You are on page 1of 30

B.

GIAI ĐOẠN SAU 1975


1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa
- Đại hội Đảng VI (1986) kêu gọi đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự
Cơ sở
thật
Biểu Trên bình diện ý thức nghệ thuật
hiện: - Quan niệm về vị trí, vai trò và chức năng của văn học
Trên 45 – 75 Sau 75
nhiều VH là vũ khí Quan niệm đa dạng, phong phú hơn
bình tư tưởng của + VH là phương diện khám phá thực tại, thức tỉnh
diện, ở CM, phục vụ về sự thật
nhiều mục tiêu và + VH có vai trò dự báo, dự cảm về tương lai: vấn đề
cấp độ đáp ứng các về cuộc sống của những người lính thời hậu chiến,
của đời yêu cầu của đồng tiền…
sống CM + VH là phương tiện tự biểu hiện của người nghệ sĩ
xã hội (nhu cầu chiêm nghiệm, đối thoại, triết lí, tự nhận
thức, siêu thoát…)
+ VH là một trò chơi: Trò chơi ngôn ngữ, trò chơi
cấu trúc...
=> Phi thần thánh hóa, phi thiêng liêng hóa vai trò,
chức năng của VH, không muốn “công cụ hóa văn
chương”
Lê Minh Khuê: “Văn chương không hề cứu vớt
được ai, không làm người chết sống lại, không thể
thay đổi bất cứ quan niệm nào, tư duy nào… nhưng
ít ra nhà văn đã đánh thức trong lòng người đọc
nỗi đau xót trước sự mất mát của đồng loại.”

- Quan niệm về kiểu nhà văn


45 – 75 Sau 75
Nhà văn – + Nhà văn là nhà tư tưởng. Nhà văn đến phải mang
chiến sĩ theo tư tưởng mới và trình bày ý kiến của riêng
mình.
+ Không còn kiểu “nhà văn – thượng đế” mà nhà
văn là người bình đẳng với bạn đọc, tôn trọng ý
kiến riêng của bạn đọc, khuyến khích sự đối thoại,
tranh luận.
Nguyễn Thị Thu Huệ: “Người viết chỉ nên là một
người bạn tâm tình với người đọc chứ đừng dạy
người đọc vì chưa chắc cứ là nhà văn đã giỏi, đã có
văn hóa. Tôi rất ghét lối văn gồng mình hơn cái
mình có.”
 Dân chủ hóa sâu sắc mối quan hệ giữa nhà
văn và bạn đọc
 Chi phối đến nghệ thuật biểu hiện: các kiểu
kết cấu, mô típ, ngôn ngữ…
- Quan niệm về hiện thực
45 – 75 Sau 75
Hiện thực Hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó:
CM, các biến Nghiêng về đời sống thế sự đa đoan, phức tạp, đi
cố lịch sử và sâu vào số phận và đời sống cá nhân con người với
đời sống những vấn đề riêng tư, cả hạnh phúc và bi kịch,
cộng đồng khát vọng riêng, cá tính riêng…

Trên bình diện sáng tác: Tính chất “đa chủ đề”, kiểu kết cấu, cốt
truyện, hệ thống nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ…
 Tính đối thoại và nguyên tắc đa âm là nét nổi bật
trong thi pháp nghệ thuật của các nhà văn như
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy
Anh…
 Sự nở rộ của các phong cách, bút pháp riêng, mang cá tính sáng
tạo của nhà văn, gắn liền với những tìm tòi, thể nghiệm nghệ
thuật cách tân, táo bạo

2. Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là


nền tảng tinh thần và cảm hứng chủ đạo, bao trùm nền
văn học giai đoạn này
2.1. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân
Do những chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử: chiến – bình
Thời chiến Thời bình
Nguyê
Ý thức cộng đồng, tinh thần tập Đời sống cá nhân với những khát
n nhân
thể: Cái tôi hòa vào cái ta chung vọng, tâm tư riêng: Bản thể con
người, cái tôi cá nhân thức tỉnh
VH đòi hỏi quan tâm đến số phận của mỗi con người nhỏ bé; thậm chí
phát hiện sự lệch pha giữa số phận cá nhân và cộng đồng, những bi
Biểu kịch của con người cá nhân với tư cách là nạn nhân bất lực trước
hiện hoàn cảnh và số phận (Thời xa vắng, Chiếc thuyền ngoài xa, Nỗi
buồn chiến tranh…) >< Con người làm chủ hoàn cảnh thời chiến
(Vợ chồng A Phủ, Mảnh trăng cuối rừng...)

2.2. Tinh thần nhân bản


- Nhân bản là bản năng tự nhiên của con người
- Triết học nhân bản coi con người vừa là xuất phát điểm, vừa là đối
Khái
tượng khám phá, vừa là cái đích cuối cùng của VH. Con người là điểm
niệm
quy chiếu và là thước đo giá trị của mọi vấn đề XH, mọi sự kiện và
biến cố lịch sử.
- Con người hiện lên trong tính toàn vẹn của nó
+ Con người đa chiều, đa đoan, đa trị
+ Soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc – chú ý đến phần tự
nhiên và phần tâm linh, vô thức ở con người
VD: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh): Nhân vật Kiên sau khi rời ngũ
Biểu luôn mơ thấy những người đồng đội cũ, những bóng ma..
hiện - Thái độ của nhà văn đối với con người: cảm thông, xót xa, yêu
thương, đồng thời đòi hỏi sự tự ý thức và nỗ lực hoàn thiện nhân cách
ở con người
VD: Nguyễn Minh Châu, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc
Tư...

