You are on page 1of 8

Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 23 năm 2010

_____________________________________________________________________________________________________________

CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT THỜI HẬU CHIẾN


VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
NGUYỄN THỊ KIM TIẾN*

TÓM TẮT
Soi chiếu ở số phận cá nhân con người được xem là một cách cắt nghĩa thể hiện
quan niệm nghệ thuật về con người của tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới.
Cách lý giải này cho thấy sự cởi mở hơn của văn học khi viết về người lính nói riêng và đề
tài chiến tranh nói chung. Bàn về con người trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1986, bài
viết qua khảo sát một số tiểu thuyết Việt Nam tiêu biểu của thời kỳ đổi mới làm rõ hai khía
cạnh: con người dưới góc độ bi kịch cá nhân và con người dưới góc độ bản năng tự nhiên.
ABSTRACT
Human beings in post - war novels about the war
Describing the destiny of an individual human is considered as a way to present
viewpoints of art on human beings by novels on the war in the renovation period. This
explanation shows openness of literature writing about the soldiers, in particular; and the
war topics, in general. On human issues in post war novels after 1986, the article through
surveying some typical Vietnamese novels in the renovation period clarifies two aspects:
human beings in view of individual tragedies and of instincts.

Con người là điểm xuất phát, đồng trong văn học. Vậy “con người trong văn
thời cũng là đích cuối cùng của mọi sáng học thực chất là sự cắt nghĩa và quan
tạo. Toàn bộ thế giới nghệ thuật trong niệm về con người, được thể hiện bằng
văn học bộc lộ một quan niệm thẩm mỹ, hình tượng nghệ thuật, trong các bình
ở đó con người được khám phá và thể diện con người được miêu tả, trong hệ
hiện trong tổng hòa các mối quan hệ xã thống các hình ảnh tượng trưng, trong
hội, trong nhiều cấp độ, phương diện, tương quan với không gian, thời gian và
tầng bậc. Mỗi một thời đại, một giai trong các nguyên tắc mô tả tính cách, tâm
đoạn văn học có cách thể hiện con lý” [7, tr.44]. Qua một quá trình dài vận
người khác nhau. Sự đổi mới quan động, quan niệm nghệ thuật về con người
niệm nghệ thuật về con người chính là luôn có những bước tiến phát triển và
quá trình vận động biện chứng của ý biến đổi. Văn học Việt Nam từ sau 1975,
thức nghệ thuật cho phù hợp với đặc nhất là từ đầu thập kỷ 80 với mốc chặng
điểm lịch sử, xã hội. Nói cách khác, đường đổi mới của dân tộc, của văn học,
việc chuyển đổi mối quan tâm của văn đã đánh dấu bước đột phá mới trước hết
học chính là nguyên nhân chi phối sự đổi là trong cách khám phá và thể hiện con
mới quan niệm nghệ thuật về con người người.
Tiếp tục mạch đề tài quen thuộc:
*
ThS, Khoa Ngữ văn Trường Đại học chiến tranh, văn học thời kỳ sau 1986 đã
Đồng Tháp thực sự khơi được những mạch nguồn

18
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Thị Kim Tiến
_____________________________________________________________________________________________________________

