất là tính chất thối nát, suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến .

+Kinh tế: Thành phần kinh tế chính của đất nƣớc giai đoạn này vẫn là kinh tế nông nghiệp. Nền kinh tế này
bị đình đốn. Kinh tế sản xuất hàng hóa cũng bị kìm hãm. .

+ Chính trị: Nhƣ một quy luật, kinh tế đình đốn thƣờng dẫn đến sự hỗn loạn về chính trị. Những mâu
thuẫn vốn có, chứa chất lâu ngày trong lòng chế độ phong kiến Việt Nam đến đây đã có dịp bùng nổ dữ dội.

+ Văn hóa: Nhà Nguyễn cấm dùng chữ Nôm, cấm đoán về mặt tƣ tƣởng rất nghiệt ngã.

* Tóm lại, giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa cuối thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng
khủng hoảng sâu sắc. Sự khủng hoảng này còn đƣợc biểu hiện ở sức trỗi dậy mãnh liệt với một khí thế chƣa từng
có của phong trào nông dân khởi nghĩa.

1.1.2. Nhân dân vùng lên mãnh liệt có lúc giành đƣợc thắng lợi vẻ vang nhƣng rồi lại thất bại.

-Giai đoạn này đƣợc mang vinh hiệu là Thế kỷ nông dân khởi nghĩa. Có thể nói đây là thời kỳ đấu tranh liên tục,
mạnh mẽ, rộng khắp của quần chúng mà chủ yếu là nông dân.

http://diendankienthuc.net 40 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+Tính chất mạnh mẽ thể hiện ở chỗ có những cuộc khởi nghĩa tập trung hàng vạn ngƣời, kéo dài hàng chục
năm nhƣ cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751); cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phƣơng ( 1740-
1750); cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1736-1769)

+Tính chất rộng khắp thể hiện ở chỗ các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp mọi miền đất nƣớc.

-Ðỉnh cao của phong trào khởi nghĩa lúc này là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn Cuộc khởi nghĩa này đã dành đƣợc
những thắng lợi vẻ vang: Ðánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nƣớc; đánh tan hơn hai mƣơi vạn quân
Thanh xâm lƣợc , lập nên một vƣơng triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ .Nhƣng đáng tiếc là
Quang Trung chỉ ở ngôi đƣợc mấy năm. Sau khi Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lại trở nên lục đục. Nhân cơ hội
ấy, Nguyễn Aïnh đã trở lại tấn công nhà Tây Sơn, lập nên triều đại nhà Nguyễn (1802). Triều Nguyễn là một tân
triều, nhƣng triều Nguyễn không đại diện cho cái mới. Buổi đầu, để củng cố địa vị thống trị của mình nhà Nguyễn
còn thực hiện đƣợc một số chính sách tiến bộ nhƣng càng về sau nhà Nguyễn càng đi vào con đƣờng phản động để
rồi trở thành một triều đại phản động nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Vì thế dƣới triều Nguyễn các
cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra.

-Tuy nhiên khởi nghĩa nông dân trong hoàn cảnh của xã hội đƣơng thời không thể đi đến thắng lợi hoàn toàn và
triệt để. Khởi nghĩa của nông dân chỉ mới là động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ chƣa thể làm thay đổi chế độ
xã hội.

1.1.3.Lực lƣợng thị dân trong giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến

- Nền kinh tế hàng hóa vốn xuất hiện từ thế kỷ XVI, thế kỷ XVII đã có nhiều bƣớc phát triển đáng kể, đến giai
đoạn này lại bị nhiều chính sách kinh tế phản động của chính quyền phong kiến kìm hãm cho nên nó chƣa phát
triển thành một cơ cấu kinh tế mới để rồi tạo ra một giai cấp tƣ sản, nhƣng cùng với sự đi lên của thành phần kinh
tế này thì tầng lớp thƣơng nhân, thợ thủ công ngày càng đông đảo tập trung ở các thƣơng cảng, đô thị.

-Tầng lớp này do sinh hoạt kinh tế của họ đã li khai phần nào với quan hệ sản xuất phong kiến, cuộc sống của họ
là cuộc sống đi đây đi đó nhiều, giao tiếp rộng rãi kể cả giao tiếp với ngƣời nƣớc ngoài cho nên về mặt tƣ tƣởng,
tình cảm, họ trở nên phóng khoáng hơn ngƣời nông dân vốn bị trói buộc vào làng quê, hơn cả nho sĩ vốn bị rập
khuôn theo trăm nghìn thể chế, giáo điều chính thống cứng nhắc. Sự có mặt của tầng lớp này cũng đã tạo ra những
làn gió mới lan tỏa vào đời sống tƣ tƣởng, tinh thần thời đại.

*Tóm lại: lịch sử dân tộc ta giai đoạn này là lịch sử đau thƣơng nhƣng quật khởi, có bi kịch nhƣng cũng có anh
hùng ca. Nhìn về phía giai cấp thống trị là cả một sự sụp đổ, tan rã toàn diện của kỷ cƣơng, của lễ giáo phong kiến,
của bộ máy quan liêu và nói chung là của toàn bộ cơ cấu xã hội.

Song nhìn về phía quần chúng thì đây là thời kỳ quật khởi, thế kỷ bão táp của các phong trào nông dân khởi nghĩa,
thời đại đấu tranh tháo cũi sổ lồng.

