You are on page 1of 15

Điển hình 

là hình tượng nghệ thuật đặc sắc, độc đáo được miêu tả sinh động, hấp
dẫn, khái quát được những nét bản chất nhất, quan trọng nhất của con người và đời
sống.
Nhân vật điển hình là kiểu nhân vật tiêu biểu, có những nét nổi bật, mang nét
chung khái quát cho một loại kiểu nhân vật. Nhân vật được coi là điển hình nếu nó
tiêu biểu đại diện cho nhiều người có cùng nét tính cách, cuộc đời, số phận giống
nó. Có thể nói, nhân vật điển hình là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân vật mang
tính cụ thể, vừa không lặp lại nhưng vẫn mang những phẩm chất, đặc điểm chung
để có thể trở thành đại diện tiêu biểu cho con người trong xã hội. Nói như nhà văn
Nga Tuốc-ghê-nhi-ép: “Điển hình là con người cụ thể của một thời.”.
 Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người
trong tác phẩm văn học 
Đề số 1: Nghị luận ý kiến: “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của
nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”. Bằng tri thức và
trải nghiệm văn học của mình,anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
      Văn học nói bằng hình tượng, hình tượng nghệ thuật là khối pha lê lấp lánh làm
nên giá trị tác phẩm văn học. Nếu cái thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là
đường nét và màu sắc thì cái thần của văn chương chính là ở hình tượng nhân vật.
Song những tác phẩm văn học chỉ xây dựng nên những hình tượng về con người
thì đó chưa hẳn là một tác phẩm vô giá.

      Bởi trong sáng tạo nghệ thuật, điều quan trọng, đặc sắc nhất nhiều khi không
phải ở hình tượng con người mà ở hình tượng nhân vật. Chính vì vậy, có ý kiến
cho rằng: “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực
sự sống bằng tâm trí của người đọc”.

      “Nhà thơ tư duy bằng hình tượng” (Biêlinxki). Văn học ở bất kì thời đại nào
muốn phản ánh hiện thực đời sống đều phải thông qua các hình tượng nhân vật
điển hình. Nhà thơ tư duy bằng hình tượng, nhà văn cũng tư duy bằng hình tượng.
Thế giới thêm sắc màu, cuộc sống thêm âm điệu bởi những hình tượng nhân vật
điển hình độc đáo.

      “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính là
con người” (Nguyễn Minh Châu). Văn học phản ánh cuộc sống và trung tâm là con
người thông qua hình tượng nhân vật. Chính những hình tượng nghệ thuật độc đáo,
có sức phổ quát, mang những ý nghĩa sâu sắc về nhân sinh đã góp phần làm nên
nét riêng cho tác phẩm văn học. Người nghệ sĩ thường sáng tạo nên những tượng
đài bất hủ về con người bằng cách xây dựng chính hình tượng nhân vật.
Hình tượng nhân vật Lão Hạc
      Nghệ thuật đồng nghĩa với sáng tạo. Nghệ sĩ là kẻ làm công việc “khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Viết văn là một quá
trình khai phá những vỉa quặng của cuộc đời nhưng mỗi thứ kim loại quý hiếm nhà
văn tìm thấy lại lấp lánh một sắc màu riêng biệt. Có phải đó là sắc màu của những
hình tượng nhân vật điển hình được nhà văn nhặt nhạnh ở cuộc đời, nhào nặn trong
tư tưởng và đưa vào tác phẩm dưới lớp áp chủ quan độc đáo? Ngay từ khi ra đời;
văn học đã nhận thức đời sống và thể hiện tư tưởng tình cảm bằng các hình tượng
nhân vật nghệ thuật. Từ tiếng gọi chú tiểu lẳng lơ nhưng đầy khao khát yêu đương
của Thị Màu trên chiếu chèo ngày xưa đến đoạn trường mười lăm năm lưu lạc của
Thúy Kiều trong thơ Nguyễn Du, hình tượng nhân vật điển hình đã thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt các tác phẩm văn học, bắc nhịp cầu giữa hiện thực xã hội và tư
tưởng nhân văn. Như lời nhận định đã bàn tới, “hình tượng nhân vật được sinh ra
từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc” bởi nhà
văn xây dựng hình tượng nhân vật để khái quát hiện thực, để cắt nghĩa đời sống và
thể hiện tư tưởng của chính mình. Vì vậy, hiện thực trong tác phẩm máng đậm dấu
ấn chủ quan của người nghệ sĩ. Nhà văn là chủ thể sáng tạo, là kẻ chi phối mọi tư
tưởng thẩm mĩ, góc nhìn, phạm vi của hiện thực nên dù được bắt nguồn từ cuộc
sống; dù được nuôi dưỡng bằng bầu sữa của bà mẹ cuộc đời thì tác phẩm văn
chương; qua các hình tượng nhân vật, phản ánh hiện thực “được sinh ra từ tâm trí
của nhà văn. Tác phẩm văn chương không bao giờ là bản sao của hiện thực mà
hiện thực được soi chiếu vào tác phẩm bằng lăng kính chủ quan của người viết, có
thể tốt, có thể xấu, có thể đáng vui và cũng có thể đáng buồn. Hiện thực cuộc sống
được khoác lên tấm áo nhiều màu như vậy chính là bởi hình tượng nhân vật được
nhà văn đưa vào tác phẩm. Hình tượng nhân vật là đứa con của hiện thực cuộc
sống nhưng lại được nuôi dưỡng bằng tình cảm, tư tưởng của nhà văn. Nó cũng là
cuộc đời riêng; nhưng đồng thời cũng là cái loa phát ngôn của người nghệ sĩ.
Trong bản thân hình tượng bao giờ cũng có sự thống nhất sinh động giữa các mặt
cá biệt và khái quát, lí trí và cảm xúc, chủ quan và khách quan. Hình tượng càng
độc đáo, được nâng lên mức điển hình thì hiện thực càng được phản ánh ở những
góc cạnh sâu xa nhất, hướng tới một giá trị thẩm mĩ riêng – “chỉ thực sự sống bằng
tâm trí của người đọc” Điều đó làm nên “ánh sáng riêng mãnh liệt” cho hình tượng
nhân vật. Đến với hình tượng nhân vật là đến với một thế giới hiện thực riêng biệt
được xây dựng ngay trên nền thế giới hiện thực đương thời. Hình tượng nhân vật
tỏa sáng của lí tưởng thẩm mĩ lên trên hiện thực bề bộn, để cho người đọc có một
cái nhìn mới mẻ; chân thực và sâu sắc hơn về cuộc đời. Lời nhận định đã khẳng
định tầm quan trọng và giá trị biểu hiện của hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
Đó cũng là cơ sở để đánh giá tư tưởng nhà văn và giá trị của toàn bộ tác phẩm.