3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, phức tạp,


hướng tới tính hiện đại
Nguyên - Nền VH giao thời
nhân - Sự chi phối của cơ chế thị trường
Phong phú, - Đề tài: chiến tranh, tình yêu, kinh dị...
đa dạng // - Thể loại: thơ, truyên ngắn, tiểu thuyết mới...
tính phức - Thủ pháp nghệ thuật
tạp, không - Phong cách
ổn định - Khuynh hướng thẩm mĩ
 Tính hiện đại
NGUYỄN MINH CHÂU.
A.NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN CHUYẾN TÀU TỐC
HÀNH.
I. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành.
MB. Sống giữa hai miền hư thực, lang thang trên những
miền ký ức, Quỳ (nhân vật chính trong truyện “Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”) vẫn luôn kiếm tìm sự
hoàn hảo không tồn tại. Qua đó đã giúp Nguyễn Minh
Châu thể hiện đời sống nội tâm con người một cách sâu
sắc, nhìn con người dưới góc nhìn đa diện.
TB.
1. Đổi mới nội dung.
1.1. Đổi mới hướng tiếp cận đời sống.
- Từ hiện thực vĩ mô sang hiện thực vi mô, từ tư duy theo bề
rộng sang tư duy theo chiều sâu – 1 hiện thực đa chiều,
phong phú và toàn vẹn mà tâm điểm là “con người được
đào xới bản chất vào tâm hồn lịch sử”.
- Sự đổi mới này băt nguồn từ nhu cầu “nói thật” (nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật...) của
toàn xã hội, của chính NMC
- 2 mảng đề tài lớn: Đề tài đời tư – thế sự và đề tài chiến
tranh, tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
thuộc về đề tài chiến tranh.
- Trước Bức tranh: Chiến tranh là tất yếu lịch sử, là môi
trường -> Nổi bật chủ nghĩa anh hùng CM
- Sau Bức tranh: “Viết về chiến tranh là viết về con người”
(NMC)
+ Chiến tranh là đường viền làm nổi bật lên những vấn
đề về nỗi đau, sự hi sinh, thân phận con người. Chiến
tranh không chỉ được nhìn ở mặt sáng mà còn ở mặt
tối, mặt trái của nó (Vết thương và “chấn thương”
chiến tranh”
+ Chiến tranh là môi trường tha hóa nhân tính.
1.2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người:
- Trước 1975, NMC tâm niệm: “Bây giờ ta phải chiến đấy
cho cuộc sống của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho
cuộc sống của từng con người, làm sao cho con người
ngày càng tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”
- Trước 1975: Con người đơn trị, nhất phiến – mang tính
chất sử thi, lí tưởng hóa. Con người cá nhân tự nguyện hòa
tan trong cộng đồng, được soi ngắm, định giá qua tiêu chí
giai cấp, mục đích chính trị, lí tưởng CM...-> Con người
hướng ngoại nhiều hơn hướng nội, ít có tâm lí phức tạp.
 “Con người luôn
khoác bộ áo xã hội trùng khít với địa vị xã hội của mình”
(M.Bakhtin)
- Sau 1975: Cái nhìn đa chiều về con người -> Con người
được đào xới vào tầng sâu nội tâm và được tiếp cận dưới
góc độ nhân bản.
 “Con người hoặc
nhỏ bé hơn tính người, hoặc lớn hơn thân phận của
mình” (M.Bakhtin)
(1) Con người tự ý
thức, tự nhận thức, nhất là nhận thức về đạo đức -> Cấu
trúc nhân cách cao và phức tạp – nhân vật mang tính chất
hướng nội.
Ví dụ: Qùy (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), họa sĩ
(Bức tranh), Lực (Cỏ lau), nhà văn T (Sắm vai)...
 Đề xuất “Hãy
tạm dựng 1 chút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để suy
nghĩ về chính mình”
 Niềm tin vững
chắc của MNC về khả năng tự hoàn thiện, hướng thiện
của con người.
(2) Con người trong
mối quan hệ với hoàn cảnh -> Tính giới hạn của con
người.
- Trước 75, con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn
cảnh.
- Sau 75, con người bị hoàn cảnh làm cho tha hóa: Toàn,
Lực.
+ Hoàn cảnh giúp con người phát hiện ra những nghịch lí của
cuộc đời: Nhĩ (Bến quê)
(3) Con người
không phải thánh thần, không tuyệt đối.
- Nhà văn không xây dựng con người hoàn hảo, lí tưởng.
Ví dụ 1: Qùy (NĐBTCTTH) – Mối quan hệ: Qùy – trung đội
trưởng Hòa, Hậu, Ph. Biểu tượng đôi bàn tay, con tàu tốc
hành...
Ví dụ 2: Người thủ thành (Dấu vết nghề nghiệp)
(4) Con người tự
nhiên:
- Con người hồn nhiên bộc lộ cách sống như bản năng tự có.
Ví dụ: Truyện ngắn Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hàng, Người đàn
bà tốt bụng...
 Mặt xấu và tốt
của con người tự nhiên (“Đôi khi con người trở nên tàn
ác 1 cách hồn nhiên”) -> Sự nguy hại của lối sống thông
tục.
- Con người sống giao hòa cùng tự nhiên, bác Thông (Sống
mãi với cây xanh)
(5) Con người tâm
linh
- Thể hiện qua giấc mơ, mộng du, hồi tưởng... (Qùy, Lão
Khúng...)
2. Đổi mới nghệ thuật truyện ngắn NMC sau 1975.
2.1. Cốt truyện và tình huống:
- Cốt truyện được nới lỏng -> Nhiều truyện như không có cốt
truyện ( Viết về những chuyện vụn vặt, những trạng thái
tâm lí vu vơ, những xung đột chỉ phác ra mà không giải
quyết, không cần kết thúc có hậu hoặc trọn vẹn)
- Tình huống: Tự nhận thức/bi kịch/nghịch lí -> Chuyển từ
xung đột bên ngoài vào bên trong nội tâm nhân vật.
2.2. Giọng điệu.
- Đơn thanh -> Đa thanh, độc thoại -> Đối thoại
2.3. Nhân vật
- Không hoàn chỉnh, không điển hình, đa chiều, phức tạp
hơn.
2.4. Những biểu tượng, ẩn dụ
- Tăng hàm lượng ngữ nghĩa, mở ra trường liên tưởng, suy
ngẫm ở độc giả.
 Kết luận: Những đổi mới về NT truyện ngắn NMC sau
1975 chưa thực sự nổi bật, cách tân táo bạo nhưng là những
khai phá bước đầu đáng quý đưa VHVN sang 1 quỹ đạo
mới, mở ra thời kì đổi mới VH sôi nổi, phát triển phong
phú sau này.
II. Phân tích tác phẩm.
 Tóm tắt: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành được
Nguyễn Minh Châu cho in lần đầu năm 1983. Truyện kể xoay
quanh câu chuyện người đàn bà tên Quỳ, với những kỷ niệm
thời chiến tranh, với người yêu của cô là anh trung đoàn
trưởng Hòa – một con người “trác việt”, tập trung “tất cả tinh
hoa của nam giới”. Yêu Hòa nhưng Quỳ lại đòi hỏi nơi anh