“vừa quen vừa lạ” cả về nội dung lẫn các quan hệ chung và riêng trong cộng
hình thức khai thác hình tượng, bên cạnh đồng xã hội. Việc đổi mới quan niệm về
việc thiết lập nên những sáng tạo mới cho con người là yếu tố căn bản quyết định
thể loại tiểu thuyết. xu hướng dân chủ hóa của văn học, giúp
Trong những năm kháng chiến, con cho văn học vừa linh hoạt biến hóa hơn
người tượng trưng cho đất nước, mang về hình thức lại vừa chân thực hơn trong
dáng vóc đất nước, trở thành một hình nội dung khái quát đời sống. Gặp gỡ ở
tượng nghệ thuật phổ biến. Vì thế văn một đề tài lớn, viết về chiến tranh, các
học 1945 - 1975 là văn học phục vụ cho nhà văn của văn học thời hậu chiến qua
chiến tranh cách mạng. Điều này đồng thể loại tiểu thuyết đã thể hiện những nét
nghĩa với con người trong tiểu thuyết phát triển mới của quan niệm thẩm mỹ về
chiến tranh thời kỳ này là con người của con người. Nét mới theo quan điểm
ý chí lớn, của chủ nghĩa anh hùng cách chúng tôi được thể hiện nổi bật qua hai
mạng. Trong bom đạn vẫn ngời lên con vấn đề.
người của lý tưởng, của sự hy sinh cao 1. Con người dưới góc độ bi kịch cá
cả, bừng sáng niềm tin, niềm kiêu hãnh nhân
không có chút hoài nghi, do dự. Tư thế Con người trong kháng chiến là con
con người chính trị, con người tập thể, người của tập thể, của cộng đồng, con
con người anh hùng với những chuẩn người thống nhất hoàn toàn với lịch sử -
mực đạo đức xã hội đã làm tròn nhiệm vụ lạc quan, tích cực trưởng thành và hoàn
của mình trong chặng đường cổ vũ dân thiện, không bi kịch… Còn con người
tộc chống giặc ngoại xâm. trong cuộc sống hòa bình khi đã có
Chiến tranh kết thúc, nền văn học những mầm đâm chồi cho sự thức tỉnh cá
chuyển mình, một mặt vẫn tiếp tục phản nhân khiến con người không thể nhìn
ánh cái khốc liệt, hào sảng, giàu lạc quan, nguyên phiến một chiều mà luôn đặt
mặt khác các nhà văn đã cố gắng tiếp cận trong thế đa chiều, trong mối quan hệ cá
chiến tranh bằng cái nhìn thẳng thắn chân nhân tác động trở lại cộng đồng. Đã đến
thực, bằng sự “dũng cảm điềm đạm” lúc các nhân vật của văn học thời kỳ này
trước sự thật về cái giá phải trả cho chiến phải tự phán xét, suy ngẫm về những
thắng như Đất trắng (Nguyễn Trọng hành vi của mình, điều này đồng thời
Oánh), Sao đổi ngôi (Chu Văn)… Không đánh dấu những phức tạp của đời sống cá
khí cởi mở cùng sự thành công của Đại nhân nội tâm con người, những cảm xúc,
hội Đảng lần thứ VI đã tạo điều kiện cho suy tư, những dằn vặt trăn trở, những mối
những đòi hỏi đổi mới của văn học mười quan hệ nhiều chiều… luôn được đặt
năm trước đó (1975 - 1985) trỗi dậy một trong thế tương quan quy chiếu từ điểm
cách mạnh mẽ. Sự thật chiến tranh hôm nhìn cá nhân.
nay được nhìn lại qua những nếm trải của 1.1. Nỗi đau về thể xác và tinh thần
người “chịu trận” lại gắn với số phận con Chiến tranh đã lùi xa nhưng vết
người - những con người cá thể với tất cả thương mà nó để lại vẫn nhức buốt trong

19
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 23 năm 2010
_____________________________________________________________________________________________________________

