You are on page 1of 83

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VN 1930 - 1945

1.1. Hiện đại hóa một các sâu sắc và toàn diện:

a, Khái niệm hiện đại hóa:


Hiểu theo nghĩa đối lập với tinh chất và hình thai của văn học trung đại. Hiện đại hóa văn học là
thoát ly khỏi đặc trưng của thi pháp trung đại.
Thi pháp trung đại Hiện đại hóa
Uyên bác : văn – sử - triết bất phân, dùng tri Khu biệt văn chương với các loại hình thái ý thức
thức uyên bác để viết văn, viết văn vì mục đích xã hội khác è Sáng tạo văn học trên quy luật của
lịch sử, mục đích triết học, mục đích chính cái đẹp, đề cao dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ.
trị…
Cách điệu hóa cao độ: Thoát khỏi ước lệ tượng trưng:
+Hệ thống ước lệ, tượng trưng + tả chân cuộc sống như nó vốn có.
+Thiên nhiên là thước đo con người +Con người là thước đo thiên nhiên
Sùng cổ: Đoạn tuyệt khỏi thói “tầm chương trích
Lấy Nghiêu-Thuấn là chuẩn mực, những gì cú” è Sử dụng ngôn ngữ của thời đại mình, sáng
càng gần với Nghiêu Thuấn càng tốt đẹp è Mắt tác bằng chất liệu của thời đại mới.
ngước về thời nghiêu Thuấn đi lùi đến tương
lai.
Phi ngã: Đề cao cái tôi:
Cái tôi cá nhân bị quên đi, con người xã hội Cái tôi cá nhân được đẩy lên cao độ: nhận thức về
được đề cao. tài năng bản thân, khát vọng bản thân; đề cao khát
ð Nội dung chủ yếu: Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí vọng tình yêu và hạnh phúc cá nhân
b. Bối cảnh hiện đại hóa: Đầu thế kỉ XX, những cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm
xã hội Việ Nam thay đổi nhanh chóng è Xuất hiện thị thành è Tầng lớp thị dân và tầng lớp trí thức
Tây học xuất hiện è Xuất hiện đối tượng sáng tác chủ yếu và đối tượng công chúng mới è Văn
chương trở thành một thứ nghề.
c. Quá trình hiện đại hóa
Giai Lực lượng sáng tác chính Thành tựu/hạn chế Tác giả/tác phẩm tiêu
đoạn biểu
Đầu TK Tầng lớp trí thức nho sĩ Ở đô thị Nam Kì xuât hiện các -Thầy Lazarô Phiền
XX – cấp tiến: đổi mới tư tưởng tác phẩm văn xuôi có tính chất (Nguyễn Trọng Quản)
1920 ctrị, xã hội tư tưởng nhưng hiện đại, tầm ảnh hưởng hchế
chưa đổi mới qđiểm thẩm
mỹ
1920 - -Nhà Nho cuối cùng: Tản -Có nhiều thành tựu quan -Tố tâm (Hoàng Ngọc
1930 Đà, Nguyễn bá Học… trọng. Phách)
-Tầng lớp trí thức tây học -Dấu vết cũ còn lưu lại đậm -Tiểu thuyết Hồ Biểu
đtiên: Phạm Quỳnh, Phạm nét trên mọi khía cạnh từ nội Chánh
Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, dung đến hình thức -Sống chết mặc bay
Hoàng Ngọc Phách… (Phạm Duy Tốn)
1930 - Lớp nhà văn Tây học Trẻ -Cách tân sâu sắc. -Lãng mạn: Tự lực văn
1945 đông đảo đảm nhiệm -Hđại hóa mọi thể loại: thi đoàn, các nhà thơ ptrào
ca, vxuôi, kịch nói, kí… thơ Mới
-Đi tiên phong là các nhà văn -Hiện thực: NCHoan,
lãng mạn. NCao, VT Phụng,
-Các nvăn hiện thực đẩy quá Nguyên Hồng…
trình hđại hóa lên đỉnh cao.

2. Nhịp độ phát triển mau lẹ


“Ở nước ta, 1 năm đã có thể kể như 30 năm của người” (Vũ Ngọc Phan – Nhà văn VN).
Phát triển về -Tiểu thuyết phải tính hàng nghìn, thơ ca phải tính hàng vạn; thể loại mới như
lượng kịch, kí, phóng sự phải tính hàng chục.
Phát triển về -Tốc độ kết tinh văn học cao tạo nên nhiều kiệt tác trong thời gian ngắn.
chất +So sánh câu văn xuôi của giai đoạn đầu èlãng mạn èhiện thực.
Nguyên nhân:
-Tiềm lực văn hóa của dân tộc đến giai đoạn này được giải phóng.
-Phong trào giải phóng dân tộc phát triển thúc đẩy sự phát triển của văn học.
-Thức tỉnh ý thức cá nhân è Đi vào văn chương với khát vọng khẳng sự tồn tại và ý nghĩa cá nhân
với dân tộc, với đất nước.
Hệ quả của sự phát triển: Yêu cầu các cây bút thay đổi ca kíp liên tục.
Tố Tâm => Tiểu thuyết tự lực văn đoàn => Nam Cao, Vũ Trọng Phụng.
Thế Lữ => Xuân Diệu => Hàn Mặc Tử

THÀNH TỰU CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 - 1945

1. Kế thừa và phát huy trên tinh thần dân chủ sâu sắc những truyền thống tư tưởng lớn của dân tộc.
Lòng yêu nước, tinh
Chủ nghĩa nhân đạo Chủ nghĩa anh hùng
thần dân tộc
-Vẻ đẹp thiên nhiên đất -Đề cao hạnh phúc cá -không thể hiện
nước. nhân: đấu tranh cho tự do
-Truyền thống văn luyến ái, chống lại lễ giáo
Văn
hóa của con người VN. phong kiến.
học
-Nỗi “tủi hờn sông núi” -Thương xót những kiếp
lãng
vì cảm thấy “thiếu quê sống nhạt nhẽo, mòn
mạn
hương” ngay trên đất mỏi, vô danh, vô nghĩa,
nước mình. (Nguyễn “mờ mờ nhân ảnh”. (Nội
Tuân). dung mới)
Văn -Tình yêu tiếng Việt. -Đồng cảm sâu sắc -không thể hiện
học -Pphán những thói hư tật với người lao động dẫu
hiện xấu trg xã hội,vachtrần bộ dưới vẻ lam lũ, thô kệch,
thực mặt g/ấp thống trị =>yêu xấu xí è Ngòi bút xót xa,
phê nc yêu thương, trân trọng.
phán
-Hành động cứu nước: -Nhìn nhận nhân dân lao -Thấm nhuần tinh thần thép –
những chiến sĩ đấu tranh động không chỉ là nạn văn chương là vũ khí chiến đấu.
gphóng dân tộc, sẵn sàng nhân bất lực mà còn là -Nhân dân quần chúng có thể trở
Văn xả thân vì độc lập, tự do. những người có khả năng thành anh hùng.
học -Yêu cầu giải phóng dân cải tạo thế giới è người -Nhân vật chính là người chiến
cách tộc không tách rời yêu dân có thể trở thành sĩ xuất thân từ giai cấp cần lao
mạng cầu giải phóng giai cấp những anh hùng. đứng lên đấu tranh lật đổ chế
vô sản cần lao è Lòng yêu nước độ thực dân phong kiến, giải
gắn liền với lí tưởng xã phóng dân tộc và nhân loại.
hội chủ nghĩa. (Nội dung -Thấm nhuần tinh thần lạc
mới mẻ) quan chiến thắng.
-Quan niệm “nước là của -Tình thương của kẻ bề -Anh hùng là một nhân vật cụ
vua” è yêu nước là trung trên è những vị quan, thể, thường là vua, quan hay
Văn
với vua. những ông vua “phụ mẫu một nhân vật xuất
học
chi dân” thương xót cho chúng è những “đấng”, “bậc”
thời kì
dân chúng, những kẻ ở trong XH è là một cá thể có tên
trước
bên dưới. tuổi, xuất thân rõ ràng, có khi
chất hơn người.
2. Cách tân thể loại
stt Thể loại Trước 1930 – 1945 1930 - 1945
1 Tiểu Không được coi trọng Phát triển mạnh mẽ: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng),
thuyết, tr Gió đầu mùa (Thạch Lam), “Vang bóng một
ngắn thời” (Nguyễn Tuân), Chí Phèo (Nam Cao)…
2 Thơ Có một trthống thơ ca lâu đời, -Từ Tản Đà è Thơ Mới: 15 năm đã tạo ra hàng
nhiều tphẩm bất hủ. Làm cho loạt tài năng lớn với nhiều phong cách độc đáo:
qtrình HĐH thơ diễn ra chậm Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính.
chạp hơn vxuôi.
3 Kịch chịu nhiều ảnh hưởng của -Thực sự được hiện đại hóa: Nguyễn Huy Tưởng
chèo, tuồng, cải lương. (Vũ Như Tôi,…)
4 Phóng sự Không có Là thể văn gắn với hoạt động báo chí, thường
thực hiện những cuộc điều tra về tệ nạn xhội.
Các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng.
5 Phê bình Không có Những ngòi bút thật sự chuyên tâm xuất hiện.
Các tgiả tbiểu: Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan…
6 Tùy bút, Đã có (Vũ trung tùy bút – Hiện đại hóa và phát triển mạnh.
bút kí Phạm Đình Hổ, Thượng Kinh Tiêu biểu nhất: Nguyễn Tuân.
Kí Sự - Lê Hữu Trác).
ð Ngôn ngữ phát triển mạnh mẽ, có khả năng diễn tả gần như mọi khía cạnh của đời sống, thiên nhiên,
nội tâm con người. Có thể kể đến nhiều bậc thầy ngôn ngữ như: Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân

TẢN ĐÀ
1. HẦU TRỜI
Đêm qua chẳng biết có hay ko, - “Dạ, bẩm lạy Trời con xin Trời rằng: “Không phải là Trời
Chẳng phải hoảg hốt, k mơ thưa đày.
mòng. Con tên Khắc Hiếu họ là Trời định sai con một việc này
Thật hồn! Thật phách! Thật thân Nguyễn Là việc “thiên lương” của nhân
thể! Quê ở Á châu về Địa cầu loại,
Thật được lên tiên – sướng lạ SôgĐà núiTản nc NamViệt.” Cho con xuông thuật cùng đời
lùng. hay.”
Nghe xog Trời ngợ một lúc lâu
Nguyên lúc canh 3 nằm một Sai bảo thiên tào lấy sổ xét. - “Bẩm trời, cảh con thực nghèo
mình, Thiêntào tra sổ xét vừa xong khó
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn Đệ sổ lên trìh Thượgđế trôg Trần gian thước đất cũng không
xanh. - “Bẩm quả có lên Nguyễn có
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước Khắc Hiếu Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
uống, Đày xuốg hạgiới vìtội ngôg” Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Uống xong ấm nước, nằm ngâm Giấy ng mực người thuê người in
văn. Văn dài hơi tốt ran cug mây! Mướn cửa hàg ng bán phường
Trờinghe,Trờicũg lấylm hay. phố.
Chơi văn ngâm chán lại chơi Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi Văn chương hạ giới rẻ như bèo
trăng Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Ra sân cùng bóng đi tung tăng mày Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống Song Thành, Tiểu Ngọc lắng Làm mãi quanh năm chẳng đủ
Miệng cười mủm mỉm cùng nói tai đứng tiêu.
rằng: Đọc xog mỗi bài cùg vỗ tay.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
- “Trời nghe hạ giới ai ngâm - “Bẩm con không dám man Học ngày một kém tuổi càng cao
nga, cửa Trời Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Những áng văn con in cả rồi Một cây che chống bốn năm
Hà! Haiquyển Khối tìh văn thuyết chiều.
Làm Trời mất ngủ, Trời đương lí Trời lại sai con làm việc nặng
mắng Hai Khối tìh con là văn chơi quá
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.” Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu Biết làm có được mà dám theo.”
thuyết
Ước mãi bây giờ mới gặp tiên! Đài gươg,Lên 6 văn vị đời Rằng: “Con không nói Trời đã
Người tiên nghe tiếng lại như Quyển Đàn bà Tàu lối văn biết
quen! dịch Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Văn chương nào có hay cho lắm Đến quyển Lên8 naylà mười Thôi con cứ về mà làm ăn
Trời đã sai gọi thời phải lên. NhờTrời văn con còn bán đc Lòng thong chớ ngại chi sương
Chửa biết con in ra mấy mươi? tuyết!”
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay. Văn đã giàu thay, lại lắm lối Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ Trời nghe Trời cũng bật buồn Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn
Thiên môn đế khuyết như là cười! Xe trời đã chực ngoài thiên môn
đây! Chưtiên aoước trah nhau dặn Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt
-“Anh gáh lên đây bán chợ
Vào trôg thấy Trời, sụp xuốg lạy Trời!” Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy. Trời lại phê cho: “Văn thật Trg xuốg trần gian xa dặm khơi
Ghế bàh như tuyết vân như mây tuyệt! Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy. Văn trần đc thế chắc có ít! Theo đường không khí về trần ai.
Nhời văn chuốt đẹp như sao
Chư tiên ngôi quanh đã tĩnh túc băng! Đêm khuya khí thanh sao thưa
Trời sai pha nước để nhấp Khi văn hùng mạnh như mây vắng
giọng. chuyển! Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Truyền cho “văn sĩ đọc văn Êmnhưgióthoảg,tihnhưsươg! Non Đoài đã tới quê trần giới
nghe!” Đầm như mưa sa, lạnh như Trông lên chư tiên không còn ai.
- “Dạ bẩm lạy Trời con xin tuyết!
đọc.” Chẳng hay văn sĩ tên họ gì? Tiếng gà xao xác, tiếng người
Người ở phương nào, ta chưa dậy
Đọc hết văn vần sang văn xuôi biết.” Giữa sân còn đứng riêng ngậm
Hết văn thuyết lí lại văn chơi ngùi.
Đương cơn đắc ý đọc đã thích Một năm ba trăm sáu mươi đêm,
Chè trời nhấp giọng càng tốt Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!
hơi.

a. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời


- Trong tập “Còn chơi (1921). Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét
trong vchương thời đại. Xhội thực dân nửa pkiến tù hãm, u uất, đầy rẫy nhữg cảh ngag trái, xót
đau...
b. Bố cục − Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua lạ lùng”
− Phần 2: “chủ tiên ... chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
– Phần 3: “Trời lại phê cho... sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.
c. Nội dung: Bài thơ bộc lộ cái tôi cá nhân ngông cuồng, phóng túng và y thức cao về tài năng, giá
trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Giới thiệu câu chuyện
– Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua”: Gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng.
– Câu chuyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
– Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, k mơ màng”
Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân. + Điệp từ “thật”: Bộc lộ cảm
xúc bàng hoàng. + Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
+ Câu khẳng định
- Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả
muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực.
Cách vào vđề gây được mối nghi vấn kích thích trí tò mò ở người đọc, tạo sức hấp dẫn cho câu
chuyện.
=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạn, bay bổng pha lẫn nét “ngông” trg thơ thi
nhân. Vs cách vào chuyện độc đáo có duyên đã lm cho câu chuyện mà tgiả sắp kể trở nên hấp dẫn
lôi cuốn.
2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
* Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
– Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi / Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
- Rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc nên đọc rất hay: “văn dài hơi tốt ran cung mây”.
– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
“Hai quyển khối tìh văn lý thuyết / 2 khối tìh còn là văn chơi / Thần tiên, giấc mộng văn tiểu
thuyết...”
– Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo,
dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài
năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
* Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả
- Thái độ của trời: tán dương, khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn
chuốt như sao băng...
– Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng...Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi...
– Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp từ ngngữ thơ đến chí khí, tâm hồn của thi sĩ.
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
3. Thi nhân trò chuyện với trời
* Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình
- Thi nhân kể họ tên, quê quán: “ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn / Quê ở Á châu về địa cầu / Sôg
Đà núi Tản nước Việt Nam”
– Trong vchương việc t/hiện họ tên trg tphẩm chíh là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của
mình.
– Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ
rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thỏa nguyện
nỗi lòng.
“Bẩm trời hoàn cảnh con thực nghèo khó” / “Trần gian thước đất cũng không có”
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo” / “Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ
cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính
cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác. => Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn
thơ này.
* Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
- Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
+ Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát ly cuộc sống.
+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trnhiệm đối với đời để đem lại csống ấm no hạnh phúc hơn. +Đó
cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
– Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà c/hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng
khít.
* Cá tính và tâm hồn thi sĩ
– Một con ng có cái tính rất ngông: hạ giới khih rẻ tài năng TĐà lên tận trời cao để thể hiện.
– Một con người ý về cá nhân rất cao, dám tự mình khen mình. Đây không phải là sự tự kiêu mà là
cá nhân tự ý thức được tài năng thực sự của mình.
– Giọng kể hào hứng, phấn chấn, tự hào.
III. Tổng kết : 1. Giá trị nội dung: – Bthơ t/hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và
cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời cuộc. – Có thể thấy nthơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để kđịnh
mình.
2. Giá trị nghệ thuật
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.
– Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.
– Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do...
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
- Nằm trong quyển Khối tình con I xuất bản 1917. Thể thất ngôn bát cú đường luật.
a. Hai câu đề: “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi / Trần thế em nay chán nửa rồi”
• Câu cảm thán kết hợp lời thơ giản dị.
• Tâm trạng: buồn chán, thất vọng. Vì cảnh nước nhà nô lệ, bản thân cô đơn, thất vọng bế tắc. Đó
là nỗi buồn tồn vong của đất nước, nỗi đau của nhân tình, nỗi cô đơn bế tắc của một kiếp người.
b. Hai câu thực “Cung quế đã ai ngồi đó chửa / Cành đa xin chị nhắc lên chơi”
• Ước muốn được lên cung trăng, được làm “thằng cuội”, thực chất là muốn được thoát li khỏi
thực tại tầm thường, buồn chán.
• Đó là ước muốn rất lãng mạn nhưng cũng rất “ngông”.
c. Hai câu luận: “Có bầu có bạn can chi tủi / Cùng gió cùng mây thế mới vui”
• Tự nhận mình là chi ân, chi kỉ, xem chị Hằng là 1 ng bạn tâm tình để giãi bày mọi nỗi niềm sâu
kín
• Lên cung trăng được sánh vai cùng chị Hằng, được vui cùng mây, gió, quên hết cô đơn, sầu tủi.
• Khát vọng được sống vui tươi, tự do.
d. Hai câu kết: “Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám / Tựa nhau trông xuống thế gian cười”
• Hình ảnh thuần tưởng tượng, vừa thể hiện sự thoả mãn ước nguyện, cười nhạo cõi đời xấu xa vừa
thể hiện sự buồn bã, chua sót.
• Đây là cảnh thật tình tứ, lãng mạn. Thể hiện một hồn thơ vừa sầu, vừa mộng. Đó chính là đỉnh
cao của hồn thơ ngông và lãng mạn của Tản Đà
=> Tổng kết
- Nội dung: Bộc lộ tâm sự của tác giả:
o Buồn chán thực tại
o Khát vọng được sống tự do theo nhu cầu cá nhân của chính mình
- Nghệ thuật: Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, giàu tính khẩu ngữ. Bút pháp lãng mạn.
*Cái ngôn trong bài thơ: Cái "ngông" của Tản Đà có những đặc thù do sự quy định của thời đại.
Trong bài Muốn làm thằng Cuội, cái ngông của Tản đà có những biểu hiện nổi bật:
• Buồn chán, nỗi sầu của một tâm hồn lãng mạn, cô đơn bế tắc và bất hòa sâu sắc với xã hôi.
• Khao khát rất khác người, rất ngông.
• Muốn thoát li bằng mộng tưởng hướng tới cuộc sống tốt đẹp, tự do.
• Lời đề nghị dịu dàng, duyên dáng và hóm hỉnh.
• Khát vọng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng, thể hiện cuộc sống hạnh phúc vui vầy. Khung
cảnh hạnh phúc, sung sướng, đầy ắp niềm vui. Họ như hình ảnh đôi tình nhân tựa vào nhau nhìn
xuống trần gian phía dưới. Nụ cười kiêu ngạo, khinh bạc cuộc đời và cõi nhân gian bé nhỏ.
• Nụ cười hạnh phúc vì thoát khỏi khổ đau, sống cuộc đời không nỗi buồn và có tự do.
• Nhà thơ đã sống thoải mái hơn bởi thời đại đang chuyển động đang khẳng định tự do cá nhân một
cách mạnh mẽ.

TỐNG BIỆT
Đọc thơ Tản Đà người đọc luôn cảm thấy thú vị pha chút hài hước, ông làm thơ như lời nói rất tự
nhiên nhưng ẩn sâu trong mỗi câu chữ lại thật cay đắng, xót xa. Dường như không thể khóc trước
cuộc đời thì ông đành phải cười vậy. Vì vậy giọng thơ Tản Đà luôn có gì đó đầy phóng khoáng,
ngang tàng nó thật khác với các nhà thơ thuộc lớp thơ cũ. Chính vì vậy mà trong “Thi nhân Việt
Nam”, Hoài Thanh đã trịnh trọng đặt Tản Đà là người khai bút cho hội Tao Đàn thơ Mới “Tiên sinh
đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái
giả dối, cái khô khan của khuôn sáo. Đôi bài thơ của Tiên sinh ra đời từ hơn hai mươi năm trước đã
có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tâm
kỳ đương sắp sửa”. Vâng! Có lẽ bài thơ “Tống biệt” của ông là một trong những bài thơ tiêu biểu cho
hồn thơ Tản Đà. “Tống biệt” được trích trong vở chèo Thiên Thai do ông sáng tác năm 1922. Nội
dung vở diễn tích hai chàng thư sinh là Lưu Thần và Nguyễn Triệu đời Hán, nhân tết Đoan Ngọ vào
núi Thiên Thai hái thuốc bị lạc lối về. Hai chàng gặp được tiên nữ rồi kết làm vợ chồng. Sống hạnh
phúc được nửa năm thì cả hai càng nhớ quê muốn về thăm.
Các tiên nữ cho biết đây là cõi tiên đã về trần thì không thể trở lại, song vẫn không giữ được hai
chàng. Lưu, Nguyễn về làng thấy quang cảnh khác xưa thì ra họ đã xa nhà đến bảy đời. Buồn bã, hai
chàng trở lại Thiên Thai thì đường xưa đã khép, k còn thấy các tiên nữ đâu nữa… Kể từ đấy, họ cũg
đi đâu biệt tích.
Có thể nói đây là một bài thơ tuyệt bích. “Tống biệt” là vĩnh biệt (từ đây xa cách mãi) cho nên
bài thơ có nhịp chân bước quyến luyến mà chậm rãi dường như ung dung mà dằn xé. Văn khí câu thơ
thay đổi luôn câu ngắn thì như nấc như nghẹn, câu dài thì như tiếng than não ruột trong sự chia ly
giữa cảnh trời đất mênh mông.
Có người nói “Tống biệt” là nỗi đau chia ly của cặp tình nhân nhưng đọc bài thơ tôi lại cảm nhận
rằng nỗi buồn đau đớn nhất trong đang đè nặng trong lòng hai nàng tiên nữ. Nói như vậy không có
nghĩa là hai chàng Lưu, Nguyễn không buồn, không lưu luyến, bên cạnh nỗi buồn đó hai chàng còn
mang một tâm trạng khác đó là cái háo hức, rộn ràng của người sắp được trở về cố hương có lẽ điều
đó sẽ chen lấn sẽ vượt lên nỗi buồn của sự chia ly. Như vậy trong lòng người đi giữa nỗi buồn đã có
niềm an ủi của một chân trời mới bù đắp phần nào. Còn người ở lại thì sao? Hai nàng hiểu rõ rằng đã
đi là không có ngày quay trở lại, vì vậy một nỗi buồn, sự trống vắng, nhớ nhung, sự mất mát không
gì thay thế nổi:
“Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai / Suối tiễn, oanh đưa, luống ngậm ngùi”
Hai câu đầu mở ra cảnh chia ly, cảnh thần tiên đấy nhưng lại bao phủ tâm trạng buồn bã, ngậm
ngùi. Đào là loài cây ở trên tiên giới tượng trưng cho sự trường sinh. Thế mà hình ảnh lá đào rơi, rắc
khắp lối Thiên Thai đã nhuốm màu chia ly, sầu muộn. Nguyễn Du đã từng nói “người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ?”. “Suối tiễn”, “oanh đưa” hai hình ảnh được nhân cách hóa, vẽ ra trước mắt người
đọc cảnh hai chàng Lưu, Nguyễn quay lưng từ trên đỉnh Thiên Thai bước theo dòng suối xuống cõi
trần để hai tiên nữ bùi ngùi đứng trông theo. “Tiễn” và “đưa” đã cho người đọc hiểu rằng sẽ không
bao giờ gặp lại nhau nữa. Chữ “luống” thường được hiểu theo nghĩa là “khiến” (khiến cho), nhưng
cũng có nghĩa là uổng công, mất công, vô ích. Theo tôi hiểu theo nghĩa thử hai có lẽ sẽ hợp với toàn
bài hơn bởi hai chàng đi rồi còn mất công, vô ích ngậm ngùi làm gì điều đó càng thể hiện nỗi buồn
đang đè nặng trong lòng hai tiên nữ. Nàng nói thế như thể động viên, an ủi chính mình, như tâm
trạng người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” theo bản dịch của Đoàn Thị Điểm rõ ràng ta thấy nỗi
buồn của người ở lại nó chất chứa nhường nào, nàng ngậm ngùi tự hỏi: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu
hơn ai” (Thiếp ý quân tâm thùy đoạn tràng – Đặng Trần Côn).
Một điều nữa theo ta thấy được cái tài diễn tả nỗi buồn của Tản Đà nằm ở nhịp điệu của câu thơ.
Câu thứ nhất với nhịp 3/1/3, chữ “rắc” được nhấn mạnh xuống như nỗi buồn đang trĩu nặng trong
lòng hai tiên nữ. Câu thứ 2 với nhịp 2/2/3 nỗi buồn như dàn trải, mênh mang khắp cảnh vật. Ẩn trong
nhịp điệu chậm buồn ấy vừa là sự níu kéo vừa là nỗi nhớ nhung của người ở lại dành cho người ra
đi.
“Nửa năm tiên cảnh / Một bước trần ai”
Hai câu thơ ngắn với chữ dùng đối xứng rất hay vẽ ra lằn ranh giới giữa hai cõi Tiên và Thực.
Cái một bước chân thôi hai chàng sẽ xa rời mãi mãi để bước xuống cõi trần, dù biết rằng cõi trần là
bể khổ. Nửa năm trên tiên cảnh không thể níu kéo được bước chân về cõi trần của hai chàng. Dường
như với hai nàng nửa năm ấy nó thật ngắn ngủi làm sao, câu thơ diễn tả nỗi bàng hoàng của người
thấy được cuộc vui qua mau như giấc mộng. Hai câu thơ bốn chữ được ngắt nhịp 2/2 như lời kể thủ
thỉ như tiếng nấc, tiếng nghẹn ngào khẽ thổn thức.
“Ước cũ, duyên thừa có thế thôi”
Câu thơ như một tiếng thở dài, dấu phẩy được sử dụng thật tinh vi nó như bẻ câu thơ, như sự
giận dỗi rất người của hai tiên nữ. Những hẹn ước đã trở thành xưa cũ, người đi đâu còn nhớ, tiên
cũng tin vào những lời hẹn ước “lời nói gió bay” ấy sao ? Chữ “duyên thừa” thật ngậm ngùi, gặp
nhau đây là duyên nhưng chữ “thừa” nghe sao bi ai, tội nghiệp. Tiếng thơ như trách móc, thở than
nhưng đành cam chịu.
“Đá mòn, rêu nhạt / Nước chảy, huê trôi”
Chỉ qua bốn chữ được phân làm hai câu tác giả đã lôi kéo thời gian không biết là bao nhiêu năm
tháng vội lướt qua đỉnh Thiên Thai. Thời gian có sức tàn phá thật khốc liệt. Nó làm cho đá phải mòn,
rêu phủ kín huống chi lời hẹn ước của con người như gió thoảng qua. Dòng thời gian trôi đi không
níu giữ được cái đẹp bất tử. “Huê” chứ không phải là “hoa” bởi từ “huê” với âm “uê” nghe sao thê
lương, ảo não như ngân nga xoáy vào lòng người. Dấu phẩy ở giữa câu thơ như muốn bẻ câu thơ làm
đôi nhấn mạnh hơn sự chia ly mãi mãi. “Cái hạc bay lên vút tận trời / Trời đất từ nay xa cách
mãi”
“Cái hạc” sao đơn phương, lẻ bóng, “cái hạc” là hình ảnh của tiên nga, của sự vĩnh cửu, người
tình đã bỏ về với trần ai, để tiên nga vút bay hòa với sự vĩnh cửu, nhưng là sự vĩnh cửu của sự cô
đơn, câu thơ đầy sự ngậm ngùi, nuối tiếc. Chàng và nàng từ nay sẽ xa cách mãi cũng như Trời và Đất
không bao giờ gặp được nhau. Có lẽ đó cũng là cái lẽ thường tình của tạo hóa, tiên nữ có thở than thì
cũng đành phải chấp nhận. Câu thơ ngân dài như những tiếng thở dài nào về.
“Cửa động / Đầu non / Đường lối cũ.”
Một câu thơ bảy chữ nhưng được ngắt lắm ba hàng, nhịp ngắt quăng tựa như bước chân nàng
ngập ngừng quay về đường xưa, lối cũ, ngậm ngùi nhìn lại nơi chốn đã mang dấu tích chàng khi xưa,
có biết bao kỉ niệm nơi này, các nàng sống ở nơi bất tử hạnh phúc mà đâu có hạnh phúc.
“Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi”
Có bao nhiêu ý nghĩa trong thơ ca cho một chữ “trăng”, trăng là mộng mơ là ảo hóa là dịu dàng,
là xa xôi… Nhưng ở đây tác giả sử dụng với hình ảnh là “bóng trăng” nó lại càng bất định mơ hồ,
trăng đây không soi, không ngời sáng, cũng không âm u, lạnh lẽo nhưng ánh trăng lại thật cô đơn, lẻ
bóng. “Nghìn năm” là khoảng thời gian cụ thể hay tượng trưng nhưng nó thật là dài các nàng mãi mãi
ngóng chờ, đau đáu với nỗi đau của riêng mình. Chữ “chơi” cho thấy hết được tài năng của Tản Đà.
Bởi chữ “chơi” như là nhăn tự kết thúc bài thơ nhưng lại mở ra cả bầu trời với mênh mang là sự nhớ
thương, cô đơn, trống trải. Bóng trăng mơ hồ, huyền hoặc, thơ thẩn chơi vơi nghìn năm quanh đầu
non lối cũ như kiếm tìm, như đợi mong mà vẫn biết thời gian không bao giờ trở lại.
Câu thơ kết đã nói lên tiếng lòng của thi sĩ Tản Đà, ông luôn mải miết đi tìm tiếng lòng tri âm, tri
kỷ, tìm ngày tương tri nhưng kiếm đâu đây ? Mãi mãi chỉ là “bóng trăng chơi” mà thôi.

THỀ NON NƯỚC


- Bài thơ “Thề non nước” được Tản Đà sáng tác trước, sau lại đưa vào truyện ngắn cùng tên. Cô
đào Vân Anh và du khách cùng nối lời nhau mà thành bài thơ khi cùng ngắm, cùng vịnh bức cổ họa
sơn thủy. 4 câu đầu là lời của du khách; 10 câu tiếp là của cô đào Vân Anh, 6 câu tiếp theo là của
du khách; 2 câu cuối là lời Vân Anh. Bài thơ gồm 22 câu lục bát, nhạc điệu du dương, thiết tha.
- Qua việc vịnh bức tranh sơn thủy, bài “Thề non nước” thể hiện một mối tình thủy chung của lứa
đôi, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín và sâu nặng.
1. Hình ảnh bức tranh sơn thủy
Nói là bức cổ họa sơn thủy, nhưng không có “thủy” vì “nước đi đi mãi không về cùng non”. Chỉ có
núi: “Non cao những ngóng cùng trông”. Có suối nhưng suối đã cạn kiệt bao giờ, nay chỉ còn “suối
khô dòng lệ...). Có cây mai già trụi lá trơ cành: “xương mai”. Có sương tuyết và mây phủ dày trên
đỉnh núi.
Có màu xanh của ngàn dâu. Và có màu vàng của tà dương:
“Trời tây ngả bóng tà dương, / Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha.”
Bức cổ họa rất đẹp mà buồn, thấm đượm màu tang thương ly biệt và chờ mong.
2. Nước non nặng một lời thề.
- Nước và Non trong bài thơ là hình ảnh của lứa đôi. Trong 22 câu thơ, từ non, nước xuất hiện tới
27 lần. Lúc đầu là Nước Non, biệt ly thì “Nước... Non”, nhớ mong thì “Non... nước Nước... Non”.
Ngày tái hợp: Non Non Nước Nước.
- Nặng thề nguyền nhưng trắc trở biệt ly, đáng thương:
“Nước non nặng một lời thề, / Nước đi đi mãi, không về cùng non.
Bi kịch của mối tình là đã nặng lời thề nhưng sau đó “nước đi đi mãi”...
- Cảnh đợi chờ. Đó là hình bóng một giai nhân. Vò võ, buồn thương, đau khổ, tàn phai. Những ẩn
dụ đầy gợi cảm: dòng lệ, xương mai, tóc mây, vẻ ngọc, nét vàng... Những vần thơ đẹp như câu
Kiều: “Non cao những ngóng cùng trông / Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy, / Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời tây ngả bóng tà dương / Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha”
- Có trách móc giận hờn: “Non còn nhớ nước, nước mà quên non”
- An ủi, vỗ về: “Nước đi ra bể lại mưa về nguồn. / Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi...”
- Thủy chung sắt son! “Nghìn năm giao ước kết đôi / Non non nước nước chưa nguôi lời thề”
Tóm lại, một bị kịch tình yêu. Có ly biệt, nhớ mong, đau khổ, nhưng mãi mãi tái hợp, sum họp.
Buồn thương nhưng không tuyệt vọng. Mối tình ấy được Tản Đà diễn tả bằng những vần thơ giàu
hình tượng và truyền cảm với một nhạc điệu du dương, thắm thiết.
3. Nước đi chưa lại
- Nhan đề bài thơ là “Thề non nước”, nghĩa là thề vì nước vì non. Bài thơ đã xuất hiện trong tác
phẩm Tân Đà trên 2 lần, đó là một ẩn ý vừa kín đáo vừa cảm động. Thi sĩ Tản Đà cũng có vài bài
thơ “Vịnh bức dư đồ” của đất nước: “Nó bức dư đồ thử đứng coi, / Sông sông núi núi khéo bia
cười. / Biết bao lúc mới công vời vẽ / Sao đến bây giờ rách tả tơi?...”
Có đặt bài thơ “Thề non nước” bên cạnh các bài thơ “Vịnh dư đồ...”, “Chim họa mi trong lồng”,…
ta mới cảm nhận được tình cảm yêu nước thiết tha của Tản Đà. Ông không phải là một chiến sĩ
cách mạng.
Ông là một thi sĩ, ông đã gửi gắm tấm lòng của mình với giang sơn Tổ quốc một cách kín đáo và
đầy tính chất nghệ thuật.
Bút pháp nghệ thuật điêu luyện
1. Thơ lục bát trau chuốt. Có lúc mang hồn quê dân dã, phảng phất ca dao dân ca:
“Dù cho sông cạn đá mòn, / Còn non còn nước hãy còn thề xưa”
Có lúc tinh luyện, cổ điển, mượt mà như câu Kiều:
“Xương mai một nắm hao gầy, / Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương”...
2. Sử dụng thủ pháp phân - hợp ngôn từ rất tinh tế để gợi tả, biểu cảm. Non và Nước xuất hiện ở
tần số cao trong bài thơ. Lúc gắn bó thề nguyền thì “Nước Non”, lúc biệt ly xa cách thì Nước...
Non”: “Nước non nặng một lời thề, / Nước đi đi mãi không về cùng non”...
Ngày mai tái hợp, sum họp thì “Non non nước nước chưa nguôi lời thề”.
Hai từ “ngóng, trông”, cũng vậy: “Non cao những ngóng cùng trông...”.
3, Sáng tạo trong vận dụng các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ... để xây dựng hình ảnh
mĩ lệ, đầy chất thơ: - Nước đi đi mãi, không về cùng non...
- Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha
- Non còn nhớ nước, nước mà quên non...
Kết luận: “Thề non nước” là “bài thơ tuyệt tác” như thi sĩ Lưu Trọng Lư đã ngợi ca. Một bài thơ đa
nghĩa, có chuyện vịnh cảnh, có màu sắc phong tình tài hoa, và còn có tấm lòng thiết tha gắn bó của
thi sĩ với Tổ quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Sắc điệu trữ tình thiết tha của “Thề non
nước” mãi mãi hòa quyện hồn người và hồn nước thiêng liêng.

XUÂN DIỆU
VỘI VÀNG: a. Xuất xứ
“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng rút trong tập “Thơ Thơ” (1938).
Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, khi vui cũng như khi buồn
người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới
chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.
1. Tình yêu cuộc sống tha thiết và say đắm của Xuân Diệu (13 câu đầu)
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương thời ngột ngạt, bế tắc, hầu hết các nhà thơ mới đều đang
tìm cách lẩn trốn hiện thực tăm tối. Chế Lan Viên tìm đến những tinh cầu giá lạnh, Thế Lữ gửi gắm
tâm trạng ở con Hổ trong vườn bách thú, Tản Đà muốn lên cung trăng làm thằng Cuội,... còn Xuân
Diệu thì đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới.
- Bốn câu thơ đầu là sự khát khao giao cảm với đời, với thiên nhiên mãnh liệt trong cõi lòng thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi / Cho màu đừng nhạt mất; / Tôi muốn buộc gió lại / Cho hương đừng bay đi.
+ Lòng yêu đời, yêu cuộc sống tha tha thiết đã khiến tâm hồn thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần
thế, không thoát ly hoàn toàn như các nhà thơ khác. Với đời, ông có một khao khát đến cháybỏng.
+ Nhà thơ sử dụng những câu thơ ngắn, với âm điệu nhanh, ngôn ngữ thơ dứt khoát để thể hiện ước
muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi ám ảnh nhất trong cuộc đời thi nhân.
Là một hồn thơ rạo rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất
của trần thế. Vì thế, thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của cuộc đời. Người dùng tất
cả giác quan tạo hóa ban tặng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào
thơ Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh nắng, gió.
+ Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp với những động từ mạnh như tắt (nắng), buộc (gió) thể hiện một tư
thế chủ động, một ước muốn táo bạo: Nắm bắt thiên nhiên, đoạt quyền tạo hóa để có thể níu giữ
những phần tươi đẹp nhất của cuộc đời.
- Bảy câu thơ tiếp nói lên ước muốn tạo hóa của nhà thơ, bởi ông đã cảm nhận được có một thiên
đường ngay trên mặt đất, bao quanh mỗi chúng ta.
Của ong bướm này đây tuần trăng mật; / Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất; / Của yến anh này đây khúc tình si./ Và này đây ánh sáng chớp
hàng mi;/ Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa, / Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
+ Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiênnhiên
đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chimchóc, hoa
lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mượt mà. Cảnh vậtkhông tĩnh lặng mà
náo động, linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. Tuầntháng mật của đôi vợ
chồng đắm say trở thành mùa ong bướm dập dìu rất lãng mạn.
+ Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành khúc tình si hút hồn biết bao con người yêu
cảnhthiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hóa như một kiều nữ e thẹn với những ánh mi
dàicuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hòa làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời.
Từđó cái đẹp của mùa xuân, thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân,đương
thì. Qua đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽlại những
hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở.
+ Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất là “tháng giêng”, tươi mới nhất “mỗi buổi sớm”, để miêu
tảkhiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi, xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn
tạonên một thiên đường của cảm xúc. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt
từxúc giác “tuần tháng mật”, thính giác “khúc tình si”, sang thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.
– Tâm hồn của thi nhân rạo rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đãkhơi
nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồnngười,
hồn của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:“Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần”.
+ “Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hữu hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình
cảm rạo rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon”
duynhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được dùng rất đắt thể hiện một quan điểm
mĩhọc rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ
không gây thô tục mà có phần mới lạ. Nhà thơ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự
chuyển đổi xúc giác sang vị giác. Quả thật, Xuân Diệu bên cạnh có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn
có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.
+ Nhà thơ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sứchấp
dẫn kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính tráihình
với thi ca thời xưa . Qua đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem đến cho ta mộthình ảnh
đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.
Hai câu thơ cuối: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài
xuân.
+ Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính
tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của
tgian.
+ Hai câu thơ dài, giữa câu hạ một dấu chấm đột ngột như sự dồn nén cảm xúc đến tột cùng.
Thểhiện một khao khát cháy bỏng trong lòng tác giả. Vì Xuân Diệu cảm nhận được lúc vạn vật
đangcăng tràn nhựa sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lùi tàn, héo úa. Vì thế,
khiđang sống trong niềm hạnh phúc tràn đầy, tác giả lại thôi thúc mình cần phải vội vàng, cần phải
tận hưởng hết những năm tháng tuổi trẻ và hạnh phúc. Qua đó, tác giả gửi đến mọi người thông
điệp sống: hãy sống hết mình và trân trọng những gì bạn đang có, đừng để nó trôi qua rồi mới tiếc
nuối.
=> Nhà thơ đã tái hiện lại khung cảnh hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Trongcon
mắt của nhà thơ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống thật ngắnngủi nên
phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Đó là tưtưởng lạc quan
yêu đời mà tác giả đã tạo ra cho thế hệ trẻ, họ cần phải sống cho đúng, k đểlãng phí tuổi trẻ một
cách vô ích.
2. Tâm trạng băn khoăn của tác giả về tuổi trẻ của đời người trước sự qua đi nhanh chóng của thời
gian (16 câu tiếp)
– Khổ thơ thể hiện nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời của Xuân Diệu:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, / Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
+ Xuân Diệu đã đưa đến cho chúng ta những ý niệm thú vị, mới mẻ về thời gian. Theo ông, thời
gian là tuyến tính, nó là một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại: đương tới – đương qua;
còn non- sẽ già. Đứng trước cảm nhận này, tác giả thấy lo lắng khi thời gian trôi đi. Ông bắt đầu sợ,
cuống cuồng vì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu rồi cũng qua đi.
– Ý niệm về thời gian đối với Xuân Diệu là một chiều, một đi không trở lại. Chính sự khắc nghiệt
này mới khiến nhà thơ thấy mình thật bé nhỏ: Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, / Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
+ Những câu thơ dường như càng khắc nghiệt hơn vì tác giả tự vận mình vào mùa xuân. Bởi rằng,
với ông, đời người đẹp nhất là tuổi trẻ. Khi mùa xuân tuổi trẻ qua đi thì coi như hết. Con người vẫn
luôn khao khát sống, khao khát yêu nồng cháy nhưng thời gian có hạn. Vạn vật chuyển biến, tuổi
trẻ cứ vơi cạn đi theo năm tháng. Tác giả nuối tiếc, tiếc vì k được sống thêm, không được nhiệt
huyết hơn nữa.
– Có lẽ Xuân Diệu là một nhà thơ có cái nhìn chân thực và đầy mới mẻ về tuổi trẻ con người: Nói
làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, / Nếu đến nữa k phải rằng gặp lại./ Còn trời đất, nhưg chẳng còn
tôi mãi,
+ Đến đây dường như người đọc càng nhận ra triết lý về thời gian sâu sắc. Mùa xuân rồi sẽ trở lại,
đất trời lại rạo rực và đẹp đẽ như thế nhưng tuổi trẻ của con người lại vĩnh viễn trôi qua không trở
lại. Đây là điều tàn nhẫn nhất mà Xuân Diệu không muốn đối mặt.
+ Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua,
non – già, hết – mất, rộng – chật, vô hạn hữu hạn, để khẳng định một chân lý – triết lý: Tuổi xuân
một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.
– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá
khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi... Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật,
của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp
sửa. Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời:
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, / Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
– Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc, / Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, / Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
- Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm
nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống, bâng khuâng.
– Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị củasự
sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đãmất đi
là vĩnh viễn mất đi. Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đờimình. Và
người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có nhưthế mới biết
sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống Vội vàng.
=> Đoạn thơ sdụng phép điệp từ, điệp cấu trúc; giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không tạo đượcniềm
vui vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu, tiếc,...); hệ thống từngữ, hình
ảnh được đặt trong thế tphản đối lập cao. Tất cả tạo nên một đthơ hay, giàuý nghĩa, mang đậm dấu
ấn Xd.
3. Khát vọng tận hưởng của Xuân Diệu (10 câu cuối)
– Ở phần đầu của bài thơ, Xuân Diệu cho người đọc thấy được tạo hóa có sinh ra con người để mãi
mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian này đâu. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian
trôi đi vĩnh viễn không trở lại giục giã chúng ta phải nhanh lên, vội vàng lên để tận hưởng bữa tiệc
của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non. Xuân chưa già:
Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
– Ở đoạn đầu, tác giả xưng “tôi” để đối thoại với đồng loại, ở dưới lại xưng “ta” để đối diện với sự
sống (Chu Văn Sơn). Giữa những câu thơ dài, đột ngột xen vào một câu thơ rất ngắn, chỉ có ba chữ
“Ta muốn ôm”. Câu thơ như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang ôm bón níu
giữ cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn của nhà thơ.
- Mởn mởn là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm giác sự vật, cây cối đang ở độ
non mướt, tươi tốt đầy sức sống.
– Tác giả bộc lộ một tình yêu mãnh liệt, táo bạo: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn/ Ta muốn say
cánh bướm với tình yêu/ Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều / Và non nước, và cây, và cỏ rạng
+ Cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suối ào ạt tuôn trào, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào
nhau, chen lấn nhau để theo kịp dòng cảm xúc ấy.
+ Những tiếng ta muốn láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng.
+ Những từ ngữ xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: muốn ôm, muốn riết, muốn say,
muốn thâu,... cái hôn nhiều chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc.
– Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, sống như thế đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh
phúc được sống: Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đong đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
+ Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc tận hưởng cuộc đời, là được cảm
nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: chếnh choáng, đong đầy, no nê.
+ Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời mùa xuân như một cái gì quý
giá nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng chín mọng thơm ngát ngọt ngào để cho nhà thơ tận
hưởng trong niềm khát khao cao độ: Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người.
=> Nhìn chung lại, đây là nhân sinh quan mới, có nét tích cực. Trong khi những cái tôi lãng mạn
khác lại xa lánh cuộc sống trần gian, đi tìm cõi bồng lai ở chốn hư vô, thì Xuân Dieuj không đi đâu
cả mà coi trần gian chính là thiên đường và sống hết mình trong cõi trần gian ấy.
=> Hãy biết hướng đời mình về phía ánh sáng, đừng để cho tuổi xanh trôi đi một cách uổng phí.
Song nếu chỉ biết tận hưởng một cách vội vàng, cuống quít mà không biết làm gì để cho sự tận
hưởng ấy thì lại là tiêu cực.
1. Nội dung – Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút,
từng giây của cđời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của 1hồn thơ yêu đời ham sống đến
cuồng nhiệt
2. Nghệ thuật – Hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và
mạch lí luận, gọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
GIỤC GIÃ
Trong thơ tình Xuân Diệu, những mô tả, giãi bày cụ thể về tình yêu luôn đi cùng xu hướng triết lí
hóa, khái quát hóa. Cái tôi trữ tình này vừa yêu, không ngừng hạnh phúc, khổ đau vì tình yêu, đồng
thời không ngừng bị thôi thúc bởi nhu cầu mãnh liệt là được cắt nghĩa về tình yêu, đúc rút thành
châm ngôn, triết lí và hơn thế, “kêu to lên” cho mọi lứa đôi cùng nghe về những bí ẩn của nó. Giục
giã (rút trong tập Gửi hương cho gió, 1945) thể hiện rõ phong cách trữ tình mê đắm mà tỉnh táo của
Xuân Diệu.

