You are on page 1of 68

Lí luận văn học

Lí luận văn xuôi


1. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca
vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)

2. “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong
sạch và phong phú hơn…” (Theo dòng, Thạch Lam)

3. “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tuỷ.” (Sê-khốp)

4. “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.” (Ban-dắc)

5. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (CharlesDuBos)

6. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.”
(Ai-ma-tốp)

8. “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng
tới chân lí.” (M. Go-rơ-ki)

9. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia
thoát ra từ những kiếp lầm than.” (Trăng sáng, Nam Cao)

10. “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại
chuyên chú ở con người.” (Nguyễn Văn Siêu)

11. “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên trái đất.” (Béc-tôn Brếch)

12. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)

13. “Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.” (Nam Cao)

14. “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra
ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng
có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng,
chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…” (Nguyễn Tuân)

15. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm,
chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng
trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” (Nguyễn Khải)

16. “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.” (Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)

17. “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của
riêng mình.” (Ivan Tuốc-ghê-nhép)

18. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành
nhà văn thực thụ.” (Sê-khốp)

19. “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết
phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà
thơ.” (Raxun Gamzatốp)
20. “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi
mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát
vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-khốp)
21. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)

22. “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức
cuộc sống, lí giải cuộc sống.” (Gioóc-giơ Đuy-a-men)

23. “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu
hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris – Nhà văn Ý)

24. “Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng
bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.”
(L. Tôn-xtôi)

25. “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng,
thương yêu hơn.” (Thạch Lam)

26. “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc
một bài học trông nhìn và thưởng thức.” (Thạch Lam)

27. “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.” (Lê Ngọc Trà)

28. “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người
gần người hơn.” (Nam Cao)

29. “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” (Đời thừa, Nam
Cao)

30. “Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ
bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hoà cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của
các hình tượng, sự giản dị của sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của
nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra…” (M. Go-rơ-ki)

31. “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.” (Selly)

32. “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra.” (An-đéc-xen)

33.“Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội.” (Phạm Văn Đồng)

34. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó
là “tình thương, lòng thương người”. (Lê Trí Viễn)

35. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn
là con người.” (Đặng Thai Mai)

36. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.” (Pautôpxki)

37. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu)

38. “Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Triole)

39. “Văn học là nhân học.” (M. Go-rơ-ki)

40. “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm
cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng.” (M. Go-rơ-ki)

41. “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu)
42. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không
thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn
học)

43. “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Hê-ghen)

44. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã
kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và
ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Ai-ma-tốp)

45. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong
cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)

46. “Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt, nông cạn. Nhà văn không bê
nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi
dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn, sinh động… Thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời
sống xã hội con người… Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu
bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi
thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian…” (Sách Lí luận văn học)

47. “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ
Trọng Phụng)

48. “Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả.” (M. Go-rơ-ki)

49. “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai hết được hưởng sự kính trọng của con người.”
(Einstein)

50. “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi.” (Nguyên Hồng)

51. “Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn.” (Thạch Lam)

52. “Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.” (Pu-skin)

53. “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất…” (Sống mòn, Nam Cao)

54. “Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã
biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với
những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác
phẩm vĩ đại.” (Đặng Thai Mai)

55. “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ
trong phong cách của mình.” (Sách Văn học 12)

56. “Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải, đen hoá trắng và người đàn bà goá phụ trở thành cô dâu
mới.” (Giá trị của đồng tiền trong Truyện Kiều, Sếch-xpia)

57. “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu
của văn học.” (M. Go-rơ-ki)

58. “Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng một ngôn
ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.” (M. Go-rơ-ki)

59. “Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”…” (M. Go-rơ-ki)

60. “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân
hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.” (Biêlinxki)
61. “Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm
sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích trong Nhật kí của Nguyễn Văn Thạc)

62. “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.” (Đô-xtôi-ép-xki)

63. “Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi.” (Albert
Schweitzer)

64. “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.” (Nguyễn Minh Châu)

65. “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác
hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết
lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn
Minh Châu)

66. “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương.” (Bạch Cư Dị)

67. “Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng.
Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể
màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối
cùng là viết về trái tim con người.” (Maxin Malien)

68. “Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người,
đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-khốp)

69. “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con
người.” (Từ điển văn học)

70. “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.” (L. Tôn-xtôi)

71. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn
là con người.” (Đặng Thai Mai)

72. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó
là “tình thương, lòng thương người.” (Lê Trí Viễn)

73. “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người.” (Sê-khốp)

74. “Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người.” (Hoài Chân)

75. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi
ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)

76. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)

77. “Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả
một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả.” (Nguyễn Đình Thi)

78. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (Charles DuBos)

79. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt
đẹp.” (Ai-ma-tốp)

80. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)

81. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà
văn thực thụ.” (Sê-khốp)

82. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)
83. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không
thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn
học)

84. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong
cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)

85. “Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố,
nhưng vẫn nguyên vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận.”
(Nguyễn Tuân)

86. “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật.” (Nguyễn Tuân)

87. “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác
định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.” (Biêlinxki)

88. “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương
con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài
thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng
cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững
được trước cuộc sống.” (Nguyễn Minh Châu)

89. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản
của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện.” (Nguyễn Minh Châu)
90. “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.” (Con tàu trắng, Ai-ma-tốp)

91. “Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sê-đrin, Nga)

92. “Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường đời.” (Xtăng-đan)

93. “Một chữ tình để duy trì thế giới/ Một chữ tài để tô điểm càn khôn.” (Trương Trào, Trung Quốc)

94. “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu
Hiệp)

95. “Văn học là phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật, hay thành
ông Thánh vô duyên, vô bổ. Văn học là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của văn học là
tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)

96. “Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả… nếu nó khôg là tiếng thét khổ đau hay là lời ca tụng hân hoan;
nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy.” (Biêlinxki)

97. “Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.” (Gớt)

98. “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.” (Pau-tốp-xki)

99. “Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ
thuật đích thực.” (Lép-Tôn-xtôi)

100. “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” (Hồ Chí Minh)

Lí luận thơ ca:


1. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó
lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki)
2. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt.

3. Mỗi giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên)

4. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi.

5. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)

6. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi. (Puskin)

7. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu

8. Người giai nhân: bến đợi dưới cây già . Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
(Xuân Diệu)

10. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu.

11. Thi ca là một tôn giáo không kì vọng.

12. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire)

13. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng)

14. Thơ là thần hứng. (Platon)

15. Thơ là ngọn lửa thần. (Đecgiavin)

16. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình. (C. Mac)

17. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki)

18. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có
nhụy. (Phạm Văn Đồng)

19. Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

20. Còn một nửa để mùa thu làm lấy

21. Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá

22. Nó không là anh nhưng nó là mùa. (Chế Lan Viên)

23. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết
phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà
thơ.
(Raxun Gamzatop)

24. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)

25. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ. (Maiacopxki)

26. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)

27. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể 28. Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu.
(Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)

29. Hình thức cũng là vũ khí.


30. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)

31. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa

32. Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi. (Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)

33. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao.

34. Không thể nằm yên mà ngủ được nào. (Chế Lan Viên)

35. “Ta là ai?” Như ngọn gió siêu hình 36. Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.

37. “Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bất.

38. Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. (Chế Lan Viên)

39. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (B. Shelly)

40. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy
trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị. (Nguyễn Cư Trinh)

41. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci)

42. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)

43. Thơ là rượu của thế gian. (Huy Trực)

44. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)

45. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ. (Maiacopxki)

46. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng.
(Bêlinxki)

47. Thơ là chuyện đồng điệu. (Tố Hữu)

48. Thơ là tiếng gọi đàn. (Xuân Diệu)

49. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

50. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. (Raxun Gamzatôp) 51. Thơ ca là tiếng hát
của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là
nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại… (LLVH)

52. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba
tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật. (P. Povienko)

53. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương. (Pauxtopxki)

54. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu)

55. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu)

56. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô)

57. Thơ ca phải say mới thích. (Tố Hữu)


58. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó
đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (Hoài Thanh)

59. Thơ chính là tâm hồn. (M. Gorki)

60. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng.
(Sóng Hồng)

61. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp)

62. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay)

63. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng
Khoa)

64. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

65. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình. (Tố
Hữu)

66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn (Platông)

67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu)

68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng)

69. Câu thơ hay là câu thơ có kahr năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người. (Chu Văn Sơn)

70. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ.

71. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có.
(Tô Hoài)

72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu)

73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy
quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống.

74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình cảm đa dạng và phong phú của con người: niềm vui, nỗi
buồn, sự cô đơn, tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm
bâng khuâng khó tả, một sự run rẩy thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ… Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm của con người chỉ
có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng dậy đi
tới.

75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ.
(Eptusencô)

76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong. (R.Tagore)

77. Thơ phát khởi trong lòng người ta. (Lê Quý Đôn)

78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần. (Ngô Thì Nhậm)

79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói
cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công
chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo không trở thành anh hùng chủ nghĩa. (Xuân Diệu)
80. “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh,
chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. (Bạch Cư Dị)

81. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó
lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki)

82. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt
Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên)

83. Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ. (Hans Sachs)

84. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)

85. Sau dòng thơ cuối, chẳng có gì theo sau ngoại trừ phê bình văn học. (Joseph Brodsky)

86. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi. (Puskin)

87. Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vẫn thơ . (Jorge Luis Borges)

88. Người giai nhân: bến đợi dưới cây già. Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt. (Xuân Diệu)

89. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng (Lawrence Ferlinghetti)

90. Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người . (William Wordsworth)

91 Thi ca là một tôn giáo không kì vọng. (Jean Cocteau)

92. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire)

93. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng)

94. Thơ là thần hứng. (Platon)

95. Thơ là ngọn lửa thần. (Đecgiavin)

96. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình. (C. Mac)

97. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki)

98. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có
nhụy. (Phạm Văn Đồng)

99. “Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi


Còn một nửa cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa” (Chế Lan Viên)

100. Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài;
thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc. (Denise Levertov)

101. Hội họa phải đạt được sự thấu hiểu qua tự thân nó, không cần tới giải thích, và thi ca cũng vậy. Nếu một bài thơ hay một bức họa
cần phải được giải thích thì đó là thất bại trong giao tiếp. (Lawrence Ferlinghetti)

102. Người nghệ sĩ không có thời gian để nghe các nhà phê bình. Người muốn trở thành nhà văn đọc phê bình, người muốn viết không có
thời gian để đọc phê bình. (William Faulkner)
103. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết
phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà
thơ. (Raxun Gamzatop)

104. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)

105. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ. (Maiacopxki)

106. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)

107. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể


Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu. (Chế Lan Viên)

108. Hình thức cũng là vũ khí. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Chế Lan Viên)

109. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi. (Chế Lan Viên)

110. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao


Không thể nằm yên mà ngủ được nào. (Chế Lan Viên)

111. “Ta là ai?” Như ngọn gió siêu hình


Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
“Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bất
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. (Chế Lan Viên)

112. Không có may mắn trong sáng tác. Không có chỗ cho những trò lừa gạt. Điều tốt nhất anh có thể viết là con người tốt nhất của anh.
(Henry David Thoreau)

113. Một tác phẩm cổ điển là một cuốn sách chẳng bao giờ kết thúc điều nó cần phải nói. (Italo Calvino)

114. Làm thơ, tuy quý cổ kính đạm bạc, nhưng phong phú rực rỡ không thể không có, cũng ví như tùng bách có thêm đào lý, có vải lụa
còn thêm gấm vóc. (Tạ Trăn)

115. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (B. Shelly)

116. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau. Người làm thơ không ngoài lấy
trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị. (Nguyễn Cư Trinh)

117. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci)

118. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)

119. Thơ là rượu của thế gian. (Huy Trực)

120. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)

121. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ. (Maiacopxki)

122. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng. (Bêlinxki)

123. Thơ là chuyện đồng điệu. (Tố Hữu)

124. Thơ là tiếng gọi đàn. (Xuân Diệu)

125. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

126. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. (Raxun Gamzatôp)
127. Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca
chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc
hại. (LLVH)

128. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba
tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật . (P. Povienko)

129. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương. (Pauxtopxki)

130. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu)

131. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu)

132. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô)

133. Thơ ca phải say mới thích. (Tố Hữu)

134. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó
đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế (Hoài Thanh)

135. Thơ chính là tâm hồn. (M. Gorki)

136. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng)

137. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp)

138. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay)

139. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng
Khoa)

140. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

141. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình. (Tố
Hữu)

66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn. (Platông)

67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu)

68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng)

69. Câu thơ hay là câu thơ có kahr năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người. (Chu Văn Sơn)

70. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm
được do phong cách riêng của mình mà có. (Tô Hoài)

71. Người xưa trong ý có giấu những điều không thể nói ra, mới mượn vần thơ để truyền đi những điều mình muốn nói. Nếu trong lòng
không cảm xúc mà chỉ vẽ vời lòe loẹt thì làm sao mà có thể có những vần thơ tuyệt diệu. (Thẩm Đức Tiềm)

72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu)

73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người hãy
quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống.

74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình cảm đa dạng và phong phú của con người: niềm vui, nỗi
buồn, sự cô đơn, tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm
bâng khuâng khó tả, một sự run rẩy thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ. Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm của con người chỉ có
thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng dậy đi
tới.

75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ. (Eptusencô)

76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong. (R.Tagore)

77. Thơ phát khởi trong lòng người ta. (Lê Quý Đôn)

78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần. (Ngô Thì Nhậm)

79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói
cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công
chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa. (Xuân Diệu)

 VăN HọC VÀ HIệN THựC CUộC SốNG


1. Đi ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
Cơn nắng, cơn mưa làm điều suy nghĩ
Một tiếng chim gù cũng đến nơi rừng lạ để mà nghe.
(Chế Lan Viên)

2. Tác phẩm nghệ thuật là một hình ảnh thực tại, nhưng đó là hình ảnh có linh hồn mà chính cái linh hồn này mới làm cho tác phẩm sống.
Nghĩa là dù trải qua thời gian vẫn gây được xúc động trong lòng người.
(Nguyễn Đình Thi)

3. Nghệ thuật mà không gắn với đời sống thì nó chỉ là một bông hoa ác mà thôi”
(Nguyễn Huy Tưởng)

4. Tác phẩm văn học là sự cưới xin giữa ngoại vật và nội tâm nhân vật”
(Xuân Diệu)

5. Mỗi bài thơ mà hôm nay tôi trao vào tay bạn đọc thân mến là nảy sinh cùng với mầm mống trên cái cây xao động của cuộc đời đang nở
hoa. Coi thường quyển sách này sẽ là tàn nhẫn bởi vì nó gắn liền khăng khít với bản thân cuộc đời tôi.
( Lorca)

6. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học
(Tố Hữu)

7. Văn chương sinh ra trong cuộc sống và vỗ về cuộc sống


(Ki Ju Lee)

8. Chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có trường đời vô thường định mới dạy cho người ta biết được những câu đẹp đẽ
( Nguyễn Tuân )

9. Người dệt thảm mặc áo rách và cuộc đời xám xít


Ấy thế nhưng cái nghề dệt mà, ta cứ dệt thảm hoa
Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít
Thơ không phản ánh đời mình nhưng nó cũng dệt những mùa hoa.
(“Dệt thảm” – Chế Lan Viên)

10. Nếu không chia sẻ với nhân dân trong lửa đạn thì lấy vốn trung thực ở đâu cho tâm hồn mà cầm bút
(Xuân Diệu )
11. Đãi khe suối, đãi dòng sông
Mồ hôi đãi vàng bốc hơi trên cát
Tôi đãi lại dọc triền cát bạc
Tìm ánh vàng trong muối mặn mồ hôi”
(“Đãi cát tìm vàng” – Nguyễn Duy)

12. Người làm xiếc đi dây rất khó


Nhưng chưa khó bằng làm làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật
(Phùng Quán)

13.Tôi không tin vào sự tưởng tượng của tôi được. Tôi cho là dù tài hoa đến mấy thì cái chính người viết văn vẫn phải là chất sống

(Bùi Hiển)
14. Đừng bao giờ lười biếng nằm ỳ ra trên một cách viết như một sự tự khuôn mình và cũng đừng bao giờ để cho văn chương trở nên xa
lạ với đời sống của dân tộc mình

(Nguyễn Công Hoan)


15. Gieo vần như thể tay gieo hạt
Nhịp sống làm nên những nhịp thơ(Huy Cận)

16. Sự thực trên từng dòng, từng trang thấy cả cuộc đời của người cầm bút từ khi còn tấm bé đều được huy động. Toàn bộ cuộc đời anh
đều có in dấu trên trang sách.(Nguyễn Minh Châu)

17. Tác giả tôi không sống trên ngọn hải đăng tỏa ánh trong sạch phát hiện cái dơ bẩn ở quanh mình, để rồi khi sáng ngời lên vì trong
sạch anh ta lên tiếng mắng chửi cái dơ bẩn ấy. Tác giả tôi sống trên đất đã làm nên anh ta, đau nỗi đau của đất đã làm nên anh ta.
(Henrich Boll)

18. Đi ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
Cơn nắng, cơn mưa làm điều suy nghĩ
Một tiếng chim gù cũng đến nơi rừng lạ để mà nghe. (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…)

19. Tác phẩm nghệ thuật là một hình ảnh thực tại, nhưng đó là hình ảnh có linh hồn mà chính cái linh hồn này mới làm cho tác phẩm
sống. Nghĩa là dù trải qua thời gian vẫn gây được xúc động trong lòng người. (Nguyễn Đình Thi)

20. Mỗi bài thơ mà hôm nay tôi trao vào tay bạn đọc thân mến là nảy sinh cùng với mầm mống trên cái cây xao động của cuộc đời đang
nở hoa. Coi thường quyển sách này sẽ là tàn nhẫn bởi vì nó gắn liền khăng khít với bản thân cuộc đời tôi. (Lorca)

21. Chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có trường đời vô thường định mới dạy cho người ta biết được những câu đẹp đẽ. (Nguyễn Tuân)

22. Nếu không chia sẻ với nhân dân trong lửa đạn thì lấy vốn trung thực ở đâu cho tâm hồn mà cầm bút. (Xuân Diệu)

23. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt nhưng trước hết con hãy lắng
nghe nỗi buồn của con người.(Nadim – Hichmet)

24. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân
hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Belinxki)

25. Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ ngoài kia
thoát ra từ những kiếp lầm than (Nam Cao)

26. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Tố Hữu)

27. Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra ra. (Andecxen)

28. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học. (Tố Hữu)
29. Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách thời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên
si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của quá trình nuôi dưỡng cảm hứng
thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh động, thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người.
Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thật sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi chính sức sống lâu bền bởi ý nghĩa điển
hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp 1 giai cấp một thời đại thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại có ý nghĩa nhân loại
vĩnh cửu sống mãi với thời gian. (Sóng Hồng)

30. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời. (Vũ Trọng
Phụng)

31. Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy là cuộc sống – trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã
biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những
nỗi lo âu bực bội tuổi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở cái sức sống của những tác phẩm vĩ
đại. (Đặng Thai Mai)

32. Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. (Tố Hữu)

33.Bản chất của thơ là thơ ngây, là bất thường, là xuất kỳ bất ý, là tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả
đời người, của nhiều đời người. Những tập thơ có giá trị thực sự, chúng có thể là “Kinh thánh của tâm hồn”. (Thanh Thảo)

34.Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ. (Maiacopxki)

35. Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người
gần người hơn. (Nam Cao)

36. Nhạc là cỗ xe chở hồn thi phẩm.


-Hoàng Cầm-

37.Nếu tình huống truyện tạo ra bước ngoặt của tác phẩm thì chi tiết nghệ thuật lại là cái bánh lái bẻ nên đường cua tuyệt diệu ấy.
-Leonit Leonop-

38.Nhân vật là bản sao của đời sống nhưng không phải là bê nguyên xi trần trụi vào tác phẩm mà đã được nhà văn gọt giũa bằng lớp lớp
ngôn từ nên khi vào tác phẩm nhân vật đã trở thành hình tượng nghệ thuật.
-Leonit Leonop-

39.Muốn hiểu được thơ thì phải bóc lớp vỏ ngôn ngữ ấy ra, hãy tận hưởng mùi hương vani hay mùi xạ hương trong tầng sâu của nó.
-Puskin-

40.Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên
chú ở con người.
-Nguyễn Văn Siêu-

41.Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ.
-Tố Hữu-

42.Nhà văn phải là những người đi tìm, gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu sâu trong tâm hồn của con người.
-Nguyễn Minh Châu-

43.Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương.
-Bạch Cư Dị-

44.Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể dựng hay san bằng. Nhưng
những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể thấy màu
sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là
viết về trái tim con người.
-Maxin Malien-

45.Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người.
-Từ điển Văn học-
46.Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.
-Charle Dubos-

47.Nhà văn phải biết: “khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ cái tốt đẹp.”
-Ai ma tốp-

48.Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là của những tâm hồn cao cả, đa cảm.
-Voltaire-

49.Nhà văn phải: “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy mọi vang động của đời.”
-Nam Cao-

50.Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật.


-Bielinxki-

51.Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư
tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của con
người là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.
-Nguyễn Khải-

52.Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị.
-Lê Hữu Trác-

53.Làm thơ có ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngoài gây
thành ý, rồi dùng điển tích để nói việc ngày nay, chép việc xưa hay thuật chuyện hiện tại, đều tự nhiên có tinh thần.
-Lê Quý Đôn-

54.Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lương hiu hắt thì phần nhiều sa vào buồn bã. Chỉ có
thuần hậu, giản dị, thẳng thắng, không giả dối, không xảo trá, không buồn bã mà rốt cuộc chú trọng đến sự ngăn chặn điều xấu, bảo tồn
điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ.
-Ngô Thì Nhậm-

55.Một bài thơ không thể tồn tại nếu không có khoảng trắng.
-Paul Claudel-

56.Thơ là hành động, Thơ là đam mê, Thơ là sức mạnh và sự đổi mới luôn luôn không biết đâu là giới hạn.
-Cái Hiện Tồn-

57.Thơ là thể loại văn học có độ hàm súc cao, là sự dồn nén cảm xúc đến mức “cô đúc” để rồi phát nổ bằng một hình thức ngôn từ “tổng
hợp kết tinh” có vần hoặc có điệu. Thơ phản ánh hiện thực cuộc sống mà hiện thực ấy “đã được ủ thành men và bốc lên đắm say” đến
mức si mê trong tâm hồn thi sĩ.
-Chế Lan Viên-

58.Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.
-Aimatop-

59.Nhà văn có lẽ nên chết đi sau khi hoàn thành văn bản để tác phẩm có thể tự do sống cuộc đời của nó.
-Umberto Eco-

60.Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có.
-Nam Cao-

61.Làm người thì quý thẳng nhưng làm thơ thì quý cong. Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ nhất định phải có cái tôi.
-Viên Mai-

62.Thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đống tài liệu thực
tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la.
-Nguyễn Tuân-
63.Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy
phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu
của những con người.
-Xuân Diệu-

64.Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm
sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.
-Nguyễn Văn Thạc-

65.Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn. Đó là cú đại địa chấn được dồn ứ từ những biến cố, những kỷ niệm, có khi là từ một
nỗi nhớ quặn lòng.
-Puskin-

66.Dùng chữ như đánh cờ tướng,chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó.Văn phải linh hoạt.Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ
thấp khớp.
-Nguyễn Tuân-

67.Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và
chia sẻ.
-Dostoevski-

68.Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêumà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi.
-Albert Schweitzer-

69,Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.


-Pauxopxki –

70.Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông quèquặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng
nghe nỗi buồn của conngười.
-Nadimetlicmet-

71.Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân
hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.
-Bêlinxki-

72.Văn học là nhân học.