      “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự
sống bằng tâm của người đọc”. Nhà văn lấy tư liệu từ hiện thực để xây dựng nên
hình tượng điển hình và đặt vào đó tư tưởng thẩm mĩ của mình. Tôi nhớ câu
chuyện thần thoại xa xưa, thần Trụ Trời lấy đất sét nặn ra con người và thổi hơi thở
của mình vào những hình tượng vô tri để cho con người sự sống. Nhà văn phải
chăng cũng là người thổi linh hồn mình vào trong hình tượng nhân vật để dù mang
những phẩm chất đặc trưng, phổ quát của thế giới hiện thực, nó vẫn có một sức
sống riêng, một cuộc đời cá biệt trong “tâm trí của người đọc”. Không phải ngẫu
nhiên mà nhân vật trung tâm trong các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực là những
kẻ đại diện cho bọn thống trị như Nghị Hách, Nghị Quế, Bá Kiến… hay nhũng nạn
nhận của xã hội cũ như anh Pha, chị Dậu, lão Hạc, Mị… Hiệu quả cao nhất mà
những điển hình đó đạt được là bóc trần sự mục nát của xã hội thực dân phong kiến
với một thái độ phủ nhận và phê phán mạnh mẽ. Nhưng độc đáo hơn, lần đầu tiên
người ta biết đến một cách trị người tàn ác và mưu mô như của Bá Kiến, con
đường leo lên xã hội thượng lưu nhơ bẩn và lố bịch như của Xuân Tóc Đỏ. Những
hình tượng điển hình ấy không bao giờ chỉ đơn thuần là một bức tranh nhân sinh
mà bao giờ cũng gửi đến người đọc một thông điệp; một triết lí sâu xa.

      Biêlinxki từng phân biệt: “Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà văn
nói bằng các hình tượng và bức tranh. Dù đều đi từ cái riêng đến cái chung để
khám phá cuộc sống con người, khám phá bản chất của thực tại nhưng trong quá
trình nghiên cứu, trong khi các nhà triết học, khoa học gạt bỏ những chi tiết cá biệt,
những yếu tố ngẫu nhiên để tìm ra cái chung; để khẳng định yếu tố khách quan,
chân lí thì trong nghệ thuật lại in đậm dấu ấn chủ quan, cái chung được biểu hiện
trong cái riêng; cái riêng để khái quát cái chung. Hình tượng nhân vật ra đời nhằm
mục đích đó. Chí Phèo, Thị Nở từ văn chương đã bước ra cuộc đời; trở thành
những cái tên như minh chứng tiêu biểu cho tính điển hình của hình tượng nhân
vật. Ta thấy trong cuộc đời nhọc nhằn của anh Pha, chị Dậu… dáng dấp ông cha,
những người cả đời gắn bó với ruộng đồng và chịu biết bao nhiêu áp bức. Đó chính
là sự “sinh ra từ tâm trí của nhà văn”. Nhưng không bao giờ những Chí Phèo, chị
Dậu ấy là bản thân cuộc đời thực. Văn học chỉ có một Chí Phèo với bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người trong khi cuộc đời có cả ngàn thằng Chí Phèo uống rượu
say rồi chửi bới. Văn học chỉ có một Hăm-lét với niềm trăn trở, day dứt vì lí tưởng
“sống hay không sống” trong khi lịch sử có biết bao nhiêu âm mưu “chiếm ngôi
vua, đoạt quyền chúa”. Không bao giờ người ta quên được tiếng nói khắc khoải
của Chí Phèo: “Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao ỉương thiện? Làm sao
xóa được những vết sẹo trên mặt này?”. Không chỉ bởi một hiện thực khốc liệt của
xã hội phong kiến dồn đuổi con người vào bước đường cùng mà sâu sắc hơn hết
người ta nhận ra trong đó một khát vọng sống mạnh mẽ; cháy bỏng; một ước muốn
lương thiện giản dị mà cao đẹp của một tâm hồn tội lỗi. Lần đầu tiên người ta nhận
ra ánh sáng của lương tri, ánh sáng của tính người tỏa ra từ thân xác của con quỷ
dữ. Đó chính là “ánh sáng riêng” của hình tượng Chí Phèo “chỉ thực sự sống bằng
tâm trí của người đọc”.