Mở đầu Giục giã là một lời kêu gọi, hối thúc: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Bằng lời nhập đề trực tiếp, khẩn trương này, nhà thơ kéo thẳng đối tượng và độc giả vào cuộc trữ
tình. Nếu với Huy Cận, cảm hứng thơ luôn được khơi dậy từ không gian xa rộng, cô liêu, gợi niềm ảo
não, thì với Xuân Diệu, thời gian mới là nỗi ám ảnh, đồng thời, là nguồn thi hứng dạt dào.

Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới; / Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa. / Nắng mọc chưa
tin, hoa rụng không ngờ, / Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết! / Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt; /
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài; / Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai; / Đời trôi chảy, lòng ta
không vĩnh viễn. / Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến; / Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành. /
Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh, / Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.

Đoạn thơ khá dài, gieo vần chặt chẽ, nhịp nhàng. Tác động đa chiều của thời gian được mô tả thông
qua hàng loạt hình ảnh ẩn dụ gợi cảm: tình thổi gió, màu yêu, nắng mọc, hoa rụng, mầm ly biệt,
mộng vàng, chiều xanh, vàng son đương lộng lẫy, lầu chiều đã vỡ, tình yêu đến, tình yêu đi, đời trôi
chảy… Trong tương quan đối lập (mới/ xưa; đến/ đi; gặp gỡ/ ly biệt…), thời gian được nhà thơ nhận
thức chủ yếu ở phía tác động tiêu cực: Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn. Thực chất, đây là cảm
quan thời gian quen thuộc của Xuân Diệu, đã thể hiện trong nhiều tác phẩm: Xuân đương tới nghĩa
là xuân đang qua / Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già / Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất (Vội
vàng)

Đây không phải là một nhận thức thời gian mới. Thơ xưa từng nói đến tác động thời gian qua hình
ảnh “bóng câu qua cửa sổ”, “bãi bể nương dâu” hay mái tóc “mới sớm còn tơ xanh chiều đã
tuyết”… Nhưng ám ảnh thời gian dường như càng tăng lên khi con người đo lường, đánh giá nó qua
nhãn quan cá thể và quỹ thời gian cá nhân. Là nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu đặc biệt chú ý sự tác
động của thời gian tới tâm hồn, xúc cảm con người. Với ông, thời gian không chỉ khiến “dung nhan
lay động, sắc đẹp tan tành”. Ác hại hơn, nó khiến cho sự thay đổi trong tình cảm của con người trở
thành một tất yếu: Ai nói trước lòng anh không phản trắc/ Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ?

Dĩ nhiên, ta thừa biết sự đổ vỡ tình cảm đâu chỉ do mỗi nguyên nhân thời gian. Xuân Diệu chọn lí do
này, bởi qua thời gian, ông nhận ra nhiều vấn đề của đời sống và con người. Nó đem lại màu sắc triết
lí hấp dẫn cho thơ ông. Quan trọng hơn, nó khiến ông nhận ra điều mình thực sự muốn, đó là Em và
Hiện tại. Là một nhà thơ của thời hiện đại, ý thức sâu sắc về giá trị cá nhân, ông khao khát hưởng thụ
cuộc đời và tình yêu trong ngay bây giờ, ở thời điểm này. Ông sẵn sàng đón tất cả những gì đến với
mình trong thì hiện tại với niềm hạnh ngộ. Cách ứng xử với hiện tại này quả thực khác nhiều tác giả
Thơ mới. Chẳng hạn, đây là thái độ cự tuyệt của Chế Lan Viên: Ai đâu trở lại mùa thu trước / Nhặt
lấy cho tôi những lá vàng / Với lại hoa tươi muôn cánh rã / Về đây đem chắn nẻo xuân sang (Thu)

Thật trái ngược! Trong khi Hồ Dzếnh tuyên bố: Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi!, thì Xuân
Diệu lại kêu gọi: Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai. Thật ra, về điều này, quan điểm của Xuân Diệu rất
rõ ràng. Quá khứ thì đã qua, không thể thay đổi. Tương lai thì không biết sẽ thế nào, nó nằm ngoài
khả năng đoán định. Cả quá khứ lẫn tương lai đều là những cái bất khả níu giữ, chế ngự. Chỉ hiện tại,
chỉ cái đang là, là còn thuộc về Anh và Em. Dẫu vẫn lo âu, nghi ngờ, song thì hiện tại, với ông, là
một hiện thực giá trị. Trong dòng chảy thời gian, hiện tại dễ dàng bị xâm lấn bởi hai đầu quá khứ và
tương lai. Nhưng cũng chính vì sự mong manh vụt biến nên hiện tại, cũng như tình yêu con người,
càng đáng trân quý. Thái độ sống của Xuân Diệu rất thực tiễn và hiện đại: yêu đời, yêu người, không
có nghĩa đặt đối tượng lên bàn thờ chiêm bái ngưỡng vọng, mà phải được thụ hưởng tình yêu ấy một
cách trọn vẹn, mãnh liệt. Đó là lý do ông từng nói đến khao khát “ôm”, “riết”, “thâu”, “say”,
“cắn”, “no nê”, “chuếnh choáng”, “đã đầy”… mùa “xuân hồng” của cuộc đời. Ông khát khao gắn
bó với cuộc đời trần thế, trong phút giây hiện tại, trong sự “thức nhọn giác quan” run rẩy. Sống cho
hiện tại, sống vì hiện tại, sống trong hiện tại dường như là lời xác quyết của Xuân Diệu. Yếu tính
lãng mạn trong hồn thơ Xuân Diệu đã bộc lộ trọn vẹn, đắm đuối và nồng nàn trong tuyên ngôn yêu
và sống của ông, một tuyên ngôn mà rồi bao thế hệ “trẻ tuổi, trẻ lòng” sẽ còn nhắc lại, trong sự rung
động và đồng cảm: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

Xuân Diệu từng tuyên bố: Ai lí luận với ân tình cho đáng. Thế nhưng kiểu kết cấu luận đề lại khá phổ
biến trong thơ ông. Bài thơ thường được triển khai như một chuỗi lập luận, ý trước nối liền ý sau
trong mối quan hệ phối thuộc chặt chẽ. Mỗi đoạn, câu, hình ảnh thơ trong bài vừa có nhiệm vụ cụ thể
hoá quan niệm, tư tưởng của thi sĩ vừa đóng vai trò những thao tác phân tích, buộc độc giả phải thấy
rằng quan niệm, tư tưởng đó là một tất yếu đúng. Điều này thể hiện rõ trong nhiều sáng tác như Vội
vàng, Xa cách, Yêu… Và tất nhiên, danh sách ấy phải có Giục giã. Nếu ở Vội vàng, Xuân Diệu chủ
yếu dùng hệ thống lí lẽ để chứng minh quy luật tàn phá của thời gian, để thuyết phục độc giả rằng vội
vàng là cách sống, cách ứng xử thích hợp nhất, thì trong Giục giã, ông cũng tiến hành thao tác tương
tự. Bài thơ được cấu trúc một cách khá chặt chẽ, theo ba phần như sau:

- Hai dòng đầu: Đặt vấn đề bằng lời thúc giục vội vàng

- Hai mươi dòng tiếp theo: Giải thích lí do

- Tám dòng cuối: Nêu “giải pháp” sống và yêu


Tuy nhiên, nếu Vội vàng dừng lại ở quy luật sống nói chung thì ở Giục giã, nhà thơ chú tâm vào mục
tiêu thuyết phục người tình cùng ông tận hưởng một tình yêu xứng đáng. Đó là tình yêu trong thì hiện
tại, trong tuổi trẻ, giữa “mùa hoa lá thuở măng tơ”, trong độ đắm say mãnh liệt “đốt muôn nến sánh
mặt trời chói lói”.

Về mặt văn bản, bài thơ được kết cấu theo lối đầu cuối tương ứng. Phần cuối nhắc lại hai câu mở
đầu, với đôi chút biến đổi, nhằm nhấn mạnh tính chất cần thiết cũng như ý nghĩa của sự “mau lên
chứ, vội vàng lên với chứ”. Mở đầu bthơ như sau: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, / Em, em ơi,
tình non đã già rồi;

Và ở kết thúc: Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! / Em, em ơi! Tình non sắp già rồi… Kết nối với
tiêu đề tác phẩm – Giục giã, những đặc điểm kết cấu nói trên càng cho thấy rõ tính triết lí của bài thơ.

Điều thú vị là, dù tính khái quát, triết lí rất rõ, song Giục giã vẫn đem lại cảm giác trữ tình nồng nàn.
Điều này hết xuất phát từ nguyên tắc thể hiện trực tiếp của bài thơ. Luôn hiện diện đằng sau lớp hình
ảnh, từ ngữ ấy là một chủ thể trữ tình đầy nhiệt thành, sôi nổi: anh ta luôn có nhu cầu được giãi bày,
được trần tình, được lí giải (và cả… kể lể nữa), những nhận thức, suy ngẫm riêng về tình yêu, về thời
gian, cuộc sống v.v. Ẩn dụ được sử dụng phổ biến tạo nên lớp ngôn từ bóng bẩy, đa nghĩa, giàu xúc
cảm (tình non, con chim hồng, trái tim nhỏ, tình thổi gió, màu yêu, tình mới, mầm ly biệt, đời trôi
chảy, buổi chiều xanh, mộng vàng, răng nở ánh trăng rằm, hút nhụy mỗi giờ tình tự…). Bài thơ có
khá nhiều câu hỏi tu từ, đan xen linh hoạt với kiểu câu trần thuật, cảm thán, tạo nên giọng điệu vừa
tỉnh táo, lí trí vừa mãnh liệt, nồng nàn: Vì chút mây đi theo làn vút gió/ Biết thế nào mà chậm rãi em
ơi?; Ai nói trước lòng anh không phản trắc/ Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ?… Trên thực tế, nhiều
câu trong Giục giã đã trở thành lời cửa miệng của độc giả, vì tính triết lý thi vị, chẳng hạn:

- Tình yêu đến tình yêu đi ai biết / - Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt

- Ai nói trước lòng anh không phản trắc / Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ?

- Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối /Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm…

Những triết lí trực tiếp, những mô tả khá chi tiết, cảm tính thu hẹp tính “mơ hồ”, “ám gợi” – vốn
được xem là thuộc tính của một biểu tượng tượng trưng “đích thực”. Bù lại, màu sắc xúc cảm và khả
năng truyền cảm của bài thơ trở nên mãnh liệt, nồng nàn.

Hãy hướng về hiện tại, sống và yêu hết mình trong hiện tại – đó không chỉ là triết lí của cá nhân
Xuân Diệu. Thực ra, đó cũng là một quan niệm mang đậm tinh thần lãng mạn. Thơ lãng mạn, với tư
cách một trào lưu, đã qua đi trong lịch sử văn học. Tuy nhiên, phẩm tính lãng mạn, những khát vọng
lãng mạn là điều sẽ còn tồn tại dài lâu trong đời sống nhân loại. Đó là lý do giải thích vì sao Giục
giã có thể ngân vang lâu bền đến vậy trong kí ức và xúc cảm của bao thế hệ độc giả: Em vui đi, răng
nở ánh trăng rằm, / Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự. / Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! / Em, em
ơi! Tình non sắp già rồi…

ĐÂY MÙA THU TỚI


Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời. Câu nói ngỡ như một trò chơi chữ này của
người xưa hoá ra đã thể hiện được mối tương thông kì lạ giữa mùa thu và thơ ca. Có phải vì thế mà
trong bốn mùa, thơ ca thiên vị với mùa thu hơn cả và mùa thu cũng ban tặng cho thi nhân nhiều thi tứ
hơn? Mùa thu gắn bó với thi ca đến nỗi chỉ cần xem xét thơ viết về mùa thu qua các thời đại cũng có
thể thấy được phần nào các thời đại thơ ca. Kể tên những áng thơ thu đẹp nhất trong thơ Việt, người
ta phải nhắc đến những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm , Bà huyện
Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Lưu Trọng Lư , Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu... và
không thể không nhắc đến Xuân Diệu. Thoạt nhìn, dễ nghĩ Xuân Diệu chỉ là thi sĩ của mùa xuân.
Thậm chí, đọc bài Xuân không mùa , chúng ta có thể quyết rằng: Xuân không mùa - ấy là Xuân Diệu!
Thực thì, Xuân Diệu còn là thi sĩ của mùa thu. Không chỉ vì ông nhiều bài thơ thu đặc sắc. Điều cốt
yếu là, với thi sĩ, Xuân hay Thu cũng đều là mùa Tình.

Nói thế, không có nghĩa là Xuân Diệu không dành một quan niệm riêng cho cái mùa của những
bông cúc vàng ẩn dật này. Trong cảm quan của thi sĩ, thiên nhiên cũng như một giai nhân đầy nhan
sắc. Thời kì rực rỡ hoàng kim là thuộc về mùa xuân. Qua hạ vào thu là bước vào kì tàn phai. Một sự
tàn phai không thể tránh khỏi. Mùa thu là mùa phôi pha. Nhưng đối với thi sĩ này, thì ngay trong độ
phai tàn, giai nhân ấy vẫn cứ kiêu sa, đài các, lộng lẫy. Đây mùa thu tới có lẽ là thi phẩm được nảy
sinh trực tiếp từ cảm quan ấy.

Cũng không riêng chuyện cảm quan. Đây mùa thu tới còn thuộc về một cảm hứng rất Xuân Diệu:
cảm hứng nghiêng về thời gian. Như cái tên của nó, Đây mùa thu tới đã chọn một thời điểm riêng để
đến với mùa thu. ấy là thời điểm giao mùa. Chỉ cần làm một so sánh nhỏ với chùm thơ thu của
Nguyễn Khuyến sẽ thấy rõ hơn cảm hứng này của Xuân Diệu. Trong chùm thơ nổi tiếng của mình,
Tam nguyên Yên Đổ viết về một mùa thu đã hoàn toàn định hình, đã ngự trị từ lâu ở làng cảnh Việt
Nam. Thi nhân chỉ đi tìm kiếm những gì là đặc trưng nhất để vẽ lên bức tranh thu. Nghệ thuật của
Nguyễn Khuyến có phần nghiêng về không gian, nghiêng về cái tĩnh. Còn thi sĩ Xuân Diệu thì chờ
cái lúc mùa thu từ phương xa về, đáp xuống xứ sở này, dần dần từng bước xâm chiếm toàn bộ thiên
nhiên, cây cỏ và con người. Ngòi bút Xuân Diệu bám từng bước đi của thời gian, nắm bắt cái
dáng vẻ, cái trạng thái sự vật đang ngả dần sang thu, đất trời cứ thu dần thu dần để thành thu hẳn.
Nghệ thuật Xuân Diệu, rõ ràng, nghiêng về thời gian, nghiêng về cái động.
Trong cái thế giới riêng của bài thơ, cảnh sắc đầu tiên mà mùa thu xâm chiếm là rặng liễu - nó lập tức
biến thành liễu thu: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Hành
trình xâm lấn của mùa thu, từ đó, dường như cứ lan dần, loang dần ra những khu vườn, những rặng
núi, những dòng sông, những tầng trời... và cuối cùng, nó xâm chiếm lòng người. Khi đã tràn ngập
những tâm hồn thiếu nữ, ấy là lúc mùa thu đã đi trọn một con đường của nó. Và, mùa thu tới, cảnh
sắc cũng theo đó phôi pha. Sắc lá rũa phai đi, cành nhánh gầy guộc đi, trăng ngẩn ngơ đi, dáng núi
nhạt nhoà hơn, sông vắng vẻ hơn, khí trời lạnh lẽo hơn, lòng người u sầu hơn... Khi những thiếu nữ
cũng “buồn không nói, tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, ấy là lúc mùa thu đã làm xong phần việc của
nó: chuyển toàn bộ xứ sở này thành thu. Chẳng phải mùa thu cũng là mùa phai đó ư? Như thế, hành
trình của mùa thu cũng chính là trình tự cấu tứ của Đây mùa thu tới.
Ta vừa thấy dấu ấn Xuân Diệu in đậm lên tổng thể tứ thơ. Ta còn thấy dấu ấn ấy in cả lên từng
chi tiết nhỏ nhất của bài thơ nữa.
Đúng là mỗi thi sĩ thường tìm cho mình những tín hiệu riêng để nhận biết mùa thu. Người xưa
thấy thu về trong một chiếc lá ngô đồng rụng. Nguyễn Du thấy thu về trong sắc đỏ lá phong. Nguyễn
Khuyến nhận ra thu trong dáng cần trúc lơ phơ. Lưu Trọng Lư nghe thấy tiếng thu trong tiếng lá kêu
xào xạc. Nguyễn Đình Thi nhận ra thu trong làn hương cốm mới. Trần Đăng Khoa biết thu về khi
hoa cau rụng vào những thoáng heo may... Còn Xuân Diệu? ấy là dáng liễu. Khi rặng liễu bắt đầu
mang dáng đứng chịu tang, thi sĩ biết rằng mùa thu đã hiện diện ở xứ sở này:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới - mùa thu tới:
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Chúng ta biết Thơ Mới bắt đầu mới trong cảm xúc. Cảm xúc mới nảy nở, bùng nổ, nó phải kiếm tìm
thi pháp mới. Ở Xuân Diệu - “mới nhất trong các nhà Thơ mới” - cảm xúc và thi pháp đã giúp nhà
thơ làm mới những thi liệu cũ. Nét dễ thấy ở đây là một lối liên tưởng mới. Chính lối liên tưởng này
đã tạo ra một vẻ đẹp mới cho đối tượng cũ. Ai cũng biết, liễu là hình ảnh đã quá quen thuộc trong thơ
cổ điển. Trong Truyện Kiều thật nhiều những dáng liễu đẹp:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Trong các câu thơ trên của Nguyễn Du, liễu có phần nghiêng về vẻ đẹp khách quan, liễu hiện lên chủ
yếu bằng vẻ đẹp của bản thân liễu. Nhà Thơ Mới Xuân Diệu không chịu làm thế. Ông đã “áp đặt”
vào liễu một vẻ đẹp chủ quan, liễu mang trong nó vẻ đẹp người. Dáng liễu là dáng người. Từng dòng
lá liễu rủ xuống mang trong nó những dòng tóc đang buông xuống và trăm nghìn giọt lệ đang tuôn
xuống. Tâm trạng liễu là tâm trạng người. Cảm nhận liễu, người ta cứ thấy phảng phất trong liễu
bóng dáng những giai nhân đài các, kiêu sa mà âu sầu buồn bã. Trước Xuân Diệu, xem ra, chưa có
một dáng liễu nào giống thế. Trước tín hiệu báo mùa ấy, thi sĩ đã kêu lên: “Đây mùa thu tới mùa thu
tới”. Câu thứ ba đúng là một tiếng reo. Nhưng không phải reo vui như có người tưởng. Làm sao có
thể reo vui khi cảnh buồn đến thế. Đó chỉ có thể là tiếng reo ngỡ ngàng. Vì sững sờ nhận ra thế là
mùa thu đã về, ngay nhỡn tiền đây thôi. Cũng còn vì: dẫu là mùa tàn phai, mà thu vẫn cứ yêu kiều thế
- Với áo mơ phai dệt lá vàng. Trong cảm nhận của Xuân Diệu, mùa thu vốn vô hình đã trở nên hữu
hình. Và, dường như mùa thu cũng về trong bóng hình, phong thái của của một giai nhân. Ta không
nhìn thấy rõ khuôn mặt nàng, nhưng ta nhận ra nàng trong cái vũ điệu bay đến và trong sắc áo hư ảo,
chừng như dệt bằng lá vàng và nắng vàng của nàng:
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Nó gợi ta nhớ đến hình ảnh trăng trong bài thơ Lời kỹ nữ , cũng dáng điệu ấy, phong thái ấy:
“... Trăng từ viễn xứ
Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn.”
Cảm xúc thẩm mỹ mới về mùa thu của Xuân Diệu, rõ ràng, đã gắn liền với một khía cạnh thi pháp
mới, đó là một trường liên tưởng tân kì: vẻ đẹp tạo vật thiên nhiên được qui chiếu về vẻ đẹp của
những giai nhân.
Chỉ bốn câu đầu đã là bức tranh thu trọn vẹn và mới mẻ. Không chỉ thế, lắng nghe kĩ còn thấy trong
bức tranh kia đang ngân lên một điệu nhạc nào nữa. Đúng thế, Xuân Diệu đã triệt để khai thác nhạc
tính của ngôn ngữ để tạo ra chất thơ và chuyển tải cảm xúc của mình. Chúng ta đều biết chủ trương
của thi phái tượng trưng là xem nhạc tính như yếu tố huyền diệu bậc nhất của ngôn từ. Thơ thoát ra
từ sự giao động bất tuyệt giữa âm thanh và ý nghĩa của chuỗi ngữ ngôn. Tinh thần này thấm rất sâu
vào Xuân Diệu. Có thể nói trong suốt thi nghiệp của mình, Xuân Diệu đã tỏ ra là thi sĩ nắm được cái
hồn của tiếng Việt. Những sáng tạo của Xuân Diệu về âm điệu trong khổ thơ này có thể xem là một
minh chứng. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy ba chuỗi vần được phối hiệp nhuần nhuyễn với
nhau trong khổ thơ. Vần “iu” (cận thể là “yêu”) với các từ: liễu, đìu, hiu, chịu...; vần “an” (cận thể là
“ang”) với: tang, ngàn, hàng, vàng...; vần “uôn” (cận thể là”uông”) với: buồn, buông, xuống... Đáng
nói là chúng vừa kế tiếp vừa đan xen, gợi được thế nương theo nhau, nối đuổi nhau, vừa díu dan ràng
níu, vừa trì kéo lẫn nhau, giúp Xuân Diệu tạo hình được những dòng lá liễu đang rủ xuống và cả
những thân liễu như đang muốn trùng xuống, trĩu xuống tựa hồ những dáng liễu buồn sầu không
mang nổi tâm trạng của chính mình. Cả nhịp điệu ở câu thứ ba cũng phụ hoạ vào lối tạo hình ấy. Câu
thất ngôn thường đi nhịp 2/2/3. ở đây Xuân Diệu ngắt thành 4/3:
Đây mùa thu tới / mùa thu tới
Cơ hồ nhịp điệu đã mô phỏng được cả ngữ điệu của một tiếng kêu ngỡ ngàng, cả vũ điệu luân chuyển
nào đó rất vô hình của mùa thu nữa. (Trong khổ tiếp theo, ta còn được thấy việc khai thác nhạc tính
như thế trong chuỗi phụ âm “r” khi Xuân Diệu viết “Những luồng run rẩy rung rinh lá”). Dùng âm
nhạc của ngôn ngữ để tạo hình như vậy, Xuân Diệu đã tỏ rõ thi pháp tượng trưng ngấm vào ngòi bút
của mình nhuần nhị như thế nào.
Tuy nhiên, nói đến Xuân Diệu là còn phải nói đến một hồn thơ nhạy cảm với những biến thái tinh vi
mơ hồ trong hồn người và hồn tạo vật. Mùa thu chạm vào rặng liễu và làm liễu biến đổi. Mùa thu đi
vào vườn, cảnh vật trong vườn cũng từng bước biến suy. Trong cái vẻ biến đổi quen thuộc, thi nhân
đã nhận ra những điều thật khó thấy:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Tôi không muốn nói đến vẻ tân kì, vẻ Tây trong việc dùng các chữ “hơn một” và “rụng cành”. Điều
muốn nói và đáng nói hơn chính là chữ “rũa[1]”. Có người đã hiểu đây là chữ “rữa”. Không phải!
Xuân Diệu đâu có diễn tả sự phân huỷ của xác lá. Điều thi nhân muốn diễn tả tinh vi và thanh nhã
hơn nhiều: sự phôi pha trên màu lá. Cũng nói về sự chuyển mùa bằng việc chuyển màu trên thảo mộc
cỏ cây, Nguyễn Du từng có câu:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Cùng thời với Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng viết:
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Sau này, Tố Hữu cũng có những câu tinh tế
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Gần nhau đến thế mà mỗi chữ vẫn mang một sắc thái riêng, một vẻ thần tình riêng. “Nhuốm” mới bắt
đầu, đang diễn ra, chưa hoàn kết; còn “nhuộm” hình như đã kết thúc, hoàn tất. Một chữ xem chừng
động hơn, nói được nỗi buồn lan ra từ cuộc chia li Kiều - Thúc vương phủ lên rừng phong, khiến
màu cây biến sắc. Chữ “nhuộm” có lẽ tĩnh hơn (dĩ nhiên là trong văn cảnh này), nói cái thời gian của
kẻ tương tư dài đằng đẵng đến nỗi đủ làm cây héo úa, làm người héo hon. Chữ “đổ” lại nhấn mạnh
sắc thái mau lẹ. Những ngày cuối của mùa xuân, phách hãy còn xanh. Thế mà khi những tiếng ve đầu
tiên của mùa hè cất lên, rừng phách đã nhất loạt trổ hoa vàng. Ngỡ có ai đem đổ cả một bình màu lớn
khiến rừng phách kia lênh láng sắc vàng. Và cũng trong những tiếng ve ấy, hoa phách rụng như trút
vàng xuống đất, như những cơn mưa hoa, cơn mưa vàng vậy.
Còn câu thơ và chữ nghĩa Xuân Diệu thì sao? Thi sĩ này không lặp lại sự biến màu trên toàn cục, mà
có phần nghiêng về sự biến màu trên mỗi chiếc lá. Thậm chí sự phôi pha trong từng hạt diệp lục. Chữ
“rũa” là thế. Ta không chỉ thấy mùa thu về trên những vòm là, những dòng sông, những chân trời,
những tầng trời. Mà còn thấy thu đến trong từng hạt diệp lục đang phai màu. Nếu màu xanh thuộc về
mùa hạ, thì màu đỏ là mùa thu. Trên từng chiếc lá, thi sĩ thấy thu về và đương tranh chấp với mùa hạ.
Màu đỏ lấn tới đâu làm màu xanh phôi pha tới đó. Mùa thu lan tới đâu, mùa hạ lùi bước tới đó.
“Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, câu thơ như đã thu nhỏ cả cuộc đổi mùa lớn lao vào một góc
vườn, vào từng chiếc lá đang phai.
Cũng ở trong vườn, trước một hình ảnh ngỡ quá quen thuộc này, vẫn có những cảm nhận thật mới lạ:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Có người đã hiểu sự cách tân của Xuân Diệu ở đây là: thay vì gọi “luồng gió” thi sĩ đã gọi là “luồng
run rẩy” (!) Nếu thi sĩ có làm thế thật, thì cũng chẳng mới được là bao. Nhưng, cái Xuân Diệu định
nói ở đây chính là luồng run rẩy. Vâng, chính là thoáng rùng mình của những thân cành mảnh mai
gầy guộc trước làn hơi giá của mùa thu đang lan trong không trung một cách vô hình. Cảm nghe
được cả những sóng âm mang hơi thu mơ hồ ấy, thì những nhánh cây mùa thu kia thật nhạy cảm biết
nhường nào. Luồng rung động toàn thân ấy gợi ta nhớ đến cái thoáng “Linh lung bóng sáng bỗng
rung mình” hay cái trạng thái “Tất cả tôi run rẩy tựa dây đàn”, “Khắp xương nhánh chuyển một
luồng tê tái”... rất đặc trưng cho thi cảm Xuân Diệu. Như một người quay phim tinh tế, thi sĩ đã ghé
sát ống kính của thơ mình để đặc tả thật cận cảnh, khiến cho những cành nhánh nhỏ nhoi mảnh mai
nhất cũng như đang run rẩy lên tựa dây đàn trên dòng thơ. Và ta có thể thấy rõ không chỉ bằng thị
giác mà bằng cả thính giác và xúc giác nữa cái luồng rung động tinh vi ấy đang truyền theo nhịp rung
qua một chuỗi bốn âm “r” kế tiếp.
Cứ kĩ lưỡng tinh vi như thế, Xuân Diệu thả hồn mình cảm nhận những nét đang tượng hình, đang
hiện hình trong mỗi tạo vật thiên nhiên càng lúc càng lan xa mãi:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò
Đến đây ta mới thật sự bị cái giá lạnh của mùa thu xâm chiếm, cái cảm giác thu đã thành sắc nét trên
da thịt ta. Mùa thu cứ lan ra, xa nhất, rộng nhất, cao nhất với dòng sông, ngọn núi, với mây trời, cánh
chim và cả nàng trăng nữa. Nhưng chỉ đến khi xâm chiếm tâm hồn các thiếu nữ thì mùa thu mới
chiếm ngự được nơi sâu nhất của cõi này:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
Mùa thu - mùa phôi pha đã gieo buồn vào hồn người? Đã đánh thức dậy nỗi cô đơn? Tựa cửa nhìn xa
với khao khát lứa đôi? Hay mùa phôi pha phai lạt đang đánh thức dậy một dự cảm mơ hồ về cái độ
phai tàn tuy còn xa xôi mà đã như diễu qua nhỡn tiền đó? Làm sao ta biết được! Chỉ biết rằng khuất
sâu trong cái dáng “buồn không nói”, “tựa cửa nhìn xa” ngỡ bất động kia lại chất chứa biết bao xôn
xao thấm thía vào bậc nhất của cõi thu này.

XUÂN KHÔNG MÙA


Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. Khi những em gặp gỡ giữa đường qua
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng. Ngừng mắt lại, để trao cười, bỡ ngỡ.
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng; Ấy là máu báo tin lòng sắp nở
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ, Thêm một phen, tuy đã mấy lần tàn.
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ; Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian
Xuân là lúc gió về không định trước. Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ?
Đông đang lạnh bỗng một hôm trở ngược, Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ
Mây bay đi để hở một khung trời Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay...
Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi, Ấy là thư hồi hộp đón trong tay;
Như được nắm một bàn tay son trẻ... Ấy dư âm giọng nói đã lâu ngày
Một sớm tim bỗng dịu dàng đồng vọng...
Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé; Miễn trời sáng, mà lòng ta dợn sóng,
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa; Thế là xuân. Hà tất đủ chim, hoa?
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa,
Lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng. Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng.
Nếu lá úa trên cành bàng không rụng,
Mà hoa thưa ửng máu quá ngày thường;
Nếu vườn nào cây nhãn bỗng ra hương,
Là xuân đó. Tôi đợi chờ chi nữa?

Cẩm thức xuân trong thơ XD


Như một tiền định, khi chào đời, gia đình đã đặt tên cho ông là Xuân Diệu (Ngô Xuân
Diệu). Và như vậy, số phận đời ông đã gắn với mùa tươi đẹp nhất của đất trời: Mùa Xuân. Còn tên
ông: Xuân Diệu, nghĩa là một mùa xuân diệu vợi, mùa xuân của ấm êm trong tình yêu và hạnh
phúc... Nhưng rồi, đời ông chưa bao giờ được hưởng những phút giây huyền diệu ấy của mùa xuân
tình yêu và mãi mãi điều ấy với ông chỉ là những khát vọng không thành... Sự ẩn ức ấy đã dồn nén
trong tâm thức ông và phóng chiếu thành những cảm hứng sáng tạo. Và xét từ điểm nhìn này, Xuân
Diệu đã trở thành một minh chứng cho lý thuyết phân tâm học của Freud trong lĩnh vực sáng tạo văn
nghệ. Điều đó đã góp phần lý giải vì sao cảm thức xuân trong thơ ông luôn gắn với tình yêu lứa đôi,
với tuổi trẻ, với sự nồng cháy.
Ta sẽ thấy rõ điều này trong bài thơ Nguyên đán của ông. Xuân của đất trời nay mới đến;/
Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi; (Nguyên đán)
Quả thật, xuân trong cảm thức của Xuân Diệu là “Nguyên đán” của tình yêu, là sự khai mở của
tâm hồn con người. Nó mời gọi và hiến dâng, nồng nàn và say đắm. Nó tồn sinh như một giá trị vĩnh
hằng. Nó là “xuân không mùa”. Nó vượt cả không gian, thời gian, không chịu sự ràng buộc vào qui
luật vận động của đất trời. Đây là một cảm thức xuân mang tầm vũ trụ của một tâm thức hiện sinh
luôn thao thiết với đời. Nó vĩnh hằng bởi nó luôn gắn với tình yêu, mà tình yêu thì không có tuổi,
tình yêu mãi mãi hiển linh khi còn có con người. Tình yêu không chết trong thế giới con người và
mùa xuân là hiện thân của tình yêu nên nó cũng không bao giờ chết. Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi /
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi. (Nguyên đán)
Tình yêu vốn là điều kỳ diệu mà thượng đế đã ban tặng cho con người. Sự kỳ diệu đó đã làm
nên một thế giới trong đó tình yêu được tôn thờ như một tôn giáo mà đã là người thì không có ai là
kẻ ngoại đạo. Nữ văn sĩ Quỳnh Dao, một cây bút viết tiểu thuyết diễm tình lừng lẫy đã nói đại ý rằng:
Tình yêu - Tôn giáo thứ nhất của loài người; Tình yêu - Từ đó mà có mọi sự; Tình yêu - Không có nó
con người không còn là con người. Phải chăng vì thấu cảm được điều nầy mà trong thơ Xuân Diệu,
tình yêu đã trở thành một cảm hứng chủ đạo luôn đồng hành với mùa xuân trong những xúc cảm dạt
dào mãnh liệt.
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, / Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. / Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng.
(Xuân không mùa)
Và như vậy trong cảm thức của Xuân Diệu về mùa xuân, thì tình yêu và tuổi trẻ bao giờ cũng
song hành với mùa xuân. Nó tồn tại như một thực thể của tâm hồn, tinh tế mà tha thiết, lắng sâu...
Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa, / Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta (Xuân không
mùa)
Và không chỉ song hành mà xuân và tình yêu trong cảm thức của Xuân Diệu còn là sự
gắn kết, ràng rịt giữa con người với đất trời. Đó là một bản giao hưởng, là tiếng vọng đa thanh, đa
cảm của tâm hồn con người trong sự giao hòa với tự nhiên. Nghìn buổi sáng, bình minh xe chỉ thắm /
Đem lòng tôi ràng rịt với xuân tươi. (Đa tình)
Để rồi từ đây, lại mở ra một chiều kích khác trong cảm thức về mùa xuân của hồn thơ Xuân
Diệu. Đó là sự cảm nhận về mùa xuân như biểu tượng cho sự sống của thiên nhiên mà phải có một
tâm hồn tinh tế, biết lắng nghe “từng đường tơ ánh sáng” của đất trời lúc giao mùa thì mới thấu cảm
được những điều vị diệu ấy.
Ta hãy nghe thi sĩ đa tình và đa tài Xuân Diệu thủ thỉ với xuân:
Những tiếng ân tình hoa bảo gió, / Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân. (Với
bàn tay ấy)
Hay những rung cảm tinh tế của buổi đầu xuân mà khi đọc lên lòng ta không khỏi nôn
nao cảm xúc và thấy như xuân đã đến gỏ cửa lòng ta để chuyện trò, tình tự...
Sao buổi đầu xuân êm ai thế! / Cánh hồng kết những nụ cười tươi. (Nụ cười
xuân)
Xuân của đất trời đã hòa quyện với xuân của lòng người. Nó “len lén” đi vào tâm hồn con
người và ngự trị trong đó như một thiên sứ của ánh sáng và tin yêu
Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm / Trên cánh hồng và trong những trái tim?
Nghe điệu lòng hưởng ứng với ca chim, / Tôi tự thấy lạc loài trong nắng mới.
(Mời yêu)
Và như vậy, xuân trong cảm thức của Xuân Diệu không dừng ở những cảm nhận về sự giao
hòa giữa xuân với tình yêu, xuân với tuổi trẻ, xuân với thiên nhiên mà đã kết tinh thành lẽ sống với
một khát vọng mạnh mẽ của một thi nhân luôn biết trân quí từng sát na của sự sống. Với Xuân
Diệu, Tuổi trẻ - Yêu và Sống chính là Mùa xuân và Mùa xuân cũng chính là Sống – Yêu và Tuổi
trẻ. Sự hợp hôn diệu kỳ nầy là hiện thân của một tâm thức hiện sinh mà ở đó không có chỗ cho
những mưu toan nhỏ nhen, tầm thường của những tâm hồn băng giá, vô cảm.
Chỉ có tan hòa trong cõi thiên thai của cảm thức: Mùa xuân - Tuổi trẻ - Sống và yêu, Xuân Diệu
mới viết được những câu thơ đầy khát vọng sống mãnh liệt như thế nầy.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,/ Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,/ Mà
xuân hết nghĩa là tôi cũng mất./ Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ
của nhân gian;(Vội vàng)
Phải chăng, từ những khát vọng sống mãnh liệt nầy mà Xuân Diệu đã khao khát sống, thiết
tha sống, quí yêu sự sống và ý thức về giá trị của sự sống đến vô ngần, chứ không phải là một lối
“sống gấp”, “sống vội” tầm t hường như người ta đã từng gán ghép cho ông một cách oan ức, thô
bạo mà sinh thời ông chẳng bao giờ cải chính. Tội nghiệp cho ông và cũng tội nghiệp cho thứ phê
bình văn học theo kiểu xã hội học dung tục của một thời đã xa!? Và với một cái nhìn nhân bản, có thể
khẳng định: Xuân trong cảm thức của Xuân Diệu chính là một tuyên ngôn sống mang tâm thức hiện
sinh rất đáng trân trọng. Không có một tấm lòng yêu cuộc đời, yêu sự sống, yêu tuổi trẻ và mùa xuân
thì làm sao Xuân Diệu lại viết được những câu thơ bỏng cháy một khát khao sống cao đẹp đến thế.
”Ta muốn ô m / - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! (Vội vàng)
Một mùa xuân mới lại về. Nhưng nhà thơ Xuân Diệu đã không còn trên cõi đời để đón xuân
sang, để được “cắn xuân hồng” mà ông luôn khao khát. Ông đã đi “ra ngoài cõi sống” đến nay được
28 năm (Xuân Diệu mất năm 1985). Hai tám năm từ giã cõi đời cũng là hai mươi tám năm “xuân vẫn
tuần hoàn”. Và dẫu rằng Xuân Diệu đã mất đi nhưng thơ ông vẫn hiện hữu trong lòng người như
những mùa xuân bất tận. Và đó là một giá trị không thể nào thay thế. Cảm thức xuân trong thơ Xuân
Diệu vì thế cũng là một hệ giá trị góp phần làm nên sự bất tử của Xuân Diệu và thơ Xuân Diệu, một
nhà thơ mà ngay từ khi mới hiện diện trên thi đàn đã được Hoài Thanh tôn vinh là nhà thơ “mới nhất
trong các nhà thơ mới” (1). Và cái mới ấy phải chăng được kết tinh từ sự huyền diệu của tình yêu,
tuổi trẻ và mùa xuân trong thơ như ông đã dự cảm:
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng; Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ;Xuân là lúc gió về không định trước. (Xuân
không mùa)
Mùa xuân ơi! Những ngày mới bắt đầu..
THƠ DUYÊN
Cảm quan nghệ thuật Xuân Diệu trong Thơ Duyên
Cảm quan: lối cảm nhận riêng trong đó chứa đựng quan niệm và cách cắt nghĩa riêng về thế giới của
người nghệ sĩ. Đọc Xuân Diệu, ta thấy một thế giới nghệ thuật đầy phong phú và màu sắc, dường
như được quy chiếu về hai hình mẫu tổng quát: Mảnh vườn tình ái và Sa mạc vô liêu.
Hình ảnh tạo vật thiên nhiên hết sức đa dạng và sống động trong th ông chỉ là những hóa thân, những
biến thể khác nhau của hai hình ảnh ấy mà thôi. Thực ra, chúng chỉ là hai phía đối lập biện chứng của
cùng một cảm quan nghệ thuật Xuân Diệu. Bởi vì, hai hình ảnh quát này vừa tương sinh lại vừa
tương khắc - chúng tương phản nhau nhưng lại chuyển hoá sang nhau. Ở phía này, thế giới hiện ra
như một mảnh vườn tình ái, trong đó vạn vật đang rạo rực đắm say, đang giao duyên tình tự với nhau
- Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới; bao trùm lên là một bầu sinh khí ngập tràn ánh sáng và hơi
ẩm.
Ở phía kia, thế giới lại hiện ra trong diện mạo một hoang mạc vô liêu, tất cả cử như một cõi hoang
vắng, sinh khí suy biến tiêu tán - và cảnh đi là sa mạc vô liều ; tạo vật thành lẻ loi, trống trải, lạnh
lẽo, âm u, âu l sầu. Nếu mảnh vườn tình ái là thiên nhiên gợi tình, thì hoang mạc vô liều là thiên
nhiên gợi buồn. Một đằng đánh thức dậy trong con người khát khao luyến ái yêu đương, một đằng lại
đánh thức nổi cơ đơn cố hữu trong từng cá thể. Dù gợi tình hay gợi buồn, thế giới xun quanh đều dẫn
lối cho con người đến một cái đích duy nhất thôi tình yêu! Bởi chỉ đến với tình yêu con người mới
được thoả những khát khao tình ái, cũng chỉ đến với tình yêu mỗi cá thể mới vượt thoát được nỗi cô
đơn. Có thể nói, trong thiên nhiên tạo vật của Xuân Diệu luôn giăng mắc hai sợi tơ như thế và sẵn
sàng xe duyên cho mọi la đối. Tơ duyên nảy sinh giữa những cá thể vốn xa lạ nhau chính là muốn
của một thế giới như vậy. Một ý muốn không ai có thể cưỡng được. Không phải tơ duyên hình thành
từ kiếp trước một cách siêu hình theo quan niệm nhà Phật. Mà chính tạo vật thiên nhiên quan chúng
ta đây đã xe duyên cho con người. Đó là một quan niệm với trần thế của Xuân Diệu.
Hoàn toàn có thể coi, Thơ duyên là sự thu nhỏ của Thế giới Xuân Diệu vào khuôn khổ một thi phẩm.
Thơ duyên: TÌNH VÀ TỨ
Nếu như tứ được hiểu như là sự hoá thân của ý vào toàn thể thi phẩm mà trước hết là vào hình tượng
bao trùm, thì cái ý cắt nghĩa này đã chi phối hoàn toàn cấu tử của Thơ duyên.
Theo tôi, trong một tứ thơ điều quan trọng nhất không hẳn là Ý, không hẳn là hình, cũng không hẳn
là hình chứa đựng ý. Mà là cái quá trình ý hóa thân vào hình, tức là một sự chuyển hoá. Sự chuyển
hoá này khiến cho thi phẩm là cấu trúc động, trong đó, theo mạch tuyến tính của lời thơ, tình ý vừa
hiện hình vừa chuyển hoá vào hình tượng thơ một cách hợp lí và trọn vẹn.
Hãy nhìn vào mạch cấu tứ. Đầu tiên là xuyên qua bố cục của nó Cảm hứng cắt nghĩa dường như đã
chọn cho thi phẩm này một bố cục phù hợp, với hai phần khá rõ rệt. Phần đầu, ba khổ; phần sau, hai
khổ. Mỗi phần đều có một trình tự gần giống nhau: bắt đầu là một bức tranh thiên nhiên, sau đấy là
sự chuyển biến thầm kín bên trong nhân vật trữ tình. Mỗi phần ngầm lý giải về một lý do hình thành
tơ duyên của con người. Hai phần nội dung này nối liền nhau vừa theo bước đi của thời gian, vừa
theo bước chuyển trong tâm tình của nhân vật. Nhân vật trong vai chủ thể ở đây là một nam nhân
trong cái thời khắc thật nhạy cảm: một cậu bé đang thành một chàng trai. Chủ thể vừa đón nhận tinh
tế những âm vọng từ thiên nhiên, vừa lắng nghe những biến thái tinh vi mơ hồ nhất của hồn mình -
chủ yếu là những biến thái tế vi trong cảm xúc luyến ái. Nghĩa là, vừa cảm nhận bằng dòng mỹ cảm
về cái duyên ẩn hiện trong thiên nhiên, vừa cắt nghĩa bằng mạch lý giải về mối duyên càng lúc càng
tượng hình rõ nét trong con người.
Cùng với bố cục, ta có thể thấy hai hệ thống hình tượng (cảnh và người) cứ từng bước chuyển hoá.
Chẳng phải ở trung tâm của bài thơ là một đôi thiếu niên đi từ chiều mộng đến chiều thưa hay sao?
Cảnh chuyển làn từ “mảnh vườn tình ái” thành “hoang mạc vô liều”, và trên con đường ấy, thoạt tiên
con người còn là những kẻ vô tâm, thế rồi thiên nhiên cứ biến họ dần thành kẻ hữu tình. Theo sự
chuyển hoá đó, các nội dung cắt nghĩa (ý) cũng thâm nhập xe quyện vào từng phần của mạch thơ.
Theo bước chân của họ, mà cũng là theo tổng thời gian, cứ từng bước, trong lòng mỗi cá thể kia,
luyến ái n tơ duyên nảy nở, gắn kết họ thành đôi lứa. Nghĩa là thế giới x quanh cứ đồng lòng xe
duyên cho họ. Mạch vận động như thế chẳng phải chính là trình tự cấu tử của Thơ duyên hay sao?
Bén duyên tất sẽ “cưới lòng”.
Hãy đi vào từng phần của thi phẩm.
Bắt đầu bằng một buổi chiều - một buổi chiều rất Xuân Diệu:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim chuyền / Đổ trời xanh ngọc qua
muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền / Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu / Lả lả cành hoang nắng trở
chiều
Thuộc về hai khổ thơ, nhưng sáu câu thơ liền mạch này đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên quyến
rũ. Và nhìn kĩ mà xem, đó chẳng phải là một mảnh vườn tình ái hay sao?
Thế giới Xuân Diệu là thế giới của chữ Tình. Cho nên vườn tình á là gương mặt tập trung nhất, sống
động nhất của thế giới ấy. Trong mảnh vườn kia, vạn vật đang dậy men tình ái, tất cả đều khát khao
ân ái. Tạo vật ở đó tất phải được phân lập thành những cặp đôi. Mà đáng nói hơn là quan hệ giữa
những cặp đôi kia phải là quan hệ luyến ái. Có như thế mới thành thơ yêu. (Xin mở ngoặc đơn: cần
phải nói thật rõ điều này vì rằng phân lập thành những cặp đôi chưa phải là quyết định. Thơ của
nhiều người khác cũng có phân lập kiểu ấy. Nói ngay trong thơ Hồ Chí Minh, những “Núi ấp ôm
mây mây ấp nữa, “Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây”, “Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn”v.v...
chẳng phải cũng là cặp đôi đó sao? Song, nhìn kĩ thì các cặp đôi ở thơ Bác nghiêng về quan hệ bạn
bầu, bằng hữu. Nên đó không thuộc phạm trù thơ trữ tình). Thiên nhiên thật khéo đặt bày! Là vườn
tình ái nên phải đủ cả địa chỉ dành cho loài vật và con người. Điểm nhìn trong thi phẩm cứ dịch
chuyển dần từ địa chỉ này sang địa chỉ khác. Bắt đầu, tất cả phải từ những gì thiên nhiên nhất. Cho
nên bốn câu đầu nghiêng về cảnh trí dành cho cuộc giao duyên của loài vật, mà tâm điểm là cây me
đương lúc thu về. Câu thơ đầu, từng chữ một sáng nghĩa nhưng kết vào thành chuỗi thì như bị tối, bị
nhòe. Tất cả trở nên mơ hồ. Nghĩa câu thơ chỉ tỏ dần khi ta đọc tiếp:
“Cây me ríu rít cặp chim chuyền”
Thì ra đây là duyên cớ. Vì có cặp uyên ương đang tình tự mà câu chữ trở nên đắm đuối. Nhánh cây
nơi đôi chim chọn không còn là nhánh vô tình, vô tri. Nó biến thành điểm hẹn tình yêu, thành địa chỉ
luyến ái. Liên tưởng thơ bèn biến nó thành nhánh duyên - nơi giao duyên và cũng thật duyên dáng.
Lời tình tự ríu rít kia cũng đâu còn là những tiếng kêu vô nghĩa! Nó đã là tiếng lòng của đôi lửa. Nó
là lời tình tự. Nó thành cuộc hoà thơ. Và như thế chẳng đủ cho một chiều thực thành chiều mộng sao?
Chiều thơ mộng hay chiều trong cõi mộng thì cũng thế thôi. Rõ ràng câu thơ được viết bằng một ngữ
pháp rất Xuân Diệu. Đúng như cảm nhận của Hoài Thanh, ngay từ câu thơ đầu này, Xuân Diệu đã
sẵn sàng làm “mất đi một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng” - tức là thủ pháp mơ hồ hoá.
Dầu sao, cây me, mới chỉ là địa chỉ dành cho cuộc hẹn hò tình tự của loài vật. Đối diện với cảnh tình
tứ ở đấy lòng người có xao động nhưng chưa phải là những xao động thật mãnh liệt. Cái nhìn của
nhân vật trữ tình di chuyển từ cây mẹ sang con đường. Đây mới là địa chỉ dành cho hò hẹn của con
người:
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu / Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Tất cả đều đang ở trạng thái say men luyến ái. Các động thái ở đây đều là những biến thái tinh vi của
cảm xúc luyến ái. Con đường với gió thành một cặp. Cành hoang và nắng lại thành một cặp khác.
Con đường đang làm cho mình thon thả, đang làm duyên để sánh cùng với gió. Gió thì xiêu xiêu như
cái dáng của chàng Kim trong buổi tự tình với Thuý Kiều - “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem
trong du yếm có chiều lả lơi”. Cành hoang như là mình vào nắng, trong khi nắng ý tứ né mình gượng
tránh, chưa muốn đón nhận một cử chỉ là lợi, mà thi sĩ diễn tả bằng cái điệu đến là yêu kiều “nắng trở
chiều. Điệu ấy vừa tả sắc năng mang trong nó cái bóng di chuyển của thời gian, vừa thể hiện được cái
tình tứ mà đoan trang của nâng. Tất cả cứ quấn quýt quyến luyến nhau khiến cho con đường hiện ra
đúng là con đường để ngỏ, mời mọc những bước chân đôi lứa. Đối diện với cảnh tượng đầy những
khiêu gợi luyến ái ấy, ai có thể cầm lòng được đây?
Lạc vào vương quốc của yêu đương, chàng thiếu niên nhân ra một biến đổi thật kỳ diệu vừa diễn ra
trong lòng, và ý tưởng cắt nghĩa lóe lên những vỡ lẽ đầu tiên:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn / Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Có một ranh giới thật mơ hồ mà cũng thật rõ rệt giăng qua hai chữ buổi ấy và lần đầu đánh dấu một
đột biến trong tâm hồn. Khi những luyến ái đầu đời thức dậy, nó lập tức biến một cậu bé thành một
chàng trai. Cùng với nó ta thấy một cuộc “đảo chính” trong lối xưng hô. Kiều xưng hộ của cậu bé bị
phế truất, thì kiểu xưng hô đình đạc của một tình nhân cũng bắt đầu tiếm quyền: Ta - Bạn thành Anh
-Em. Giọng cắt nghĩa nổi trội lên:
Em bước điềm nhiên không vướng chân / Anh đi lững đững chẳng theo gần.
Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu / Anh với em như một cặp vần
Đây là một sáng tạo tinh tế mà láu lỉnh của Xuân Diệu. suốt từ dân gian qua trung đại đến hiện đại,
những cặp biểu tượng về đời lúa được tạo ra không kể xiết. Nhưng cặp vận? Có lẽ đây là lần đầu tiền.
Đang ở trong một cuộc hoà thơ, một bài thơ, thì còn gì hợp hơn, thì vị hơn khi ví anh với em như một
cặp vẫn. Nó nói được cái ý không thể tách lìa và cũng không thể tách nhau. Vẫn chỉ là vẫn khi đi
thành can đồi thôi. Vậy là trời đất đã hoàn thành việc xe duyên, tơ duyên đã buộc hai kẻ vô tâm vào
một cặp vần.
Ấy mới là lý do thứ nhất.
Chưa hết, sự cắt nghĩa của Xuân Diệu còn triệt để hơn. Phần sau còn là một lí do nữa, hợp thành sự
hoàn hảo mà đất trời muốn xe kết cho lứa đôi. Cũng thiên nhiên, nhưng ở đây cảnh lại hoàn toàn
tương phản. Trên kia thiên nhiên là Mảnh vườn tình ái, thì đây là hoang mạc vô liều. Trong thiên -
nhiên- gợi- tình, đầy một niềm rạo rực đắm say. Ở thiên - nhiên - gợi - buồn, lại đầy một nỗi đìu hiu
quạnh vắng. Gợi tình thì đôi chim ríu rít, gợi buồn lại chỉ có một con cò. Thiên nhiên của những cặp
đôi đã nhường chỗ cho thiên nhiên của ly tán chia rời:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp / Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh / Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Vì bài thơ được viết theo dòng thời gian tự nhiên từ chiều mộng đến chiều thưa tương ứng với các
cảnh như thế mà chúng ta dễ quên đi sự phân lập có chủ ý giữa hai cảnh sắc là mảnh vườn tình ái và
hoang mạc vô liêu. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy rất rõ sự thay thế của hai thiên nhiên ấy. Tất cả giờ đây đều
trống trải, lạnh lẽo, lẻ loi... buồn. Khổ thơ đầy phấp phỏng! Nó gợi ta nhớ đến câu thơ: Tôi là con nai
bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối (Khi chiều buông lưới). Cả con nai ấy, cả
con cò này đều chỉ là hai biến thể khác nhau của cùng một Cái Tôi cô đơn Xuân Diệu mà thôi. Trong
trái người ta cần nương tựa ; lạnh lẽo, người ta cần hơi ấm ; lẻ loi người ta cần có đôi. Tất cả chỉ là
những biểu hiện của trạng thái cô đơn cổ hữu. Làm sao có thể vượt thoát được nỗi cô đơn bất hạnh
này? Tất cả những nhu cầu ấy chỉ được đáp ứng một khi con người đi đến tình yêu. Chẳng phải đây
là lý do thứ hai ư? Tơ duyên cần phải hình thành bởi đó là phương cách duy nhất để con người vượt
thoát nỗi cô đơn. Đến đây, Xuân Diệu đã có thể kết luận chung cho toàn bộ sự cắt nghĩa của mình, để
khép lại toàn bài:
Ai hay tuy lặng bước thu êm / Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm / Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
/ Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Khi nhu cầu cắt nghĩa nổi trội thì lối diễn đạt luận lý logic cũng giành lấy chủ quyền. Bốn câu thơ kia
hoàn toàn có thể khôi phục lại thành một câu văn xuôi nhiều mệnh đề, thể hiện một kết luận như đinh
đóng cột: Ai có ngờ đâu chiều thu diễn ra bình lặng thế, ngô không có một biến cố gì lớn lao khuấy
động, tuy chẳng có người thứ ba là mai mối, chỉ cần trông thấy chiều hôm như thế, thì lòng anh đô
gắn kết với lòng em rồi. Chữ thôi đã nói cái thế không thể cưỡng lại, không thể còn đảo ngược, một
sự đã rồi. Còn chữ cưới lòng nói được một cuộc đính ước ngầm, một cuộc hôn nhân bí mật của hai
tâm hồn. Nó diễn tả được cái trạng thái tế nhị Tình trong như đã mặt ngoài còn e của những cặp uyên
ương mà Nguyễn Du từng nói hai trăm năm trước đó thôi. Vậy đấy, tất cả cứ diễn ra“như không” mà
kỳ thực chứa đựng bao biến đổi ngấm ngầm mà kì diệu!
Một sự cắt nghĩa rất Xuân Diệu! Vừa tinh tế vừa tinh quái.
NGUYỆT CẦM

Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh, Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời;
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần! Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm! Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân. Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh. Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê;
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình, Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
Vì nghe nương tử trong câu hát Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Đã chết đêm rằm theo nước xanh. Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

*Tầm Dương: Tên một con sông ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, được Bạch Cư Dị đời Đường nói
đến trong bài thơ Tỳ bà hành nổi tiếng, viết về tâm trạng cô đơn của một người kỹ nữ rất giỏi đàn.
*Sao Khuê: Tên vì sao thường được coi là biểu tượng cho tài năng văn học.
Xuân Diệu chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái thơ tương trưng Pháp, trước hết là Baudelaire. Bài
này là trường hợp thể hiện tuyệt vời quan niệm về sự tương giao giữa các giác quan của Baudelaire
(Correspondances): tiếng nhạc, ánh sáng và hơi lạnh - thính giác, thị giác và xúc giác, ba giác quan
đều bén nhọn “tương giao” với nhau, diễn tả những rung cảm, đúng ra, những run rẩy của “Chiếc đảo
hồn tôi rợn bốn bề”.
* Phân tích
1. Hoàn cảnh ra đời
Xuân Diệu (1916-1985) là một nhà thơ lớn trong phong trào Thơ mới tại Việt Nam, với những sáng
tác trữ tình lãng mạn trong hai tập Thơ thơ, xuất bản năm 1938, và Gửi hương cho gió, xuất bản năm
1945. Cũng như Baudelaire đã đặt bài thơ “Giao ứng” trong phần đầu của tập Những bông hoa của
tội lỗi (1857), bài Nguyệt cầm là bài thơ mà Xuân Diệu đặt vào vị trí đầu tiên trong số 50 bài của tập
Gửi hương cho gió, cho thấy tầm quan trọng mà tác giả đã dành cho sáng tác này.
2. Cảm quan chung
Một hồn thơ như Xuân Diệu không thể không viết về nhạc. Cảm hứng lớn về nhạc của Xuân Diệu là
đi mãi vào cái thế giới bên trong nhạc. Thi sĩ đã cho nó một tên riêng là “thế giới của Du Dương”.
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường / Dẫn vào thế giới của Du Dương
Thực ra, đó chính là thế giới mà một thi sĩ khác - Hàn Mặc Tử - đã chính thức định danh là Thế giới
Huyền diệu. Đắm mình trong nhạc là rời bỏ thế giới thực tại để đi vào thế giới huyền diệu. Thế giới
ấy ở đây chỉ biểu hiện trong nhạc và bằng nhạc. Dường như mỗi nhạc khí là một cánh cửa, một con
đường vô hình mở vào thế giới nhạc. Nói đúng hơn, mỗi nhạc cụ kia giấu trong nó một thế giới đầy
bí mật, chỉ cần tấu lên là thế giới ấy sẽ mở ra. Không phải thế giới hoang đường cổ tích; không phải
cõi thực, không phải cõi mộng; không phải cõi âm, không phải cõi dương... ấy là thế giới trong tâm
linh được âm nhạc đánh thức. Với bài Huyền diệu , hồn thơ Xuân Diệu mới chỉ khởi hành, đẩy cánh
cửa vào thám hiểm thế giới ấy. Còn ngay sau đó, thi sĩ đã có cuộc lãng du chính thức vào thế giới du
dương của Nhị hồ . Và giờ đây là phiêu diêu vào thế giới riêng của Nguyệt cầm[2]. Tìm kiếm ý nghĩa
đích thực của thi phẩm này, xin đừng lạc vào những giá trị quen thuộc như lòng yêu thiên nhiên, yêu
quê hương đất nước, hay tình yêu đôi lứa, v.v... Mà tất thảy đều đã hoà tan vào một niềm thơ duy
nhất, thành mối tương giao kỳ diệu giữa hồn người, hồn nhạc và hồn tạo vật. Có thể xem thi phẩm là
sự thăng hoa của hồn thơ vào thế giới huyền diệu của Nguyệt cầm.
3. Nhan đề Tựa của bài thơ gồm hai chữ “Nguyệt” là trăng và “cầm” là đàn, có thể được hiểu là một
sự kết hợp giữa trăng và đàn, và cũng có thể hiểu là cây đàn nguyệt, một cây đàn có hộp đàn hình
dáng tròn như mặt trăng. Đàn nguyệt, còn được gọi là đàn kìm, là một nhạc cụ xuất xứ từ Trung Hoa,
nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây, dây vũ và dây văn . Bthơ sẽ là một hoà tấu khúc kết hợp
giữa trăng và đàn.
4. Phân tích chi tiết
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Nhất là câu nhập đề. Những nét độc đáo của thi pháp này (mà về sau sẽ phát huy trong toàn bộ thi
phẩm) dường như đã hiện ra ngay ở câu đầu. Câu khởi đầu là những suy cảm về sự ra đời huyền hoặc
của cây đàn nguyệt và cách cất tiếng của nó. Có thể ví câu đầu như cái tế bào đầu tiên mang trong nó
“hệ gen” của hình thức toàn thi phẩm. Nói một cách khác, thi pháp gọi bằng giao thoa - cộng hưởng
ngay ở đây đã ra tay rồi
Câu thơ dựng lên một ngữ cảnh huyền hoặc, bí ẩn không dễ tường minh. Ta hãy bắt đầu bằng chữ
“nhập”. Vì mọi chuyện cũng khởi sự từ chữ này. Thế giới nhạc của Nguyệt cầm bắt đầu từ sự sống
động của nhạc khí. Nhưng cây đàn ấy bắt đầu sống cái sinh mệnh đàn từ bao giờ? Từ lúc trăng nhập
vào dây cung vậy! Đây là động thái huyền nhiệm, diễn tả sự nhập hồn, nhập thần... Nó xui ta nhớ đến
nghi lễ hô thần nhập tượng khi hoàn thành những pho tượng Phật giáo. Nguyên là: tượng được tạc
xong, chưa linh, bởi mới chỉ có phần thân xác tượng; phải sau khi được thần linh nhập vào, tượng
mới là hiện thân của đức Phật. Cũng như thế, trong hình dung theo lối thi ca của Xuân Diệu, đàn vừa
được làm ra, mới chỉ có thân xác. Phải khi trăng nhập vào dây cung, mới có hồn đàn. Từ cái khoảnh
khắc mầu nhiệm ấy, đàn mới bắt đầu sống cái thân phận nguyệt cầm. Tự bấy giờ, mỗi nốt nguyệt cầm
tấu lên sẽ là cộng hưởng của âm thanh và ánh sáng. Mỗi nốt nhạc sẽ sinh thành từ sự giao duyên kỳ
bí đó của Nguyệt và Cầm.

Sau chữ “nhập” như thế, Trăng và Đàn đã đồng thể. Nhưng cái điểm giao tình của chúng là đâu? ở
nơi chữ “cung” vậy. Sự giao thoa ngôn từ cũng chính thức bắt đầu từ chữ đó. “Cung” vừa thuộc về
đàn vừa thuộc về trăng. ở đây, vị trí của nó là bắc cầu, ngữ nghĩa của nó là giao thoa. Nếu ngắt theo
nhịp 2-2-3, thì đó là “cung nguyệt lạnh” (nghiêng về “cung trăng”), mà ngắt theo nhịp 2-3-2 thì sẽ là
“dây cung” (nghiêng về “cung đàn”). Thi vị độc đáo của nó chính là sự giao động bất tuyệt giữa hai
bề ngữ nghĩa ấy. Phải chăng cung nguyệt cầm chính là sự cộng hưởng của cả cung trăng lẫn cung
đàn? Hai hình ảnh nhập vào một hình thể? nhập thành một duyên phận?

Hoà điệu với nhịp thơ, còn phải kể đến một yếu tố khác là âm thanh. Câu thơ là một chuỗi âm thanh
gây thành một ấn tượng rõ rệt. Không phải ngẫu nhiên, cả câu có 3 thanh trắc, thì cả ba đều là thanh
nặng: nhập, nguyệt, lạnh. Nhất là hai dấu “nặng” liền nhau trĩu xuống ở cuối câu, cảm giác lạnh từ
thanh âm của các nốt “nặng” ấy toát ra đã làm lạnh suốt cả chuỗi âm thanh của câu thơ, mở đầu cho
cả gam lạnh rồi đây sẽ trùm lên khắp cả Nguyệt cầm[3].

Như vậy, bằng chữ “nhập” và câu thơ nhập đề kỳ lạ, Xuân Diệu đã ngầm lý giải (hay khám phá ra)
cái tính linh kỳ bí của Nguyệt cầm. Câu thơ đã chính thức dẫn dụ người đọc vào cái thế giới huyền
diệu của nguyệt cầm.
Mở đầu bài thơ là một động tác: trăng nhập vào dây đàn, hay là hồn trăng nhập vào đàn, khiến cho
cây đàn, vốn là một vật vô tri, biến thể thành một vật thể có hồn. Trăng là một vật thể đẹp được cảm
nhận bằng mắt (ngắm trăng), tiếng đàn là một âm thanh được thưởng thức bằng tai (nghe đàn). Cung
nguyệt vừa là cung đàn, vừa là cung trăng. Từ đây, trăng và đàn đã nhất thể hoá, hoà lẫn thành một
thực thể duy nhất.
“Lạnh” là một cảm giác cảm nhận bằng xúc giác. Lạnh từ cung trăng xâm nhập vào đàn. Ngay từ câu
đầu, tác giả cho biết là bài thơ sẽ là một sự giao thoa, cộng hưởng giữa thị giác, thính giác và xúc
giác.
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần. / Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Hai câu tiếp theo có cấu trúc giống nhau để nói về hai vật thể chính đã được nhập làm một là trăng và
đàn. Nhưng trong cấu trúc “trăng thương, trăng nhớ”, trăng có thể đứng ở vị trí chủ thể (trăng chủ
động có thái độ thương và nhớ một người nào), nhưng cũng có thể đứng ở vị trí khách thể (một người
nào, hay là nhà thơ, thương và nhớ trăng); ngược lại, trong phần sau “hỡi trăng ngần” thì trăng chỉ
có thể ở vị trí chủ thể.
Còn trong câu sau nói về đàn: “đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!” thì đàn chắc chắn đứng ở vị trí
chủ thể. Như vậy, một cách hợp lý, chúng ta có thể kết luận rằng trong cả câu trước, trăng cũng là
chủ thể. Nhận xét này cũng phù hợp với những gì sẽ xảy ra sau đây: trăng nhớ Tầm Dương, cũng
như trăng xúc động khi nghe nương tử đã chết trong đêm rằm.
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
“Giọt” là một đơn vị nhỏ của một vật thể lỏng, như giọt nước, giọt lệ… Nhưng dưới bút pháp của
nhà thơ “giọt” cũng có thể là một giọt ánh sáng, hay một giọt âm thanh, hay là một thứ trộn lẫn âm
thanh và ánh sáng. Giọt âm thanh rơi tàn khi tiếng đàn chìm xuống và tan đi, gây một cảm giác buồn
như giọt lệ rơi.
=> NGUYỆT CẦM THỰC SỰ LÀ MỘT GIỌT ĐÀN (hết khổ 1) Khi dây Văn dây Vũ hoà với
nhau, khi Đàn và Trăng hoà tấu trong cùng một tiếng nói của Nguyệt cầm, thì mỗi âm giai hiện hình
thành một giọt. Âm thanh vô thể, ánh trăng là ảo thể. Khi chúng hoà vào nhau, lại sinh ra hình thể là
giọt. ở đây, Giọt là sự kết tinh, sự tượng hình của âm thanh và ánh sáng. Nói cách khác, giọt này ra
đời bởi sự giao tình giữa ánh sáng và âm thanh. Để có hình thể giọt, Xuân Diệu đã tái tạo bằng cách
biến cái vô hình thành hữu hình. Điều này chưa lạ. Bởi chỉ đơn giản là chuyển thính giác qua thị giác.
Giọt vốn là hình thể lỏng, nhưng khi có thể “rơi tàn”, thì nó đã hoá thành giọt ánh sáng. Người ta có
thể hình dung như giọt âm thanh cất mình rời khỏi dây đàn bay liệng trong khoảng không, long lanh
sáng, rồi rơi dần, tàn dần trong không gian. Vậy nên giọt đàn cũng là giọt trăng. Tuy nhiên, thi ảnh
thật sự thăng hoa là ở vế sau bằng một so sánh lạ: như lệ ngân. Thì ra, hình thể giọt là sự đồng hiện
của giọt đàn - giọt trăng - giọt lệ. Nghĩa là một hình thể mà chứa nhiều hình ảnh. Đây chính là một vẻ
đẹp rất quan trọng của thơ tượng trưng. Nhưng, sao lại giọt lệ? Mỗi thanh âm tấu lên là một giọt lệ
đàn ư? Không hẳn. Trong mối liên hệ kín đáo của thi tứ, giọt lệ này đã ứa ra từ mối hận muôn đời của
những kiếp cầm ca tài hoa bạc mệnh, của những nàng Nương tử đã chết đêm rằm theo nước xanh,
của mối hận sầu từ những kiếp Tỳ Bà một thuở Tầm Dương. Lời đàn còn là sự lên tiếng của những
mối hận truyền đời ấy. Mặt khác, mối hận cũng đã ký thác vào hồn đàn, vào dây cung nguyệt lạnh
làm nên cái sinh mệnh, cái tính linh bí ẩn của nguyệt cầm. Vậy là tiếng nói của cây nguyệt cầm được
hợp thành bởi cả trăng - đàn - mối hận thầm. Trách chi, tất cả cứ linh lung ma quái.

Đồng thời, trong bài thơ, ở mỗi khổ ta đều thấy hình ảnh nhạc tuôn trào chan chứa không gian để
cuối cùng thành một bể âm thanh, thành biển pha lê:
Bốn bề ánh nhạc biển pha lê/ Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Thì ra cái đại dương sóng sánh ở cuối bài thơ đã được làm đầy từ muôn vàn giọt kia kế tiếp tuôn rơi
suốt từ đầu nguồn thi phẩm đó.
Còn giọt lệ, bình thường người ta chỉ có thể thấy bằng mắt, hay cảm thấy bằng xúc giác khi giọt lệ
rơi trên tay chẳng hạn, nhưng ở đây còn thêm cả thính giác, vì lệ ngân.
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Tác giả đưa tầm mắt lên xa bao trùm cả một không gian trong vắt chìm trong bóng đêm vô tận. Đêm
trong như thủy tinh, như bầu trời trong. Tính “thủy tinh” cũng áp dụng được cho nước, cho ánh sáng
và cho âm thanh. Linh lung bóng sáng bỗng rung mình / Vì nghe nương tử trong câu hát / Đã chết
đêm rằm theo nước xanh.
Tập Gửi hương cho gió ấn bản đầu tiên năm 1945 ghi rõ là linh lung. Nhiều bản chép lại sau này vì
sơ ý hay cố ý đã sửa lại thành “lung linh”. Theo TS Chu Văn Sơn: “Lung linh chỉ là sự lay động,
nhún nhảy, rung rinh của những làn ánh sáng. Một cảm giác thuần tuý thị giác. Trong khi đó, những
gì mà hồn thơ quá ư bén nhạy này cảm nhận được trong cùng một khoảnh khắc lại là một phức hợp
nhiều cảm giác tinh vi. Xuân Diệu muốn chữ mình dùng phải làm sống dậy cùng lúc cả cái luồng run
rẩy lẫn cái luồng gai gợn bí ẩn tựa như một thoáng rùng mình ớn lạnh. Nghĩa là phải gồm chứa các
cảm giác thuộc cả thị giác lẫn xúc giác. Linh lung, vì thế, cứ ánh rợn lên, khơi vơi, tê giá, huyền
hoặc ma quái.”
“Bóng sáng” là ánh trăng, mà ánh trăng cũng là tiếng nhạc, tiếng đàn, vì trong vũ trụ kỳ diệu này âm
thanh đã hoà nhập với ánh sáng. Và bóng sáng linh lung đó đã xúc động và “rùng mình” khi nghe
nương tử trong câu hát đã chết đêm rằm theo nước xanh. Nương tử ở đây chắc hẳn là Vương Chiêu
Quân, người đàn bà tuyệt sắc có ngón đàn bi ai đến nỗi một ngày khi nàng vì nhớ quê nhà ôm đàn
khảy bản “Xuất tái khúc”, một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán bi thương trong khúc nhạc
liền đứt đoạn ruột gan và sa xuống đất.
Vì sắc đẹp của Chiêu Quân khiến vua Hung Nô say đắm nên Hán Nguyên Đế đưa nàng sang cống
nạp Hung Nô để cầu hoà. Khi qua cửa ải Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn
để chết đêm rằm theo nước xanh với mong ước rằng xác nàng được trôi trở về quê cũ.
Đến đây chúng ta nhận thấy rằng vũ trụ đang tràn ngập tiếng nhạc và ánh trăng không phải là một vũ
trụ thờ ơ, vô tình, mà có một giao cảm sâu sắc với những người trên trần gian có duyên nợ với tiếng
đàn nhưng gặp phải một định mệnh khắt khe. Những người đàn bà đẹp có tài đàn giỏi thường gặp
nhiều giang truân như Chiêu Quân, như Thúy Kiều, cũng như người kỷ nữ trên bến Tầm Dương.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời, / Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Kể từ đoạn thơ thứ hai, tác giả bắt đầu mỗi đoạn bốn câu bằng một câu tả toàn cảnh bầu trời dưới sự
cảm nhận của tác giả. Sau câu “Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh” của đoạn 2, thì đoạn 3 khởi đầu
bằng: “Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời”. Sau ánh sáng và âm thanh thì cái lạnh, thuộc về lãnh
vực xúc giác, là yếu tố thứ ba của không gian dưới sự cảm nhận của nhà thơ. Nếu bình thường trời
trong (trong đoạn 2) làm cho trăng thêm sáng tỏ, thì cái lạnh cũng khiến trăng thêm tỏ, một cái lạnh
vô hạn, vô biên. Và lạnh đã xâm nhập tiếng đàn, cũng như ánh trăng đã nhập vào đàn, gây nên một
cảm giác ghê rợn.
Trong câu: Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi… tiếng “lạnh” được tách ra, giữa hai dấu phết, nhấn
mạnh vào tính tột cùng đến ghê rợn của cái lạnh giữa vũ trụ xâm nhập luôn vào tiếng đàn. Tiếp theo
đó, tiếng than “trời ơi” thốt lên như một tiếng kêu hoảng hốt bộc lộ sự kinh hãi xâm chiếm nhà thơ.
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:/ Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Tiếng nhạc nay mang một sắc điệu trầm đục như tiếng sỏi và được mô tả là “long lanh”, tức là có ánh
sáng phản chiếu; một lần nữa, yếu tố thị giác được ghép vào một yếu tố thính giác. Tiếng nhạc đang
vang lên trong vũ trụ mang sắc điệu đó vì nhạc đang nhớ đến số kiếp bẽ bàng và chia sẻ mối hận lòng
của người kỷ nữ ở bến Tầm Dương.
Một đêm nọ, thi hào Bạch Cư Dị trên một chiếc thuyền đậu ở bến Tầm Dương nghe tiếng đàn tỳ bà
réo rắt. Ông tìm đến gặp người kỷ nữ chơi đàn, nghe nàng đàn và nghe lời tâm sự của nàng. Nhà thơ
không ngăn được giọt lệ xót thương cho số phận long đong của người kỷ nữ và viết lên bài “Tỳ bà
hành”.
Vì trăng là nhạc nên “trăng nhớ Tầm Dương” cũng là nhạc nhớ người kỷ nữ. Thêm một lần nữa,
chúng ta chứng kiến sự kiện cảm thông giao hoà giữa vũ trụ mênh mông và số kiếp nhỏ bé của những
giai nhân có duyên với nghệ thuật nhưng gặp nhiều gian truân.
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê./ Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Cũng như hai đoạn thơ trước, đoạn thứ tư – cũng là đoạn chót của bài thơ Nguyệt Cầm – mở đầu
bằng một bức tranh toàn cảnh vũ trụ chìm trong tiếng nhạc và một lần nữa, tiếng nhạc, hay “ánh
nhạc” cũng được cảm nhận vừa bằng thính giác, vừa bằng thị giác. Cảnh tượng trước mắt nhà thơ là
cả một không gian mênh mông trong vắt, và pha lê cũng là thủy tinh, một tinh thể trong suốt đã nói
đến ở một đoạn trên.
Trước cảnh tượng bao la mênh mông đó, nhà thơ cảm thấy lẻ loi, cô đơn như một ốc đảo giữa đại
dương. Chữ “bốn bề” trong câu thơ trên được lập lại trong câu dưới, nhưng chúng ta rõ ràng có cảm
tưởng là có hai kích thước khác nhau. Ở trên là bốn bề của một vũ trụ bao la vô tận, còn bên dưới là
không gian nhỏ bé hơn, khiêm nhường hơn, của một con người nhỏ nhoi, nhưng cũng đủ mênh mông
để cho nhà thơ cảm thấy niềm bơ vơ lạc lõng của mình.
Cảm giác xâm chiếm nhà thơ là một sự choáng ngợp trước một khoảng vô tận kỳ diệu, cùng với niềm
kinh hãi của một kẻ biết được những bí mật của thần linh. Đó là những ý tưởng trong câu thơ “Chiếc
đảo hồn tôi rợn bốn bề”.
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở / Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Tác giả tiếp tục hé lộ cho ta biết những cảm nhận của nhà thơ đứng trước một vũ trụ huyền bí mà mọi
vật đều lặng yên để lắng nghe một bản nhạc vĩ đại. Sao Khuê theo truyền thống Đông phương là một
ngôi sao biểu tượng cho văn học nghệ thuật. Sự kiện điệu nhạc sầu vang vọng hướng về sao Khuê là
thêm một bằng chứng về mối giao cảm giữa vũ trụ với thân phận những giai nhân tài sắc có duyên nợ
với nghệ thuật nhưng phải chịu một số phận gian nan.
Trong khi phần lớn các sáng tác trong phong trào Thơ mới phỏng theo các đề tài và phong cách sáng
tác của trào lưu lãng mạn Pháp, Xuân Diệu cho thấy là ông còn đi xa hơn. Bài thơ Nguyệt Cầm chịu
ảnh hưởng của thuyết giao ứng của Baudelaire và được sáng tác theo quan niệm của trường phái biểu
tượng về một vũ trụ huyền bí chỉ có thể được cảm nhận nhờ sự giao thoa của nhiều giác quan. Mặt
khác, thi sĩ là người có khả năng nắm bắt được các bí mật của thiên nhiên và có sứ mạng tiết lộ, như
một nhà tiên tri, cho người trần gian biết.
Đó cũng là sứ mạng của nhà thơ theo chủ trương của trường phái biểu tượng.
Xuân Diệu đã cho ta thấy một vũ trụ kỳ diệu có sự cộng hưởng của nhạc, ánh sáng và một cái lạnh
ghê hồn; nhưng khoảng không gian lạnh lẽo hoang vắng đó không phải là một vũ trụ vô cảm, vô tình,
mà có một tính nhân văn sâu đậm không ai có thể ngờ được.
NGUYỄN BÍNH