tâm hồn con người. Nền hòa bình thời đám đông hỗn độn kia đang mang một
hậu chiến với quá nhiều vấn đề nan giải, thứ bệnh tinh thần nặng nề khó chữa
quá nhiều bất ổn đã khiến những con khỏi. Con người Kiên luôn đi tìm thời
người từng kinh qua chiến tranh may gian trong quá khứ với một tâm trạng
mắn còn sống sót trở về cảm thấy mất không bình thường “một tâm hồn bị giam
thăng bằng, mất niềm tin. Nhiều người cầm trong quá khứ, hiện tại chơi vơi và
trở về thân thể còn lành nguyên nhưng tương lai mờ mịt”. Kiên chỉ biết ấp ủ
tâm hồn mãi mãi mang thương tật. mình trong quá khứ dù càng lúc quá khứ
Hùng (Ăn mày dĩ vãng) từ một trong anh càng trở nên khốc liệt. Cái anh
chàng trai cao lớn khỏe mạnh, nay thành thu nhận được ở hiện tại là thứ mất mát
một người đàn ông trung niên hốc hác, có về thể xác, tan nát cõi lòng, trở thành cái
dấu hiệu thần kinh. “Ít nói, ít cười, sợ ánh bóng, cái hồn mơ giữa cõi đời. Giữa ngày
sáng, sợ tiếng động, sợ nơi đông người, hòa bình anh lạc lõng bơ vơ không lối
dấu vết mặc cảm tự ti hằn trên từng bước thoát, anh sống triền miên trong ám ảnh.
chân đi, từ trong cái nhếch mép rụt rè, Quá khứ chiến tranh đã ám anh đến mức
nửa khóc nửa cười” [4, tr.6]. Chiến tranh nó thành một thứ mộng mị, những giấc
với dư âm của nó vẫn luôn tồn tại trong mộng không đầu không cuối thậm chí
tâm linh, trong suy nghĩ, tình cảm và tâm mộng cả khi đang thức. Đó là ký ức về
lý của những người từng tham chiến, biến những trận đánh, về đồng đội, về những
họ thành những kẻ “lạc thời”. Họ cảm mảnh đời, những số phận mà anh thấy
thấy mình bị “bắn ra khỏi lề đường”, “va mình phải có trách nhiệm nghĩa vụ với
đâu vỡ đấy”. Trong rất nhiều sáng tác của những số phận mảnh đời ấy. Và cứ thế
Chu Lai những người lính của một thời “đôi khi chỉ cần nhắm mắt lại là trong tôi
mang thứ di chứng nặng nề như Sáu lập tức ký ức tự nó xoay mình theo lối cũ,
Nguyện (Ba lần và một lần), Linh (Vòng gạt toàn bộ cõi đời thực hôm nay ra rìa
tròn bội bạc), Hùng (Ăn mày dĩ vãng) cỏ” [6, tr.50]. Trong mảnh vỡ tinh thần
khiến họ thấy mình thực sự đã bị “mắc của đời anh giờ đây “đối với Kiên muôn
kẹt giữa cuộc đời”. Họ dễ dàng trở thành thuở chỉ có duy nhất một cuộc chiến
những kẻ mang “tâm hồn bấn loạn, ngôn tranh kia, một cuộc chiến tranh chẳng
ngữ độc thoại rối mù, họ bị thực cảnh những mãi mãi đè nặng, mãi mãi ám ảnh
chiến tranh đày ải, tàn nhẫn, làm suy sụp mà về thực chất nó còn là nguyên nhân
cả thể xác lẫn tinh thần” [6, tr.7]. của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời
Ra khỏi chiến tranh trong Kiên hàm anh, kể cả hạnh phúc, kể cả đau khổ,
chứa một mâu thuẫn thường trực. Anh niềm vui và nỗi buồn, tình yêu và oán
may mắn được sống sót trong thời bình hờn” [6, tr.83]. Nếu không có chiến tranh
nhưng anh lại cảm thấy “không phải là chắc Kiên sẽ vào đại học, sẽ có một gia
mình đang sống mà như đang bị mắc kẹt đình hạnh phúc nhưng sau mười năm
trong cuộc đời này” [6, tr.87]. Người chiến tranh, người lính ấy giờ thành một
chiến binh sống vất va vất vưởng giữa kẻ “dị mọ”, vết thương tâm hồn Kiên