-M.Gorki-

73.Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.
-Pon valeri-

74Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy.
-Sê khốp-

75.Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang.
-Chế Lan Viên-

76.Văn chương trướng hết là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật.
-Nguyễn Tuân-

77.Tất cả trong con người! Tất cả vì con người! Con người! Tiếng ấy thật kì diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao!
-M.Gorki-

78.Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm cui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp.
-Pautopxki-

79.Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.
-Nam Cao-
80.Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng
tới chân lí.
-M.Gorki-

81.Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.
-Nam Cao-

82.Thi sĩ không phải là Người, nó là Người mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ.
-Chế Lan Viên-

83.Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát
ra từ những kiếp lầm than.
-Nam Cao-

84.Một nhà văn thiên tài là người cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.
-Thạch Lam-

85.Nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì đó cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội
ác, một tên giết người nhưng cách mình nhưng cách người.
-Nguyễn Đình Thi-

86.Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra.
-Andecxen-

87.Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẹ nhất của con người.
-Paxun- Gamzatop-

88.Văn học và nghệ thuật có thể làm nên điều kì diệu: chế ngự được cái đặc tính riêng biệt tai hại của con người là chỉ học trên kinh
nghiệm của chính bản thân mình… Chứa đầy quãng thời gian cõi đời ngắn ngủi của con người, nghệ thuật mang chuyển từ người này
sang người khác toàn bộ gánh nặng kinh nghiệm sống trải lâu dài của người khác với tất cả những lo toan, sắc màu, máu thịt – và cho
phép người tiếp nhận cảm nhận được như kinh nghiệm của chính mình đã trải qua.
-Alekxandr Solzhenitsyn Nobel 1970-

89.Tôi viết, để làm gì? Người ta gọi tôi là nhà văn về tai ương, điều nầy không đúng, tôi luôn mưu tìm ngôn từ yêu thương. Oán hờn
không cứu vãng chúng ta. Chỉ có tình yêu. Tôi hy vọng …
-Svetlana Alexievich Nobel 2015-

90.Tôi biết thế nào là dũng cảm thật sự, cũng hiểu được buồn thương là gì. Tôi hiểu trong cõi lòng mỗi người đều có một vùng mờ ảo ;
cái vùng ấy khó có thể diễn tả thỏa đáng bằng một từ ngữ đơn giản nó là phải hay trái, thiện hay ác. Đó chính là vùng trời đất bao la mà
nhà văn có thể thi thố tài hoa của mình.
-Mạc Ngôn Nobel 2012-

91.Chuyện của mình bao giờ cũng hữu hạn ; kể hết chuyện mình thì tất phải kể chuyện người khác. Thế là chuyện những người thân của
tôi, chuyện những người làng và những chuyện của tổ tiên tôi nghe được từ các ông bà già đã từ ký ức sâu thẳm của tôi ùa ra như những
người lính nghe thấy tiếng kèn tập hợp. Họ nhìn tôi bằng ánh mắt chờ đợi, mong mỏi tôi viết về họ. Ông tôi, bà tôi, cha tôi, mẹ tôi, các
ông anh bà chị, cô tôi, chú tôi, vợ và con gái tôi đều đã xuất hiện trong tác phẩm của tôi.
-Mạc Ngôn Nobel 2012-

92.Tôi xin nhắc lại, con người là một sinh vật thẩm mỹ trước khi mang tính đạo đức. Bởi vậy, nghệ thuật đặc biệt là văn chương không
phải là một thứ phụ gia cho sự phát triển nòi giống mà hoàn toàn ngược lại. Nếu như cái gì đó làm chúng ta khác biệt với các đại diện
khác của thế giới động vật, thì đó chính là lời nói. Văn học và đặc biệt là thơ ca là hình thức cao nhất của ngôn ngữ, hay nói một cách thô
thiển, nó là đặc trưng cho giống người chúng ta.
-Joseph Brodsky Nobel 1987-

93.Cá nhân tôi không thể sống thiếu cái nghệ thuật do mình làm ra. Nhưng tôi chưa bao giờ đặt nó lên trên tất cả mọi điều. Trái lại, sở dĩ
nó cần thiết cho tôi, là bởi vì nghệ thuật đó không tách rời khỏi bất kì ai, và nó giúp tôi sống tự nhiên thế này ngang bằng với tất cả mọi
người. Tôi không thấy việc sáng tạo nghệ thuật như là một thú vui trong cô đơn. Nó là một phương tiện làm mủi lòng tuyệt đại đa số con
người bằng cách trao cho họ một hình ảnh thiên vị nói lên những niềm vui và những nỗi đau người.
-Albert Camus Nobel 1957-
94.Bí mật của nhà văn không phải là cảm hứng – bởi ai mà biết được cảm hứng từ đâu đến – mà là sự bướng bỉnh, sự nhẫn nại của nhà
văn. Đối với tôi, câu tục ngữ Thổ Nhĩ Kỳ đáng yêu – đào giếng bằng cây kim – dường như chính là để nói về nhà văn.
-Orhan Pamuk Nobel 2016-

95.Cách phát ngôn tốt nhất của một nhà văn là sáng tác. Những gì tôi cần nói đều được viết vào trong tác phẩm của mình. Lời nói gió
bay, còn câu chữ viết ra thì mãi mãi không phai mờ. Tôi mong rằng quý vị sẽ có thể chịu khó đọc sách của tôi. Dĩ nhiên tôi không có tư
cách buộc các vị phải làm việc ấy. Và dù rằng mọi người đã đọc, tôi cũng không hy vọng quý vị có thể thay đổi được cách nhìn nhận về
tôi. Trên thế gian này chưa hề có nhà văn nào được tất cả bạn đọc đều yêu thích. Trong thời đại như ngày nay lại càng như vậy.
-Bob Dyland Nobel 2016-

96.Với nước tôi, nỗ lực tìm kiếm hiện thân cho mình, chọn các nhà thơ và lấy nhà thơ làm người phát ngôn của mình, việc đó dường như
chính là tinh thần dân tộc của chúng tôi. Các nhà thơ, các nhà trữ tình chính là người định hình ý thức dân tộc của chúng tôi, nói lên khát
vọng dân tộc của chúng tôi trong những thời đại đã qua và vẫn đang tiếp tục định hình ý thức đó cho mãi đến ngày nay. Dân tộc tôi đã
quen hiểu mọi sự thông qua cách trình bày của các nhà thơ.
-Jaroslav Seifert Nobel 1984-

Trích dẫn văn học


1.Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực, trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. (Lỗ
Tấn – Cố hương)

2.Đau đớn thay những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất. (Sống mòn – Nam Cao)

3.Tôi tin bản thân của nỗi đau. Có bước đi trong bóng tối. Lý do để tôi chờ đợi. Là sự kiếm tìm. Một thứ ánh sáng riêng. (Hy vọng – Đỗ
Trọng Khải)

4.Chỉ biết rằng hạnh phúc không tự nhiên mà đến, phải tranh đấu, đánh đổi, thậm chí là hy sinh mới có thể được chạm tay vào hạnh phúc
mà thôi. (Lời thì thầm của những bông hoa hồng)

5.Câu kinh điển: Ngày mai là một ngày mới – Scarlet O’hara. (Cuốn theo chiều gió)

6. “Trên đời này không có hạnh phúc mà cũng chẳng có bất hạnh, chỉ là sự chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác.Chỉ có
những người nào đã trải qua cảnh khổ cực mới hưởng thụ được cảnh sung sướng. Chỉ có kẻ nào sắp chết mới biết cuộc sống là thiên
đường”. (Bá tước M… – A.D)

7. “Một sự bịa đặt, tuy nhiên lại từng đánh lừa bao đời tất thảy các đàn bà, bởi vì tất thảy dưới lớp sơn hào nhoáng khác nhau của nền
giáo dục, thị hiếu đương thời và dáng điệu, đều giấu một bản chất đồng nhất về cái kiểu khờ khạo, đa cảm” (Những kẻ văn minh-Claude
Fariere)

8. “Khi ông nhìn trời, ban đêm, bởi vì ở một trong những ngôi sao đó có tôi ở, bởi vì tôi cười trên một trong những ngôi sao đó, cho nên
đối với ông tưởng chừng như tất cả các ngôi sao đều cười.” (Hoàng tử bé)

9. “Trong một vũ trụ hàm hồ, loại xác tín như thế này chỉ đến với em một lần, không bao giờ có lại, cho dù ta có trải qua bao nhiêu cuộc
đời đi nữa”. (Những cây cầu quận Madison)

10. “Lạy Chúa trên thiên đường, vạn sự trên đời vẫn ổn!” – Anne

11. “ Xung quanh tôi thấy nhiều người thông minh, nhưng trong bọn họ ít có người cao thượng, mà có chăng nữa thì cũng đều rã rời, đau
ốm về tâm hồn.Và không biết tại sao bao giờ tôi cũng quan sát thấy thế; người nào càng tốt, tâm hồn càng trong sạch và trung tín thì
người ấy lại càng ít nghị lực, càng bệnh tật và càng khổ sở trong cuộc sống. Cô đơn và buồn tủi là số kiếp của những người như thế.
Nhưng dù họ có nhiều khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn họ vẫn không có sức xây dựng cuộc sống đó. Phải chăng họ rã rời
và thảm hại như thế chính là vì họ không được cứu giúp kịp thời bằng một lời có sức khích lệ tâm hồn?”

12. “Sau này em sẽ hiểu, ở nơi nào đó trên thế giới này có cô ấy xuất hiện, những người khác chỉ là tạm bợ. Anh không muốn tạm bợ.”
(Những cây cầu quận Madison)

13. “Khi còn son trẻ chúng mình cũng đã từng lạc bước, nhưng vẫn ổn. Ngược xuôi ngang dọc, thì ra anh vẫn ở đây…” (Hóa ra anh vẫn ở
đây – Tân Di Ổ)
14. “Những kẻ tinh ranh lõi đời, từ thời thơ ấu họ đã được tiếng là ngay thẳng, vẻ mặt họ luôn luôn biểu lộ tính cương trực. Mới quen
nhau họ đã tức thì cậu cậu tớ tớ với bạn và hình như hiến bạn tất cả tình bằng hữu của họ, nhưng thường thì ngay chiều hôm ấy, giữa bữa
tiệc chén chú chén anh họ đã túm lấy cổ bạn mà vật, họ đa ngôn, phóng đãng, tự đắc, nổi bật giữa mọi người.” (Gogol)

15. “Thông cảm nỗi đau khổ của người khác- rất tốt, song có 2 loại đồng cảm. Một, nhỏ nhen, ủy mị. Về bản chất nó chẳng khác gì sự ích
kỉ của trái tim, càng nhanh càng tốt thoát ra khỏi trạng thái nặng nề trước bất hạnh của người khác. Đây không thể gọi là đồng cảm mà chỉ
là một mong muốn bản năng rào chắn sự bình yên của bản thân.

Song, còn có một trạng thái đồng cảm khác- chân chính. Nó đòi hỏi hành động chứ không phải những tình cảm ủy mị. Nó biết muốn gì,
dằn vặt, đồng cảm với lòng quyết tâm sẵn sàng làm tất cả trong khả năng con người cho phép, thậm chí còn hơn thế nữa. Nếu như ngài
sẵn sàng đi đến tận cùng, lắng xuống đến tận đáy cay đắng, nếu như ngài được trang bị bởi một lòng nhẫn nại vĩ đại, khi đó ngài mới biết
cách giúp đỡ mọi người. Chỉ khi nào ngài dám xả thân mình…” (Trái tim nôn nóng- S.Zweig)

16. “Chỉ những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay”. (Chuyện Con Mèo Dạy Hải Âu Bay – Luis Sepúlveda)

17. “Nỗi nhớ chỉ là sự trở lại của một khoảnh khắc. Không hề có một năm tháng nào ở giữa khoảnh khắc ấy và hiện tại. Nó là hiện tại.”
(Và khi tro bụi – Đoàn Minh Phượng)

18. “Cuộc đời dài lắm, để đi hết được cuộc đời, con người phải trải qua biết bao những khoảnh khắc tỉnh táo và cả si mê…

19. “Cuộc đời dài lắm, nhưng cuộc đời cũng chạy vòng quanh. Chỉ có tình yêu là rơi thẳng, rơi tới đáy…” (Cuộc đời dài lắm – Chu Lai)

20. “Thế giới quá rộng lớn. Những con người bé nhỏ cứ đi mãi, đi mãi trên khắp các con đường. Thế rồi tình cờ, hai trong số họ gặp
nhau. Nói với nhau vài câu rồi rời đi, giúp đỡ nhau tí chút để trở thành bạn bè. Hay nhiều rung động, yêu thương không tính toan, trao gửi
hết tất cả bí mật mới khó khăn và thiêng liêng làm sao.” (“Dạt vòm”- Phan Hồn Nhiên)

21. “Hãy cố gắng bằng mọi cách khi còn có thể nhưng khi không còn cách nào nữa thì hãy quên đi”. (Khải hoàn môn – Rơmac)

22. “Tao thất bại, nhưng tao đã thử. Tụi bay hiểu chứ, ít nhất TAO CŨNG ĐÃ THỬ, không phải sao?” .(Bay trên tổ chim Cúc cu – Ken
Kesey)

23. “Tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác, nó nặng đến nỗi một người không mang nổi. Người ta buồn nhât, cô đơn nhất là khi
ngủ dậy. Và khi ngoài trời đang nắng ráo mà không biết phải đi đâu, về đâu.” (Quy luật muôn đời)

24. “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại
mình kia, sao mình lại thấy cô đơn đến rã rời…
Lúc ấy, tôi có một cảm giác kì lạ, chỉ mình trên đời nầy, chỉ một mình… Chẳng ai là tri âm, chẳng ai cả…” (Biển người mênh mông –
Nguyễn Ngọc Tư)

25. “Làm con người – điều đó có nghĩa là anh phải chịu trách nhiệm về tất cả. Phải biết xấu hổ về hoàn cảnh nghèo, bần cùng, mặc dầu
nó tồn tại không phải do lỗi của anh. Phải biết tự hào về thắng lợi mà các bạn hữu của anh dành được. VÀ PHẢI BIẾT RẰNG KHI ĐẶT
1 VIÊN ĐÁ, ANH ĐÃ GIÚP VÀO VIỆC XÂY DỰNG CẢ 1 THẾ GIỚI.” (Hành tinh của con người – Xanh Ekzuypery)

26. “Trong mọi sinh vật, không gì sống lâu bằng con người. Hãy xem con phù du đón đợi chiều tà, con ve sầu mùa hạ chưa biết đến xuân
thu . Dù ta chỉ sống em ả trong vòng 1 năm thôi, cũng là lâu dài và hạnh phúc vô song rồi. Thế nhưng đối với mọi người không bao giờ
biét nhàm chán thế gian thì 1 ngàn năm trôi qua cũng cầm bằng giấc mơ của một đêm thôi. 1 ẩn sĩ, tôi không biết là ai, từng nói rằng
chẳng có gì ràng buộc ông với thế gian này, và điều độc nhất mà ông hối tiếc phải giã từ chính là bầu trời xanh thế kia. Cho dù gió không
hề thổi, bông hoa của trái tim người cứ đổi thay. Giờ đây nhìn lại những tháng năm thân tình, ta cảm thấy rằng bạn hữa mà lời lẽ ta còn
nhớ rõ , đã trở nên xa vắng và sống trong 1 thế giới khác. Tất cả chuyện đó còn buồn hơn là tử biệt.”. (Trầm tư trên cỏ – Kenko)

27. “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh là kẻ biết giúp đỡ người khác trên đôi vai của
chính mình” (Đời thừa – Nam Cao)

28. “Sự đời là thế, cái gì bàn càng lắm thì càng nát, càng xa rời chân lí.” (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng)

29. “Tình yêu vĩ đại nhất cũng có thể lụi tàn.” (Cuốn theo chiều gió -Margaret Mitchell)

30. “Một số nhà văn tin rằng kể cốt truyện ra trước khi viết sẽ làm nó cũ xì đi. Họ sẽ thấy nó mệt mỏi, nhàm chán trước khi kịp viết ra
giấy.” (Bản năng gốc – Richard Osborne)
31. “Một lá thư không chỉ được truyền đạt bằng các con chữ. Một lá thư, giống như một cuốn sách, có thể đọc được bằng cách ngửi, sờ
mó, vuốt ve. Vì thế người thông minh sẽ nói, “Vậy tiếp tục đi, đọc coi thư nói gì với bạn!” trong khi kẻ chậm hiểu sẽ nói, “Vậy tiếp đi,
đọc coi hắn viết gì trong đó!” (Tên tôi là Đỏ – Orhan Pamuk)

32. “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí…” – Pavel
Corsaghin. (Thép đã tôi thế đấy – Nikolai Alexeevich Ostrovsky)

33. “Tôi thích được cộng tác với những người đã tạo ra những tác phẩm mình yêu thích, nhưng đôi khi tôi cảm thấy rất lạ, như thể mình
và họ đang nhìn thấu tâm can nhau, nhắc nhau về một lời hứa. Ước hẹn thuở xa xưa.” (Xoắn Ốc – Banana Yoshimoto)

34. “Sao lại không nhỉ? – Tôi trả lời. Tạm quên đi nỗi buồn mãi tiếp diễn chừng nào ta còn đang sống, quên đi rằng nó sẽ chẳng bao giờ
chấm dứt…”. (Máu và nước – Banana Yoshimoto)

35. “Có ngày nào lại không phải là một giấc mơ.” (Búp bê Bắc Kinh – Xuân Thụ)

36. “Tôi mơ. Đôi khi tôi nghĩ đó là điều đúng duy nhất cần làm. Mơ tức là sống trong thế giới của những giấc mơ, Sumire đã nói vậy.
Nhưng việc đó không kéo dài được lâu. Sự tỉnh táo luôn luôn đến đưa tôi về.”.(Tôi là ai trong thế giới này?)

37. “Sự hiểu biết chẳng là gì ngoài tổng số những sự hiểu nhầm của chúng ta”. (Người tình Sputnik – Haruki Murakami)

38. “Ngươi không phải là một thợ săn. Dân chúng làng El Idilio thường nói tới ngươi như là thợ săn, nhưng ngươi luôn nói đó không phải
là sự thực, bởi vì thợ săn giết thú để chiến thắng nỗi lo sợ.” (Một ông già đọc tiểu thuyết tình yêu – Luis Sepúlveda)

39. “Tôi cứ ngỡ thiên thần không bao giờ chết…” (Cô đơn trên mạng-Janusz Leon Wisniewski)

40. “Chiến tranh là cách săn mồi để ăn của một quốc gia.”(Bài học của lịch sử – Will Durant)

41. “Một nền dân chủ sụp đổ khi nó quá dân chủ…Một người chủ hòa yên lặng cũng cần rất nhiều can đảm.” (Câu chuyện triết học –
Will Durant)

42. “… Người hạnh phúc nên người muốn đem lại tươi vui và tốt lành cho những người xung quanh. Chỉ những kẻ bất hạnh mới ăn cắp,
đánh nhau và giết nhau.” (Những người bóng dài/ Top of the world – Hans Ruesch)

43. “Những kỷ niệm đẹp thực sự bao giờ cũng sống và toả sáng một cách bền bỉ. Chúng sẽ cất lên những tiếng thở xót xa sau mỗi lần thời
gian trôi chảy.” (Kitchen – Banana Yoshimoto)

44. “Những thứ vào miệng con người không độc hại xấu xa. Xấu xa, đọc hại là những thứ từ miệng họ tuôn ra” (The Alchemist – Paulo
Coelho)

45. “Những kỷ niệm đẹp thực sự bao giờ cũng sống và toả sáng một cách bền bỉ. Chúng sẽ cất lên những tiếng thở xót xa sau mỗi lần thời
gian trôi chảy.” (The Alchemist – Paulo Coelho)

46.“Hãy vì tương lai đất nước, vì lợi ích cho con cháu, hãy làm những cái đẹp chân chính.” (Viết dưới ánh đèn dầu – Bùi Xuân Phái)

47. “Sống cô độc đương nhiên cảm thấy cuộc đời là những chuỗi ngày dài và buồn tẻ; nhưng nếu được ở bên người mình yêu thương, thì
chỉ thoắt cái người ta đã tới ngã ba đường rồi.” (Socrates in love/ Tiếng gọi tình yêu giữa lòng thế giới – Katayama Kyoichi)

48. “Tạo hóa sinh ra em là gì nếu nhưng em hoàn toàn bị bó buộc trong thân xác này”.(Đồi gió hú – Catherine Earshaw)

49. “Tuy nhiên, điềm đạm đến đâu người ta cũng không thể một mình đứng trước vô cùng. Người ta cần phải nương tựa vào một cái gì đó
cho đỡ lẻ loi: một lòng tin, hay ít nữa một tình yêu theo nghĩa thông thường và chân chính của chữ yêu.. chàng muốn quên mình, quên hết
thảy trong tình yêu của một người, vô luận là người nào..” (Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân)

50. “Tình yêu có vẻ không ranh giới thế nào, lại gây phiền não thế ấy” (Người đua diều – Khaled Hosseini)

51. “Tôi muốn được thừa nhận. Muốn được tha thứ. Muốn được ai đó dùng ngón tay lấy đi những đường gân đen bám vào tim mình như
nhặt từng sợi tóc bám trên lược rồi vứt vào thùng rác. Tôi chỉ toàn muốn người khác làm cho mình. Dù chẳng nghĩ ra nổi một điều mình
muốn làm cho người khác.” (Cái lưng muốn đá – Wataya Risa)
52.“Người ta chỉ nhìn thấy thật rõ ràng bằng trái tim. Cái cốt yếu thì con mắt không nhìn thấy được…Người ta chỉ hiểu được những vật
người ta đã cảm hoá, cáo nói. Loài người bây giờ không còn đủ thì giờ hiểu cái gì hết. Nếu cậu vui lòng, hãy cảm hoá tớ đi!” (Hoàng tử
bé – Saint Exupery)

53. “Tác giả gửi đi những thông điệp và việc của người đọc là giải mã những thông điệp đó một cách thấu đáo nhất có thể.” (Precious –
Push – Sapphire)

54. “Các cô gái là như thế đấy, ngay cả khi họ xấu xí, thậm chí họ có ngốc nghếch đi nữa, mỗi khi họ làm điều gì rất đẹp, ta sẽ yêu họ và
sẽ không biết mình đang ở đâu. Các cô gái. Than ôi. Họ có thể làm bạn phát điên. Như chẳng hề có chuyện gì. Thật đấy.”
(J.D.SALINGER – Bắt trẻ đồng xanh)

55.“Sự sống đẹp đến nỗi cái chết đã phải lòng nó” (Cuộc đời của Pi – Yarn Martel – Trịnh Lữ dịch)

56. “Trong cuộc đời, con sẽ có rất nhiều lý do để hạnh phúc. Một trong những thứ đó là nước, thứ khác là gió, thứ khác nữa là mặt trời, và
đó luôn là món quà đến sau những cơn mưa. Hãy cảm nhận mưa đi. Giang đôi cánh của con”. (Chuyện con mèo dạy hải âu bay – Luis
Sepúlveda)

57. “Phần lớn mọi người đều tốt cả, con ạ, chỉ có điều con chưa nhận ra đấy thôi” (To Kill a Mockingbird – Atticus Finch)

58. “Tôi đã từng viết về những người không quan tâm đến tiền bạc nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ gặp người như vậy. Vì vậy tôi đi
đến kết luận liêm khiết là điều rất khó khăn. Những người mà cuộc sống không được cân bằng bởi việc yêu tiền một cách lành mạnh
thường phải chịu đựng nỗi ám ảnh kinh hoàng với bản tính chính trực trong con người họ”.(The Thirteenth Tale – Diane Setterfield)

59. “ Trời tối.. và thêm rất nhiều ngày trời sáng


Chính chúng ta là người quyết định hạnh phúc của bản thân”.( Bảy ngày cho mãi mãi –Marc Levy )

60. “Chiến Tranh, theo tôi biết, có nhiều người nhói đau khi nhắc về nó. Những huân chương, huy chương chỉ làm ấm ngực, niềm đau
khuất ở một góc lòng, có kẻ nhìn thấy, có người không..” (Mối tình năm cũ – Nguyễn Ngọc Tư)

61. “Scarlet, tôi không phải là người kiên nhẫn nhặt những mảnh vỡ, gắn lại và tự nhủ rằng một vật chắp vá vẫn còn như mới. Cái gì đã
tan vỡ là tan vỡ… Và tôi thà nhớ lại khi nó đẹp nhất, còn hơn là chắp vá để rồi suốt đời cứ phải thấy những vết nứt của nó” (Cuốn theo
chiều gió)

62. “Lý do sự chết cứ bám riết lấy sự sống như vậy không phải là vì nhu cầu sinh học – đó là sự ghen tị. Sự sống đẹp đến nỗi sự chết đã
phải lòng nó, một mối tình tư vị đầy ghen tuông quắp chặt lấy bất cứ thứ gì nó có thể động đến. Nhưng sự sống nhẹ nhàng bỏ qua, mất
mát vài thứ chẳng gì đáng kể, và nỗi u buồn chỉ như một bóng mây bay” (Cuộc đời của Pi)

63. Cái chết “chỉ là trở về cái chốn bạn từng ở trước khi sinh ra, và chẳng có ai sợ cái chốn trước khi mình sinh ra”. “… những cái cũ chết
đi và những cái mới được sinh ra. Sao cũ hóa thành sao mới. Lá chết hóa thành cây con. Có lẽ đó là cái đang chết đi, hoặc có lẽ đó là cái
đang sinh ra. Tất cả tùy thuộc vào cách nhìn của bạn”. (Muốn sống – Sally Nicholls)

64.“Đàn bà sống bằng kỷ niệm. Còn đàn ông thì bằng những cái mà họ đã quên.” (Cô đơn trên mạng-Janusz Leon Wisniewski)