một cách toàn diện, một “thánh nhân”. Hòa hy sinh, cô luôn
dằn dặt, trăn trở, … và rồi cô lấy Ph (vốn là bạn của Hòa) làm
chồng. Cuộc sống biến động, Ph phải đi tù. Quỳ luôn sống
trong những mộng tưởng. Người ta nghĩ cô bị tâm thần và đưa
cô vào viện. Câu chuyện được Quỳ kể lại với người bạn cùng
bệnh viện đó.
1. Đổi mới hướng tiếp cận đời sống.
- Từ hiện thực vĩ mô sang hiện thực vi mô, từ tư duy theo bề
rộng sang tư duy theo chiều sâu – 1 hiện thực đa chiều, phong
phú và toàn vẹn mà tâm điểm là “con người được đào xới
bản chất vào tâm hồn lịch sử”.
- Sự đổi mới này băt nguồn từ nhu cầu “nói thật” (nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật...) của toàn
xã hội, của chính NMC
- 2 mảng đề tài lớn: Đề tài đời tư – thế sự và đề tài chiến tranh,
tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành thuộc về đề
tài chiến tranh.
- Trước Bức tranh: Chiến tranh là tất yếu lịch sử, là môi trường
-> Nổi bật chủ nghĩa anh hùng CM
- Sau Bức tranh: “Viết về chiến tranh là viết về con người”
(NMC)
+ Chiến tranh là đường viền làm nổi bật lên những vấn
đề về nỗi đau, sự hi sinh, thân phận con người. Chiến
tranh không chỉ được nhìn ở mặt sáng mà còn ở mặt
tối, mặt trái của nó (Vết thương và “chấn thương”
chiến tranh”
+ Chiến tranh là môi trường tha hóa nhân tính. (Chưa
tìm ra – chắc là không có)
1.1. Chiến tranh là đường viền làm nổi bật lên
những vấn đề về nỗi đau, sự hi sinh, thân
phận con người.
- Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành đã yêu
Hòa bằng một tình yêu say đắm, nồng nhiệt, tôn thờ anh như
một “thánh nhân” nhưng rồi chị thất vọng vì anh cũng chỉ là
một con người bình thường như bao con người khác. Cái chết
của Hòa đã làm Quỳ bị ám ảnh suốt đời. Đôi bàn tay “dấp
dính mồ hôi” trước đây của Hòa làm chị ghê sợ thì giờ đây
lại đem đến cho chị sự tiếc thương vô hạn. Đó là đôi bàn tay
của một con người tài giỏi, vì vậy mà giờ đây Quỳ đau đớn
thốt lên: “Dù có phải xông vào lửa đạn, dù có phải dùng hai
bàn chân trần dậm lên vách tai bèo, dù có phải lặn xuống tận
đáy bể khơi hay băng qua sa mạc cháy bỏng, dù có phải đi
khắp cùng trời cuối đất, thì tôi cũng không từ nan, tôi cũng
xông đi, nếu lấy về được để trả lại cho anh ấy đôi bàn tay
luôn dấp dính mồ hôi”. Nhưng tất cả đã quá muộn, giờ đây
trong Quỳ là sự “ngẩn ngơ thương tiếc” đến nhói đau. Khi
chị cảm thấy yêu đôi bàn tay ấy thì cũng là lúc là nó vĩnh viễn
không còn nữa và “trong tất cả sự mất mát thì mất một con
người là không bù đắp được, không sao lấy lại được”. Quỳ đi
tìm “thánh nhân” trong Hòa nhưng không gặp, khi chấp
nhận anh ấy là “người thường” thì anh ấy đã không còn.
Nước mắt chị không rơi, chị “nằm im mà tâm hồn vật vã” vì
nỗi đau ấy quá lớn. Với Hậu, chị chỉ thấy anh là một “người
thường” thì chính anh lại mang phẩm chất của một “thánh
nhân” trong tình yêu. Cái chết của Hậu làm se thắt lòng
người. Anh đã ngã xuống cho tình yêu, anh cho đi mà không
mong nhận lại. Hậu không thể sống lại cho dù Quỳ “khóc đến
khô kiệt giọt nước mắt cuối cùng” của mình. Làm sao mà
Quỳ có thế quên được khi tận mắt chứng kiên cái chết của
một người mình yêu và một người yêu mình. Người chết thì
mãi mãi nằm xuống nhưng để lại vết thương khó liền sẹo
trong lòng người đang sống. Cuộc đời Quỳ trớ trêu, éo le vậy
đấy. (chưa chính xác)
- Qùy là con người cô đơn, suốt đời “lang thang đi tìm cái chân
trời của những giá trị tuyệt đối hoàn mỹ”. Nơi cánh rừng
Trường Sơn trong những cuộc chiến khốc liệt nhất Qùy đã
từng là “nàng công chúa” nhưng lúc quay về đời thường
người đàn bà này lại mang căn bệnh mộng du. Những suy tư,
trăn trở bao lâu mà Qùy ấp ủ bằng trái tim rỉ máu, bằng khát
vọng mãnh liệt đã trở thành hài hước và cứng nhắc giữa cuộc
đời thường nhật …. Qùy tự hiểu mình, hiểu người, hiểu đời,
hiểu tất các những nỗi đau riêng chung tê dại. Hòa bình đã
không thể làm lành hết những vết thương ở trong cô. Có lẽ vì
thế Qùy luôn phải sống cô đơn, phiêu du cùng hoài niệm. Đó
chính là sự khắc nghiệt của chiến tranh! Sự khắc nghiệt đó đã
in dấu lên cuộc đời của mỗi thân phận con người bé nhỏ.
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành viết về một đề tài
không dễ, đề tài mà văn học Việt Nam hiện đại phải “quên đi”
(Hữu Loan vì nói đến trong Màu tím hoa sim mà “thân bại
danh liệt”) - đề tài về người phụ nữ trong chiến tranh và số
phận của họ sau chiến tranh, một số phận không giản đơn,
không ngọt ngào, bởi những bi kịch của chiến tranh không hề
mất đi mà bám dai dẳng vào từng số phận con người (Đã
chính xác)
1.2. Chiến tranh là môi trường tha hóa nhân
tính (CHƯA TÌM RA)
2. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người:
- Trước 1975, NMC tâm niệm: “Bây giờ ta phải chiến đấy
cho cuộc sống của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho
cuộc sống của từng con người, làm sao cho con người
ngày càng tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”
- Trước 1975: Con người đơn trị, nhất phiến – mang tính
chất sử thi, lí tưởng hóa. Con người cá nhân tự nguyện hòa
tan trong cộng đồng, được soi ngắm, định giá qua tiêu chí
giai cấp, mục đích chính trị, lí tưởng CM...-> Con người
hướng ngoại nhiều hơn hướng nội, ít có tâm lí phức tạp.
 “Con người luôn
khoác bộ áo xã hội trùng khít với địa vị xã hội của mình”
(M.Bakhtin)
- Sau 1975: Cái nhìn đa chiều về con người -> Con người
được đào xới vào tầng sâu nội tâm và được tiếp cận dưới
góc độ nhân bản.
 “Con người hoặc
nhỏ bé hơn tính người, hoặc lớn hơn thân phận của
mình” (M.Bakhtin)
(1) Con người tự ý
thức, tự nhận thức, nhất là nhận thức về đạo đức -> Cấu
trúc nhân cách cao và phức tạp – nhân vật mang tính chất
hướng nội.