20
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Thị Kim Tiến
_____________________________________________________________________________________________________________

mang về từ cuộc chiến không ngừng rỉ liêng bền chặt trong chiến tranh, sự phản
máu. Điều này cũng giống như Quy trong bội trắng trợn chính lý tưởng của mình,
Chim én bay. Hiện tại đối với Quy là phản bội đồng đội của mình với những
“căn phòng của chị đêm xuống lại càng cám dỗ của đời sống vật chất.
thêm vắng vẻ. Nhiều đêm, chị phải khóa Anh Sài của Thời xa vắng ngật
cửa phòng, đi lang thang trên phố” [3, ngưỡng bước vào thời bình trong tư thế
tr.123] và cái căn bệnh co giật thỉnh chưa sẵn sàng lường hết được cái giá
thoảng lại hành hạ chị. Từng đêm là cuộc đời đưa đẩy cho anh. Mới tí tuổi
những giấc mơ quái đản cứ hiện về, thêm thằng cu Sài đã phải chịu sự bủa vây của
vào đó là nỗi ám ảnh về “những cái chết trách nhiệm, đạo lý, danh dự khiến cho
kẻ thù mang đến cho gia đình chị và cách thoát duy nhất của Sài là chạy, cố
những cái chết chị gieo cho chúng. Chị chạy cho thoát. Đi bộ đội, trở về hiện tại
đã giết những tên ác ôn khét tiếng nhất tưởng thoát nhưng té ra vẫn bị vấp ngã, bị
bởi cách mạng đòi hỏi chị làm vậy. Vậy dựng dậy. Sài không thoát nổi chính con
mà, bây giờ không hiểu sao, chị cứ thấy người mình; thế nên cái đời Sài chỉ được
lòng mình không yên… Có cái gì đó đúc rút bằng một kinh nghiệm: nửa đời đi
ngoài lý trí bắt chị phải suy nghĩ trăn trở. yêu cái người khác yêu, nửa đời còn lại
Cái gì? Hình như nó ở đâu đó trong con đi yêu cái mình không có.
người chị, trong con người hàng ngày chị Trong con mắt mọi người xung
tiếp xúc. Hình như nó ở trong đất, trong quanh Kiên là kẻ dở hơi, sống “mộng du”
nước…” [3, tr.126]. Thực tại trả về cho cùng quá khứ. Chính quá khứ trong Kiên
Quy không gì hơn ngoài những cảm giác đã trùm lấp hiện tại, đè nghẹt thở hiện tại
nặng nề cùng với những cơn đau hành hạ, và chiếm lĩnh cả tương lai. Vậy nên khi
cả nỗi xót xa đau đớn tột cùng khi bản trở về trong đời thường, anh thành một
năng làm mẹ cũng đã bị cướp mất. tay nhà văn phường lập dị, một kẻ mộng
Chiến tranh trải qua nhiều thời gian, du không sao hòa nhập được với hiện tại.
nhiều thế hệ đã thấm sâu vào từng nỗi Quá khứ cho anh được gì trong hiện tại
đau của từng cá nhân, lâu lâu lại tái phát, ngoài vết thương hồi ức chiến tranh. Mối
âm ỉ trong cuộc sống và trong lòng tình đầu vốn dĩ như một giá đỡ đã cho
người. anh nghị lực sống trong chiến tranh nay
1.2. Bi kịch về nỗi khát khao bất thành cũng trôi tuột ra khỏi nỗi khát khao về
trong cuộc sống hiện tại hạnh phúc của riêng anh. Oái ăm thay,
Cơ chế thị trường đặt con người lên nghịch lý thay, quá khứ đấy lại cho Kiên
những bàn cân đặc biệt về nhân cách vô cái quyền khi nhìn về nó anh mới thấy
cùng thảm khốc. Vấn đề về con người mình thật sự mới đang sống.
nhất là người lính luôn trong tư thế “đấu Đối với Quy, “có thể nói không quá
tranh cho quyền sống của từng con rằng, chiến tranh đã cướp đi tất cả những
người” đang phải đối mặt với sự xuống gì cần thiết nhất cho một đời sống bình
cấp các quan hệ nghĩa tình vốn thiêng thường của chị. Lẽ ra chị có thể hoàn