      Kinh Thư xưa có câu: “Thẩm sở mộng chi nhân, khắc kì hình tượng, dĩ tứ
phương băng cửu chi ư dân gian” (Xem xét người thấy trong mộng, khắc lấy hình
tượng của người ấy để đi tìm khắp bốn phương trong dân gian). Hình tượng nhân
vật bao giờ cũng là ‘ con người của dân gian”. Nó được thoát thai từ hiện thực đời
sống và mang những tính cách cơ bản nhất, bản chất nhất và nổi bật nhất của đời
sống xã hội. Nguyễn Du từ bao nhiêu cuộc đời long đong, lận đận của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến đã xây dựng lên hình tượng Thúy Kiều với tất cả nỗi
đau khổ của loài người đúc kết lại:

Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
         Trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Kiều có những “vết xe đổ” của
Đạm Tiên, của Tiểu Thanh, của người con gái đất Long Thành cùng biết bao nỗi
đau khổ khác của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cuộc đời Thúy
Kiều là một bức tranh toàn cảnh và sinh động về nỗi đoạn trường của người phụ nữ
dưới xã hội hà khắc, nặng nề, tàn ác và thối nát của thời đại cũ. Hiện thực trong
Truỵện Kiều được tái hiện qua tâm trí của Nguyễn Du. Người đọc như được cùng
nàng Kiều trải qua biết bao thăng trầm, tận mắt chứng kiến và thấu hiểu muôn vàn
nỗi khổ đau của kiếp người. Nhưng Kiều không chỉ là đại diện cho một lớp người,
cuộc đời Kiểu không đơn thuần chỉ là một bức tranh hiện thực rộng lớn và Nguyễn
Du không chỉ là ngòi hiện thực chủ nghĩa một chiều. Kiều được ca tụng là người
phụ nữ đẹp nhất của văn học Việt Nam bởi những nét đẹp riêng biệt, độc đáo, chỉ
tài năng Nguyễn Du mới có thể sáng tạo nên:

Làn thu thủy, nét xuân sơn


Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
(Truyện Kiêu – Nguyễn Du)
      Vẻ đẹp khiến cho trời đất phải ghen tức, vẻ đẹp làm thiên nhiên đảo lộn, có lẽ
trong cả nền văn học Việt Nam, người ta chỉ tìm thấy mình Kiều. Kiều “sống trong
tâm trí người đọc” không chỉ bởi nét riêng biệt “hơn người” ấy mà còn bởi tấm
lòng cao cả của Nguỵễn Du được soi rọi trong những câu thơ đẹp nhất dùng để ca
ngợi sắc đẹp người con gái tài hoa.

Hình tượng nhân vật Mã Giám Sinh


Cũng trong Truyện Kiều, bên cạnh nhân vật điển hình Thúy Kiểu, Kim Trọng, Từ
Hải thì Mã Giám Sinh cũng là một nhân vật điển hình có “ánh sáng riêng”. Ở hình
tượng này, người đọc nhận ra một cách rõ ràng hiện thực biểu hiện cụ thể, sinh
động như có thực:

Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”


Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
(…) Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
(…) Cò kè bớt một thêm hai.
      “Nghệ thuật là biết tước bỏ và tập trung” (L. Tôn-xtôi). Nguyễn Du đã “tước
bỏ” những chi tiết về tên, tuổi, quê quán. Và “tập trung” với vài chữ thật đắt, thật
sâu cay – “tót, sỗ sàng, “cò kè”, tác giả đã “giết chết” nhân vật của mình để khẳng
định bản chất một kẻ vô học, một con buôn với đầy đủ ngón nghề và sự ma lanh.
Nhưng đằng sau đó, người ta còn thấy cả một phường buôn thịt bán người tàn nhẫn
của xã hội phong kiến. Nhân vật Mã Giám Sinh vừa mang tính cá biệt vừa mang
tính khái quát; là một điển hình tiêu biểu cho những nhân vật phản diện trong
Truyện Kiều. Người đọc vừa thấy ở hắn một tính cách xảo quyệt của kẻ buôn
người hạng nhất, vừa thấy thêm một góc tối nhơ bẩn của xã hội phong kiến đương
thời. Từ câu chuyện đời Minh của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, bằng tài
năng bậc thầy, Nguyễn Du đã xây dựng nên những hình tượng điển hình độc đáo
để từ nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, Thiên văn tự tuyệt bút – Truyện Kiều ra
đời; dù vẫn giữ nguyên cốt truyện nhưng hiện thực đã trở thành hiện thực của xã
hội Việt Nam đương thời, nhân vật đã trở thành con người Việt Nam. Tác phẩm
mang đậm bản sắc dân tộc dù xây dựng từ cái nền của tác phẩm nước ngoài chính
bởi những hình tượng nhân vật điển hình như Kiều, Từ Hải, Mã Giám Sinh… Như
vậy, “nghệ thuật không đòi hỏi phải thừa nhận cái tác phẩm của nó như là hiện
thực” (Phơ-bách). Sự thực trong tác phẩm nghệ thuật không phải bản thân cuộc đời
thực, thậm chí có lúc thực hơn ngoài cuộc sống vì hình tượng nhân vật không lệ
thuộc máy móc vào yếu tố cá biệt. Sự kiện trong thực tế với sự kiện trong văn học
có một khoảng cách lớn. Sợi dâỵ mỏng manh nối giữa chúng chính là hình tượng
nhân vật, là tư tưởng của người viết.