Ví dụ: Qùy (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), họa sĩ
(Bức tranh), Lực (Cỏ lau), nhà văn T (Sắm vai)...
 Đề xuất “Hãy
tạm dựng 1 chút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để suy
nghĩ về chính mình”
 Niềm tin vững
chắc của MNC về khả năng tự hoàn thiện, hướng thiện
của con người.
Sự phong phú, phức tạp trong đời sống con người bình thường
thể hiện trong tác phẩm Người đàn bề trên chuyến tàu tốc hành.
Người trung đoàn trưởng có tài năng xuất chúng, khiến người
lính ở hàng ngũ bên kia cũng phải ngưỡng mộ. Nhưng trong
sinh hoạt hàng ngày, Hoà cũng có những thói nọ tật kia như
những con bình thường khác. Nghĩa là cũng bộc lộ những ham
hố, những nhược điểm. Đây là những biểu hiện của Hoà trong
sinh hoạt hàng ngày: Sống gần kề hầu như ngày nào cũng gặp
nhau, tôi mới có dịp được thấy anh ấy cũng mừng rỡ, hý hửng
khi được thăng cấp, mới có dịp được thấy anh ấy ăn, ngủ, đi lại,
cũng chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát
rẫy, cũng yêu người này, nói xấu sau lưng người kia. Và, anh ấy
cũng có mồ hôi tay, hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính, …
Điều tưởng kỳ lạ nhưng có thật đầy sức hấp dẫn ở nhân vật của
Nguyễn Minh Châu là trước bao thử thách, trước những hy sinh
mất mát, nhân vật của ông có thể thành “thánh nhân” – như Hoà
và các chiến sĩ của trung đoàn K được tác giả tập trung thể hiện
qua hình ảnh một con người có “ngàn mắt ngàn tay”.
Quỳ là một người phụ nữ hoàn hảo và cũng cực đoan, luôn
muốn đi tìm kiếm một “thánh nhân”: “Tôi thật ngu dại, với
những người đàn ông đáng quý nhất trong số những người đáng
quý ấy, tôi đã không coi họ là những con người đang sống giữa
cuộc đời mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh nhân. Tôi đã đi tìm cái
tuyệt đối không bao giờ có”. Và cuối cùng, chị đã dành cả cuộc
đời còn lại để ăn năn về điều đó. Đây là cả một quá trình nhận
thức của nhân vật. Trong cuộc tình với Hòa, Quỳ muốn người
yêu của mình là một thánh nhân, chị không thể chấp nhận những
khuyết điểm rất “con người” của anh trung đoàn trưởng. Và khi
đối mặt với cái chết của anh, Quỳ mới nhận ra Hòa vẫn là một
con người ưu tú như chị từng biết, chỉ là anh không “thoát tục”
như những gì chị muốn mà thôi. Chị đã nhận ra không thể tồn tại
một thánh nhân trong cuộc đời trừ phi người ấy chết.
Nhưng rồi, trong cuộc hôn nhân với Ph, Quỳ lại cố gắng để trở
thành một “thánh nhân”. Chị mong muốn cứu vớt một con người
và hơn thế, chị muốn Ph có thể tạo ra nhiều thành quả và giúp
đỡ nhiều người hơn nữa. Ảo vọng của Quỳ là quá lớn, chị đã
nhận ra cuộc đời không có “thánh nhân”, nhưng chị vẫn muốn
vượt lên con người để làm một “thánh nhân”. Thế nên, cuộc đời
chị vẫn mãi cô đơn, không tìm được một bến đỗ cho mình; như
nhân vật tôi đã ví cuộc đời chị như những chuyến tàu tốc hành,
đi qua rất nhiều nơi nhưng không có một nơi nào có thể dừng
chân.
(2) Con người trong
mối quan hệ với hoàn cảnh -> Tính giới hạn của con
người.
- Trước 75, con người làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn
cảnh.
- Sau 75, con người bị hoàn cảnh làm cho tha hóa: Toàn,
Lực.
+ Hoàn cảnh giúp con người phát hiện ra những nghịch lí của
cuộc đời: Nhĩ (Bến quê)
(3) Con người
không phải thánh thần, không tuyệt đối.
- Nhà văn không xây dựng con người hoàn hảo, lí tưởng.
Ví dụ 1: Qùy (NĐBTCTTH) – Mối quan hệ: Qùy – trung đội
trưởng Hòa, Hậu, Ph. Biểu tượng đôi bàn tay, con tàu tốc
hành...
Ví dụ 2: Người thủ thành (Dấu vết nghề nghiệp)
Bước ra khỏi quán tính của văn học kháng chiến, nhân vật trong
tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng bước xuống khỏi những
tượng đài. Trong câu chuyện “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành”, các nhân vật không được xây dựng như những con người
hoàn mỹ. Anh Hòa, trung đoàn trưởng trung đoàn K- người
được Quỳ gọi là “anh ấy” xuyên suốt tác phẩm: “Sống gần kề
ngày nào cũng gặp nhau, tôi mới có dịp thấy anh ấy cũng mừng
rỡ hí hửng khi được thăng cấp, mới có dịp được trông thấy anh
ấy cũng ăn, ngủ, đi lại, cũng chăn một đàn gà riêng, đánh một
cái quần “xà lỏn” đi phát rẫy, cũng yêu người này, nói xấu sau
lung người kia. Và, anh ấy lại có mồ hôi tay, hai bàn tay lúc nào
cũng dấp dính. Mỗi lần tôi phải cầm lấy bàn tay anh ấy là lại
thấy trên bàn tay mình một cảm giác dấp dính và lạnh”. Quá
trình Quỳ nhận ra Hòa không hoàn mỹ với việc nhà văn (và cả
chúng ta) nhận ra không hề có một con người hoàn hảo nào cả,
không có một tượng đài nào cả; dù là thời chiến hay thời bình.
Và còn có cả Hậu hay Ph cũng được miêu tả với những khuyết
điểm. Hậu thành thật nhưng cũng vì việc đó mà không hoàn
thành tốt công tác của mình, giống như một cái máy “chỉ biết
thu vào mà không biết phát ra”, từ một phóng viên tờ tin trở
thành người chuyên việc khuân vác, in ấn. Ph. là một kỹ sư tài
giỏi nhưng lại trở nên hám lợi, tham nhũng vì cô vợ trẻ đẹp của
mình (theo lời vị cán bộ).
Và Quỳ, nhân vật chính trong truyện, là một nhân vật nhìn như
hoàn hảo nhưng lại không hoàn hảo. Chị có rất nhiều ưu điểm:
một người yêu nước (từ chối một trường khao học tự nhiên ở
nước ngoài để vào Trường Sơn tham gia kháng chiến), một
người giỏi giang (làm được rất nhiều việc từ y tá, phóng viên, lái
xe, y sĩ) và Quỳ còn được miêu tả là một người phụ nữ xinh đẹp.
Nhưng chị vẫn là một con người không hoàn hảo bởi tính tham
lam của chị- sự tham lam đi tìm cái tuyệt đối không tồn tại. Quỳ
dường như chưa từng yêu ai cả, chị chỉ yêu cái tuyệt đối chị cho
đã tồn tại trong khoảnh khắc nào đó trên người một ai đó.
(4) Con người tự
nhiên:
- Con người hồn nhiên bộc lộ cách sống như bản năng tự có.