21
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 23 năm 2010
_____________________________________________________________________________________________________________

toàn thanh thản trước quá khứ. Nhưng gã không dám đối mặt với mẹ, với người
không hiểu sao chị lại trăn trở bức xúc yêu Thuyên, với đồng đội. Gã tự phạt án
muốn tìm lại nhà những thằng ác ôn bị tử hình cho mình với cái lỗi mà Vịnh
chị giết chết hơn mười năm trước” [3, nghĩ mình không còn cơ sửa được. Hai
tr.20]. Cuộc sống hiện tại của Quy không mươi năm Vịnh đi bên rìa đời thực của
hoàn toàn nhẹ nhõm khi chị vẫn đau đáu mình, không tìm đâu một chỗ chết đến cả
muốn đi tìm câu trả lời về cuộc sống gia cái tên của mình cũng không dám gọi.
đình của những kẻ ác ôn chị đã giết hiện Vịnh không biết được rằng, Phương
nay ra sao. Chị sống tựa như để đeo đuổi thằng bạn bị thương của mình trong hang
một trách nhiệm với đời sau cùng nhất, Dơi ngày nào nay đã là một “linh hồn
bỏ qua cái bản thân cá nhân chị đang có chết” chưa bao giờ và cũng không bao
được: đại biểu Quốc hội, Anh hùng lực giờ oán trách anh. Bởi trong tâm hồn của
lượng vũ trang. Vả lại những thứ địa vị những Phương, ông già, cô gái giao liên,
đó đâu đưa lại cho chị một sự thư thả tuy vất vưởng nơi hang Dơi nhưng họ
trong tâm hồn, cũng không đưa lại được vẫn tin một ngày nào đó họ sẽ được trở
những khát vọng bình thường của người về, không còn là những chiến sĩ vô danh
phụ nữ không dám được một lần làm vợ, nữa, khi họ biết đồng đội vẫn luôn nhớ về
làm mẹ. họ.
Ngược với nỗi trăn trở tinh thần của Quả thật “chiến tranh có những lý
Quy trong Chim én bay, Tàn đen đốm đỏ riêng của nó”, “mỗi người có riêng cho
của Phạm Ngọc Tiến lại bộc lộ số phận mình một cuộc chiến tranh” [9, tr.354],
của những con người là người lính trong tất cả họ dù có cơ may được sống trở về,
chiến tranh ở cả người còn sống lẫn nhưng cuộc sống hiện tại với “thời buổi
người đã chết. Hai mươi năm qua Vịnh thiên hạ đang tự thoát xác để lao vào làm
sống cùng cái án bỏ đồng đội (thực ra là ăn, rình rập, cạnh tranh, cuồng nộ, nắm
thấy bạn bị thương chịu đau đớn mà bắt, lao lên, mọp xuống, náo động, âm
không làm gì được) khiến “gã chui nhủi thầm, bộc trực, độc địa, vấp ngã…” [4,
ra khỏi cuộc chiến tranh, để đến nỗi tr.141] chỉ khiến họ trở thành con nộm
không còn đường về” [9, tr.498]. Bạn bè rơm khốn khổ mà thôi.
đồng đội tưởng gã đã hy sinh nhưng thực Thứ khao khát bất thành trong cuộc
ra gã đang tự trừng trị mình. “Cuộc chiến sống hiện tại là một thứ bi kịch trực tiếp
tranh của riêng gã kết thúc bi thảm ở nữa của người lính, qua đó cho thấy sự
hang Dơi dạo nào. Không còn đường về, nới rộng biên độ phản ánh của đề tài
từng ấy năm gã nhục nhã trong kiếp chiến tranh trong tiểu thuyết thời kỳ đổi
người lầm lụi. Khoác áo của đủ mọi lốt mới. Tính dân chủ sâu sắc đã được phát
người. Gã sống như một sinh vật thừa huy trọn vẹn đưa chúng ta có cơ hội nhìn
thãi trong vương quốc trần gian” [9, rõ hơn, chân thực hơn, khách quan hơn
tr.498]. Về làng nhìn thấy ngôi mộ ghi về chiến tranh khi kéo số phận của cộng
tên mình gã không thốt ra được lời nào, đồng vào trong từng sự “nếm trải” của số