      “Hình tượng văn học là sự tổng hợp những tư tưởng và say mê, là kết quả của
một tấm lòng đầy thiết tha” (Biêlinxki). Hình tượng nhân vật trong tác phẩm bao
giờ cũng mang dấu ấn mạnh mẽ của chủ quan nhà văn, bộc lộ tiếng nói riêng,
phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi hình tượng nhân vật điển hình lại tỏa
chiếu ra một ánh sáng riêng. Đó chính là ánh sáng của tư tưởng nhà văn, của lí
tưởng thẩm mĩ được soi chiếu qua hình tượng. Hình tượng nhân vật là nơi gửi gắm
trái tim sôi nổi nhiệt thành, đầỵ yêu thương của người viết. Đằng sau ngòi bút lạnh
lùng; sắc sảo xây dựng nên một hình tượng Chí Phèo là trái tim Nam Cao nhức
nhối những nhịp đập yêu thương và căm phẫn. Ông xây dựng Chí Phèo trong bi
kịch bị cự tụyệt quyền làm người không chỉ để cất lên tiếng nói tố cáo xã hội mà
còn là tiếng nói cảm thông đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người.
Những trang viết của Nguyễn Du cũng thấm đầy nước mắt khi miêu tả cuộc đời
khổ đau của Thúy Kiều. Nhà thơ đã khóc cùng nhân vật, cười cùng nhân vật; nâng
niu nhân vật lên bằng ngòi bút tình thương đáy lòng bác ái. Tư tưởng cùa nhà văn
soi sáng trong các hình tượng nhân vật. Nó luôn hướng con người tới những giá trị
đích thực của văn chương và cuộc sống. Văn học luôn là điểm tựa để con người
vươn lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã, hướng tới chân – thiện – mĩ cuộc đời. “Văn
học là nhân học” (M. Gorki). Mọi yếu tố của văn học đều mang giá trị nhân văn,
nhân đạo hóa con người; chỉ ra cho con người sự xấu xa để vươn tới cái cao cả của
tâm hồ. Đó chính là thứ ánh sáng “được sinh ra từ tâm trí của nhà văn” không bao
giờ tắt trong mọi tác phẩm văn chương chhân chính.

      “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí” bằng tài năng và tâm huyết của
nhà văn, làm nên đặc điểm phong cách từng tác giả. Nó tỏa ra thứ ánh sáng của
riêng người viết, ánh sáng của tài năng, của lương tri. Không một hình tượng nhân
vật nào giống hình tượng nhân vật nào bởi nghề văn đòi hỏi sự sáng tạo, sự thâm
nhập thực tế để xây dựng nên những hình tượng nhân vật bất hủ. Khi người nghệ sĩ
đã thâm nhập sâu sắc vào nhân vật, họ như được sống cuộc đời của nhân vật, xúc
động, yêu thương, vui buồn, đau khổ, giận hờn… như cảnh ngộ của chính mình.
Đó là những giây phút “tự quên mình” đồng thời in dấu chủ quan của mình vào đối
tượng miêu tả. Các nghệ sĩ vĩ đại như L.Tôn-xtôi, M. Gorki, Banzắc, Phlô-be…
đều có sự thâm nhập sâu sắc như vậy. Banzắc kể lại, sau khi đi theo và lắng nghe
những người công nhân nói chuyện với nhau, ông nhanh chóng nhập thân vào đối
tượng sâu sắc đến mức cảm thấy như mình cùng đang mặc những quần áo rách
rưới như họ, đang đi những đôi giày rách như họ, những nhu cầu nguyện vọng của
họ đều được truyền đến tâm hồn tôi hay nói đúng hơn: với tất cả hồn mình, tôi
nhập vào tâm hồn họ. Chỉ có sự thâm nhập thực tế bằng cả con người và trái tim
thì người nghệ sĩ mới có thể sáng tạo nên những hình tượng nhân vật bất hủ, những
nhân vật vừa là con người của quần chúng; vừa là con người của văn chương, vừa
mang tính hiện thực, vừa mang tính nghệ thuật độc đáo. Bàn về giá trị của hình
tượng điển hình trong tác phẩm, lời nhận định còn đặt ra yêu cầu của người nghệ sĩ
chân chính. Đó là những yêu cầu của văn học muôn đời.
      Mỗi người nghệ sĩ khi sáng tạo mang trong mình một nhiệt huyết sáng tạo cháy
bỏng và con mắt tinh nhạy, nhìn hiện thực cuộc sống với con mắt của người đầu
tiên; đặc biệt là “sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn – sống toàn thân và thức nhọn
giác quan” để xây dựng hình tượng nhân vật mang ý nghĩa, ẩn chứa bao điều
huỵền diệu, sâu sắc về nhân sinh. Và người tiếp nhận do đó khi thưởng thức tác
phẩm cũng cần phải nâng cao trình độ thẩm mĩ, tìm hiểu và nhận ra ý nghĩa, giá trị
của những hình tượng nhân vật.

      Nhà văn là kẻ đã dùng những hình tượng và từ ngữ hoàn chỉnh lạ lùng để cô
đặc lại những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt lệ cay đắng,
nóng bóng của thế gian này. Hơn bất kì một nghề nghiệp, tôi yêu nghề văn bởi
hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của tôi và hiện thực cuộc đời dắt tôi
đến một chân trời mới, một tâm hồn mới và những điều kì diệu chỉ thấy trong mơ..