MƯA XUÂN
Không biết Nguyễn Bính đã chọn Mưa xuân hay Mưa xuân đã chọn Nguyễn Bính mà cho tận sau
này, ông vẫn bị làn mưa mơ hồ đến huyền hoặc ấy hút hồn. Nó vẫn chấm xuống hồn thơ nhạy cảm
của ông những chấm lạnh để mỗi thoáng rung mình của điệu hồn kia đều ngân lên những ánh thơ
mưa: “Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa / Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa... Làng bên ẩm ướt giọng chuông
mờ / Chiều xuân lưu luyến không đành hết / Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.”
Sự ở Mưa xuân là cái lần bị lỗi hẹn ngay trong cuộc hò hẹn đầu đời của một cô gái chân quê. Nó là
một sự phụ phàng. Một lỡ làng. Một tổn thương. Người trong cuộc cũng như ngoài cuộc có thể kể
khá rành: Chuyện xảy ra ở một làng Đặng nào đó nơi xứ Bắc. Cô gái Thôn Đông lần đầu hẹn hò tìm
nhau với chàng trai thôn Đoài trong đêm hát chèo của làng. Cô đã xốn xang đợi chờ, đã bươn bả đến
nơi hẹn, đã bồn chồn hồi hộp ngóng tìm... Nhưng cuối cùng, chàng trai kia đã quên mất lời hẹn. Đến
tận lúc hội chèo rã đám, vẫn không thấy bóng đâu. Cô gái một mình trở về dưới mưa đêm trong nỗi
sầu tủi cực lòng... Có thể nói, đó là cái cốt truyện. Nó làm nên cấu trúc tự sự cho thi phẩm. Cái khéo
của Nguyễn Bính là đã nhập vai vào cô gái để câu chuyện kia thành một thứ tự truyện. Và cũng vì thế
mà lời tự kể, tự sự kia có cơ hội để thấm đẫm màu sắc tự tình, tư vãn một cách tự nhiên. Vừa tái hiện
sự, vừa phổ vào mỗi một tình tiết của sự một sắc điệu tâm tình, nên mạch thơ triển khai vừa là vận
động của sự vừa là biến động của tình.
Bài thơ có sự phân định rành mạch và cũng tự nhiên của hai không gian: khung cửi và cuộc đời. Kẻ
chia rẽ hai không gian này chính là... mưa xuân. Đây là quãng đời khi mưa xuân chưa đến: “Em là
con gái trong khung cửi/Dệt lụa quanh năm với mẹ già/Lòng trẻ còn như cây lụa trắng/Mẹ già chưa
bán chợ làng xa”. Không phải chốn khuê phòng gìn giữ các tiểu thư bằng lễ giáo. Khung cửi kia là cả
một thế giới riêng. Mấy chữ “trong khung cửi” đâu chỉ vẽ ra một không gian, mấy chữ “dệt lụa quanh
năm” cũng đâu chỉ xác định vòng thời gian hợp nên cái thế giới lao động. Mà còn là thế giới bình
yên. Và đáng nói hơn, đó là thế giới con gái. Cùng với chữ “con gái” tự nhiên mà kiêu hãnh, là chữ
“trong” đầy ý nhị, như giấu trong đó cả một lời phô kín đáo về cái chất “con gái” nhà lành thuần
khiết của mình. Người mẹ thôn dân đã gìn giữ con gái yêu bằng lao động chân quê và tình mẫu tử
thuần phác. Từ trong khung cửi ấy em thầm lớn lên. Bằng chính cách liên tưởng của người canh cửi,
những lời quê, lời thiếu nữ tự thuật ở đây giản phác thôi mà không thiếu tự hào: Lòng trẻ còn như cây
lụa trắng, Mẹ già chưa bán chợ làng xa. Trong thế giới con gái đó, em vẹn nguyên một lòng trẻ trinh
bạch tinh khôi, một hồn thơm phong nhuỵ.
Thế rồi, mưa xuân đến.
Mưa xuân không chỉ giăng tơ cho trời đất. Mưa xuân còn giăng tơ vào cả hồn người.
Mưa xuân đã gieo vào lòng em những luyến ái đầu tiên hay hạt mầm vốn phong kín trong lớp vỏ êm
đềm thời thơ trẻ, gặp mưa xuân bỗng xốn xang tách vỏ? Và điều kì diệu đã diễn ra: những hạt mưa
xuân đầu tiên đã thầm biến cô bé thành cô gái. Từ trong khung cửi em đã bước ra ngoài trời xuân của
cuộc đời theo tiếng gọi của mưa xuân. Tất cả bắt đầu từ Bữa ấy. Nó là cái mốc của một đời người.
Cái mốc chỉ một mình em biết. Hứa hẹn và trớ trêu. Vừa mới từ giã khung cửi bình yên của tuổi nhỏ,
chớm bước ra giữa đời, em đã gặp ngay sợi dây oan trái của tình duyên. Dường như bên ngoài khung
cửi kia là bể khổ mà em nào hay biết. Chưa kịp nếm Ngọt ngào, đã liền ngấm Đắng cay. Hạnh phúc
vừa nhen lên, Khổ đau đã giáng xuống. Tình chửa Sánh đôi đã vội Lỡ làng... Tất cả đều trong một
Bữa ấy. Điều này quyết định đến kiểu cấu tứ đối xứng gập đôi của thi phẩm.
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Chỉ với hai câu mà đã thâu gồm được cả đất trời xuân nơi thôn dã. Ấy là buổi trời đất dậy thì xuân.
Cả trời mưa bụi và lớp lớp hoa xoan đều phơi phới dậy thì. Dự cảm luyến ái làm nức xuân tâm bao
nhiêu thì dường như cũng hồi hộp phấp phỏng bấy nhiêu. Có lẽ chỉ một mình em biết rằng đất trời
kia đang mang trong nó niềm xốn xang thiếu nữ!
Nguyễn Bính đã xe quyện cả tơ trời với tơ lòng trong cùng một tiếng “giăng tơ” rất tự nhiên của
người dệt lụa. Bằng cách ấy, mưa xuân cũng giăng mắc vào khung-cửi- lòng những sợi tơ đầu tiên
cho một tấm tình: “Lòng thấy giăng tơ một mối tình/Em ngừng thoi lại giữa tay xinh/Hình như hai
má em bừng đỏ/Có lẽ là em nghĩ đến anh.” “Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/ Mẹ bảo: "Thôn Đoài
hát tối nay"... Nếu hình ảnh hoa xoan làm cho câu thơ mang nét thi vị, thì sự xuất hiện của "hội chèo
làng Đặng” lại làm cho bài thơ mang đậm chất quê, không lẫn vào đâu được. Trên thực tế, hội chèo
mỗi năm chỉ diễn ra một lần duy nhất vào mùa xuân ở các làng, nhất là các vùng quê chèo như Thái
Bình, Nam Định. Trong cái đêm hội chèo định mệnh ấy, "em" đã gặp anh. Và cuộc gặp gỡ ấy chỉ
được diễn tả thoáng qua, thoáng qua đến mức làm cho người đọc dễ dàng bỏ qua sự kiện “Lòng thấy
giăng tơ một mối tình”.
Trục đối xứng ở đây dường như đặt trong cái tiếng than trách hờn tủi: Để cả mùa xuân cũng nhỡ
nhàng! - cái tiếng than tức tưởi cất lên như rạch đôi, gập đôi cả bài thơ. Cùng một cảnh trí ấy, cùng
những sự vật ấy, diện mạo trước sau đã hoàn toàn tương phản. Trước: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới
bay - Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy” sao mà xốn xang; sau: “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay - Hoa
xoan đã nát dưới chân giày” sao mà ê chề (Ngại bay không phải là tạnh mưa mà đã chuyển thành
“mưa nặng hạt”, thế là mưa bay đã hoá mưa rơi, trên chặng đường về canh khuya ấy, mưa xuân
dường như đã hoá thành mưa ngâu rồi - mưa hò hẹn sum vầy đã thành mưa lỗi hẹn cách chia). Trước:
“Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ”, mẹ như vô tình mách bảo một cơ hội; sau: “Hội chèo làng Đặng
về ngang ngõ”, mẹ có vô tình không mà như than tiếc một cơ duyên - “Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn
ngày”. Trước: vội vàng đi; sau: lầm lụi về. Trước: “Mưa bụi nên em không ướt áo”; sau: “áo mỏng
che đầu mưa nặng hạt”. Trước: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”; sau: “Có ngắn gì đâu một dải đê”
v.v... Kẻ nỡ biến cả thế giới mưa xuân từ dương bản thành âm bản chính là sự lỗi hẹn phụ phàng. Lỗi
hẹn với em, lỗi hẹn với mùa xuân - “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”.
MÙA XUÂN XANH
Mùa xuân là cả một mùa xanh/Giời ở trên cao, lá ở cành/Lúa ở đồng tôi và lúa ở/Đồng nàng và lúa
ở đồng anh. /Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh/Tôi đợi người yêu đến tự tình/Khỏi luỹ tre làng tôi
nhận thấy/Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.
Bài thơ Mùa xuân xanh là một bản hòa ca của màu sắc với sự khởi đầu của một năm mới đến, sự dịu
dàng của màu xanh của đất trời. Bài thơ chính là lời tâm tình của tác giả đang mở rộng đón chào mùa
xuân với tràn trề bao ước vọng, bao tin tưởng vào cuộc đời ngày mai. Ngay từ tựa đề, bài thơ đã đưa
người đọc đến với thế giới của “màu hy vọng”. Chẳng phải màu vàng của “mùa xuân chín” trong thơ
thi sĩ họ Hàn, chẳng phải sự nuối tiếc thở than như chàng thi sĩ đa tình Xuân Diệu: “Còn xuân...
nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Nguyễn Bính để cho nhân vật trữ tình của mình hướng tới mùa xuân và nhìn mùa xuân trong một tâm
thế thật thoải mái. Trong đôi mắt yêu đời với dạt dào những cảm tình tươi trẻ, mùa xuân được hiện
lên với những gì vốn có của nó.
Liệu niềm mong đợi chân thành kia có được đáp lại? Ta chưa biết, nhưng mùa xuân – mùa của tình
yêu, của hạnh phúc lứa đôi, của màu xanh ngập tràn hy vọng thì lẽ nào niềm hy vọng nhỏ bé kia lại
phải vội tắt. Trong không gian xanh ngút ngàn của mùa xuân, niềm “mong đợi người yêu đến tự tình”
của chàng trai như đang được truyền đi để kiếm tìm, để nhắn gởi. Và kia, niềm hy vọng đã lóe
sáng:Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy/ Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.
=>“Mùa xuân xanh” là một bài thơ lãng mạn và rất đẹp, ẩn chứa và mang lại những niềm hy vọng
thầm kín. Bài thơ đẹp không chỉ vì mang sắc màu của mùa xuân mà còn đẹp vì tình yêu của đôi lứa
CHÂN QUÊ
“Hôm qua em đi tỉnh về/Đợi em ở mãi con đê đầu làng/Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/Áo cài khuy
bấm em làm khổ tôi/Nào đâu cái yếm lụa sồi/Cái dây lưng đuỗi nhuộm hồi sang xuân./Nào đâu cái
áo tứ thân,/Cái khăn mỏ quạ/Cái quần nái đen?/Nói ra sợ mất lòng em/Van em em hãy giữ nguyên
quê mùa/Như hôm em đi lễ chùa./Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh/Hoa chanh nở giữa vườn
chanh./Thầy u mình với chúng mình chân quê/Hôm qua em đi tỉnh về/Hương đồng gió nội bay đi ít
nhiều.”
Chân quê là một bài thơ tiêu biểu về cái hồn quê của Nguyễn Bính. Có thể coi Chân quê là một tuyên
ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của ông. Xuyên suốt quá trình sáng tác của mình, ông đã trung
thành với tuyên ngôn đó: với tình yêu phong tục tập quán cũng như nét đẹp truyền thống của dân tộc.
Đọc bài thơ, hình ảnh chàng trai đứng trước bi kịch muốn níu giữ vẻ đẹp chân quê ở người yêu đi
tỉnh về bị ảnh hưởng của lối sống phương Tây xa lạ mà không được, cứ ám ảnh người đọc khôn
nguôi. Tình yêu của trai gái quê vốn dản dị, gắn bó với những truyền thống thôn quê, từ lời ăn tiếng
nói đến cách ăn mặc, lối sống của người quê. Người yêu đi tỉnh chơi, chàng trai bồn chồn mong đợi,
chàng ra tận con đê đầu làng đón người yêu. Con đê là vật bảo vệ xóm làng, cũng là nơi diễn ra các
sinh hoạt của dân quê, là hình ảnh quen thuộc của thôn quê. Tâm trạng mong đợi, bồn chồn của
chàng trai trong khung cảnh làng quê được nhấn mạnh ở từ “Đợi” và mãi. Nhưng chàng bất ngờ, ngỡ
ngàng về sự thay đổi trong cách ăn mặc của cô gái. Trước mắt chàng, người yêu trở thành như người
xa lạ: Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng /Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi. Khăn nhung, quần lĩnh, áo
cài khuy bấm là những thứ xa lạ với thôn quê. Những sản phẩm của thành thị, đặc biệt cái khuy bấm
bé nhỏ được sản xuất bằng máy móc tiêu biểu cho cách trang phục - lối sống thị thành, giữa khung
cảnh làng quê bỗng trở nên xa lạ. Tuy vậy, đó cũng mới chỉ là sự thay đổi bên ngoài, cái đáng sợ hơn
là sự thay đổi bên trong tâm hồn cô gái quê. Chỉ với từ rộn ràng, Nguyễn Bính đã thể hiện hết sức rõ
ràng sự thay đổi không chỉ ở tiếng sột soạt của “khăn nhung, quần lĩnh” mà còn là sự thay đổi về mặt
tinh thần của cô gái. Từ rộn ràng gợi cho người đọc hình ảnh cô gái đang sung sướng, hí hởn, thích
thú với trangphục mới lạ của mình.
Chính cái sự thay đổi bên trong của người yêu làm chàng trai đau khổ. Cố nén lòng
mình, chàng vẫn không thể dấu được thái độ trách móc người yêu, dù là trách móc nhẹ nhàng. “áo
cài khuy bấm, em làm khổ tôi” là lời than của chàng trai, cũng có thể hiểu là lời trách nhẹ nhàng đối
với người yêu. Thường những người yêu nhau tự xưng với nhau là “em” và “anh”.
Chàng trai đã dùng yếm lụa sồi, dây lưng đũi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen là những sản
phẩm quen thuộc đặc trưng cho thôn quê để đối trọng lại những khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy
bấm là những trang phục biểu trưng của thành thị.
Chàng trai cố níu giữ nét quê dù biết không thể được. Cái khuy bấm, cái khăn nhung, cái quần lĩnh
nào có tội tình gì.
Cách nói của chàng trai qua đoạn thơ này thật nhẹ nhàng, dè dặt, ý tứ, tế nhị, bộc lộ tình yêu tha thiết
đến tội nghiệp, chân thành mộc mạc mà thấm thía của mình đối với người yêu. Cách nói ấy rất gần
gũi với cách nói của ca dao. Không dừng lại ở van xin người yêu hãy chiều mình, chàng trai còn nhắc
nhở, khuyên nhủ người yêu hãy giữ lấy những truyền thống tốt đẹp, giữ lấy cái gốc nhân bản của quê
hương mà cha ông đã tạo dựng lên.
“Hôm qua” được láy lại nhấn mạnh chuyện đổi thay của cô gái đã là chuyện quá khứ, nhưng quá khứ
ấy chưa xa, sự đổi thay đó diễn ra chỉ một lần đi tỉnh về càng làm chàng trai chua xót, đau khổ. “Hôm
qua” ở đầu bài thơ là tâm trạng phấn khởi, háo hức, phấp phỏng mong đợi người yêu với tình cảm
thiết tha, êm ấm. “Hôm qua” ở cuối bài lại là sự chua xót, đau khổ, nuối tiếc “Hương đồng gió nội
bay đi ít nhiều” ở người yêu. Hình ảnh ẩn dụ “Hương đồng gió nội” thể hiện cái tình quê, hồn quê
khá sắc nét, là một cảm xúc tiêu biểu trong hồn thơ Nguyễn Bính.
TƯƠNG TƯ
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,/Một người chín nhớ mười mong một người./Gió
mưa là bệnh của giời,/Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng./Hai thôn chung lại một làng,/Cớ sao bên
ấy chẳng sang bên này?/Ngày qua ngày lại qua ngày,/Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng./Bảo
rằng cách trở đò giang,/Không sang là chẳng đường sang đã đành./Nhưng đây cách một đầu
đình,/Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...Tương tư thức mấy đêm rồi,/Biết cho ai, hỏi ai người biết
cho!/Bao giờ bến mới gặp đò?/Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?/Nhà em có một giàn
giầu,/Nhà anh có một hàng cau liên phòng./Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,/Cau thôn Đoài nhớ giầu
không thôn nào”?
Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ, và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được
sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn "thôn Đoài" và "thôn Đông" để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu
đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn
Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê. Tinh tế và sâu sắc hơn nữa
tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi "tương tư" là một căn bệnh
đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như
quy luật của đất trời.
4 câu thơ đầu:
+ Nỗi tương tư của nhà thơ
+ Hình ảnh đôi trai gái mang dáng vóc mộc mạc, giản dị
+ Sự nhớ thương da diết của chàng trai, nỗi nhớ thương của một người dành cho một người
2. Tâm trạng của người tương tư:
+ Có sự trách móc nhẹ nhàng của chàng trai
+ Nhận thấy được tình cảm nồng thắm của chàng trai dành cho cô gái
+ Nỗi buồn da diết của người tương tư được thể hiện rất rõ ràng
+ Sự thay đổi cách xưng hô
+ Thể hiện nên sự độc đáo, chân thật, mộc mạc trong thơ Nguyễn Bình
Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, Tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thanh đôi
thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao
khát ấy còn kí thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đôi ấy còn xa xôi,
càng về sau càng xích lại gần. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ:
Thôn Đoài – Thôn Đông, Một người – Một người, Tôi – Nàng, Bên ấy – Bên này, Bến – Đò, Hoa
khuê các – Bướm giang hồ, Nhà anh – Nhà em. Và cuối cùng lầ: Trầu-Cau. Kết như thế thật khéo!
Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất: ấy là trầu– cau! Mà trầu
cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở NguyễnBính, là quan niệm luyến ái. Là
một nhà Thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi cái
tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các
nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi
trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với
hôn nhân. Nghĩa là với Cau – Trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới
chỉ ờ dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi.
Vâng, đợi chờ một vị “cứu tinh” duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn
hờ kia sề kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa! Nỗi khổ sở sẽ hết dày vò!
NGƯỜI HÀNG XÓM
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,/Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn./Hai người sống giữa cô
đơn,/Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi./Giá đừng có giậu mùng tơi,/Thế nào tôi cũng sang chơi
thăm nàng./Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng.../Có con bướm trắng thường sang bên này./Bướm ơi!
Bướm hãy vào đây!/Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi.../Chả bao giờ thấy nàng cười,/Nàng hong tơ
ướt ra ngoài mái hiên,/Mắt nàng đăm đắm trông lên.../Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!/Bỗng
dưng tôi thấy bồi hồi,/Tôi buồn tự hỏi: “Hay tôi yêu nàng?”/– Không, từ ân ái nhỡ nhàng,/ Tình tôi
than lạnh gio tàn làm sao!/Tơ hong nàng chả cất vào,/Con bươm bướm trắng hôm nào cũng
sang./Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,/Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong./Cái gì như thể nhớ
mong?/Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!/Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng,/Lòng tôi riêng nhớ
bạn vàng ngày xưa./Tầm tầmgiời cứ đổ mưa,/Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm./Cô đơn buồn lại
thêm buồn.../Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?/ Hôm nay mưa đã tạnh rồi!/Tơ không hong
nữa, bướm lười không sang./Bên hiên vẫn vắng bóng nàng,/Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng
rưng.../Nhớ con bướm trắng lạ lùng!/Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng./Hỡi ơi! Bướm trắng
tơ vàng!/Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!/Đêm qua nàng đã chết rồi,/Nghẹn ngào tôi khóc... Quả
tôi yêu nàng./Hồn trinh còn ở trần gian?/ Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!”
Một cách vào bài rất chi là Nguyễn Bính. Nghĩa là bằng lục bát – thể thơ sở trường, ông sẽ kể một
câu chuyện giữa “tôi” và “nàng”, nói như các nhà thông thái bây giờ là “diễn ngôn” một chuyện tình.
Thế nhưng tiếp đến câu thứ năm, thứ sáu “Giá đừng có dậu mồng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi
thăm nàng” thì buộc người đọc phải dừng lại, suy tư. Hình như là có “chuyện” rồi, có “sự” rồi.
Không phải vì để cho hợp vần, cho trơn tru mạch lục bát, nên cái dậu mồng tơi phải mọc lên ở đây,
mà nó còn là “nhân vật” tham gia vào câu chuyện, thậm chí là trung tâm của câu chuyện nữa. Vì cứ
như lời thơ thì “hai người sống giữa cô đơn” và “nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi”, nghĩa là hai
khối cô đơn, cùng có chung một nỗi sầu buồn, mà nhà lại ở ngay cạnh nhau, chỉ là “bên này” và “bên
ấy”. Để phá tan cái khối cô đơn ấy, cái “thành sầu” ấy không khó khăn gì, chỉ mấy bước chân sang
bên ấy thì biết đâu chẳng đã“được lời như cởi tấm lòng” rồi. Vậy mà chỉ vì cái dậu mồng tơi xanh
rờn như trêu ngươi, như thách đố kia, đã khiến tôi không thể qua thăm nàng được, hỏi thế có buồn
không, có đau không?
Vậy cái dậu mồng tơi kia như thế nào, mà với “tôi” nó lại có quyền năng ghê gớm vậy? Những ai
sinh ra ở nông thôn đều biết rằng, mồng tơi là một loài rau phổ biến, lành hiền như rau muống, rau
đay, rau ngót... nơi nhà quê. Còn cái dậu mồng tơi thì thường chẳng to phe, ghê gớm gì, một ít cái
que tre chống lên, gài buộc thêm vào, ấy là thành dậu cho dây leo lên. Muốn qua, nếu dậu thấp người
ta có thể bước qua, nhảy qua, hoặc không thì rẽ ngang cũng “chẳng ảnh hưởng gì đến hòa bình thế
giới”. Vậy thì cái dậu mồng tơi chính là nút thắt của chuyện tình này. Nó là “thủ phạm” phân thành
bên ấy, bên này. Vậy mồng tơi ở đây đâu phải là cái thứ mồng tơi trồng để lấy lá nấu canh, mà là ám
chỉ cái sự nghèo – nghèo... rớt mồng tơi. “Xanh rớt mồng tơi” thì cũng là từ cái nghèo rớt mà ra thôi.
Hại thay, dậu mồng tơi ở đây không “xanh rớt” mà “xanh rờn” nghĩa là rất rất nghèo.
Còn nàng thơ – “nhân vật chính” – thì sao? Cứ theo văn bản thì, ở bên ấy“Nàng hong tơ ướt ra ngoài
mái hiên”, một công việc thường ngày con nhà nông có nghề tằm tơ canh cửi, nghĩa là nàng là con
nhà lành, con nhà bình dân. Song, nếu là con nhà lành, con nhà bình dân hồn nhiên như nhiên, sao lại
“chả bao giờ thấy nàng cười”, mắt nàng thì“đăm đắm trông lên”. Bóng bướm vừa chập chờn hiện ra,
chàng đã vội đón đường mà van vỉ “Bướm ơi, bướm hãy vào đây!/ Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút
thôi”. Thì ra, chàng muốn biết nàng là ai, mà từ bóng dáng đến xử sự lại như ám vào chàng, khiến
chàng phân tâm đến vậy?
Như vậy, sau những “giải ảo” về “dậu mồng tơi” về “tơ vàng”, thì chuyện “người hàng xóm” bây giờ
chỉ là diễn tiến tiếp của chuyện tình buồn giữa “bên này” và “bên kia”, là hệ quả của sự eo le về đẳng
cấp, về thân phận giữa tôi và nàng. Nói một cách khác, bi tình bây giờ chỉ xoay quanh cái “dậu mồng
tơi” – cái “mà ta vẫn thường gọi là “mặc cảm tình yêu”, “mặc cảm thân phận”! Sự mặc cảm như là
bẩm sinh trời bắt này.
Muốn tiếp cận nàng mà bất lực, nên trong chiêm bao chàng đã phải nhờ đến “con bướm trắng” –
nhân vật thứ ba – như một sứ giả trung gian, đi về giăng mắc giữa tôi và nàng, giữa bên ấy là bên
này. Cánh bướm đã xuất hiện nhiều lần, nhiều kiểu, nhiều kiếp trong thơ Nguyễn Bính. Đã có nhiều
bài viết, thậm chí hẳn một tiểu luận về hình tượng “bướm” trong thơ ông, với những là “cánh bướm
dân dã”, “cánh bướm giang hồ”, “cánh bướm tình ái”, “cánh bướm thân phận”... Song, con bướm
trắng ở đây “chấp” tất cả các con bướm kia, ngoài sự “tổng hòa” các con bướm kia, nó còn rất liêu
trai, ma mỵ và cũng như lây vẻ đài các của chủ nó. Nó không kiêu kỳ như nàng, song nó cũng thất
thường, đỏng đảnh, tinh quái lắm. Vừa thoáng thấy bóng nó, mới định hỏi nhỏ một câu thì nó “đã về
bên ấy rồi”. Lúc thì ngày nào nó cũngsang, lúc thì chẳng thấy tăm hơi nó đâu, cứ như là trêu ngươi
vậy. Nó là kẻ đưa thư,là sứ giả tình yêu, nó có thì thầm, tỉ tê gì không bằng thứ ngôn ngữ của loài
bướm, thì có lẽ chỉ có tôi là hiểu, còn nàng – chủ nó, thì xem như vẫn “ba không”: không thấy, không
nghe, không hiểu!
Tâm trạng phân tâm của chàng “tôi”, vừa thích vừa e, vừa yêu vừa gét, đã được diễn tả với nhiều
cung bậc trong cái đoạn “lâm ly quy phượng” vào bậc nhất thất tình này, mà có người đã gọi là “phép
biện chứng của tâm hồn, của tình yêu”. Bắt đầu là “bỗng nhiên tôi thấy bồi hồi” rồi tăng lên “tự hỏi
hay tôi yêu nàng”, tiến tới “cái gì như thể nhớ mong?”. Nhưng rồi như sợ bị hớ, chàng chối bay chối
biến ngay “cái gì” đó, rất cương quyết “Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!”. Trong có
một cặp lục bát mà có đến những hai dấu hỏi với hai dấu than, kể cũng là hiếm. Rồi, để có cớ thanh
minh cho nỗi bối rối tơ vò của lòng mình, chàng lại đổ thừa cho là “Không, từ ân ái nhỡ nhàng, Tình
tôi than lạnh gio tàn làm sao!”, “Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng, lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa”.
Láy đi láy lại những hai lần chuyện “ân ái nhỡ nhàng” với “bạn vàng” ngày xưa, rõ ràng là chàng
đang như tự dối mình, cố thanh minh với người, rằng tôi không có nhớ nàng, nói gì đến chuyện tôi
yêu nàng. “Bập” vào nàng biết đâu tôi lại thêm một lần “nhỡ nhàng” đau khổ nữa, hãy tha cho tôi!
Mạch thơ đến đây chuyển hướng rất đột ngột: Chuyện gì phải đến đã đến. Bức tường ngoan cố đã òa
vỡ. Đến đây lại nảy ra điều băn khoăn là, tại sao nàng chết đột ngột thế? Tại sao chỉ khi nàng qua đời
thì chàng mới tự thú “quả tôi yêu nàng”? “Tôi yêu nàng” chỉ ba từ ấy thôi mà sao nhọc nhằn, đớn đau
vậy? Lại suy bụng ta ra... bụng chàng: Có lẽ là chỉ khi “con người kiêu sang” trong nàng chết đi và
“con người mặc cảm” trong tôi cũng chết theo, thì mới “Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng”.
Đến đây những tưởng chuyện “người hàng xóm”, mà cũng là chuyện của “tôi”, chuyện của nhiều
người, nhiều thời, có thể kết được rồi. Một bi kịch tình đã hạ màn. Nàng chết vậy là hết chuyện. Cái
“dậu mồng tơi” đã làm xong sứ mệnh của mình. Song, nếu thế thì còn đâu cái kết “có hậu” của
chuyện tình theo kiểu tư duy Á-Đông/ . Con bướm trắng lại xuất hiện, song không với tư cách là sứ
giả đưa thư mà với bổn phận của người nhà “chịu tang” nàng, cùng với sứ mệnh chở linh hồn tình
yêu trong một kiếp khác: “Đêm qua mơ thấy hai con bướm/ Khép cánh tình chung ở giữa đời” (Hết
bướm vàng).
TRUYỆN CỔ TÍCH
“Em ạ! Ngày xưa vua nước Bướm/ Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/ Vua không lấy trạng, vua thề
thế/ Con bướm vàng tuyền đậu Thảm hoa./ Vua liền gọi gả con gái yêu/ Nàng đẹp như em, chả nói
điêu/ Vua nuông hai vợ chồng phò mã/ Cho nhởn xem hoa sớm lại chiều./ Một hôm hai vợ chồng
quan Thám/ Mê mải xem hoa lạc lối về/ Vợ khóc: "Mình ơi! Em hãi lắm!" /Trời chiều lạc lối tới vườn
lê./ Vườn đầy hoa trắng như em ấy/ Bỗng một bà tiên hiển hiện ra/ Sao mà đẹp thế! Tiên mà lại!/ Nữ
chúa vườn lê đi thǎm hoa./Bà thấy vợ chồng con bướm dại/ Sụt sùi ngồi khóc dưới hoa lê/Đến bên
âu yếm bà thương hại:/ "ý hẳn hai con lạc lối về?/ "Đây về nước Bướm đường thì xa/ "Về tạm nhà ta
ngủ với ta/"Có đủ chǎn thêu cùng gối gấm/"Có nhiều bánh ngọt ướp hương hoa.../Đêm ấy chǎn êm
và gối êm/ Vợ chồng ǎn bánh với bà tiên/ Ǎn xong thoắt chốc liền thay lốt/Chồng hoá làm anh, vợ
hoá em.” Từ chuyện bâng quơ về đôi bướm nhởn nhơ dưới trời chiều khi đôi trai gái đang cùng nhau
đi vãn cảnh; người con trai đã kịp chớp lấy cơ hội để bày tỏ nỗi lòng mình. Anh ta dẫn dắt ý muốn
bản thân bằng lối kể Chuyện cổ tích một cách có duyên:
Bài thơ dẫn người đọc vào không khí của truyện cổ tích như đề bài đã nói. Người đọc bị cuốn hút
theo diễn biến của câu chuyện để đến cuối bài thơ mới à lên thú vị vì đây là chuyện cổ tích của người
lớn, của đời nay. Sự tích con bướm vàng đỗ đạt Thám hoa được Vua gọi gả con gái quý có dung nhan
đẹp “như em” đã là nút mở để tỏ tình. Sợ lời “tán tỉnh” sàm sỡ, người con trai đã thề “chả nói điêu”
cũng có nghĩa là anh rất yêu em bởi em đẹp, bởi hai ta xứng đôi vừa lứa, để rồi chuyện kể được tiếp
mạch.
Trong lối thi cử xưa dưới các triều đại phong kiến, ba vị trí đỗ cao nhất gọi là tam khôi gồm Trạng
nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Con bướm vàng ấy không đỗ Bảng nhãn (vị trí cao nhất vì vua
không lấy Trạng nguyên) mà chỉ đỗ Thám hoa. Nhưng dù sao thì cũng đỗ cao rồi. Theo cách tính hệ
lịch phương Đông (có 10 can: giáp, ất, bính, đinh ....) thì tên nhà thơ là Bính, tương ứng với can thứ
ba. Trong quan niệm xưa, người đỗ cao sẽ được trọng dụng, cùng với triều đình gánh việc dân, việc
nước. Nhưng một người thích lang bạt kỳ hồ như Nguyễn Bính không thể nào bó mình ở chốn cung
đình với lối sống “vào luồn ra cúi”. Vì thế, nhà thơ chỉ mơ mình được đỗ hàng thứ ba thôi. Nhưng
điều may mắn, có lẽ cũng là ước muốn của thi nhân là nhà vua đã gả công chúa cho vị Thám hoa. Đó
là một ước muốn trần gian. Rồi vợ chồng đi chơi lạc lối và được bà tiên phúc hậu rủ về nhà. Nhà thơ
tưởng tượng tiếp: Đêm ấy chăn êm và gối êm/ Vợ chồng ăn bánh với bà tiên/ Ăn xong thoắt chốc liền
thay lốt/ Chồng hóa làm anh, vợ hóa em. Mượn điều may mắn của đôi bướm nhỏ trước phân vân lạc
lối về hay ở rồi được bà Tiên giúp, để lời tỏ tình của người con trai được đưa lên thang nấc cuối, đột
biến đến tế nhị bất ngờ
Lối ví von “như em đấy” được xen kẽ ý tứ trong câu chuyện cổ tích để khẳng định người mình yêu
không chỉ đẹp vẻ bề ngoài mà còn đẹp sâu xa trong tâm hồn, tính cách. Đôi bướm được hiện thân dần
là anh và em đang đi bên nhau. Dù trời đã chiều, đêm đang xuống, đường về con xa ... nhưng, xin em
hãy ở lại với anh. Bởi tình yêu của chúng mình là chân chính, có sự chứng giám của Đất, Trời, Tiên,
Phật.. Điều ước muốn ấy chỉ có thể xảy ra trong cổ tích. Có lẽ vì thế mà nhà thơ mới mượn cổ tích để
bộc lộ lòng mình. Đối với cuộc đời thi sĩ, hạnh phúc luôn mờ ảo, khó nắm bắt, nhanh tan biến. Trong
phần lớn thơ mình, Nguyễn Bính thường viết về những mối tình đứt đoạn, những số phận dở dang.
Chỉ trong mơ mối tình ấy mới trọn vẹn hạnh phúc. Hình tượng đôi bướm là biểu tượng của hạnh
phúc chăng?

HÀN MẶC TỬ
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Trong vườn Thơ mới với trăm hương sắc ngọt ngào, người ta đã phong cho Hàn Mặc Tử là thống
soái của một trường thơ: Thơ điên. Chỉ với 28 tuổi đời (1912 — 1940) mà ông đã để lại cho nền văn
học dân tộc hàng trăm vần thơ đẹp. Đến với thơ Hàn Mặc tử, ta bắt gặp một tâm hồn say trăng đến kì
lạ:
Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt
Khép phòng đốt nến, nến châu rơi
Thơ của ông rợn ngợp trong “hồn” và “trăng” vừa thực vừa mơ. Hồn thơ của ông mãnh liệt nhưng
luôn quằn quại đau đớn, dường như có một vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và thể xác.
Những tưởng bước vào đó chỉ có “hồn” và “trăng”, cuồng điên và bệnh hoạn nhưng những vần thơ
trong trẻo như Đây thôn Vĩ Dạ buộc mỗi độc giả chúng ta phải có cái nhìn khác đi về nhà thơ đa tài
nhưng bạc mệnh này. Đây thôn Vĩ Dạ khiến lòng người phải nghiêng nghiêng về một tình yêu vô bờ
bến của tác giả đối với Vĩ Dạ, với những con người Huế
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Nhắc đến Đây thôn Vĩ Dạ, ta không thể quên được mối tình tuyệt vọng của thi nhân và giai nhân xứ
Huế là Hoàng Thị Kim Cúc. Bệnh tật đã đứt lìa nhà thơ ra khỏi nhiều ước mơ của tuổi trẻ trong đó
có khát khao về tình yêu đôi lứa. Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử đã nhận được một bức bưu ảnh
“có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cá ánh trăng hay ánh
mặt trời chiếu xuống nước” cùng mây lời thăm hỏi của cố nhân, xúc động với tấm lòng của bạn cũ,
tác giả đã sáng tác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với 3 khổ thơ 12 câu tả cảnh ngụ tình để đáp lại tình cảm
của người xưa. Nhớ đến người xưa, cảnh xưa ta sẽ nhớ đến Vĩ Dạ thôn.
Mở đầu cho một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc ấy, không phải là một câu miêu tả mà là một câu
hỏi tu từ, một câu trách yêu hờn dỗi, là lời mời tha thiết, nhẹ nhàng với giọng thơ êm dịu, tình tứ như
giọng nói dịu dàng của người con gái Huế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi như hàm chứa lời trách yêu rằng: lâu quá rồi “Sao anh không vể chơi thôn Vĩ, về thăm em?”.
Cảnh cũ, người xưa vẫn cứ thấp thoáng gợi lên bao hoài niệm thân quen. Câu hỏi sử dụng từ “chơi”
thay cho từ “thăm” càng tạo nên sự gần gũi, thân thương đối với cảnh vật và con người nơi thôn Vĩ.
Chúng ta ngẫm kĩ thêm chút nữa sẽ thấy ẩn chứa bên trong câu hỏi là một lời tự vấn của chính bản
thân tác giả. Ông mượn những lời thôn nữ Vĩ Dạ hỏi “anh” nhưng cũng chính là câu hỏi tự đặt ra để
hỏi chính bản thân của mình rằng sao lâu quá rồi không về thăm nơi thôn Vĩ? Đây cũng chính là nỗi
giãi bày nỗi niềm thương nhớ của tác giả làm cho bao kỉ niệm xa xưa nay lại sống dậy trong lòng,
trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người nơi xứ Huế mộng mơ, với
những khu vườn tươi tốt, hoa trái ngọt, phong cảnh hữu tình. Như lời ca ngợi của nhà thơ Bích Khê
về Vĩ Dạ:
Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!
Biếc che cành trúc không buồn mà say.
Đối với riêng Hàn Mặc Từ, Vĩ Dạ đã từng in đậm dấu ấn của người thương để lại trong lòng bao nỗi
khắc khoải:
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ.
Về với Vĩ Dạ là về với bao cảm xúc mới và đón chào những điều đặc biệt:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Cảnh vật được mở ra với muôn cây tươi tốt, một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống. Cau từng
hàng mọc vươn lên trong nắng mới như đón chào những vị khách phương xa. Cảnh sắc bình minh
rực rỡ với ánh “nắng mới lên” là những ánh nắng sớm, là những nắng đầu tiên trong ngày, nắng còn
lẫn sương với khơi một cảm giác hư vô trong trẻo tinh khôi đến lạ thường. Cấu trúc câu thơ rất đẹp
(nắng – cau – nắng), gợi sự quân quýt giữa cau thôn Vĩ và ánh nắng ban mai. Cảnh thật hữu tình!
Dường như hàng cau được phát sáng nhờ những tia nắng mới và ngược lại, nắng đẹp hơn lung linh
hơn khi chiếu rọi xuống những hàng cau thôn Vĩ. Cả hai tô điếm cho nhau làm nên một ý thơ đầy thi
vị.
Sang đến dòng thơ sau, không gian nghệ thuật hạ xuống thấp hơn. E ấp dưới hàng cau xanh vững
chãi là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá, màu xanh mơn mởn
non tơ ngồi lên, bóng lên dưới ánh bình minh trông “mướt quá”. Mướt” là vì mượt mà, óng ả, mướt
của một màu xanh rất đặc trưng được liên tưởng độc đáo “xanh như ngọc”. Xanh như ngọc chứ
không phải là xanh ngọc. Cách so sánh tinh tế khiến cả khu vườn thôn Vĩ đẹp tuyệt vời như một viên
ngọc bích. Câu thơ gợi vẻ quyến rũ, long lanh tươi trẻ đầy sức sống dưới bàn tay chăm sóc của người
Vĩ Dạ cần cù và đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa nên cảnh vật quanh năm tươi tốt, xum xuê. Nhưng
khu vườn ấy là của ai? Có cụ thể không? Với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai”, thi nhân đã nhìn
cảnh vật bằng đôi mắt trữ tình, bởi lẽ từ ai không xác định cụ thể, rõ ràng, nó gợi lên những tình cảm
sâu kín, những yêu thương e ấp.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Từ “ai” được nhắc đến và cụ thể hơn ở: Lá trúc che ngang mặt chữ điền “Ai” ở đây là giai nhân,
người xuất hiện sau lá trúc e lệ, kín đáo và tình tứ của người con gái xứ Huế mộng mơ. Dùng một vài
nét ước lệ, nhà thơ mượn thơ trong nhân gian để gợi tâm hồn, gợi lên tâm lòng của người thiếu nữ:
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo em đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.
(Ca dao)
Gương mặt chữ điền phúc hậu lại ẩn hiện qua đường nét thanh mảnh của lá trúc gợi ra sự duyên
dáng, đằm thắm của các cô gái xứ Huê. Nhưng đằng sau cái cảnh vật nên thơ ấy đang chứa đựng
những tình cảm kín đáo nơi niềm nhớ thương mong đợi của thi nhân. Dù xa xôi nhưng tác giả vẫn
hướng mình về Vĩ Dạ. Và Vĩ Dạ mãi mong anh trở về thăm. Lời thơ tha thiết một chân tình chưa thể
nói hết. Người ấy, tình ấy, khiến cảnh thôn Vĩ càng thơ mộng hơn.
Sang đến khổ thơ thứ hai vẫn nối tiếp mạch thơ, vẫn là những vần thơ trong trẻo, dịu dàng, Nhưng
một không gian thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm lại được mở ra cảnh vật giờ đây chỉ còn là sự tan tác
chia li ;
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Làn gió ở đây thổi rất nhẹ không đủ sức để cuốn trôi mây, không đủ sức để làm cho nước gợn, bởi
thế nên dòng nước đã phớt lờ nhưng không buồn cuộn chảy. Gió chỉ đủ sức làm cho hoa bắp lay
động càng gợi lên nỗi buồn hiu hắt Trong tiếng Việt từ “lay” vốn không nảy sinh cảm xúc nhưng đặt
trong hoàn cảnh này thì nó lại chất chứa một nỗi niềm tâm sự. Đã hơn một lần ta bắt gặp động từ này
trong ca dao Huế.
Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em.
Với giọng thơ nhẹ nhàng thoáng buồn, cảnh vật trở nên êm đềm, không gian vắng lộng, mơ buồn.
Nghệ thuật đối lập “Gió theo lối gió” đối với “mây đường mây” khiến câu thơ như gãy đôi ra gợi sự
chia lìa đôi ngả. Nhưng cái đáng nói ở đây lại là sự chia lìa giữa những hình ảnh thiên nhiên vốn đi
liền với nhau (Gió thổi mây theo về), đằng này thì gió đường gió // mây đường mây. Phải chăng
trong hình ảnh thiên nhiên ấy chứa đựng nỗi sầu chia li của lòng người? Một dự cảm buồn và lòng
khao khát giao hòa với đời, với người của thi nhân đã lan tỏa ra cảnh vật, khiến dòng nước cũng trở
nên buồn thiu trĩu nặng một tâm sự, một niềm trắc ẩn khôn nguôi.
Nỗi niềm ấy bật lên thành hai câu hỏi da diết, khắc khoải:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ gợi tả cảnh Vĩ Dạ đò giang tuyệt đẹp nhưng đượm buồn. Hỏi nhưng thật ra tác giả đang hỏi
chính lòng mình khi nhớ đến đò xưa bến cũ. Sông Hương bây giờ là sông trăng/ hình ảnh trăng là
hình ảnh quen trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ anh ngập tràn ánh trăng, thừa mứa ánh trăng đến mức
đem đi rao bán. Trăng đối với thi nhân là bạn tri âm tri ki. Nói vậy, ta có thể hiếu trăng theo nghĩa đó.
Trăng chính là hình ảnh tượng trưng cho tình người tình đời mà Tử đang khao khát. . Khao khát lại
càng tội nghiệp hơn khi ta chợt nhớ đến bi kịch của thiên tài đang phải đối mặt. Đó chính là căn bệnh
quái ác đang hành hạ lính hồn và thể xác anh.
Chính bi kịch ấy khiến cho một người yêu trăng, say trăng, giờ đây lại đang đói trăng, đang khát
thèm trăng. Hai dòng thơ bật lên, vẽ ra hai không gian đối lập: Ngoài ấy (cuộc đời) và trong này (thi
nhân). Nếu ngoài ấy trăng dư giả, đầy tràn cả không gian (sông trăng, bến trăng, thuyền trăng), cả
thời gian (cả một đêm trăng). Thì ngược lại, trong này, thi nhân đang khao khát trăng đến cháy bỏng
đến khắc khoải thành một nỗi niềm băn khoăn, trăn trở:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu thơ là một nỗi đau, nỗi đau giày vò về thể xác, cơn đau tính thần
giằng xé, bệnh tật, cô độc, tuyệt vọng:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cổ vô biên
Giữa lớp lớp những dòng thơ điên loạn, ma quái khổ đau đó, chính tác giả đang mang trong mình
một tâm trạng lo lắng. Từ “kịp” làm tăng thêm sự băn khoăn, lo âu, đau buồn của tác giả. “Chở
trăng” như chờ những tình yêu thương nhưng lại phải kịp tối nay. Câu thơ nghe sao mà xót xa lòng.
Phải chăng chỉ tối nay? Chỉ tối nay thôi sao? Đúng vậy. Nếu không kịp tối nay thì rất có thể đây sẽ
là lần chia tay vĩnh viễn. Câu thơ khắc khoải một nỗi niềm, một dự cảm xót xa, đồng thời cũng thể
hiện một niềm khát khao muốn được giao cảm với đời của thi nhân. Thật không nỗi khổ đau nào hơn
là phải sống trong xa lánh, cô độc với người đời. Đối với thi nhân thì đây là một án tử mà anh phải
đeo mang, gánh chịu.
Ông sợ cuộc sống của ông không thể kéo dài được nữa, ông sợ mình sẽ không còn cơ hội để về thăm
Vĩ Dạ, về thăm những con người nơi xứ Huế. Giữa muôn trùng câu nhớ và vẻ đẹp hữu tình nơi xứ
Huế đã nói lên một tình yêu thầm kín của tác giả, một tình yêu kín đáo dịu dàng.
Để cho kỉ niệm đưa tâm hồn mình về với thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử như chìm đắm trong cảnh vật nhưng
cũng không thôi trăn trở với tâm trạng của một người luôn mang mặc cảm của tình yêu đơn phương,
mặc cảm bệnh tật, mặc cảm bị xa lánh. Và, trước hình ảnh người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng
trong, kín đáo, gần mà như xa, thực mà mơ khiến tác giả phải thốt lên:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
“Khách đường xa” gợi sự xa vắng. “Khách đường xa” ở đây có thể là con người thôn Vĩ, những
người du khách hay chính những người giai nhân mà chính tác giả đã từng mơ ước. Với nghệ thuật
điệp từ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” gọi ta liên tưởng đến trong giấc mơ khắc khoải mà
dường như mĩ nhân đó đang đi xa nhà thơ, nên câu thơ giống như một tiếng lòng thảng thốt. Hình
ảnh “áo trắng” kết hợp với” khách đường xa” trong không gian mơ hồ tựa như trinh nữ. sắc trắng
thường đem đến cảm giác thanh thoát tinh khôi. Nhung ở đây, ta lại có cảm giác bất thường. Bởi sắc
trắng đó như làm mờ nhòe thị lực của nhà thơ, khiến “nhìn không ra”. Câu thơ chập chờn bâng
khuâng, mờ ảo của “sương khói” Vĩ Dạ: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Tất cả ý thơ của hai câu đầu tạo nền đề cho hai câu sau, bao dồn nén cho trăn trở, nhức nhối của
“sương khói”, của đại từ phiếm chỉ “ai”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ
sương khói. “Sương khói” trong thơ Đường gắn liền với tình cố hương. Ở đây “sương khói” đã làm
nhòe đi, đã che khuất bóng người. Còn tác giả thì đã biết mình mắc căn bệnh hiểm nghèo, một bên là
cõi sống non tơ và tình thơ hé mở, một bên là nỗi cô đơn, bệnh tật với cõi hư vô đang ám ảnh giày
vò. Cuộc đời của Hàn Mặc Tử càng trở nên cay đắng, đau khổ ở trong lòng thể hiện rõ nhất ở câu thơ
cuối: Ai biết tình ai có đậm đà?
Một câu hỏi tu từ không lời đáp và đó còn là tiếng kêu tuyệt vọng đớn đau, hai đại từ phiếm chỉ “ai”
cùng tô đậm thêm tính đa nghĩa cho câu thơ và nhất là đã khơi gợi lên một nỗi niềm u ẩn, mênh mang
sâu lắng trong lòng thi nhân. Và đây cũng như là câu trả lời cho câu hỏi đầu bài “Sao anh không về
chơi thôn Vĩ? Kết cấu đầu cuối hô ứng tạo nên một bài thơ đặc sắc. với cấu tứ rất đẹp và tình của thi
nhân đối với Huế cũng rất sâu sắc. Không chỉ thế bài thơ giúp người đọc thêm cảm thương cho nhà
thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình tha thiết nhưng suốt đời phải sống trong
bệnh tật. Ngoài ra, ta cũng cần nhìn nhận đôi chút về đại từ “ai”, “ai” trong bài thơ có tất cả 4 lần
xuất hiện, cả 4 lần đều mơ hồ, ảo ảnh. Đều nói về cái xa vời, khó với, nhà thơ cảm thấy mình hụt
hẫng, chới với giữa hư và thực; mộng và ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang
nhạt nhòa và mờ đi trong sương khói.
Hàn Mặc Tử đã để lại cho to một tứ thơ đẹp: cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng,
ngạc nhiên và thẫn thờ, bao hình ảnh đẹp hội tụ trong 3 khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. Đây
thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình tuyệt vời. Tuy có ngậm ngùi xót xa nhưng vẫn thiết tha yêu đời, yêu
thiên nhiên. Bài thơ đã tô đậm thêm tình thương, tình yêu, tình người, tình đời và cả tình yêu quê
hương đất nước, làm nên một kiệt tác xinh xắn của thi ca Việt Nam. Chế Lan Viên đã nhìn nhận
“Mai sau những cái tầm thường mực thước sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng
kể đó là Hàn Mặc Tử”

Độc giả chính là những người quyết định số phận của thơ ca. Tiếp nhận văn học là giai đoạn
hoàn tất quá trình sáng tác – giao tiếp của văn học. Phụ thuộc vào mỗi người đọc khác nhau mà tác
phẩm sẽ được nhìn nhận qua những lăng kính khác nhau, từ đó tạo nên nhiều ý nghĩa mới. Trong
“Đọc thơ mạch ngầm văn bản”, Chế Lan Viên viết: “Đọc thơ, có người đọc như nhà thực vật
Đọc mùa quả, hoa chói mắt / Có người như nhà địa chất / Đọc cái mạch ngầm văn bản phía
sau”

Tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử sẽ làm rõ hơn nhận định trên. “Đọc” là
quá trình tiếp nhận tác phẩm để lĩnh hội và chiếm lĩnh tác phẩm. Thông qua đặc điểm cá nhân của
từng chủ thể tiếp nhận mà người đọc sẽ có những cách hiểu, cấp độ tiếp nhận văn học khác nhau.
Đọc “như nhà thực vật”, “đọc mùa quả, hoa chói mắt” là đọc những cái hoa mỹ, hào nhoáng bên
ngoài còn “đọc như nhà địa chất”, “đọc cái mạch ngầm văn bản phía sau” là đọc cái tầng sâu những ý
nghĩa, những bài học sâu sắc có giá trị tư tưởng. Vậy theo Chế Lan Viên, đọc một tác phẩm không
chỉ là đơn thuần đọc từng con chữ, tìm cái hay, cái đẹp của vẻ ngoài, mà còn phải tìm tòi, khám phá
những tầng nghĩa, “mạch ngầm” của tác phẩm.

Những câu thơ của Chế Lan Viên mang đầy ý nghĩa. Maxim Gorki có câu: “Người sáng tác là
nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả”. Nếu ví tác phẩm nghệ thuật là đứa con
tinh thần được nhà văn thai nghén thì số phận của đứa con ấy lại phụ thuộc và chính nó và người tiếp
nhận nó. Chỉ đến khi người đọc tiếp nhận thì hoạt động sáng tạo nghệ thuật mới hoàn tất. Văn học
phản ánh hiện thực nhưng không phải sao chép hiện thực một cách hời hợt, nông cạn. Nhà văn cũng
không đưa các sự kiện, con người vào tác phẩm một cách thụ động, giản đơn mà hiện thực trong tác
phẩm chính là hiện thực cuộc sống được nhà văn suy tư, trăn trở để rồi thai nghén và tái hiện lại dưới
ngòi bút, bằng chất liệu ngôn từ. Nhà thơ Đức H. Heiner từng viết: “Thế giới chẻ làm đôi, vết nứt
xuyên qua trái tim nhà thơ” là vì vậy. Tác phẩm văn học mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà văn,
mang những nét đặc trưng về nhân sinh quan, thế giới quan, về nhân cách, tấm lòng của nhà văn.
Nhưng khi đến với người đọc, thì hiện thực trong tác phẩm sẽ trở thành hiện thực khác trong thế giới
tinh thần của họ. Tùy thuộc vào năng lực, thị hiếu, vào kinh nghiệm, trình độhọc vấn mà người đọc
sẽ ở những cấp độ tiếp nhận khác nhau. Cấp độ đầu tiên là cấp độ ngôn ngữ. Đây là quá trình người
đọc giải mã các kĩ hiệu ngôn ngữ, từ ngữ, câu, đoạn để hiểu được lớp lời văn của tác phẩm. Cấp độ
tiếp theo là cấp độ hình tượng. Sau khi hiểu được ngôn ngữ tác phẩm, người đọc sẽ sống và trải
nghiệm thế giới nghệ thuật của tác phẩm thông qua hệ thống các nhân vật, cốt truyện, bối cảnh…
Người đọc tiếp nhận tác phẩm văn học ở hai cấp độ này sẽ “đọc như nhà thực vật”, “đọc mùa quả,
hoa chói mắt”. Tức là đọc tầng nghĩa bên ngoài tác phẩm. Cấp độ cao hơn là cấp độ kết cấu và chỉnh
thể. Người đọc sẽ thâm nhập vào thế giới hình tượng để khám phá ra những tầng nghĩa ẩn sâu trong
tascp hẩm, để hiệu nội dung tư tưởng của tác phẩm. Và cấp độ cao nhất của quá trình tiếp nhận là cấp
độ sáng tạo. Ở cập độ này, người đọc sẽ sáng tạo lại tác phẩm, lấp đầy những “khoảng trống” mà nhà
văn tạo nên, phát hiện ra những ý nghĩa mới của tác phẩm. Đây là then chốt tạo nên sự bất tử của văn
chương, như Saltykov Sedrin từng viết: “Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. Người đọc ở hai cấp độ cao nhất này sẽ như “nhà địa chất”, họ
lần được đến cái “mạch ngầm” sâu trong tác phẩm và chiếm lĩnh được tác phẩm ấy.

Charles Dubos từng nói: “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng”. Quả thật là
vậy. Nói đến văn chương là nói đến cái đẹp. Đó là cái đẹp vốn có trong đời sống hiện thực như vẻ
đẹp thiên nhiên, các nét đẹp phong tục tập quán. Đó cũng là vẻ đẹp con người mà nhất là vẻ đẹp tâm
hồn. Hơn hết, khi đến với văn chương, người đọc sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật. Vẻ
đẹp ấy là tinh hoa trong thơ ca. “Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm” (Leonardo da
Vinci). Vẻ đẹp đó cũng là tính nhạc trong thơ, là những vần thơ du dương ngân nga mãi trong tâm
hồn đọc giả. “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm” (Voltaire). Vì lẽ
đó, khi đọc thơ, cần “đọc như nhà thực vật” để cảm nhận hết vẻ đẹp của sức sống trong ngôn từ, vẻ
đẹp của “mùa quả, hoa” chói mắt.

Nhà phê bình người Nga Bielinkxky từng viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả
cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó
không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Thơ ca nói riêng và các tác phẩm nghệ
thuật nói chung đều chứa đựng những chiều sâu, những tầng nghĩa mà chỉ khi độc giả đặt mình vào
tác phẩm tìm hiểu, rung cảm với tác phẩm, với nhà văn thì mới có thể chạm đến, thấu hiểu những
tầng nghĩa đó. Chỉ khi lần sâu vào “mạch ngầm” văn bản, người đọc mới thực sự chiếm lĩnh được tác
phảm, mới không bỏ sót những ý nghĩa sâu sắc bên trong và chậm chí, từ những ý nghĩa đó, có thể
sáng tạo, soi rọi lại chính bản thân mình. Trong tiếp nhận văn học, quá trình đồng sáng tạo của độc
giả là một quy luật tất yếu. Giáo sư Huỳnh Như Phương từng viết: “Không nên quan niệm tác phẩm
như một cá gì cố định, bất biến, trái lại về hình thức cũng như về nội dung, nó mang ý nghĩa của một
cuộc đối thoại”. Đó là cuộc đối thoại giữa độc giả và nhà văn. Người đọc là niềm khắc khoải tri âm
của nhà thơ: “Xưa nay, nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng
gặp gỡ” (Cao Bá Quát), hay như Lưu Hiệp viết: “Tri âm thực khó thay cái âm thực khó biết, người
biết thực khó gặp. Gặp được người tri âm, nghìn năm có một”. Người đọc đến với thơ ca cũng là để
tìm sự đồng điệu, sự tri âm nhất định. “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó
đến với những người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình” (Tố Hữu). Khi
tìm đến được “mạch ngầm văn bản”, người đọc không chỉ hiểu thêm về tâm tư, tình cảm tác giả mà
còn đúc kết được nhiều kinh nghiệm, mở rộng vốn hiểu biết để từ đó “sáng tạo lại chính bản thân
mình” (Huỳnh Như Phương). Vậy người đọc khi tiếp nhận văn học, không chỉ đọc “mùa quả hoa,
chói mắt” bên ngoài, mà còn phải đào sâu vào “mạch ngầm văn bản phía sau”.
Điều này thể hiện rõ qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Mở đầu bài thơ
là bức tranh thôn Vĩ đẹp đẽ, bừng sáng như cảnh “nước non thanh tú”, khiến người đọc nhận ra tấm
lòng yêu cuộc sống đến tha thiết của nhà thơ dù sống trong bóng tối của sự đau đớn tột cùng, thấp
thoáng sau cảnh đẹp thôn Vĩ là bóng dáng con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Câu thơ này gợi cho người đọc nhiều cách hiểu. “Mặt chữ điền” ấy có thể là khuôn mặt của
một bóng hình xưa, một cô gái ê lệ nép mình sau khóm trúc. Hình arnht hơ chứa đầy hoài niệm về
một thời quá khứ đã qua. Thế nhưng, ở một cách hiểu khác, đây có thể là hình bóng của chính thi
nahan, là chính tác giả đang giấu mình để quan sát bức tranh thôn Vĩ. Qua một câu thơ thôi mà ta
thấy được cả một tình yêu đời tha thiết mãnh liệt của thi nhân. Hàn Mặc Tử yêu cuộc đời đấy, một
tình yêu lớn lao nhưng lại không thể bước ra hòa mình vào cuộc sống, tận hưởng mọi vẻ đẹp, mọi
hương sắc cuộc đời như nhà thơ Xuân Diệu. Bởi lẽ ông mang nỗi mặc cảm to lớn về thân phận của
chính mình, và ông cũng mang dự cảm về sự chia lìa. Những cảm xúc ấy hiện ra rõ nét nhất ở khổ
thơ cuối của bài: “Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nếu ở đoạn đầu là bức tranh thôn Vĩ với ánh sáng lan tỏa khắp không gian, với những sắc
màu tươi mới đầy sức sống, thì đến khổ cuối chỉ còn lại một bức tranh trắng. Từ “mơ” như cánh cửa
chuyển tiếp giữa cõi thực và cõi mộng, giữa ý thức và vô thức, giữa cảm giác và ảo giác. Các hình
ảnh thơ “khách đường xa”, “áo em”, “ở đây”, “ai” đều nhạt nhòa, hư hư ảo ảo. Hình ảnh “sương
khói”, “nhân ảnh” lan tỏa khắp không gian càng tăng thêm phần huyền bí, khiến tất cả trở thành ảo
giác mong manh. Điệp ngữ “khách đường xa, khách đường xa” làm nhấn mạnh giọng khắc khoải,
khẩn khoản. “Khách đường xa” ấy phải chăng là chuyến ghé thăm “ngục tù” tăm tối của nhà thơ,
phải chăng là một tia sáng từ thế giới bên ngoài mà nhà thơ luôn mong ngóng, đợi chờ. Hay phải
chăng “khách đường xa” ấy chính là bản thân tác giả trong hành trình tìm về chốn cũ, cảnh xưa, trở
về với kí ức thôn Vĩ, trở về với cuộc sống ngoài kia. “Áo em trắng quá nhìn không ra”

Câu thơ mang lý tưởng thẩm mỹ của Hàn Mặc Tử: sự thanh khiết. Nếu ở khổ đầu, sự thanh
khiết hiện lên qua vẻ đẹp thanh tú của vườn tược thôn Vĩ, thì đến đấy, vẻ đẹp ấy lại hiện lên qua sự
trinh khiết của nhân vật “em”. Sắc trắng tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khôi của cuộc sống mà nhà thơ
luôn ngưỡng vọng, kết hợp cùng từ “quá” có tính chất cực tả đã đẩy sắc trắng lên đến tột độ. Hình
ảnh thơ không chỉ đơn thuần là tình yêu đắm say với vẻ đẹp của nhân vật “em”, trung tâm thế giới
ngoài kia, mà còn mang nỗi đau chia lìa, mặc cảm số phận. Đọc thơ ta tưởng như nhà thơ đưa tay
nắm lấy chút hương sắc cuộc đời để rồi mở tay ra chỉ còn lại một chút hư không. Kết thúc bài thơ là
một câu hỏi tu từ: “Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu hỏi ấy vừa như một sự hoài nghi, tuyệt vọng, vừa như sự hy vọng. “Ai” là ai? Là em hay
là tôi? “Ai biết tình ai có đậm đà?”: Không biết tình em với tôi có đậm đà? Không biết em có biết
tình tôi đậm đà? Những câu hỏi ấy càng lúc càng xoáy sâu vào tâm can nhà thơ, day dứt khôn nguôi.