Trải qua nhiều biến động nhƣng cuối cùng xã hội Việt Nam vẫn lâm vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tuy vậy
phong trào đấu tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ cũng đã làm bùng dậy nhiều khát
vọng lành mạnh, làm quật cƣờng thêm tinh thần dân tộc, tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột, cổ vũ cho sự
vƣơn dậy của tài năng, trí tuệ của con ngƣời.

2.Sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến và sự trỗi dậy của tƣ tƣởng nhân văn của thời đại.

1.2.1.Sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến

-Giai cấp phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm ý thức hệ chính thống, lấy Nho giáo làm quốc giáo, dựa vào
Nho giáo để thống trị nhân dân. Trong mấy thế kỷ trƣớc, khi chế độ phong kiến đang đi lên thì Nho giáo có uy lực

http://diendankienthuc.net 41 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

của nó. Nhƣng đến thời kỳ này chế độ phong kiến đã bƣớc vào thời kỳ suy vong, khủng hoảng thì Nho giáo cũng
bị đả kích, bị lung lay dữ dội.

+Nguyên nhân: Sự phá sản này chủ yếu phát sinh từ sức công phá của trào lƣu tƣ tƣởng nhân văn của thời
đại và từ hàng ngũ giai cấp thống trị kẻ đã khẳng định, tôn sùng và nuôi dƣỡng ý thức hệ này.

+Biểu hiện: Những cái đƣợc gọi là tam cƣơng, ngũ thƣờng của Nho giáo đều bị sụp đổ một cách thảm hại.

+Sự sụp đổ cuả ý thức hệ nho giáo có hƣởng đến tầng lớp nho sĩ-lực lƣợng sáng tác văn học của thời đại.

Sống trong thời đại Nho giáo bị sụp đổ thảm hại nhƣ vậy, một tầng lớp nhà nho chân chính bị khủng hoảng về mặt
lý tƣởng. Họ không tìm ra con đƣờng đi, họ hoang mang trƣớc thời cuộc.Một số nhà nho bị bế tắc thực sự, Nguyễn
Du đã từng thốt lên:

Tráng sĩ bạch đầu bi hƣớng thiên

Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên

Xuân lan thu cúc thành hư sự

Hạ thử, đông hàn đoạt thiếu niên

(Tạp thi)

Họ mất hết niềm tin vào chính quyền, vào minh chúa. Số đông đã lui về ở ẩn, hoặc đang làm quan lui về ở ẩn để
giữ gìn khí tiết, nhân cách của mình.

1.2.2.Sự trỗi dậy cuả truyền thống nhân văn.

-Trong khi Nho giáo bị sụp đổ nhƣ vậy thì một khuynh hƣớng tƣ tƣởng, bảo vệ, khẳng định quyền sống và giá trị,
phẩm chất con ngƣời đã phát triền thành một khuynh hƣớng mạnh mẽ.

-Cơ sở xã hội, tƣ tƣởng của khuynh hƣớng này:

+Cơ sở xã hội: Ðó là phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng bị áp bức mà chủ yếu là của nông dân
chống phong kiến đã liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ.

+Cơ sở tƣ tƣởng: Ðó là sự sụp đổ cuả ý thức hệ Nho giáo. Phật giáo, Ðạo giáo lại phát triển, tƣ tƣởng thị dân
hình thành, tất cả đã có ảnh hƣởng đến sự kết tinh cuả truyền thống nhân văn cuả dân tộc.

Những biểu hiện của khuynh hƣớng, tƣ tƣởng nhân văn trong văn học sẽ là sự lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống
đƣơng thời chà đạp lên quyền sống của con ngƣời; đấu tranh đòi cuộc sống cơm áo; phát triển cá tính; giải phóng
tình cảm, bản năng; là thái độ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời; là thái độ đồng tình, xót thƣơng,
thông cảm của các tác giả đối với các nạn nhân của xã hội.

1.3.Sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa dân tộc

Ðây là giai đoạn nền văn hóa dân tộc phát triển khá mạnh, khá đều khắp, một số ngành đã đạt đƣợc những thành
tựu xuất sắc.

-Thành tựu:

http://diendankienthuc.net 42 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+Khoa học xã hội: Ngành nghiên cứu lịch sử, địa lý phát triển khá mạnh với hai học giả nổi tiếng: Lê Quí
Ðôn và Phan Huy Chú.

+Khoa học tự nhiên: Nổi bật nhất là ngành y với nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác.

+Các ngành văn học, nghệ thuật: Chèo ở Ðàng Ngoài, tuồng ở Ðàng Trong phát triển; văn học chữ Nôm
phát triển mạnh, những tác phẩm có giá trị cuả giai đoạn này đều đƣợc sáng tác bằng chữ Nôm; kiến trúc tôn giáo,
nghệ thuật điêu khắc có nhiều thành tựu.

-Một số đặc điểm của nền văn hoá:

+Trƣớc hết đó là tinh thần duy lý trong quan điểm và phƣơng pháp biên soạn. Việc tiếp nhận văn hóa
Trung quốc thoát li tính chất nô lệ, sùng ngoại để đi vào khuynh hƣớng tiếp nhận sáng tạo tinh hoa của văn hóa
nƣớc ngoài.Ðó là phƣơng pháp biên soạn sách của Lê Quí Ðôn trọng thực tiễn, óc phán đoán suy luận khá chặt
chẽ.