Đề số 2: “Mỗi hình tượng nhân vật phụ nữ thực sự thành công bao giờ cũng là kết
quả của sự phát hiện sâu sắc về nữ tính”. Bằng việc phân tích một số nhân vật phụ
nữ tiêu biểu trong các tác phẩm đã học từ văn học dân gian đến văn học hiện đại,
anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

* Gợi ý làm bài:


1. Làm rõ nội dung, ý nghĩa của nhận định:
– Từ một số tác phẩm văn học đã được học có hình tượng nhân vật phụ nữ, trình
bày cách hiểu của mình về khái niệm “nữ tính” và những biểu hiện sinh động của
nó trong đời sống và trong văn học. Lưu ý: đề thi không yêu cầu thí sinh phải lý
luận đầy đủ về “nữ tính” mà chỉ cần nêu được những nét đặc trưng của nữ tính trên
một số phương diện chính như ngoại hình, thể chất, đạo đức, tâm lý, xã hội… Điều
quan trọng là thí sinh thấy được rằng hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn học đã
trải qua quá trình vận động, biến đổi phản ánh được sự vận động, biến đổi về địa vị
xã hội của người phụ nữ qua các giai đoạn lịch sử.

– Nhận định nêu trong đề bài nhấn mạnh việc phát hiện phương diện nữ tính của
người phụ nữ trong quá trình sáng tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thành
công của hình tượng nhân vật phụ nữ trong tác phẩm. Đồng thời thấy được, nhận
định cũng gián tiếp đề cập đến một yêu cầu không thể thiếu đối với người nghệ sĩ
chân chính: gắn bó với đời sống, hiểu biết kĩ lưỡng về cuộc sống, về con người;
trong đó, có việc nhận thức thực sự sâu sắc về giới.

– Điểm nhìn của tác giả khi xây dựng hình tượng nhân vật phụ nữ cũng cần được
lưu ý. Việc tác giả nhìn nhân vật nữ từ quan điểm của người khác giới hay từ chính
quan điểm của người phụ nữ có ý nghĩa quan trọng đối với mức độ thành công của
hình tượng nhân vật phụ nữ.
– Đánh giá: Đây là một nhận định đúng đắn, sâu sắc đề cập đến một trong những
yêu cầu cao về chất lượng đối với sáng tạo nghệ thuật và càng có ý nghĩa đối với
những nền văn học còn chưa có nhiều truyền thống về nữ quyền.

2. Phân tích một số hình tượng nhân vật phụ nữ tiêu biểu:
– Cần lựa chọn được một số hình tượng nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong các tác
phẩm từ văn học dân gian cho đến văn học hiện đại đã học, không hạn định về thể
loại, về tác phẩm trong nước hay nước ngoài.

Ví dụ:

+ Nhân vật Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

+ Nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ)

+ Nhân vật Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao)

+ Nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân)

+ Nhân vật chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố)

+ Nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài)

+ Nhân vật Phăng-tin (Người cầm quyền khôi phục uy quyền – V. Hugo)

– Cần làm nổi bật được những biểu hiện phong phú và tinh tế của nữ tính trong khi
phân tích vẻ đẹp của các hình tượng nhân vật phụ nữ đó.

– Cần nêu bật những đặc sắc nghệ thuật trong việc thể hiện nữ tính ở mỗi hình
tượng nhân vật mà mình lựa chọn phân tích.

TÌNH HUỐNG TRUYỆN TRONG LÃO HẠC CỦA NAM CAO

Tình huống truyện là gì?

Tình huống truyện là sự kiện, là hoàn cảnh, tình thế của câu chuyện. Tình huống
này chứa đựng những mâu thuẫn, bất thường, thậm chí là nghịch lý trong cuộc
sống của nhân vật. 
Nhờ tình huống mang những đặc trưng kể trên, người viết có thể tạo nên hoàn
cảnh, tình thế cho nhân vật. Thông qua đó, nhân vật bị buộc đưa ra lựa chọn, thể
hiện tư tưởng, tâm lý, hành động của nhân vật. 

Tác phẩm có nhiều sự kiện. Nhưng không phải sự kiện nào cũng là tình huống
truyện. Chỉ những sự kiện nổi bật nhất, thể hiện rõ những tình huống éo le, hấp dẫn
và lột tả tâm lý, hành động của nhân vật mới được coi là tình huống truyện.