Nếu độc giả tiếp nhận “Đây thôn Vĩ Dạ” chỉ trên bề mặt con chữ, tầng nghĩa bên ngoài mà
không đào sâu vào “mạch ngầm” tác phẩm thì mãi không hiểu được bi kịch thân phận đau thương
đến tột cùng của tác giả - một chàng trai đang tuổi thanh xuân với biết bao ước mơ, hoài bão, lại bị
“vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi xa hết thảy mọi người thân thích”, bao nhiêu năm
“bó tay nhìn cả thế phách lẫn linh hồn cùng tan rã” (“Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh – Hoài
Chân). Qua những vần thơ ứa máu ứa lệ ấy, người đọc nhận ra một tấm lòng , sự gắn bó tha thiết yếu
cuộc đời. Và người đọc cũng nhận ra được rằng, cuộc sống này vô cùng ngắn ngủi, rằng thời gian
trôi qua sẽ mãi không quay trở lại. Để từ đó, con người thêm trân trọng cuộc sống này hơn, trân trọng
những phút giây mình còn được sống: “Cuộc đời đã ngắn ngủi như vậy mà chúng ta vẫn rút ngắn nó
thêm khi bất cẩn lãng phí thời gian” (Victor Hugo)

TRĂNG TỰ TỬ
Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh
Sao chẳng một ai hay
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ này
Tất cả âm dương đều tụ họp
Và ta ưng mây ngừng lại ở nơi đây
Để nghe, à để nghe
Bao giờ bí mật đêm thời loạn
Bao giọng buồn thương gió đã thề
Bao lời ai oán của si mê
Mà trai gái tự tình bên miệng giếng
Miệng giếng há ra
Nuốt ực bao la
Nuốt vì sao rơi rụng
Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng loạn
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng điên
Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên.
NHỮNG GIỌT LỆ
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?/ Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhựt tan thành máu, / Và khối lòng tôi cứng tợ si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại, / Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa...
Người đi, một nửa hồn tôi mất, / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? / Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết, / Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu
Hàn Mạc Tử cũng viết về ” Lệ” . Bài thơ ” Những giọt lệ ” mang đến cho người đọc rất nhiều
suy tư. Khổ thơ thứ nhất xuất hiện một câu hỏi thảng thốt:
” Trời hỡi bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì
bao giờ mặt nhật tan thành máu
và khối lòng tôi cứng tợ si?”
Kì lạ thay khi con người tự hỏi ” Bao giờ tôi chết đi”? Và lạ hơn nữa khi người ấy lạ tự hỏi một
lần nữa” Bao giờ tôi hết được yêu vì”? Phải chăng con người ấy không muốn được yêu vì? Hay
người ấy không muốn những người yêu mến mình phải đau khổ? Sự thật trong cuộc đời nỗi lo sợ
nhất của chúng ta không phải là nỗi khổ của bản thân mình mà lo những người yêu quý ta phải đau
khổ vì ta không thể , không có khả năng đền đáp lại họ. Hàn Mạc Tử cũng thế, trong hoàn cảnh khắc
nghiệt của mình anh không thể đáp lại tình cảm đối với những người yêu quý anh . Cho nên thi nhân
ước ” Bao giờ mặt Nhật tan thành máu, Và khối lòng tôi cứng tợ si” . Khi mặt nhật không còn, khi
cõi lòng tê cứng ta sẽ không phải đau lòng vì ta được yêu mà không đền đáp được nữa. Như vậy giọt
lệ thứ nhất là giọt lệ khóc cho những người yêu quý thi nhân. Giọt lệ thật vị tha và cao quý. Giọt lệ
thứ hai thi nhân khóc cho mình:
” Họ đã xa rồi khôn níu lại
lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
người đi một nửa hồn tôi mất
một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”
Những người yêu quý ta đã xa , Hàn không níu lại, mặc dù tình thương họ giành cho Hàn và
Hàn giành cho họ đều chưa đủ. Không níu lại nữa vì níu lại sẽ làm những người ấy đau khổ khôn
nguôi khi chứng kiến Hàn đang từng ngày tan rữa vì bệnh tật. Nhưng họ đi rồi, lại để lại trong lòng
nhà thơ nỗi trống trải đến tận cùng, đến mất mát: ” Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi
bỗng dại khờ”. Giọt lệ khóc cho mình cũng thanh cao không kém những giọt lệ khóc cho người. Nó
đầy đớn đau, thi nhân tự nguyện nhận hết về mình những đau đớn đó để cõi thế bớt lệ rơi. Giọt lệ thứ
ba là giọt lệ của tạo hoá khóc cho những số phận đau khổ như Hàn:
” Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
sao bông phượng nở trong màu huyết,
nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”
Nhà thơ lai thảng thốt tự hỏi về sự tồn tại của mình: ” Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?” Và băn
khoăn không biết ” Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu”? để đến lúc này nỗi đau nhân thế tràn ngập cả không
gian, cả không gian như ứa máu ” Sao bông phượng nở như màu huyết” . Có biết bao nhân tài đã
phải chịu những số kiếp thật cay đắng. Một lần nữa triết lí của Nguyễn Du lại văng vẳng bên tai ta :
” Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
cái án phong lưu khách tự mang”
Và cả đất trời cùng nhỏ lệ thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh đó:
” Sao bông phượng nở trong màu huyết
nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu”
Những giọt lệ này đẹp như những giọt châu. Ở đây Hàn Mạc Tử tự thương mình cũng giống
như Nguyễn Du tự thương mình hơn 200 năm về trước
” Chẳng biết 300 năm lẻ nữa
người đời ai khóc tố như chăng?
Bài thơ có 3 khổ thơ như ba giọt lệ ở cõi đời. Cả ba giọt lệ đó đều rất đẹp, rất cao quí. Đọc ” Những
giọt lệ” của Hàn Mạc Tử , người đọc ai cũng sẽ chạnh lòng thương cho một ai đó, thương cho một
điều gì đó ở cõi thế gian này. Nói như lời đề từ trong truyện ngắn ” Nước mắt ” của Nam Cao: ”
Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Và nước mắt là miếng kính
biến hình vũ trụ”. Bài thơ chính vì lẽ đó mà có giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc.

THẠCH LAM
TRUYỆN NGẮN: HAI ĐỨA TRẺ
I. Khái quát chung
1. Vị trí:
 Hai đứa trẻ là truyện ngắn tiêu biểu nhất cho đặc điểm phong cách sáng tác của Thạch Lam.
Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.
 Nội dung:
+ Truyện phản ánh chân thực cuộc sống nghèo nàn, lam lũ, tẻ nhạt và đầy bế tắc của người
dân phố huyện, đồng thời là của cả xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
+ Qua đó, nhà văn phát hiện, trân trọng, nâng niu khát vọng đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.
2. Bố cục: 3 phần
+ P1: Cảnh chiều tàn+ P2: Cảnh màn đêm buông xuống+ P3: Cảnh chờ tàu
3. Đề tàiTruyện tái hiện cuộc sống chìm trong bóng tối và niềm khao khát ánh sáng của những
kiếp người nhỏ bé, tội nghiệp nơi phố huyện
II. Đọc hiểu
1. Cảnh phố huyện lúc chiều tàn và tâm trạng của Liên
1. Bức tranh thiên nhiên lúc chiều muộn
a. Âm thanh:
+ Tiếng trống thu không: từng tiếng một … gọi buổi chiều+ Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng
ruộng+ Tiếng muỗi vo ve
b. Màu sắc:+ Phương Tây đỏ rực như lửa cháy+ Đám mây ánh hồng+ Dãy tre đen lại…
 Đoạn văn thực sự là một bức họa đồng quê quen thuộc, gần gũi, gợi cảm; một bức tranh quê
hương bình dị nhưng không kém phần mơ mộng.
 Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp thi vị đó, thiên nhiên phố huyện còn phảng phất nỗi buồn về một
vùng quê tĩnh lặng, nghèo nàn, lam lũ
 Giọng văn nhịp nhàng, dịu nhẹ, lối viết đậm chất thơ, giàu cảm xúc và nhạc điệu. Mỗi câu văn
như một nét vẽ đơn sơ không cầu kì, kiểu cách nhưng đã gợi được cái hồn của cảnh vật.
2. Bức tranh đời sống xã hội
a. Cảnh chợ tàn:
+ Vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất
+ Trên đất: rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía
+ Một mùi âm ẩm bốc lên
+ Một số người bán hàng về muộn…đứng nói chuyện ít câu nữa.
 Nhận xét: Thạch Lam chọn 1 cảnh chợ tàn để lột tả chân thực cuộc sống, mức sống ở phố
huyện, một khu chợ hoang sơ, tiêu điều, hắt hiu, ảm đạm; thậm chí có phần thê lương. Cảnh
chợ tàn đó đã lột tả cuộc sống lam lũ, nghèo khó; mức sống đã yếu, đã kém lắm rồi.
b. Những kiếp người tàn:
 Mẹ con chị Tí:
+ Ban ngày mò cua bắt ốc
+ Ban đêm: bán hàng nước (cốc chè tươi và điếu thuốc lào). Phụ thuộc vào sự cao hứng của mấy
chú lính lệ của phu gạo, phu xe.
+ Công việc của chị Tí lặp đi lặp lại đơn điệu, tẻ nhạt, nhàm chán.
 Hình ảnh: ngọn đèn trên gian hàng: mang biểu tượng cho chính những kiếp người nhỏ bé, lay
lắt, tàn tạ phố huyện.
 Chị em Liên:
+ gian hàng tạp hóa nhỏ
+ Tấm phiên dán giấy nhật trình
+ Ngày phiên: 2,5 bánh xà phòng, còn chịu
+ Có ăn thua gì…
 Bà cụ Thi điên:+ Bà già hơi điên+ Ngửa cổ uống rượu
+ Tiếng cười khanh khách+ Bà đi lảo đảo
 Những đứa trẻ con:+ Nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre
 Cuộc sống của những kiếp người tàn phố huyện nghèo khó, lam lũ, quẩn quanh, bế tắc; dường
như không có tương lai, không có hi vọng.
c. Tâm trạng của Liên
+ Ngồi lặng bên mấy quả thuốc sơn đen
+ Đôi mắt ngập đầy bóng tối
+ Lòng buồn man mác…
 Liên là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm, kín đáo, trầm tư
+ Cảm nhận mùi riêng của đất, của quê hương
 Gắn bó tha thiết với quê hương
+ Nhìn những đứa trẻ nghèo, Liên động lòng thương
 Liên giàu tình cảm
2. Cảnh phố huyện khi màn đêm buông xuống
a. Cảnh màn đêm
Bóng tối Ánh sáng
 Tối hết cả  Khe ánh sáng
 Sẫm đen hơn  Ngọn đèn Liên thưa thớt từng hột
nữa sáng
 Ánh sao, đom đóm
 Ngọn đèn của chị Tí: quầng sáng
 Ngọn đèn bác Siêu: một chấm lửa nhỏ

 Thủ pháp đối lập tương phản làm nổi bật tương quan giữa bóng tối và ánh sáng. Trong khi
bóng tối bao trùm, lấn áp, dày đặc thì ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt, leo lét.
 Bóng tối và ánh sáng là 2 hình ảnh biểu tượng. Bóng tối tượng trưng cho cuộc sống nghèo
nàn, tăm tối, cực khổ của phố huyện, cũng như của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8.
Ánh sáng là biểu tượng cho sự sống yếu ớt, nhỏ bé, tù mù của những kiếp người tàn tạ.
b. Những kiếp người trong đêm tối
 Gia đình bác xẩm:+ Hát xẩm, manh chiếu rách+ 1 đàn bầu, thằng con lấm lem+ Chưa hát
vì chưa có khách nghe
 Bác phở Siêu+ Bán phở+ Là một thứ quà xa xỉ 🡪 nguy cơ ế ẩm cao nhất+ Lầm lũi, quẩy
gánh hàng, bóng bác mênh mang đổ dài trên hàng rào.
Nhận xét: Trong đêm tối, những gương mặt quen thuộc của những kiếp người phố huyện vẫn tiếp tục
hiện lên chất chứa bao xót xa. Đó là một cuộc sống không chỉ khốn khó mà còn vô cùng tẻ nhạt,
nhàm chán, đơn điệu, bế tắc.
Viết về bức tranh đời sống phố huyện, ngòi bút Thạch Lam lại đậm chất hiện thực. Tác giả đã lột tả
chân thực cuộc sống tàn lụi, tiêu điều, xơ xác quá ưu buồn; vắng, không chút náo động. Mỗi người
một hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều chung một cái khốn khó; họ phó mặc cho số phận, không có
tương lai.
Do vậy, thế giới của 2 đứa trẻ là một thế giới đang lụi dần, tàn dần khiến người đọc thương cảm.
Bức tranh tràn ngập bóng tối nhưng vẫn chói sáng một tình thương hiền hòa, nhân hậu, xót thương,
chân thành của tác giả. Nhà văn vẫn cảm thông thấu hiểu và lắng nghe những khát vọng nhỏ bé của
con người nơi phố huyện.
c. Tâm trạng của Liên
+ Liên ngồi yên trên chõng dõi theo những người về muộn từ từ đi trong đêm
 Liên vẫn là 1 cô gái trầm tư nhưng giàu cảm xúc. Em vẫn cảm thông với chị Tí, với gia đình
bác xẩm, vẫn sẻ chia với cuộc sống của mọi người trong đêm tối. Em cảm nhận được một
cách sâu sắc cuộc sống tối tăm mà mọi người xung quanh đang sống, đang đắm chìm trong
bóng tối.
+ Liên lặng ngước nhìn bầu trời đầy sao
 Cô gái ngây thơ, trong sáng, hồn nhiên, yêu thiên nhiên bằng tâm hồn vô tư nhất của 1 đứa trẻ
mới lớn.
+ Nhớ về Hà Nội: được đi chơi bờ hồ, được uống nước xanh đỏ, được ăn kem Hồ Tây
 Hà Nội lấp lánh đầy ánh sáng
 Quá khứ tươi đẹp, một kí ức ngọt ngào đáng sống. Hà Nội nhiều đèn và là một vùng sáng rực,
vui vẻ, huyên náo trong kí ức của Liên.
 Liên luôn mơ về ánh sáng và khao khát ánh sáng. Nếu những đứa trẻ ở phố huyện, chúng khổ
nhưng không biết mình khổ thì liên ý thức sâu sắc về cuộc sống tù đọng, đơn độc hết ngày
này sang ngày khác ở phố huyện. Quá khứ ngập tràn ánh sáng ở Hà Nội luôn ám ảnh Liên. Đó
là bi kịch tinh thần, nỗi khổ tinh thần ấy còn lớn hơn nỗi khổ vật chất.
3. Cảnh chờ tàu
a. Phố huyện khi đoàn tàu đi qua
 Ánh sáng:+ Một làn khói bừng sáng trắng+ Toa đèn sáng trưng+ đồng và kền lấp lánh
 Âm thanh:+ Tiếng xe rít mạnh vào ghi+ Rầm rộ đi tới+ Tiếng còi rít lên+ Tiếng hành khách
ồn ào, khe khẽ
 Nhận xét: Đoàn tàu đem lại cho phố huyện một ánh sáng rực rỡ, chàn hòa; một không khí náo
nhiệt; một thế giới hoàn toàn khác hẳn với thế giới hiện tại tịch mịch và đầy bóng tối. Đó là sự
giàu sang và niềm vui.
b. Tâm trạng chờ tàu của Liên
 Chờ tàu với Liên như chờ đợi một điều thiêng liêng, ý nghĩa
 An: buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố dặn chị gọi dậy
 Liên: + Cố thức đợi tàu, Ngồi yên không động đậy+ Cảm nhận được từng loạt hoa bàng rụng
xuống vai khe khẽ, thỉnh thoảng+ Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn
 Nhận xét: Chờ tàu đối với Liên không chỉ là niềm say mê, một nỗi khắc khoải mà còn là một
nhu cầu bức thiết về mặt tinh thần như đang chờ đợi một điều gì vô cùng thiêng liêng, ý
nghĩa. Đoàn tàu là niềm vui duy nhất trong ngày ở phố huyện.
 Đoạn văn cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Thạch Lam. Nhà văn không chú ý
đến cốt truyện, đến tình huống li kì mà chú trọng miêu tả những rung động tinh tế trong nội
tâm nhân vật bằng một giọng văn dịu nhẹ, sâu lắng rất đặc trưng.
 Nguyên nhân chờ tàu+ Không phải để mong bán thêm hàng
+ Vì đoàn tàu đem đến cho phố huyện 1 cuộc sống, một thế giới khác hẳn, náo nhiệt, giàu sang.+
Đoàn tàu chạy đến từ Hà Nội: chạy đến từ tuổi thơ đã được đánh mất, đoàn tàu giúp Liên được
sống, được đắm mình trong một tuổi thơ đẹp đẽ, đáng sống.
Lí do chờ tàu tuy nhỏ bé nhưng rất chính đáng. Nó không xuất phát từ nhu cầu vật chất mà xuất phát
từ nhu cầu bức thiết về mặt tinh thần. Điều đó cho thấy hai đứa trẻ vừa đáng thương, vừa đáng trọng:
Cuộc sống tăm tối, tù đọng ở phố huyện chưa bao giờ làm dập tắt đi ở Liên ước mơ về một thế giới
khác đáng sống. Vẫn tin điều đó, Liên lặng theo mơ tưởng. Mơ về Hà Nội xa xăm sáng rực và huyên
náo là mơ về một cuộc sống nhiều ánh sáng, nhiều niềm vui, là ước mơ hi vọng đổi thay cuộc sống
hiện tại,
Đây là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Thạch Lam trân trọng, nâng niu khát vọng đổi đời của 2
đứa trẻ.
c. Tâm trạng Liên khi tàu qua
+ Đoàn tàu đến và đi trong chốc lát, phố huyện trở lại với bóng tối và sự tịch mịch vốn có (tiếng
trống cầm canh, tiếng chó cắn, bóng tối mênh mông)
+ Con người: sửa soạn về nghỉ, gia đình bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu.
+ Liên: lặng theo mơ tưởng, tiếc nuối, cảm nhận rõ cuộc sống tù mù ở phố huyện, chú ý ngọn đèn
của chị Tí
 Con tàu đến đẹp như một giấc mơ và cũng ngắn như một giấc mơ khiến cho Liên nuối tiếc,
hụt hẫng. Cả phố huyện đã hết náo động, chỉ còn đêm khuya hiện nguyên hình là một phố
huyện chìm trong bóng tối và sự tĩnh lặng, khiến Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa
xôi.
 Chuyện khép lại bằng chi tiết ngọn đèn của chị Tí mang sức gợi, sức ám ảnh giàu giá trị biểu
tượng. Ngọn đèn một lần nữa biểu tượng cho những kiếp người nhỏ bé sống lay lắt.
 Chi tiết đó thể hiện thái độ cảm thông, sự xót thương của nhà văn. Đồng thời nhà văn bày tỏ
một thông điệp: đừng để những con người nhỏ bé kia bị chìm lấp trong đói nghèo tăm tối,
đừng để họ bị lãng quên.
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
 Truyện dường như không có cốt truyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật Liên
 Giọng văn nhẹ nhàng, thấm thía, nhịp văn chậm rãi, lời văn bình dị, tinh tế và lắng sâu
 Yếu tố hiện thực và lãng mạn hòa quyện
2. Nội dung
Truyện như một bài thơ trữ tình đầy xót thương gửi gắm tiếng lòng nhân ái sâu sắc của Thạch
Lam với những con người phố huyện, với những kiếp người phố huyện thông qua bức tranh cuộc
sống tù túng, tàn tạ nhưng vẫn khao khát ánh sáng của họ.
 Giá trị hiện thực: Truyện tái hiện chân thực cuộc sống tù đọng, tàn tạ, nghèo nàn. Những con
người nơi đây như đang bị vùi dần, chìm đi trong quên lãng. Qua đó, tác giả phản ánh xã hội
VN trước cách mạng tháng 8.
 Giá trị nhân đạo: Thạch Lam vừa có tấm lòng xót thương với những kiếp người lam lũ, tội
nghiệp đồng thời trân trọng ước mơ đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.
TRUYỆN NGẮN: TỐI BA MƯƠI
“Tối Ba mươi” là truyện ngắn tiêu biểu cho lối viết của Thạch Lam. Đến với thiên truyện, người đọc
được lắng sâu cùng nỗi niềm tha hương của hai cô gái làng “săm” trong thời khắc đặc biệt - đêm Ba
mươi, khi mọi người, mọi nơi đang chuẩn bị đón Giao thừa.
Thái độ cảm thông, chia sẻ với nỗi khổ của con người đặc biệt người phụ nữ được Thạch Lam thể
hiện trong tác phẩm Tối ba mươi. Truyện kể về tâm trạng hai cô gái nhà Săm – Liên và Huệ trước
khoảnh khắc giao thừa. Thật ra viết về kiếp “ngựa - người” này không phải là một đề tài mới mẻ.
Nhưng Tối ba mươi của Thạch Lam vẫn gây được xúc động mạnh mẽ với người đọc bởi cái giọng
văn thủ thỉ, tâm tình của một cây bút thâm trầm, đôn hậu. Giao thừa – đó là giây phút thiêng liêng, là
khoảnh khắc giao thời của năm cũ và năm mới, là lúc con người ta tạm gác mọi công việc mọi công
việc bộn bề lo âu để sum vầy trong bầu không khí ấm cúng của gia đình. Thế nhưng, cái niềm hạnh
phúc bình dị ấy đối với Liên và Huệ lại là ước mơ, là khao khát - một khao khát đau đớn đến khẩn
thiết. Thực tại đối với hai cô quá chua xót, phũ phàng.
Chi tiết: Căn buồng số 12
 Đó là một căn phòng nhà “săm” - nơi tá túc của hai cô gái tha hương, Huệ và Liên trong “Tối
Ba mươi”. “Dưới ánh ngọn đèn mờ”, những vật dụng trong căn phòng hiện lên thật “bẩn
thỉu”:
+ “Cái giường Hồng Kông cũ, đồng han và gỉ sạm, cái bàn gỗ ẩm ướt ở góc tường, hai cái ghế
long chân”. Huệ đứng trong căn phòng, qua cửa kính nhìn xuống đường, “mưa bụi vẫn bay tơi tả,
hình như bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp bùn, không
một bóng người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu ở khắp các phố Hà Nội đêm
này”.
Không gian của truyện, ngay từ đầu đã bị bao phủ bởi bóng tối, bởi sự vắng lặng, tù đọng và nhơ
nhớp. Không gian như chính cuộc đời của hai cô gái nhà “săm”. Không gian chất chứa nỗi niềm u
uẩn của hai kẻ tha hương. Giọng văn chậm buồn như trĩu nặng nỗi xót xa của nhà văn Thạch Lam với
thân phận đáng thương của hai cô gái trong thời khắc đặc biệt -“Tối Ba mươi”.
Trong “Tối Ba mươi” - trong ngày cuối cùng của năm cũ, dù bất cứ ở đâu, mọi người, mọi nhà cũng
sẽ chuẩn bị để đón Giao thừa, đón Tết. Tết đến “thăm” hai cô gái ở “trong cái buồng nhà săm này
cũng như đến những nơi thơm tho đầm ấm”. Chỉ có điều, trong căn phòng số 12 này, ngày thường
vốn tấp nập, nhưng trong đêm Ba mươi lại vắng lặng, u buồn. Sự thay đổi đó làm con người ta“nghĩ
đến sự trơ trọi của đời mình”.
+ Trong Liên, “cái buồn ghê gớm chỉ chực kéo đến giày vò”.
+ Huệ thì “lặng im, thoáng nghĩ đến thân thế lưu lạc của hai chị em và lòng se lại”, tâm trí “tưởng
đến những căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người trong nhà đang tấp nập sửa
soạn đón năm mới trong sự thân mật của gia đình”.
Cuộc đời xô đẩy hai cô gái lưu lạc chốn tha hương. Huệ thì “còn đâu nhà nữa mà về”, “Mẹ chết rồi,
cha đi lấy vợ khác không biết ở đâu”,“Bảy tám năm nay cô không về đến làng, chẳng biết những
người quen còn ai không”. Hoàn cảnh đã xô đẩy cô gái đến cảnh phải “xa cửa xa nhà” trong cả lúc
Tết đến. Nghĩ đến mình, Huệ lại “thương hại” cho Liên, vì cô ấy vẫn còn cha mẹ nhưng “không dám
về”. “Hai người sống cái đời trụy lạc ở Hà Nội từ lúc bỏ nhà ra đi”.
+ Trong giờ khắc “Tối Ba mươi”, ở căn buồng nhà săm “trong một cảnh ăn Tết lạnh lẽo”, Huệ
“nhắm mắt lại”, nước mắt “rơm rớm ở hàng mi”. Cô nhớ lại cuộc đời của mình, nhớ “lúc trẻ thơ,
lúc còn con gái ở nhà quê”, được mặc áo mới, đứng trên thềm “nhìn mấy bông hoa đào nở trước
vườn vào một buổi sáng mồng Một Tết”… Kí ức đem lại cho cô gái cảm giác“một sự gì trong
mát, tươi non”. Vệt sáng ấy lấp lánh trong miền kí ức sâu xa, trĩu nặng nỗi niềm nhớ tiếc và mang
theo mong ước về cuộc sống tốt đẹp hơn. Chỉ có điều, vệt sáng nhỏ nhoi ấy không đủ sức chiếu
rọi vào cuộc đời tối tăm của cô gái. Đối diện với thực tại, tâm hồn Huệ “u ám và nặng trĩu
xuống”. Quá khứ như ánh hào quang rực rỡ và ấm áp le lói trong bóng tối dày đặc của đêm Ba
mươi, le lói trong tâm hồn u uẩn của cô gái tha hương, làm dấy lên nỗi xót xa. Nhưng chính nỗi
muộn phiền ấy đã giữ lại phần tâm hồn, nhân cách của những số phận bị xô đẩy vào chốn bùn
nhơ. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng nhưng thâm trầm, sâu sắc là ở những phát hiện tinh tế như thế.
Khoảnh khắc kí ức ùa về của Huệ trong “Tối Ba mươi” làm ta liên tưởng đến hồi ức của Liên về Hà
Nội trong một sáng tác khác của nhà văn Thạch Lam - truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Trong sự vây phủ
của bóng đêm phố huyện, tâm hồn Liên ánh lên một vầng sáng êm dịu, đó là hào quang của quá khứ
phản chiếu - khi thầy Liên chưa mất việc, Liên còn ở Hà Nội, được thưởng thức quà ngon, lạ, “bấy
giờ mẹ Liên nhiều tiền”, Liên “được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Vùng sáng
rực và lấp lánh của kỉ niệm cùng ấn tượng “Hà Nội nhiều đèn quá!” là thứ ánh sáng dịu êm vừa đủ
tiếc nhớ khi Liên đối diện với hiện tại tối tăm, vừa như muốn thắp lên ước mơ cho cuộc đời nghèo
khổ. Quầng sáng ấy thật đẹp, thật đáng để nâng niu!
 “Tối Ba mươi” là một phát hiện trên hành trình kiếm tìm cái đẹp của nhà văn lãng mạn.
Đón Giao thừa
Trong căn phòng số 12, “Tết đến nơi rồi”. Trước khi về đến phòng, Liên đã “chạy vội khắp các phố”
mang về “những thức ăn rẻ tiền mua hấp tấp ở các hiệu khách trước giờ đóng cửa đêm Ba mươi”.
Thức ăn “được gói bọc trong giấy nhật trình buộc bằng dây cói”. Mở cửa, không thấy nét mặt vui vẻ
của Huệ thò ra đón, thay vào đó, Liên chỉ thấy “vẻ lạnh lẽo của căn phòng”, và cảnh tượng Huệ
“đương cuộn chăn nằm ngủ trên giường, tóc xõa ra trên gối trắng”. Gạt vội cảm giác cái vui trong
lòng “mong manh sắp tắt”, Liên “để các gói xuống bàn, giũ bụi mưa trên áo rồi vội vàng tung chăn ra
bên xốc Huệ lên”. Cô cũng “không muốn nghĩ vơ vẩn nữa”, cố đè nén “cái buồn ghê gớm chỉ chực
kéo đến giày vò”, để “vội cười lên”. Hai chị em cùng soạn sửa đón Giao thừa.
Các gói giấy được mở ra. Trong đó có lạp xường, bánh chưng, giò lụa, gan cá kho, mấy quả cam đỏ -
những món ăn quen thuộc trong các gia đình ngày Tết. Đang lúc “lặng im, tự dưng thoáng nghĩ đến
thân thế lưu lạc của hai chị em”, Liên vội vỗ vai Huê “- Phải vui vẻ lên một tí chứ, sắp Giao thừa rồi
đây này”. Huệ theo Liên vào để thắp hương cúng gia tiên.Các đồ cúng nghèo nàn bỗng bày lộ ra
trước mắt hai người: “Trên chiếc bàn rửa mặt đầy vết bẩn, Liên đã đặt đĩa cam quít, cái bánh chưng
và thếp vàng. Mấy gói lạp xường và giò cũng để ngay bên”. Huệ không quên mua gạo để bỏ vào bát
hương. Có gạo nhưng lại không biết “đổ vào cái gì”. Hai chị em nhìn quanh gian buồng, Liên phát
hiện ra cái cốc “bỗng reo lên: - Đổ vào cái cốc này này. Phải đấy, rất là...”. Ngay lúc đó, Liên “im bặt
dừng lại” khi nghĩ đến “cái cốc bẩn đến những khách làng chơi cũng không dùng đến” nên không thể
dùng làm bát hương cúng tổ tiên. Ý nghĩ đó cũng vừa mới đến trong trí của Huệ. Hai chị em quyết
định cắm hương lên tường.
Dù chỉ là trong căn buồng nhà “săm” tối tăm, bẩn thỉu thì ở thời khắc chuẩn bị Giao thừa, hai cô gái
tha hương vẫn một lòng hướng về tổ tiên. Trong lòng họ không thôi khát khao tổ ấm, khát khao đoàn
tụ gia đình. Khi không gia đình, khi bị xô đẩy vào cảnh sống tha hương, niềm khát khao ấy thật đáng
thương nhưng cũng thật đáng trân trọng. Bởi đó là phần thiện căn, phần nhân cách con người mà
hoàn cảnh xô bồ đến mấy cũng không thể hủy diệt được. Truyện ngắn của Thạch Lam luôn tìm kiếm,
phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp tâm hồn con người ở địa hạt sâu kín như thế.
Vừa lúc sửa soạn xong đồ cúng thì Huệ và Liên nghe tiếng gõ cửa. Hai chị em “luống cuống nhìn các
đồ cúng trên bàn”, “muốn dọn hết”, nhưng không kịp. Huệ “nhanh trí” đứng dựa bên bàn che khuất
chỗ vừa bày biện. Người bồi săm xuất hiện. Bác nhờ hai cô giữ hộ chìa khóa để về ăn Tết. Trước khi
rời phòng, người bồi không quên “chúc mừng trước hai cô nhé! Chúc hai cô sang năm mới được...
được”. Lời chúc ấp úng vì không biết nói gì thêm. Liên đỡ lời cảm ơn rồi đóng cửa buồng lại.
Khi “tiếng cánh cổng sắt dưới nhà rít lên trong yên lặng lạnh lùng”, hai con người tha hương cảm
thấy “gian buồng bỗng trở nên rộng rãi quá chừng: Một cái lạnh thấm thía đến tâm hồn”. Khung cảnh
của cuộc đời trụy lạc hiện diện khắp căn phòng: “Cái giường sắt lạnh, đệm và gối hoen bẩn, cái thau
gỉ, cái bô và cái cái bàn rửa mặt gỗ đã mọt”.
Để phá tan sự im lặng đáng sợ trong căn phòng, Liên nhắc Huệ thắp hương. Khói hương lên thẳng rồi
tỏa ra mùi thơm ngát “đem dẫn hồn người về kỉ niệm những ngày cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn
là những cô gái trong sạch và ngây thơ”…
Nhưng chút ấm áp của kỉ niệm vẫn không đủ sức xua đi thực tại “thất vọng, chán chường” trong đêm
Ba mươi. Sau khi Huệ “đặt lại cái đĩa trên bàn, xếp vàng cho ngay ngắn”, Liên tiến đến trước bàn
thờ, đứng yên vì không biết khấn sao đây. Rồi cô “bỗng nấc lên, rung động cả vai rồi gục xuống ghế,
tay ấp mặt. Những giọt nước mắt nóng chảy tràn mí mắt”. Liên cảm thấy “một nỗi tủi cực mênh
mang tràn ngập cả người, một nỗi tiếc thương vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt
với những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường”. Huệ cũng “cảm động nghẹn ngào”, gục
vào vai Liên, “nước mắt cũng ứ lên rồi lặng lẽ trào ra má”. Khi “tiếng pháo Giao thừa bỗng nổi vang
gần đấy, rồi từ nhà nọ sang nhà kia lan rộng mãi vào đêm tối”, hai cô gái “nép vào nhau yên lặng”.
Tiếng pháo Giao thừa khép lại thiên truyện, để lại thật nhiều dư ba. Âm thanh “nổi vang” ấy xua đi
cái u ám, tịch mịch của “Tối Ba mươi”, “những ước mong của tuổi trẻ” lại được thắp lên cùng mùa
xuân. Tết sẽ gieo vào lòng người những niềm hi vọng, niềm tin về cuộc sống. Niềm tin ấy được khơi
gợi, được nhen lên trong miền tâm thức của nhân vật khi nhớ về Tết của ngày xưa cũ. Sự vận động
của không gian và thời gian nghệ thuật của truyện từ u tịch, tối tăm ẩm ướt của đêm Ba mươi đến cái
dội vang của pháo Giao thừa đón năm mới, thắp lên trong lòng người hi vọng về cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Thạch Lam từng quan niệm: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm
tàng ở mọi vật bình thường. Công việc của nhà văn là phải hiểu cái đẹp ở chính chỗ mà người ta
không ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và
thưởng thức”. “Tối Ba mươi” là một phát hiện trên hành trình kiếm tìm cái đẹp của nhà văn lãng mạn
ấy. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình, man mác, giàu xúc cảm, trong thiên truyện ngắn
“Tối Ba mươi”, Thạch Lam đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, bắt kịp những cảm xúc tinh
tế, ghi lại được những thoáng chốc, những lát cắt tâm trạng trong sự tương tranh giữa không gian,
ngoại cảnh và lòng người. Chính trong dòng chảy cảm xúc ấy, nhà văn phát hiện, khẳng định những
vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, quý giá của cuộc sống con người. Nỗi niềm của Liên và Huệ trong thiên
truyện trở thành những thanh âm cuộc đời để lại nhiều dư ba trong cảm xúc của người đọc.
TRUYỆN NGẮN: ĐÓI
Đến với “Đói”, người đọc thấm thía sự cồn cào vì đói của Sinh, xót xa cho sự tan vỡ của đôi vợ
chồng trẻ vốn rất thương yêu nhau. Đến với truyện ngắn Đói, Thạch Lam còn cho người đọc thấy
hoàn cảnh có thể biến con người ta trở thành con vật. Sinh vốn là một người đàn ông có danh dự và
tự trọng. Khi biết Mai vợ chàng đã bán mình để kiếm miếng ăn, Sinh tức giận hất cả mấy gói đồ ăn
xuống đất, chàng tát vợ và đuổi nàng ra khỏi nhà. Thế nhưng khi vợ chàng đi rồi, cơn đói lại kéo đến
giày vò chàng, cơn đói như cào ruột, xé gan mãnh liệt át hẳn cả nỗi buồn. Chính cái đói đã biến Sinh
thành một con vật với cử chỉ đầy bản năng: “Sinh ăn vội ăn vàng không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng
nắm chặt miếng thịt trong tay nhầy nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng”. Ta đã
từng cảm giác ghê sợ khi đọc những truyện ngắn viết về cải đói của Nam Cao và bây giờ đọc Đói của
Thạch Lam, ta không thể nào xoa dịu được nỗi xót xa trong lòng. Cái đói có sức mạnh làm cho con
người bị tha hóa một cách ghê gớm.Nhân vật Mai biết việc mình làm là tội lỗi nên đã cố ý tránh để
chồng khỏi bị nhục vì miếng ăn "nhỏ bé" hàng ngày chứ nàng không phải là một kẻ lừa dối, xấu xa
như chồng nghĩ. Nhưng chồng cô không hề thấu hiểu cô mà vô tình đã đuổi cô đi, mắng mỏ. Vẫn là
sự hi sinh thầm lặng, Mai không biện minh cho những hành động của mình.
Nỗi khổ đau và bất hạnh nhân lên gấp nhiều lần mà không có ai thấu hiểu, cảm thông. Bi kịch người
phụ nữ được đẩy lên đến cao trào hơn bao giờ hết.
TRUYỆN NGẮN “CÔ HÀNG XÉN”
1. Tóm tắt văn bản:
Cô hàng xén là một truyện ngắn của Thạch Lam, xoay quanh cuộc đời của Tâm - cô gái bán hàng
xén. Tâm là hiện thân của cái đẹp, của sự chịu thương chịu khó của những người phụ nữ Việt Nam
xưa.
Trong truyện, Tâm là cô gái bán hàng xén, thường gánh hàng ra ngoài chợ để bán. Cô có bố mẹ, có
thêm một cậu em trai nhỏ tuổi đang ăn học. Tác giả miêu tả Tâm là người con gái hiền lành, xinh
xắn, khi mang gánh hàng đi còn bị rất nhiều chàng trai trêu ghẹo. Đã đẹp người, Tâm còn đẹp cả nết.
Cô dùng công việc để kiếm tiền lo cho em ăn học, lo cho cả nhà mà không oán thán lấy nửa lời. Hình
ảnh cô gái ngại ngùng và tương tư về anh giáo trẻ cũng là một điểm rất đáng yêu của cô gái, khi ngại
ngùng nhưng là phận con gái nên chưa dám tỏ lời.
Cuối cùng, Tâm qua lời bà mối mà lấy người con trai mình yêu thích. Nhưng có lẽ cuộc đời trái
ngang, Tâm lấy được người chồng mình yêu thương nhưng cuộc sống bôn ba kiếm kế sinh nhai vẫn
phải tiếp diễn. Hai năm sau khi cưới, cô hạ sinh con trai đầu lòng, nhưng chỉ nửa tháng ở cữ đã phải
gánh hàng ra chợ bán. Không chỉ lo bên nhà nội, cuộc sống ở nhà ngoại cũng đè nặng lên đôi vai gầy
của Tâm. Cô vẫn kiếm tiền lo cho đứa em trai ăn học, cố gắng thỏa mãn những yêu cầu để đứa em
trai được vui vẻ, được bằng bạn bằng bè.
Dường như, cả cuộc đời của Tâm đều chưa được hưởng phút giây hạnh phúc. Dù lấy được người
chồng tốt, có đám hỏi rình rang nhưng cuộc sống của Tâm vẫn chẳng như ý vì gia cảnh của nhà
chồng. Cô vẫn phải đi sớm về hôm để làm việc, tất bật chu đáo chăm chồng, lo con, rồi còn lo cho
đứa em trai đang đi học. Đó là lý do tại sao Tâm ngưỡng mộ Liên - người bạn bán hàng lúc xưa
nhưng nay đã lấy được anh chồng giàu có. Liên sống sung túc hơn, vẫn giữ được vẻ trẻ đẹp của thiếu
nữ còn Tâm thì không. Vì những khó khăn trong cuộc sống, cô đã trở nên già nua và mệt mỏi. Nhưng
đó mới chính là hình ảnh những người phụ nữ xưa của Việt Nam - những người phụ nữ tảo tần chưa
từng sống vì bản thân mình.
Bằng những tình huống và bút pháp miêu tả vô cùng đặc sắc, Thạch Lam đã cho người đọc thấy được
hình ảnh cô hàng xén xinh đẹp và chăm chỉ. Tuy nhiên, số phận lại bất công, chưa đem lạicho cô gái
ấy hạnh phúc. Nhưng đó lại chính là cuộc sống thực tế của Việt Nam xưa.
2. Phân tích Chợ huyện một tháng sáu phiên Gặp cô hàng xén kết duyên Châu, Trần
Tác phẩm bắt đầu bằng một câu ca dao dung dị, mộc mạc để từ đó Thạch Lam dẫn chúng ta bước hẳn
vào thế giới của một cô hàng xén nào đó ở thôn quê Việt Nam. Cô Tâm đẹp người đẹp nết, ngồi bán
hàng kim chỉ, gương lược... lấy tiền nuôi gia đình và em trai đi học. Rồi cô đi lấy chồng, một cậu tú
nghèo. Trách nhiệm với nhà chồng và nhà mình dồn lên vai cô như một thứ quang gánh vô hình
nhưng nặng trĩu. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh Tâm “cúi đầu đi nhanh trong bóng tối”.
Cô hàng xén tên Tâm trong cái buổi chợ phiên hôm ấy là người xinh đẹp nức tiếng lại đảm đang nết
na, nổi tiếng khắp vùng đến mức “ bọn con trai cứ hay quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời chòng
ghẹo”. Tuy nhiên ở Tâm, cái nghèo đói tưởng như một thứ khí quyển thứ hai vây quanh cuộc sống
của cô, nó hắt lên những món hàng xén lặt vặt của Tâm một tương lai mịt mờ vô vọng. Tâm là chị
Cả, là con gái đầu, lại là vợ của một thầy giáo nghèo, cô phải hoàn thành tốt ba vai trò ấy cùng một
lúc là một việc quá sức và áp lực. Nào là “lo tiền cho chồng vụ thuế, những lúc giỗ tết, phải may vá
cho Bài: chiếc áo lương mới chàng sắm ngày cưới đã bắt đầu bạc và rách rồi”, nào là “em Lân đã lên
trường tỉnh, sự tốn kém lại càng tăng thêm” , về nhà chồng ít lâu Tâm còn sinh con, gánh nặng trên
vai cô càng “cong xuống và rền rĩ”. Tâm không muốn mang tội nợ với bất cứ người thân nào của
mình cho nên cô đã chọn cách quên đi bản thể, hy sinh đi lợi ích của riêng mình, sống vì người khác
chứ không sống cho mình. Con đường đi chợ của Tâm mỗi ngày dài thêm, chợ này bán ít thì cô lại
sang chợ khác, cứ thế mà dài ra mãi, gánh hàng xén đong đưa theo nhịp chân đi và đôi vai gầy càng
thêm còm cõi. Ngày qua ngày tần tảo hôm sớm, ra đi khi trời còn sương muối xót và lạnh, ra về lúc
trời chập tối gió bấc và mưa phùn hiu hắt, cuộc đời Tâm cứ thế trôi đi thầm lặng. Cô Tâm xinh đẹp
dễ thương ngày xưa nay trở thành một người đàn bà đứng tuổi. Nghĩ đến Liên, người bạn ngày xưa
hay đi chợ cũng cô đã có một cuộc sống sung túc giàu sang, Tâm cũng khẽ chạnh lòng và thở dài
“bây giờ các chị em cũ không còn ai ở lại để cùng sẻ chia những nỗi khó nhọc với nàng”. Đây là lần
đầu tiên Tâm nghĩ cho mình, thoáng chút băn khoăn, than thở cho số phận, nhưng rồi giây phút riêng
tư ấy cũng nhanh chóng trôi đi bởi còn cha mẹ, các em rồi còn chồng con đang trông chờ ở Tâm, ở
gánh hàng xen vụn vặt mà nuôi sống được bao nhiêu con người. Đức hy sinh đối với Tâm tưởng như
một bản năng hình thành từ trong máu thịt và chấp nhận nó như một lẽ hiển nhiên của cuộc sống bởi
vì “có đâu chỉ một mình cô: trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải
chịu khó, và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em”.
Đến cuối tác phẩm, sau khi đưa hai chục bạc - số tiền lấy họ của chồng cho em Lân, Tâm trở về
nhà trong nỗi buồn và lo sợ, “nàng cúi đầu đi nhanh vào bóng tối”. Sự sợ hãi loang dần trong bóng
tối ở kết thúc tác phẩm không phải một nỗi sợ sinh lý, mang tính bản năng mà đó là sự sợ hãi, hoang
mang của một mảnh đời loanh quanh trong nghèo đói, không tìm ra được lối thoát cho ngày mai.
Tuy nhiên, cô Tâm gánh hàng đi chợ suốt một ngày dài đằng đẵng nhưng cô vẫn có thể gác đi nỗi vất
vả để lắng tiếng xao xác giẫm lên lá khô, ngửi mùi bèo dưới ao và mùi rạ ướt đưa lên ẩm ướt, hoặc
ngay trong chính buổi chợ ồn ào, Tâm vẫn đủ thư thái để cảm nhận “không khí giá và trong buổi
sáng làm hồng da dẻ và khiến máu chảy mạnh”, phần nào giảm đi cái khắc nghiệt của cuộc sống,
mang vào cho trang văn chất thơ man mác, dìu dịu. Thạch Lam không để nhân vật của mình bị tha
hóa, có thể nghèo đói, nhưng trong cảnh khốn khó, bùn đen, con người vẫn còn giữ lại được những
cảm xúc tinh tế đủ để tâm hồn không bị chai sạn, đủ để biết rung cảm và trân trọng những cái đẹp tồn
tại xung quanh con người.
Hình ảnh cô hàng xén đã trở nên quen thuộc trong các phiên chợ quê ở vùng đồng bằng bắc bộ. Hình
ảnh đó giờ đây lại như được thăng hoa lên trên những trang văn của Thạch Lam.
Với một tấm lòng nâng niu trân trọng, nhà văn đã viết về Tâm (Cô hàng xén) như là biểu tượng cho
vẻ đẹp, truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Ta thương cảm cho cuộc sống mưu sinh đầy nhọc
nhằn lam lũ của cô và ta càng trân trọng hơn nữa vẻ đẹp tâm hồn của cô. Tâm luôn nghĩ đến hạnh
phúc của người thân, hi sinh mình để chăm lo cho cuộc sống của bố mẹ và các em. Ngày lại ngày, cô
nhẫn nại, đi về với gánh hàng rẻ tiền, “đòn gánh cong xuống vì hàng nặng kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ
bé theo nhịp bước đi". Tâm ra chợ khi buổi sáng còn mù mịt, khi về đã tối không rõ mặt người. Tâm
thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu
khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Khi có người dạm hỏi – cơ hội hạnh phúc đến thì nàng
lại khóc và nói với mẹ: “Thôi u cứ để con ở nhà hầu hạ thầy u và săn sóc các em. Chúng nó còn bé
dại cả, nếu con đi thì ai là người trông nom nhà cửa”. Cho đến khi về nhà chồng, Tâm vẫn chỉ biết
quên mình, chịu bao cực nhọc, vất vả để lo lắng cho gia đình chồng và gửi thêm tiền về cho các em
ăn học. Cuộc đời Tâm cứ âm thầm, lặng lẽ trôi đi. Nàng không chú ý gì đến mình, công việc trang
điểm hầu như nàng đã lãng quên: “Đã lâu nàng không còn chú ý đến sắc đẹp. của mình và cũng
không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô ích cho nàng khi có chồng rồi”.
Thạch Lam không hề lí tưởng hóa nhân vật, không nhằm biến Liên thành cái loa phát ngôn cho tư
tưởng của mình. Dưới ngòi bút Thạch Lam, Liên cũng là con người bình thường như bao con người
bình thường khác nhưng chính con người bình thường ấy đã nêu cao tấm gương về đức hi sinh. Có
thể nói với hình ảnh cô hàng xén, Thạch Lam đã góp vào bảo tàng con người Việt Nam một nét đẹp
rất đáng trân trọng.
TRUYỆN NGẮN “GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA”
Truyện mở đầu với việc nhà văn miêu tả khung cảnh thời tiết vào mùa động. Trong hoàn cảnh đó,
Sơn thức dậy và thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị… đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Sau đó, khung
cảnh sinh hoạt của gia đình Sơn được Thạch Lam khắc họa thật giản dị. Mẹ Sơn bảo chị Sơn bê
thúng quần áo ra. Nhìn chiếc áo bông cánh xanh đã cũ nhưng còn lành, mẹ Sơn nói: “Đây là cái áo
của cô Duyên đấy”. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường
chỉ”. Khi nghe mẹ nói, Sơn cũng “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ
“hơi rơm rớm nước mắt”. 🡪 Có thể thấy, nhân vật Sơn hiện lên là một cậu bé giàu tình cảm.
Sơn sống trong một gia đình khá giả. Cậu được mẹ quan tâm, chăm sóc rất chu đáo. Sơn được mặc
cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Cách ăn mặc ấy đối với những đứa
trẻ em nghèo ngày xưa là cả một niềm mơ ước. Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc vẫn mặc
những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Môi chúng nó “tím lại”, chỗ áo quần rách “da thịt
thâm đi”. Gió lạnh thổi đến, chúng nó lại “run lên, hai hàm răng đập vào nhau”. Khi nhìn thấy Sơn và
Lan, lũ trẻ con xóm chợ đều lộ vẻ “vui mừng”. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không
khinh khỉnh như các em họ của Sơn. 🡪 Ở đây, nhân vật Sơn tiếp tục hiện lên là một cậu bé hòa đồng,
thân thiện.Không chỉ vậy, Sơn còn giàu lòng yêu thương. Khi nhìn thầy Hiên đang đứng “co ro” bên
cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Sơn đã “động lòng
thương” và chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên
ở vườn nhà. Sơn đã nói với chị Lan cho Hiên chiếc áo bông cũ. Sau đó, Lan đã “hăm hở” chạy về
nhà lấy áo. Sơn yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Cái áo chứa đựng tấm
lòng đồng cảm sâu sắc.
1. Cảnh sinh hoạt trong gia đình Sơn những ngày gió đầu mùa
– Khung cảnh mùa đông:
+ Qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi gió bấc, cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở
giữa mùa đông rét mướt.
+ Ngoài sân, đất khô trắng, cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô
lạo xạo.
+ Trời u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trong chậu, lá rung động và sắt lại vì rét.
– Cảnh sinh hoạt của mọi người trong gia đình
+ Sơn tung chăn tỉnh dậy, không bước xuống giường ngay mà còn ngồi thu tay trong bọc chăn.
+ Mẹ và chị Sơn đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước uống.
+ Chị Lan khệ nệ ôm cái thúng áo lên đặt lên đầu phản.
+ Mẹ Sơn cầm chiếc áo bông cũ, nhắc đến em Duyên làm Sơn thấy cảm động.
2. Cảnh hai chị em Sơn chơi đùa ở chợ và đem áo cho Hiên
– Hoàn cảnh của những đứa trẻ ở chợ: chúng ăn mặc không khác gì ngày thường, những bộ quần áo
màu nâu bạc đã vá nhiều chỗ; môi thâm tím lại, da thịt thâm đi; mỗi cơn gió đến là lại run lên…
– Thái độ của chị em Sơn: vẫn thân mật chơi đùa cùng, không kiêu kì và khinh khỉnh như các em họ
của Sơn.
– Cuộc trò chuyện với Hiên:
+ Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào cột quán, gọi: “Sao không lại đây,
Hiên? Lại đây chơi với tôi”.
+ Sơn thấy chị gọi nó không lại, bước đến gần thì trông thấy con bé co ro đứng bên cột quá, chỉ mặc
có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay.
+ Chị Lan cũng đến hỏi: “Sao áo mày rách thế, Hiên? Áo lành đâu không mặc?”
+ Khi biết Hiên chỉ có mỗi một chiếc áo để mặc, Sơn nói với chị rằng sẽ đem chiếc áo bông cũ cho
Hiên. Chị Lan đồng ý, chạy về nhà đem áo đến.
3. Sự lo lắng của Sơn và cảnh mẹ Hiên trả lại áo
– Sơn nghe người vú già nói mẹ đã biết chuyện hai chị em cho Hiên áo bông cũ.
– Sợ mẹ mắng, Sơn vội chạy đi tìm Hiên để đòi lại chiếc áo, nhưng không thấy Hiên.
– Khi về đến nhà, hai chị em ngạc nhiên khi thấy mẹ Hiên đang ở trg nhà, và mang áo sang trả.
– Mẹ Sơn đã hỏi thăm, cho mẹ Hiên mượn 5 hào để may áo cho con.
– Mẹ Sơn không trách mắng mà âu yếm ôm vào lòng.
TRUYỆN NGẮN “DƯỚI BÓNG HOÀNG LAN
Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam có nội dung xoay quanh chuyến đi về quê thăm bà của nhân vật
Thanh, mồ côi cha mẹ và sống với bà từ nhỏ, với cây hoàng lan được trồng ở mái nhà thân thương.
Cốt truyện Dưới bóng hoàng lan đúng như phong cách sáng tác của tác giả Thạch Lam, vô cùng đơn
giản, nhưng nó đã để lại dấu ấn với người đọc với nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Khi trở về thăm bà, Thanh vô cùng sung sướng và hạnh phúc, cũng như không kém phần xúc động.
Thanh cảm nhận khung cảnh yên bình bao lấy mình khi về đến nhà, nào là “con đường lát gạch Bát
Tràng rêu phủ”, gió thổi mùi lá tươi non bay, tường hoa thẳng đến cửa nhà, quang cảnh đó tồn tại
trong không gian vô cùng yên tĩnh của làng quê. Tất cả những điều dung dị bình yên như vậy đã
khiến cho Thanh cảm thấy “bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại bên trên bậc cửa”. Vào đến
bên trong nhà, đặt chiếc vali xuống, Thanh nhìn ngắm lại tổ ấm thân thương đã lâu ngày mới được
nhìn lại của mình và rồi chàng nghẹn ngào xúc động, mọi thứ vẫn giống y như khi xưa mình đi. Căn
nhà được bà chăm nom, giữ gìn cẩn thận để cho Thanh cảm thấy dễ chịu nhất mỗi khi trở về. Thanh
bắt đầu gọi bà, bà đang ở trong vườn, nghe được tiếng gọi bà chống gậy trúc đi lên, Thanh mừng rỡ
khôn xiết chạy lại gần người bà thân yêu của mình, bà đã già, mái tóc bạc phơ. Với đôi mắt hiền từ
và miệng đang nhai trầu, bà nhìn ngắm đứa cháu một cách “âu yếm và mến thương”, rồi bà nói “Đi
vào trong nhà không nắng cháu”. Tuy Thanh đã lớn, nhưng vẫn mãi chỉ là một cậu bé trong mắt của
bà mình, vẫn được bà yêu thương, lo lắng cho những điều nhỏ bé nhất.
Tác giả Thạch Lam đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh đối lập thật ý nghĩa, đó là Thanh khi đi
bên bà người “thẳng, mạnh”, còn bà thì “gầy còng”, ấy vậy mà Thanh vẫn cảm nhận được bà đang
che chở cho mình. Sự vui mừng, hạnh phúc khi được gặp lại nhau của bà cháu Thanh thật đáng quý.
Những kỉ niệm từ khi bé đã dần theo dòng kí ức hiện về trong tâm trí Thanh, với bóng cây hoàng lan
thơm thoang thoảng trong khu vườn xanh mát. Chàng cảm thấy thân thuộc như chưa hề rời xa ngôi
nhà của mình và bà bao giờ, mặc dù thời gian Thanh xa nhà là hai năm. Những vật dụng trong nhà và
con mèo già vẫn vậy, tình yêu của bà luôn ở đó, khiến cuộc sống của Thanh như chậm lại và cảm
thấy bình yên, thong thả. Bà không nói yêu Thanh, nhưng từng hành động, lời nói của bà lại thể hiện
điều đó, bà dọn dẹp lại giường, rồi bảo Thanh nghỉ ngơi để bà đi hái rau chuẩn bị cơm cho chàng, bà
buông màn, đuổi muỗi cho cháu. Thanh gần rơi nước mắt vì cảm động trước tình cảm bà dành cho
mình. Tình bà cháu sâu đậm của Thanh và bà tuy không được miêu tả trực tiếp quá nhiều bằng lời thể
hiện tình cảm, nhưng vẫn khiến cho người đọc thấy được tình thân sâu sắc đó, qua những câu văn
đầy ý nghĩa của nhà văn Thạch Lam.
Sau khi nghe thấy tiếng người cùng bà nấu cơm dưới bếp nhưng không nhớ ra đó là giọng ai, Thanh
ngồi dậy, qua khung cửa sổ nhìn ra cây hoàng lan trong vườn, rồi giật mình nhận ra đó là Nga, người
hàng xóm cùng mình lớn lên từ bé, có thể xem như là thanh mai trúc mã. Trong tâm trạng vui sướng,
Thanh chạy xuống bếp để gặp Nga, đối với chàng, cô là một người thân mật mà lần nào về mình
cũng gặp. Nga được miêu tả là một cô gái xinh xắn, đang đi học vì mặc áo dài trắng, có mái tóc đen
nhánh. Những câu trò chuyện khi lâu ngày gặp lại của Nga và Thanh vẫn mộc mạc, giản dị như
trước. Đã có lúc, Thanh còn xem Nga như là em gái ruột của mình. Nhưng rồi, lần về này tình cảm
của hai người có sự biến đổi, có lẽ, một tình yêu đẹp đang nhen nhóm giữa hai người. Bắt đầu từ việc
hai người ra vườn ngắm cây hoàng lan, ôn lại chuyện hồi bé, ngắm nhìn những tia nắng vương trên
tóc Nga, tim của Thanh đập nhẹ nhàng. Cho đến tối, sau khi ăn cơm xong, Thanh lại dắt nàng đi thăm
vườn, dưới bóng hoàng lan, chàng cảm nhận được mùi hương thơm vấn vương trên mái tóc Nga. Cô
đã mạnh dạn bày tỏ trực tiếp tình cảm với Thanh: “Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh
quá”. Đáp lại câu nói đó, Thanh cũng đã có một lời hứa hẹn khi Nga hỏi bao giờ anh lên tỉnh rằng
mai kia anh sẽ về ở đây lâu hơn, đây như một lời hứa hẹn và mong muốn Nga chờ mình của Thanh.
Khi tiễn Thanh về đến cổng, không chần chừ gì nữa, Thanh đã dùng hành động thay cho lời tỏ tình,
chàng đã nắm lấy tay Nga thật lâu, cho đến khi Nga bảo đi về. Từ lúc đó, tâm hồn Thanh bỗng thấy
ngọt ngào, một cảm giác hạnh phúc mới đã xuất hiện ở trong Thanh.
Đến sáng hôm sau Thanh phải lên tỉnh, vali lại nặng những thức quà là tình thương của bà sắp cho.
Thanh đi trong cảm xúc vừa vui, vừa buồn. Buồn vì lại phải xa nhà, xa bà, xa người thương để đi xa
học hành, lập nghiệp. Nhưng Thanh cũng vui vì Thanh biết mình còn có ngôi nhà thân thương cùng
bà kính yêu để trở về khi mệt nhọc và lần này, anh còn có thêm một người đợi mình, với mái tóc
vương mùi hoa hoàng lan, chính là cô Nga.
Tác phẩm Dưới bóng hoàng lan của nhà văn Thạch Lam có cốt truyện thật giản dị và sâu lắng nhưng
lại thành công ghi dấu ấn trong lòng người đọc vì sự tinh tế, dịu dàng trong từng câu chữ đầy tài năng
của tác giả. Qua đó, tình thân và tình yêu chân thật được khắc họa thành công qua nhân vật Thanh, bà
của Thanh và cô Nga.
Vẻ đẹp thanh khiết trong truyện Dưới bóng hoàng lan gợi lên cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng,
thanh thản. Lời văn êm ả như những câu thơ đưa ta về nơi miền quê của nhân vật Thanh. Khung cảnh
quê nhà tĩnh lặng gợi cho chàng tình cảm thân thương gắn bó. Nơi đây, chẳng có những người thân
như người bà đã săn sóc chàng từ nhỏ và cô gái hàng xóm dịu dàng, ngoan ngoãn. Đứng bên cạnh bà,
lắng nghe những lời ân cần của bà, Thanh thấy như mình còn nhỏ bé, như thuở ấu thơ. Sống lại với
những cảm xúc ấm áp, Thanh càng cảm thấy yêu thương bà hơn, gắn bó nhiều hơn với quê hương
giàu kỉ niệm. Chàng vẫn bắt gặp những nhân vật quen thuộc nơi quê nhà: giàn thiên lí, cây hoàng lan,
căn nhà, mảnh vườn và cả con mèo già nữa. Tình cảm giữa Thanh và Nga cũng rất trong sáng, thanh
cao. Điều đó người đọc có thể nhận thấy qua việc tác giả mô tả khá kĩ, cử chỉ ân cần của chàng khi
mời Nga cùng ăn cơm và nụ cười vui tươi của Nga khi nhìn thấy chàng ăn ngon miệng. Họ cùng ra
vườn hái hoa, cùng nhắc lại những kỉ niệm ấu thơ. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát;
khi Nga trở về, Thanh cảm thấy “có cái gì đó dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây khiến chàng vương phải”.
Chi tiết này khiến ta gợi nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động vào sẽ tiêu.
Trong đôi mắt của người hạnh phúc, sung sướng; xung quanh họ như có sợi tơ mềm mại chăng, sợi
tơ đó dịu ngọt như tình cảm dạt dào trong họ. Họ trân trọng và nâng niu tình cảm trong sáng ấy
không muốn nó đứt ra và biến đi. Chất thơ thấm đượm trong từng lời văn của Thạch Lam. Đọc văn
ông, ta thấy hiện rõ những tình cảm giữa con người với nhau và con người với quê hương, như cảm
xúc nhẹ nhõm khi ta bắt gặp mảnh trời xanh tan tác trong lòng bể nước, một nhánh lan rơi, một cử
chỉ âu yếm, ân cần của bà đối với cháu, của người thân đối với người thân.