22
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Thị Kim Tiến
_____________________________________________________________________________________________________________

phận cá nhân. Tiểu thuyết chiến tranh đã cái chết với những vết máu loang, những
thể hiện một quan niệm không đơn giản cuộc bắn giết méo xệch tâm hồn. Ngày
xuôi chiều về con người, từ khát vọng nào cũng nhìn thấy người chết mà chưa
khám phá con người ở nhiều thang bậc đến lượt mình, họ trong đó có Kiên dần
giá trị, đến những tọa độ ứng xử khác trở nên lãnh đạm với mọi sự chết xung
nhau, ở nhiều chiều kích khác nhau. quanh. Cái chết trở nên bình thường vô vị
2. Con người dưới góc độ bản năng biết bao trong cuộc chiến này, vậy sống
tự nhiên sao mới là khó? Cam vì không chịu được
Trong bài viết Viết về chiến tranh, cảnh thảm sầu, khốc liệt của chiến tranh
Nguyễn Minh Châu đã nhận định nếu văn và vì nỗi nhớ mẹ, nỗi nhớ quê hương nên
học trước 1975 con người chỉ đóng vai đã bỏ trốn và kết cục là cái chết thảm
trò làm đường dây xâu chuỗi các sự kiện thương ngay sau đó. Để chạy trốn nỗi cô
lịch sử lại với nhau thì trước sau con đơn nơi đại ngàn và cái chết đang rình
người “vẫn trèo lên các sự kiện để đòi rập bủa vây họ, Kiên và đồng đội tìm đến
quyền sống”. Điều này đồng nghĩa với hồng ma - một thứ hoa có thể đưa con
việc văn học thời kỳ đổi mới có nhu cầu người ta vào sự đê mê khoái cảm, quên đi
viết về con người, với tất cả những mặt tất cả với truông Gọi Hồn, để họ được
tính cách đa dạng, phải phơi bày trong sống, được nếm cái vị cuộc đời một cách
đời sống mà đã nhiều thập kỷ qua “tạm trần trụi nhất, để họ quên đi nông nổi đời
thời giấu mình trên trang sách”. Đã đến lính, quên đi chết chóc. Khói hồng ma
lúc nhận diện lại chiến tranh, thứ không đưa Kiên trở về với mối tình đầu, Vĩnh
chỉ gây nên những mất mát trên thân thể mơ thấy đàn bà và những cuộc làm tình
trong tâm hồn mà còn tước đoạt đi những trong tưởng tượng, Tạo lại mơ thấy sự ăn
nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng con uống… Đó là những ao ước hạnh phúc
người. đời thường, những thèm khát cháy bỏng
2.1. Bản năng sống thứ nhu cầu bình thường nhất của con
Trong tiểu thuyết hậu chiến, Thân người. Cũng vì thứ bản năng sống ấy,
phận tình yêu của Bảo Ninh ám ảnh chiến tranh đã biến họ thành những cỗ
người đọc bởi những trang viết về cái máy giết người không ghê tay.
chết. Cái chết thảm khốc bao nhiêu thì sự Với Tuấn của Ăn mày dĩ vãng,
khao khát sống cũng bừng lên bấy nhiêu. trước cái chết của Bảo, anh chỉ muốn
Trong số những người lính đi qua mảng “cối nó tiện đứt hai cánh tay để được trở
hồi ức của Kiên, những Quảng, Hòa, về nhà. Ăn mày, bơm xe, bới rác, trông
Tâm, Oanh, Cừ, Thịnh… đều có những kho… làm gì cũng được, miễn là được
cái chết đau đớn thương tâm. Họ đi cầm về, được sống” [4, tr.106]. Kể cả như
súng cũng có nghĩa họ đã nghĩ về cái Hùng, một kiểu mẫu người lính tiêu biểu
chết, nhưng ở họ không phải không có trong chiến tranh, cũng đã từng nghĩ:
cái nghĩ về để muốn sống. Chiến tranh “Một cuộc đời không vợ không con,
không trừ một ai. Nó đã tạo nên những không tương lai, không niềm vui nỗi