+Tinh thần dân tộc: Biểu hiện ở thái dộ nhìn nhận, đánh giá lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc. Lê Quí Ðôn
trong Toàn Việt thi lục lệ ngôn đã viết: Nƣớc Việt Nam từ khi mở cõi văn minh không thua kém gì Trung Hoa.
Tinh thần ấy còn thể hiện ở hoài bão xây dựng một lá cờ cho y giới nƣớc nhà (Lê Hữu Trác).

*Tóm lại: Những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa với những đặc điểm riêng của nó là sản phẩm tinh thần của
hoàn cảnh lịch sử nói trên.

II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC

1.Lực lƣợng sáng tác.

2.1.1.So với các giai đoạn trƣớc, lực lƣợng sáng tác đã có sự đổi mới về lƣợng và chất.

-Giai đoạn từ thế kỷ X-XV: Dƣới triều đại nhà Lý, lực lƣợng sáng tác thống lĩnh văn đàn là các nhà sƣ. Triều đại
nhà Trần, bên cạnh tầng lớp nhà sƣ là các nhà nho. Thời Lê sơ, lực lƣợng sáng tác chính là các nhà nho.

-Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII: Lực lƣợng sáng tác chính vẫn là các nhà nho, bên cạnh lực
lƣợng này còn có thêm những cây bút là nho sĩ ở ẩn: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ.

-Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX:

+Lực lƣợng sáng tác tuy vẫn là các nho sĩ, nhƣng bên cạnh những nho sĩ quan liêu, nho sĩ thuộc tầng lớp trên thì
nho sĩ bình dân đã chiếm một vị trí đáng kể.

+Ngay những nho sĩ quan liêu cũng đã có những đặc điểm mới khác với nho sĩ quan liêu ở các giai đoạn trƣớc.
Kiến thức về văn hóa đƣợc mở rộng; vốn sống phong phú vì có những chuyến đi thực tế bất đắc
dĩ.

2.1.2.So với các giai đoạn trƣớc, lực lƣợng sáng tác trong giai đoạn này còn có sự chuyển biến trong quan niệm
sáng tác.

Quan niệm văn dĩ tải đạo,thi ngôn chí vốn là quan niệm tryền thống của các nhà nho Việt Nam. Ðến giai
đoạn này, các nhà văn, nhà thơ cũng chƣa thoát khỏi quan niệm ấy, nhƣng bên cạnh đó đã hình thành và phát triển
một khuynh hƣớng thu hút đông đảo các nho sĩ sáng tác: Khuynh hƣớng hƣớng tới con ngƣời bình thƣờng, hƣớng
tới cuộc sống

http://diendankienthuc.net 43 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

xã hội rộng rãi, chính quan niệm sáng tác chứa chan bản sắc nhân văn này đã đƣa đến bƣớc phát triển đẹp đẽ, rực
rỡ của văn học.

2.Các khuynh hƣớng chính của văn học

Chúng ta có thể chia văn học giai đoạn này làm ba khuynh hƣớng chính.

2.2.1.Khuynh hƣớng tố cáo hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa.

-Ðây là khuynh hƣớng chủ đạo của văn học giai đoạn này. Những tác giả tiến bộ, nhiều tài năng đều thuộc
khuynh hƣớng này. Khuynh hƣớng này còn thu hút nhiều tác giả mà thiên kiến chính trị còn có những hạn chế nhƣ
Phạm Thái, nhƣng khi đi vào đời sống xã hội, đời sống cá nhân họ lại có nhiều điểm gặp gỡ với yêu cầu dân chủ,
nhân đạo của thời đại.

-Nội dung của khuynh hƣớng này là phê phán hiện thực và đề cao con ngƣời, đề cao cuộc sống trần tục.

2.2.1.1.Phê phán hiện thực.

-Bộ phận văn học chữ Hán.

+Trong những tác phẩm văn xuôi viết theo thể ký, bộ mặt của xã hội, của giai cấp thống trị đƣợc dựng
lên khá đậm nét.

Hoàng Lê nhất thống chí là bức tranh sinh động về cảnh thối nát của triều đinh phong kiến lúc bấy
giờ. Vua thì ngồi làm vì, chúa Trịnh nắm hết quyền hành thì hôn mê, mù quáng gây ra bè đảng trong phủ chúa.
Quan lại thì bất tài, cơ hội chủ nghĩa.

Tập bút kí đặc sắc: Thƣợng kinh kí sự của Lê Hữu Trác.

+Trong thơ chữ Hán nhiều nhà thơ đã đi sâu miêu tả cuộc sống của nhân dân. Cao Bá Quát, Phạm Nguyễn
Du đã ghi lại những bức tranh sinh động về cuộc sống đói khổ của nhân dân. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du
thƣờng xuất hiện những bức tranh đối lập: Một bên là cuộc sống đói khổ của nhân dân và một bên là cuộc sống xa
hoa của giai cấp thống trị.

-Bộ phận văn học chữ Nôm.

+Khúc ngâm: Chinh phụ ngâm tố cáo chiến tranh phong kiến làm tan vỡ hạnh phúc, tình yêu của tuổi trẻ.
Cung oán ngâm khúc tố cáo chế độ cung tần vô nhân đạo làm cho cuộc đời của bao cô gái tài sắc héo hắt, tàn lụi
trong cung vua, phủ chúa.

+Thơ Hồ Xuân Hƣơng tố cáo chế độ đa thê và toàn bộ nền đạo đức phong kiến đối với ngƣời phụ nữ .