NGUYỄN TUÂN
Vang bóng một thời và những câu chuyện chưa bao giờ cũ
Vang bóng một thời có thể nói là một cuộc hành trình tìm lại và gìn giữ những âm vang của dântộc
đã dần lụi tàn theo lối sống âu hóa của phương Tây, đó là những nỗi niềm sâu nặng với khátkhao
được phục hồi và tái tạo lại những vẻ đẹp đã cũ.
Tập truyện là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân đã được đăng trong mục Vang và bóng mộtthời ở
tạp chí Tao Đàn vào năm 1939, tuy nhiên sau đó nhà xuất bản Tân Dân đã cho xuất bảntập truyện
thành một cuốn sách hoàn chỉnh vào năm 1940.
Trong quá trình xuất bản, Vang bóng một thời lúc thông qua kiểm duyệt đã bị lược bỏ một vàiđoạn,
sau này công ty Nhã Nam khi tái bản lại đã đối chiếu với những bài viết ở tạp chí TaoĐàn để khôi
phục lại những đoạn bị cắt và đưa tác phẩm vào tập Việt Nam danh tác.
Việt Nam danh tác ra mắt lần đầu vào năm 2014, hiện có 44 tác phẩm của 27 tác giả, chia thànhhai
mảng văn xuôi và thơ. Ngoài Vang bóng một thời, bộ sách còn tập hợp những cái tên kinhđiển khác
như Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Lều Chõng của Ngô Tất Tố, Bốn mươi năm “nói láo”của Vũ Bằng
hay Kép tư bền của Nguyễn Công Hoan.
Tập truyện gồm mười hai truyện ngắn và tùy bút gắn liền với những câu chuyện về nếp sốngthanh
nhã phong lưu của người xưa xưa, tác phẩm xen lẫn hai yếu tố thực hư dẫn dắt người đọctìm về với
những vẻ đẹp truyền thống của đất nước đã quá vãng.
Nguyễn Tuân phác họa lại khung cảnh xưa bằng những nét bút thật êm dịu và tinh tế, dù lànhà nho
thất thế hay giang hồ lập dị đều được ông đặc tả một cách hết sức trau chuốt và tỉ mỉvới tất cả
những niềm mến mộ khiêm nhường.“Đêm nay là đêm mười bốn tháng tám. Và là cuộc thả thơ lần
thứ hai của cụ Nghè Móm.Lần trước thả vào thượng tuần tháng bảy, trước ngày có mưa Thất tịch;
lần này cụ NghèMóm chọn ngày mười bốn, có người hỏi tại sao không để đến ngày rằm, cụ nói:
“Trăngmười bốn bao giờ cũng khéo hơn trăng rằm. Ngày mười bốn là vầng trăng đi tới chỗ
toànthịnh. Ngắm vầng trăng rằm, người ta tinh ý sẽ nhận thấy cái vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn
khai trong có một thì.” -Trích Thả thơ trong tập Vang bóng một thời

Vang bóng một thời khiến người đọc có cảm tưởng như mình đang xem một tập tranh cổ họa,từng
bức tranh đều thanh nhã tuyệt sắc khiến độc giả phải trầm trồ cảm thán.
Vang bóng một thời thổi hồn dân tộc vào từng trang viết
Mỗi một câu chuyện được viết nên trong tác phẩm đều mang một âm hưởng hoài niệm sâu sắc,từ
khung cảnh cả gia đình sum họp ngày ba mươi Tết bên nồi bánh chưng ấm áp đến không khívui vẻ
háo hức của lũ trẻ thơ khi được phá cỗ và tỉa vỏ bưởi làm đèn vào đêm Rằm tháng Tám.Tác phẩm
là biểu trưng cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn TuânNguyễn Tuân thể hiện tất cả mọi
thức vào trong trang văn bằng một sự trân trọng khôn tả, tựanhư muốn lưu giữ lại tất thảy vẻ đẹp
của thời xưa vào câu chữ để những điều ấy không bị thờigian và sự thay đổi làm lu mờ đi.
Vang bóng một thời dù ở truyện ngắn hay tùy bút nào cũng đều mang một nỗi niềm hoài vọngsâu
lắng, như thể muốn vứt bỏ thời đại mới mà tìm về với những điều đã cũ khi xưa.Người ta vẫn ám
ảnh và day dứt mãi với những câu hát vang vọng trong vườn dâu ngoại thànhở truyện ngắn Bữa
rượu máu hay vẫn xao xuyến trước những phân đoạn miêu tả về việc viết chữtrong Chữ người tử
tù.
“Ta hoa thanh quất
Cỏ xanh đổi màu
Sống không thù nhau
Chết không oán nhau.”
-Trích Bữa rượu máu từ tập Vang bóng một thời
Vang bóng một thời đẹp không chỉ bởi những nghệ thuật ngôn từ đặc sắc mà còn đẹp bởi
nhữngtrang văn đậm đà tình dân tộc, Nguyễn Tuân dùng tiếng Việt để viết, để kể về người Việt
củamột thuở xa xưa với những câu từ chân thật nhất.
Vang bóng một thời và những câu chuyện chưa bao giờ cũ
Ông làm sống dậy một nền văn hóa rực rỡ của dân tộc, chính tác phẩm đã để cho người đọc
biếtrằng đất nước mình đã từng có một giai đoạn phồn vinh như thế với những lối chơi, lối
sốngphong lưu và thanh nhã.Từng nhân vật, từng câu chuyện của tác phẩm đã vượt qua cả sự băng
hoại của thời gian mà trởthành bản trường ca đi cùng năm tháng, giữa phiên chợ văn chương tấp
nập, Vang bóng một thờilại trở nên vô cùng đặc biệt và nổi bật.
Vang bóng một thời và những câu chuyện như hoa nở trên máu
Đến với văn chương của Nguyễn Tuân, người đọc luôn tìm thấy một vẻ trang trọng và uyên
báckhôn tả dù trong bất kỳ thể loại nào. Ở những trang văn của người nghệ sĩ tài hoa, cái đẹp
vẫnluôn hiện hữu xung quanh bất kể không gian hay thời gian của diễn biến câu chuyện.
Tác phẩm là cuốn lưu bút của thời đại
Đặc biệt là truyện ngắn Chữ người tử tù, đó là một điểm sáng nổi bật của Vang bóng một
thời,tácphẩm được giới phê bình văn học nhận định đã đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện, toàn mỹ,
nóthoát ly ra khỏi mọi ranh giới hữu hạn của văn chương mà vươn đến một tầm cao mới.
Chữ người tử tù là câu chuyện kể về cuộc hạnh ngộ đẹp đẽ giữa hai con người khác biệt nhauhoàn
toàn, một người là tù nhân, một người là cai ngục. Trong chốn lao tù ẩm ướt và dơ bẩn,tình yêu
thương giữa người với người lại chớm nở một cách tuyệt dịu đến bất ngờ.Nguyễn Tuân đặt hai con
người vào những thân phận đầy mâu thuẫn với nhau, chính điều nàyđã làm nổi bật lên điểm sáng
của toàn thiên truyện. Chốn tù đày, nơi mà ngỡ như chỉ toànnhững màn tra khảo tàn bạo cùng đau
khổ lại xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ của dải lụa trắng dùngđể viết chữ.
Vang bóng một thời là tác phẩm sáng giá nhất trong sự nghiệp của Nguyễn TuânNhững nét bút uốn
lượn của Huấn Cao được thể hiện một cách trọn vẹn và tài hoa nhất trướcđôi mắt dịu dàng đầy trân
trọng của người cai ngục đã gắn kết những con người này lại vớinhau, khiến cho ngục tối không
còn là ngục tối và thân phận chẳng còn là vấn đề mâu thuẫn.Giữa chốn lao tù ấy, cái đẹp của
Nguyễn Tuân lại hiện lên một cách trong sáng và thanh sạchnhư thế, đó là vẻ đẹp của thiên lương
trong sáng và của cả tấm lòng trân trọng tài hoa trong conngười, những điều ấy sẽ không bao giờ
phải khuất sau danh phận hay chức vụ.Liệu còn ai có thể khắc họa vẻ đẹp giữa chốn lao tù một
cách uyên bác và tài hoa được nhưNguyễn Tuân như thế nữa?
Không chỉ dừng lại ở Chữ người tử tù, Vang bóng một thời còn giúp người đọc nghe lại âm vang
trong cơn chuyển dạ của thời thế qua những truyện ngắn cùng tùy bút khác.
Vang bóng một thời là tác phẩm lưu giữ ký ức của một thời vàng son
Người ta thấy được sự rùng rợn kinh hoàng trong cái nghề trăm người của ông Bát, thấy được
cái thú chăm hoa, chơi cây một cách tinh tế và tỉ mỉ của ông cụ Kép làng Mọc hay thấy cả những
cuộc đánh thơ nhộn nhịp của quan Phó Sứ cùng người đẹp Mộng Liên.
“Cụ Âm cũng thở đánh phù một cái, như khi người ta được gặp lại bạn cố nhân sau nhiều
giây phút mong chờ...Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh
đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Âm đã để vào đấy bao nhiêu công
phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu
nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý.”
– Trích truyện ngắn Chén trà trong sương sớm.
Tất cả những tinh hoa của thời đại ấy đều được Nguyễn Tuân trân trọng và lưu giữ lại như một
món báu vật vô giá đến muôn đời sau, Vang bóng một thời không chỉ là một tác phẩm sáng giá
của nhà văn mà còn vàng được đãi trên dòng chảy văn học.
Nếu không có tập truyện này, phải chăng những thú chơi và lối sống tao nhã của người xưa đều
sẽ thất truyền theo sự chuyển giao của thời đại?
Vang bóng một thời là cuộc hành trình tìm về với truyền thống dân tộc để phục cổ lại những điều
tưởng chừng như đã khuất hẳn sau tấm màn che của thời đại mới.
Tác phẩm không chỉ đẹp về nội dung mà còn mang một tầng ý nghĩa và trọng trách lớn lao là
truyền tải những tinh hoa của cha ông lại cho con cháu đời sau.
Vượt qua mọi sự hữu hạn của thời gian, Vang bóng một thời đã trở thành bản trường ca đẹp để
vang vọng mãi trong lòng độc giả, một khúc ca hoàn thiện đến mức tuyệt mỹ.

VŨ TRỌNG PHỤNG

2. Tiểu thuyết “Số đỏ”.


Số đỏ là một tiểu thuyết văn học của nhà văn Vũ Trọng Phụng, đăng ở Hà Nội báo từ số 40
ngày 7 tháng 10 năm 1936 và được in thành sách lần đầu vào năm 1938. Nhiều nhân vật và câu nói
trong tác phẩm đã đi vào cuộc sống đời thường và tác phẩm đã được dựng thành kịch, phim. Nhân
vật chính của Số đỏ là Xuân – biệt danh là Xuân Tóc đỏ, từ chỗ là một kẻ bị coi là hạ lưu, bỗng nhảy
lên tầng lớp danh giá của xã hội nhờ trào lưu Âu hóa của giới tiểu tư sản Hà Nội khi đó.
Tác phẩm “Số đỏ”, cũng như các tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng đã từng bị cấm lưu hành
tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 cũng như tại Việt Nam thống nhất từ năm 1975 cho
đến năm 1986. Cho đến nay, tác phẩm Số đỏ đã được tái xuất bản và được phê duyệt ở Việt Nam.
Đồng thời đoạn trích của tác phẩm này cũng được đưa vào chương trình học ở trong nước (Sách giáo
khoa Ngữ văn 11, tập 1 với tên gọi: “Hạnh phúc của một tang gia”).
Truyện dài 20 chương và được bắt đầu khi bà Phó Đoan đến chơi ở sân quần vợt nơi Xuân tóc
đỏ làm việc. Vô tình Xuân tóc đỏ vì xem trộm 1 cô đầm thay đồ nên bị cảnh sát bắt giam và được bà
Phó Đoan bảo lãnh. Sau đó, bà Phó Đoan giới thiệu Xuân đến làm việc ở tiệm may Âu Hóa, từ đó
Xuân bắt đầu tham gia vào việc cải cách xã hội. Nhờ thuộc lòng những bài quảng cáo thuốc lậu, hắn
được vợ chồng Văn Minh gọi là “sinh viên trường thuốc”, “đốc tờ Xuân”. Hắn gia nhập xã hội
thượng lưu, quen với những người giàu và có thế lực, quyến rũ được cô Tuyết và phát hiện cô Hoàng
Hôn ngoại tình. Xuân còn được bà Phó Đoan nhờ dạy dỗ cậu Phước, được nhà sư Tăng Phú mời làm
cố vấn cho báo Gõ Mõ. Vì vô tình, hắn gây ra cái chết cho cụ cố tổ nên được mọi người mang ơn.
Văn Minh vì nghĩ ơn của Xuân nên dẫn Xuân đi xóa bỏ lý lịch trước kia rồi đăng ký đi tranh giải
quần vợt nhân dịp vua Xiêm đến Bắc Kì. Bằng thủ đoạn xảo trá, hắn làm 2 vận động viên quán quân
bị bắt ngay trước hôm thi đấu nên Xuân được dịp thi tài với quán quân Xiêm. Vì để giữ tình giao hảo,
hắn được lệnh phải thua. Kết thúc trận đấu, khi bị đám đông phản đối, Xuân hùng hồn diễn thuyết
cho đám đông dân chúng hiểu hành động “hy sinh vì tổ quốc của mình”, được mời vào hội Khai trí
tiến đức, được nhận huân chương Bắc Đẩu bội tinh và cuối cùng trở thành con rể cụ cố Hồng.
Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị Việt nam
đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức lố lăng đồi bại đương thời. Tác giả đã đả kích cay độc
các phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “giải phóng nữ quyền” đang phát triển rầm rộ khi ấy, nhân danh
“văn minh”, “tiến bộ”, “cải cách xã hội” mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp
trắng trợn lên mọi nền nếp đạo đức truyền thống…
“Số đỏ” tuy chỉ tập trung phê phán xã hội tư sản về phương diện đạo đức, sinh hoạt. Đây là
một hạn chế – song tác phẩm vẫn có màu sắc chính trị thời sự và có tính chiến đấu rõ rệt…Tuy nhiên,
sự phản ánh hiện thực của Số đỏ có rộng song chưa thật sâu. Trong khi lật mặt bọn bịp bợm giả danh
“bình dân”, ít nhiều nhà văn vẫn để lộ cái nhìn miệt thị đối với quần chúng lao động. Quan điểm
sinh lý thô bạo – ảnh hưởng của học thuyết Phrơt khi giải thích “cái dâm của loài người” và sự miêu
tả có phần sống sượng đây đó, cũng hạn chế chiều sâu nhận thức và sức tố cáo của tác phẩm.

 Giá trị về nội dung:


o Tác phẩm đã mở ra khung cảnh đám ma hoành tráng, to tát sau cái chết của cụ Tổ Cố
Hồng và khắc họa thành công, đầy ám ảnh những bức chân dung của lũ con cháu trong
gia đình: Ông bà Văn Minh, cụ Cố Hồng, cô Tuyết, cậu Tú Tân cũng như chân dung
của những người ngoài tang quyến mà mỗi người lại hiện lên với dáng vẻ và theo đuổi
những suy nghĩ khác nhau.
o Qua đoạn trích, người đọc thấy được bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội "thượng lưu"
thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, phản ánh thực trạng suy
đồi về đạo đức của một bộ phận tầng lớp tư sản thượng lưu Hà Thành do chạy theo
phong trào Văn minh âu hóa
o Qua đó, tác giả phê phán và bày tỏ thái độ căm phẫn đối với thói giả dối, đạo đức giả
trong gia đình và xã hội tư sản thành thị lúc bấy giờ, báo động về tình trạng đạo đức
suy đồi trong xã hội đó -> Thể hiện tâm huýêt của nhà văn đối với những giá trị truyền
thống tốt đẹp
 Giá trị về nghệ thuật: Nghệ thuật trào phúng sắc bén, sâu cay:
o Tình huống trào phúng vô cùng độc đáo: Cái chết của cụ Tố cố Hồng lại là niềm hạnh
phúc cho lũ con cháu. Đây chính là phông nền cho lũ con cháu bộc lộ suy nghĩ và bản
chất đồi bại, khốn nạn của mình
o Nhân vật trào phúng: Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một hệ thống các nhân
vật trào phúng cả bên trong tang quyến lẫn bên ngoài tang quyến. Mỗi người một mục
đích, một suy nghĩ khi đến đám tang nhưng đều là những suy nghĩ ích kỉ, đê hèn cho
lợi ích cá nhân chứ không hề mảy may thương xót cho người vừa nằm xuống kia
o Cảnh tượng trào phúng: Cảnh hạ huyệt ở cuối tác phẩm đã hoàn tất bức tranh của xã
hội thương lưu giả dối, thối nát.
o Tạo những mâu thuẫn trào phúng thể hiện ngay ở nhan đề: tang gia mà lại hạnh phúc.
Tác giả chú trọng chọn lựa chi tiết, hình ảnh, miêu tả tỉ mỉ, cụ thể.
o Người kể chuyện có một giọng điệu rất lạnh lùng, khách quan, đan xen những câu bình
luận dí dỏm mỉa mai trào lộng, nhưng chua chát.
o Sử dụng biện pháp phóng đại cường điệu
o Cách đặt tên gọi nhân vật,đồ vật hài hước. Kết hợp tả toàn cảnh và cận cảnh

*Các câu liên hệ:


“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu
thuyết thực sự là ở đời… Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe
nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì cũng đúng sự thực.” (Vũ Trọng Phụng, Báo Tương
Lai, 25/03/1937)

LÃO HẠC

Một tấm lòng thương con sâu nặng


Trong đội ngũ nhà văn hiện đại Việt Nam, Nam Cao được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc
trước Cách mạng. Ông hi sinh năm 1951 trong cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc đó, ông mới 36
tuổi. Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng Nam Cao đã để lại cho đời nhiều áng văn có sức sống lâu
bền. Tác phẩm của Nam Cao – những truyện ngắn, truyện dài – thấm đẫm giá trị hiện thực và
nhân đạo. Đó là những trang viết chân thực, vô cùng sâu sắc về người nông dân nghèo đói bị vùi
dập và người trí thức cùng phẫn phải sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Đọc truyện ngắn Lão
Hạc của Nam Cao, chúng ta bắt gặp cả hai kiểu nhân vật đó: lão Hạc và ông giáo. Ông giáo là
người kể chuyện, lão Hạc là nhân vật chính của câu chuyện, cả hai người đó đều đáng cảm thông
và đáng trân trọng, nhất là lão Hạc. Lão Hạc – ông cụ lão nông ấy – đã phải trải qua hai cái chết
trong cuộc đời mòn mỏi bế tắc, nhưng có một tấm lòng thương con vô cùng sâu nặng.
Đọc phần trước đoạn trích trong sách Ngữ văn 5, chúng ta biết cảnh ngộ của lão Hạc thật bi thảm.
Nhà nghèo, vợ chết, hai cha con lão Hạc sống lay lắt, rau cháo qua ngày. Một ngày nọ, người con
trai của lão phẫn chí vì không có tiền cưới vợ, bỏ đi làm phu đồn điền cao su biền biệt, một năm
nay chẳng có tin tức gì. Lão Hạc thui thủi sống cô quạnh một mình với con chó Vàng, kỉ vật
người con trai để lại. Lão gọi con chó là “cậu Vàng”, coi con vật như người thân trong nhà. Vắng
nhà đi kiếm ăn thì thôi, hễ về tới nhà là ông lão lại trò chuyện tâm tình, chia sẻ mọi nỗi vui buồn
với “cậu Vàng”. Nhiều khi lão gọi Vàng là con, là… cháu, xưng ông cứ y như là hai ông cháu
vậy. Đối với lão Hạc, con chó là niềm vui, là nguồn hạnh phúc đơn sơ mà thiết thực giúp lão sống
trong đói nghèo để đợi người con trai trở về xây dựng hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc gia đình
cho lão được sống bên con, bên cháu, vui vầy như bao người bình thường khác. Nhưng sự túng
quẫn ngày càng đe doạ lão. Sau trận ốm nặng kéo dài, lão yếu người đi ghê lắm. Đồng tiền bấy
lâu nay dành dụm cạn dần. Lão không có việc làm. Rồi một cơn bão ập đến, phá sạch sành sanh
hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên. Vì thế, lão Hạc lấy tiền đâu để nuôi “cậu Vàng”?
Kể ra trong nhà cũng còn ít tiền để dành cho đứa con trai, nhưng lão không muốn tiêu lẹm vào
đấy. Mà cho “cậu Vàng” ăn ít, thì “cậu” gầy đi, tội nghiệp. Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn
khoăn day dứt mãi, cuối cùng dằn lòng quyết định bán “cậu Vàng”, rồi đến nhà ông giáo cậy nhờ
một việc quan trọng.
Đọc phần trích trong sách Ngữ văn 8, cũng là phần đặc sắc nhất của thiên truyện, chúng ta cảm
nhận rõ hai sự việc lớn của cuộc đời lão Hạc: việc bán “cậu Vàng” và việc tìm đến cái chết. Hai
sự việc ấy tuy khác nhau nhưng đều toát lên một ý nghĩa chung về tấm lòng người cha thương
con mênh mông, sâu nặng.
Bán con chó Vàng, lão Hạc đối mặt với cái chết thứ nhất. Vì sao lão Hạc phải bán “cậu Vàng”?
Như phần trên ta đã biết, nếu để con chó lại nuôi thì lão Hạc phải tiêu lẹm vào số tiền dành dụm
cho người con đang xa nhà. Điều đó lão không muốn, tuyệt đối không muốn. Đối với lão Hạc, số
tiền và mảnh vườn dành cho con thiêng liêng như một báu vật mà hằng ngày lão chỉ biết hết lòng
bảo vệ chứ không bao giờ dám xâm phạm. Việc quyết định bán con chó Vàng bắt nguồn từ tấm
lòng thương con sâu sắc của một người cha nhân hậu và giàu lòng tự trọng.

Bán con chó Vàng vì thương con, nhưng rồi lão Hạc lại vô cùng ăn năn, day dứt. Lão sang nhà
ông giáo giãi bày những nỗi đau thống thiết của mình. “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết
nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm
mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Mấy câu văn ngắn ngủi đặc tả ngoại hình nhân
vật thật ấn tượng. Tác giả đã sử dụng các từ tượng hình: “co rúm lại”, “xô lại”, “ngoẹo về một
bên”… và một từ tượng thanh “hu hu” khiến cho nét mặt, thân hình và tâm trạng của lão Hạc hiện
lên thật thê thảm. Làm một việc vì tình thương con, nhưng người cha ấy vẫn tự dằn vặt, đau khổ
như vừa phạm lỗi lớn. Phải chăng lão Hạc cảm thấy mình có lỗi với “cậu Vàng”, con vật rất đỗi
thân thương của lão? Ta nghe lời lão kể với ông giáo trong truyện mà như nghe chính lão Hạc kể
với ta: “Này… cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi ; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như
muốn bảo tôi rằng: A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?.
Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó
Đây là lời nói, hay chính là lời sám hối, lời tự than, tự trách mình quá phũ phàng, nhẫn tâm của
một tấm lòng nhân hậu! Từ những nét ngoại hình quằn quại đến những lời ăn năn, sám hối này,
lão Hạc quả là một con người nặng tình nặng nghĩa, thuỷ chung, vô cùng trung thực. Từ ngày
người con phẫn chí ra đi vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc luôn mang tâm trạng “mắc tội” bởi
không lo liệu nổi hạnh phúc cho con. Lao cố dành tiền cho con, cố chăm sóc “cậu Vàng” như
chăm sóc kỉ vật của con. Vậy mà giờ đây lão phải bán “cậu Vàng” cho người ta giết thịt, lão cảm
thấy mình “rnắc tội” nặng hơn, tội với con người, tội với cả con vật. Tấm lòng người lão nông ấy
bao la, sâu nặng biết nhường nào. Con chó Vàng sẽ bị người ta giết thịt. Lão Hạc dự cảm rõ điều
đó. Đối với lão, đó là cái chết thứ nhất, một cái chết do chính lão gây ra. Nhưng, người đọc chúng
ta ngày nay, suy ngẫm sâu xa một chút, sẽ thấu hiểu và xiết bao xót thương ông lão nông khốn
khổ và nhân hậu ấy. Và chúng ta cũng hiểu rằng chính cái xã hội thực dân phong kiến bấy giờ đã
đẩy lão Hạc và biết bao người nông dân khác vào bi kịch như lão Hạc. Yì hạnh phúc của một
người con này, lão Hạc phải chứng kiến cái chết của một “người… con” khác, phải tự huỷ diệt
một niềm vui, một kỉ vật thân thương của đời mình. Nêu sự việc lão Hạc bán chó, rồi đau khổ vật
vã tự trách mình, ngòi bút Nam Cao đã lay động tận nơi sâu thẳm tình cảm bạn đọc chúng ta.
Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó. Nhà văn tiếp tục lay động chúng ta bằng một sự việc tiếp
sau dữ dội hơn, thống thiết hơn. Đó là việc lão Hạc tìm đến cái chết. Với cái chết lần thứ hai này,
tấm lòng người lão nông thương con mênh mông, sâu nặng ấy mãi mãi toả sáng. Tìm hiểu về sự
việc này, chúng ta thử hoá thân vào nhân vật ông giáo để lắng nghe lời lão Hạc nói và chứng kiến
công việc ông lão làm. Sau những lời đắng cay về việc bán chó, lẩo Hạc rề rà, nhỏ nhẹ mà tha
thiết, chân thành giãi bày hoàn cảnh của mình để nhờ ông giáo giúp cho hai việc. Việc thứ nhất:
gửi ba sào vườn, khi anh con trai lão trở về thì ông giáo giao lại để anh có đất ở, có vốn mà sinh
nhai. Việc thứ hai: gửi ba mươi đồng bạc (hai mươi nhăm đồng tích cóp tằn tiện hơn một năm trời
và năm đồng vừa bán chó) để khi ông lão chết, nhờ hàng xóm chi tiêu cho việc ma chay… Những
điều lão Hạc thu xếp, nhờ cậy ông giáo thật là chu đáo. Nghĩ đến con, ông cụ luôn mong ước con
được sống yên ổn, hạnh phúc. Nghĩ về mình cụ luôn luôn tự trọng, không muốn phiền luỵ ai. Khi
nghe lão Hạc trình bày, ông giáo bật cười bảo: “Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết
đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn…”. Ông giáo không thể biết.được rõ ý nghĩa việc lão Hạc nhờ
cậy. Còn chúng ta, đọc truyện, nhận rõ ông cụ lão nông đó đã chuẩn bị cho cái chết của mình thật
là bình tĩnh, chủ động, tự nguyện, tự giác. Thực ra lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình
từ khi bán “cậu Vàng”, đúng như lời lão nói với ông giáo: “Tôi đã liệu đâu vào đấy… Thế nào rồi
cũng xong”. Như vậy, trong tình cảnh đói khổ, túng quẫn, lão Hạc đã định liệu cho “cậu Vàng” –
con vật thân thương nhất – và bản thân mình một sự giải thoát. Với con chó thì hoá kiếp cho “để
thành kiếp người”. Còn với mình, lão chết để thành kiếp gì? Thật mịt mờ, bế tắc. Nhà văn Nam
Cao cứ nhẹ nhàng dẫn dắt câu chuyện theo lời kể của ông giáo, đưa người đọc chúng ta từ sự việc
này sang sự việc khác đầy hấp dẫn, bất ngờ. Sau khi nghe lời lão Hạc nói rằng: “Tôi đã liệu đâu
vào đấy”, ông giáo đã cảm động bởi cách lo toan chu đáo, tấm lòng thành thực, vừa thương con,
vừa tự trọng của lão Hạc thì được nghe Binh Tư kể việc lão Hạc xin bả chó… Ông giáo đã thốt
lên: “Hỡi ôi! Lão Hạc”. Người đọc cũng ngỡ ngàng, sửng sốt, tưởng rằng lão Hạc sẽ làm một việc
xấu xa, đáng buồn như việc Binh Tư thường làm: đánh bả chó, rồi thịt chó uống rượu. Vẻ đẹp của
hình tượng lão Hạc bỗng mờ đi, như cuộc sống lúc bấy giờ “cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”.
Câu chuyện tưởng chừng ngoặt sang hướng khác. Những dòng chữ lời văn như ngưng đọng lại,
căng thẳng, hồi hộp!
Nhưng rồi, đến phần cuối của câu chuyện, tất cả đã ùa ra. Lão Hạc đã chọn một cái chết dữ dội,
bất ngờ. Chúng ta hãy vào nhà lão Hạc. Một cảnh tượng rùng rợn thảm thương bày ra trưóc mắt
ta: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc.
Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người
đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết…”.
Dồn dập trong mấy câu miêu tả là các từ tượng hình “vật vã”, “rũ rượi”, “xộc xệch”, “long sòng
sọc”, và các cụm động từ mạnh như “sùi ra”, “giật mạnh”, “nảy lên”, “đè lên”,… đã cực tả một
cái chết thật dữ dội, đau đớn. Tại sao lão Hạc không chọn một cái chết khác êm dịu, lặng lẽ, âm
thầm? Đối chiếu với cái chết thứ nhất của “cậu Vàng”, nhìn thoáng bên ngoài, ta cảm thấy cái
chết của lão Hạc như có những nét tương tự. “Cậu Vàng” bị lão Hạc đánh lừa, cho ăn cơm, rồi bị
hai người (“thằng Mục” và “thằng Xiên”) đè xuống, trói lại. Lão Hạc cũng bị hai người đàn ông
lực lưỡng “đè lên người”. Biết là mình sẽ chết, “cậu Vàng” kêu “ư ử”, lão Hạc thì “tru tréo”, “vật
vã”,… Phải chãng khi chọn chó mình cái chết dữ dội thảm thương này, nguc’i lão nông ấy như có
ý tự trừng phạt mình, chia sẻ nỗi đau với con vật thân ỵêu như ruột thịt. Bởi vì, cả đời ông lão
sống trung thực, chưa đánh lừa ai. Lần đầu tiên lão làm một việc xấu xa là đánh lừa “cậu Vàng”,
người bạn thân thiết, niềm hạnh phúc, niềm vui của chính mình. Lão đã lừa để con chó bị chết thì
giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu con chó bị lừa. Điều này càng chứng tỏ lão Hạc có lòng tự
trọng rất cao, ứng xử trung thực vô ngần. Và cũng chứng tỏ ngòi bút nhà văn Nam Cao sắc lạnh,
tỉnh táo vô cùng. Nam Cao rất thương con người, tôn trọng con người, đồng thời luôn đòi hỏi cao
ở con người. Ông đã đặt nhân vật lão Hạc vào những cuộc lựa chọn khắc nghiệt: chọn hai cái
chết. Cái chết thứ nhất tuy không đau đớn về thể xác nhưng lại đau đớn, day dứt về tinh thần. Còn
cái chết thứ hai, tuy đau đớn thể xác nhưng dường như ông lão đã được giải thoát và… thanh thản
về tinh thần vì lão đã trả hết nợ đời, nợ với con chó Vàng, nợ với đứa con trai tội nghiệp phải bỏ
nhà ra đi.

Có thể nói, đọc truyện Lão Hạc, chúng ta thấy nổi bật lên, ấn tượng mạnh mẽ nhất là câu chuyện
về hai cái chết: cái chết của con chó Vàng do lão Hạc gây nên và cái chết của lão Hạc do tự lão
lựa chọn, cả hai cái chết này đều bắt nguồn từ tình cảm người cha thương con mênh mông, sâu
nặng. Lão Hạc phải bán “cậu Vàng” – cũng là cách tự huỷ một niềm vui, một khát vọng để không
phải tiêu lẹm vào số tiền dành cho con. Lão Hạc tự tử cũng nhằm không muốn sống thừa, sống
lay lắt, vô vị mà ăn lẹm vào số vốn liếng, mảnh đất đợi con về… Người cha ấy đã hi sinh cả cuộc
đời mình cho hạnh phúc của con. Người lão nông ấy đã sống một cuộc đời đau khổ nhưng thật
trong sáng, đáng cảm thương và trân trọng.
Cùng với nhân vật lão Hạc, chúng ta bắt gặp nhân vật ông giáo (có thể coi là tác giả). Nhờ ông
giáo, nhờ nhà văn kể chũyện, chúng ta càng thấm thìa hơn cuộc đời đau khổ của lão Hạc. Khi ông
giáo nghĩ “Cuộc đời đáng buồn, nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”, chúng ta hiểu rằng
Nam Cao rất xót xa, cãm giận cái xã hội tối tăm ngột ngạt bấy giờ. Xã hội ấy đã đẩy những người
có nhân cách cao đẹp như lão Hạc vào tình cảnh đói nghèo, bế tắc, phải chết thảm thương. Khi
ông giáo than thở: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ,
thì ta chỉ thấy họ gàn đở… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn không bao giờ ta thương…”, chúng
ta càng thấu hiểu suy nghĩ sâu sắc, mang tính triết lí và tình thương bao la đậm chất nhân văn của
Nam Cao. Và chúng ta cũng rút ra được bài học thiết thực về cách nhìn, cách ứng xử mà các nhà
nghiên cứu gọi là “vấn đề đôi mắt”…
Tóm lại, truyện ngắn Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương và
phẩm chất cao quý của người nông dân cùng khổ trong cuộc đời cũ. Cuộc đời ấy là xã hội thực
dân nửa phong kiến ở nước ta, giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà “hạnh phúc
chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”[1]. Lão Hạc, vì tình thương con sâu
nặng đã chấp nhận những giá lạnh cuộc đời để nhường chút hơi ấm của tấm chăn hạnh phúc cho
người con xa nhà. Cũng qua câu chuyện về lão Hạc, nhà văn Nam Cao thể hiện lòng thương yêu,
thái độ trân trọng đối với những con người bất hạnh mà biết sống cao thượng. Tác phẩm này cho
thấy tài năng của nhà văn qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ; kể các sự việc, khắc hoạ
nhân vật sinh động, có chiều sâu tâm lí, cách kể linh hoạt, hấp dẫn, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà
trĩu nặng những cảm xúc và suy nghĩ lắng sâu.

ĐỜI THỪA

Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa; qua đó làm rõ tư tưởng
nhân đạo độc đáo và mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao.

(Đề thi chọn học sinh giỏi toàn quốc, lớp 12 năm học 1992 1993; bảng A).