65. “Trèo lên cao và không nghĩ là mình ngã thì sẽ không bao giờ ngã.” (Câu nói của chú mèo trong “Nữ thần băng giá” – Andersen)

66. “Cuộc sống, ngay cả khi con phủ nhận nó, ngay cả khi con sao nhãng nó, ngay cả khi con từ chối công nhận nó, nó vẫn mạnh hơn
con. Mạnh hơn tất cả.” ( Thiên thần sa ngã – Tào Đình )

67. “Tiền không mua được hạnh phúc, nhưng phải mất bao nhiêu tiền người ta mới nhận ra điều đó?” ( Thiên thần sa ngã – Tào Đình )

68. “Ở một mình không cô đơn, nhớ ai đó mới cô đơn”. ( Tôi độc thân )

69. “Hạnh phúc thực chất là điều mong manh và khó nắm giữ nhất, giống như bong bóng xà phòng, nếu không chủ động đấu tranh, giữ
gìn và nắm lấy thì ta sẽ không bao giờ có được nó.” (Bong bóng mùa hè – Minh Hiểu Khê)

70. “Một năm cũng dài mà một năm cũng ngắn… đối với một sự mất mát thì một năm còn có nghĩa là vô tận…. Nỗi đau có thể một
năm… Vết cứa có thể sâu một năm…. Vết sẹo có thể in một năm hình hài… Nhưng vô tận… vô tình cái chết là mãi mãi…”
“Có lẽ, tất cả những gì mà bạn đã có đều tốt đẹp, chỉ cần bạn không còn sở hữu nó.” (Nghe nói anh yêu em – Thuấn Gian Khuynh Thành)
71. “Ý nghĩa của cuộc đời không phải là có một ván bài đẹp mà là… Đánh thắng một ván bài đen”. (OSC – Diệp Chi Linh)

72. “Mà những kẻ nói xấu sau lưng người khác này, thường là loại tự cho mình là người thanh cao, dùng những tiêu chuẩn đạo đức, giẫm
đạp lên hành vi của người khác; nhưng kì thực trong lòng thì ghen ăn tức ở.” (Yêu em không cần quá cuồng si – Tịch Quyên)

73. “Trong tim ai chẳng có một tòa thương thành” (Hóa ra anh vẫn ở đây – Tân Di Ổ)

74. “Nếu thế giới của một người vĩnh viễn chỉ có bóng tối vậy thì làm sao phân biệt được bình minh và hoàng hôn”. (Bình minh và hoàng
hôn – Tân Di Ổ)

75. “Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần, khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi, lúc nào cũng bên tôi. Đó, sẽ là
những giây phút hạnh phúc nhất.” (Thần Long-Cõi Luân Hồi)

76. “Giờ thì phức tạp rồi đây, lấy đâu ra đàn bà chưa qua sử dụng khi họ luôn luôn bị sử dụng?”
“Nếu một người có số mệnh, thì đó là đàn ông. Còn nếu một người chịu số mệnh, thì đó là đàn bà” (Tình ơi là tình – Elfriede Jelinek)

77. “Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống của 1 con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao
cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca?” (Tôi đi tìm cái tôi đã mất – Nguyễn Khải)

78. “Vì Tấm mà nhân gian nhớ đến Bụt chứ không phải vì Bụt mà họ nhớ đến Tấm. Bụt chỉ tồn tại khi Bụt biết hiện ra đúng lúc… Có
những người cứ làm được vài việc mà đúng ra trách nhiệm họ phải làm thì tự cho mình là Bụt. Họ ăn lương để hành động như Bụt lại ra
vẻ chẳng ăn gì, chỉ ban phúc thôi”
“Trong tình thương, không có chữ Tôi, chỉ có chữ Chúng ta thôi”. (Thư bà vợ gửi cho bồ nhí – Lê Hoàng)

79. “Tình yêu không phải là một trạng thái của tâm hồn mà là dấu hiệu của duyên số”
“Mười năm của tuổi 50 có giá trị quyết định vì tôi nhận ra là mọi người đều ít tuổi hơn mình. Mười năm của tuổi 60 rất căng thẳng vì tôi
nghi ngờ rằng mình không còn đủ thời gian để mắc sai lầm nữa. Mười năm của tuổi 70 thật là đáng sợ vì nhiều lúc tưởng đó là những
tháng ngày cuối cùng…” (Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi – G.G Marquez)

80. “Con người không bao giờ biết đủ cả. Sau khi đã nếm trải mật ngọt của tình yêu, tiếp đến liền đưa ra những yêu cầu nhân danh tình
yêu như: cả đời trung thành, cả đời chỉ yêu một người, cả đời thế này thế nọ…
Nhưng mà, cả đời là một quãng thời gian rất dài. Cái thứ gọi là tình yêu này có quyền gì mà ràng buộc vô thời hạn tương lai của một
người”…
“Có thể yêu nhau trong bao lâu không quan trọng, quan trọng là … ta yêu hắn, hắn cũng yêu ta, ngay bây giờ, ngay phút giây này; và mỗi
một khoảnh khắc đều là một sự vĩnh hằng.”…. (Yêu em không cần quá cuồng si – Tịch Quyên)

81. “Nước mắt so với tiếng cười vẫn thường chân thật hơn, khiến cho người ta ghi khắc lâu hơn. Bạn có thể sẽ không nhớ ai đã từng cười
với bạn, nhưng chắc chắn sẽ nhớ kỹ người đã khóc vì bạn.” (Song Diện An Khả – Ái Như Yên Hoa)

82. “Cháu hãy trả lời nó rằng cháu đồng ý nhận lời. Dù cháu có sợ hãi đến chết đi nữa, dù cháu có ân hận đi nữa cháu cũng nên trả lời nó
rằng cháu đồng ý nhận lời, bởi vì nếu trả lời rằng không thì cháu sẽ phải ân hận suốt đời.”. ( Tình yêu thời thổ tả – Gabriel Garcia
Marquez )

83.“ …Tiến hóa mấy triệu năm khỉ mới thành người, còn tụi ôn con này từ người thành khỉ cái một.” ( Cảm giác trên dây – Nguyễn Ngọc
Tư )

84. “Khoảng cách ngàn cây số cũng không ngăn được những chiêm bao”
“Thành phố giống như một sàn diễn lớn, và chúng tôi phải sống tròn vai.”
“Một mối tình có trăm kiểu bắt đầu, cũng nhiều cách kết thúc, một trong những cách đó là cô gái nói, anh ơi, anh sắp làm cha đó nghen.”
“Nhưng hơn ai hết, tôi biết không có gì vĩnh viễn. Sự biết này làm tôi hay buồn, khi ta ngồi cạnh nó, ta ở trong nó, cùng với nó, nghe
thấy, chạm được nó, nhưng ta cũng đang mất nó, từ từ.” (Khói trời lộng lẫy – Nguyễn Ngọc Tư)

85. “… Tri thức thay đổi được con người nhưng rượu còn quyền năng hơn, nó biến đổi được người đã sành chữ nghĩa” ( Rượu trắng –
Nguyễn Ngọc Tư )

86. “Từ nhiều năm nay, tôi suy nghĩ rất nhiều đến cái chết của mình, đến độ nó trở nên nhẹ tựa lông hồng với tôi. Nhưng chưa bao giờ tôi
chuẩn bị tư tưởng về cái chết của mẹ nên không thể nào chịu đựng được ý nghĩ đó.
Nhưng biết làm sao để hài hòa được tổ quốc và gia đình?
Người lính sẽ là kẻ hủy hoại hạnh phúc của những người thân. Nếu cuộc sống của tôi là có ích, chắc tổ quốc phải chịu ơn sự hi sinh của
một người đàn bà.” (Thiếu nữ đánh cờ vây – Sơn Táp)
87. “Đây là bí mật của tớ. Nó đơn giản thôi: người ta chỉ nhìn thấy thật rõ ràng bằng trái tim. Cái cốt yếu thì mắt không nhìn thấy.”
(Hoàng tử bé/Le Petit Prince – Saint Exupéry)

88. “Bệnh sợ hãi độ cao là gì? Là nỗi sợ hãi khi đứng trên cao? Nhưng tại sao chúng ta vẫn thấy sợ hãi dù trên đài quan sát chúng ta đang
đứng có tay cầm chắc chắn? Không, bệnh sợ hãi độ cao là cái gì khác với tính sợ hãi khoảng cao. Nó là tiếng kêu của khoảng không trống
trải bên dưới. Nó dụ dỗ, đánh lừa chúng ta. Chính ý muốn nhảy từ trên cao xuống khiến chúng ta sợ hãi và vì thế chúng ta cố sức loay
hoay tìm cách tự vệ.” ( Đời nhẹ khôn kham – Milan Kundera )

89. “.. Bi kịch thực sự của Faust không phải là ông ta đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Mà bi kịch thực sự là không có quỷ dữ để có thể mua
linh hồn của bạn. Không có người mua. Chẳng ai đến giúp bạn bắt được quả bóng cuối cùng dù bạn ra giá thế nào.” (Lời hứa lúc bình
minh – Romain Gary)

90. “Trong những cuộc đánh nhau, chỉ cần mình k phải là người bị đánh thì lúc nào cũng sẵn sàng !” (Sống như Tiểu Cường -Tứ Mao)

91. Và cả hai đứa dù muốn hay không cũng phải quay mặt đi. Chúng tôi trông thấy nhưng không muốn nhìn nhau. Thật đau lòng phải
thấy nhau rõ ràng đến cả ruột gan như thế. Nhưng quay đi để mất hắn thì mình trở nên đơn độc. Đấy, hãy chọn đi: hoặc căng mắt, đau
đớn nhìn những gì hiện ra từ sương mù hoặc thả mình trôi đi. (Bay trên tổ chim cúc cu – Kenn Keyse)

92. “Kỳ lạ làm sao,” Haroun bảo Iff, “khi những điều xấu xa nhất lại có thể nhìn bình thường và, ờ, nhàm chán đến thế.” (Haroun và biển
truyện – Salman Rushdie)

93. “Đời vui quá, không buồn được.” (Ba phút sự thật – Phùng Quán)

94. “Trong hiện thực kịch vui tồn tại chỉ dành cho khán giả chứ không bao giờ cho người tham gia. Điều xảy ra với họ hoặc là bi kịch,
hoặc là vở kịch tâm lý phức tạp và xót xa mà thôi.” (Thiên tài và nữ thần – A. Huxley)

Quá trình và phong cách sáng tạo


1. “Nước mắt là những từ cần được viết ra”. (Paulo Coelho)

2. Người nghệ sĩ phải tạo ra một tia lửa trước khi có thể nhóm lên ngọn lửa và trước khi nghệ thuật sinh ra, người nghệ sĩ phải sẵn sàng
để ngọn lửa sáng tạo của chính mình nuốt trọn. (Auguste Rodin)

3. “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một
bài học trông nhìn và thưởng thức.”(Thạch Lam)

4. “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương
yêu hơn.” (Thạch Lam)

5. ”Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người
gần người hơn.” (Nam Cao)

6. Không có nỗi đau nào lớn hơn việc mang một câu chuyện chưa được kể trong bạn. (Maya Angelou)

7. Không có thi nhân, không có nghệ sĩ, con người sẽ sớm chán ngấy sự đơn điệu của tự nhiên. (Guillaume Apollinaire)

8. “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu)

9. Tôi có thể rũ bỏ mọi thứ khi viết: Nỗi buồn của tôi biến mất, lòng can đảm của tôi được tái sinh” (Anne Frank)

10. “Con người ai cũng sống trong hai miền đất: bên trong và bên ngoài. Bên trong là miền đất của tinh thần, được thể hiện qua nghệ
thuật, văn học, đạo đức và tôn giáo. Bên ngoài là phức hợp của thiết bị, kỹ thuật, thể chế, và công cụ mà ta dùng để sống”. (Martin Luther
King)

11. Trong nghệ thuật, bàn tay không bao giờ có thể tạo ra điều gì cao hơn điều trái tim có thể tưởng tượng. (Ralph Waldo Emerson)
12. Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không?
Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời. (Aldous Huxley)

13. Khi các tác gia qua đời họ trở thành những cuốn sách, một sự tái sinh cũng không quá tệ. (Jorge Luis Borges)

14. “Mỗi tác phẩm phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá về nội dung”. (Lêonit Lêonop)

15. “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của
riêng mình”. (Ivan Tuốc ghê nhi ép)

16. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả…Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà
văn thực thụ” (Sê khốp)

17. “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là 1 nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải
đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp 1 cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình -.nghĩa là trở thành nhà thơ”.
(Raxun Gamzatop)

18. “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã , nhưng bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi
mong muốn những tác tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và
khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”. (Sô lô khốp)

19. “Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi
tới của văn học”. (Tố Hữu)

20. Nhà văn đương đại Italia Claudio Magris viết rằng: “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm
đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào”.

21. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh nhận định: “Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hômero đến kinh thi đến ca dao việt nam, thơ vẫn là
1 sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày
tận thế”.

22. Tố Hữu nói: “thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”.

23. L.Tônx tôi khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì 1 xã hội công
bằng,bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết,vắt kiện cạt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình
cho nhân loại”

24. Với Thạch Lam thì: “Thiên chúc của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có
nhiều công bằng, thương yêu hơn”

25. Trong tác phầm “Theo giòng”, Thạch Lam viết: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín
đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc 1 bài học trông nhìn và thưởng thức”

26. Trong tác phẩm Đời thừa Nam Cao cho ràng:” Một tác phẩm thật giá trị,phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một
tác phẩm chung cho cả loài người .Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.Nó ca tụng lòng
thương,tình bác ái,sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn.”. Ngoài ra ông cũng cho ràng : ”Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng
là một sự bât lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.”.

27. Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết
thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh
sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Aimatop)

28. Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong
cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)

29. Thơ là thơ, đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng.” (Sóng Hồng)

30. “Nhưng nghệ sĩ không ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ,
anh muốn đem một phần của mình đóng góp vào đời sống chung quanh.
(Nguyễn Đình Thi)

● Như vậy, chính những giá trị chân chính đã làm nên sự bền vững đến muôn đời của văn chương nghệ thuật. Cũng mỏng tựa cánh
chuồn, nhưng với tài năng và tâm huyết của nhà văn A, tác phẩm B vẫn có thể thắng được cả sắt thép, vượt qua mọi biến thiên của
lịch sử và để lại trong lòng độc giả những dấu lặng không thể nào quên. (RVC)
Nhận định lí luận văn học về phong cách nhà văn:
• Mỗi người công dân có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt có một dạng vân chữ. (Lê Đạt)
• Đừng làm những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
Như những cây quá thẳng chim không về.
(Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)
• Qua giọng hát, anh nhận ra người hát
Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc.
(R. Gamzatov – Dagestan của tôi)
• Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy. (Sê - khốp)
• Nhà văn là người cho máu. (Enxa Tơriole)
• "Bất cứ lúc nào trên sân khấu của cuộc đời/ Tôi vẫn là diễn viên tồi/ Bởi tôi không bao giờ hóa trang để nhập vai người khác!". (Vi
Thùy Linh)
• Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị.
Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay mà thôi. (Thạch
Lam)
• Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu
Hiệp)
• Hoạ sĩ chúng tôi vẽ một cái bình hoa là phải để tâm vào bình hoa, để mình biến thành bình hoa cảm nhận cái lực của bình hoa mới
thể hiện được cái thần của bình hoa. (Yêu và đồng cảm - Phong Từ Khải)
• Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. (Thạch Lam)
• Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn. (Thạch Lam)
• Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ
trong phong cách của mình. (Sách Văn học 12)
• Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại. (Ban - dắc)
• Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.
(Ai – ma - tốp)
• Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới. (Pau - tốp – xki)
• Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng
bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân
loại.” (L. Tôn-xtôi)
• Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Nam Cao)
• Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch
sử. (Nguyễn Minh Châu)
• Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (Selly)
• Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương
con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài
thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả
năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và
đứng vững được trước cuộc sống. (Nguyễn Minh Châu)
• Nhà văn phải là người thể hiện được nỗi đau của thời đại… Những người thầy thuốc viết bệnh sử của nhân loại.
• Thiên chức của nhà văn là phải suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người. (Nguyễn Minh Châu)
• Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng,
thương yêu hơn. (Thạch Lam)
• Nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh. (Nguyễn Minh Châu)
• Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, là cái giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ
họng của bất kỳ một người nào khác. (Tuốc – ghê – nhép)
• Sức nặng của trang thơ, của những con chữ lại chính ở cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến đó, phải tìm đến đó để ngôi
bút viết lên từ thứ mực chưng cất từ chính cuộc đời đầy phức tạp, bộn bề bao thanh âm của mọi số phận.
• Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói
cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà
công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa. (Xuân
Diệu)
• “Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố,
nhưng vẫn nguyên vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận.”
(Nguyễn Tuân)
• Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mỡ ấy nó triển khai thành một hình thức xác
định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống. (Biêlinxki)
• “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của
riêng mình.” (Ivan Tuốc-ghê-nhép)
• Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết
phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành
nhà thơ. (Raxun Gamzatốp)
• Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)
• Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. (PHƯƠNG
LỰU)
• Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một
bài học trông nhìn và thưởng thức. (Thạch Lam)
• Nếu một nhà văn chỉ viết cho thời đại của mình thì tôi sẽ phải bẻ bút và vứt nó đi. (Victor Hugo)

Nhận định văn học nghệ thuật và con người.


● Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng
lịch sử. (Nguyễn Minh Châu)
● Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật. (M. Gorky)

● Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên. (Puskin)

● Văn chương có ảnh hưởng lớn vì văn chương hun đúc phần tinh thần người đời. Văn chương không có quyền luôn luôn ở trên
mấy tầng mây cao mới thẳm, lãnh đạm ngắm những cảnh phong ba dữ dội ở đời. (Hoài Thanh)
● “Các chi tiết trong tác phẩm là những “con mắt”, nó chẳng những thấy được thế giới tinh thần mà còn thấy được một “tâm hồn
tự do” trong cái vô hạn của nó”. (Hêghen)
● “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” (Hồ Chí Minh)

● Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những
câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris – Nhà văn Ý)
● Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội. (Phạm Văn Đồng)

● Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát
triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy
nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng
chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ
thấp khớp… (Nguyễn Tuân)
● “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. (R.Tagore)

● Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông
thường đó là “tình thương, lòng thương người”. (Lê Trí Viễn)
● Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất
liệu của văn học. (M. Gorky)
● Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sêđrin - Nga)

● Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)

● Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung. (Lêonit Lêonop)

● “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.” (Con tàu trắng, Ai-ma-tốp)

● “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L.
Kalinine)
● “Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng một
ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỷ này sang thế kỉ khác.” (M. Go-rơ-ki)
● Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình
đẳng bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình
cho nhân loại. (L. Tôn-xtôi)
● Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. (Hoài Chân)

● Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến
vẫn là con người.” (Đặng Thai Mai)
● Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm
nghệ thuật đích thực. (Lép-Tôn-xtôi)
● Chi tiết làm nên hạt bụi vàng của tác phẩm. (Pauxtopxki)

● Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. (Nguyễn Tuân)

● Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời. (Sê - khốp)

● Một tác phẩm là kết quả của tình yêu, tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng, vì một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái luôn
luôn thôi thúc các nhà văn, sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu nhiệt huyết của mình cho cuộc đời.
(Lev Tolstoy)
● Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc Trà)

● Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu
tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả. (Nguyễn Đình Thi)
● Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.
Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con
người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người. (Sô – lô - khốp)
● Văn chương chỉ thực hiện thiên chức cao đẹp là thanh lọc tâm hồn, nâng đỡ con người, làm lòng người được”trong sạch và
phong phú” hơn. Văn chương níu giữ tâm hồn khiến con người không sa xuống tầm thường, nhỏ nhen, bị sai khiến bởi lòng ích
kỉ. Văn chương giữ cho ta được là con người ngẩng cao giữa cuộc đời.
● Tôi không thể nào mường tượng nổi một nhà văn lại không mang trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con
người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan
hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới
có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh
thần và đứng vững trước cuộc sống. (Nguyễn Minh Châu)
● Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình
đẳng bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình
cho nhân loại. (L. Tôn-xtôi)
● Một tác phẩm thật giả trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải
chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó
làm cho người gần người hơn. (Nam Cao)
● Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu chính là “ngọc đọng”, là “phiến kì nam” trong rừng trầm hương, là “ tinh
hoa” trong vườn phương thảo, kết tinh nên tình cảm được hun đúc bằng tâm hồn người nghệ sĩ trước những rung cảm của cuộc
đời. (Leptonxtoi)
● Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc Trà)

● Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về
ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm. (Hoài Thanh)
● Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí
giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc
thêm trong sạch và phong phú hơn. (Theo dòng, Thạch Lam)
● Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng. (CharlesDuBos)
● Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng
hướng tới chân lý. (M. Go – rơ – ki)
● Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những lầm than. (Trăng
sáng – Nam Cao)
● Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là
loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn Văn Siêu)
● Nghệ thuật phải vừa giống vừa không giống cuộc đời. Nếu hoàn toàn giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật mị đời. Nếu hoàn toàn
không giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật dối đời. (Tề Bạch Thạch)
● Nội dung của tác phẩm không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng lạnh lùng mà nó gắn liền với cảm xúc mãnh liệt.

● Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về
ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm. (Hoài Thanh)
● Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra. (Andecxen)

● Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. (Nguyễn Tuân) (?!?!?)

● Mọi lý thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi. (Gớt)

● Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. (Nguyễn Minh Châu)

● Thiên chức của nhà văn là phải suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người. (Nguyễn Minh Châu)

● Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng,
thương yêu hơn. (Thạch Lam)
● Văn chương không chỉ là ngôn từ mà tác giả gửi gắm vào đó nỗi niềm cũng như hiện thực cuộc sống mà còn ẩn chứa việc xây
đắp tâm hồn con người. (Hoài Thanh)
● Văn học là một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. (Tchernyshevxki)

● Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cảnh cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy
lắng nghe nỗi buồn của con người. (Nadimeflicmet)
● Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn
niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời. (Trích trong Nhật ký của Nguyễn Văn Thạch)
● Nếu truyện Kiều là một dòng sông thì thơ chữ Hán là những con suối nhỏ, tất cả đều đổ vào đại dương mênh mông là chủ nghĩa
nhân đạo của nhà thơ.(Nguyễn Đăng Mạnh)
● Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn
không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xóa được của mình.
(LLVH)
● Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra. (Heghen)

● Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng
hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Belinxki)
● Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều
trong cuộc sống con người. (NGUYỄN MINH CHÂU)
● Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về một hình thức, một khám phá mới về nội dung. (LEONIT LEONOP)

● Văn chương không chỉ là ngôn từ mà tác giả gửi vào đó nỗi niềm cũng như hiện thực cuộc sống mà còn ẩn chứa việc xây đắp
tâm hồn. (Hoài Thanh)
● Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Homero đến kinh thi đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và
quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn ca loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (Hoài
Thanh)
● Văn học nghệ thuật không chỉ ngợi ca lòng cao thượng mà còn góp phần thúc đẩy sự cao thượng vốn có của con người. (Nguyễn
Hoàng Thu)
● Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ, kỳ diệu đến nỗi cả một đời cũng chưa đủ để nhận thức, khám phá tất
cả những cái đó. (Nguyễn Minh Châu)

Nhận định lí luận văn học về cuộc đời, thời đại, cuộc sống.
● Văn chương trở thành ký ức sống động của mỗi quốc gia. (Aleksandr Solzhennitsyn)

● Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san
bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của
nó. Có thể màu sắc, quốc kỳ, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống
nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người. (Maxim Malien)
● Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn
niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích trong Nhật kí của Nguyễn Văn Thạc)
● Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại. (Ban – dắc)

● Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học. (Tố Hữu)

● Văn học là một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. (Tchernyshevxki)

● Chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có trường đời vô thường định mới dạy cho người ta biết được những câu đẹp đẽ. (Nguyễn Tuân)

● Sức nặng của trang thơ, của những con chữ lại chính ở cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến đó, phải tìm đến đó để
ngôi bút viết lên từ thứ mực chưng cất từ chính cuộc đời đầy phức tạp, bộn bề bao thanh âm của mọi số phận.
● Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cảnh cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy
lắng nghe nỗi buồn của con người. (Nadimeflicmet)
● Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng
hân hoan, nếu nó không đặt ra câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Belinxki)
● Tôi mong họ dám ngoái đầu nhìn lại, mong họ có những đột phá về đề tài và bút pháp, có thể dùng ngòi bút của một người “đỡ
dậy kí ức của một dân tộc” (nhà phê bình Tịnh Thy)
● Thi ca không phải là hình vuông, dù hình vuông đó có nằm trong bàn cờ người vô cùng thâm hậu. Bởi vì thi ca không phải là nơi
được xây cất để chứa đựng sự khôn ngoan của con người. (Khuất Bình Nguyên)

Thơ
● Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

● Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp)

● Thơ là người thư kí chân thành của trái tim. (Đuybralay)

● Trên đời có những thứ chỉ có thể giải quyết bằng thơ ca. (Maiacopxki)

● Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy. (Tố Hữu)

● Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)

● Câu thơ phải luôn luôn bất ổn và xôn xao


Không thể nằm yên mà ngủ được nào.
(Chế Lan Viên)
● Tôi chưa có câu thơ nào
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
(Chế Lan Viên)
● Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ. (Epvtusenko - nhà thơ Nga)
● Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa tiêu dùng, nghĩa tư vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi
cảm của chữ. (Chữ bầu lên nhà thơ - Lê Đạt)
● Người dệt thảm mặc áo rách và cuộc đời xám xịt
Ấy thế nhưng cái nghề dệt mà, ta cứ dệt thảm hoa
Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít
Thơ không phản ánh đời mình thì nó cũng phản ánh những mùa hoa. (Chế Lan Viên)

● Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí. (Tố Hữu)

● Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của
mình. (T Hu).
● Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong ý thức của con người. (Chu VĂn Sơn - tiến sĩ,
nhà phê bình văn học)
● Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ thơ ca mới mở được. (Nhê-cơ-rê-xốp-nhà văn)

● Thơ là một sản phẩm của tâm hồn, trí tuệ con người mà tâm hồn và trí tuệ đó có một tác động trở lại vào thực tại... Thơ phải xuất
phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu
vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu
của những con người. (Xuân Diệu)

● Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần. (Ngô Thì Nhậm)

● Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi động chạm tới cuộc sống (...) văn xuôi lôi cuốn người như dòng
nước, đưa ta đi từ điểm này qua điểm khác. Thơ chỉ chọn ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo. Thơ
là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không hoàn toàn, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích. (Nguyễn Đình Thi)

● Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường
hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn. (Nghĩ về thơ – Lê Đạt).

● Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Mỗi giọt mật thành đôi vạn chuyến ong bay
Nay cành nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc
Mật ngọt ở đồng bằng mà hút nhụy tận miền Tây.
(Chế Lan Viên)
● Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình. (Selly)

● Vật liệu chính của thơ tôi không phải là con chữ mà là con âm. Và nếu như những câu thơ tôi có một nghĩa nào đó thì là do các
âm chữ hắt lên thành một thứ cầu vồng trên mặt chữ mà thôi. (Dương Tường)
● “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ”. (Hans Sachs)

● Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép.

● Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng.


Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi!
● Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình”. (Cac Mac)

● Câu thơ hay như người con gái đẹp


Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng.
● Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình
Những vui buồn đời ký thác cho anh.
● “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng…
Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái,
nhỏ nhen mà độc hại”. (Lí luận văn học)
● “Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương”. (Pauxtopxki)
● “Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ”. (Etga Pô)

● “Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng
đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”. (Hoài Thanh)
● “Thơ chính là tâm hồn”. (M. Gorki)

● “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật”. (Trần
Đăng Khoa)
● Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình

● “Người xưa trong ý có giấu những điều không thể nói ra, mới mượn vần thơ để truyền đi những điều mình muốn nói. Nếu trong
lòng không cảm xúc mà chỉ vẽ vời lòe loẹt thì làm sao mà có thể có những vần thơ tuyệt diệu”. (Thẩm Đức Tiềm)
● “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. (Xuân Diệu)

● “Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người”. (William Wordsworth)

● “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. (Chu Văn Sơn)

● “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của
mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có”. (Tô Hoài)
● “Hội họa phải đạt được sự thấu hiểu qua tự thân nó, không cần tới giải thích, và thi ca cũng vậy. Nếu một bài thơ hay một bức
họa cần phải được giải thích thì đó là thất bại trong giao tiếp”. (Lawrence Ferlinghetti)
● “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng
có nhụy”. (Phạm Văn Đồng)
● “Hình thức cũng là vũ khí. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí”. (Chế Lan Viên)

● “Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay”. (Raxun Gamzatốp)

● “Trí tuệ không liên quan gì mấy đến thi ca. Thi ca bắt nguồn từ điều gì đó sâu hơn; vượt qua trí tuệ. Nó thậm chí không thể gắn
cho sự thông thái. Nó là chính nó; nó có bản tính của riêng mình. Không thể định nghĩa”. (Jorge Luis Borges)
● “Thơ là hành vi của con người. Người cao thì thơ cũng cao. Người tục thì thơ cũng tục. Một chữ cũng không thể che giấu. Thấy
thơ như thấy người.” (Từ Tăng)
● “Làm thơ cũng như dùng binh, cẩn thận với địch thì thắng. Mệnh đề tuy dễ, không thể sơ suất hạ bút. Không đem hết công phu
làm sao đến được chỗ hồn nhiên biến hóa”. (Tạ Trăn)
● “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên
ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc”. (Hegel).
● “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng”. (Bêlinxki)

● “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm
thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. (Bạch Cư
Dị)
● “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.”(Ngô Thì Nhậm)

● “Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ.” (Eptusenko)

● “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.” (Chu Văn Sơn)

● “Thơ là thư kí chân thành của trái tim.” (Duy bra lay)

● “Thơ là bà chúa của nghệ thuật.” (Xuân Diệu)

● “Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được.” (Nhêcơraxop)

● “Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm.” (Leonardo Da Vinci)
● “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.” (Maiacopxki)

● “Xây một tập thơ là phá một nhà tù”. (Trần Dần)

● Muốn câu thơ còn có thể đi xa

Tôi phải học rất nhiều, lúc vui đùa, khi nghiêm khắc.
Học ở những nghệ nhân Kubatri lòng kiên nhẫn,
Và những bác thợ cả trong làng lòng tận tụy với nghề.
Những phép tắc mà người dân miền núi nào cũng biết.
Đừng gả chồng cho con gái khi chưa đến tuổi trưởng thành!
Đừng cởi giầy khi chưa đến bờ suối!
(TÁC PHẨM DANGEXTAN CỦA TÔI)

● Tâm hồn tôi còn ẩn náu sâu hơn, kín đáo hơn những cái xương, cột sống, lá phổi của tôi. Nhưng những tia sáng Thơ ca đã rọi
chiếu qua tôi, và mỗi một rung động nhỏ trong tâm hồn tôi trở thành cái mọi người đều biết. Tâm hồn tôi như đặt trong lòng bàn
tay trần, những tia sáng huyền diệu của Thơ ca chiếu tới, và mọi người nhìn thấu qua tôi. ( TÁC PHẨM DANGEXTAN CỦA
TÔI)

● “Thơ là rượu của thế gian.” (Huy Trực)

● “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhất của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà
có.” (Tô Hoài)
● “Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vẫn thơ”. (Jorge Luis Borges)

● “Đừng dùng điện thoại. Người ta hiếm khi sẵn sàng trả lời nó. Hãy dùng thi ca”. (Jack Kerouac).

● “Thi ca là những hình vẽ vĩnh cửu trong trái tim của tất cả mọi người”. (Lawrence Ferlinghetti)

● “Trong lòng có điều gì, tất hình thành ở lời, cho nên thơ nói chí vậy”. (Phan Phu Tiên)

● “Thơ không thể làm không vì mục đích gì cả. Thử xem những bài thơ hay của người xưa, có bài thơ nào mà không vì mục đích
gì không?” (Tiết Tuyết)
● “Thơ của một người bình dị hay tân kỳ, nồng hậu hay đạm bạc, không phải là mỗi bài mỗi câu đều hạn chế trong một thể cách.
Có thể nào chỉ lấy một cái lông mà định đoạt cả con báo ư?” (Ngô Lôi Phát)
● “Thi ca là khoảng cách ngắn nhất giữa hai con người. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng
tượng”. (Lawrence Ferlinghetti)
● Chỉ thế thôi ư? Ta còn mơ ước
Thành nhà thơ ca ngợi cuộc đời
Những vần thơ cùng du hành vũ trụ
Sưởi ấm vừng trăng lạnh niềm vui
(Xuân Quỳnh)
● “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. (Voltaire)

● Là nhà thơ nên hay nghĩ hay lo


Người chưa khổ thì anh đã khổ
Tim mang nặng những sầu thương vạn cổ
Anh khóc than ngay trước cổng Thiên đường.
(Anh Ngọc)
● Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. (Biêlinxki)

● Làm người thì không nên có cái tôi, như làm thơ thì nên có cái tôi. (Viên Mai)

● Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí.


● Thơ như đôi cánh nâng tôi bay
Thơ là vũ khí trong trận đánh
(Raxun Gamzatov)
● Công phu của thơ là ở ngoài thơ. (Lục Du)

● Đi giữa vườn nhân dạ ngẩn ngơ


Vì thương người lắm, mới say thơ
(Lưu Trọng Lư)
● tôi nhặt nhạnh li ti bụi chữ
đốt lò tâm linh chơi trò chơi luyện thơ
(Nguyễn Duy)
● Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn.
Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh
Và đôi mắt em như hai giếng nước.
(Văn Cao)
● Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất
thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là
trở thành nhà thơ. (Raxun Gamzatốp)
● Sức nặng của trang thơ, của những con chữ lại chính ở cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến đó, phải tìm đến đó để
ngôi bút viết lên từ thứ mực chưng cất từ chính cuộc đời đầy phức tạp, bộn bề bao thanh âm của mọi số phận.
● Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh
để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc
đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ
nghĩa. (Xuân Diệu)
● Sức nặng của trang thơ, của những con chữ lại chính ở cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến đó, phải tìm đến đó để
ngôi bút viết lên từ thứ mực chưng cất từ chính cuộc đời đầy phức tạp, bộn bề bao thanh âm của mọi số phận.
● Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi. (Puskin)

● Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống nhưng phải đi qua một tâm hồn, và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn trí tuệ ấy phải in
dấu vào đó sự thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu, của những con người. (Xuân Diệu)
● Thơ khác kinh cầu. Nó không tạo ra những cơn mê tập thể, nó không ru rín mà nó mê hoặc con người bằng sự thức tỉnh. Thơ chỉ
dành cho từng người một. Và khi một người đọc thơ cho mình, là người ấy đang đồng hiện với một giáo đường. Vì vậy có thể
coi một người đọc thơ như nghìn người đọc kinh.
● Thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đống tài
liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la. (Nguyễn Tuân)
● Thơ là thể loại văn học có độ hàm súc cao, là sự dồn nén cảm xúc đến mức “cô đúc” để rồi phát nổ bằng một hình thức ngôn từ
“tổng hợp kết tinh” có vần hoặc có điệu. Thơ phản ánh hiện thực cuộc sống mà hiện thực ấy “đã được ủ thành men và bốc lên
đầm say” đến mức mê say trong tâm hồn thi sĩ. (Chế Lan Viên)
● Thi ca bất lực trước cái chết nhưng lại có thể xoa dịu nỗi đau của con người trước sự ngắn ngủi, mong manh của kiếp người. (Võ
Tấn Cường)
● Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc. (Trong thơ có tính nhạc, tính hoạ)

Quá trình tip nhn


● Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả. (M. Go-rơ-ki)
● Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm. (Văn tâm điêu long,
Lưu Hiệp)

NGH LUN XÃ HI

Trích dẫn kinh điển cho NLXH.


● Lời xin lỗi, cứ mỗi lần bị trì hoãn, nó lại càng trở nên khó khăn hơn để nói ra, và cuối cùng là không thể. (Cuốn theo chiều gió)
● Khó khăn sẽ tạo nên hoặc hủy hoại một con người. (Cuốn theo chiều gió)
● Tất cả chúng ta đều là những bình nước nóng có suy nghĩ, có ước mong được sưởi ấm cho người mình yêu. (Thế giới dịu dàng đến
thế)
● "Chỉ có những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay" (Chuyện con mèo dạy hải âu bay - Luis Sepúlveda)
● Mọi thế hệ luôn hình dung rằng mình khôn ngoan hơn thế hệ trước và sáng suốt hơn thế hệ sau (George Orwell)
● Nước mắt so với tiếng cười vẫn thường chân thật hơn, khiến cho người ta ghi khắc lâu hơn. Bạn có thể sẽ không nhớ ai đã từng cười
với bạn, nhưng chắc chắn sẽ nhớ kỹ người đã từng khóc vì bạn. (Song Diện An Khả - Ái Như Yên Hoa)
● Không phải là người khổng lồ mới là người dũng cảm. Mà người dũng cảm mới là người khổng lồ. (Tiếng chim hót trong bụi mận
gai)
● Thời gian này quý giá nhất không phải thứ không có được hay mất đi. Mà là hạnh phúc đang nắm giữ. (Tôi nghe tiếng em thầm gọi)
● Điều có ý nghĩa trong cuộc sống không phải là điều xảy ra với bạn mà là điều bạn nhớ và cách bạn nhớ về nó. (Trăm năm cô đơn)
● Kiêu căng và kiêu hãnh là hai điều hoàn toàn khác nhau, mặc dù cả thế giới thường dùng nó như một cách đồng nghĩa. Một người có
thể tự hào nhưng không kiêu căng. Kiêu hãnh liên quan nhiều hơn về ý kiến của chính bản thân chúng ta, kiêu căng là những gì
người khác nghĩ về chúng ta. (Kiêu hãnh và định kiến)
● Đứa trẻ nào sinh ra cũng có phẩm chất tốt. Cùng với sự trưởng thành những phẩm chất đó bị phá hỏng bởi môi trường xung quanh và
ảnh hưởng của người lớn. Vì vậy, phải tìm ra "phẩm chất tốt" ở đứa trẻ, phát triển những phẩm chất đó, giúp đứa trẻ trở thành một
người có cá tính. (Totto Chan bên cửa sổ)
● Mỗi chúng ta đều mất một thứ gì đó quý giá với chính mình, nó làm ảnh hưởng đến sự phán đoán của bản thân. (Bố già)
● Một người đàn ông không dành thời gian cho gia đình, không bao giờ có thể trở thành một người đàn ông thực sự. (Bố già)
● Ngày mai là một ngày mới. (Cuốn theo chiều gió)
● Cái gì tồn tại có lý, cái gì có lý là tồn tại. (Hêghen)
● Những thứ vào miệng con người không độc hại xấu xa. Xấu xa, độc hại là những thứ từ miệng họ tuôn ra. (The Alchemist)
● Hãy cố gắng bằng mọi cách khi còn có thể nhưng khi không còn cách nào nữa thì hãy quên đi. (Khải hoàn môn)
● Đừng quá lo lắng về mọi điều xung quanh bạn, chỉ cần bạn nỗ lực và cố gắng để trở thành một bản thân tốt hơn. Mọi thứ xung quanh
bạn tự ắt sẽ được an bài và trở nên tuyệt vời hơn cùng với bạn. (Nhà giả kim)
● Chỉ khi bạn có một khao khát, một ước mơ mãnh liệt cũng như cố gắng hết sức để đạt được ước mơ đó, thì vũ trụ sẽ đáp lại mong
muốn sâu thẳm trong tâm hồn bạn. (Nhà giả kim)
● Để sống tốt hơn, đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn. (Cho tôi xin một vé về tuổi thơ)
● Khi nào người đàn ông còn sa đọa vì bán sức lao động, khi những người đàn bà còn trụy lạc vì đói khát thì cuốn sách này còn có ích.
(Những người khốn khổ - Victor Hugo)
● Điều khiến sa mạc trở nên đẹp đẽ, là bạn không biết nó ẩn giấu hồ nước mùa xuân ở nơi nào. (Hoàng tử bé – Antoine de Saint-
Exupéry)
● Tiếng cười là ánh nắng, nó xua tan mùa đông lạnh lẽo trên gương mặt loài người. (Những người khốn khổ - Victor Hugo)
● Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận, vì những tháng năm đã sống hoài, sống phí. (Thép đã tôi thế
đấy – Nikolai A.Ostrovsky)
● Có mắt mà không nhìn thấy vẻ đẹp, có tai mà không thấy điều hay, có trái tim mà không thấy chân lý, chưa cảm kích thì chưa cháy
hết mình. (Totto-chan bên cửa sổ)
● Và đã sinh ra trên mặt đất này, chẳng một ai, dù quả cảm hay rụt rè, có thể trốn chạy được số phận. (Héc-to từ biệt Ăng-đro-mác Hô-
me-rơ)
● Một phần bản tính của chúng ta là yêu thương và lương thiện. Một phần bản tính của chúng ta là khao khát được hiểu biết nhiều hơn
nữa và luôn học hỏi. (Về chính chúng ta - Các-lô Rô-ve-li)
● Tôi đã chọn lối mòn ít có ai đi,
Và điều đó đã làm đổi thay tất cả.

(Con đường không chọn - Rô-bớt Phờ-rót)

● Thế giới luôn có cách để đánh gục tất cả mọi người và sau cùng, nhiều người đã trở nên mạnh mẽ hơn ngay tại những điểm đã từng
bị vỡ. (Ernest Hemingway)
● Cuộc đời dù là tiến hay lùi, vẫn phải tiếp tục bước đi. (Một đời như kẻ tìm đường - Phan Văn Trường)
● Là trẻ con, đôi khi ta nên tha thứ cho lỗi lầm của người lớn. (Nguyễn Ngọc Tư)
● Cuộc đời cũng như hơi thở vậy thôi. Ta không thể hít một hơi dài quá khả năng của mình. Nhưng ta có thể hít sâu hết khả năng của
mình trong từng hơi thở. Tôi vẫn tin rằng nếu bạn thực sự biết hưởng thụ, bạn luôn biết mình đã sống rất lâu. Nếu đã biết trăm năm là
hữu hạn, cớ gì ta không sống thật lâu? (Phạm Lữ Ân)
● “Chúng ta biết rằng khi giận thì không nên phản ứng, nghĩa là không nên nói, không nên làm bất cứ điều gì. Khi giận mà nói năng
hay hành động là không khôn ngoan. Ta phải trở về tự thân để chăm sóc cơn giận của mình.” (Thiền sư Thích Nhất Hạnh)
● “Khi người ta lớn, niềm vui và nỗi buồn cũng lớn lên theo. Trong những giấc mơ của tôi, không chỉ có châu chấu, chuồn chuồn như
những ngày thơ bé. Đã có bão giông theo về trong những đêm gió luồn qua mái lá. Ờ, ngay cả những giấc mơ cũng lớn lên đó thôi.”
(Nguyễn Nhật Ánh)
● “Con trở thành công chúa mà chẳng cần tới sự giúp đỡ của bà tiên. Con tỏa sáng bởi chính những cố gắng và nỗ lực không ngừng
nghỉ của bản thân mình”. (Tớ thích cậu hơn cả Harvard)
● Sự sống đẹp đến nỗi cái chết đã phải lòng nó.
● Sống như một thứ bổn phận trời dúi vào tay, cầm thì khổ mà không cầm thì áy náy. (Nguyễn Ngọc Tư)
● Không phải cái gì óng ánh cũng là vàng. (Ngạn ngữ Anh)
● Sự nỗ lực mà bạn có ngày hôm nay là sức mạnh bạn có vào ngày mai. (Robert Tew)
● Cách tốt nhất để cổ vũ tinh thần cho bạn là cổ vũ những người xung quanh. (Mark Twain)
● Cội nguồn của hạnh phúc là sự biết ơn hoàn cảnh. (Zig Ziglan)
● Một trái tim mạnh mẽ nhất là trái tim chứa nhiều vết sẹo nhất. (Jeff Hood)
● Điều duy nhất tệ hơn việc bắt tay vào làm và thất bại là chẳng làm gì cả. (Seth Godin)
● Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?

(Một khúc ca - Tố Hữu)

● Tôi không tưởng tượng được một kẻ có thể thành công mà không phải trả giá cho cuộc đời may rủi này mọi thứ anh ta có. (Walter
Cronkite)
● Những ước mơ không chết chừng nào bạn còn nuôi dưỡng nó bằng niềm đam mê. (Nick Vujicic)
● Mọi công việc thành đạt đều nhờ sự kiên trì và lòng say mê. (Ngạn ngữ Tây Ban Nha)
● Ai điều khiển được lòng say mê của mình thì đó là ông chủ. (Ngạn ngữ Nga)
● Đam mê tái tạo thế giới cho tuổi trẻ. Nó khiến mọi thứ trở nên sống động và đáng kể. (Ralph Waldo Emerson)
● Trí tuệ của con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp. (W.Got)
● Hãy sống tốt đẹp đi và nhớ rằng, mỗi ngày có một đời sống riêng cho nó thổi (Seneca)
● Bạn có yêu đời không? Vậy đừng phung phí thời gian vì chất liệu của cuộc sống được làm bằng thời gian. (Franklin)
● Chúng ta có bốn mươi triệu lý do về sự thất bại nhưng không có một lời bào chữa nào. (C.Xanbot)
● Chưa thử sức thì không bao giờ biết hết năng lực của mình. (Goethe)
● Đừng để đến ngày mai những việc gì anh có thể làm hôm nay. (Lord Chesterfield)
● Nếu không thể là một bông hoa đẹp thì hãy là một bông hoa thơm! (Bơ đi mà sống – Mèo xù)
● Hạnh phúc là nước hoa – bạn không thể vẩy lên người khác mà không làm vương vài giọt lên chính mình. (Hạt giống tâm hồn)
● Nhưng hơn ai hết, tôi biết không có gì vĩnh viễn. Sự biết này làm tôi hay buồn, khi ta ngồi cạnh nó, ta ở trong nó, cùng với nó, nghe
thấy, chạm được nó, nhưng ta cũng đang mất nó, từ từ – (Khói trời lộng lẫy – Nguyễn Ngọc Tư)
● Phụ bạc luôn len lỏi trong máu của mỗi người. Và những cuộc bỏ rơi nhau vẫn đang xảy ra ở đâu đó. (Gáy người thì lạnh - Nguyễn
Ngọc Tư)
● Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm thanh đẹp nhất của cuộc sống là tiếng của một người nói yêu một người. (Khói trời lộng lẫy – Nguyễn
Ngọc Tư)
● Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười. (Cánh
đồng – Nguyễn Ngọc Tư )
● Bông lau, sậy đẹp nhất là lúc đang tàn, lúc đang phai. Dường như có vài thứ giống vậy, như mùa thu, pháo hoa, giao thừa, tiếng
chuông chùa... lúc đẹp là lúc mất. Chẳng hiểu đẹp để mất hay vì biết sẽ mất nên đẹp...
● Rất nhiều người sống trên đời cũng mang theo một hoặc nhiều câu hỏi mà không được trả lời. Cuộc sống là gì mà thê lương vậy?
(Sông – Nguyễn Ngọc Tư)
● Bà già bán khói cũng nói, sống là một thứ bổn phận trời dúi vào tay, cầm thì khổ mà không cầm thì áy náy – (Sông– Nguyễn Ngọc
Tư)
● Con người trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ nhục nó, hủy hoại nó. Còn thiên nhiên trả thù bằng cách nào em biết không? Nó biến
mất (Khói trời lộng lẫy – Nguyễn Ngọc Tư)
● Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. (Cánh đồng bất tận – Nguyễn Ngọc Tư)
● Có một thứ không bao giờ khuất phục trước số đông, đó chính là lương tâm của con người. (Harper Lee)
● Mỗi câu chuyện đều có những đớn đau khác nhau, càng đớn đau lại càng lộng lẫy, càng lộng lẫy lại càng ám ảnh đến kinh người.
(Gió lẻ và 9 câu chuyện khác – Nguyễn Ngọc Tư)
● Ca tụng thành công là điều tốt, nhưng lưu tâm thất bại mới là điều quan trọng hơn. (Bill Gates)
● Hạnh phúc là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở. (Nam Cao)
● “Lồng ngực của chúng ta đủ rộng rãi nhưng chính tâm hồn ta mới là thứ đang rỉ sét. Hãy khám phá thế giới bên trong một cách
không mệt mỏi, và hạ trại mỗi ngày một gần chân trời phía tây hơn.” – Henry David Thoreau.
● Khi con người ta trông thiện lương hơn thì không phải vẻ mặt mà chính tâm hồn của họ vừa được lau chùi. (Tôi là Bêto - Nguyễn
Nhật Ánh)
● Ông trời nhiều khi hay chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng
thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt. (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)
● Nếu như chúng ta mở lời thì có thể sẽ bị từ chối, nhưng nếu không mở lời thì sẽ không bao giờ được đồng ý. <viên quản ngục xin
chữ người tử tù Huấn Cao/ các đề về tình yêu, sự lựa chọn>
● “Mẹ ơi, đáng lẽ con không nên được sinh ra trên đời này”
“Ai đã ở trên đời , thì tức người đó xứng đáng được sinh ra con ạ. Con cũng thế”

(Cây cam ngọt của tôi – José Mauru de Vasconcelos)

Nhng câu th cho bài ngh lun xã hi:

"Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc"

(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)

"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn


Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại"

(Vội vàng - Xuân Diệu)

"Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau"

(Bài ca mùa xuân 1961 - Tố Hữu)

"Hãy biết yêu thương lấy những manh áo cũ

Để càng thương lấy mẹ của ta

Hãy biết thương những gì đã cùng ta sống

Những gì trong năm tháng trôi qua…"

(Áo cũ - Lưu Quang Vũ)

"Người vá trời lấp bể

Kẻ đắp lũy xây thành

Ta chỉ là chiếc lá

Việc của mình là xanh".

