Professional Documents
Culture Documents
1.1. Nhận diện văn chương yêu ngước do nhà cho chí sĩ sáng
tác
Có thể nhận diện bản chất những sáng tác thuộc bộ phận văn học
này thông qua biểu đồ như sau
Thời đại
Văn chương
Sự bế tắc của
những phương thức
ứng xử truyền thống
II. Những thăng trầm trong cuộc đời sáng tác của Phan Bội
Châu:
1. Từ thiếu thời đến năm 38 tuổi. Người hào kiệt tự nhiệm và
cái hùng tráng kịch liệt trong văn chương Phan Bội Châu.
- Giai đoạn đầu trong cuộc đời của Phan Bội Châu là quãng thời
gian ông vận động trong quỹ đạo của những kiểu nhân cách truyền thống.
Từ những sự kiện trong tiểu sử, có thể khẳng định PBC là sự kéo dài của
người anh hùng thời loạn, người hào kiệt tự nhiệm, một kiểu nhân cách đi
ra ngoài những chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, xuất hiện ở Việt Nam
trong giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến ( thế kỷ XVI –
XVII ).
- Trước năm 1905, thể văn chương thể hiện rõ nhất tài năng và cá
tính sáng tạo của Phan Bội Châu là phú. Phú là một thể văn có tính trung
gian giữa thơ và văn xuôi, nòng cốt của phú thường là một cuộc đối thoại,
qua đó, nhân vật mô tả, trình bày, ca ngợi một sự vật, một hiện tượng,
một thái độ sống ...Sắc thái chủ đạo của phú là mô tả và ca ngợi ( phú giả
phô dã ). Phóng đại là đặc trưng của phú. Phú là một trong những thể loại
đặc trưng của nền văn học ký ngụ.
Trước năm 1905, phú Phan Bội Châu có hai chủ đề chính : viết về
những nhân vật lịch sử phi thường ( Phạm Lãi, Trương Lương, Tư Mã
Quang,... với những bài xuất sắc nhất của nghệ thuật phú như Nang trung
truỳ, Hồ thượng khoá lư, Cộng biển chu du ngũ hồ...) và ca tụng đạo đức
Nho giáo. Những nhân vật này sẽ là sự báo trước của kiểu nhân vật anh
hùng cứu quốc trong những giai đoạn tiếp theo.
- Sắc thái thẩm mỹ nổi bật trong sáng tác của Phan Bội Châu trước
năm 1905 là mầu sắc anh hùng ca, cái quyết liệt thậm chí đến mức bạo
liệt, cái kỳ vĩ của những hình tượng nghệ thuật.
2. Văn thơ Phan Bội Châu trong giai đoạn hoạt động cách
mạng ở nước ngoài :
2.1. Nội dung chính của thơ văn Phan Bội Châu trong giai đoạn
này là tinh thần đoàn kết, là tiếng nói hiệu triệu toàn dân tộc chống Pháp.
- Mang một trong những dấu hiệu đặc trưng của phong cách nghệ
thuật là hướng đến cái kịch liệt, cái tận độ của cảm xúc. PBC đã ứng dụng
điều này để miêu tả những khổ nhục của người dân mất nước dưới chế độ
thực dân
- Song song với sự tố cáo đầy đau đớn là lời kêu gọi đầy thống
thiết hướng đến quốc dân đồng bào nhằm khơi dậy, thức tỉnh trách
nghiệm đối với dân tộc của tất cả mọi hạng người trong xã hội.
- Điều đáng lưu ý là Phan Bội Châu dành một vị trí đặc biệt quan
trọng cho người trí thức – nhà Nho.
2.2. Những cách tân nghệ thuật của Phan Bội Châu – người viết tự
sự nghệ thuật.
Trong giai đoạn này Phan Bội Châu đã thử sức qua một loạt các thể
loại : thơ ca, văn chính luận, sân khấu, các thể tự sự nghệ thuật. Mỗi thể
loại ông đều có những cách tân riêng, tuy nhiên, bài giảng chú ý tập trung
vào những cách tân trong tự sự nghệ thuật của Phan Bội Châu với hai bộ
phận chính là các liệt truyện và tiểu thuyết Trùng quang tâm sử.
- Liệt truyện là một thể loại được sử dụng trong văn chép sử dùng
để ghi chép tiểu sử những nhân vật lịch sử. ở thể loại này, thông thường
người ta nói những nét chính trong cuộc đời nhân vật, loại bỏ những chi
tiết và mọi sự miêu tả. ở đó, tác giả tuyệt đối giữ một thái độ khách quan,
chỉ đan xen trong cấu trúc những nhận xét có tính công thức.