YÊU CẦU

Yêu cầu của đề không phải là phân tích tác phẩm cũng không phải là phân tích nhân vật mà chỉ là
phân tích một khía cạnh của nhân vật : bi kịch tinh thần. Tuy nhiên, để làm được việc ấy phải nắm
được tác phẩm, trong trường hợp này, phải nắm toàn bộ tư tưởng, hành động, tính cách của nhân
vật. Không chỉ phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ mà quan trọng hơn, qua đó thấy được
tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao.

BÀI LÀM

Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc gặp bi kịch của kiếp "tài hoa bạc mệnh", ở Chí Phèo
của Nam Cao, là bi kịch của những khát khao lương thiện và cũng với Nam Cao ta gặp ở Đời
thừa, tấn bi kịch tinh thần của người trí thức. Đời thừa bộc lộ rõ nét "tư tưởng nhân đạo mới mẻ
độc đáo của nhà văn lớn Nam Cao".

Bi kịch tinh thần của Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn - một trí thức giữa "cơn dâu
bể" của cuộc đời, giữa một xã hội "chó đều" (Vũ Trọng Phụng) - Nhà văn ấy giữ được phẩm giá
của mình, ý thức được "thiên chức", cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực. Có thể nói, bi
kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn
chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết, văn chường dường như là khát vọng lớn nhất của anh.
Anh muốn trở thành nhà văn chân chính - nhà văn biết "mở hồn đón lấy những vang vọng của
đời". Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó
đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội, của cả nhân loại. Nó nói được những cái "lớn lao,
mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng. Nó làm
cho người gần người hơn". Và nhất định anh sẽ giật giải Nôben ! Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại
trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là
một ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào
con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là
khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình - xác định đúng tư
tưởng cho mình.

Anh không sa vào những mơ mộng về nghệ thuật - nghệ thuật là "ánh trăng xanh huyền ảo" (như
Điền trong Trăng sáng). Anh thấy ánh trăng của nghệ thuật biết "làm đẹp cả những cảnh thật ra
chỉ tầm thường xấu xa". Quan điểm của anh đúng đắn lắm ! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm ! Thế
nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế
nào ? Anh không hướng nghệ thuật vào "thứ văn chương của bọn nhàn rỗi", nhưng anh đã viết
những gì từ khi anh bắt tay vào sáng tác ? Chao ôi ! Thực tế có phải bao giờ cũng chiều theo khát
vọng và đẹp như khát vọng đâu ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình
dưới bài viết, anh phải "đỏ mặt" xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác
phẩm chỉ biết "gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi"
của chính mình. Dường như anh hoảng hốt, anh ngạc nhiên trước những bài viết của mình mới ra
đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muốn nhưng có phải bao giờ ý muốn cũng thành hiện thực đâu !
Và đó chính là cái bi kịch của anh - bị kịch của một đời viết văn - bi kịch của người hiểu mình
biết mình phải làm gì và đành lựa bút theo những điều chẳng hề muốn. Tôi như cảm thấy cái đau
đớn khủng khiếp tự chốn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc đổ sụp trong anh.
Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính.

Anh phải viết ẩu như thế, bôi bác như thế chính là vì những ràng buộc của "áo cơm". Chao ôi !
Giá như anh cứ được bay nhảy với những giấc mơ ấy.

Nhưng "cơm áo không đùa với khách thơ" (Xuân Diệu). Anh còn vợ và một đàn con nhỏ. Kiếp
người với bao toan tính bộn bề níu kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai
trẻ. Chính những nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách
nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hàng
ngày… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thạt nhanh, thật nhiều để người vợ,
đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ rứt bỏ cái mộng văn chương thì chắc đời anh
chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh cải tác phẩm cho toàn nhân
loại nên anh lại càng đau đớn ! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung
hơnChao ôi ! "Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì
sát đất" (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh - bi kịch của những giấc
mộng văn chương chính là ở chỗ đó ! Và tưởng như giấc mộng văn chương ấy chính là điều day
dứt trong anh mãi không thôi.

Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm con người thì Nam Cao mới viết những dòng
đầy cảm xúc như thế ! Dường như những day dứt trong cuộc đời ông - cuộc đời văn sĩ khổ ải - đã
nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bị kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính
là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước cách mạng Tôi không hoàn toàn nghĩ thế. Nam
Cao đã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ ông đã biết vượt lên trên những lo
toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc
đời về những kiếp lầm than và chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt khi thấy tên mình sau
những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa... Bởi chính đó là nơi giấc mơ văn chương nảy nở. Có
thể tự tin mà nói rằng với Đời thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo
của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những
điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế ! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới
mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo của sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo
ở sự cảm thông sâu sắc với người trí thức... Và có được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân
đạo "mới mẻ" độc đáo của Nam Cao. Qua bi kịch tinh thần lầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc
lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư
tưởng ấy đã kế hừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không "phản ca tụng
lòng thương, tình bác ái, sự công bằng". Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và
trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ,
giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước
mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động Họ muốn khóc cho đến khi "bao
xương thịt cứ tan ra thành nước mắt" nhưng gặp anh, tình thương của anh đã tỏa rạng đến họ,
giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi
nấng vợ còn chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương - lẽ sống tình thương đã khiến
anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá ! Đời anh không phải là "đời thừa" với gia đình nho nhỏ của
anh. Anh đau khổ vì tên anh cứ "lu mờ dần sau những tên khác mới xuất hiện rực rỡ" nhưng với
Từ và đàn con - anh là biểu tượng sáng chói của tình thương. Tình thương ấy là rất đáng trận
trọng. Trong một xã hội rác rưởi "chó đểu" như thế, hành động của anh chẳng là một hành động
tốt đẹp hiếm hoi hay sao ? Thế nhưng, anh cũng chẳng giữ được trọn vẹn cái lẽ sống cao quý ấy
của mình nữa. Quả là một sai lầm khi anh kết luận : nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ của giấc
mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Anh cạn nghĩ quá ! Đó không phải
hoàn toàn là lỗi của vợ con anh. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình
đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Anh muốn quên, quên đi tất cả.

Anh không say trong men tình ái, trong khúc nhạc đong đưa... mà say khủng khiếp trong men
rượu. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên
giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu "chết tiệt ấy chính là cái trực tiếp làm cho bị kịch
trong anh xuất hiện. Rượu đã khiến anh trở thành kẻ vô học, rượu ánh để phản ánh" mà sau
những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ở chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi - một trái tim
của tình nghĩa. Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch
thứ hai - bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế
nhưng Hộ vẫn còn một chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Anh chưa
thực hiện được khát vọng của mình, anh chưa viết được cuốn tiểu thuyết của đời anh, nhưng anh
nuôi đủ vợ con. Anh đã kéo dài được sự tồn tại của gia đình mình. Và đó có thể coi là việc làm
hữu ích. Đó là cái an ủi cho cái "đời thừa" của một nhà văn. Thế cùng đáng an ủi lắm chứ !

Vì anh là người đặt "tình thương" lên hàng đầu, lẽ sống của anh là tình thương. Tình thương là
trên hết. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói : Tác phẩm
có giá trị là tác phẩm ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng". Trong văn chương, anh
muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình
thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa
con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ
muốn khóc cho đến khi "bao xương thịt cứ tan ra thành nước mắt" nhưng gặp anh, tình thương
của anh đã tỏa rạng đến họ, giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay
nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương -
lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá ! Đời anh không phải là "đời đánh
đồng những người xấu, người tốt, kẻ giàu, người nghèo trong những cơn say. Khi say, ai cũng
như ai hết ! Men rượu không giúp anh có được cái tình của Chí Phèo giúp hắn hướng về cái
"thiên lương". Men rượu đã khiến anh trở thành một kẻ tiểu nhân vô học. Anh đã vi phạm lẽ sống
tình thương của mình. Anh đã đánh vợ con anh như một kẻ vũ phu. Vâng, chính lúc đó, anh là kẻ
vũ phu. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tụy của mình không biết bao nhiêu lần nữa
mà kể. Anh đã chỉ mặt Từ mà quát mắng:

- "Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết". Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá
! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp - cái phần "người” vô cùng cao đẹp trong
tâm hồn anh. Đời anh coi như bỏ đi trong văn chương tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ được
trọn lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện được
điều đó.

Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Anh - cuộc đời anh quá là "đời thừa". Bi
kịch đầu tiên là bí kịch của những giấc mộng văn chương nên cái "thừa" còn không quá nhiều đau
đớn nhự bi kịch này, bị kịch mà kết cục là cái "thừa" ấy của anh đã được thể hiện đầy đủ. Anh đã
động đến phản cao quý nhất. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là
của con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất ! Ở bi kịch trước, cái mặc
cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì một nhà văn. anh là một nhà văn. Nếu Chí Phèo chỉ gieo rắc tội lỗi
của hãn cho dân làng Vũ Đại, anh giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh thì anh
anh gieo những "tình cảm rất nhẹ, rất nông" những tình cảm quá ư tầm thường ấy vào bao nhiêu
độc giả. Sự nhiễm hại ấy lớn hơn. Dù thế bi kịch thứ hai này - bi kịch của một con người mặc
cảm tội lỗi còn lớn hơn nhiều. Với tư cách một nhà văn anh đã gây ảnh hưởng đến người đọc từ
những bài văn viết lấy lợi nhuận. Với tư cách một con người, anh đã gây ra những điều ghê gớm
hơn. Xã hội này đã quá nhiều, quá thừa những cái xấu. Anh cố giữ tốt đẹp trong mình thế mà anh
cũng phá hỏng nốt. Mặc cảm này quá lớn và không hề có gì để an ủi được. Lẽ sống tình thương là
cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn
hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị bao phẩm giá khác đã sụp
đổ. Bi kịch này khủng khiếp và hoàn toàn không có lối thoát và dường như nó bao trùm thành bi
kịch của cả đời anh - một "đời thừa". Anh đổ lỗi tất cả cho gia đình, nhưng tất cả là tại anh. Tuy
vậy cũng cần nói thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính
xã hội ấy đã đẩy anh phải lo "cơm áo gạo tiền". Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng
văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình.
Nguyên nhân ấy, có lẽ khi đó anh không hiểu được - nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong
kiến - nguyên nhân mà ngày ấy, người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc.
Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh sống.

Nhưng đó phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ? Ông đã biết đề cao
những thất vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nỗi khổ của họ nhưng chưa
đề ra được lối thoát cho họ. Nhưng những "tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng
quý, đáng trân trọng biết bao! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người - tình người nồng
đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm.

Ngày nay cuộc đời đã được đổi thay. Lớp văn sĩ đã thoát khỏi dù là một phần những nỗi lo "cơm
áo", không còn những bi kịch tinh thần đau khổ như Hộ nữa. Nhà văn ngày nay được ưu đãi hơn.
Nhưng ta không thể quên thời kì mà người trí thức văn nghệ sĩ mang những bi kịch tinh thần.

Tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm
vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.

cái tốt đẹp - cái phần "người" vô cùng cao đẹp trong tâm hôn anh. Đời anh coi như bỏ đi trong
văn chương tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ được trọn lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ,
cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện được điều đó.

Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Anh - cuộc đời anh quả là "đời thừa". Bi
kịch đầu tiên là bi kịch của những giấc mộng văn chương nên cái "thừa" còn không quá nhiều đau
đớn như bi kịch này, bi kịch mà kết cục là cái "thừa" ấy của anh đã được thể hiện đầy đủ. Anh đã
động đến phần cao quý nhất. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là
của con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất ! Ở bi kịch trước, cái mặc
cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì anh là một nhà văn. Nếu Chí Phèo chỉ gieo rắc tội lỗi của hắn cho
dân làng Vũ Đại, anh giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh thì anh anh gieo
những "tình cảm rất nhẹ, rất nông" những tình cảm quá ư tầm thường ấy vào bao nhiêu độc giả.
Sự nhiễm hại ấy lớn hơn. Dù thế bi kịch thứ hai này - bi kịch của một con người mặc cảm tội lỗi
còn lớn hơn nhiều. Với tư cách một nhà văn anh đã gây ảnh hưởng đến người đọc từ những bài
văn viết lấy lợi nhuận. Với tư cách một con người, anh đã gây ra những điều ghê gớm hơn. Xã
hội này đã quá nhiều, quá thừa những cái xấu. Anh cố giữ tốt đẹp trong mình thế mà anh cũng
phá hỏng nốt. Mặc cảm này quá lớn và không hề có gì để an ủi được. Lẽ sống tình thương là cái
được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn
gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị bao phẩm giá khác đã sụp đổ.
Bi kịch này khủng khiếp và hoàn toàn không có lối thoát và dường như nó bao trùm thành bi kịch
của cả đời anh

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO QUA HAI TÁC PHẨM MỘT BỮA
NO – TƯ CÁCH MÕ

Nam Cao (1915-1951) mặc dù xuất hiện muộn trên văn đàn nhưng ông cũng nhanh chóng để lại
dấu ấn bằng những tác phẩm mang tính nhân văn sâu sắc. Qua các tác phẩm tiêu biểu như: Chí
Phèo, Sống Mòn, Lão Hạc, Một Bữa No, Tư Cách Mõ,…bạn đọc dễ dàng nhận thấy ở Nam Cao
một nhà văn của những nhân vật thấp cổ bé họng, đói khổ, thậm chí bị tha hóa chỉ vì miếng ăn.
Song, trên hết vẫn là một tấm lòng vị tha nhân hậu, đau đớn trước những số phận con người
chẳng những mòn mỏi về tâm hồn mà đôi khi còn không giữ nổi phẩm giá của mình chỉ vì miếng
cơm manh áo. Đặc điểm đó cho thấy một tinh thần nhân đạo, nhân văn sâu sắc trong tư tưởng của
Nam Cao.
Tinh thần nhân bản, nhân đạo chủ nghĩa trong sáng tác cuả Nam Cao thể hiện đậm nét qua hai tác
phẩm Tư Cách Mõ vàMột Bữa No.
Chủ đề về miếng ăn luôn chiếm vị trí hàng đầu trong sáng tác của Nam Cao trước cách mạng
tháng Tám. Sở dĩ như thế là do cái lúc nào cũng là nỗi ám ảnh trong tư tưởng ông. Dù là người trí
thức như Thứ trong Sống Mòn, Hộ trong Đời Thừa,Điền trong Trăng Sáng, hay những người bình
dân như Người Bà trong Một Bữa No, Lộ trong Tư Cách Mõ, Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên
đều không thoát khỏi những lo toan tủn mủn về miếng ăn. Miếng ăn đã trở thành nỗi ghê sợ trong
sáng tác của Nam Cao. Như ta đã biết Nam Cao vốn là một thầy giáo nghèo, cuộc sống bấp bênh,
đói khát luôn là nỗi lo thường trực và luôn là nỗi ám ảnh trong tâm hồn ông. Vì thế nỗi sợ hãi về
thiếu đói luôn thường trực trong tâm trí của ông.
Nỗi ám ảnh về miếng cơm manh áo một phần còn do chế độ xã hội đương thời gây nên. Xã hội
Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là một xã hội thối nát, mục rỗng. Bọn thực dân phong kiến
như một lũ đỉa khát máu, chúng thay phiên nhau hút máu dân đen, làm cho cuộc sống của họ dần
kiệt quệ vì thế đói khát luôn là nỗi ám ảnh thường trực. Với tâm hồn nhạy cảm cùng với những
xúc cảm tình cảm mãnh liệt, Nam Cao đã tái hiện lại một cách sống động nỗi cùng khổ của nhân
dân ta trước cách mạng. Có thể nói nhân vật Người Bà trong Một Bữa No, và anhLộ trong Tư
Cách Mõ là hai nhân vật điển hình cho những sáng tác của Nam Cao về chủ đề miếng ăn.
Trong Một Bữa No ta thấy Nam Cao đã xây dựng nhân vậtNgười Bà luôn gặp những vận rủi
trong cuộc sống. Sớm góa bụa, một mình gà mái nuôi con, nhưng niềm hi vọng duy nhất cũng
sớm tắt liệm. Đứa con mà bấy lâu nay bà đã thắt lưng buộc bụng chăm lo cho nó nhưng chưa
được nhờ cậy gì nó đã vội ra đi bỏ bà bơ vơ. Sự cùng cực đến thế thì thôi! Nhưng dường như định
mệnh vẫn chưa buông tha bà, đứa con dâu bất nhân chồng chết vừa mới xong tang, nó vội đi lấy
chồng ngay,để lại cho bà đứa cháu nội vừa tròn năm tuổi, thế là bà lại phải gồng gánh nuôi đứa
cháu dại. Thời gian dần trôi, đứa cháu giờ đã khôn lớn và đã biết đi ở mướn giúp bà vơi bớt nỗi
cơ cực. Số vào món tiền mọn từ công đi ở của đứa cháu bà dùng làm vốn đi buôn sống đắp đỗi
qua ngày. Buôn gánh bán bưng, đi ngược về xuôi suốt ngày cũng chỉ đủ ăn chứ chẳng tích cóp,
giành dụm được gì. Cuộc sống ấm no chẳng được bao lâu thì bà lại lâm bệnh, số vốn ít ỏi của bà
theo cơn bạo bệnh mà biến mất, bà chỉ còn hai bàn tay trắng với một thân xác gầy mòn ốm yếu.
Không còn sức lực, tiền của cũng hết bà đành mang tấm thân mệt nhọc của mình đi ở đợ để tìm
hai bữa cơm. Thời gian đầu còn có người chịu mướn, nhưng vì tuổi cao, sức yếu nên bà không
kham nỗi công việc. Vì thế cho nên: Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi
lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào.
Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào.Thế rồi bà thất nghiệp,
nhờ vào năm đồng tiền thương hại mà người chủ cuối cùng cho bà, bà sống lây lất qua ngày. Hơn
ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. sau cùng thì một tấm cũng
không có nữa. Đến nước này bà đành lê tấm thân tàn tạ của mình ra chợ xin ăn. Mới đầu mọi
người còn thương hại cho bà ăn, nhưng lòng thương của thiên hạ cũng có giới hạn. Dần dà bà
không còn xin được nữa, và điều không nên xảy ra đã xuất hiện, không còn cách nào kiếm được
miếng ăn bà đành ôm bụng nhịn đói.
Ông bà ta nói “cái khó ló cái khôn”. Trong lúc cùng quẫn nhất, tuyệt vọng nhất bà chợt nhớ mình
còn đứa cháu. Nhưbuồn ngủ gặp chiếu manh, bà hồ hởi ra đi. Tuổi già sức yếu, lại nhịn đói mấy
hôm rày nên cuộc hành trình của bà vô cùng khó nhọc. Tuy nhiên nghĩ đến miếng ăn, được ăn
nên bà phải cố gắng. Đúng là không gì đáng sợ hơn cái đói! Cái đói có thể làm biến chất, hủy
hoại nhân cách con người. Chính vì đói mà bà Cái Đĩ trong lúc sức tàn lực kiệt cũng phải lê bước
đi để tìm cái ăn. Mò mẫm mãi bà cũng đến được nhà bà phó Thụ nơi Cái Đĩ đang ở. Nhưng nhà
giàu thì thường cổng cao rào kín, lại lúc nào cũng có một bầy chó hộ pháp để giúp gia chủ được
ăn ngon ngủ yên. Và nhà bà phó Thụ cũng không ngoại lệ, để vào được nhà phải qua hai lần
cổng, nhưng đáng ngại hơn là làm thế nào để qua mặt được những con chó hung tợn đang lăm
lăm bộ nanh trực chờ đốp lấy con mồi. Không có cách nào vào được nhà, bà đành ngồi chờ vận
may xem có người trong nhà đi ra hoặc có ai vào để vào theo. Cuối cùng bà cũng vào được nhà
nhờ sự trợ giúp của bà phó Thụ.
Thế rồi điều bà mong đợi đã đến. Bữa cơm dọn ra, bà cũng được mời cùng ăn. Nhưng vì nhịn đói
lâu ngày, tay chân run rẩy, bà lống ngống như đứa trẻ mới tập cầm đũa, không làm sao gấp thức
ăn được, làm đổ tháo cả ra mâm. Nóng tiết trước sự vụng về của bà cái đĩ, bà phó Thụ ra lệnh: Sẻ
riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy. Mặc dù bị khinh bỉ, chì triết suốt bữa ăn
nhưng bà vẫn không thấy xấu hổ và ăn một cách ngon lành. Trong khi mọi người đã nghỉ bà vẫn
miệt mài ngồi ăn, ăn như chưa bao giờ được ăn! Bà tự an ủi mình: Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn.
Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Dường như vì lâu quá không được ăn cơm
(trước đó hơn ba tháng bà chỉ ăn toàn bánh đúc), nên bà ăn mãi vẫn không thấy no. Nhưng bà lão
còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì khí tiết. Vả đã đi ăn trực thì còn danh giá gì mà làm khách.
Bà cứ ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Đã thế bà vẫn còn thấy tiết
mấy hạt cơm còn xót lại trong nồi, thế là bà ăn nốt. Ừ, thì bà ăn nốt vây! Bà cạo cái nồi sồn sột.
Bà trộn mắm. Bà rấm nốt.
Sau bữa ăn huy hoàng, bà về nhà với cái bụng căng tròn đầy mệt nhọc. Có lẽ vì bà ăn quá nhiều,
lại ăn mặn (ăn mắm) nên bà uống rất nhiều nước mà vẫn còn thấy khát. Mà bà uống nhiều nước
quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Điều đó làm cho bà khó
chịu vô cùng, bà đau bụng, bà thổ, bà tả,…kéo dài nữa tháng thì bà chết. Cái chết no nhưng hèn
hạ, tủi nhục. Trong cơn đói khát hành hạ, bà không còn giữ được nhân phẩm, bà đã ăn một bữa ăn
đầy tủi hờn, để rồi chết một cách nhục nhã. Bà vốn là một người nhân hậu, hiền lành nhưng định
mệnh cuộc đời đã cướp đi của bà quá nhiều khiến bà phải lâm vào hoàn cảnh bần cùng, đói khát.
Bà đã không còn giữ được phẩm chất của mình, bà đã bị cái đói làm cho tha hóa, biến chất.
Người Bà Trong Một Bữa No chỉ là một cá nhân tiêu biểu trong số rất nhiều con người cũng lâm
vào hoàn cảnh tương tự trong xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Họ vốn là những
người lương thiện, nhưng sự hà khắt của chế độ phong kiến cùng với sự bốc lột của bọn thực dân
đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện.
Trong những sáng tác của Nam Cao trước cách mạng, hình tượng người nông dân hiền lành bị
biến chất, tha hóa do sự tàn nhẫn, hà khắt của chế độ phong kiến là rất nhiều. Trong phạm vi bài
viết này chúng tôi chỉ khảo sát hai tác phẩm Một Bữa No vàTư Cách Mõ do đó những tác phẩm
cùng đề tài khác chúng tôi chỉ đề cập đến chứ không đi sâu vào nội dung.
Trên đây chúng tôi đã tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao qua tác phẩm Một Bữa No mà
cụ thể là thông qua nhân vật người Bà. Tiếp theo đây chúng tôi sẽ khảo sát tác phẩm Tư Cách Mõ
nhằm góp phần củng cố thêm cho cơ sở lí thuyết nêu trên.
Tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám thiên hẳn về thân phận của những
người nông dân thấp cổ bé họng. Ông đồng cảm đến lạ lùng với những thân phận con người thấp
hèn trong xã hội. Những nhân vật của Nam Cao phần lớn đều là những người lương thiện, nhưng
do không đủ sức đề kháng trước những cạm bẫy của chế độ xã hội nên họ dần bị biến chất và tha
hóa. Tiêu biểu cho những nhân vật như thế là anh cu Lộ trong Tư Cách Mõ. Anh vốn được sinh ra
trong gia đình quan viên tử tế. Anh sống rất tử tế, hiền lành, không cờ bạc rượu chè nên được mọi
người yêu mến. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chắm,
chui chúi làm để nuôi vợ, nuôi con. Mặc dù gia đình nghèo khó nhưng anh tịnh không táy máy
tay chân, trộm cắp đồ hàng xóm cho dù nó có bày ra trước mắt. Nhưng túng thì túng thật, mà
bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của
ai. Cái sự túng làm liều, anh tịnh là không có. Nhà hàng xóm có con gà, con vịt chạy sang, hoặc
buồng chuối, quả mít liền kề ngay với giậu nhà anh, anh cũng mặc thây, không hề có cái tính tắt
ma, tắt mắt. Nói cho phải thì anh cu Lộ ăn ở phân minh lắm. Bởi vậy kẻ trên, người dưới, hàng
xóm láng giềng ai cũng mến. Hiền đến thế, sống thanh bạch đến thế thì thôi! Nhưng cuộc sống
không ai nói trước được điều gì. Anh cu Lộ từ một anh nông dân chất phác, hiền lành bỗng trở
thành một anh mõ tham lam đê tiện, điều đó tại nơi lòng người nham hiểm, tục lệ xã hội thối nát
mà ra.
Lộ trình từ một anh nông dân lương thiện trở thành một tên mõ tham lam của anh cu Lộ được bắt
đầu từ câu chuyện của họ đạo Lưu An. Họ đạo Lưu An có khoảng sáu mươi suất đinh thì đã có
quá nữa là quan viên. Vì danh dự, sỉ diện chả ai chịu làm mõ cả, (mõ là việc làm bị cho là thấp
hèn vì phải đi mời mọi người khi có yến tiệc, họp hạt). Người bên lương, tất không ai chịu làm
mõ cho bên đạo. Mà người bên đạo tất ai chịu làm mõ ngay trong họ mình? Nhưng cuối cùng họ
cũng giải quyết ổn thỏa bằng cách thay cách gọi tên mõ bằng lềnh. Có như thế mọi người mới
chịu làm vì họ cho rằng không bị sỉ nhục. Nhưng một hôm trong họ đạo xảy ra một sự kiện, có
một tên vô gia cư không biết từ đâu đến làm thuê cuốc mướn không may vợ mất. Vì anh ta không
phải người họ đạo nên làng không chịu cho chôn vợ, anh ta nài nỉ van xin mãi họ mới chấp nhận.
Sau khi chôn cất vợ, anh ta được làng cho làm sãi để thay cho ngườilềnh.
Mãi về sau khi người sãi qua đời, người trong đạo cùng với thời gian đã quên bẵng lệ lềnh ngày
xưa. Đến lúc này họ mới sốt sắng tìm người thay thế, và ngưởi được nhắm đến là anh cu Lộ. Dựa
vào nhược điểm của anh là nghèo khó, người ta đã vẽ vời, bày ra những thứ lợi lộc để nhử anh.
Lộ đến. Người ta kể tất cả những cái lợi lộc ra để nhử. Rồi người ta lại cố cắt nghĩa cho anh hiểu:
làm sãi chẳng có gì là nhục, cũng là làm việc họ đấy thôi; ai cũng ngại không chịu đứng ra cáng
đáng, thì mình đứng ra cáng đáng giùm cho cả họ; có phải mình tham lợi, tự nhiên đem trầu cau
đến xin làm đâu mà sợ tiếng?…
Không, thế này, anh cu a: giá anh cầu cạnh để làm thì còn có người nói được. Đằng này anh
không cầu cạnh, chúng tôi gọi anh đến, cho làm, thì việc gì anh không làm? Ấy là tất cả các cụ,
cùng quan viên trên, quan viên dưới đều mến cái bụng anh hiền lành… Anh cứ làm.
Vốn hiền lành, chất phác lại ít học, nghe những lời đường tiếng mật anh cu Lộ gật gù thích chí và
đồng ý làm sãi. Ôi, người đời thật nham hiểm! Ai cũng muốn mình được hưởng những điều tốt
đẹp và đùn đẩy những khó khăn, hèn hạ cho người khác. Họ cậy quyền, ỷ thế để chèn ép những
người thua thiệt về địa vị, kinh tế. Anh cu Lộ chỉ vì nghèo cùng với sự hiền lành đến khờ khạo
của mình nên bị người khác lừa gạt gán ghép cho việc làm mà hầu hết mọi người đều né tránh vì
cho là hèn hạ.
Cuộc đời làm mõ của anh cu Lộ thăng tiến rất nhanh, cuộc sống của anh sung túc khắm khá hẳn
lên. Và quả nhiên, hắn làm được ít lâu thì nhà đỡ xo dụi hơn trước thật. Bởi vì hắn chăm chỉ lắm.
mấy sào vườn họ cho, hắn cuốc xới rất kĩ càng. Hắn làm ngô, làm mía được mấy vụ tốt luôn. Tiền
của họ cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn. Thói đời nghĩ cũng lạ, khi cần thì chẳng ai chịu làm
đến khi người làm được thì tỏ ra tiếc nuối, ghen tị. Ông bà ta thường nói trâu cuộc ghét trâu
ănquả thật chẳng sai. Anh cu Lộ nhờ làm mõ mà khắm khá hẳn lên, nhưng cũng từ đó anh bị mọi
người hiềm khích ghen tị. Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới sinh ra tiếc. Họ thấy Lộ
làm sãi ngon ăn quá. Họ ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng người nào bảo người nào, họ vô tình
về hùa với nhau để báo thù.
Mọi người bắt đầu coi khinh Lộ, phân biệt đối xử, xem Lộ như một người hèn hạ không xứng
đáng được giao tiếp với họ.Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui miệng nói chõ vào một vài
câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt chuyện…Sự rẻ khinh, lạnh nhạt của mọi
người đối với anh cu Lộ ngày một lớn thêm, điều đó vô hình chung đã tạo nên vết thương nơi tâm
hồn Lộ, anh cảm thấy xấu hổ và mặc cảm trước hành động của mọi người. Ý định thoái thác trách
nhiêm nảy sinh trong đầu anh, nhưng anh vẫn cảm thấy tiếc cơ ngơi mình tạo dựng nên. Hắn thở
ngắn, thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ cho đỡ tức. nhưng nghỉ thì cũng
tiếc. Hắn chăm cái vườn tốt lắm rồi. Để thằng khác ăn, nó hoài đi. Hắn lại tặc lưỡi một cái, và
nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!…”.Hành động đó cho ta thấy anh cu Lộ cũng là một người biết coi
trọng liêm sỉ, biết thế nào là nhục là vinh. Tuy nhiên , sự rẻ rúng, miệt thị của mọi người dần làm
cho tâm hồn anh chay san, tha hóa.
Như để chống lại sự khinh bỉ, lạnh nhạt của mội người, anh cu Lộ dần trở nên đanh đá hơn, sắc
cạnh hơn. Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần
gì!…” Sức chịu đựng của con người có giới hạn, tức nước vỡ bờ. Đến lúc này anh cu Lộ đã trở
thành mõ chính hiệu, đúng với tư cách mõ. Hắn bắt đầu trả thù cho sự rẻ lạnh của mọi người bằng
cách tham lam. Muốn báo thù lại những anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấy
một cỗ thật to để các anh trông mà thèm.
Từ đấy cuộc đời làm mõ của anh cu Lộ rẽ sang hướng khác, tiến bộ hơn, thành công hơn. A! Họ
bảo hắn là mõ vậy!… Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!… Từ đấy, không những hắn đòi cổ to, lúc
ăn hắn còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. không đem lên cho hắn thì tự hắn xông
vào chỗ làm cổ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu
vợ con ăn không hết, thì kho nấu để lại ăn hai, ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó
cứ cười khỏe đi!
Ở cuối tác phẩm ta thấy có một phát ngôn mang tính triết lí của Nam Cao và phần nào cũng bộc
lộ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng
đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không
được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…
Một phát biểu thể hiện tinh thần nhân văn, nhân bản sâu sắc của Nam Cao. Ông đã đúc kết được
nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa của Lộ nói riêng, và những người thấp cổ bé họng trong xã hội
nói chung đó là vì không được ai coi trọng cả. Nam Cao đã chỉ ra rằng: lòng khinh, trọng của
chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm. Với sự dày dạn, cùng những
trải nghệm trong cuộc sống đã giúp Nam Cao nhìn thấu bản chất của vấn đề. Sự tha hóa của anh
cu Lộ không phải do bản chất của anh ta tạo nên mà do khách quan bên ngoài đưa đến. Cụ thể đó
là sự xuống cấp trầm trọng của một bộ phận người trong xã hội đương thời, cùng với đó là những
phong tục tập quán lỗi thời, sự hạch sách, nhiễu nhương của bọn thực dân, địa chủ phong kiến.
Việc tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao thông qua hai tác phẩm Một Bữa No và Tư Cách
Mõ cho thấy ông là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc. Ông đồng cảm đến sâu sắc với những
con người thuộc tầng lớp thấp hèn trong xã hội, đau cùng với nỗi đau của họ. Có thể nói hai nhân
vật Người Bà và anh cu Lộ là đại diện tiêu biểu nhất cho tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao đặc
biệt là trước cách mạng tháng Tám. Đó là một tư tưởng nhân văn nhân đạo hướng về những
người cùng khổ, những kiếp người bất hạnh trong xã hội.

TƯ TƯỞNG VÀ TẦM NHÌN NAM CAO

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, có tư tưởng và tâm hồn lớn, có tầm nhìn xa rộng và tài năng lớn,
và có đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Kỷ
niệm 100 năm ngày sinh Nam Cao, có cảm tưởng nhà văn lớn vẫn như đang đồng hành với chúng
ta.

1.“Sống tức là cảm giác và tư tưởng”

Nam Cao viết trong tiểu thuyết Sống mòn: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống
cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra
hành động. Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. Cảm giác càng mạnh,
càng linh diệu, tư tưởng càng dồi dào càng sâu sắc thì sự sống càng cao”. Như vậy, Nam Cao đề
cao con người tư tưởng, coi trọng đời sống bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của
những hành động bên ngoài. Với một quan niệm về con người như thế, ngòi bút Nam Cao có
khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào đời sống tinh thần của con người, khám phá “con
người trong con người”, dù là viết về người nông dân hay người trí thức. Đối với Nam Cao, cái
quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của
nội tâm nhân vật. Xét đến cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự
kiện, biến cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong tác phẩm của Nam
Cao, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân sự kiện,
biến cố. Sự kiện, biến cố đối với nhà văn ít quan trọng hơn là phản ứng của nhân vật trước sự
kiện, biến cố đó. Sự miêu tả những sự kiện, biến cố bên ngoài bị đẩy lùi xuống bình diện sau,
nhường chỗ cho sự miêu tả, phân tích đời sống tinh thần bên trong của nhân vật. Với tài năng bậc
thầy, Nam Cao đã sử dụng đầy hiệu quả nhiều thủ pháp và biện pháp nghệ thuật để miêu tả tâm lý
của nhân vật; mọi thủ pháp và biện pháp nghệ thuật của Nam Cao đều hướng tới việc thể hiện sâu
sắc tâm lý con người được bộc lộ trong cuộc sống hằng ngày rất đỗi quen thuộc ở quanh ta, tạo
nên một chủ nghĩa hiện thực tâm lý – đời thường mang đậm cá tính sáng tạo của Nam Cao.

Văn Nam Cao là tiếng nói của một con người mà vầng trán không bao giờ thanh thản
còn tâm hồn thì nặng trĩu những suy tư. Ông là nhà văn suốt đời trăn trở, suy ngẫm xung quanh
vấn đề về sự sống và cái chết về tinh thần của con người. Từ những chuyện vặt vãnh, những cảnh
đời thường, tác phẩm của Nam Cao đã động chạm đến những vấn đề có tính chất nhân bản, đã đặt
ra những vấn đề sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về tương
lai của dân tộc và nhân loại. Nam Cao cũng thường rọi chiếu vào những chuyện vụn vặt, những
chi tiết tâm lý một luồng ánh sáng rất mạnh của tư tưởng, bắt những chuyện vặt vãnh, những cảnh
đời thường hàng ngày quen thuộc nói lên những ý nghĩa sâu sắc về con người, về cuộc sống và
nghệ thuật, tạo nên một chủ nghĩa hiện thực tâm lý – triết lý rất Nam Cao. Dù viết về người nông
dân hay trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, những tác phẩm xuất sắc của Nam Cao
có khả năng vươn tới những vấn đề triết học, khái quát những quy luật chung của cuộc sống như
vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách, v.v… Nhân một chi tiết, một
sự kiện của một cá nhân, một nhân vật cụ thể, khuynh hướng chung của Nam Cao là suy ngẫm
đến đời, đến kiếp, và khái quát thành kiếp sống của họ, thành toàn bộ cuộc đời của họ. Và cũng
không chỉ nói về đời, về kiếp của một con người mà còn vươn tới khái quát về toàn bộ đời, toàn
bộ kiếp của những nhân loại nhỏ, những nhân loại lớn xung quanh họ. Điều đó đã tạo nên trong
những trang truyện của Nam Cao cái giọng triết lý về đời, về kiếp, khi thì thâm trầm, sâu sắc, lúc
lại pha chút hài hước, hóm hỉnh, độc đáo và thấm thía.

2. “Sống tức là thay đổi”

Viết về người nông dân nghèo, Nam Cao trong sáng tác của mình đã dựng nên một
nông thôn nghèo đói, xơ xác, hoang vắng, người nông dân có một số phận hết sức bi thảm. Đó là
những con người sống quẩn quanh, bế tắc trong những “kiếp lầm than”, nhiều người bị đẩy vào
tình trạng tha hóa, lưu manh hóa. Viết về người trí thức nghèo, Nam Cao đã dựng nên cả một xã
hội “sống mòn”; mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống mòn, một cách chết
mòn. Một cuộc sống vô lý, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả chết mà chưa sống”, “chết
ngay trong lúc sống” (Sống mòn). Có thể nói, trước Cách mạng, không có nhà văn nào có cái nhìn
sâu sắc, có tầm triết lý, tổng hợp khái quát cao độ về tình trạng chết mòn, cái chết về tinh thần
như nhà văn lớn Nam Cao.

Nếu như qua nhân vật AQ trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn muốn khái quát phép thắng
lợi tinh thần của người Trung Hoa thì qua những nhân vật người nông dân, nhất là những người
trí thức, những Điền, những Hài, những Hộ, những Thứ, phải chăng Nam Cao muốn khái quát nét
tâm lý chung của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam: tâm lý trì trệ, sợ đổi thay. Một nét
tâm lý được nảy sinh từ hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của một nước nông nghiệp lạc hậu, bị
kìm hãm lâu đời trong chế độ phong kiến, tạo nên những thói quen. “Không phải cái thói quen
của riêng mình, nhưng mà là cái thói quen lưu truyền đã mấy đời, đến nỗi nó đã nhập vào máu
chúng ta. Tư tưởng, tính tình, cảm giác, hành động của chúng ta đều khuôn theo những thói tục.
Những lề lối sẵn trong thời đại chúng ta” (Sống mòn). Ngồi trên tàu từ Hà Nội về quê, biết chắc
đời mình “sẽ mốc lên, sẽ gỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra, ở một xó nhà quê”, nhưng Thứ vẫn buông xuôi,
vẫn cứ để mặc con tàu mang đi. “Trên những bãi sông kia, trong những làng mạc, những khóm
xanh xanh kia, có biết bao người sống như y, nhưng không bao giờ dám cưỡng lại đời mình. Đời
họ là một đời tù đày. Nhưng cũng như một con trâu, họ vẫn cắm cúi kéo cày, ăn cỏ, chịu roi. Ở
bên kia những cánh đồng bùn lầy, là rừng xanh, cuộc sống tự do, cỏ ngập sừng. Con trâu có lẽ
cũng biết vậy, nhưng chẳng bao giờ nó dám đi, chẳng bao giờ nó dám dứt đứt sợi dây thừng. Cái
gì giữ con trâu lại đồng bằng và ngăn người ta đến một cuộc đời rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn ? Ấy là
thói quen, lòng sợ hãi sự đổi thay, sợ hãi những cái gì chưa tới (tôi nhấn mạnh – T.Đ.S)” (Sống
mòn). Khái quát nét tâm lý bảo thủ, trì trệ của dân tộc, dựng nên cả một xã hội, một thế giới bức
bối, ngột ngạt trong bầu không khí “sống mòn”, Nam Cao đã thức tỉnh ý thức đổi thay, vượt thoát
khỏi tình trạng “chết mòn” ở mỗi con người. Hơn một lần, trong tác phẩm của mình, Nam Cao
thể hiện khát vọng đổi thay. Đổi thay những ràng buộc, vứt bỏ những “thói quen” kìm hãm sự
phát triển của mỗi cá nhân, của cộng đồng, của cả dân tộc. Nam Cao khẳng định: “Sống tức là
thay đổi”; “Thời thế đổi, lòng người đổi”. Thật là táo bạo khi Nam Cao mong muốn lọc máu cho
cả dân tộc: “Thế kỷ sau sẽ lọc cho máu chúng ta trong trẻo lại”, và đầy trách nhiệm khi tự hỏi:
“Nhưng tại sao ta lại không thể nghĩ đến chuyện lọc máu ta ngay từ giờ ?...” (Sống mòn). Ngay
trong thời kỳ đen tối nhất, trong những hoàn cảnh bi thảm nhất, Nam Cao dẫu có bi quan nhưng
vẫn không tuyệt vọng mà vẫn khao khát đổi thay: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu.
Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi…” (Điếu văn). Vậy là, đâu phải chờ đến
những năm cuối thế kỷ XX đất nước ta mới có nhu cầu đổi mới. Ngay từ trước Cách mạng, Nam
Cao đã thổi bùng lên khao khát đổi thay của cả dân tộc Việt Nam.

3. “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều”

Nam Cao là nhà văn hiện thực kiệt xuất, đồng thời là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Chủ
nghĩa nhân đạo lấy con người làm gốc, con người với tất cả mọi nhu cầu chính đáng, năng lực
trần thế và hiện thực. Các nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn xưa nay đều quan tâm sâu sắc đến con
người không chỉ về đời sống vật chất mà còn cả về đời sống tinh thần, tình cảm; khẳng định và đề
cao những giá trị tốt đẹp của con người như vẻ đẹp hình thức, phẩm chất, tính cách và tài năng,
v.v…

Trái tim lớn và tầm nhìn rộng lớn đã giúp Nam Cao khái quát được những vấn đề,
những hiện tượng xã hội phổ biến, mang ý nghĩa phổ quát cho mọi xã hội, mọi thời đại, vượt ra
ngoài thời đại của ông. Nam Cao đã miêu tả với sự ám ảnh kỳ lạ thường thấy ở những tài năng
lớn về cái môi trường, hoàn cảnh xô đẩy những cu Lộ (Tư cách mõ), những thằng Đức (Nửa
đêm), những Chí Phèo (Chí Phèo) vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa. Chí Phèo vốn là người
nông dân làm ăn lương thiện, là canh điền cày thuê cuốc mướn rốt cuộc lại phải sống bằng nghề
cướp giật, rạch mặt ăn vạ; vốn “hiền lành như đất” “bỗng nhiên vùng dậy, giở toàn những giọng
uống máu người không tanh”; vốn khao khát hạnh phúc bình dị đời thường mà lại đi đập phá
hạnh phúc của dân làng, v.v… Chí Phèo bị lâm vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, khao
khát sống lương thiện, tìm mọi cách để trở về cuộc sống lương thiện nhưng vẫn bị cả xã hội lạnh
lùng gạt bỏ ra ngoài đồng loại. Tiếng thét biết bao đau đớn, đầy uất ức, căm giận của Chí Phèo ở
cuối thiên truyện: “Ai cho tao lương thiện ?” không chỉ nhằm trực tiếp vào Bá Kiến mà âm
hưởng của nó còn hướng tới toàn bộ xã hội làng Vũ Đại, không chỉ vang lên trong thời đại Nam
Cao mà phải chăng vẫn còn vang vọng đến thời đại của chúng ta, không chỉ là vấn đề bức thiết
của Việt Nam mà còn là vấn đề nóng bỏng của nhiều quốc gia thời hiện tại.

Nếu như viết về người nông dân, Nam Cao tập trung khái quát hiện tượng phổ biến ở
nông thôn, hiện tượng những người nông dân lương thiện bị đẩy vào tình trạng tha hóa, lưu manh
hóa thì khi viết về người trí thức, nhà văn lại khái quát hiện tượng “sống mòn”, “chết ngay trong
lúc sống” của một tầng lớp, của cả xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Các nhân vật trí thức tâm
huyết của Nam Cao đều rơi vào tấn bi kịch tinh thần không lối thoát, lâm vào tình trạng của
những con người có hoài bão, có lý tưởng cao đẹp, có tài năng nhưng bị hoàn cảnh trói buộc
không sao thực hiện được điều đó. Nhân vật tự ý thức được tình trạng của mình, cố tìm lối thoát
nhưng không tìm được, sống triền miên trong những dày vò đau đớn về tinh thần. Những Điền,
những Hộ, những Thứ trong tác phẩm của Nam Cao muốn thực hiện những hoài bão lớn, muốn
sống cho có ý nghĩa, xứng đáng với giá trị, tài năng của mình nhưng lại bị “áo cơm ghì sát đất”,
phải sống lay lắt trong những cảnh đời thừa, trong những kiếp sống mòn, “chết mà chưa làm gì
cả chết mà chưa sống !...”. Song dẫu lâm vào tình cảnh “chết mòn” nhưng họ vẫn chưa bao giờ
mất hết niềm tin, niềm hy vọng; vẫn khao khát được sống có ích, được cống hiến, được phát triển.
Vẫn khao khát mỗi con người được phát triển tài năng “đến tận độ” để góp phần vào “công cuộc
tiến bộ chung” của loài người. Cao cả và đẹp đẽ biết bao lý tưởng nhân văn của Nam Cao được
gửi gắm qua dòng suy ngẫm của nhân vật Thứ về sự sống: “Thứ vẫn không thể nào chịu đựng
được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để
làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát
triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng trong mình (tôi nhấn mạnh – T.Đ.S).
Phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một
chút gì cho nhân loại” (Sống mòn). Về một phương diện nào đó, có thể thấy tư tưởng đề cao ý
thức cá nhân của Nam Cao có sự gặp gỡ, “giao thoa” với khuynh hướng tư tưởng cơ bản của trào
lưu lãng mạn giai đoạn 1932 – 1945, của những cây bút đã thức tỉnh rất cao về ý thức cá nhân
như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, … Tuy thế, có điểm giống
nhau mà vẫn khác, vẫn có những nét riêng không lẫn. Ấy bởi vì, trong quan niệm của Nam Cao, ý
thức cá nhân, sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời đâu chỉ một chiều là tranh thủ từng
giây, từng phút để tận hưởng những khoảnh khắc đang có, cho “chếnh choáng mùi thơm”, cho
“đã đầy ánh sáng”, cho “no nê thanh sắc của thời tươi” (Xuân Diệu). Càng không phải là chủ
nghĩa cá nhân cực đoan, với cái triết lý sống mang màu sắc hiện sinh chủ nghĩa, chỉ còn biết đến
những đòi hỏi cá nhân và kêu gọi hưởng thụ của một số nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn. Nam Cao không đồng tình với quan điểm lấy cá nhân làm cứu cánh cho cá nhân. Đời sống
cá nhân chỉ thực sự có ý nghĩa khi hướng tới, vươn lên cái gì thiêng liêng, cao cả hơn cá nhân.
Nam Cao đòi hỏi cho mỗi cá nhân được “phát triển đến tận độ” với một ý thức đầy trách nhiệm
và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng, của dân tộc và nhân loại.
Có thể nói, tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt
Nam trước Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài thời đại Nam Cao, trở thành tư
tưởng chung của mọi thời đại.