ĐỀ BÀI
Bàn về truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Dựng được một tình huống
đặc sắc là vấn đề sống còn với người viết truyện ngắn”.
1. Giải thích ý kiến: “Dựng được một tình huống đặc sắc là vấn đề sống còn với
người viết truyện ngắn”.
– Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn xây dựng theo
lối “lạ hóa”, là hoàn cảnh có vấn đề mà nhà văn đặt nhân vật vào để nhân vật được
thử thách và bộc lộ tính cách, số phận…
– Vấn đề sống còn: là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cốt tử, quyết định nên sự
thành công của truyện ngắn.
=> Đây là nhận định đúng đắn, sâu sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với một tác phẩm
có giá trị và sức sống lâu dài. Giá trị và sức sống ấy chỉ có được khi tác phẩm có
chất lượng nghệ thuật cao, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng tình huống.
2. Lí giải quan điểm của NMC:
– Tại sao NMC lại cho rằng: “Dựng được một tình huống đặc sắc là vấn đề sống
còn với người viết truyện ngắn”.
Vì:
– Tình huống truyện là sự việc xảy ra trong bối cảnh đặc biệt; tình huống là “thứ
nước rửa ảnh diệu kì” mà nhờ đó nhân vật nổi hình, nổi sắc, tư tưởng và tài năng
của nhà văn được bộc lộ một cách rõ nét; 
– Xây dựng được một tình huống truyện độc đáo là vấn đề sống còn của truyện
ngắn, là chiếc chìa khoá để có thể mở được cánh cửa đi vào khám phá giá trị của
một tác phẩm văn chương. 
– Điều này đòi hỏi nhà văn phải có tài năng khám phá, phát hiện những khía cạnh
nghịch lý của đời sống, có vốn sống, sự trải nghiệm sâu sắc để sáng tạo được
những tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
3. Chứng minh qua  các tác phẩm: (7,5 đ)
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bám sát định hướng của đề,
cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau:
* Truyện ngắn “Lão Hạc” 
a. Giới thiệu tác giả Nam Cao.
– Giới thiệu truyện ngắn LH, nêu ý kiến của MNC.
b. Chứng minh ý kiến:
– Truyện Lão Hạc của Nam Cao đã thực sự thành công khi nhà văn xây dựng được
các tình huống có giá trị:
+ Tình huống 1: Cuộc trò chuyện giữa ông giáo và lão Hạc về chuyện bán con chó
Vàng:
– Phân tích, lí giải giá trị của tình huống (có dẫn chứng cụ thể)
* Gợi ý :
Nam Cao xây dựng một tình huống truyện bình thường (Ai nuôi chó mà chả giết
thịt hay bán đi) nhưng làm nổi bật một nhân cách phi thường   
– Lão Hạc nhà nghèo, vợ chết, con trai bỏ đi; sống tuổi già cô đơn côi cút, bệnh tật,
lay lắt qua ngày…
– Lão nuôi con chó vàng để bầu bạn sớm tối (cho nó ăn trong bát…, tắm cho nó,
trò chuyện, tâm sự, mắng yêu….)
– Nhiều lần lão nói chuyện: Sẽ bán cậu Vàng với ông giáo, vì lão “không nuổi
nổi”, vì “Cả tôi và cậu Vàng ngày ăn hết ba hào gạo …. mà vẫn đói deo đói dắt…”
– Phải dứt ruột bán đi cậu Vàng, lão Hạc đau đớn, khổ tâm, dằn vặt, ân hận, tự
trách móc bản thân: “tôi già bằng ngần này tuổi  còn đi lừa một con chó” …..
– Bán xong cậu Vàng, lão Hạc lấy tiền gửi ông giáo để lo hậu sự cho mình. Từ đó
lão sống vật vờ, qua ngày và rơi vào bế tắc cùng quẫn…
=> Qua đó khái quát được ý: Lão Hạc, một người nông dân hiền lành, nhân hậu,
tốt bụng, có lòng tự trong. Cuộc đời dù gặp nhiều đau khổ, bất hạnh nhưng nhân
cách vẫn cao đẹp, đáng nể phục.
+ Tình huống 2: Lão Hạc xin bả chó và cái chết đầy bất ngờ, dữ dội.
– Phân tích, lí giải giá trị của tình huống (có dẫn chứng cụ thể)
* Gợi ý:
Nam Cao xây dựng một tình huống truyện bất thường (lão Hạc tự đánh bả chính
mình) nhưng làm nổi bật một khát vọng phi thường. (quan niệm sống tự trọng, đói
cho sạch, rách cho thơm ở lão Hạc).
– Lão Hạc nói dối Binh Tư xin bả để đánh bẫy con chó lạ, nhưng thực chất là lão
“đánh bẫy” chính mình. => Chi tiết lão Hạc xin Binh Tư ít bả chó đã khiến câu
chuyện trở nên gay cấn, gợi sự tò mò cho người đọc và sự hiểu nhầm nơi ông giáo.
– Lão Hạc chết một cách bất thường: Vật vã, đau đớn, khổ sở (dẫn chứng) suốt hai
giờ đồng hồ rồi mới nhắm mắt.
– Cái chết dữ dội, tủi nhục nhưng là sự giải thoát cho lão Hạc và có giá trị tố cáo
hiện thực xã hội sâu sắc.
=> Qua đó khái quát được ý: Nhà văn Nam Cao đã đặt  nhân vật vào những hoàn
cảnh éo le nhằm giúp nhân vật tự bộc lộ tính cách bản thân. Cũng như làm nổi bật
chủ đề của tác phẩm: Phản ánh hiện thực xã hội PK đen tối, bất công; Cảm thông
sâu sắc với số phận bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ.
* Liên hệ với truyện ngắn: Chiếc lá cuối cùng
– Nhà văn O Hen-ri đã rất khéo léo khi xây dựng nghệ thuật đảo ngược tình huống
hai lần.
 + Lần đảo ngược thứ nhất: Giôn-xi bị bệnh hiểm nghèo, cô tuyệt vong nằm chờ
cái chết, bỗng khỏe lại, yêu đời và chiến thắng bệnh tật.
+ Lần đảo ngược thứ hai: cụ Bơ-men từ một người khỏe mạnh đến cuối truyện mắc
bệnh và qua đời.
=> Một con người đi từ sự sống đến cái chết, một con người người từ cái chết tìm
lại sự sống.
* HS: Lí giải giá trị của tình huống nêu trên trong việc làm nổi bật nhân vật và chủ
đề tư tưởng của t/p (có dẫn chứng cụ thể, phù hợp)
5. Đánh giá nét sáng tạo riêng trong việc xây dựng tình huống truyện của cả
hai tác giả:
  – Vốn sống, vốn trải nghiệm của mỗi nhà văn:
+ Nam Cao am hiểu sâu sắc cuộc sống và tâm lí người nông dân, chọn được những
tình huống độc đáo góp phần làm nổi bật số phận nhân vật và chủ đề tác phẩm.
+ O Hen-ri cảm thông sâu sắc trước cảnh ngộ éo le của hai cô họa sĩ nghèo, Đặt
nhân vật vào tình huống gay cấn, làm nổi bật cảnh ngộ, tính cách nhân vật và chủ
đề của tác phẩm…
4. Bàn luận, khái quát vấn đề:
Khẳng định giá trị, vẻ đẹp, sức sống của thể loại truyện ngắn.
– Truyện ngắn rất quan trọng tình huống. “Tình huống truyện như một lát cắt trên
thân cây cổ thụ mà qua từng đường vân thớ gỗ, ta có thể thấy được trăm năm của
một đời thảo mộc”.
–  Đối với người sáng tác: Phải có hiểu biết sâu sắc về đặc trưng thể loại, lao động
nghệ thuật sáng tạo, đặc biệt chú trọng cách dựng tình huống truyện độc đáo để tác
phẩm có ý nghĩa và sức sống lâu dài, vượt tầm thời đại.
–  Đối với người đọc: trân trọng giá trị của những tác phẩm truyện ngắn; cảm nhận
về truyện qua phân tích tình huống truyện là một con đường tiếp cận tác phẩm
đúng đắn.