- PBC đã gia công liệt truyện bằng cách : 1. Gia tăng những trữ
tình ngoại đề, những xúc cảm cá nhân, những đoạn luận thuyết. 2. Gia
công những kỹ thuật trần thuật đặc thù của tự sự nghệ thuật để tăng tính
gợi cảm. Sự xuất hiện những yếu tố nghệ thuật nói trên chứng tỏ đối với
Phan Bội Châu, liệt truyện đã vận động từ một thể văn thuần túy mang
tính khảo cứu, học thuật (với yêu cầu về tính khách quan của người viết)
thành một thể loại có tính nghệ thuật in dấu ấn cái chủ quan của người
nghệ sĩ (tất nhiên, với Phan Bội Châu, ngay trong những liệt truyện chuẩn
mực nhất, yếu tỗ chủ quan vẫn được biểu hiện khá rõ nét).
- Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu lại đánh dấu
một con đường sáng tạo khác : ông mượn chuyện lịch sử để chuyển tải
những tư tưởng về cách mạng, về kháng chiến giải phóng dân tộc, về
những hình mẫu lý tưởng trong sự nghiệp cứu nước. Có thể coi đây là
một thái độ phi truyền thống đối với lịch sử.
- Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm đó là những người anh
hùng cứu quốc – một sự tiếp nối của cái hùng tráng kịch liệt trước cách
mạng. Yếu tố đáng lưu ý trong hình tượng người anh hùng của PBC là
yếu tố người anh hùng nhân dân, những người anh hùng bình dị bắt đầu
xuất hiện. Đó là yếu tố báo hiệu văn chương yêu nước hiện đại.
3. Văn thơ Phan Bội Châu trong thời gian bị giam lỏng ở Huế.
Trong giai đoạn ở Huế, một mặt Phan Bội Châu tiếp tục (đương
nhiên) dưới một hình thức khéo léo (vịnh cảnh, vịnh vật, ký ngụ, phúng
dụ) những chủ đề đã trở thành truyền thống trong văn thơ và cuộc đời
hoạt động cách mạng của ông (nỗi khổ nhục của người dân mất nước, kêu
gọi đoàn kết, có trách nghiệm với đất nước...). Tuy nhiên, mặt khác, trong
ông, xuất hiện một cảm giác chưa từng có trước đây, cảm giác cô độc,
thất bại của người hào kiệt tự nhiệm.
- Cảm giác cô độc thất bại được biểu hiện dưới mấy phương diện :
+ Cảm giác cô độc trước sự hờ hững của quốc dân.
+ Nỗi buồn chứng kiến bạn bè lần lượt qua đời. Trong thơ văn liên
quan đề tài này, ngoài những lời ngợi ca những người đồng chí anh hùng,
còn tràn ngập một cảm giác chua xót, chua xót vì bất lực, vì nhìn thấy
tiền đồ dân tộc đen tối, có cả một cuộc tự vấn về ý nghĩa cuối cùng của
cuộc đời mình
+ Trốn tránh cuộc đời trong thú thơ rượu, điều chưa từng có trong
văn thơ Phan Bội Châu trước đây
- Những xúc cảm trên chính là sự báo hiệu sự “lại giống” của
người hào kiệt tự nhiệm một thời, sự lại giống biểu thị rõ nét trong câu
đối tuyệt mệnh của ông.
“Trời sao vậy? Chúa sao vậy? Chết âu cũng là không, chạnh tiếc
trong lòng vùi Khổng Mạnh
Nước như thế ! Dân như thế! Đời còn gì đáng tiếc ? Thôi ra ngoài
cuộc học Hy Hoàng”
Trước khi mất, Phan Bội Châu để lại thư tuyệt mệnh : “Bội Châu
từ xưa đến nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác
quá nặng. Bây giờ tôi chết, thiệt là một tên dân trốn nợ và vỗ nợ, đồng
bào có thứ lwongj cho tôi thì xác tôi tuy chết mà tinh thần tôi vẫn cảm ơn
đồng bào luôn luôn. “Người khi đến gần chết, lời nói hẳn lành”. Nay tôi
đã đến lúc “gần chết” đó, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời hy vọng cuối
cùng với đồng bào : Đồng bào Việt Nam ta có trên hai mươi triệu, bấy
nhiêu đầu óc, bấy nhiêu tai mắt, bấy nhiêu chân tay, nếu không biết thân
yêu nhau, đồng lòng hợp sức làm cái bổn phận quốc dân đối với tổ quốc...
Không thế, trên mặt địa cầu sau nầy sẽ không có hình bóng dân tộc Việt
Nam nữa, thì Bội Châu này dầu có trốn nợ, vỗ nợ cũng may mà được chết
trước anh em, tôi lấy làm một điều hạnh phúc”
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
( 1887 – 1939 )