(Lá xanh - Nguyễn Sĩ Đại)

"Ví không có cảnh đông tàn

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân.

Nghĩ mình trong bước gian truân

Tai ương rèn luyện tinh thần thèm hăng."

(Tự khuyên mình - Hồ Chí Minh)

"Nếu tất cả đường đời đều trơn láng

Chắc gì ta đã nhận ra ta

Ai trong đời cũng có khả năng tự mình đứng dậy

Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy

Không chỉ dành cho một riêng ai!"

(Tự sự - Lưu Quang Vũ)

Các hi chng tâm lý có th vn dng trong NLXH:

● Hi chng Quasimodo là rối loạn mặc cảm ngoại hình, hay còn gọi là hội chứng mặc cảm ngoại hình, là một hội chứng rối
loạn tâm thần vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên nếu không hiểu về nó, ta sẽ không biết nạn nhân đang đối mặt với những gì mà chỉ
nghĩ đơn giản là họ quá “điệu”. Người bệnh sẽ bị ám ảnh quá mức về các khiếm khuyết trên cơ thể mình. Đôi khi họ còn cố lần
mò tìm ra cho bằng được điểm xấu xí. Hoặc thậm chí là…tưởng tượng ra chúng. Bệnh nhân thường soi gương rất nhiều. Họ luôn
cố gắng tìm ra một góc độ để khiếm khuyết của mình không bị phát hiện. Họ từ chối mọi lời mời chụp ảnh để tránh các khiếm
khuyết đó bị bắt gặp trong bức ảnh. Họ luôn chăm chút ngoại hình của mình một cách thái quá.
● Hi chng Adele hay còn gọi là hội chứng “ám ảnh tình yêu”. Đây là một hội chứng rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Bệnh
nhân mắc hội chứng này bị ám ảnh về tình yêu. Họ khao khát tình yêu và sự lãng mạn về một mối tình hoàn toàn không có sự
hồi đáp. Các triệu chứng của bệnh giống với bệnh trầm cảm nghiêm trọng. Tuy nhiên, hội chứng này có thể nguy hiểm hơn
nhiều. Họ có thể ngược đãi, tự lừa dối bản thân, hy vọng hão huyền, tự nguyện hy sinh. Họ bỏ qua lời khuyên của người thân,
bạn bè, hành động liều lĩnh. Ngoài ra họ cũng mất đi sự quan tâm với những chủ đề và hoạt động khác.
● Rối loạn đa nhân cách hay còn gọi là “Rối loạn phân tách nhân dạng”. Đây là rối loạn thần kinh hiếm có. Bệnh nhân phân chia
nhân cách của mình và cho rằng có rất nhiều người khác nhay trong cơ thể của mình. Những cá nhân này có thể có giới tính, độ
tuổi, quốc tịch, khí chất, khả năng tinh thần, thế giới và thậm chí là tất cả các loại bệnh tật khác nhau. Nguyên nhân của hội
chứng này là do chấn thương tâm lý trầm trọng trong thời thơ ấu: vì mục đích bảo vệ tâm lý, đứa trẻ bắt đầu cho rằng những gì
đang xảy ra với chúng thực ra là đang xảy ra với người khác.

Lời tâm sự của nhà văn đạt giải Nobel:

- Sự khiêm tốn và nhún nhường là lý tưởng cho đời sống thường nhật của một người, nhưng trong sáng tác văn học thì sự tự tin tối
đa và sự cần thiết tuân theo bản năng lại là điều cốt lõi. (Mạc Ngôn - Nobel Văn học 2012)
- Độc giả biết về cuốn sách nhiều hơn chính tác giả. Giữa cuốn tiểu thuyết và người đọc diễn ra một hiện tượng giống như thao tác
tráng ảnh thời chưa có kỹ thuật số. (Patrick Modiano - Nobel Văn học 2014)
- Chúng ta phải mở rộng thế giới văn chương chung của mình để bao gồm nhiều tiếng nói hơn đến từ bên ngoài những vùng an
toàn của các nền văn hoá thế giới thứ nhất thượng tầng của chúng ta. (Kazuo Ishiguro - Nobel Văn học 2017)
- Những bài thơ mà tôi tâm huyết suốt đời thuộc kiểu tôi đã miêu tả, chúng có mối liên kết thân mật với người nghe hoặc người
đọc - họ nhận mọi tâm sự, những tiếng than thở và đồng cảm. (Louise Gluck - Nobel Văn học 2020)
- Văn học là một loại lục địa mà tôi vô thức đặt ở vị trí đối lập với môi trường xã hội của mình. Và tôi quan niệm viết chính là
biến đổi hiện thực. (Annie Ernaux - Nobel Văn học 2022)

Các hiu ng tâm lý có th dùng trong khi vit:

● Hiệu ứng đám đông.


● Hiệu ứng cánh bướm.

Dn chng:

● VÔ CM:
○ Cậu bé Trevor trong bộ phim "Đáp đền tiếp nối" (Pay it forward), khi thầy giáo ra đề bài: "Một ý tưởng làm thay đổi
thế giới", cậu đã đưa ra một dự án: Khi ai đó giúp đỡ bạn, xin đừng trả ơn mà hãy làm ơn cho 3 người khác và 3 người
sẽ giúp 9 người, 9 người sẽ giúp 27 người, cứ thế mà tiếp nối và mọi người sẽ mang lại điều tốt cho nhau. Thế giới sẽ
thay đổi!
○ Theo kết quả của hãng khảo sát quốc tế Gallup công bố cuối tháng 11/2012, chỉ có 40% số người Việt Nam được hỏi
cho biết, họ trải qua nhiều cảm xúc trong một ngày. Với tỉ lệ này, Việt Nam xếp thứ 13 trong bảng xếp hạng những
quốc gia mà người dân ít có cảm xúc (vô cảm) nhất, sau các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nga, Madagascar, Belarus,
Nepal…
○ Bé gái 2 tuổi Vương Duyệt Duyệt bị hai chiếc xe tải khác nhau cán trên đường tại một khu chợ nhộn nhịp ở TP Phật
Sơn, miền Nam Trung Quốc. Theo camera do máy quay an ninh ghi lại, ít nhất 18 người đi bộ hoặc đạp xe qua mà
không dừng lại giúp bé, dẫn đến cái chết một cách thảm thương -> Vô cảm dẫn đến tội ác.
● Nicholas Winton:
Trong thế chiến thứ II, đã cứu sống hàng trăm đứa trẻ Do Thái từ trong đống xác người. Giữa loạn lạc chiến tranh, ông đã âm
thầm giúp đỡ 669 trẻ em Do Thái chạy thoát khỏi doanh trại của phát xít Đức, sắp xếp 8 chuyến tàu đưa các em đến nước Anh
và dùng tất cả tiền tiết kiệm của mình để giúp những đứa trẻ đó tìm được gia đình mới, chỉ với mong muốn là để chúng được
sống tiếp. Một mình ông đã âm thầm làm điều đó, và sau này câu chuyện của ông đã khiến cả thế giới phải ngả mũ xúc động.

● Anna Pavlova:
Nghệ sĩ múa ba lê nổi tiếng, là người đã nuôi dưỡng đam mê nghệ thuật của mình đến những giây phút cuối đời. Trước khi trút
hơi thở cuối cùng, bà yêu cầu người ta mặc cho bà bộ váy bà vẫn mặc khi biểu diễn vở "Cái chết của con thiên nga". Vào đêm
diễn ra các buổi biểu diễn tiếp theo, trên sân khấu ở Hague, người ta để duy nhất một chiếc đèn tỏa ánh sáng xuống một điểm
dành cho diễn viên ba lê để tưởng nhớ Anna Pavlova. Vòng tròn ánh sáng trống không như muốn nói lên rằng: Sân khấu ba lê
thế giới đã chịu một mất mát lớn lao như thế nào khi phải vĩnh biệt một nữ hoàng của nó.

● Oki Toshiyuki:
Cụ ông Oki Toshiyuki, du khách Nhật Bản đã liên tục nói lời xin lỗi, nhận sai về mình - mặc dù bị người lái xích lô "chặt chém"
2,9 triệu cho một cuốc xe khoảng 5 phút khi đi du lịch tại TP.HCM. "Lỗi là tại tôi không hỏi giá trước". Khi biết gia cảnh khó
khăn của người lái xích lô, ông cũng không muốn lấy lại số tiền đã mất và vẫn tin rằng, người đàn ông trên có lý do khó nói nên
mới phải hành động như vậy. Lâu nay, với người Nhật xin lỗi được xem là văn hóa, nó thể hiện đức tính khiêm tốn của con
người. (Trong mỗi một vụ việc xảy ra, dù nguyên nhân do ai, nhưng ban đầu người Nhật vẫn cúi đầu, nhận lỗi về mình: "Để cái
sai xảy ra, lỗi trước hết là do bản thân".)

● Starbucks:
Hình ảnh và thiết kế cửa hàng là nhân tố tạo nên sự khác biệt của Starbucks, cũng chính điều này làm khách hàng nghĩ rằng
"Starbucks luôn đi trước một bước" - đó là nhận định của CEO Howard Schultz khi nói đến thiết kế hình ảnh thương hiệu
Starbucks. Khi sáp nhập với Giornale, Starbucks đã thiết kế lại toàn bộ các cửa hàng, và sử dụng hình ảnh minh họa để nhấn
mạnh tính độc đáo của mỗi loại cà phê nguyên hạt. Mỗi loại tem gợi lên những khía cạnh văn hóa khác nhau của từng nước,
khắc hoạc hệ thực vật bản xứ. Vào thời điểm đó, ý tưởng này của CEO Howard là hoàn toàn độc nhất, tạo được hiệu ứng thị giác
mạnh mẽ, thu hút được khách hàng.

● 3 chàng lính cu ha:


Người ta cứ mải miết đi tìm những hình tượng anh hùng đâu xa, những vị thánh nhân dường như chẳng tồn tại mà quên đi rằng
những con người tử tế và dũng cảm luôn hiện diện trên mảnh đất này bằng xương bằng thịt. Gần đây, người ta không khỏi xót xa
trước hành động anh dũng của ba người lính cứu hỏa ở Hà Nội đã liều mình giải cứu những người mắc kẹt trong đám cháy của
quán karaoke để rồi người đã được cứu sống nhưng các anh chẳng tiếc bỏ lại “đời xanh” của mình trong ngọn lửa hung tàn.
Hành động của các anh xuất phát từ một tấm lòng yêu nước, thương dân, hành động tử tế và đầy quả cảm của “ba chàng lính ngự
lâm” trẻ đã gây sức lan tỏa vô cùng lớn đến với cộng đồng. Người ta không chỉ tiếc thương cho những con người anh hùng mà
còn là một lời nhắc đầy thấm thía đến ý thức cộng đồng: “ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai.

● Người cha Đinh Minh Nhật:


Người ta nghĩ rằng: Hai mươi năm để đi tìm cái tôi là quãng thời gian lâu nhất. Thế nhưng để đi tim được lòng từ bi và sự tử tế
có khi người ta phải đi đến cả đời người. Chưa bao giờ là dễ dàng để nuôi nấng một đứa trẻ, bỏ ra sự nhẫn nại và kiên trì để đồng
hành cùng con suốt một đời dài. Thế nhưng, lại có người đàn ông, người cha Đinh Minh Nhật sẵn sàng cưu mang, nuôi nấng cho
cả trăm đứa trẻ từ nhỏ đến lớn, thậm chí còn chẳng mang chút quan hệ huyết thống nào với mình. Hai mươi năm ròng miệt mài
làm lụng, dè sẻn từng miếng ăn để chăm lo cho những người con trong mái ấm Guise do chính ông lập nên, hai mươi năm vất vả
đến nay đã nhận nuôi 131 người con và đã là chỗ bấu víu cho hàng trăm tương lai Việt.

● Hành động đẹp của tay cơ Trần Quyết Chiến:


Tầm vóc của một người không được quyết định bởi anh ta cao to hay giàu có bao nhiêu mà tầm vóc thực sự của một người được
ẩn náu trong “trái tim” của sự tử tế. Ở kỳ seagame 31, sau khi giành chiến thắng cách biệt trước tay cơ kỳ cựu Efren Reyes, đáng
lẽ ở khoảng khắc ấy người ta thông thường sẽ tôn vinh cho ánh hào quang của chiến thắng của bản thân mình. Tay cơ người Việt
đã có cái cúi đầu đầy kính trọng trước tay cơ người Philippines. Điều này không làm cho con người ta “lớn lên” mà còn có sức
lan tỏa vô cùng mạnh mẽ nhằm tạo ra một cộng đồng tử tế để hướng đến một đất nước nhân văn và cao cả hơn.

● Tha th và chuc li:


Thay vì trừng trị những kẻ bại trận (Liên minh miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ). Trong buổi lễ sau khi cuộc nội chiến Mỹ kết
thúc, Abraham Lincoln đã phát biểu: “Chúng tôi không ác tâm với bất kì ai, hãy để chúng tôi nỗ lực làm trọn công việc của mình
để hàn gắn đất nước”

● Môi trng:
1. Ăn chay.
○ Theo báo cáo năm 2006 của Tổ chức Liên Hiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc, hiện tượng hiệu ứng nhà kính diễn ra
trên toàn cầu do ảnh hưởng của ngành chăn nuôi là 18%.
○ Việc ăn thịt không chỉ gây ảnh hưởng tiêu cực đến biến đổi khí hậu, việc sử dụng quá nhiều nước và đất trong chăn
nuôi còn gây ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh vật, khiến một số loài sinh vật trong đất và nước không còn khả năng sinh
tồn.
○ Ước tính, mỗi phút trên thế giới có tới 8000m2 đất rừng nhiệt đới bị triệt phá cho các hoạt động chăn nuôi gia cầm, gia
súc. Chỉ riêng trong giai đoạn 2000 - 2005, diện tích rừng nhiệt đới Amazon bị chặt phá đã lên tới 65 - 70%. Trong
những năm gần đây, khu vực này cũng liên tục bị báo động bởi các nạn cháy phá rừng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến
sinh quyển cũng như tình trạng ô nhiễm toàn cầu.
○ Từ những tác hại của việc ăn thịt tác động sâu sắc tới môi trường, những năm gần đây trong giới trẻ nổi lên làn sóng
ăn chay để bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật. Trên các nền tảng mxh ngày càng xuất hiện nhiều video hướng dẫn làm
đồ chay giả thịt, các quán ăn chay xuất hiện ngày càng nhiều, càng ngày càng có nhiều bạn trẻ tham gia ăn chay để
bảo vệ môi trường.
2. Chiến dịch Giờ Trái Đất:
Do quỹ bảo tồn thiên nhiên quốc tế tổ chức đã nhận được sự hưởng ứng của 62 quốc gia, hướng đến con số 1 tỉ người
trên 10 000 thành phố tham gia. Tất cả tắt đèn vào ngày thứ 7 cuối cùng của tháng 3 lúc 20h30p để ủng hộ các hoạt
động nhằm giảm thiểu những nguy cơ của biến đổi khí hậu toàn cầu.

3. Thời trang nhanh, trend dùng đồ secondhand của gen Z hiện nay.
Rất nhiều các bạn trẻ ngày nay ưa chuộng xu hướng dùng đồ Secondhand (đồ đã qua sử dụng một lần) để góp phần bảo
vệ môi trường chung, giảm lượng rác thải từ ngành thời trang, tái chế các quần áo, sản phẩm vẫn còn khả năng tận
dụng,...

Dn chng t các loài vt:

1. Cá hồi đỏ ở Canada.
Cứ 4 năm một lần, vào tháng mười ở đoạn sông Adams - British Columbia (Canada), hàng triệu con cá hồi đỏ
từ Thái Bình Dương bơi ngược dòng lên đến đoạn sông nơi chúng sinh ra để đẻ trứng. Chúng trải qua một hành trình
vượt thác không hề dễ dàng. Nếu không vượt qua được chúng sẽ vào bụng gấu. Nhưng nếu vượt qua được lại chịu kiệt
sức và duy trì những phút giây cuối cùng để duy trì nòi giống.

→ Bài học về sự vượt lên trên khó khăn bằng sự nghiêm túc. Dù đã biết bản thân sẽ không nhận được kết quả
tốt đẹp vẫn cố gắng nỗ lực hết mình, sống trọn vẹn trong từng phút giây. Bên cạnh đó còn là bài học về sự biết ơn nơi
mình từng sinh ra. Dù cách bao lâu, bao xa thì quê hương vẫn là nơi để chúng ta quay về, để vỗ về mỗi người.

2. Sa.
Sứa là một loài động vật với cấu tạo đơn giản. Chúng không có xương, không có não và cũng không có tim.
Với ngoại hình trong suốt đầy đặc biệt của mình, sứa có những chiếc xúc tu chứa hàng ngàn sợi lông dạng xoắn giống
như những chiếc gai có chứa nọc độc.

→ Loài sứa cũng giống như mỗi người trong xã hội. Vẻ bề ngoài chưa thể đánh giá toàn vẹn con người, điều
chúng ta cần là quan tâm giá trị ẩn chứa bên trong. Đừng chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài trong suốt mà vội đánh giá bên trong
chúng chứa đựng điều gì. Chính vì thế, đừng nhìn nhận con người chỉ qua vẻ bề ngoài.

3. Chú cá voi cô đơn nhất thế giới.


Chú cá voi với tiếng kêu ở tần số bất thường, lên đến 52Hz. Trong khi đó ở những loài cá voi khác, ví dụ như
cá voi xanh, tần số tiếng kêu của nó là từ 10-39Hz và con số này là 20Hz đối với cá voi vây. Chính vì tần số quá đặc
biệt nên 52Hz không được đồng loại của mình "lắng nghe". Tiếng kêu của nó chẳng bao giờ có lời hồi đáp từ những
chú cá voi xung quanh. Thế nhưng suốt thời gian qua từ khi được phát hiện, chú cá voi này vẫn ngày ngày miệt mài cất
tiếng gọi mong đợi một người bạn. Tuy nhiên 52Hz vẫn sống sót và trưởng thành đến tận bây giờ.

→ Chú cá voi cô đơn là minh chứng về sự lạc quan và niềm tin trong cuộc sống. Có đôi lúc con người ta cảm
thấy cô đơn, không một ai có thể hiểu được mình, không ai chia sẻ cùng mình thì đó vẫn không phải là tất cả. Ta vẫn
được quyền hy vọng đặt niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.

4. c sên.
Ốc sên là loài động vật di chuyển chậm nhất thế giới. Chúng chỉ biết tiến thẳng về phía trước theo một lộ trình
mà chúng đã chắc chắn. Mặc dù không di chuyển nhanh nhưng chúng lại giữ tốc độ khá ổn định và luôn tiến thẳng về
phía trước. Điều đặc biệt là trên đường di chuyển, ốc sên luôn tiết ra chất nhầy để đánh dấu quãng đường mà chúng đã
đi, cũng như quãng đường cần phải quay lại để về điểm xuất phát. Loài ốc sên có phản ứng rất độc đáo trước cuộc tấn
công của kẻ thù. Thay vì rút lui cơ thể mềm mại vào lớp vỏ bảo vệ, chúng đung đưa lớp vỏ qua lại như một cây gậy để
tấn công bọ cánh cứng đang tiến đến gần. Chúng sử dụng vỏ để tấn công kẻ thù lại là cách phòng thủ chủ động.

→ Ốc sên mang đến bài học về sự kiên trì trong cuộc sống. Nhưng đó không phải chỉ là sự kiên trì có kèm
theo chút tính toán. Con người đôi khi cần học ở những chú ốc sên ở việc tiến về phía trước với một kế hoạch được lập
sẵn một cách nghiêm túc và bền bỉ. Cố gắng vì mục tiêu của bản thân mà không bị xao nhãng bởi các yếu tố xung
quanh là một điểm vô cùng đáng học hỏi. Đồng thời là bài học về sự chủ động, không chỉ thuần "phòng thủ" mà luôn
luôn chuẩn bị đối mặt với những khó khăn.

"Chậm rì, chậm rì

Kìa con ốc nhỏ

Trèo núi Fuji"

(Issa, thơ Haiku)

5. Chim đại bàng.


"Khi chim đại bàng biết sắp có bão, nó sẽ bay tới một chỗ nào đó thật cao và chờ gió tới. Khi cơn bão ập đến, đại bàng sẽ mở
rộng cánh và chính cơn gió đầy nguy hiểm đó sẽ nâng đại bàng lên cao, cao hơn cả bão. Trong khi mưa bão gầm gào bên dưới, thì đại
bàng đang sải cánh bên trên. Đại bàng không đi trốn cơn bão, đại bàng dùng cơn bão để nâng nó lên cao hơn, vì nó cưỡi trên những cơn
gió mang bão tới".

→ Con người luôn cần cảnh giác trước những "cơn bão cuộc đời". Con người vượt lên trên khó khăn, vượt nghịch cảnh, biến
khó khăn thành động lực để vươn đến một tương lai tốt đẹp hơn.

6. Con trai.
Ngọc trai được tạo ra do những điều kiện tình cờ khi có một vật lạ nhỏ bên ngoài hoặc hạt cát chui vào bên trong con
sò, trai và nằm luôn trong đó. Bị kích thích bởi vật lạ này, con trai tạo nên một lớp xà cừ bao bọc lấy hạt cát xâm nhập đó. Quá trình này
lặp đi lặp lại nhiều năm và tạo ra viên ngọc.

→ Con trai mang đến bài học về sự dũng cảm khi vượt qua và ôm ấp nỗi đau để biến thành cái đẹp cho cuộc đời. Dạy con người
về lòng bao dung, trái tim yêu thương cảm hóa cái xấu thành cái đẹp. Đồng thời, không nên đánh giá ai qua vẻ bề ngoài, bên ngoài con
trai xù xì lại chứa đựng một vật rất giá trị bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của con người mới là đáng quý hơn cả.

7. "M H" Collarwall


Là một cô hổ nổi tiếng ở công viên quốc gia Pench, Ấn Độ, cô góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ giống loài của
mình bằng việc sinh 25 chú hổ con trong suốt cuộc đời mình. Trước khi cô qua đời, Collarwali vẫn cố gượng để đi hết khu bảo
tồn và dừng lại ở chỗ nằm quen thuộc bên bờ suối. Tất cả nhân viên và người dân xung quanh đã đặt vòng hoa và đọc kinh cầu
nguyện cho cô hổ ra đi thanh thản.

→ Bài học về lòng biết ơn và trân trọng những ai đã quan tâm, chăm sóc mình. Cùng với đó là một hình ảnh đẹp về
nhân cách con người trân trọng và bảo vệ động vật trước những nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài động vật trên toàn thế giới.

8. Linh dương đen.


Khoảng độ 3 tháng sau khi lọt lòng mẹ, những con linh dương đen ở vùng đất phía Nam châu Phi đã phải tự mình tạo
lập một cuộc sống mới, và chúng bắt đầu rời xa cha mẹ cũng như vùng đất mới của mình để kiếm tìm một nguồn lương thực và
thích nghi với một cuộc sống mới trên thảo nguyên. Nhưng đến một độ nào đó, chúng lại quay trở về mảnh đất nơi nó sinh ra để
cảm nhận trọn vẹn hơi đất lần cuối trước lúc giã từ.

→ Vị trí của quê hương trong lòng mỗi người luôn không thay đổi dù người ta có đi xa đến đâu. Dù đã trôi qua bao lâu
thì người ta vẫn mong muốn được trở về, được nằm xuống mảnh đất của quê hương.
ÁP DỤNG LÝ LUẬN VĂN HỌC VÀO
KẾT BÀI

1. Vận dụng kiến thức lý luận về phong cách nghệ thuật.


Phong cách nghệ thuật là biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới
mẻ chưa từng có về cuộc sống, con người, thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức, phương
tiện thể hiện đặc thù, in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo.

Mỗi nghệ sĩ xuất hiện trên văn đàn đều muốn xây dựng cho mình một phong cách riêng, độc đáo để tên tuổi không bị nhầm
lẫn với bất kì tên tuổi nào. Bởi vậy, để kết bài gây được ấn tượng đến người đọc chúng ta có thể vận dụng kiến thức lý luận
về phong cách nghệ thuật. Với cách này, chúng ta cần chỉ ra một vài nét sáng tạo, độc đáo trong phong cách của nhà văn/
nhà thơ để khẳng định những đóng góp của họ thông qua tác phẩm đang được đề cập trong bài viết.