chi tiết là: “Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng”
Chi tiết trong tác phẩm văn học là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang
sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Chi tiết góp phần làm tác phẩm thêm truyền
cảm, lôi cuốn, và thường mang ý nghĩa biểu tượng cao
Thơ mới là gì? Là một cuộc cách mạng giải phóng thơ ca ra khỏi những quy định,
luật lệ cũ đã lỗi thời và thường gắn liền với việc giải phóng cái tôi cá nhân, luôn
đặt cái tôi làm chủ thể trọng tâm của thơ ca
Đặc điểm của phong trào thơ mới
Phong trào thơ mới có các đặc điểm nổi bật sau:

 So với thơ ca trung đại, thơ mới tự do hơn, số câu, số chữ không bị hạn chế,
chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây. Bài thơ được chia thành nhiều khổ,
không bị hạn chế bởi số khổ thơ. Cách thức điệp vần của các thơ mới hay nhất
cũng khá phong phú.
 Thơ mới thể hiện một cuộc cách mạng trong tư duy thơ, luôn đặt cái tôi cá
nhân ở trung tâm. Trong thơ mới, có sự giao thoa hài hòa giữa thế giới nội
tâm của chủ thể trữ tình với ngoại cảnh. Điều này được thể hiện ở hiện
tượng nhân hóa trong thơ mới, giúp cho ngoại cảnh có cảm xúc giống như
con người.
 Thơ mới ghi lại cảm xúc chân thực của cá nhân chủ thể trước cách mạng.
Cảm xúc ám ảnh trong thơ mới chính là cảm giác cô đơn, lạc lõng của con
người. Sự cô đơn cả trong tình yêu và tâm hồn.
 Thơ mới thể hiện tình cảm đối lập giữa tâm hồn và thế giới ngoại cảnh.
Chính vì thế, phong trào thơ mới hình thành 1 khát vọng đó là khát vọng giải
thoát và mong muốn thoát ly thực tại.
 Bên cạnh đó, thơ mới còn thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống, được thể
hiện qua sự khát khao với tình yêu, hạnh phúc và khát vọng lên đường.
 Các bài thơ mang đậm tính dân tộc sâu sắc, thể hiện tấm lòng của con người
Việt Nam trước thời buổi nước mất nhà tan. Có thể nói, tinh thần dân tộc là
động lực giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước, khát khao độc lập – tự
do.

Đặc điểm thơ ca kháng chiến chống Phá


Về nội dung tư tưởng, thơ ca 1945-1954 luôn gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân
thực và sinh động hiện thực kháng chiến hoành tráng. Lần giở những trang thơ, có
thể gặp lại bước đường của lịch sử. Khác với thơ lãng mạn trước đó, thơ ca kháng
chiến phát triển trên nền hiện thực tâm trạng của nhân dân. Từ chỗ thơ Mới chỉ bộc
lộc cái Ðẹp trong từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc giờ đây được mở rộng ;
phạm vi phản ánh cũng bao gồm từ nơi sâu kín tâm hồn người cho tới khoảng rộng
bao la của cả đất nước, dân tộc.

- Các thi sĩ đã đưa được không khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ. Khuynh
hướng sử thi ngày càng nổi rõ. Thơ tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu,
lạc quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng ; những ước mơ, khát
vọng cháy bỏng ; những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc chiến đấu tuy gian khó
nhưng vô cùng anh dũng.