Ví dụ: Truyện ngắn Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hàng, Người đàn
bà tốt bụng...
1. Mặt xấu và tốt của con người tự nhiên (“Đôi khi con
người trở nên tàn ác 1 cách hồn nhiên”) -> Sự nguy
hại của lối sống thông tục.
- Con người sống giao hòa cùng tự nhiên, bác Thông (Sống
mãi với cây xanh)
(5) Con người tâm
linh
- Thể hiện qua giấc mơ, mộng du, hồi tưởng... (Qùy, Lão
Khúng...)
Quỳ trong một lần đi kiểm tra hành trang của các sĩ tử trong
hang đá, tình cờ chị gặp những trang nhật ký của các anh chiến
sĩ trẻ hy sinh. Đọc vào trang nào thì cũng gặp tên mình. Quỳ đã
xúc động áp những dòng nhật ký vào ngực mình và gọi tên
những từ thiêng liêng như “Tổ quốc”, “Đất Nước”: Tôi chợt
nghĩ đến những chữ vô cùng trừu tượng, thiêng liêng như Tổ
quốc, Đất nước, tôi lại còn hình dung đến làng quê của từng
anh với những người thân sống chung dưới một mái nhà, những
bờ đê, một khúc sông ngầu phù sa, một lối ngỏ tiếng tre kẽo kẹt
và màu tím hoa xoan tím rắc li ti trên vạt đất ấm, và chiếc gàu
sắt Tây chạm vào thành giếng khơi kêu lanh canh. Thông
thường, khi người ta gặp những hoàn cảnh thiêng liêng, điều tâm
niệm sâu sắc, ăn sâu vào tiềm thức được bật ra. Phải chăng ở
hoàn cảnh đó, đời sống bên trong của Quỳ đã thức dậy những gì
thật sâu kín mà ta gọi là cõi tâm linh, những điều thiêng liêng và
cao cả nhất? Vì điều đó mà những người trai trẻ cống hiến cả
tuổi xuân của mình, hy sinh những năm tháng đẹp nhất của mình
cho nó.
Ta bắt gặp cách nghĩ, cách đánh giá về sự hy sinh, mất mát gắn
với tâm thức truyền thống của người Việt. Hình ảnh những
người lính trong trung đoàn K đã hy sinh vì độc lập của Tổ
quốc. Vì tự do hạnh phúc của nhân dân. Tất cả đã in đậm trong
tiềm thức của Quỳ. Họ xứng đáng được ngưỡng mộ và tôn kính.
Hiểu như thế ta mới cắt nghĩa được sự xúc động của Quỳ trước
sự hy sinh của những người trẻ tuổi trong cuộc kháng chiến vừa
qua. Trên đường đi công tác, khi ngang qua một ngôi chùa, bắt
gặp pho tượng “ngàn tay ngàn mắt”, Quỳ đã nghĩ đến tập thể
những người lính trong trung đoàn K, tôi đứng ngẩn ngơ trước
bức tượng hồi lâu… lập tức tôi nghĩ ngay đến trung đoàn K, và
anh ấy đang ở một nơi rất xa xôi cả hai vừa hoà chung vào
nhau trong hình ảnh một con người có “ngàn mắt ngàn tay”.
Quỳ yêu Hoà tha thiết nên khi Hoà mất đi, một phần đời của
Quỳ đã ra đi vậy: Như một con chim đã mất bạn … đến bây giờ
tôi mới hiểu được, trong tất cả mọi sự mất mát thì mất một con
người là không có gì bù đắp được, không sao lấy lại được, …
Nhân vật Quỳ gây ấn tượng trong người đọc không chỉ ở quan
hệ tình cảm sâu nặng giữa chị và người trung đoàn trưởng tài ba:
Anh ấy quyết tâm làm một thánh nhân mà còn ở sự bao dung,
năng lực thực tiễn của người phụ nữ tưởng như rất khó lý giải,
rất khó hiểu về động cơ hành động của chị. Nếu như nhà văn
không đụng đến vùng sâu thẩm nhất, nơi chất chứa những điều
vừa thiêng liêng vừa cao cả là cõi tâm linh. Giữa những ngày
bom đạn tàn sát sự sống, hàng ngày thương binh ứ đọng nơi mặt
trận, Quỳ bỗng nhận ra: Và trong một lúc tôi bỗng hiểu được
như thế nào là người đàn bà. Tôi hiểu được chính tôi bấy lâu
nay. Tôi đã trong thấy trong một phút tất cả các phần sâu thẳm
như một thứ thiên phú riêng của tâm hồn những người đàn bà
chúng tôi: đó chính là bản năng chăm lo lấy sự sống của con
người - chính chúng tôi mang nặng đẻ đau sinh ra, …
B.CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
I. Chiếc thuyền ngoài xa.
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của NMC thuộc về đề tài
đời tư, thế sự.
 Tóm tắt: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn
Minh Châu sáng tác năm 1983. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ
bất ngừ của người nghệ sĩ Phùng với vợ chồng người đàn bà
làng chài. Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng đến một vùng ven biển miền Trung – nơi anh đã từng
chiến đấu để chụp một tấm ảnh thuyền biển, bổ sung cho cuốn
lịch năm mới. Sau nhiều ngày “phục kích”, Phùng đã chụp
được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa trên
biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào gần bờ, anh
kinh ngạc chứng kiến cảnh gã đàn ông vũ phu đánh vợ một
cách dã man mà người vơ không chống lại cũng không tìm
cách chạy trốn. Đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại cha
mình. Thấy vậy, Phùng đã ra tay can thiệp để cảnh tượng đó
không tiếp diễn. Phùng đã nán lại mấy ngày theo lời mời của
chánh án Đẩu - đồng đội cũ của anh, tình cờ Phùng được nghe
câu chuyện cuộc đời của người đàn bà hàng chài ở tòa án
huyện. Anh càng ngạc nhiên hơn khi người đàn bà ấy đã từ
chối sự giúp đỡ của anh và Đẩu, một mực xin không phải li dị
lão chồng vũ phu và bị lí lẽ của người đàn bà đó thuyết phục.
Tấm ảnh Phùng chụp, mãi sau này vẫn là một tác phẩm được
yêu thích. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, Phùng đều
thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu
nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy người đàn bà nghèo khổ,
lam lũ ấy bước ta từ tấm ảnh rồi hòa lẫn trong đám đông.
1. Tình huống nghịch lí
I.1. Nghịch lí 1.
- Hai bức tranh đối lập đó là cảnh biển tuyệt đẹp lúc trời sáng
“cảnh đắt giá trời cho” >< Trận đòn tàn bạo của người đàn
ông làng chài đối với người vợ sau bãi xe tăng hỏng, người
phụ nữ cam chịu -> Khiến Phùng bàng hoàng sững sờ +
hình ảnh Phác bảo vệ mẹ -> Tác giả: Cuộc sống không chỉ
có 1 màu, nếu chỉ nhìn từ xa cuộc sống là màu hồng, là
lãng mạn >< Khi tiếp cận gần: đó là cuộc sống của những
con người nhỏ bé -> Khơi mở cái nhìn toàn vẹn về hiện
thực
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, tình huống truyện
được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài
xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài.
Sau nhiều ngày “phục kích”, Phùng mới được “một cảnh
“đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét
đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và
toàn bích”. Nhưng oái oăm thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất
lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước
ra từ thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người
đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng
đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ, đánh lại
cha.
I.2. Nghịch lí 2
- Nghịch lí thứ 2 – Người phục nữ bị chồng đánh năm lần 7
lượt xin không li dị chồng.
Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa
án đã đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức.
Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên chị ly hôn
nhưng thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ
từ chối, thậm chí van xin tòa án cho chị không bỏ chồng.
Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của người phụ nữ
làng chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị còn
có những đứa con, chị phải sống vì con, sống cho con chứ
không thể sống vì bản thân. Và trên thuyền cũng có những lúc
vợ chồng con cái sống vui vẻ.
2. Nhân vật.
2.1. Người đàn bà làng chài.
- Nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình
thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc phếch và
rách rưới,... chị là hiện thân của sự nghèo khổ, vất vả, cam
chịu. Tương hợp với ngoại hình, cuộc đời người phụ nữ
này là một chuỗi ngày dài đau khổ, éo le và nghịch cảnh
cùng với việc trở thành nạn nhân của vấn nạn bạo hành, nơi
trút giận của người chồng vũ phu, thế nhưng chị lại là
người rất sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Khi kể cho Phùng và
Đẩu nghe cuộc đời của mình là một cách để người đàn bà lí
giải nguyên nhân vì sao chị lại nhất định không bỏ người
chồng vũ phu ấy.
- Trước hết, hắn là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của
những người đàn bà làng chài như chị nhất là khi biển
động, phong ba. Trong cái nhìn đầy thấu hiểu, cảm thông
và chia sẻ của chị, người chồng cũng trở thành nạn nhân
của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Bởi thế mà tuy chị đau
đớn, chịu nhiều sự hành hạ về thể xác và tinh thần nhưng
vẫn không oán hận.
- Vả lại, chị cần người chồng để còn nuôi những đứa con, chị
đâu có thể sống cho riêng mình mà còn cho cả chúng nữa,
có những lúc vợ chồng con cái vẫn sống hòa thuận, vui vẻ.
Bởi vậy, thái độ cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà
trước những đòn roi của gã chồng vũ phu tuy là sự lựa chọn
bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng, thông suốt.
- Thái độ nhẫn nhịn ấy là kết quả của sự vị tha, sự thấu hiểu,
bao dung, của tình yêu thương, sự hi sinh, chị đã chủ động
nhận về mình mọi đau đớn để duy trì sự tồn tại của gia
đình. Với phẩm chất đáng quý ấy, mà trong cuộc đối thoại
với Phùng và Đẩu chính người đàn bà thất học ấy lại có đủ
tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về nghịch lí mà con
người buộc phải chấp nhận khi bị cầm tù trong hoàn cảnh
nghèo đói, khổ cực, thiếu thốn.
2.2. Phùng và Đẩu.
- Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật Phùng và chánh án
Đẩu thuộc loại nhân vật tư tưởng. Khi xây dựng hai nhân
vật này, Nguyễn Minh Châu không chú trọng khai thác tính
cách nhân vật mà tập trung làm nổi bật hành trình tự nhận
thức của Phùng và Đẩu thông qua tình huống truyện mang
ý nghĩa khám phá và phát hiện về đời sống và nghệ thuật.
+ Phùng là một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, tha
thiết với cái đẹp, vì để thực hiện yêu cầu của anh trưởng
phòng khó tính, Phùng đã tìm đến một vùng ven biển miền
Trung và đã bắt gặp được khoảnh khắc xuất thần của cái
đẹp nghệ thuật, chụp được một cảnh đắt trời cho. Tuy
nhiên, Phùng đã kinh ngạc khi chứng kiến một cảnh tượng
khủng khiếp: Người đàn bà làng chài bị chồng đánh đập tàn
nhẫn nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đòn không hề kêu một
tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy.
Phùng bàng hoàng nhận ra đằng sau cảnh đẹp ấy là bao
nghịch lí, éo le. Phải đến sau khi gặp và nghe người đàn bà
kể về cuộc sống của mình, anh mới vỡ ra nhiều điều về
cuộc sống và con người, phát hiện ra những vẻ đẹp khác
đằng sau bức ảnh mà anh cất công đi tìm. Nó không phải vẻ
đẹp toàn diện như chiếc thuyền ngoài xa mà là vẻ đẹp của
cuộc sống đời thường đa đoan, đa sự và anh nhận ra nhìn
cuộc sống với cái nhìn một chiều bởi cuộc sống vốn phức
tạp, bí ẩn và bất ngờ. Ngoài ra, Phùng còn ngộ ra mối quan
hệ giữa nghệ thuật với hiện thực: Người nghệ sĩ không thể
khao khát cái đẹp nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi nghệ
thuật chân chính luôn được khơi nguồn từ cuộc đời và vì
cuộc đời.
+ Đẩu vốn là người lính xuất ngũ được về làm chánh án tòa
án huyện vùng biển, anh vẫn giữ nguyên chất lính hồn hậu,
nhiệt tình tấn công cái xấu, cái ác. Phẫn nộ trước hành động
vũ phu của người chồng, xót thương cho người đàn bà cứ
ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nên anh đã
đi ngược với phương châm lấy hòa giải là tiên phong mà
bảo thẳng với người đàn bà Chị không sống nổi với lão đàn
ông đó đâu. Tuy nhiên, người đàn bà làng chài đã giúp anh
ngộ ra những nghịch lí của cuộc sống, những nghịch lí mà
con người buộc phải chấp nhận: Một cái gì mới vỡ ra trong
đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển.
Ngoại hình: Xấu xí, thô
kệch, mặt nhiều vết rỗ bởi
căn bệnh đậu mùa ->
Không phải vẻ đẹp lí
tưởng, mĩ hóa