+Nguyễn Du trong Truyện Kiều, thông qua cuộc đời của nhân vật chính đã tốï cáo những thế lực tàn bạo chà
đạp lên quyền sống của con ngƣời.

-Ðặc điểm của sự phê phán, tố cáo của văn học giai đoạn này là các tác giả đứng trên lập trƣờng nhân sinh để tố
cáo tất cả những gì phản nhân sinh, phản tiến hóa vì thế mà diện tố cáo trong văn học đƣợc mở rộng và nội dung tố
cáo cũng sâu sắc hơn.

2.2.1.2.Ðề cao con ngƣời và đề cao cuộc sống trần tục.

http://diendankienthuc.net 44 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Phát triển trong bối cảnh lịch sử mà chế độ phong kiến bƣớc vào thời kì khủng hoảng, ý thức hệ phong kiến bị
sụp đổ, trào lƣu nhân văn đang bộc phát lên nhƣ một tƣ trào, văn học giai đoạn này có một đặc trƣng mang tính
lịch sử là khám phá ra con ngƣời, khẳng định những giá trị chân chính của con ngƣời, phản ánh những khát vọng
giải phóng của con ngƣời.

-Khám phá ra con ngƣời, văn học giai đoạn này đã lấy ngƣời phụ nữ làm đối tƣợng phản ánh chủ yếu .

-Bên cạnh hình tƣợng ngƣời phụ nữ, văn học giai đoạn này còn tập trung vào hình tƣợng anh hùng.

-Hàng loạt tác phẩm nhƣ Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hƣơng, Sơ kính tân trang, Truyện
Kiều rồi nhiều truyện thơ Nôm khác đều phản ánh những khát vọng của con ngƣời.

2.2.2.Khuynh hƣớng lạc quan.

-Nhƣ phần bối cảnh lịch sử đã trình bày , triều đại Tây Sơn tuy tồn tại ngắn ngủi nhƣng với những chính sách tiến
bộ, với những chiến công của nó, sự có mặt của triều đại này đã thực sự đem đến cho đời sống tinh thần của dân
tộc một sinh khí mới. Ðiều này đã để lại dấu ấn trong văn học.

-Nội dung chủ yếu của khuynh hƣớng này vẫn là khẳng định cuộc sống, khẳng định con ngƣời, mà tiêu biểu hơn
cả là khẳng định công đức của vua Quang Trung trong sự nghiệp chống giặc cũng nhƣ trong sự nghiệp xây dựng
đất nƣớc. Một số tác phẩm khác lại thể hiện lòng yêu nƣớc, yêu thiên nhiên, lòng tự hào dân
tộc.

2.2.3.Khuynh hƣớng thoát li, tiêu cực, bảo thủ .

-Các tác giả giai đoạn này có nhiêìu mâu thuẫn trong tƣ tƣởng, tình cảm nên khuynh hƣớng này có thêí nhắc đến
Nguyễn Gia Thiều, Ðặng Trần Côn, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ.

-Một số tác giả đứng trên lập trƣờng phong kiến Ðàng Trong hoặc Ðàng Ngoài để mạt sát phong trào Tây Sơn.
Các vua nhà Nguyễn nhƣ Tự Ðức, Minh Mệnh và một bộ phận quan lại chịu ảnh hƣởng sâu sắc của ý thức hệ Nho
giáo đã ca ngợi đạo đức, luân lý phong kiến.

-Một số tác giả vốn là cựu thần, bề tôi của triều Lê-Trịnh, khi thấy vận mệnh của giai cấp mình bị nghẽn lối, họ
đâm ra buồn, hoang mang, luyến tiếc quá khứ. Có thể kể đến sáng tác của Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hành, Bà
huyện Thanh Quan.

3.Các đặc điểm chính của văn học giai đoạn này.

2.3.1.Văn học dân tộc phát triển rực rỡ cả về số lƣợng lẫn chất

lƣợng, đặc biệt là về chất lƣợng.

Ở cả hai bộ phận văn học Hán và Nôm, đặc biệt là ở bộ phận văn học Nôm có sự phát triển nhảy vọt, phồn
vinh chƣa từng thấy. Ðiều này chứng tỏ sự trƣởng thành đến mức thuần thục của văn học Nôm. Tại sao lại có sự
phát triển này?

+Ðội ngũ sáng tác đƣợc tăng cƣờng, đó là kết quả của việc mở rộng việc học ở nông thôn.

+Nhờ có sự thay đổi quan niệm sáng tác do tác động của đời sống.

+Luật cấm chữ Nôm không có tác dụng nữa.

http://diendankienthuc.net 45 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

2.3.2.Nội dung và hình thức đều có sự phát triển, đổi mới và hoàn thiện tuy còn mang những hạn
chế do thời đại và giai cấp xuất thân quy định.

2.3.2.1.Nội dung:

-Ðề tài đƣợc mở rộng không còn bó hẹp ở luân lí, đạo đức phong kiến, văn học đề cập những vấn đề thiết
cốt trong cuộc sống trƣớc mắt.

-Chủ đề: Có hai chủ đề chính, chủ đề số phận con ngƣời và tìnhh yêu đôi lứa, bao trùm lên là chủ đề số phận
bi thảm của con ngƣời trong chế độ phong kiến suy tàn. Các tác phẩm ƣu tú đều bằng cách này hay cách khác đề
cập đến chủ đề này.