- Cảm hứng thơ chủ yếu hướng ngoại, chú ý nhiều đến tình cảm công dân nên ít
nói tới con người trong đời sống riêng tư. Tình yêu lứa đôi cũng như mọi cung bậc
tình cảm khác đều được cảm nhận thông qua tình đồng chí. Do đó, trong khi mặt
chói sáng của hiện thực được phản ánh sinh động thì chiều sâu đời sống, ở đó có
nỗi buồn mất mát, chia lìa - chất bi tráng - lại chưa được quan tâm đúng mức. Tuy
nhiên, sự phiến diện ở đây là tự giác và cần thiết. Hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi mỗi cá
nhân phải biết hi sinh cái riêng tư, vì vận mệnh đất nước. Thơ ca không thể đứng
ngoài sự hi sinh vĩ đại ấy. Không có gì quí hơn độc lập tự do, các nhà thơ sẽ chẳng
được ngợi ca nếu chỉ chuyên tâm sáng tác nhiều thơ mà để nước mất, dân nô lệ
một lần nữa.
- Nhân vật trữ tình trong thơ kháng chiến nghĩ suy và hành động chủ yếu hướng về
số phận tổ quốc. Các nhà thơ đặc biệt khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự
hào dân tộc, ý thức làm chủ và quyết tâm xả thân (Ðất nước - Nguyễn Ðình Thi ;
Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông ; Bên kia sông Ðuống - Hoàng Cầm ; Ðôi
mắt người Sơn Tây - Quang Dũng).

Tình yêu nước, trước hết, được thể hiện rất đậm nét qua tình cảm đối với những
con người trong kháng chiến. Ðó là những con người vừa bình thường, chân chất
vừa phi thường, chói sáng. Truyền thống cha ông và khí phách của giai cấp vô sản
được kết tinh ở người anh hùng thời đại mới. Tiêu biểu hơn cả là hình ảnh người
Vệ quốc quân. Tầm cao tư tưởng và chiều sâu tâm hồn của hình tượng người Việt
Nam được tập trung làm nổi bật ở hai phương diện : phẩm chất cách mạng tốt đẹp
và tình nghĩa quân dân thắm thiết.

Ðặc biệt, tình yêu nước còn được thể hiện đầy xúc động qua lòng kính yêu Chủ
Tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều bài thơ hay về Bác : Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm
(Tố Hữu) ; Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu) ; Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc
Chấn); Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng
cao đẹp về lãnh tụ, đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh
mông và lối sống giản dị, khiêm tốn.
Nghệ thuật biểu hiện của thơ ca 1945-1954 cũng có những vận động, biến chuyển
mới - trên cơ sở phát huy thành tựu của thời kỳ trước - để tương ứng với nội dung
tư tưởng, tình cảm mới. Dưới ánh sáng của quan niệm nghệ thuật cách mạng, yêu
cầu về tính đại chúng, tính dân tộc được đặc biệt chú trọng.

- Thể thơ ngày càng phong phú. Các thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, cổ
phong) hiện diện bên cạnh những tìm tòi mới mẻ (thơ không vần, phá thể, hợp thể,
tự do). Những thể truyền thống như lục bát, ngũ ngôn được sử dụng phổ biến.

- Hình tượng thơ, cảm hứng thơ không còn màu sắc yêng hùng, lãng mạn của
những năm đầu kháng chiến ; trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về
người anh hùng thời đại mới.

- Ngôn ngữ thơ chuyển dần từ tình trạng hoa mỹ, cầu kỳ, tượng trưng, ước lệ sang
đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng. Lời ăn tiếng nói của quần chúng
hàng ngày được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm mỹ mới mẻ.

Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Không ít tác
phẩm sẽ bất tử với thời gian. Tuy nhiên, xét trên đại thể, vì là thời kỳ mở đầu của
nền văn học mới, nên không thể tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Cảm xúc rất
tinh nhạy, mãnh liệt nhưng đôi khi lại chưa sâu, chưa chín ; thành ra thơ thường có
sức vang xa, ít vọng sâu. Mặt khác, nhiệt tình công dân và cảm xúc nghệ thuật ở
người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng đạt đến độ hài hòa cần thiết.
Kết Luận: Văn học Việt Nam 1945-1954 đã phát triển mạnh mẽ và độc đáo theo
cách riêng, với phẩm chất mới về nội dung và hình thức. Văn học thực sự trở thành
món ăn tinh thần, vừa thể hiện khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng vừa bồi đắp
thêm niềm tin cho quần chúng cách mạng.
Đặc điểm truyện kí vn
 Truyện kí Việt Nam đều là các văn bản thuộc thể loại văn xuôi nghệ thuật hiện đại
phát triển mạnh vào thời kì 1930 -1945. Đây là các văn bản viết bằng chữ quốc
ngữ với cách viết mới mẻ, rất khác so với các truyện kí Trung đại đã học ở lớp 6
( về đề tài, thể loại, nghệ thuật, kiểu chữ viết .) 
* Những đặc điểm giống nhau của ba văn bản trên đều là những đặc điểm chung
nhất của dòng văn xuôi hiện thực nước ta trước cách mạng tháng Tám 1945.
Nội dung
Phản ánh hiện thực xã hội, cuộc sống, số phận và phẩm chất của con người Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám.
Vai trò
Có giá trị tinh thần quan trọng, tạo cơ sở cho sự phát triển của truyện kí hiện đại
Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo.
Truyện kí hiện đại Việt Nam (1930 - 1945)
Nghệ thuật
Đa dạng, phong phú, mới mẻ về thể loại; bút pháp hiện thực sinh động, hấp dẫn,
tinh tế.

You might also like