Ví dụ: Trong bài điếu văn đọc tại lễ truy điệu của Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhận định: “Nguyễn Tuân là người
suốt đời đi tìm cái đẹp”. Vì thế mà qua “Người lái đò Sông Đà” có thể nhìn thấy hình ảnh con người với vẻ đẹp trí tài, trí
dũng, với tay lái ra hoa trên dòng Đà giang “hung bạo, trữ tình”. Dường như, vẻ đẹp ấy kết tinh đậm nét phong cách tài
hoa, uyên bác, con mắt quan sát tinh tế, trái tim đầy nhiệt huyết với nghệ thuật và tài năng văn học thiên phú của Nguyễn
Tuân. Ông xứng đáng được tôn vinh là “người săn tìm và sáng tạo cái đẹp”, góp phần làm cho nền văn học dân tộc thêm
giàu đẹp!

2. Vận dụng kiến thức lý luận về tiếp nhận văn học.


Theo sách giao khoa Ngữ văn 12, tập 2: “Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với
nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn ngữ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay,
cái đẹp, cái tài nghệ của nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình,
người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật, dõi theo diễn
biến câu chuyện, làm cho tác phẩm từ văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy cuốn hút. Như vậy, tiếp
nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật theo tâm
trí mình”.

Mỗi độc giả tuỳ theo vốn hiểu biết, trình độ văn học, đặc điểm về giới tính,…mà có thể đến với tác phẩm bằng con đường
riêng. Mỗi độc giả có muôn vàn cách khác nhau để mở ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Bởi vậy mà độc giả đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành sức sống, giá trị của một tác phẩm văn chương nghệ thuật chân chính.

Khi vận dụng kiến thức lý luận về tiếp nhận văn học vào trong kết bài của mình, chúng ta cần đưa ra những cảm nhận riêng
của bản thân về tác phẩm. Điều đó giúp cho bài làm của các bạn mang màu sắc, xúc cảm của cá nhân, dễ dàng thu hút, lôi
cuốn bạn đọc.

Ví dụ: Gấp lại trang sách, hình ảnh của cô Mị cùng khát vọng sống mãnh liệt vẫn in đậm trong tâm trí tôi. Chưa bao giờ tôi
thấy chân dung và tâm hồn của những người lao động vùng cao trong văn học được yêu mến và trân trọng nhiều như trên
trang văn của Tô Hoài. Tác giả đã đặt tất cả niềm tin yêu, hi vọng vào “những con người mặc bộ đồ tôi tớ nhưng tâm hồn
không tôi tớ”. Để rồi mỗi lần đọc “Vợ chồng A Phủ” là một lần hiểu thêm về những người lao động nghèo với khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, là một lần nhớ tới nhà văn luôn dành tình yêu thương, nặng lòng với mảnh đất Tây
Bắc. Xin mượn mấy ý thơ của Trần Đông Phong để bày tỏ lòng biết ơn, trân quý đến Tô Hoài – một trong những nhà văn
làm nên mùa gặt ngoạn mục của nền văn học thế kỉ XX:

“Sông Tô một thoáng mây mờ


Phủ Hoài lặng tiếng vẫn chờ đợi ai
“Truyện Tây Bắc” mãi nguôi ngoai
“Vợ Chồng A Phủ” nhớ ai bên trời”

3. Vận dụng kiến thức lý luận về chức năng của văn học.
Viết văn làm thơ là để phản ánh, nghiền ngẫm về cuộc sống muôn màu, dựng lên “hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”. Đồng thời, nhà văn cũng bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan niệm, hiểu biết về cuộc đời, mong muốn ký thác,
tự bộc bạch, tự đối thoại, tự trình bày cái tôi của mình. Tác giả thông qua tác phẩm của mình cũng khao khát bồi đắp tâm
hồn, giáo dục tư tưởng cho người đọc, thông tin, dự báo, dự cảm về cuộc sống.

Văn học mang nhiều chức năng. Chức năng văn học thường vận động biến đổi theo sự thay đổi của đời sống xã hội. Các
chức năng cơ bản của văn học: nhận thức (tự nhận thức), giáo dục (tự giáo dục), thẩm mĩ, giao tiếp, giải trí, dự báo.

Với cách này, mọi người đưa ra chức năng của tác phẩm đang bàn luận để khẳng định thêm về sức sống của một tác phẩm
nghệ thuật chân chính.

Ví dụ: Nhà thơ Lưu Trọng Lư từng viết trong lời gửi gắm cùng “thư cho em gái” rằng: “Thơ không phải chỉ là thơ mà thôi.
Thơ còn là “người” nữa. Anh gửi một tâm hồn. Anh gửi em một người. Một người đã sống. Một người biết sống”. Văn
chương nghệ thuật muôn đời đều là câu chuyện đẹp về những con người “đã sống” và ” biết sống” như thế. Với ” Sóng”
nhà thơ Xuân Quỳnh đã cho ta thấy khát vọng sống và yêu mãnh liệt của một tâm hồn ” biết sống” là như thế nào. Và tôi
tin với nguyện ước thành thực và cảm xúc chân thành đó sẽ giúp ” Sóng”: ” vượt qua quy định của sự băng hoại. Chỉ mình
nó không thừa nhận cái chết.”

4.Vận dụng kiến thức lý luận về quá trình sáng tạo của nhà văn
Như một quy luật bất biến, văn học luôn bám rễ vào cuộc đời, hút nguồn sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống.
Nghệ sĩ như những chú ong cần cù kiếm tìm những mảng đề tài, cảm hứng, vốn sống, chắt lọc hiện thực phản ánh vào tác
phẩm…. Chả thế mà Chế Lan Viên từng viết:

“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt
Một giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay”

Để sáng tạo một tác phẩm văn chương chân chính có sức sống mãnh liệt trong lòng bạn đọc không phải là điều dễ dàng mà
kết tinh biết bao tài năng, tâm huyết, công sức của “người thợ ngôn từ”

Dựa trên đó, chúng ta có thể vận dụng kiến thức lý luận này vào phần kết bài. Chúng ta cần chỉ ra quá trình “lặn ngụp” sâu
vào cuộc đời của tác giả để cho ra “đứa con tinh thần” thấm đẫm tư tưởng nhân văn, nhân đạo.

Ví dụ: Có ai đó đã từng nói: “Một nhà văn chân chính phải sống bằng trái tim và viết bằng lí trí, không thể đi ngược lại
tiếng nói của trái tim và hiện thực cuộc sống”. “Vợ nhặt” chính là thiên truyện được cộng hưởng nhịp nhàng giữa trái tim
nghệ sĩ ngập tràn tình yêu thương, trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của những người lao động nghèo với hiện thực khắc nghiệt,
đen tối của nạn đói năm 1945. Được viết lên từ gió bụi của cuộc đời và chưng cất bằng tấm lòng nhân đạo, tài hoa vô ngần
của người nghệ sĩ chân chính bởi vậy truyện ngắn “Vợ nhặt” đã làm lay động biết bao tâm hồn yêu văn chương, nghệ
thuật. Câu chuyện đầy cảm động nhưng ánh lên những tia sáng tươi đẹp của tình yêu đặc biệt là khát vọng sống mãnh liệt,
niềm tin vào một tương lai tươi sáng.

5. Vận dụng kiến thức lý luận về đặc trưng thể loại.


Mỗi thể loại văn học đều mang những đặc trưng riêng. Với cách này, chúng ta cần vận dụng linh hoạt kiến thức về đặc
trưng thể loại văn học: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… để nhấn mạnh giá trị của tác phẩm. Đối với truyện ngắn, chúng
ta có thể vận dụng những đặc trưng về cốt truyện, tình huống truyện, chi tiết, hình tượng nhân vật,…Đối với thơ, chúng ta
có thể vận dụng những đặc trưng về ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh, tư tưởng, tình cảm…

Ví dụ 1: M. Gorki từng nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Kim Lân quả xứng đáng là một nhà văn lớn của nền văn
học Việt Nam, khi chỉ từ những chi tiết nhỏ bé mà sâu sắc, ông đã đặt cả một tài năng và tấm lòng nhân đạo của mình vào
đó. Cùng với đó, thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” còn phải kể đến việc Kim Lân đã gây ấn tượng mạnh với độc giả
bằng lối kể chuyện lôi cuốn, ngôn từ giản dị, phù hợp với mọi lứa tuổi. Có lẽ vì thế cho đến nay, “Vợ nhặt” vẫn để lại dư
âm khó phai mờ trong lòng người đọc của nhiều thế hệ.

Ví dụ 2: Tố Hữu từng quan niệm: “Một bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người
và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột”, điều đó được chứng minh qua “Việt Bắc”. Ở đó, Tố Hữu không viết thơ mà ông
đang dùng “gan ruột” của mình để “kí thác” một chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc. Khép lại chặng đường dài gian
khổ ấy là kỉ niệm, là tình nghĩa, là sự kết tinh “hạt mầm cho đời sau hái trái”. Qua đây, chúng ta thêm tự hào về thế hệ cha
anh, về tinh thần chiến đấu hào hùng, về những chiến công “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” của dân tộc Việt Nam.

Ví dụ 3: “Thơ là chữ nghĩa cũng không phải là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà không hẳn vô
thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ”. Và “sự bộc lộ” ấy, qua Quang Dũng, hình thành nên “Tây Tiến”.
Qua tác phẩm, nhà thơ “xứ Đoài mây trắng” đã cho ta cảm nhận được về tinh thần dũng cảm và tư thế hiên ngang của
những người lính Tây Tiến trong những năm tháng “cả nước lên đường”, trong những năm tháng gian khổ đau thương
nhưng cũng vĩ đại oai hùng. Đồng thời bài thơ gợi lên trong lòng bạn đọc niềm tự hào về thế hệ cha anh về những năm
tháng chiến đấu tuy gian khổ mà hào hùng của dân tộc, về tinh thần chiến đấu kiên cường để là nên chiến thắng “lừng lẫy
năm châu chấn động địa cầu”.

6. Vận dụng kiến thức lý luận về giá trị của văn học
Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc sống con người, tác
động sâu sắc tới con người và cuộc sống. Văn học có những giá trị cơ bản sau: giá trị nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị
thẩm mĩ.Với cách này, chúng ta cần chỉ ra giá trị mà tác phẩm văn học mang đến cho người đọc, giá trị đó đóng góp cho
cuộc sống như thế nào?

Ví dụ 1: Bêlinxki quan niệm: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là
tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Mỗi tác
phẩm như một nấc thang nâng đỡ bước chân người đọc đi đến phần người, đi đến những giá trị chân – thiện – mĩ của cuộc
sống. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích như một làn gió mang tới cho tâm hồn con người thứ mát lành của triết
lí sống đáng quý. Gấp lại trang sách mà ngọn gió ấy vẫn không ngừng thổi muôn đời.

Ví dụ 2: Tố Hữu từng nói: “Một bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi
muốn thơ phải thật gan ruột”, điều đó được chứng minh qua “Nói với con”, khi Y Phương không viết thơ, mà đó chính là
những lời thủ thỉ, tâm tình đầy yêu thương, đầy xúc động của một người cha với đứa con thơ của mình khi nói về vẻ đẹp
của những con người trên quê hương mình. Chính bởi lẽ đó đã khiến hình ảnh của quê hương, của người đồng mình hiện
lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là mạch suối ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ý chí cho con. Đọc
bài thơ, hiểu về vẻ đẹp của những con người quê hương, ta thêm yêu, thêm trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp
quê hương, đất nước.

7. Vận dụng kiến thức lý luận về tư chất của người nghệ sĩ.
Là người sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật cho cuộc đời và con người, nghệ sĩ không thể thiếu một trái tim nhạy cảm, đa cảm,
mãnh liệt, giàu lòng nhân ái và khao khát hướng tới những giá trị chân – thiện – mĩ. Trái tim ấy có những nhạy cảm hơn
đời, có những cung bậc khác đời, dồi dào, giàu có hơn những người bình thường, tâm hồn họ như “một cây đàn muôn
điệu” với những sợi tơ lòng dễ rung ngân trước mọi “vang động của đời”.Dựa trên kiến thức đó, chúng ta có thể vận dụng
để tạo ra một kết bài thật hấp dẫn bằng cách chỉ ra những tâm tư, tình cảm của tác giả kí thác trong tác phẩm của mình.

Ví dụ: Tác phẩm văn học chỉ có giá trị khi đó là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là nơi kí thác những nỗi niềm tâm sự, sự trăn
trở, suy tư, những nỗi đau, bi kịch của nhân sinh, từ đó nhân danh con người mà đấu tranh với những thế lực xấu xa, đen
tối để bảo vệ quyền sống của con người. Thử hỏi nếu không có sự gắn bó tình cảm đặc biệt đối với những người nông dân
nghèo, liệu Kim Lân có thể viết nên thiên truyện “Vợ nhặt” lấp lánh tình người như vậy? Nhà văn đã viết về họ bằng tất cả
tài năng, tâm huyết, niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong người lao động nghèo cùng với đó là cả một
thái độ căm phẫn trước tội ác mà thực dân Pháp và phát – xít Nhật đã gây ra cho dân tộc ta.

8. Vận dụng kiến thức lý luận về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
Hiện thực đời sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông, bất tận của tâm hồn nghệ sĩ. Bất kì một sáng tác nghệ
thuật nào nếu không bén rễ vào cuộc đời, không hút nguồn sống dạt dào chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ không thể tồn
tại trong thế giới khắc nghiệt của văn chương nghệ thuật. Là nhà văn chân chính, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên
mực cuộc đời thì tác phẩm của anh mới neo chặt trong tâm hồn của người thưởng thức.Với cách này, chúng ta cần chỉ ra
chất liệu hiện thực đóng góp như thế nào đối với tác phẩm văn học ta đang phân tích.

Ví dụ 1: “Văn học là cuộc đời. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”. Mỗi nghệ sĩ lớn đều ý thức sâu
sắc về mối quan hệ giữa hiện thực và cuộc sống. Hiện thực bao giờ cũng là nguồn cảm hứng bất tận của tâm hồn nghệ sĩ.
Và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng không phải một ngoại lệ. Mượn từ hiện thực cuộc sống hình ảnh những chiếc
xe không kính thô sơ, Phạm Tiến Duật thổi vào trang thơ của mình một luồng gió mới, khác hoàn toàn so với các bài thơ
viết về đề tài người lính và chiến tranh trước đó. Qua bài thơ, chúng ta càng thêm yêu và tự hào về thế hệ cha anh,về những
năm tháng chiến đấu hào hùng của dân tộc. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc
sống làm biến chuyển đi tất cả nhưng với giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối
với.

Ví dụ 2: Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời đã từng khiến rất nhiều nhà văn trăn trở. Nam Cao từng thốt lên rằng
“Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu
đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”, còn Nguyễn Huy Tưởng viết trong Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà
không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”. Nguyễn Minh Châu cũng đồng quan điểm với
những tư tưởng ấy, ông sâu sắc nhận ra rằng “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan”, làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ,
chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn sâu sau đó là những hiện thực phũ phàng. Mà từ đó người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa
diện, thấu hiểu để nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống
rỗng, vô hồn. Qua “Chiếc thuyền ngoài xa”, tư tưởng sâu sắc đó đã được Nguyễn Minh Châu thể hiện thật thấm thía, để lại
cho mỗi người đọc chúng ta biết bao nhiêu suy tư. Truyện ngắn đã thể hiện “nỗi quan hoài thường trực” của nhà văn về
hiện thực cuộc sống đói nghèo, tăm tối. Cần có những biện pháp thiết thực để xoá đói giảm nghèo, đưa con người thoát
khỏi cuộc sống nghèo khổ.

Mở bài cho lí luận văn học


1. Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống
 Mở bài 1
Có ai yêu một loài hoa không sắc không hương? Có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không cảm xúc? Văn chương
phản ánh hiện thực nhưng nó không phải là một tấm hình khô cứng và vô hồn, mà đó là tiếng lòng thổn thức từ những câu
chuyện của cuộc đời – câu chuyện được ngân vang trên ngọn đồi tuyết phủ trắng trời, thấp thoáng những đóa sơn trà e ấp
trong làn sương giăng mờ ảo. Chính hiện thực cuộc sống luôn là cảm hứng cho sáng tác văn học, là cội nguồn gọi thức con
chữ, là cầu nối tâm hồn đồng điệu của người nghệ sĩ với độc giả. Chính vì vậy, … đã khẳng định: …

 Mở bài 2
“Anh đi qua trái đất để lại chừng thơ ấy
Hãy thương anh! Anh nào có chi nhiều
Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy
Trái tim nghèo, nhưng cũng đã tin yêu”.

Nếu hội họa dùng đường nét và màu sắc để phác họa nên bức tranh cuộc sống, âm nhạc dùng ca từ và giai điệu để tạo
nên những tiếng ca thì văn học dùng ngôn ngữ và hình ảnh để làm chất liệu cho sáng tác. Hiện thực đời sống luôn là nguồn
cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa,
điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Nói như …:
2. Chức năng giáo dục của văn học
 Mở bài 1
Như bông cúc nhỏ sinh ra để luôn tự hát về vùng đất mênh mang nắng gió; như ánh mặt trời sinh ra để thiêu đốt đi cái lạnh
giá vĩnh cửu của mùa đông, văn học sinh ra để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị đẩy vào
cùng đường, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nói như …:

 Mở bài 2
Sáng tác văn học được ví như công việc của một người chèo thuyền trên sông. Nước chảy thuyền trôi … Con thuyền đi qua
mọi bến bờ của thời gian, không gian và ở một nơi xa nào đó trên bờ hoang vắng đầy cỏ dại, nó đã cập bến, mang theo
những khuôn hàng để trao tay đến độc giả những bài học, những cảm xúc và suy nghĩ của nhà văn trong suốt chặng đường
lênh đênh sóng nước. Một tác phẩm chân chính phải có chức năng hàng đầu là giáo dục và hướng con người đến những giá
trị tốt đẹp của cuộc sống. Nói như …:

3. Giá trị thẩm mĩ của văn học


 Mở bài 1
Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tàn khuất lối? Ta rung động
trước đóa hoa đẹp lung linh dưới ánh mặt trời hay những cánh đồng đã úa tàn không còn sinh khí? Cuộc đời là hành trình
đi tìm cái đẹp và luôn vì cái đẹp mà tồn tại. Xuất phát từ đặc trưng của văn học, đã là văn chương thì phải đẹp, đẹp là chức
năng hàng đầu, cũng là đạo đức của văn chương. Chính vì vậy, … đã khẳng định:

 Mở bài 2
Nếu phải chọn một loài hoa đẹp nhất, tôi sẽ chọn lấy một cành hồng còn e ấp trong sương đêm. Nếu phải chọn một thanh
âm cao nhất, tôi sẽ chọn lấy tiếng hót thiết tha của loài chim họa mi. Nếu phải chọn một bản nhạc hay nhất, có lẽ tôi sẽ
chọn văn chương. Tiếng ca từ văn chương bao giờ cũng vui tươi và rạo rực, giai điệu của văn chương bao giờ cũng đằm
thắm và ngọt ngào. Khi những cung bậc cảm xúc ấy được cất lên, chúng giống như một nốt nhạc du dương va chạm với
tâm hồn người đọc. Từ đó, văn chương sẽ giúp con người có những nhận thức mới mẻ và cảm nhận sâu sắc hơn về cái đẹp
của cuộc đời, cái đẹp trong từng trang thơ. Nói như …:

4. Tính sáng tạo của người nghệ sĩ


 Mở bài 1
Ai đó đã nó rằng hoa hồng ở lại giữa đời nhờ hương thơm say đắm, không nồng nàn như hoa cúc hay ngọt ngào như ngọc
lan. Loài chim sơn ca ở lại giữa đời bởi tiếng hót thiết tha vút lên giữa dàn đồng ca của núi rừng. Câu chuyện ấy gợi nhắc
chúng ta nỗi băn khoăn: Có phải điều còn lại với mỗi nhà văn chính là giọng điệu riêng của mình?

 Mở bài 2
Có ai đó đã từng ví, mỗi nhà văn như một loài hoa, một thứ chim trong cánh rừng đại ngàn văn học. Mỗi loài hoa tỏa một
hương thơm riêng cũng như mỗi thứ chim cất lên một giọng hót riêng. Mỗi nhà văn sẽ chỉ sống được trong lịch sử văn học,
trong tâm hồn người đọc khi anh ta tạo ra một giọng hát, một hương thơm của riêng mình. Nói như …:

Mở bài 3
Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi: Điều gì khiến mỗi tác phẩm mang hình hài một chiếc lá, thả mình theo dòng chảy miên
viễn của thời gian? Một cốt truyện li kì hấp dẫn? Một vần thơ sâu thẳm tự tâm hồn? Văn học bật ra từ những cơn mê tỉnh
của người nghệ sĩ, từ cõi lòng tinh tế đến nhạy cảm mong manh, để rồi nhìn thấu nỗi đau thực tại, để rồi một đời trăn trở,
một đời băn khoăn. Văn học vốn dĩ nặng nợ thế gian, cũng như nỗi niềm muôn đời của người nghệ sĩ đối với văn chương,
để rồi từ đó anh cất lên những vấn thơ, những câu chữ say đắm lòng người. Nói như…:
5. Cái đẹp trong văn chương
Có một sự thật hiển nhiên rằng : ta say đắm trước áng mây hồng của sớm mai bình minh hơn là áng mây buồn khi chiều
tàn khuất lối hơn những cánh hồng đã úa tàn khi không còn sinh khí. Thật vậy, có thể nói cuộc đời là hành trình mà con
người đi tìm cái đẹp và luôn vì cái đẹp mà tồn tại đến tận bây giờ. Dĩ nhiên, văn chương cũng không ngoại lệ, cái đẹp trong
văn chương vô cùng phong phú và dồi dào vì hiện thực và sáng tạo là bất tận, vì vậy khi bàn về cái đẹp trong văn chương.

6. Cuộc sống trong văn chương


Không có những con ong mật cần mẫn và chăm chỉ thì chẳng bao giờ có những giọt mật thơm và không có những bông
hoa rực rỡ sắc màu thì ong cũng chẳng thể làm ra mật . Không có nhà văn thì không có tác phẩm, tất nhiên cũng không thể
có đời sống văn học . Hơn thế nữa , lại còn phải có hiện thực phong phú, dồi dào tạo nguồn sáng tạo cho nhà văn thì mới là
thơ ca đích thực. Chính vì từ muối nặng, phù sa, hương sắc cuộc đời mà nhà văn là phải sống hết mình với hiện tượng
phong phú ấy may ra thì mới có những tác phẩm văn học chân xác để sống mãi với đời. Vì vậy, khi bàn về cuộc sống trong
thơ ca.

7. Giá trị của văn chương


“Cuộc sống là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu). Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào, văn học là đứa
con được nuôi dưỡng từ dòng sữa ngọt lành của bà mẹ cuộc sống. Hương vị trong mát và ngọt lành của tâm hồn con người
là nghệ thuật . Văn học chính là một trong những hình thái nghệ thuật sinh trưởng từ tâm hồn của con người. Chắt lọc từ
cuộc sống biết bao sự kiện, bao tâm trạng, bao thay đổi để có một cái gì của riêng tâm hồn mình các nhà thơ, nhà văn đã
gửi gắm những nỗi niềm rất riêng từ những cái rất chung vào các tác phẩm văn học và cũng chính từ tâm hồn con người
bước ra văn học để trở lại xây đắp cho tâm hồn con người biết bao tình cảm suy nghĩ mơ ước. Chính vì điều đó mà khi bàn
về giá trị của văn chương.

8. Người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo


Như con ong hút ngàn vạn nhụy hoa mới tạo thành được một giọt mật. Con trai chịu bao đau đớn ,xót lòng vì “bụi rậm biển
khơi” để tạo nên viên ngọc ánh ngời. Sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ cũng là một công việc cực nhọc và vô cùng
gian khổ. Một người nghệ nhân điêu khắc không thể cứ nhìn nguyên mẫu rồi mô phỏng lại trên chất liệu mình đã chọn hay
họa sĩ cũng không chỉ quan sát đời sống đi rồi tái hiện lại bằng những đường nét màu sắc vô cảm, vô hồn và đặc biệt nhà
văn càng không thể chỉ dùng những vốn ngôn ngữ của mình như một trò chơi “du hí” ghi lại những cảnh “mây, gió, trăng,
hoa, tuyết, núi, sông,…” mà họ phải là “người thư ký trung thành của thời đại”. Chính vì vậy.