-Hình tƣợng trung tâm của văn học giai đoạn này là hình tƣợng ngƣời phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp
với những niềm vui, nỗi buồn của họ.

-Tƣ tƣởng rất phức tạp, nhiều khuynh hƣớng thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một tác giả và trong
một tác phẩm.Trong đó khuynh hƣớng phê phán hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa là khuynh hƣớng chính của văn
học giai đoạn này.

2.3.2.2.Hình thức.

-Thể loại: Những thể loại truyền thống vẫn tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn. Sự nở rộ đáng chú ý là
truyện thơ Nôm và khúc ngâm. Nó làm đậm thêm nét đặc sắc của bộ mặt văn học giai đoạn này. Hàng loạt truyện
thơ Nôm đã ra đời mà đỉnh cao là Truyện Kiều.

+Truyện và kí chữ Hán có khuynh hƣớng vƣơn lên tiểu thuyết.

+Thơ Ðƣờng luật với Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Công Trứ đã trở nên mềm mại.

+Nghệ thuật sân khấu:

*Ðàng Trong: Tuồng đạt đến mức mẫu mực.

*Ðàng Ngoài: Chèo phát triển

+Thể ca trù là một thể thơ trữ tình ngắn, so với thể thơ Ðƣờng luật thì nó có dung lƣợng lớn hơn và
cách luật cũng thoải mái hơn. Thể này xuất hiện từ thế kỷ XVI với Lê Ðức Mao nhƣng sau đó không đƣợc dùng.
Ðến đầu thế kỷ XIX nó đƣợc dùng lại với các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh. Ca trù
của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đạt đến trình độ mẫu mực.

-Phƣơng pháp sáng tác: Văn học giai đoạn này vẫn chƣa thoát khỏi chủ nghĩa qui phạm là phƣơng pháp lấy
những chuẩn mực, tiêu chuẩn có sẵn để sáng tác dẫn đến công

thức, ƣớc lệ. Bên cạnh đó khuynh hƣớng hiện thực chủ nghĩa khá phát triển đặc biệt là ở hai tác phẩm Hoàng Lê
nhất thống chí và Truyện Kiều.

-Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ ca trong văn học Nôm có bƣớc phát triển so với giai đoạn trƣớc, xu hƣớng trở về
với dân tộc, với đời sống ngày càng tăng , các xu hƣớng này đã có từ trƣớc nhƣng đến giai đoạn này phát triển
mạnh hơn.

2.3.3.Ảnh hƣởng qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết trở nên sâu rộng, đặc biệt là ảnh
hƣởng của văn học dân gian vào văn học viết ở cả hai bộ phận Hán và Nôm rất rõ.
http://diendankienthuc.net 46 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

III. KẾT LUẬN

1.Ðây là giai đoạn thuần thục của nền văn học viết dƣới chế độ phong kiến, là giai đoạn đặt cơ s để nền văn học
dân tộc bƣớc sang thời kỳ hiện đại.

2.Vấn đề trung tâm của văn học giai đoạn này là vấn đề số phận con ngƣời trong chế độ phong kiến suy tàn.

Chƣơng 12: CHINH PHỤ NGÂM

( Ngâm là lời than).

I.TÁC GIẢ VÀ DỊCH GIẢ

1.Tác giả:

-Chinh phụ ngâm là tác phẩm Hán văn rất nổi tiếng của Ðặng Trần Côn. Tiểu sử của tác giả cho đến nay
biết đƣợc còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ƣớc đoán ông sinh
vào khoảng năm 1710-1720, mất khoảng 1745.

-Quê hƣơng: Làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông (nay là Hà Tây).

Ông có làm quan nhƣng chức quan không lớn (ông từng làmhuấn đạo trƣờng phủ., làm tri huyện Thanh Oai, cuối
cùng làm chức Ngự sử đài chiếu khám).

-Về sáng tác: Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiêu biểu nhất, ngoài ra ông có một số bài thơ, bài phú tả cảnh thiên
nhiên. Khuynh hƣớng chung của thơ văn ông là đi sâu vào tình cảm, đi sâu vào nỗi lòng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín
của con ngƣời, nhất là đối với ngƣời phụ nữ.

2.Dịch giả:

-Chinh phụ ngâm ra đời đã gây một tiếng vang lớn trong giới nho sĩ đƣơng thời. Ngƣời ta chú ý đến tác phẩm này
không phải chỉ vì nghệ thuật điêu luyện của nó mà trƣớc hết là vì tác phẩm đã thể hiện một khuynh hƣớng mới của
văn học-khuynh hƣớng hƣớng tới cuộc sống của con ngƣời. Tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa thời đại văn học
Nôm đang nở rộ cho nên nhiều ngƣời đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm. Có nhiều bản dịch và phỏng dịch của Ðoàn
Thị Ðiểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, Phan Huy Ích. Trong số có những bản dịch đó, có một bản dịch
thành công nhất đƣợc gọi là Bài hiện hành (bản đang đƣợc lƣu hành).Vấn đề đặt ra là ai là tác giả của bản dịch
này? Hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hƣớng:

-Khuynh hƣớng thứ nhất cho rằng tác giả của bản dịch này là nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm.

-Khuynh hƣớng thứ hai cho rằng tác giả của bản dịch này là Phan Huy Ích.