23
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 23 năm 2010
_____________________________________________________________________________________________________________

buồn… nhưng còn ngàn lần vĩnh viễn Tư Chao (Ba lần và một lần), Hai Hùng -
chui vào lòng đất, câm lặng” [4, tr.124]. Ba Sương (Ăn mày dĩ vãng), Nam - Thảo
Con người cá nhân của người lính (Phố), Vũ Nguyên - Hà Thương (Cuộc
trong thời khắc chiến tranh vẫn luôn ẩn đời dài lắm). Sau mỗi trận chiến, khoảng
chứa những điều tốt đẹp để họ muốn lặng hiếm hoi đó đã đủ sức làm cháy
được sống, được hưởng thụ. Nhưng bùng lên những ham muốn đời thường
không phải vì thứ bản năng đó mà họ mãnh liệt. Cuộc làm tình giữa Tuấn và
chùn bước trước kẻ thù. Nói như Chu Thu sau lại nhói đau bởi câu nói của Thu:
Lai: “Chiến tranh chính là điều kiện, là “Tuấn đừng khinh tôi, tôi không phải là đứa
tình huống để đẩy mạnh cái suy nghĩ đời con gái… thấy Tuấn khổ quá, ngày mai lại
thường lên một đỉnh điểm” [4, tr.179]. lao vào chỗ chết nên tôi không nỡ” [4,
Và văn học qua thể loại tiểu thuyết viết tr.138]. Còn Tám Tính ngoài những phút
về đề tài chiến tranh đã hé mở để khai đánh giặc như quên mình đi, anh thường
thác cái mạch ngầm bên trong ấy một xuyên có “những cú vồ bản năng bệnh tật”.
cách đầy đủ hơn. “Cứ thấy hơi hướng đàn bà, bất kể già trẻ
2.2. Bản năng dục vọng lớn bé… là tâm hồn bấn loạn mắt nhìn như
Tiểu thuyết sau năm 1986 khi đề thôi miên, như bị hóa thạch” [4, tr.73]. Hòa
cập đến người lính, nhà văn không còn lẫn trong sự vật vã kìm nén, trong lo âu
viết về họ như là một thánh nhân, mà đơn hoảng loạn và trong cảm giác được dâng
giản họ chỉ là một con người bình hiến của Hai Hợi, Tám Tính là nỗi nhớ vợ
thường. Nếu văn học trước 1975 gắn tình cồn cào của Khiển. Nỗi nhớ đó được anh
cảm của họ với tình cảm lớn lao, vĩ đại hóa giải bằng những lần tắm sông với ám
của toàn dân thì văn học giai đoạn thời kỳ ảnh nhức nhối về đêm cuối cùng từ biệt
đổi mới lại khai thác thêm một dòng chảy người vợ trẻ vào chiến trường.
nữa. Đó là những gì thuộc về đời sống Trong ranh giới mỏng manh giữa sự
riêng tư, tình cảm cá nhân, những vấn đề sống và cái chết, đối mặt với chiến tranh
thuộc về bản năng con người. đang từ từ hủy hoại bản thân người lính,
Dưới sự tác động của tinh thần đổi vì thế nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng
mới, đi cùng sự thay đổi về quan niệm con người, thèm khát được thỏa mãn
hiện thực chiến tranh, quan niệm nghệ không còn là điều đáng lên án. Câu
thuật về con người của tiểu thuyết viết về chuyện yêu đương kỳ lạ của phân đội
chiến tranh đã đào sâu hơn nữa những trinh sát với ba cô gái Mây, Hbia, Thơm
yếu tố đời sống cá nhân thuộc về đời tư, nghe ra đáng tội hơn nhiều. Trong cõi
bản nhiên của con người như góc khuyết không nhà, “không đàn ông, không đàn
của văn học giai đoạn trước nay đã được bà” ấy, họ đến với nhau không chỉ duy
lấp đầy. nhất thỏa mãn nhu cầu dục vọng mà cái
Chu Lai miêu tả khá kỹ lưỡng và chính họ đang cố gieo vào nhau sức
chi tiết khát vọng bản năng gắn kết giữa mạnh và niềm tin trong cõi chết, biến
tình yêu và tình dục. Đó là Sáu Nguyện - những điều tưởng chừng nghịch lý trở