Từ những tấn bi kịch của người nông dân và người trí thức trong xã hội cũ, chúng ta thấy, Nam
Cao quan tâm sâu sắc tới hai vấn đề lớn của con người là quyền được sống lương thiện và điều
kiện để phát huy tài năng để sống một cuộc sống có ích, có ý nghĩa. Ông là nhà văn không chỉ
đồng tình với khát vọng sống lương thiện mà còn đòi hỏi cho mỗi con người được “phát triển đến
tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình”, cổ vũ cho khát vọng được cống
hiến, được sáng tạo của người trí thức, người nghệ sĩ chân chính.

4. Những tác phẩm đi cùng năm tháng

Nam Cao đã để lại cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc, trong
đó có những kiệt tác với những tìm tòi độc đáo, những sáng tạo mới mẻ về tư tưởng và nghệ
thuật. Những truyện viết về cuộc sống tối tăm thê thảm của người nông dân như Chí Phèo, Trẻ
con không được ăn thịt chó, Mua danh, Tư cách mõ, Điếu văn, Một bữa no, Lão Hạc, Một đám
cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm, v.v…; những truyện ngắn viết về tình trạng “chết mòn” của
người trí thức nghèo như Giăng sáng, Mua nhà, Những truyện không muốn viết, Truyện tình,
Quên điều độ, Cười, Nước mắt, Đời thừa và tiểu thuyết Sống mòn sẽ còn có sức sống lâu dài
trong lòng bạn đọc thuộc nhiều thế hệ. Độc giả của những thế kỉ sau vẫn tìm đến Nam Cao, vẫn
cứ đọc Nam Cao cho dù cuộc sống khi ấy có thể khác những điều ông miêu tả. Người ta vẫn cứ
đọc Nam Cao để hiểu, để cảm thông, chia sẻ với những buồn đau của những kiếp lầm than, những
kiếp sống mòn của thời đại cũ với niềm mong ước không bao giờ rơi vào tình trạng quẩn quanh,
bế tắc đó cùng với niềm khao khát mãnh liệt vươn tới một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, xứng
đáng với con người. Người ta vẫn đọc Nam Cao để hiểu biết thêm về con người và cuộc đời, để
chiêm nghiệm những triết lí tình thương sâu sắc của ông. Và nếu như thiên tài là đặt ra được
những vấn đề lớn lao, sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở, là đi trước thời đại và có tính hiện đại, là
vượt qua được thử thách khắc nghiệt của thời gian, là độc đáo, là duy nhất, là không lặp lại được
thì đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, hai chữ ấy phù hợp với Nam Cao.

Kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn lớn Nam Cao trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục
công cuộc đổi mới, còn ngổn ngang biết bao vấn đề về nạn tham nhũng, về dân chủ, về sự công
bằng, về tự do sáng tác, v.v… Nhưng đời sống xã hội và văn học, dù có phong phú phức tạp đến
đâu, dẫu có bị kìm hãm như thế nào, vẫn có những quy luật cơ bản, mang tính tất yếu. Vì thế, một
lần nữa, xin được nhắc lại niềm tin mãnh liệt của Nam Cao: “Chúng tôi những kẻ đã đau khổ, đã
uất ức, đã ước ao, đã khát thèm, đã thất vọng và vẫn còn hy vọng mãi và phải hy vọng mãi. Sự
đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo
rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên… ”.

GIĂNG SÁNG
1. Tóm tắt cốt truyện
Nhân vật Điền trong Giăng Sáng là một nhà văn nghèo bị vẻ đẹp huyền ảo của ánh trăng mê hoặc và
anh có một ước mơ văn chương lớn lao, nhưng đôi mắt anh lại chất chứa những bi kịch của cái
nghèo, cái nghèo. ngắn
Điền là người thấm nhuần dòng văn thơ, dù được cha mẹ cho ăn học đầy đủ, không kiếm được bao
nhiêu tiền nhưng anh vẫn tự nhủ không uổng vì nhờ có chữ mà anh mới cảm nhận được. có được tất
cả các hương vị của mặt trăng.
Đối với Điên, ánh trăng vô cùng đẹp đẽ và quý giá, nó là nguồn cảm hứng bất diệt của tâm hồn thi
nhân, có thể xoa dịu những cáu kỉnh trên gương mặt người vợ, làm tan chảy nụ cười trẻ thơ. Điền
thấy thương vợ khi cả đời chỉ tính toán với mấy đồng bạc khiến tâm hồn trở nên khô cằn, cằn cỗi.
Điền trách vợ điều đó, nhưng bản thân anh cũng không gạt được những nỗi lo vụn vặt khi thấy bố mẹ
còn khổ, vợ con nheo nhóc. Từng là chàng trai sẵn sàng bỏ công việc mấy trăm đồng để theo đuổi
nghiệp văn chỉ năm đồng thì nay Điền đã rơi vào bi kịch của miếng cơm, manh áo.
Trong căn nhà dột nát, Điền có thể nghe thấy tiếng chửi bới của vợ và tiếng khóc thút thít của đứa trẻ,
nhưng trên mặt trăng vẫn sáng lấp lánh. Vầng trăng như là nơi để thi nhân thoát khỏi những muộn
phiền của thế gian, nó dẫn Điền đến những suy nghĩ ích kỉ, tầm thường.
Điền chợt nghĩ đến hình ảnh đàn bà đẹp lười biếng và nhất thời muốn bỏ vợ con để đi tìm sự xa hoa
đó, chỉ có như vậy ngòi bút của Điền mới vẽ được những đường nét quý phái.
Khi Điền còn đang vẩn vơ trong dòng suy nghĩ ấy thì những âm thanh trần tục đã kéo anh về với thực
tại, khiến nhà văn tội nghiệp cảm thấy xấu hổ vì ước mơ viển vông và vô vị của mình.
Điền cũng như bao trí thức tiểu tư sản nhỏ tuổi bây giờ, họ bị cuộc sống dày vò và luôn mang trong
mình tư tưởng muốn trốn tránh thực tại, nhưng trong đầu anh đang diễn ra một mâu thuẫn gay gắt.
giữa ước mơ văn chương và trách nhiệm với gia đình.
Cuối tác phẩm là hình ảnh Điền tiếp tục viết nên những tác phẩm văn học, nhưng không phải dưới
ánh trăng lung linh, huyền ảo mà là trong giọng nói gắt gỏng của vợ và tiếng khóc của trẻ thơ.
Đó là quyết định của một người nghệ sĩ chân chính khi lựa chọn từ bỏ ánh trăng giả dối để viết nên
những trang viết từ những cảnh đời khốn khó và phản ánh nỗi cơ cực của một kiếp người.
2. Giăng sáng là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao
Trong giai đoạn lịch sử 1930-1945, những trí thức tiểu tư sản bị tầng lớp thống trị kìm hãm,
khiến họ cảm thấy bí bách, ngột ngạt, nên trào lưu văn học lãng mạn nổi lên như một cách để thoát
khỏi những đau khổ. thực tế. Lúc bấy giờ vẫn còn những nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao cũng hướng mình đến văn học hiện thực phê phán vì họ nhận thức rõ
nghệ thuật bắt nguồn từ đâu và phục vụ cho cái gì.
Sáng Giăng, Điền là đại diện của nhà thơ lúc bấy giờ. Bởi vì xuất thân là tiểu tư sản, hắn vẫn có
một phần suy nghĩ giống bọn họ, có lần muốn trốn ở dưới ánh trăng đi thăm. nơi có những người phụ
nữ xinh đẹp, buông thả. Cuối cùng, Điền nhận ra thứ văn chương chỉ kiếm thơ thoát tục, hưởng thụ là
thứ văn chương dành cho những kẻ nhàn rỗi, từ đó, anh đã nêu ra tuyên ngôn nghệ thuật của riêng
mình.
Nam Cao qua nhân vật Diên đã lên án văn học nghệ thuật vì nghệ thuật mà quay lưng lại với
cuộc đời, một người nghệ sĩ khi cầm bút phải đến gần nhân dân hơn để cất lên tiếng nói cho họ. khóc
buồn và vẽ cùng một lúc. nên những cảnh đời trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Ánh trăng trong tác phẩm là hình ảnh tượng trưng cho cốt cách thi ca kể cả những điều xấu xa
nhất, dù kiếp người dưới bao đau khổ thì vầng trăng vẫn tỏa sáng lung linh. Tác phẩm là sự đoạn
tuyệt của Nam Cao với dòng văn học thoát tục này vì ông cũng là một tiểu tư sản ham chữ đẹp, xa rời
thực tế nên người viết càng hiểu rõ hơn sự phù phiếm mà dòng văn học này mang lại. Giăng sáng
như một tuyên ngôn về nghệ thuật của Nam Cao, giúp ông xác định rõ con đường văn chương của cá
nhân mình và quả thực nhà văn đã trung thành với câu nói này trong suốt sự nghiệp sáng tác của
mình.
3. Quan điểm NT trong Giăng sáng (1943) Nam Cao viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh
trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ
kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than...’’.
a. Chuyển từ lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực
Nam Cao không chỉ là một nhà văn hiện thực kiệt xuất mà còn là một nhà văn thường hay băn
khoăn trăn trở về quan điểm sáng tác văn học. Trải qua thể nghiệm và suy ngẫm của bản thân về văn
chương và hiện thực cuộc đời, Nam Cao đã mượn lời nhân vật Điền trong Trăng sáng để phát biểu:
“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ
thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than...”. Ý kiến này xứng đáng
là một tuyên ngôn nghệ thuật của trường phái hiện thực, dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn thoát li
để trở về với chủ nghĩa hiện thực chân chính.
Nam Cao phủ định thứ văn chương như thế, chúng ra chú ý đến cách nói nhấn lại hai lần: “…
không cần, … không nên…”, Nam Cao như tự nhũ, tự nhắc chính mình. Nam Cao phủ định chính
thời kỳ sáng tác trước năm 1941 của ông. Khi ấy nhà văn với những bút danh Như Nguyệt, Thúy Rư
đã sáng tác những tác phẩm lãng mạn mà về sau Nam Cao thấy nó chỉ tả được cái “bề ngoài của xã
hội”. Chúng ta thấy Nam Cao thật sự nghiêm khắc với chính mình. Có thể xem “Giăng sáng” là
tuyên ngôn nghệ thuật thứ nhất của Nam Cao, nó đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của nhà văn,
chuyển dứt khoát từ khuynh hướng lãng mạn sang hiện thực.
Nhưng còn có thể hiểu thái độ phủ định của Nam Cao trong hoàn cảnh rộng hơn với những ý
nghĩa lớn hơn. Khi đất nước lầm than, nhân dân đói khổ và bản thân các nhà văn, nhà thơ cũng sống
cuộc sống khốn cùng, vậy mà họ lại viết những trang văn mơ mộng và quay lưng lại với hiện thực
đời sống thì đó là thứ ánh trăng lừa dối, lẩn tránh và thoát li hiện thực và có thể nói như Sóng Hồng:
“Đem gấm vóc phủ lên trên xã hội điêu tàn”. Rõ ràng ở đây, Nam Cao đã không chấp nhận thứ nghê
thuật vị nghệ thuật. Như thế, từ sự từ bỏ mang tính cá nhân, chúng ta thấy Nam Cao đang lặng lẽ bác
bỏ, cả một trào lưu văn chương lãng mạn nặng về thoát li và tô điểm đương thời.
b. Trước hết, Nam Cao muốn khẳng định nghệ thuật chân chính phải bắt rễ trong đời sống
hiện thực, không được thoát li đời sống để trở thành lừa dối.
Tìm hiểu cuộc đời nhà văn, chúng ta thấy từ khi còn là một cậu học sinh, Nam Cao đã từng
mơ ước sáng tác. Thời kì này, ông đã có nhiều thơ, truyện đăng báo với các bút danh Thuý Rư, Xuân
Du, Nhiêu Khê, Nguyệt... Cũng như bao học sinh tiểu tư sản đương thời, Nam Cao chịu ảnh hưởng
nặng của văn thơ lãng mạn thoát li. Nhưng do được tiếp xúc với cuộc sống cùng khổ của nhân dân,
lại là nhà văn có lương tri, giàu tình yêu thương quần chúng, Nam Cao đã sớm nhận ra tính chất giả
dối phù phiếm của thứ văn chương “thơm tho” đó, nó rất lạc lõng, xa lạ đối với cuộc sống của hàng
triệu quần chúng lầm than và bản thân tác giả hồi bấy giờ. Điền, nhân vật chính trong tác phẩm Trăng
sáng chính là hình bóng cuộc đời của tác giả. Cuộc đời Điền là cuộc đời của một ông giáo khổ trường
tư với đồng lương chết đói không nuôi nổi bản thân, còn nói gì đến chuyện nuôi gia đình. Con Điền,
đứa thì phải đi chăn trâu, đứa thì phải chạy chợ kiếm ngày mấy xu rau; vợ Điền thì cuộc sống lầm
than, cái nghèo đói đã làm cho tầm hồn thị trở nên nhỏ nhen, ích kỉ, cằn cỗi, tàn nhẫn.
Chính cái sự thật nghiệt ngã ấy đã giết chết bao nhiêu ước mơ lãng mạn của Điền. Nhiều khi
Điền phải quên cái mộng vãn chương để kiếm tiền; cơm áo đã ghì Điền sát đất: Nhìn cảnh vợ vì cùng
quần, túng thiếu mà “đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, vừa dẫm chân bành
bạch, vừa kêu trời”, Điền thấy mình gần như tủi cực. Với tâm trạng ấy, nhìn lên trời “Trăng nhởn nhơ
như một cô gái non vừa có nhân tình. Gió nhẹ nhàng đặt lên lá những bước chân vũ nữ. Trăng tỏa
mộng xuống trần gian... cho những tâm hồn khát khao ngụp lặn...”, Điền mới nhận ra rằng “nghệ
thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối”. “Ánh trăng lừa dối” ở đây
là hình ảnh tiêu biểu cho văn chương lãng mạn thoát li, lấy “mây gió trăng hoa” làm nguồn thi hứng
chủ yếu. Ánh trăng lừa dối gợi nhớ đến mặt trời chân thực. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, khi mà đất
nước đang đau dưới gót giày giặc ngoại xâm, nhân dân đang chịu cảnh lầm than đau khổ, thì thứ văn
học chỉ đi tìm cái thi vị, tìm cái đẹp trong thiên nhiên thuần túy, trong ảo ảnh của ánh sáng vay mượn,
chỉ là thứ văn chương thoát li, hưởng lặc, thi vị hóa cuộc sống.
Thứ nghệ thuật đó giống như ánh trăng kia, nó thơ mộng lắm, huyền ảo lắm “nó làm đẹp ra
những cái thực ra chỉ là tầm thường xấu xí. Trong những căn lều dột nát mà ánh trăng làm cho cái bề
ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp
mình”. Trong tình hình ấy, thứ văn chương nghệ thuật như ánh trăng huyền ảo kia chỉ là thứ “nghệ
thuật vị nghệ thuật”, quay lưng lại với đời sống nhân dân. Nó chỉ có ý nghĩa là “món giải trí của
những người đàn bà nhàn nhã đặt mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy..., chỉ biết ăn ngon
mặc đẹp chăm sửa thịt da và chẳng làm gì cả” (Trăng sáng). Còn đối với hàng triệu quần chúng lầm
than đói khổ lúc bấy giờ, thứ văn chương ấy chỉ là “những ánh trăng lừa dối”, chẳng có ích gì, lạc
lõng, phù phiếm.
Như vậy, qua câu nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối”. Nam Cao kịch liệt
phê phán tính chất thoát li, phi hiện thực của các xu hướng lãng mạn tiêu cực đương thời. Đó cũng là
sự cự tuyệt của ông đối với khuynh hướng văn học thoát li khỏi đời sống.
Nếu như đọc các tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... chúng ta được
chứng kiến những khung cảnh hiện thực của nông thôn náo động tiếng thúc thuế dồn sưu, những
tiếng kêu than ai oán vì phải bán vợ đợ con, cùng những kiếp sống Tắt đèn, Bước đường cùng của
người nông dân, thì sau những trang sách văn học lãng mạn, ta lại thường bắt gặp khung cảnh đồng
quê yên ả dìu dịu, cùng những cặp vợ chồng địa chủ như Hạc - Bảo suốt ngày chỉ ra sức làm giàu để
cải thiện sinh hoạt cho nông dân nghèo và sống hòa thuận với họ. Những bức tranh và cảnh đời ấy
chỉ là sản phẩm tưởng tượng chủ quan, xa lạ với hiện thực cuộc sống và đúng là “ánh trăng lừa dối”
đối với biết bao người nông dân đang “dưới đồng khô, buồn lo méo mặt nặng ách trâu cày”
Trở lại với ý kiến của Nam Cao, ta thấy một mặt, nhà văn phê phán tính chất thoát li, lừa dối
của văn học lãng mạn; mặt khác, ông đòi văn học phải bắt rễ từ hiện thực, nghĩa là trở về với cuộc
sống của hàng vạn, hàng triệu con người đau khổ: “Nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng lòng đau khổ
kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nghệ thuật phải “vị nhân sinh”, phải là “Vũ khí phấn đấu cho
tình thương, lòng bác ái và sự công bằng” (Đời thừa). Người cầm bút có trách nhiệm, có lương tri
phải “đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” (Trăng sáng).
Nói cách khác, nghệ thuật phải có tính nhân dân, phải miêu tả được những vấn đề có ý nghĩa đối với
cuộc sống của nhân dân, phải thể hiện được tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Nghệ thuật phải có
tính chất nhân đạo và hiện thực. Mà hiện thực to lớn nhất khi đó là tình trạng thống khổ của hàng
triệu người lao động lầm than. Nghệ thuật chân chính phải nhìn thẳng vào sự thực đó, nói lên nỗi
khốn khổ của nhân dân và vì nhân dân mà lên tiếng.
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, gốc nhân đạo rất sâu. Trăng sáng được coi là một
tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc và rất tiến bộ của ông. Không lí lẽ, Nam Cao đã nói lên thật tâm huyết
quan điểm nghệ thuật nhân đạo của mình. Trặng sáng giống như lời tâm niệm chân thành của nhà văn
tiểu tư sản nguyện từ bỏ con đường nghệ thuật thoát li, hưởng lạc, trở về chung thuỷ với quần chúng
nghèo khổ, vì họ mà sáng tác.
Từ những ý nghĩ thiết tha ấy, Nam Cao đã đi đến hành động thực tế bằng những tác phẩm đầy
sức thuyết phục của mình. Trong khi các nhà văn lãng mạn, hoặc là thi vị hóa cuộc sống hoặc là thoát
li hiện thực để tâm hồn “ru với gió, mơ theo trăng..” thì Nam Cao đã cùng với các nhà vãn hiện thực
khác giương cao lá cờ hiện thực và nhân đạo, dùng ngòi bút phanh phui thực trạng xã hội đương thời.
Các tác phẩm của họ không chỉ là những bản cáo trạng đanh thép lên án chế độ thực dân phong kiến
tàn bạo thối nát, mà còn là những tiếng kêu thương tha thiết và cảm động về số phận khổ đau tăm tối
của những người dân nghèo thôn quê và thành thị. Đó là cuộc đời của những Lão Hạc, Lang Rận...
cùng khổ đói rách, của những Chí Phèo bị xã hội giày xéo, lăng nhục, cướp hết nhân tính lẫn nhân
hình. Đó là những Hộ, những Thứ, San phải sống một cuộc sống “mù xám, cứ mốc lên, rỉ đi, mòn ra,
mục ra” không lối thoát.
Tóm lại câu nói của Nam Cao thật hàm súc, đã nói lên được một cách thật thấm thía và sâu
sắc quan điểm nghệ thuật của xu hướng văn học hiện thực “vị nhân sinh” tiến bộ đương thời. Tuy
chưa phải là quan điểm tiên tiến nhất lúc bấy giờ, nhưng chính kiến của một nhà văn tiểu tư sản mà
dám đấu tranh chống lại mọi thứ nghệ thuật phản hiện thực, xa rời cuộc sống nhân dân của văn
chương lãng mạn tiêu cực, đòi nghệ thuật phải trở về với chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo,
thì phải nói đó là một quan điểm rất tiến bộ, một đóng góp to lớn của Nam Cao trong trào lưu văn
học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945.
Đặt trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công và cảnh văn học rất phức tạp, các khuynh hướng tiêu
cực đang phát triển tràn lan gây tác hại không nhỏ lúc bấy giờ, ý kiến của Nam Cao chẳng những rất
tiến bộ mà còn mang ý nghĩa chiến đấu tích cực. Nó vừa có tác dụng cảnh tỉnh dòng văn học lãng
mạn thoát li lầm đường, vừa khích lệ động viên các nhà văn hiện thực hãy dũng cảm nhìn thẳng vào
thực trạng xã hội, dùng ngòi bút của mình khám phá sâu hơn những cái hiện thực bần cùng và khổ
đau của hàng triệu quần chúng dưới ách phong kiến thực dân.
4. Ý kiến của Nam Cao đặt trong thời điểm 1930 – 1945 mang nhiều ý nghĩa sâu sắc nhưng nếu
nhìn rộng ra thì cần phải có những cách hiểu cho toàn diện hơn.
Nghệ thuật đúng là “không cần phải là ánh trăng lừa dối”, nhưng khi cuộc sống đã tốt đẹp
thì nghệ thuật có thể là ảnh trăng hướng tới bao vẻ đẹp của đời để làm cho “lòng người đẹp thêm
lên”.
Nghệ thuật không nhất thiết lúc nào cũng phải là “Những tiếng đau khổ”. Cần phải thấy nghệ thuật có
lúc là tiếng háy, tiếng reo ca thể hiện nỗi niềm của con người. Văn học Việt Nam hiện đại có không ít
những câu thơ của Tố Hữu, của Huy Cận, Chế Lan Viên… cho thấy đó là những tiếng reo ca, tiếng
hát. Chính vì vậy, ngày nay quan điểm nghệ thuật của Nam Cao cần được hiểu toàn diện hơn.

Ý kiến của Nam Cao với bao khía cạnh đúng đắn, sâu sắc xuất hiện trong thời kỳ 1930 –
1945 càng có thêm nhiều ý nghĩa hơn, vì khi viết những dòng trong “Giăng sáng”, Nam Cao chưa
phải là một nhà văn cách mạng. Vậy mà ông đã có những nét gặp gỡ với tư tưởng của nhà thơ cách
mạng Sóng Hồng. Có thể nói thêm rằng một định hướng nghệ thuật như Nam Cao đã trình bày
“Nghệ thuật… tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” là sự kế thừa và phát huy của
Nguyễn Văn Siêu – danh nhân văn hóa cuối thể kỷ 19. Nam Cao sẽ còn tiếp tục thể hiện những suy
ngẫm của mình về sáng tác nghệ thuật qua nhiều truyện ngắn xuất sắc của ông như “Đời thừa”, “Đôi
mắt”…

HỒ CHÍ MINH
MỘ

Phiên âm Dịch nghĩa


“Quyện điểu quy lâm tầm túc Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
thụ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô vân mạn mạn độ thiên không,
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

a. Hoàn cảnh sáng tác


- Trích từ tập thơ “ngục trung nhật kí” (nhật kí trong từ, Người đã ko ít lần tung động trước vẻ đẹp
gợi cảm của cảnh chiều bông để rối cho ra đời những áng thwo bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng
hôn”... Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (chiều tối) - bài thơ được sáng tác trong thời gian
bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên bảo vào cuối thu năm 1942.
b. Phân tích
Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để
ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn
được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc.
Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở
thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh
chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất
vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ
thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh
chim” và “chòm mây” — những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay - vào bài thơ như
một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thời gian. Tất cả tạo nên một
phông lớn làm nền cho cảnh chiều. “Cánh chim” vốn là hình ảnh không mấy xa lạ với thế giới nghệ
thuật cổ phương Đông. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi khi nhìn thấy cánh chim bay về rừng lại làm người
ta liên tưởng về một buổi chiều muộn nhiều hơn. Chất ước lệ càng được nâng cao khi các nhóm từ
“Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm” thường được sử dụng trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện
Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, đại thi hào Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh chút chuyển động của
cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Hay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngày
mai gió cuốn chim bay mỏi”. Hoặc với Huy Cận, bóng chiều như đang sà xuống cùng cánh chim
đang nghiêng dần về phía cuối trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”... Dường như với thi
nhân, cảnh chiều “không thể hoàn thiện” nếu thiếu cánh chim. Nhưng qua đây ta cũng thấy được một
điều: thơ văn xưa nhắc đến “cánh chim” thường chỉ như một chỉ tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả
cảnh chiều cũng như gợi cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
“Chúng điểu cao phi tận” - Lý Bạch
Hay: “Thiên sơn điểu phi tuyệt” - Liễu Tông Nguyên
Cánh chim “phi tuyệt”, “phi tận” trong thơ Lý Bạch và Liễu Tông Nguyên khiến ta có cảm giác
tất cả như đang rơi vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, mang một ý niệm siêu hình. Đó
dường như đã trở thành “lối mòn”, một cấu trúc không thể thay thế trong thơ văn cổ. Nhưng vượt qua
rào cản ấy, Bác đã đưa cánh chim của chính mình ra khỏi thế giới siêu hình để trở về với thực tại
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” . Không còn mang tính quan sát từ trạng thái bên ngoài (hoạt động
“bay”), cánh chim trong thơ Bác là sự cảm nhận trạng thái từ bên trong, một sự cảm nhận của con
người hiện đại dựa trên ý thức sâu sắc của cái “tôi” cá nhân trước ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu
thơ cho ta thấy sự tương đồng, gần gũi, hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật, thiên nhiên: Suốt
một ngày rong ruổi khắp nơi kiếm ăn cánh chim đã mỏi đang bay về tổ ấm để nghỉ ngơi, người tù
cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước đường trường và cũng đang
khao khát tìm được một nơi để dừng chân nghỉ tạm. Chính sự đồng điệu đến tuyệt vời của người tù
với cánh chim đã làm nên hình tượng mới mẻ của thi ca - “quyện điểu”. Cánh chim giờ đây đã thực
sự có phương hướng, điểm dừng cũng như mục đích bay rõ ràng. Từ đây, ta nhận thấy cách nhìn đầy
yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống của Bác. Trong chiều sâu tâm hồn của
Bác chính là lòng yêu thương cuộc sống, cảm quan của Bác cũng chính là cảm quan nhân đạo.

Cũng mang phong cách Đường thi nhưng câu thơ thứ hai của bài thơ lại gợi chút cảm giác cô
đơn, quạnh quẽ bởi hình ảnh của “cô vân”. Tuy nhiên, bản dịch dù đã dịch khá hay và uyển chuyển
vẫn bỏ sót chữ “cô” và không thể hiện hết ý nghĩa của từ “mạn mạn” do vậy làm mất đi ý thơ vốn rất
sâu sắc của nguyên tác. Trong thơ xưa, chòm mây thường gợi lên vẻ cô độc, thanh cao, phiêu diêu,
thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không: “Cô vân độc khứ nhàn” (Lí Bạch).
Còn với “Chiều tối”, chòm mây không chỉ đơn thuần là “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” mà
cũng là một chòm mây lẻ loi, cô độc, chầm chậm trôi giữa bầu trời. Câu thơ làm ta nhớ tới những áng
mây trong thơ Thôi Hiệu: “Bạch vân thiên tải không du du” (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay -
Tản Đà dịch), áng mây trắng mang hơi hướng của sự vĩnh hằng trong khi “chòm mây trôi nhẹ” làm
sống dậy bao nỗi khắc khoải, mong chờ. Nhưng trên hết, chính hình ảnh “cô vân” đã tạo nên chiều
cao, chiều sâu của bức tranh ngoại cảnh. Núi rừng Quảng Tây trong chiều thu như hiện ra trước mắt
người đọc với bầu trời cao rộng, trong trẻo, êm ả. Chòm mây lẻ loi giữa bầu trời bao la, rộng lớn, trải
dài đến vô tận càng khiến cho cảm giác trống trải, cô đơn được nhân đôi. Vì sự cô đơn ấy không chỉ
của chòm mây lẻ bóng, mà còn là tâm trạng của người đang ngắm nó.
Chỉ với những hình ảnh thơ rất đỗi quen thuộc, người nghệ sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh đã vượt
qua khuôn khổ thường tình của thi ca cổ điển để khắc họa bức tranh chiều trên đất khách quê người.
Nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống vô hạn của Người.
Nhưng phảng phất đâu đó trong hai câu thơ là một nỗi buồn thấm thía. Cánh chim bay tìm đường về
tổ như một sự nhắc nhở nhẹ nhàng về giấc mơ đoàn viên. Người tù đang phải chịu cảnh tù đày nên ắt
hẳn luôn hướng về quê hương, gia đình, nhìn thấy cánh chim phía cuối trời, cái mong ước nhỏ nhoi
ấy lại càng trào dâng, mãnh liệt khiến ai dù không mấy mặn nồng với quê hương cũng phải đau đớn,
huống hồ Bác là một người yêu nước tha thiết. Thêm vào đó, bóng mây chầm chậm trôi về phía trời
xa gợi niềm xót xa cho thân phận nổi nênh, lênh đênh, trôi dạt giữa nơi đất khách càng làm cho khát
vọng tự do được bay như chim, trôi như mây giữa trời của người tù trở nên mạnh mẽ, dứt khoát hơn
bao giờ hết. Bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh đã thực sự hoàn làm một. Cũng từ đây ta
thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong nhân cách HCM - đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào
cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời,
một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người.

Không dừng lại ở việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, Bác bắt đầu đi vào xây dựng hình tượng
trung tâm cho bức tranh. Bút pháp cổ điển giờ đây được thay thế bằng những hình ảnh mang phong
cách hiện đại. Bức tranh không còn đơn điệu mà như được thổi hồn bởi sự xuất hiện của con người -
cô gái xay ngô - và bếp lửa hồng. Khung cảnh thiên nhiên nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của
con người. Đó là một luồng gió mới làm thay đổi toàn bộ “cục diện” của bức tranh:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Giữa rừng núi hoang sơ, hẻo lánh, trong lúc nỗi buồn thầm kín đang bủa vây lấy tâm trí thì đập vào
mắt người tù là hình ảnh “cô em xóm núi” đang “xay ngô tối” cắt ngang mọi dòng suy nghĩ lẫn cảm
xúc. Khi niềm hy vọng trong việc tìm kiếm điểm dừng chân sau một ngày đi đường mệt mỏi đang
dần vụt tắt thì “xóm núi” trôi dạt giữa nơi đất khách càng làm cho khát vọng tự do được bay như
chim, trôi như mây giữa trời của người tù trở nên mạnh mẽ, dứt khoát hơn bao giờ hết. Bức tranh
ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh đã thực sự hoàn làm một. Cũng từ đây ta thấy được vẻ đẹp sáng
ngời trong nhân cách HCM - đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi
dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn
vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài hiện ra trước mắt người tù, hệt như một
giấc mơ, khiến bao mệt mỏi, lo toan dường như biến mất. Cái vẻ bình yên của xóm núi càng khiến
lòng người thêm ấm áp bởi sự hiện diện của người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người
thiếu nữ trong tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều, tạo
nên sự tươi vui, khỏe khoắn cho cả bài thơ. Đáng chú ý là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác
hoàn toàn khác với người thiếu nữ trong cổ thi. Nhiều thi nhân xưa thường ví người thiếu nữ như
“Liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ cần biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ:

Trong khi người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường,
khỏe khoắn đầy sức sống. Bên cạnh đó, cùng đề cập đến con người nhưng trong thơ xưa, con người
xuất hiện mà thiếu hẳn sức sống, dường như chỉ để tồn thêm cái hùng Vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên
nhiên, mang một nỗi niềm hoài cổ, sầu muộn:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(“Qua Đèo Ngang” - Bà Huyện Thanh Quan)

Nhưng “Chiều tối” với sự có mặt của cô gái xay ngô thực sự đã đem lại hơi ấm, hạnh phúc cho
không chỉ người tù đơn độc mà còn cho cả người đọc trước cái không khí âm u, heo hút của núi rừng.
Phải chăng vẻ đẹp lung linh của bức tranh là do sự khỏe khoắn ấy tạo nên?!? Ở nguyên tác, Bác
không cần dùng đến chữ “tối” như bản dịch nhưng vẫn cho ta thấy được sự vận động không ngừng
của thời gian: từ chiều tà đến chiều tối. Đó chính là nhờ sự hiện diện của hình ảnh lò than hồng. Bởi
phải vào thời điểm như thế người ta mới thấy hết sự rực hồng của than trong lò, mà cái tài của nhà
thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối” nhưng ý nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Hình ảnh
lò than rực hồng trong đêm tối không chỉ làm nổi bật thêm tư thế xay ngô của cô gái mà hơn hết, ánh
than hồng đã xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lấy vạn vật mà theo nhà thơ Hoàng Trung Thông
- “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác”- NXB Tác phẩm mới 1977, trang 231 đã nhận xét thì: “Với một
chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã,
sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong
ngô tối. Chữ ” hồng” trong nghệ
thuật thơ Đường, người ta gọi là “thi nhãn” (con mắt thơ) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng
lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa...” Cũng
vì thế mà hình ảnh lò than hồng có một sức lôi cuốn đặc biệt đối với mỗi người.
Thoát khỏi văn phong cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều chất “bạch thoại”, mộc mạc, đời
thường và điều đó thể hiện rõ ở chữ “bao túc” xuất hiện đến hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà
không hề để ý đến thời gian. Cứ hết túi ngô này (ma bao túc) rồi lại đến túi ngô khác (bao túc ma) để
rồi đến khi cô xay ngô xong (bao túc ma hoàn) thì mới nhận ra “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng).
Qua hình ảnh trẻ trung mà bình dị, hiện đại ta thấy được niềm xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ
trước nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống con người lao động. Sự lặp đi lặp lại của công việc xay ngô
như một vòng quay nặng nề, luẩn quẩn của con tạo. Tình thương đối với nỗi đau khổ của những con
người lao động, cho dù họ không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp
mặt cũng theo đó mà chân thành hơn bao giờ hết. Song trên một phương diện nào đó, câu thơ một lần
nữa khơi gợi lại cảm giác về sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm
cúng. Đó như một cách nhấn mạnh nỗi lòng thường trực trong trái tim Bác. Bếp lửa đã cháy lên và
công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song
của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất
lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người. Nhưng dù là ý
nghĩa nào chăng nữa thì cũng đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà
thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía: “Chỉ biết quên mình cho hết thảy” hay: “Nâng
niu tất cả chỉ quên mình”. Chúng ta nhận ra “Chiều tối” mang những vần thơ quên mình vĩ đại.

Dẫu đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng Bác vẫn có thể rung động được với nỗi
khổ hoặc niềm vui của cảnh vật, con người bình thường khác mà Người tình cờ bắt gặp trên đường
đầy ải. Bị trói, bị tù đày, bị giải đi “ Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày”
nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng
ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi
thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than vãn. Đó chính là tinh thần thép Vĩ đại của
người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.

Trên phương diện văn học, “Chiều tối” vẫn luôn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của bài thơ
nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Đây là một tác
phẩm có thể nói là đẹp về nhiều mặt và thực sự là một bông hoa sáng ngời trong thế giới thơ HCM.
Mang phong cách cổ điển kết hợp với “hơi thở hiện đại”, bài thơ là bức chân dung tự họa, phản ánh
con người tỉnh thần và nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Bác. Như những “vầng sáng” của
lò than hồng trong câu thơ cuối, bài thơ thực sự trở thành một luồng sáng khai nguồn cho một phong
cách thi ca hiện đại trữ tình, hoàn toàn mới mẻ, thoát ly với văn phong cổ điển. Và hơn cả, bài thơ là
một điển hình mang dáng dấp nhân cách HCM bởi sự gửi gắm tất cả tâm tư, tình cảm của Bác trong
“sâu thẳm” nó. Đó cũng chính là những yếu tố làm nên vẻ đẹp có “một không hai” của bài thơ.

Bài 4: Vọng nguyệt

Phiên âm Dịch nghĩa

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa, Trong tù không rượu cũng không hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà? Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ!
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt, Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Nguyệt tòng song khích khán thi gia. Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

a. Hoàn cảnh ra đời : Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường
sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế cho cách mạng Việt Nam nhưng không ngờ đến
Quảng Tây, Người bị chính quyền tàu Tưởng bắt giam vô cớ và trải qua 30 mươi nhà giam của 13
huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đọa trong hơn một năm trời. Người viết tập thơ "Nhật kí trong
tù" để nhằm mục đích giải khuây. Bài thơ số 20 trong tập “nhật kí trong tù”
- Bố cục: 2 phần
+ Phần 1: 2 câu đầu: Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác
+ Phần 2: 2 câu sau: Sự giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ và trăng
- Phương thức biểu đạt: Tự sự + Miêu tả + Biểu cảm
- Thể thơ : Thất ngôn tứ tuyệt
b. Ý nghĩa nhan đề: Vọng nguyệt
+ Vọng có nghĩa là ngắm nhưng mà cái nhìn xa xăm, chất chứa trong đó nhiều tâm sự giấu kín, giữa
chủ thể được ngắm và người thưởng thức nó có sự giao hòa, như đang trao đổi, trò chuyện cùng
nhau.
+ Nguyệt: Trăng => Ngắm trăng là 1 đề tài rất phổ biến trong thơ cổ phương Đông, cũng như thi
nhân xưa gặp cảnh trăng đẹp thường uống rượu, ngắm hoa, thưởng trăng. Đó là một thú vui tao nhã
đầy thi vị. Bác lấy nhan đề như thế này vô cùng gần gũi, thân quen. Và liệu Bác có giống như các thi
nhân xưa chỉ vọng trăng, thưởng trăng một cách đơn thuần hay đằng sau cả nhan đề này là cả một nỗi
niềm chất chứa.
=> Ở đây, Hồ Chí Minh đang ở trong hoàn cảnh ngục tù nhưng tâm hồn vẫn tràn đầy lạc quan,
thư thái để ngắm trăng. Qua đó, nhan đề cho thấy một tâm hồn thi sĩ đầy rung cảm của người tù cách
mạng Hồ Chí Minh.
c. Tìm hiểu chi tiết
1. Hai câu thơ đầu:
* Ngục trung vô tửu diệc vô hoa - Trong tù không rượu cũng không hoa
- Hoàn cảnh ngắm trăng
+ Vị trí: Ngục trung (trong tù)
=> Trăng là một nguồn cảm hứng bất tận trong sáng tác, đặc biệt là đối với thi nhân xưa. Người ta
tìm đến trăng để tận hưởng vẻ đẹp của nó trong sự lãng mạn, cùng với đó là ngồi nhâm nhi đôi ba
chén rượu, hàn huyên những câu chuyện xưa cũ, chỉ cần nghĩ đến thôi chúng ta cũng tưởng tượng ra
một khung cảnh hết sức thi vị. Nói chung, thường người ta chỉ ngắm trăng khi tâm hồn thảnh thơi.
=> Nhưng Bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt là :ngục trung(trong tù). Bậc tao nhân
mặc khách thưởng trăng đó đang là một tù nhân bị đày đọa, vô cùng cực khổ. Điều kiện sinh hoạt của
cái nhà tù tàn bạo, dã man mà tù nhân phải sống cuộc sống “khác loài người” - phi nhân loại đích
sinh hoạt - làm sao phù hợp với việc thưởng nguyệt! Làm sao có rượu và hoa để thưởng trăng
+ Điều kiện: Vô tửu diệc vô hoa (không rượu cũng không hoa)
=> Điệp từ “vô” càng nhấn mạnh hơn khung cảnh đặc biệt đó. Ở trong hoàn cảnh thiếu thốn, không
thuận lợi và có phần không phù hợp như trong ngục tù thì việc không có rượu và hoa là lẽ thường
tình, nhưng cái không thường ở đây lại chính là tinh thần của người. Ở trong ngục tối, với 4 bức
tường vây, thường con người sẽ có xu hướng nghĩ đến những điều tiêu cực thậm chí là cả cái chết,
nhưng Bác của chúng ta lại không vậy. Cái người nhớ đến là thưởng trăng phải có chén rượu, ngắm
hoa đã cho thấy người tù không hề vướng bận bởi cảnh tù đày, tâm hồn tự do, vẫn dung ung, vẫn
thèm được tận hưởng cảnh trăng đẹp.
=> Ở câu thơ này bản dịch đã diễn tả trọn vẹn ý nguyên tác

* Đối thử lương tiêu nại nhược hà? - Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
- Mặc dù giữa chốn lao tù, cái không rượu chồng lên cái không hoa, một hiện thực xám ngắt, lạnh lẽo
đang bủa vây nhưng những điều ấy chẳng thể ngăn nổi trái tim, cảm xúc của Người khi cảnh đẹp
“khó hững hờ”. Từ “hững hờ” đã diễn tả được cái xốn xang, bối rối rất nghệ sĩ của HCM trước cảnh
trăng quá đẹp, khiến người không thể thờ ơ, ko thể dửng dưng. Câu thơ cho thấy rõ tâm hồn nghệ sĩ
đích thực của Người
=> Mà giờ đây người đang ở trong tù, thì biết làm như thế nào để có cuộc ngắm trăng thực sự, chính
vì thế mà Bác lại càng thêm bứt rứt bối rối
=> Nỗi niềm này thể hiện rất rõ qua cụm từ “nại nhược hà”, biết làm như thế nào, trăng mộng mơ
như thế người phải ứng xử ra sao để tận hưởng vẻ đẹp ấy. Ở trong ngục tù hoàn cảnh này thật sự
khiến người phân vân để tự hỏi lòng mình và điều này thể hiện rất rõ qua câu hỏi tu từ của nguyên
tác.
=> Tuy nhiên nét nghĩa ấy hoàn toàn mất đi khi dịch qua bản dịch, từ câu hỏi tu từ đã trở thành câu
thơ mang ý nghĩa khẳng định: không thể hờ hững với cảnh đẹp đêm nay. Khi viết như thế này lại
không thể nào lột tả hết mọi khung bậc lúc bấy giờ của Bác có chút rối bời, có chút khó xử vì trăng
quá lung linh
=> Câu thơ nhịp nhàng bởi sự hòa trộn của các vần bằng trắc đều đặn, để diễn tả tâm hồn nghệ sĩ yêu
say đắm thiên nhiên, mặc dù rất muốn ngắm trăng đầy đủ nhưng trong tù thì không thể có được nên
người có chút tiếc nuối. và vượt lên trên tình yêu cùng với sự rung động trước cảnh sắc thi vị như
một cái cười rất tinh tế của Hồ Chí Minh.

2. Hai câu thơ sau: khai thừa chuyển hợp


* Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
- Vượt lên trên sự ngập ngừng, ngại ngùng, chút bối rối ấy thì hai câu thơ này chính là phút giây giao
hòa giữa người và trăng, trăng và người
- Sự giao quyện ấy có lẽ thể hiện rất rõ trong cấu trúc đăng đối giữa hai câu mà ta có thể thấy rõ rằng
“nhân” ở câu thơ chuyển đã trở thành “thi gia” của câu thơ hợp, “ “minh nguyệt” ở câu chuyển đã trở
thành “ nguyệt” của câu hợp. Tất cả để muốn nói lên sự giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ và vầng
trăng. Dù ngăn cách bởi chữ “song” nhưng hai chủ thể vẫn tìm đến nhau bởi chữ “khán”.
=> cái khung cửa kia dù có chắc chắn, kiên cố đến đâu đi chăng nữa thì cũng chẳng thể ngăn nổi cảm
xúc, sự rung động của trăng và người. Song sắt kia chỉ có thể giam giữ về mặt thể xác chứ tâm hồn
Bác từ bao giờ đã không còn ở trong chốn ngục tù lạnh lẽo kia như Bác đã từng viết : “thân thể ở
trong lao/ tinh thần ở ngoài lao”. Người đã thả lòng mình vượt qua mọi rào cản, để khát khao tận
hưởng cùng trăng, tự do dường như đang tỏa mộng giữa trời.
=> Đây không phải là cuộc vượt ngục lần đầu tiên của người tù cách mạng Hồ Chí Minh để tìm
đến vầng trăng tri kỉ. Trăng đã từ rất lâu trở thành người bạn tâm giao trong nỗi lòng của người. Thơ
Bác luôn ngập tràn ánh trăng, một vầng trăng xuân tràn đầy ánh trăng lồng lộn ngập cả bầu trời đầy
ắp sắc xuân trong “ rằm tháng giêng”, một vầng trăng đẹp kì ảo, giống như một bức sơn mài lộng lẫy
trong “cảnh khuya” hay “ lòng theo vời vợi mảnh trăng thu” trong bài “Trung thu”. Tất cả đều là lời
khẳng định rằng sự hòa quyện đến tuyệt vời giữa bác và vầng trăng, một sự gắn bó, tha thiết không
thể tách rời
=> Nhìn lại hai vế của câu thơ chúng ta dễ dàng nhận ra sự tìm đến này mang tính chất chủ động,
bác cũng phá bỏ mọi sự lạnh lẽo, ảm đạm của tù tối để nhìn tỏ hơn, rõ hơn vầng trăng rực rỡ kia, còn
trăng cũng vươn mình, dùng hết ánh sáng lung linh của mình soi chiếu sáng hơn ngục tù tối tăm ấy.
Vậy là cả thi nhân, cả trăng đều say đắm ngắm nhìn nhau. Rõ ràng cấu trúc đối của hai câu chữ Hán
đã làm nổi bật “tình cảm song phương” đều mãnh liệt của cả người và trăng. Tất nhiên, biện pháp
nghệ thuật nhân hóa trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ đã cho thấy rõ ràng hơn sự mật thiết từ
“người bạn tri kỷ” của Bác.
=> Hai câu thơ còn cho thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người chiến sĩ - thi sĩ ấy. Bên này là
nhà tù đen tối, với hiện thực tàn bạo, khốc liệt, còn ngoài kia là vầng trăng thơ mộng trữ tình, đang
lung linh tỏa sáng, là thế giới của cái đẹp, của bầu trời tự do, lãng mạn đến say người. Người chiến sĩ
cộng sản của chúng ta bỏ lại sau mình mọi sự đau khổ, ảm đạm của ngục tù, để hướng lòng mình đến
những điều đẹp đẽ, cao cả và hơn hết chính là lí tưởng về một đất nước bình yên, độc lập. Có lẽ khi
ấy, trăng sẽ sáng, sẽ cao hơn rất nhiều, có lẽ khi ấy người và trăng sẽ ngắm vọng nhau một cách an
nhiên nhất.
3. Tổng kết
a. ND:
- Tình yêu thiên nhiên đặc biệt sâu sắc mạnh mẽ, 1 biểu hiện nổi bật của tâm hồn nghệ sĩ ở Bác (giao
cảm giữa bác và trăng)
- Sức mạnh tinh thần to lớn - tình thần thép : sự tự do , phong thái ung ung vượt lên trên sự nặng nề
của ngục tù
b. NT- Phong cách trữ tình HCM: vừa có màu sắc cổ điển ( thể hiện ở đề tài Vọng nguyệt và những
thi liệu cổ như rượu, hoa trăng, cấu trúc đăng đối là nhất là hình ảnh chủ thể trừ tĩnh” ung dung, giao
cảm đặc biệt với TN) vừa mang tinh thần thời đại (1 hồn thơ lạc quan, luôn hướng về phía ánh sáng,
toát lên tinh thần thép), vừa giản dị,, hồn nhiên vừa hàm súc , dư ba.

You might also like