-Hiện nay những ngƣời biên soạn sách giáo khoa PTTH vẫn theo khuynh hƣớng thứ nhất.

II.ÐỀ TÀI VÀ NGUỒN CẢM HỨNG CỦA TÁC GIẢ, DỊCH GIẢ.

1.Ðề tài chiến tranh, chinh phu, chinh phụ là đề tài truyền thống và phổ quát của nhiều nền văn học.

-Trong văn học Việt Nam, tiếng nói oán trách chiến tranh đã vang lên từ những câu ca dao trữ tình đầy oán hận.
Từ thế kỷ XV, nhà thơ Thái Thuận cũng đã từng đặt bút

http://diendankienthuc.net 47 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

với đề tài này (Bài thơ Chinh phụ ngâm). Thế kỷ XVII, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã từng viết về đề tài này.

-Trong văn học Trung Quốc, văn học đời Hán đã để lại những bài thơ nổi tiếng về thảm họa chiến tranh. Ðặc biệt
đến đời Ðƣờng đã xuất hiện những nhà thơ chuyên khai thác đề tài này: Sầm Tham, Vƣơng Xƣơng Linh.

2.Cảm hứng của tác giả và dịch giả.

-Tác giả và dịch giả Chinh phụ ngâm có phần đã tìm nguồn thi hứng từ những trang sách cổ. Nhƣng cái chính là
nguồn cảm hứng của cả hai đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống .

III.THỂ LOẠI, BÚT PHÁP, BỐ CỤC.

1.Thể loại:

Tìm hiểu đặc trƣng thể loại để xacï định phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm. Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ tình, tác
phẩm chỉ có một nhân vật -ngƣời chinh phụ- hình tƣợng cảm nghĩ. Toàn bộ khúc ngâm chỉ là sự diễn tả tâm trạng
của ngƣời chinh phụ. Do đó phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm là phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình.

2. Bút pháp

Tác phẩm đƣợc viết với bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ là chủ yếu. Khi phân tích phải đặc biệt chú ý đặc điểm này.

3.Bố cục:

Nguyên văn bằng chữ Hán gồm 477 câu. Bản dịch do nhà xuất bản Văn Hóa in có 408 câu. Bản in của nhà in
Tân Việt có 412 câu. Có thể chia tác phẩm làm ba phần nhƣ sau:

-Phần 1:Bốn câu đầu, phần này có giá trị nhƣ phần đặt vấn đề.

-Phần 2: Tiếp đến câu 369 (Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn) đây là phần chính của khúc ngâm miêu tả
tâm trạng của ngƣời chinh phụ với nhiều sắc thái khác nhau.

-Phần3: Phần kết thúc tác phẩm với ƣớc mơ sum họp trong cảnh thanh bình.

IV. NỘI DUNG

1.Diễn biến tâm trạng của ngƣời chinh phụ.

Cần chú ý theo dõi hai vấn đề:

-Những vấn đề chinh phụ suy nghĩ và đặt ra.

-Sợi dây lôgic dẫn dắt quá trình tâm lí của chinh phụ.

4.1.1.Mở đầu khúc ngâm, ngƣời chinh phụ nhớ lại cảnh chia tay.

-Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công

và niềm tây (niềm tƣ), mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này đang sống
trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trƣơng, vì ý thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang

http://diendankienthuc.net 48 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đình, ngƣời chinh phu đã "xếp bút
nghiên theo việc đao cung". Ngƣời chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lƣu luyến,
sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói:

"Phép công là trọng, niềm tây sá nào"

Nàng đã ca ngợi chí khí, hành động của chinh phu:

"Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung

Thành liền mong tiến bệ rồng

Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vị ào ào gió thu".

Nàng thấy hình ảnh của ngƣời chồng rực rỡ, uy nghi nhƣ một trang dũng tƣớng giữa đoàn quân:

"Aïo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in".

Ðó là về lí trí còn về mặt tình cảm thì:

"Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn

Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền".

"Bóng cờ, tiếng trống xa xa

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng"

4.1.2.Sau hồi tiễn biệt ngƣời chinh phụ trở về chốn phòng khuê.

-Bằng đôi cánh của trí tƣởng tƣợng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trƣờng để theo dõi cuộc sống, vận mệnh của
chinh phu nơi chiến địa.

+Cảnh chiến trƣờng hiện lên trƣớc mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo,
hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm.

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo

http://diendankienthuc.net 49 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

+Trong cảnh chiến trƣờng đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và vận mệnh của chinh
phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả:

Ôm yên gối trống đã chồn

Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh

Rồi hành quân di chuyển tƣởng nhƣ không bao giờ chấm dứt:

Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại

Mai Hồ vào, Thanh Hải dòm qua

+Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ đƣợc khí thế hào hùng của buổi đầu xuất
quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhƣợc trƣớc cuộc sống chiến tranh:

Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn

Dòng nước sâu ngựa nản chân bon

Não người áo giáp bấy lâu

Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây

+Nàng nhƣ đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi:

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?

hoặc Phận trai già ruổi chiến trường

Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về

+Những trang thơ này của tác phẩm đã đƣa đến cho ngƣời đọc một nhận thức: Chiến tranh phong kiến
không có chỗ nào dung hợp với con ngƣời, chiến tranh phong kiến là đối lập với cuộc sống con ngƣời. Trong quan
niệm của nhà thơ những con ngƣời tham gia vào cuộc chiến tranh là những con ngƣời đi vào cõi chết. Quan niệm
này thực chất là một cách phản đối chiến tranh.

-Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi chiến địa chinh phụ trở lại với
thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân
của sự xa cách:

Trong cửa này đã đành phận thiếp

Ngoài mây kia há kiếp chàng vay,

Những mong cá nước sum vầy.

Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời

Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,


http://diendankienthuc.net 50 Thandieu2 _ Sƣu tầm
Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Chàng há từng học lũ vương tôn

Cớ sao cách trở nước non

Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu

Khách phong lưu đương chừng niên thiếu

Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên

Nỡ nào đôi lứa thiếu niên

Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành

Ở đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai
ngƣời phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể chấp nhận đƣợc.

4.1.3.Tiếp theo, ngƣời chinh phụ sống trong hoàn cảnh vắng biệt tin chồng.

-Chinh phụ nhiều lần nhớ lại những lời hẹn của chồng nhƣng Ngƣời sao mƣời hẹn chín thường đơn sai, rồi tiếp
theo có lúc nàng được tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. Vì vậy nàng đã phải sống trong một tâm trạng chờ đợi, hi
vọng rồi thất vọng đến chua xót. Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng nhƣ khô héo thêm.
Chiến tranh đã laòm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng ngƣời vợ trẻ trông chồng.Sự đối lập giữa con ngƣời
và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ.

Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng

Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.

Nỗi sầu muộn nhƣ ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó nhƣ một sức mạnh vật chất đè nặng lên
cuộc sống của nàng:

Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối

Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm

Chinh phụ đã tìm mọi cách để giải sầu nhƣ xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp mạnh nhất là uống
rƣợu, nhƣng Sầu làm rƣợu nhạt, muộn làm hoa ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả, nỗi sầu muộn đã làm cho nàng
mất hết mọi cảm giác trƣớc cuộc sống.

-Mặt khác sự xa cách nhƣ một luồng gió mạnh thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh phụ. Vì thế nàng
đã nghĩ đến việc đƣợc gần chồng và cuối cùng nàng đã tìm đến giấc mộng, trong mộng nàng đã đƣợc gặp lại ngƣời
chồng thân yêu:

Duy còn hồn mộng được gần

Ðêm đêm thường đếïn Giang Tân tìm người

Tìm chàng thưở Dương đài lối cũ

Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

http://diendankienthuc.net 51 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

Nhƣng mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho nhau đƣợc. Trái lại
cái đẹp đẽ của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng thêm chua xót hơn mà thôi:

Sum vầy mấy lúc tình cờ

Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân

Giận thiếp thân lại không bằng mộng

Ðược gần chàng bến Lũng thành quan

Khi mơ những tiếc khi tàn

Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không

Ngƣời chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc trần tục.

-Rồi chinh phụ lại tìm cách lên cao để ngóng trông chồng, nhƣng lên cao nhìn khắp bốn bề Ðông, Tây, Nam, Bắc
phía nào nàng cũng bắt gặp những cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chƣa hết ngƣời chinh phụ lại ao ƣớc có đƣợc phép
tiên để đi gặp chồng nhƣng rồi nàng phải thú nhận với lòng mình là điều đó không bao giờ có đƣợc. Ngƣời chinh
phụ đã khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho mình bớt sầu, bớt khổ, mong đƣợc gặp lại chồng nhƣng đằng
nào cũng thấy dựng lên những bức tƣờng cao ngất. Bế tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đã phải thốt lên thật cay
đắng:

Lòng này hóa đá cũng nên

E không lệ ngọc mà lên trông lầu

Chinh phụ tƣởng chừng nhƣ không còn đủ sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng
tinh thần đã lên tới đỉnh điểm, con ngƣời thật trong chinh phụ đã bắt đầu cất tiếng nói, nàng hối hận vì giấc mộng
công hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở:

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,

Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phong

Trong con ngƣời chinh phụ giờ đây niềm tây đã chiến thắng phép công. Nàng đã dám phủ nhận lí tƣởng công
danh, nàng đã hiểu hạnh phúc lứa đôi có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu. Ðây cũng là một nét tâm lí phổ biến của
con ngƣời thời đại lúc bấy giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đã thú nhận:

Lòng ta không muốn mặc áo giáp

Bụng nàng há muốn giữ chinh y

-Ý nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tƣớc phong đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ý nghĩa lúc bấy giờ vì nó
coi trọng hạnh phúc, coi trọng sinh mệnh của con ngƣời. Nó có ý nghĩa phản chiến vì nó đối lập với âm mƣu của
giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công danh để thúc đẩy binh sĩ, tƣớng tá ra trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng,
làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhƣng do điểm xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân, cho nên phản ứng
của nàng chỉ có thể dừng lại ở mức độ đó.

4.1.4.Ngƣời chinh phụ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện.

http://diendankienthuc.net 52 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng mình trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến
thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đƣa lại cho những kẻ đã tận tâm phục vụ nó.

2.Giá trị phản chiến và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

4.2.1.Giá trị phản chiến.

-Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ ta thấy có quá trình vận động, phát triển tuy rất chậm chạp
khó thấy. Ðôi với cuộc chiến tranh mà chồng nàng tham gia, chinh phụ có một thái độ mâu thuẫn- vừa tán thành,
vừa oán trách. Nhƣng xét trong toàn bộ khúc ngâm, chúng ta thấy phần chủ yếu của tác phẩm không dành cho việc
miêu tả thái độ tán thành mà chủ yếu tập trung vào miêu tả thái độ chán ghét chiến tranh.