24
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Thị Kim Tiến
_____________________________________________________________________________________________________________

nên có lý. Ngay cả như Vạn (Bến không hiện thực đã đi đến cùng cái bi kịch của
chồng) con người cả một đời sống khắc nó. Cách lý giải về con người cá nhân ở
kỷ mà cũng không thể làm một thánh những góc độ xã hội và tự nhiên ẩn sâu
nhân, khi anh phải đối diện với cái gốc trong cả những góc khuất tâm linh đã đưa
bản năng con người mình. Phút giây bản đến cái nhìn về chiến tranh thời hậu chiến
năng trỗi dậy khi “da thịt đàn bà nần nẫn đầy chân thực. Tiểu thuyết chiến tranh
trong vòng tay và hơi thở đầy dục vọng thời hậu chiến suy cho cùng không còn là
phả vào mặt Vạn” không phải là minh khúc ca ngân dài của bản anh hùng ca
chứng cho sự trụy lạc, mà là một lời chiến trận, thay vào đó các nhà văn đang
khẳng định đây mới là lúc Vạn được sống cố “bóc gỡ” một mặt trái về chiến tranh
theo kiểu con người đúng nghĩa của sâu sắc hơn, phơi bày lên trên trang giấy
mình. Đến như Vịnh (Tàn đen đốm đỏ) những góc cạnh khác nhau của chiến
trong cơn sốt rét rừng đi kèm giấc mơ tranh qua những số phận cá nhân cụ thể,
chập chờn của những chiếc lông ngỗng sinh động. Đó là số phận mang “dư chấn”
trong câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy của những hậu quả nặng nề về thể xác và
mà anh đã kể cho Thuyên nghe khi hai tinh thần, là những tấn bi kịch và khát
đứa chưa phải xa nhau, đã đeo bám anh vọng vươn lên trong cuộc sống mới. Xuất
và trở thành một thứ vô thức muốn ghì phát từ sự thay đổi trong quan niệm về
chặt lấy người con gái anh yêu trong tay. cuộc sống và con người, hình tượng con
Cơn mê tỉnh mông lung của Vịnh gọi tên người trong tiểu thuyết viết về chiến
Thuyên lại vô tình đánh thức cái ham tranh đã đi theo xu hướng chiều sâu tính
muốn được chở che trong con người cách, đó cũng là nỗ lực nhận thức lại lịch
Lanh, dù cô biết cái phút ái ân tột độ tràn sử, từ đó tìm kiếm, nghiền ngẫm thực tại
đầy cảm xúc đó Vịnh không thực dành khẳng định con đường hướng tới tương
cho cô. lai của những con người đã kinh qua cuộc
Bộ mặt trần trụi của chiến tranh và chiến thần thánh của dân tộc.
số phận khốc liệt của con người trong

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Nguyễn Hương Giang (2001), “Người lính hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời
kỳ đổi mới”, Văn nghệ Quân đội, (4).
2. Nguyễn Trí Huân (1994), “Những trang viết về người lính”, Văn nghệ, (4).
3. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, Nxb Quân đội nhân dân.
4. Chu Lai (1992), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn.
5. Lê Lựu (2002), Thời xa vắng, Nxb Hội Nhà văn.
6. Bảo Ninh (1990), Thân phận tình yêu, Nxb Hội Nhà văn.
7. Nhiều tác giả (1996), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học.
8. Trần Đình Sử (2001), “Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học Việt Nam
thế kỷ XX”, Văn học, (8).
9. Phạm Ngọc Tiến (2004), Tàn đen đốm đỏ, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Hội Nhà văn.

25

You might also like