Đề bài:
“Tôi sẽ sống rất cẩu thả nếu tôi không viết và tôi sẽ viết rất cẩu thả nếu tôi không sống.” (Francoise
Sagan)

Bài làm:
Nếu như không đi qua những nốt thăng nốt trầm của cuộc sống, không có những trải nghiệm sâu sắc về đời người, không
có những năm tháng sống trong nhung lụa chốn hoàng cung, không có mười năm gió bụi vất vả đói nghèo, không có
chuyến đi sứ đến Trung Quốc sau khi lên làm quan nhà Nguyễn, thì còn đâu một đại thi hào dân tộc Nguyễn Du được nhân
dân mọi thời đại biết đến và ca ngợi, còn đâu một Truyện Kiều bất tử đến ngày nay? Tài năng là thiên phú, nhưng trải
nghiệm là cả một cuộc hành trình sống và chiêm nghiệm của người nghệ sĩ. Và để tạo nên những áng văn, áng thơ bất hủ
của thời đại, những bậc văn nhân thi nhân ấy phải lặn sâu vào từng ngõ ngách của nhân gian, phải để cho tác phẩm của
mình va đập vào đời, vào hồn người nhạy cảm tinh tế để thể hiện trọn cái hỉ nộ ái ố của cuộc sống. Như nhà văn Francoise
Sagan đã từng chia sẻ: “Tôi sẽ sống rất cẩu thả nếu tôi không viết và tôi sẽ viết rất cẩu thả nếu tôi không sống.”, người ta
chỉ có thể được công nhận là một nhà văn, nhà thơ thật sự khi họ biết cách dung hoà giữa hiện thực đời sống và văn
chương, và đây cũng là thiên chức, là tư chất của mọi bậc thi sĩ văn nhân mọi thời đại.
Không chỉ Francoise, mà nhiều bậc thi nhân, văn nhân cũng sẽ sống rất cẩu thả nếu họ không viết, và cuộc sống sẽ thật vô
vị, nhàm chán biết bao khi thiếu đi biết bao áng văn chương của thời đại. Mỗi con người đều sẽ có những cái nhìn khác
nhau về cuộc sống, nhưng để trở thành một nhà thơ, nhà văn, họ không chỉ sống, mà họ còn phải biết tái hiện lại cái cuộc
sống dưới đôi mắt của họ. Nếu họ không viết thì mọi ý đồ, mọi góc nhìn của họ sẽ chẳng thể được thực thi hoá, đó vẫn sẽ
mãi chỉ là suy nghĩ mắc kẹt trong não, một thoáng rồi lại quên. Bản thân khi đặt bút để tạo nên một áng văn, áng thơ nào
đó, người cầm bút cũng sẽ chiêm nghiệm được thêm nhiều điều, sẽ tự nhận thức được cái nhìn của mình về thế giới xung
quanh. Nhưng sống và viết với đời tác giả là hai thứ phải luôn song hành với nhau. Một tác phẩm có giá trị thật sự phải là
một tác phẩm có khả năng phản ánh hiện thực đời sống. Bởi lẽ, hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, do đó
đời sống là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật, đồng thời là chìa khoá giải thích những hiện tượng phức tạp của
nghệ thuật. Bất kì một nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ một môi trường sống nào đó; bất kì một tác phẩm nào cũng là sự khúc
xạ từ những vấn đề trong cuộc sống. Nhà văn, nhà thơ sẽ viết rất cẩu thả nếu họ không sống. Nói cách khác, nếu họ không
sống và không trải nghiệm, thì những con chữ họ viết ra dù có hoa mỹ đến đâu vẫn chỉ là những câu từ vô nghĩa. Với lời
chia sẻ trên, Francoise Sagan đã một lần nữa thiên chức của người cầm bút: họ viết để sống, họ sống để viết, và họ phải
biết hài hoà giữa hiện thực với văn chương, có thế mới tạo nên được một tác phẩm nghệ thuật chân chính Từ rất xa xưa,
văn học đã trở thành món ăn tinh thần của nhân dân và các thi nhân xưa vẫn gửi lòng mình vào các tác phẩm văn học. Phải
chăng văn học có thể hấp dẫn người đọc bởi chính đối tượng mà nó phản ánh, không nằm đâu xa lạ mà hiện hữu ngay
trong thế giới này, như Andersen đã từng khẳng định: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính
cuộc sống viết ra”? Thực chất, văn nghệ nói chung cũng như văn học nói riêng đúng là lĩnh vực của tình cảm thẩm mỹ,
nhưng bản chất của nó vẫn là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại của xã hội. Mối quan hệ giữa văn học với hiện
thực là mối quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh. Văn chương phản ánh cái hiện thực đời sống một cách chân
thực nhất, bởi lẽ đời sống luôn là đối tượng khám phá của nghệ thuật, của văn chương. Xét đến cùng, cuộc đời là nơi xuất
phát của văn học, và văn học nuôi dưỡng đời sống con người. Một tác phẩm văn chương chân chính phải là một tác phẩm
nặng chất “thực” của đời, đậm chất “tình” của thơ. Muốn làm được điều đó, những bậc văn nhân thi nhân ngoài kia phải
đón nhận hết thảy mọi tiếng vang động của đời, và mọi biến thiên của kiếp nhân sinh. Văn chương ấy mà, không thể cẩu
thả được. Đó là cả một công trình nghệ thuật kì công mà tác giả phải xây dựng bằng từng miếng gạch, từng lớp xi măng,
rồi mới lặng lẽ trở nó vào đời. Mà với một công trình, chỉ cần đắp thiếu một miếng gạch hay trát một lớp xi măng ẩu thôi
đã khiến nó mất đi sự vững chắc và tính thẩm mỹ cao độ vốn có. Văn học – với tư cách là một bộ môn vừa mang giá trị
thẩm mỹ cao lại đồng thời phản ánh xã hội, càng phải coi trọng và cẩn thận khi tạo nên tác phẩm của mình, hay nói như
Nam Cao: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê
tiện.” Muốn thế, người cầm bút phải tỉ mỉ, phải say mê, phải cẩn trọng ở cả đời thơ văn và đời người, có thế mới tạo được
nên một tác phẩm chạm tới cả ba giá trị chân – thiện – mỹ mà con người vẫn luôn hướng đến.

Đã bao giờ bạn đặt ra câu hỏi, vì sao nhà văn nhà thơ lại muốn viết, lại thích viết, lại yêu việc viết đến như vậy? Là niềm
vui tao nhã trong cuộc sống, hay là ngọn lửa đam mê luôn bùng cháy trong tim? Chúng đều đúng, nhưng chưa đủ chính
xác. Những bậc thi nhân văn nhân ấy tìm đến văn chương, đến thơ ca chẳng vì mục đích gì quá to lớn, nhưng lại vô cùng
cao cả: họ viết để sống. Mà sống ở đây không chỉ là tồn tại giữa khoảng không vũ trụ mênh mang, họ viết còn tự nhận thức
một cách sống đúng đắn, từ đó lan toả sự sống tới mọi người, mọi đời, mọi thời đại. Nhìn lại dòng chảy miên viễn của nền
văn học nước nhà, thời điểm trước khi văn học viết ra đời đã có một dạng văn học đã nổi lên và trở nên vô cùng phổ biến,
đó là văn học dân gian với những câu ca dao, thành ngữ, tục ngữ hay những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích. Văn học dân
gian đa phần đều là văn học truyền miệng, sử dụng ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ nói, ngôn ngữ của quần chúng lao động.
Tác giả của văn học dân gian không có một cá nhân cụ thể nào nhất định, đó là công trình sáng tác của cả một tập thể nhân
dân lao động, và quá trình sáng tác tập thể diễn ra như sau: Đầu tiên một người khởi xướng, tác phẩm hình thành và được
tập thể tiếp nhận; sau đó, những người khác tiếp tục lưu truyền và sáng tác lại làm cho tác phẩm biến đổi dần, hoàn thiện
và phong phú thêm về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Khi ấy, con người không chỉ đơn thuần là sáng tác để sống,
họ sáng tác văn chương để con người sống cùng nhau. Và ngay từ thời điểm đó, ta đã thấy được bóng dáng dân tộc sống
cùng văn chương ở những bài hò lao động, những bài đối đáp giao duyên đến là vui tai. Nhưng những người dân lao động
đó đâu chỉ để sống cùng nhau, họ còn sáng tác để sống sâu sắc hơn, và thật hơn nữa. Bằng việc tạo nên những câu hò, câu
ca dao dân ca truyền thống hay những câu chuyện kì ảo, họ muốn hát lên tiếng lòng, về tình yêu gia đình, tình yêu đất nước
quê hương và con người; về phận mình và phận đời; về khát vọng của con người trước cuộc sống;… Lắng nghe lời hỏi,
đáp của hai nhân vật trữ tình trong bài ca “Ở đâu năm cửa nàng ơi”, chúng ta thấy hiện lên nhiều địa danh từ thủ đô Hà Nội
đến Hải Dương, Bắc Giang, vào Thanh Hoá, rồi ngược Lạng Sơn. Mỗi vùng có một nét đẹp riêng, hợp thành một bức tranh
non nước Việt Nam thơ mộng, giàu truyền thống văn hoá. Không trực tiếp nói ra, nhưng cả người hỏi lẫn người đáp đều
biểu hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương, Tổ quốc mình. Bài ca còn kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn, chàng trai hỏi tiếp:

Ở đâu có chín từng mây


Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?
Chùa nào mà lại ở hang
Ở đâu lắm gỗ thì nàng biết không ?…
Cô gái đáp :
Trên trời có chín từng mây
Dưới sông lắm nước, núi nay nhiều vàng
Chùa Hương Tích thì lại ở hang
Trên rừng lắm gỗ, hỡi chàng biết không…

Như vậy, chàng trai, cô gái trong cuộc hát giao duyên này nói riêng, nhân dân lao động Việt Nam ta nói chung không chỉ
say đắm, mến yêu, tự hào về giang sơn Việt Nam cẩm tú mà còn tỏ ra là những người lịch lãm, hào hoa, tế nhị và giàu hiểu
biết, thật đáng noi theo. Văn học dân gian đã bước đầu mở ra cánh cửa của sức mạnh thơ văn với đời sống con người.

Tiến tới văn học viết, khái niệm “viết để sống” đã được nâng cao thêm một bậc khác. Những nhà văn, nhà thơ ấy trải lòng
mình qua ngòi bút trước đời, để cảm nhận cuộc sống, để di dưỡng tinh thần; họ viết để nuôi lớn tâm hồn của họ. Văn
chương là thư ký trung thành của trái tim, là tiếng nói hồn nhiên nhất của con người trước cuộc đời. Khi đôi tay anh tạo
nên những áng văn, những vần thơ mang hơi thở của thời đại, đó là khi cảm xúc trong anh trào dâng, đó là khi anh tự nhận
thức bản thân, đó là khi anh tìm thấy chân lý đời mình, đó là khi anh cảm nhận được giá trị và những triết lý của cuộc sống.
Một tiếng thơ văn hay không bắt đầu từ một trái tim vô cảm, chúng chỉ bật ra khi lòng ta đã tràn đầy. Từ ấy, văn chương
nảy lên trong tác giả, rồi anh đặt bút xuống và viết. Có những tiếng thơ văn được tạo ra để nhà văn, nhà thơ di dưỡng tinh
thần, cảm nhận cuộc sống ở nhiều khía cạnh khác nhau mà chỉ văn chương mới có thể biểu lộ chúng một cách chính xác
nhất. Ta có thể dễ dàng thấy điều này ở thơ Bác, ở một hồn thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại của người. Trong bài thơ “Vọng
nguyệt”, Bác có viết:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa


Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”

Bác có cái niềm vui tao nhã tựa những bậc thi nhân xưa, đó là thú vui thưởng nguyệt. Mà cố nhân hay thưởng thức vẻ đẹp
của ánh trăng với rượu, bên hoa, rồi từ đó lòng họ nảy lên những câu thơ tuyệt đẹp. Nhưng phải biết rằng, lúc viết bài thơ
này, Người đang bị giam cầm nơi ngục tù tối tăm, vậy mà người vẫn ngắm vầng trăng người yêu, xao xuyến trước vẻ đẹp
của trăng với câu hỏi tu từ “Đối thử lương tiêu nại nhược hà?” Hoàn cảnh khốn khó hay xiềng xích tù ngục đều không thể
ngăn được tâm hồn thi nhân bay về thiên nhiên rộng lớn. Và đâu chỉ có mình Người ngắm trăng, trăng lúc đó cũng “nhòm
khe cửa” để ngắm nhà thơ, tựa như những người bạn tri âm tri kỷ vậy. Với bài thơ trên cùng những tác phẩm khác của Hồ
Chí Minh, có thể thấy Người viết để di dưỡng tinh thần, để làm đầy tâm hồn, để sống trong hoàn cảnh tù túng gian khổ.

Nhà văn, nhà thơ còn viết để tự nhận thức về chính mình, như Nguyễn Duy đã bày tỏ ở khổ cuối bài thơ “Ánh trăng”:

“Trăng cứ tròn vành vạnh


Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.”

Đối diện với trăng trong tình huống bất ngờ , quá khứ tựa thước phim tua chậm trong tâm trí tác giả, đưa ông tới bến bờ
tuổi ấu thơ, tới đêm rừng những năm kháng chiến. Quá khứ trở về mà lòng chợt rưng rưng, nhận thức và nhân cách của tác
giả từ đó bừng tỉnh, song song với đó là cảm xúc ăn năn, day dứt khó nói. Trăng vẫn thuỷ chung như vậy dẫu mặc sự
chuyển giao của thời gian, thời đại, tựa quá khứ nghĩa tình, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Trăng và quá khứ càng tròn trịa,
bao dung bao nhiêu thì con người càng day dứt, ăn năn bấy nhiêu. Trăng vẫn vậy, chỉ có con người đổi thay, vô tình quên
đi vầng trăng tình nghĩa khi mải cuốn trong nhịp sống mới. Và rồi ánh trăng im phăng phắc, tựa lời nghiêm khắc nhắc nhở,
là sự trách móc trong lặng im. Chính cái “im phăng phắc” của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn
người lính năm xưa. Sự lặng thinh ấy đủ cho ta giật mình, đó là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm
trong sạch, tốt đẹp. Từ đó, con người và suy ngẫm sâu sắc về thái độ của mình đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa; gợi
nhắc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Con người nhận thức bản thân qua ngòi bút
là như vậy đó.

Người làm nghề văn bằng việc sáng tác còn suy ngẫm và gửi gắm những triết lý về cuộc đời. Nguyễn Minh Châu – người
truy tìm những viên ngọc ẩn giấu ở bề sâu tâm hồn con người, đã viết rất hay về kiếp nhân sinh trong truyện ngắn “Bến
quê”. Con người ta cứ mải miết chạy đua với nhịp sống ồn ã mà quên đi những vẻ đẹp bình dị nhất xung quanh mình, và
Nhĩ là nhân vật điển hình của một con người như vậy. Lúc còn trẻ, Nhĩ đã được đặt chân đến nhiều mảnh đất khác nhau
trên khắp thế giới qua những chuyến công tác, nhưng bây giờ anh lại mắc phải căn bệnh tai quái khiến “bán thân bất toại”,
chỉ có thể sống dựa vào gia đình, vợ con. Cho đến khi nằm trên giường bệnh, Nhĩ mới nhận ra khung cảnh của thiên nhiên
buổi sớm trong lành vốn quen thuộc, gần gũi nhưng lại rất mới mẻ với anh; nhận ra tình yêu thương, sự tần tảo và đức hy
sinh thầm lặng của vợ; nhận ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông mà lâu nay mình đã bỏ quên, nhưng tất cả đã là muộn
màng. Lại càng trớ trêu hơn nữa khi anh nhờ thằng con trai thực hiện ước muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông của
mình, thằng con trai anh sao hiểu được niềm khao khát của cha nó, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi bị cuốn hút vào
trò chơi hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Từ hoàn cảnh của mình, từ
đứa con trai, Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh
được những cái vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách đứa con trai bởi giống như anh ngày trước, “nó đã thấy có
gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu”. Từ việc viết, Nguyễn Minh Châu đã rút ra được triết lý sống sâu sắc, để từ đó sống đẹp
hơn, và có giá trị hơn nữa.

Nhà văn, nhà thơ không chỉ là thư ký trung thành của trái tim, mà theo Balzac, họ còn là thư ký trung thành của thời đại.
Tình cảm trong thơ văn không thể tách rời tình cảm trong cõi sống, nó phải được xây dựng trên cái nền của hiện thực, của
cuộc đời. Bởi lẽ, văn học là tấm gương đi nghênh ngang giữa đời sống, là tấm gương phản chiếu thời đại. Thiếu đi những
trải nghiệm, những cái nhìn, những tinh tế, người cầm bút sẽ chẳng thể cảm nhận được cái đẹp giản đơn nhưng đầy thẩm
mỹ, cái khổ đau hằng tồn trong đời sống. Dĩ nhiên, hiện thực trong văn chương không phải hiện thực trần trụi, khô khan,
mà nó phải được xây đắp dựa trên nền tảng của tình cảm. Nó chính là cuộc sống được chắt lọc, được tạo nên ở dạng “tinh
chất” nhất. Mà để làm được điều đó, tác giả trước hết phải thật sự sống đã, hay như Nam Cao nói: “Sống đã, rồi hãy viết,
hãy hoà mình vào cuộc sống của nhân dân.” Đến với thế giới nghệ thuật của văn học, ta được cấp một “tấm giấy thông
hành”, đi xuyên thời gian và không gian để hiểu lịch sử, biết về đời sống sinh hoạt, tinh thần, nếp cảm, nếp nghĩ, cách tổ
chức, xây dựng cuộc sống của mỗi thời kì, tựa những cuộc du lịch lý thú trên trang viết.

Truyện Kiều – một kiệt tác của nền văn học Việt Nam với hơn 3000 câu lục bát – đã phản ánh chính xác đời sống xã hội
Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX: triều đình rối ren, cuộc sống nhân dân lầm than khổ cực, số phận
người phụ nữ vốn đã không được coi trọng càng bị chà đạp, vùi dập. Tất cả cũng là vì đồng tiền, thứ quyền lực nắm quyền
lực cao nhất của xã hội thời đó:

“Trong tay sẵn có đồng tiền


Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!”

Dưới con mắt của nhà đại thi hào dân tộc của chúng ta, đồng tiền đã làm mục nát bộ máy phong kiến thống trị, trụy lạc
nhân phẩm, biến con người thành một thứ hàng hóa, phá vỡ các mối quan hệ trong gia đình, hủy hoại tự do và hạnh phúc
cá nhân. Quan lại vì tiền mà không màng phải trái, sai nha vì tiền mà đánh đập người dân, lũ nhà chứa cậy tiền mà hành hạ
người tài sắc. Tiền đã đè đầu cưỡi cổ phận hồng nhan, phận tài hoa, và cả cốt cách trong sạch của nhiều cõi người. Phải
quan sát nhiều như thế nào, phải lặn sâu vào đời đến mức nào, phải hiểu cuộc đời ra sao mới có những vần thơ giàu chất
hiện thực đến vậy? Ắt hẳn, vị thi nhân ấy đã có những trải nghiệm về đời sâu sắc, có con mắt trông thấy sáu cõi; vị thi nhân
ấy phải sống và chiêm nghiệm mới có thể tạo nên những áng thơ chân thật như vậy.

Nhưng nếu như Nguyễn Du chỉ là người quan sát mà tri âm với phận đàn bà, phận ca nhi, thì tiến tới văn học kháng chiến,
bản thân nhà thơ, nhà văn là một nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nếu không có những cuộc kháng chiến cứu quốc vĩ
đại, không có những tháng ngày gian lao khổ cực, khi mà độc lập phải đánh đổi bằng cả máu và nước mắt, thì sẽ không có
một “Đồng chí”, không có một “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, không có một “Tây Tiến”, một “Việt Bắc”,… “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã tái hiện chân thực những khó khăn, thiếu thốn và khốc liệt của bom rơi
đạn nổ qua cách nói ngang tàng, hóm hỉnh, lạc quan của người lính Trường Sơn:

“Không có kính không phải vì xe không có kính


Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”

Văn học vốn dĩ đã luôn ngập tràn chất hiện thực, nhưng khi nhà thơ cũng hoá một nhân vật của tác phẩm, tính chân thực ấy
càng được nâng cao. Bằng những vần thơ bình dị, Phạm Tiến Duật đã cho chúng ta sống lại cả một thời oanh liệt những
năm kháng chiến chống Mỹ. Gian khổ có, thiếu thốn có, vất vả có, nhưng họ – những người lính mang một lòng quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh vẫn mang một trái tim hiên ngang ra chiến trận. Tiếng nói lý tưởng, quyết tâm vì miền Nam ruột
thịt, vì thống nhất Tổ quốc thì không một thử thách nào có thể huỷ diệt:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước


Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Đôi khi tính hiện thực trong văn chương không chỉ đơn giản gói gọn lại trong cái bối cảnh có thật, mà nó còn là sự chân
thực trong cốt cách và tâm hồn. Nhà văn, nhà thơ sống thôi là chưa đủ, họ phải sống và cảm nhận, có vậy mới dựng xây
được một công trình văn học hoàn chỉnh.

Văn học bản chất không mang một giới hạn nhất định, nó có khả năng vượt qua cả chiều kích không gian lẫn thời gian.
Chúng ta xúc động trước tình người sâu đậm của cụ Bơ-men và Giôn-xi; chúng ta như hiểu rằng ở đâu cũng vậy, tình yêu
thương con người luôn là điều đáng quý và thiêng liêng. “Chiếc lá cuối cùng” đặc biệt ở chỗ, bản thân nhân vật trong
truyện đều là người làm nghệ thuật, và O.Henry qua truyện ngắn này đã đúc kết được ý nghĩa của nghệ thuật chân chính:
đó là nghệ thuật vị nhân sinh. Có những góc khuất mà nhà văn, nhà thơ phải thật tinh tế mới có thể nắm bắt được, đó là
những vẻ đẹp nhỏ bé giữa thế gian bát ngát. Và để chạm vào từng ngõ ngách ấy, người cầm bút cần sống và thấu hiểu đời
sống của mọi kiếp người trên cõi trần gian.

Với lời chia sẻ “Tôi sẽ sống rất cẩu thả nếu tôi không viết và tôi sẽ viết rất cẩu thả nếu tôi không sống”, tác giả “Buồn ơi
chào mi” đã có đúc kết khá toàn diện về đời người cầm bút, về sứ mệnh người chèo lái cánh buồm văn chương: họ viết để
sống tốt đẹp hơn, và họ sống để viết sâu sắc hơn. Và muốn làm được điều đó, nhà văn nhà thơ cần biết kết hợp hài hoà
giữa văn chương và hiện thực đời sống. Người nghệ sĩ phải sống sâu sắc, gắn bó với cuộc đời, với con người, phải yêu cái
nghề, yêu cái nghiệp văn chương bén rễ và nảy nở trong trái tim, phải có cái tâm, cái tài, không ngừng nỗ lực trau dồi năng
lực nghệ thuật. Nhưng một tác phẩm thành công không chỉ ở người sinh thành mà còn ở người tiếp nhận. Bản thân người
đọc mỗi khi chạm vào trang viết trước hết là cần đặt cái tâm của mình vào cái mình đang đọc đã, có thế mới hiểu được nội
dung tác phẩm, nếu không một trang văn chương dù hay đến đâu cũng hoá một văn bản vô nghĩa. Người đọc phải sống
cùng nhà văn, sống cùng tác phẩm, có tâm hồn rộng mở và trái tim ấm nóng để hoà chung nhịp đập với nghệ sĩ. Bên cạnh
đó, ta còn cần phải biết nhạy cảm với cái đẹp, với đời và là người đồng sáng tạo với người cầm bút để hoàn thiện tác phẩm,
bởi lẽ: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống thực sự của nó mới bắt đầu.”

Lang thang trong cõi ta bà, Basho cảm nhận mùi hương hoa mơ như một hơi thở sáng thế:

“Mùi hoa mơ ơi
Con đường núi mọc
Bỗng nhiên mặt trời.”

Người nghệ sĩ cũng vậy, họ lang thang trong cõi đời, phiêu du giữa thời đại, họ sống và trải nghiệm, và rồi họ làm nên
nghệ thuật. Nhưng để hoàn thiện chính mình, để sống tốt đẹp hơn, người cầm bút cần tận tuỵ sáng tạo văn chương, cần yêu
và tâm huyết với cái nghề của mình. Nhà văn, nhà thơ không thể không viết hay không sống, họ phải biết cách dung hoà
hai hành động này để dung hoà mối quan hệ giữa hiện thực và văn chương. Đời người nghệ sĩ, như nữ nhà văn Francoise
Sagan nói, “sẽ sống rất cẩu thả nếu không viết và sẽ viết rất cẩu thả nếu không sống”, đây là tư chất, cũng là sứ mệnh của
người làm nghề văn, và đã là sứ mệnh thì không thể cẩu thả được, bởi cẩu thả trong văn chương là điều “thật là đê tiện”.
( Minh Châu – thành viên nhóm Thích Văn học.)