-Về chất lƣợng, phần tả cảnh tƣơi sáng của cuộc chiến không phải không thành công nhƣng phần có sức rung cảm
ngƣời đọc mạnh mẽ nhất vần là phần miêu tả nỗi sầu muộn của ngƣời chinh phụ. Phần tả cảnh chiến trƣờng đen
tối đã thật sự gây một ấn tƣợng bi thảm rất nặng nề trong lòng ngƣời đọc. Vì thế, mặc dù khúc ngâm kết thúc trong
cảnh tƣng bừng của chiến thắng thì âm hƣởng của toàn bộ khúc ngâm vẫn là âm hƣởng bi ai, sầu oán. Khuynh
hƣớng chính toát ra từ hình tƣợng của tác phẩm vẫn là khuynh hƣớng oán ghét chiến tranh phi nghĩa phong kiến.

-Tuy nhiên tiếng nói phản chiến ở đây sẽ có những hạn chế nhất định..

-Tuy tiếng nói phản chiến trong chinh phụ ngâm còn có những hạn chế, nhƣng tác phẩm đã thể hiện đƣợc tấm
lòng, tƣ tƣởng, tình cảm của nhân dân ta trong một thời đại. Vì vậy về cơ bản tác phẩm vẫn chứa đựng một giá trị
tiến bộ.

4.2.2.Giá trị nhân đạo.

Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ chúng ta thấy sự thắng thế của niềm tây đối với phép công
là tất yếu vì nó có quá trình chuẩn bị và những diễn biến phù hợp với tâm lí nhân vật. Vậy những nhân tố nào đã
thúc đẩy sự thắng thế đó?

-Trƣớc hết đó là lòng yêu thƣơng chồng của chinh phụ, một tình yêu chân thành, đằm thắm có tính chất vị
tha tuy có mang màu sắc quí tộc nhƣng nó cũng nằm trong truyền thống tốt đẹp yêu chồng, thƣơng con của ngƣời
phụ nữ Việt Nam. Ðây chính là cơ sở để nỗi lòng cuả nhân dân lao động đồng cảm với nỗi lòng của chinh phụ.
Trong tác phẩm ta thấy ngƣời chinh phụ muốn bù đắp cho những khổ sở của chồng nơi chiến trƣờng và có khi
nàng trách chồng bằng những lời đầy yêu thƣơng.

-Tình yêu của nàng có tính chất vị tha nhƣng không khắc kỷ, yêu thƣơng chồng tha thiết nhƣng đồng thời
nàng cũng có ý thức khá sâu sắc về quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc của mình. Ðây chính là nhân tố quan
trọng nhất thúc đẩy niềm tây chiến thắng phép công.

Nói tóm lại chinh phụ vì yêu thƣơng chồng mà oán ghét chiến tranh, thái độ oán ghét đó đƣợc tăng lên bởi lòng
khao khát hạnh phúc, bởi ý thức về quyền sống cá nhân. Ghi nhận đƣợc điều này là một đóng góp độc đáo của
Ðặng Trần Côn vào kho tàng văn học cổ Việt Nam trong quá khứ khi viết về đề tài chinh phu, chinh phụ. Ðây
cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

V.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT

1.Tập cổ và sáng tạo.

- Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Cả khúc ngâm này gần nhƣ một bài tập cổ.

http://diendankienthuc.net 53 Thandieu2 _ Sƣu tầm


Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam

-Tóm lại từ những tài liệu vay mƣợn, tác giả đã tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà
ông đã vay mƣợn.

2.Bút pháp tƣợng trƣng và khả năng phản ánh chân thực cuộc sống.

-Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ƣớc lệ đƣợc sử dụng một cách phổ biến. Ở đây tất cả các chi
tiết không nên hiểu theo ý nghĩa xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất ƣớc lệ, tƣợng trƣng.

- Sáng tác với bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ nhƣng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi
vì tác phẩm đã nói đƣợc vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con ngƣời thời đại.

3.Nghệ thuật biểu hiện tâm trạng.

-Tác giả đã xây dựng đƣợc một kết cấu chặt chẽ, miêu tả đƣợc sự diễn biến phong phú, tinh vi trong
tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo đảm sự thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn
cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một
quá trình suy ngẫm và thể hiện.

-Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn.

-Tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những
đợt sóng cảm xúc.

-Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí nhƣ liên tƣởng, hồi tƣởng, tƣởng tƣợng.

-Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu với những sắc thái
khác nhau.

*Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con ngƣời Việt
Nam- con ngƣời thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con ngƣời Việt Nam trong hiện
tại.

4.Thành công của bản dịch.

Bản dịch đƣợc coi nhƣ là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tƣơng đối với nguyên văn.

VI. KẾT LUẬN

-Tuy có những hạn chế nhất định, nhƣng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình
của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của
một ngƣời phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của chế độ cũ. Ðƣơng thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh
cho quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc của con ngƣời, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống trị.

-Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho
thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm đƣợc đƣa vào chƣơng trình của phổ thông trung học.

Chƣơng 13: HỒ XUÂN HƢƠNG

I. CON NGƢỜI VÀ THƠ


http://diendankienthuc.net 54 Thandieu2 _ Sƣu tầm

You might also like