Số phận nhỏ bé bất hạnh


+ Khi còn trẻ -> Không
Người đàn bà làng chài bỏ chồng vì chịu ơn.
(so sánh với cô Nguyệt - + Sau khi lấy chồng ->
mảnh trăng cuối rừng) Chấp nhận bạo hành

Phóng viên ảnh Phùng:


"Đốn ngộ" về nghịch lí Phẩm chất bên trong:
cuộc sống và mối quan hệ + Tình yêu con đầy đau
giữ nghệ thuật và cuộc
Nhân vật sống.
đớn, giàu đức hy sinh
+ Sự thâm trầm trong
việc hiểu thấu lẽ đời
(Phần đổi mới nghệ
thuật mình làm)
Chánh án Đẩu: Lý thuyết,
thiện chí pháp luật ><
quy luật đời sống ->
Hướng giải quyết tận gốc
bi kịch con người?

3. Hình ảnh biểu tượng.


3.1. Chiếc thuyền ngoài xa.
- Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên về
biển và cũng là biểu tượng về cuộc sống sinh hoạt của
người dân hàng chài.
- Chiếc thuyền ngoài xa là hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh
về sự bấp bênh, dập dềnh của những thân phận, những cuộc
đời trôi nổi trên sông nước.
- Chiếc thuyền ngoài xa biểu tượng cho mối quan hệ giữa
nghệ thuật và đời sống. Cái hồn của bức tranh nghệ thuật
ấy chính là vẻ đẹp rất đỗi bình dị của những con người lam
lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật.
3.2. Bãi xe tăng hỏng.
- Bãi xe tăng hỏng trên bãi biển là những dấu tích của chiến
tranh, qua đó thấy được chiến tranh mới được lùi xa, và
cuộc sống mới cũng vừa được bắt đầu. Chiến tranh đã lùi
xa, Phùng và những người đồng đội của mình đã cùng nhau
chiến đấu để chống lại thế lực bạo tàn, vô lí, mang lại độc
lập tự do cho nhân dân, giải phóng đất nước. Những tưởng
khi bước vào giai đoạn hòa bình con người sẽ không phải
đối diện với những đau khổ, mất mát nữa thế nhưng hoàn
cảnh sống mới lại nảy sinh ra những hoàn cảnh éo le mới.
Con người không còn khổ đau vì chiến tranh, chia lìa
nhưng cái đói, cái khổ vẫn dai dẳng tạo nên bao bi kịch của
cuộc đời.
- Những chiếc xe tăng hỏng cũng là vật chứng cho cái bạo
tàn mà chiến tranh mang lại. Chiến tranh kéo dài không chỉ
gây mất mát về người và của mà nó còn hủy hoại sự phát
triển của cả một đất nước, khiến cho con người rơi vào tình
cảnh đói nghèo, bế tắc không lối thoát. Chiếc xe tăng hỏng
cũng là nhân chứng cho tất cả những đau khổ, bi kịch, trái
khoáy trong cuộc sống của con người, những chiếc xe tăng
chứng kiến tất cả cuộc sống của người dân, chứng kiến vẻ
đẹp yên bình và cả những hành động bạo lực, dã man của
người đàn ông hàng chài.
CTNX
Biểu tượng chiến
Biểu tượng thắng
Bãi xe tăng hỏng - nơi
diễn ra những trận
đòn tàn bạo -> Hình Hậu quả của chiến
ảnh biểu tượng tranh để lại
+ Đói nghèo
+ Tăm tối, lạc hậu

4. Những câu hỏi đặt ra trong tác phẩm.


4.1. Câu hỏi cho xã hội.
- Qua bi kịch của gia đình làng chài, nhà văn băn khoăn, trăn
trở, day dứt về số phận con người: Vấn nạn bạo lực gia
đình, tương lai của những đứa trẻ như cậu bé Phác sẽ ra
sao? Hay Chiếc tranh qua đi , đất nước đã được giải phóng
nhưng cuộc đời của những con người lao động nghèo khổ
sẽ như thế nào? Liệu có tươi sáng hơn? Phải chăng cuộc
chiến chống đói nghèo, tối tăm còn gian nan, quyết liệt hơn
cả cuộc đấu tranh chống ngoại xâm?
4.2. Câu hỏi cho văn chương.
- Ngoài ra, tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm,
phát hiện sâu sắc của nhà văn về cách để nhìn nhận, đánh
giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ
thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời:
 Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa

đựng nhiều nghịch lý. Cần nhìn nhận mọi sự việc,


hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và
trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
 Muốn giúp đỡ con người không chỉ dựa vào thiện
chí hay kiến thức sách vở mà phải thấu hiểu cuộc
sống của họ và có những biện pháp thiết thực.
 Con người ta luôn phải nhìn lại mình. Hoạt động
tự ý thức khiến con người ngày càng hoàn thiện
hơn.
 Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc
sống. Nghệ thuật chân chính là cuộc sống và phải
luôn luôn vì cuộc sống.
 Qua đó, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định mối
quan hệ của nghệ thuật với cuộc đời, cái đẹp, cái thiện
trước hết phải là cái chân thực.
C.PHIÊN CHỢ GIÁT.
I. Phiên chợ Giát.
 Tóm tắt: Câu chuyện có kết cấu khá đơn giản, chỉ là kể
chuyện ông Khúng đi chợ bán con bò đã già cho hàng thịt ở
chợ cầu Giát, chỉ là cuộc hành trình từ nhà đến phố chợ, từ
khi ông thức dậy lúc hai, ba giờ sáng đến khoảng bảy giờ.
Một quãng đường,năm tiếng đồng hồ, song cuộc hành trình
này dài thêm, thêm mãi những hồi tưởng, những quãng đời
ông sống lại, những khổ đau, những nhọc nhằn, những phi
lí, những đọa đày, lừa đảo, cái sống và cái chết, và nhiều
nước mắt.
Bốn mạch truyện, ông Khúng thức giấc, ông dắt bò đi trong
tối tăm mù mịt ; ông và con bò tiếp tục đi dưới ánh sao, và
cuối cùng trời sáng, ông đến phố chợ. Mỗi mạch truyện bị
chia cắt, dừng lại ở những liên tưởng, những kí ức bừng lên
sống động với những tiếng cười, tiếng khóc. Cái nhìn từ
khắp phía, cái nhìn của quá khứ , cái nhìn của hiện tại, cái
nhìn từ hiện tại về quá khứ, về tương lai.
Mạch truyện thứ nhất có chiều dày của lịch sử một đời
người. Ông Khúng từ miền biển lên khai phá khoảng rừng
này, "tưới cạn kiệt mồ hôi cho mảnh đất này". Mạch truyện
thứ hai, trên đất Campuchia là cái chết của Dũng, con trai
lão Khúng.Ở mạch truyện này, thời gian dừng lại rất lâu.
Mạch truyện thứ ba dành cho hồi ức về lịch sử ông bí thư
huyện. Mạch thứ tư, bị cắt bởi giấc mơ khủng khiếp, ông
Khúng thả con Khoang đen vào rừng, trả tự do cho nó
nhưng nó tìm đường trở về với ông một cách "nhẫn nhục và
sâu sắc".
- Trong Phiên Chợ Giát, lão Khúng - “anh nông dân suốt đời
đi sau con bò vạch những luống cày trong đêm tối” - hình
ảnh điển hình của người nông dân Việt Nam làm ăn cá thể
lạc hậu là một khái quát nghệ thuật độc đáo, như là nơi hội
tụ sự đổi mới, cách tân của Nguyễn Minh Châu. Dường
như nỗi lòng ưu thời mẫn thế của Nguyễn Minh Châu về
cuộc đời, về thân phận con người cùng hàng loạt những dự
cảm sâu sắc và bất an về hiện thực cuộc đời đều được nhà
văn dồn nén ở thiên truyện ngắn cuối cùng này.
- Người ta chờ đợi cuộc đời lão Khúng trong Phiên chợ Giát
sẽ “khá hơn” so với hồi lão là Khách ở quê ra (Nhân vật
chính trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát đều lấy từ
một nguyên mẫu có thật: người cháu của Nguyễn Minh
Châu). Song chính tại thời điểm lão ý thức rõ ràng nhất về
thân phận của mình thì xảy ra bi kịch: thì ra bò Khoang và
lão chỉ là một. Bò Khoang là biểu tượng của sự cần cù,
nhẫn nại và sức chịu đựng bền bỉ trong “kiếp trâu bò” vô
thức. Còn lão Khúng tuy là “chủ nhân” nhưng trong cuộc
vật vã với miếng cơm manh áo lão cũng không khác gì
“kiếp trâu bò” và cuối cùng người - bò gặp nhau trong tận
cùng bế tắc, trong những ước muốn nhỏ bé, giản đơn nhưng
không bao giờ thực hiện được. Sự trở về của bò Khoang ở
cuối truyện đã xóa tan ước mơ “tự giải thoát” của lão
Khúng: sự nô lệ truyền kiếp đã trở thành thói quen đến mức
có thể làm cho người ta đánh mất cả bản năng tự giải thoát,
tìm đến với tự do...Với lão Khúng, kiếp người - bò cứ đeo
bám, quẩn quanh không bao giờ được giải thoát. Khi lão
quyết định thả nó về rừng cũng chính là khi nó đã quá quen
với cái ách nô lệ trên cổ, không thể thay đổi. Sự trở về của
con bò Khoang ở cuối truyện là sự trở về của bi kịch con
người - thời gian đi qua mà sao nỗi cay cực của những kiếp
người vẫn cứ chất chồng thêm: “Ngay lập tức lão giật nẩy
mình sực nhận ra đích thị là nó, con khoang đen của nhà
lão, cái con khoang đen mà trong đêm khuya khắt lão đã
đích thân dắt vào tận trong rừng thật sâu, rồi lại còn phải
dùng roi vọt đánh đập vô cùng tàn nhẫn để xua nó đi với
cuộc sống tự do. Con vật ngước cặp mắt đầy nhẫn nhục và
sầu não lên nhìn lão Khúng. Đó là cái nhìn của một sinh vật
tự nguyện chấp nhận số phận. Đứng lặng thinh bên chiếc xe
chất đầy củi mà lão đã thay nó toát mồ hôi một mình kéo về
được đến đây, lão Khúng cũng chả biết nói gì với con vật,
lại càng không thể trách móc, lão chỉ đưa mắt nhìn người
bạn đời làm ăn thân thiết bằng cái nhìn cũng đầy sầu não và
phiền muộn”.
- Phiên chợ Giát đã gây xôn xao văn đàn một dạo và có rất
nhiều “Cách đọc Phiên chợ Giát”. Cách đọc sau của Giáo
sư Đỗ Đức Hiểu là khá thuyết phục: “Truyện không khép
kín ở một ý nghĩa nào, nó mở cho mỗi nhóm người đọc một
chân trời … Sự hóa thân người / bò của ông lão Khúng/
Khoang đen, sự phân đôi nhân cách ấy, sự kết hợp hai ý
thức con người/ con vật ấy, là bi kịch của nhân vật, của thời
đại. Sự quan sát xã hội di chuyển vào sự quan sát nội tâm,
tạo nên một tâm lý vận động, đó là nghệ thuật của truyện
ngắn Phiên chợ Giát. Văn bản di động trên nhiều bình diện:
ngôn ngữ, hình tượng, xã hội, tâm lý, quá vãng và hiện tại,
lịch sử và tưởng tượng” (Đỗ Đức Hiểu: Đổi mới đọc và
bình văn, NXB Hội Nhà văn, H.1999).
- Dự cảm âu lo của nhà văn về thân phận con người, về cuộc
đời đã thôi thúc Nguyễn Minh Châu hướng đến thông điệp:
sự ngu dốt tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc
có thể dẫn đến số phận bi đát của người nông dân, họ vừa
là nạn nhân cũng vừa là tội nhân trong cuộc sống của chính
mình.
- Đáng chú ý trong Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu đã
sử dụng thủ pháp “dòng ý thức”, dùng lối viết đi sâu vào
cõi vô thức của nhân vật với những giấc mơ kiểu “Phân
tâm học”, Phiên chợ Giát như muốn “nói cùng một ngôn
ngữ” với các khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết hiện đại
(lối viết này đã phần nào có ở truyện ngắn Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành và các nhà làm phim đã khai thác
“cõi vô thức” của nhân vật để làm thành phim Người đàn
bà mộng du). Như vậy, có thể nói, sự đổi mới, cách tân của
Nguyễn Minh Châu là ở cả phương pháp sáng tác: Phiên
chợ Giát là kiểu văn bản đa thanh và dân chủ. Nói về
phương pháp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong
Phiên chợ Giát, Giáo sư Đỗ Đức Hiểu - một trong những
chuyên gia hàng đầu về văn học Phương Tây - đã khẳng
định:
- Phiên chợ Giát là khái quát nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu về tính cách và số phận người nông dân, là “một chấn
thương nhức nhối, một bức tranh với bao cảnh hoang vu
với nhiều mảng tối và những chấm đỏ màu máu… nhiều
nét nhòe, nét này thâm nhập nét kia gây nhiều ảo ảnh, một
sự thẩm thấu giữa hiện tại và quá khứ, giữa giấc mơ và sự
thật, cái cụ thể và cái trừu tượng…những cấu trúc đan
chéo, chồng chất lên nhau biểu đạt những cuộc chia ly nhọc
nhằn…”

You might also like