Văn chương là gì ?
1. Có một giai thoại về một tác phẩm văn học sáu từ: chuyện kể rằng trong một bữa ăn, nhà văn Ernest Hemingway cá 10
đôla với cả bàn ăn rằng ông có thể kể một câu chuyện trong sáu từ. Sau khi tất cả đặt tiền, ông viết lên tờ giấy ăn: “For
sale: baby shoes, never worn” (Rao bán: giày trẻ con, chưa từng dùng), sau đó lần lượt thu tiền của các thành viên khác
trong bàn ăn. Tại sao lại như vậy? Chẳng nhẽ một tác phẩm văn học chỉ cần vậy thôi sao? Điều gì làm nên sự khác biệt
giữa một tác phẩm văn học sáu từ của Hemingway và một bảng quảng cáo bán giày trên đường phố? Điều gì làm nên “chất
văn học” của một văn bản ngôn từ?

2. “Chất văn học” của một văn bản ngôn từ giống như một mùi hương đặc trưng tác động vào tế bào thụ thể khứu giác
truyền thông tin đến não bộ, giúp chúng ta có những nhận thức cảm tính về văn học, nhưng không ai có thể đưa ra định
nghĩa chính xác. Tất cả chúng ta khi nghe tới “văn học” đều lờ mờ hiểu rằng khái niệm này chỉ một loại hình nghệ thuật,
gồm nhiều thể loại như văn xuôi, thơ, và là nỗi sợ của nhiều học sinh trong suốt mười hai năm học. Chúng ta hiểu ở một
mức độ phổ quát đủ để xác nhận một hiện tượng văn học, tức là đủ để nói được rằng “Truyện Kiều” là một tác phẩm văn
học. Tuy nhiên, sự hiểu mang tính bề nổi đó không giúp ta giải quyết những vấn đề như tính văn học trong câu chuyện ở
trên. Vậy cuối cùng thì, văn học chính xác là gì?
Giống như những loại hình nghệ thuật khác, văn học không có một khái niệm cố định; nó không có hình thù nhất định mà
lỏng lẻo như nước, và để định nghĩa văn học, ta phải xem xét hình dạng của cái bình đựng nước. Trong lịch sử, dòng nước
văn học đã được đựng trong nhiều chiếc bình khác nhau, mỗi chiếc bình lại dựa trên một góc nhìn, một hệ ý thức, một hệ
thống tam quan nhất định, từ đó thể hiện và nhấn mạnh vào những khía cạnh khác nhau của văn học. Đó chính là mục đích
của bài viết này: giới thiệu một số “chiếc bình” đã đựng dòng nước văn học, từ đó giúp cho người đọc tự tạo nên chiếc
bình văn học của riêng mình.

3. Trước hết, chúng ta cần dừng lại một chút để tìm hiểu về những thành phần tạo nên dòng nước văn học này. Nhắc đến
văn học, người ta thường nghĩ tới những câu chuyện, những vần thơ được in trong các tập sách, gắn với một tác giả hoặc
một nhóm tác giả. Trong tư duy của chúng ta, văn học gắn với ngôn ngữ, gắn với mùi giấy mới và những hình vẽ trang trí
ở trên bìa. Tuy nhiên, ở khởi điểm ban đầu, văn học không giống như chúng ta nghĩ một chút nào. Ngay từ trước khi có
văn tự, văn học đã tồn tại dưới dạng truyền miệng trong văn học dân gian: những câu ca dao, câu tục ngữ, câu hò lao động.
Rõ ràng là văn học lấy ngôn ngữ làm chất liệu sáng tạo, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào văn tự. Tuy nhiên, sự ra đời
của văn tự và các hình thức ghi chép văn tự là một bước tiến quan trọng để văn học đạt được những thành tựu to lớn trong
tiến trình phát triển văn minh nhân loại như chúng ta thấy ngày hôm nay. Như vậy, văn học là một loại hình nghệ thuật
sáng tạo bằng ngôn từ, bao gồm sự phát triển song song và tương hỗ giữa hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết.

4. Hãy bắt đầu định dạng dòng nước văn học này bằng một trong những diễn ngôn kinh điển nhất về văn học trong suốt
thời kì trung đại: văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí. Xuất phát từ tư tưởng Nho học, quan niệm “văn dĩ tải đạo” nhấn mạnh đến
chức năng giáo dục của văn học, nghĩa là văn học có sứ mệnh quan trọng trong việc định hình và cải tạo quan điểm, tư
tưởng, đạo đức,… của con người. Theo đó, văn là công cụ truyền tải đạo lý, và thơ là công cụ thể hiện ý chí của con người.
Với cách định nghĩa này, văn học có tác dụng như một chất dẫn truyền, một công cụ thể hiện một thông điệp, một tư duy
có tính siêu nghiệm và thần thánh. Nó gán cho văn học một nền tảng siêu hình. Văn học được coi như những lời phán, lời
chỉ bảo, lời truyền dạy của đấng siêu nhiên; và những nhà văn và nhà thơ trở thành những người đưa tin nói thay lời các vị
thánh. Góc nhìn này, dù bắt nguồn từ những ngày tháng văn học và triết học mới được khai sinh, nhưng sau đó nhiều lần
được nhắc lại và tái sử dụng trong các trào lưu văn học siêu hình và các trào lưu văn học lãng mạn ở châu Âu.

5. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và của tư duy, dòng nước văn học chảy sang những chiếc
bình khác. Một trong những định nghĩa nổi tiếng nhất thuộc về nhà văn Maxim Gorky: “Văn học là nhân học”. Định nghĩa
này coi văn học như một ngành khoa học tổng quát về nhân loại. Theo đó, một tác phẩm văn học là một bản báo cáo về
một nền văn hóa của một cộng đồng người, về cách cộng đồng người ấy suy nghĩ và tương tác với nhau. Văn học trở thành
công cụ khảo cứu, ghi chép, lưu trữ, và tìm hiểu về con người ở quy mô lớn. Văn học, trong quan niệm của Maxim Gorky,
là một định nghĩa đầy tính nhân văn, bởi nó lấy con người làm cái cốt lõi, cái hạt nhân căn tính của mình. Như vậy, nếu xét
theo định nghĩa này, thì điều tạo nên chất văn học trong “Truyện Kiều” là những miêu tả chi tiết về các thực hành văn hóa,
các phong tục tập quán của cộng đồng người Việt trong quá khứ. Đọc “Truyện Kiều”, người đọc như nhìn vào một bức
tranh tổng thể về đời sống xã hội, về đời sống của tổ tiên, cho thấy cách tư duy một cộng đồng người từng tuân thủ. Một tờ
hóa đơn, đối với định nghĩa của Gorky, không phải là tác phẩm văn học vì nó không gợi ra được những suy nghĩ của người
đọc về một cộng đồng cụ thể, không khắc họa đời sống và tâm lý của những người trong cộng đồng đó.

Nhưng nếu như văn học là công cụ để khảo sát tâm lý, thì văn học có điểm gì khác khi so sánh với tâm lý học? So với
những môn khoa học khác cũng lấy con người làm trọng tâm nghiên cứu như xã hội học, dân tộc học, tâm lý học, và nhân
học; văn học mang lại điều gì?

Văn học cũng có thể được coi là môn khoa học về tình cảm con người, bởi văn học giúp miêu tả những cảm xúc và lý giải
những hành động mà những ngành khoa học kể trên không giải thích được. Hãy lấy tình yêu làm ví dụ. Một nhà thần kinh
học có thể giải thích về hiện tượng khi ta yêu người khác thông qua những phản ứng của não bộ, những chất hóa học được
trao đổi, sự tăng của chất này và sự giảm của chất kia, và những yếu tố tương tự như vậy. Nhưng đó đâu phải là yêu? Tình
yêu, đối với con người, không chỉ là sự trao đổi chất, mà còn là một trạng thái của tâm lý, một cảm giác có tính vật lý, và
một cảm xúc có tính siêu nghiệm. Diễn ngôn khoa học là không đủ để diễn tả cảm xúc con người, do đó, phải có cả diễn
ngôn văn học:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu


Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”
Nếu như những ngành khoa học kể trên tiếp cận con người với mục đích tìm ra một lời giải thích cuối cùng, một chân lý
rốt ráo về con người; thì văn học, với tư cách là một ngành nhân văn, không dùng vào việc đó. Văn học không tìm kiếm
một lời giải đáp cuối cùng cho câu hỏi “yêu là gì?”, mà sẽ mô tả lại những trạng thái tồn tại, những điều kiện tồn tại khác
nhau của tình yêu, đồng thời cho ta biết những “loại” tình yêu khác nhau trong từng điều kiện tồn tại khác nhau. “Romeo
và Juliet” cho ta biết về một kiểu tình yêu trong thời kỳ của Shakespeare vào thời Phục Hưng tại châu Âu; “Anna
Karenina” cho ta một định nghĩa yêu khác trong những ngày tháng của Lev Tolstoy ở thế kỷ 19 trong xã hội Nga phong
kiến. Tình yêu trong sáng theo kiểu “Nắng mưa là chuyện của giời” trong thơ Nguyễn Bính khác với tình yêu xa xôi, diệu
vợi và đầy hờn dỗi của “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” trong thơ Hàn Mặc Tử. Tất cả những tác phẩm trên, không tình
yêu nào giống tình yêu nào, nhưng tất cả đều là tình yêu, và chỉ khi nhìn qua lăng kính văn học và nghệ thuật, những cảm
xúc con người mới đa dạng và chính xác tới vậy.

6. Có một định nghĩa khác về văn học, đó là: “Văn học là nghệ thuật ngôn từ”. Nếu cách định nghĩa đã nêu trên sử dụng
con người làm hạt nhân căn tính của văn học, thì cách định nghĩa này đề cao hai khía cạnh khác là tính nghệ thuật và chất
liệu ngôn ngữ. Theo đó, văn học được quy về các thủ pháp sáng tác; và một tác phẩm văn học là sự tài tình trong việc đặt
vần, xếp chữ, chọn từ, dùng câu; là bản hòa ca của ngôn ngữ. Định nghĩa này quan trọng bởi nó hướng vào giá trị bên trong
văn học thay vì hướng ra những thực thể bên ngoài như “con người” hay “thực tại”. Từ những từ ngữ mà ta vẫn nói hàng
ngày, một nhà văn sử dụng chúng để tạo nên nhân vật, tạo nên các tình huống truyện; một nhà thơ dùng ngôn ngữ để tạo ra
những bản đàn lời. Theo định nghĩa này thì, một bảng quảng cáo bán giày không phải là một tác phẩm văn học bởi nó
không sử dụng ngôn ngữ văn học – nó không phải là nghệ thuật ngôn từ.

Quay trở lại với câu chuyện sáu từ ở trên, bởi định nghĩa này có thể giải thích tính văn học của sáu từ ấy. Chúng được
Hemingway đặt cạnh nhau, và khi ở cạnh nhau, chúng tạo nên một tình tiết, một cú plot twist nhỏ. Hãy nghĩ mà xem, nếu
chỉ đơn giản là bán một đôi giày mới, được hạ giá trong cửa hàng, tại sao phải có cả “never worn”? Sáu chữ này có thể gợi
ra một liên tưởng sâu hơn bề mặt ngữ nghĩa của chúng: phải chăng có một bà mẹ đã mua cho đứa con sơ sinh của mình
một đôi giày trẻ em, nhưng khi chưa kịp đi giày cho đứa con thì đứa bé đã mất? Ẩn dưới tầng nghĩa tường minh là một
tầng nghĩa hàm ẩn khác, được tạo ra bởi thủ pháp của Hemingway, giống như nguyên lí tảng băng trôi được ông đề xuất.

7. Tôi luôn coi văn học là một cuộc đối thoại.


Mikhail Bakhtin từng chỉ ra rằng, ngôn ngữ có tính đa thanh. Bắt nguồn từ một khái niệm trong âm nhạc, Bakhtin biến nó
thành một quan điểm lý thuyết: ngôn ngữ mà hàng ngày chúng ta đang nói không chỉ có tiếng nói của chúng ta, mà còn
vang vọng tiếng nói của những người xung quanh. Vì vậy, một tác phẩm văn học đa thanh sẽ không chỉ có lời nói của tác
giả, mà có cả những tư tưởng riêng của các nhân vật. Bản thân một cuốn tiểu thuyết đã là một cuộc đối thoại khép kín giữa
các nhân vật với nhau và với tác giả rồi. Tới lượt độc giả, họ sẽ đọc và nhập thân vào thế giới nghệ thuật ấy, từ đó tạo ra
những cuộc đối thoại mới giữa họ với tác giả, với các nhân vật và với cộng đồng độc giả khác. Chính từ những cuộc đối
thoại ấy, tôi buộc phải suy nghĩ nhiều hơn và liên tục thử thách quan điểm của bản thân mình.

Lý thuyết về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm


1. Khái niệm
Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống, người được coi là “cánh chim báo bão của cách
mạng Nga”, “nhà văn của những người chân đất” là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm văn chương. Tương quan đối lập trong câu nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không hẳn là
quy mô tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được coi là nhỏ, là vặt vãnh… Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu
tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời…của nhà văn, nơi kí
thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung thành của thời đại”
(H.Balzac) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để
xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc
tư tưởng của người cầm bút.

Chi tiết không phải là một khái niệm xa lạ với đời sống.

Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì chi tiết là: “Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự
việc hoặc hiện tượng” (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). “Là thành phần riêng rẽ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có
thể tháo lắp được” (Ví dụ: Chi tiết máy). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là một
thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo.
Trong văn học, “chi tiết” theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997) là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”
và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có
khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác
giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá
nghệ thuật nhất định”

Như vậy, chi tiết nghệ thuật được xem như linh hồn của một văn bản nghệ thuật. Muốn hiểu, nắm chắc văn bản, phải hiểu
rõ chi tiết nghệ thuật. Khái niệm chi tiết được đặt ra nhằm phân biệt với tổng thể nhưng nó không tách rời tổng thể. Sự hòa
hợp giữa chi tiết và tổng thể sẽ tạo thành chỉnh thể. Chi tiết nghệ thuật được xem là thành tố nhỏ nhất trong một chỉnh thể
nghệ thuật.

2. Tầm quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
Bàn về tương quan giữa chi tiết và tổng thể, có ý kiến cho rằng: “Đôi khi chỉ vì một đôi mắt mà người ta phải cưới nguyên
một người đàn bà”. Câu nói đó khẳng định một thực tế: Đôi khi, chi tiết có thể đánh gục được cả tổng thể, thậm chí nó thay
thế, lấn át tổng thể. Trong tác phẩm văn chương, chi tiết có thể nhỏ về quy mô, tầm vóc nhưng nó chứa đựng tư tưởng lớn,
tình cảm lớn. Không nhà văn vĩ đại nào không tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật từ những chi tiết nhỏ, đặc sắc.
Thực tế cho thấy, chỉ bằng những chi tiết cô đúc, tiêu biểu, kết hợp với lối hành văn nhiều ẩn ý, nhiều nhà văn đã để lại
những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sống. Nhân vật Bêlicôp
(“Người trong bao” – A. Sêkhôp), nhân vật AQ (“AQ chính truyện” – Lỗ Tấn), nhân vật Grăngđê (“Ơgiêri Grăngđê” – H.
Banlzac), nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo” – Nam Cao)…, đều là những hình tượng điển hình đặc sắc, được khắc họa bằng
nhiều chi tiết cụ thể nhưng có sức khái quát cao, phản ánh được diện mạo, bản chất con người và bộ mặt của xã hội, đồng
thời thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con người rất riêng của mỗi nhà văn.

Trong truyện, nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai và phát triển đầy đặn, thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống,
tính cách, tâm trạng, hình dáng, số phận của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Nhiều chi tiết trở thành những điểm
sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt truyện, gắn liền với những bước ngoặt
trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi tiết là thiếu sự đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên nhạt nhẽo, hời hợt,
thiếu sức hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu ôm đồm nhiều chi tiết thì rối rắm, rườm rà, giảm giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.

Trong thơ, nhờ chi tiết mà cảm xúc của nhà thơ có nơi nương náu. Đặc thù của thơ là cảm xúc và hình ảnh. Hình ảnh chính
là chi tiết trong thơ. Một cánh chim, một làn mây, một chiếc lá, một nhành hoa hay tia nắng…đi vào thơ không còn là sự
vật vô tri nữa. Nó là hình ảnh phản chiếu tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Từ một cảnh huống, một tâm trạng mà thấy được
nỗi niềm không chỉ của cá nhân thi sĩ mà của cả một lớp người, một thời đại. Cao hơn là phản ánh số phận con người của
một quốc gia, dân tộc ở những chặng đường lịch sử nhất định. Đỗ Phủ, Puskin, Nguyễn Du…đều là những thi hào mà tên
tuổi đã gắn liền với dân tộc và thời đại.

Tóm lại, dù là thơ hay văn xuôi, đều cần phải xây cất từ chi tiết. Theo quy luật điển hình hóa của văn học, qua một giọt
sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào
trong một giọt sương. Tầm cỡ nhà văn là viết về những cái không đâu, vặt vãnh nhưng khơi gợi được những vấn đề lớn,
liên quan đến số phận con người, nhân loại.

Trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) hình ảnh Liên và An ngồi nhìn bầu trời đêm “ngàn sao ganh nhau lấp lánh”
không phải là chi tiết vu vơ. Đằng sau nó chứa đựng niềm khao khát rất lớn của hai đứa trẻ, niềm khát khao hướng tới một
bầu trời khác, nguồn sáng khác, không phải là cuộc sống đang lụi tàn trong vô vọng như ở phố huyện. Từ khát vọng mơ hồ
đó của tuổi thơ, nhà văn đã lay tỉnh những tâm hồn mệt mỏi đang sống lay lắt, héo úa như cảnh ngày tàn ở những miền quê
nghèo xác xơ, mòn mỏi trong xã hội cũ.

Chuyện miếng ăn trong truyện Nam Cao tưởng chỉ là vặt vãnh nhưng sức phản ánh rất lớn. Từ Một bữa no, Trẻ con không
được ăn thịt chó, Một truyện sú vơ nia đến Sống mòn…, từ người nông dân đến người trí thức đều không thoát khỏi
chuyện miếng ăn. Nó không chỉ nói lên thực trạng đói nghèo khốn khổ của con người, quan trọng hơn, nó phản ánh nhân
cách, phẩm giá người, nhân tính của cuộc sống người. Người ta có thể từ bỏ lòng tự trọng vì miếng ăn, thậm chí chết vì
miếng ăn, chà đạp cả những tình cảm thiêng liêng như tình phụ tử, giẫm đạp lên tình yêu thơ mộng…cũng chỉ vì miếng ăn.
Hóa ra, trong xã hội ấy, miếng cơm, manh áo giết chết cả phần người trong mỗi con người. Và Nam Cao khắc khoải, lo âu:
Liệu nhân tính có còn không, có được vun xới không? Làm sao để con người giữ được tính người trong một xã hội tàn bạo,
phi nhân tính?
Như vậy, chi tiết nghệ thuật dù chỉ là yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Thiếu
chi tiết, nhà văn không thể đúc nên tác phẩm. Chi tiết càng có sức biểu hiện, sức khơi gợi và ám ảnh càng lớn, càng góp
phần nâng cao giá trị tác phẩm. Và không có một tác phẩm lớn nào mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống.
Trong tiếp nhận văn học, càng không được xem nhẹ chi tiết. Đọc hiểu và cảm nhận tác phẩm văn chương từ cấp độ chi tiết
là yêu cầu quan trọng và cần thiết, đặc biệt đối với việc dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.

3. Cảm nhận chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
Căn cứ vào văn bản, người ta chia làm hai loại: Chi tiết trong văn xuôi và chi tiết trong thơ.

3.1. Chi tiết trong văn xuôi


Chi tiết trong văn xuôi thường là chi tiết sự vật và chi tiết sự việc. Chi tiết sự vật thường gắn với 3 đối tượng: cảnh vật, đồ
vật, nhân vật.

Hình ảnh những ngọn đèn trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) là chi tiết sự vật. Có nhiều loại đèn được nhà văn miêu
tả. Đèn rất sáng (đèn ở Hà Nội và đèn ở đoàn tàu) và đèn tù mù (ở phố huyện). Một loại ánh đèn mạnh nằm trong quá khứ
đã mất hoặc chỉ trong mơ tưởng xa xôi. Một loại ánh đèn hiện tại rất yếu ớt ở phố huyện. Gia đình chị Tí, cửa hàng của chị
em Liên, bác Siêu bán phở…, mỗi người có một ngọn đèn nhưng tất cả đều tù mù, chỉ tạo nên những “khe sáng”, “hột
sáng”, “quầng sáng”, “chấm lửa vàng lơ lửng” trong đêm, đối lập hoàn toàn với “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ
và huyên náo”. Sống trong ánh đèn tù mù đó, Liên nhớ tiếc ánh sáng quá khứ, mơ tưởng tương lai tươi sáng. Nó phản ánh
tâm trạng chán ghét hiện tại tăm tối và mơ ước có cuộc sống khác của hai đứa trẻ.

Chi tiết sự việc (cốt truyện) gắn với các tình tiết. Một tình tiết được hợp nên bởi nhiều chi tiết.

Chí Phèo thức dậy vào buổi sáng hôm sau là một tình tiết, nó được hợp nên từ nhiều chi tiết: tâm trạng, cảm xúc, cảm
giác…của Chí Phèo.

Căn cứ vào thái độ của nhà văn, người ta phân ra chi tiết nóng và chi tiết lạnh.

Chi tiết nóng thường được trở đi trở lại, được nhà văn khắc họa kĩ, nằm trong mạch chính của văn bản nghệ thuật.

Trong tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), “bát cháo hành” là chi tiết nóng, được nhắc đi nhắc lại, hàm chứa tình người, tình
yêu thị Nở dành cho Chí Phèo. Bởi được chưng cất từ tình người nên bát cháo hành đã thức dậy phần người trong Chí, làm
cho hắn biết “buồn”, biết “ngạc nhiên”, xúc động và “ăn năn”. Thiếu chi tiết này, là thiếu sự xuất hiện của tình người, lấy
gì thức tỉnh Chí Phèo để hắn có khát vọng trở lại làm người lương thiện?

Chi tiết lạnh không nằm trong mạch chính, xuất hiện thoáng qua, nhà văn không tập trung cho chi tiết nổi lên nên khó viết
và người đọc hời hợt rất dễ bỏ qua. Nhà văn phải có giác quan thẩm mĩ, bản lĩnh mới viết được chi tiết lạnh. Để che giấu
được cảm xúc của mình, giảm thiểu tính biểu cảm khi mô tả chi tiết, nhà văn phải có khả năng đóng cũi cảm xúc. Cảm
nhận được chi tiết lạnh thể hiện tầm đón nhận của người đọc.

Bát cháo hành là chi tiết nóng nhưng hơi cháo hành là chi tiết lạnh. Chí Phèo khóc khi được Thị Nở cho ăn cháo hành là
chi tiết lạnh. …“mắt hắn hình như ươn ướt”. Nhà văn chỉ nói ngắn, không lặp lại, xa cách, giả định “hình như” đi kèm với
tính từ giảm thiểu “ươn ướt”. Chi tiết mờ nhạt, tưởng thoáng qua nhưng rất đáng kể. Chi tiết lạnh bao giờ cũng có sức công
phá rất lớn. Nam Cao là nhà văn tin vào nước mắt, “đứng về phe nước mắt”. Nước mắt là hiện thân cho nỗi khổ, nước mắt
là giọt châu của loài người, kết tụ của tính người. Chỉ người nào còn tình người mới biết khóc. “Con người chỉ xấu xa
trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ và nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”(Kôbe). Nếu nhìn đời bằng đôi mắt
khô cạn tính người sẽ chỉ thấy cái xấu xa, nếu nhìn bằng nước mắt sẽ thấy khác, biết cảm thông, độ lượng. Hầu hết các
nhân vật của Nam Cao đều khóc. Những nhân vật nào bị tha hóa rồi thức tỉnh cũng đều khóc cả, nước mắt là sự thức dậy
của tình người, tính người. Còn biết khóc là còn biết cảm động về một sự chăm sóc trước tình người. Một người biết cảm
động trước tình người là còn tính người. Một chi tiết thoáng qua đã biểu hiện những diễn biến vô hình trong nội tâm nhân
vật. Hơi cháo hành là kỉ niệm hiếm hoi về tình người mà Chí Phèo được hưởng. Mất hơi cháo hành Chí Phèo không còn
được chở che, nương tựa bởi tình người. Mất đi tình người khi đã biết hơi ấm của tình người, đối với kẻ đã bao năm sống
bên lề của xã hội như Chí Phèo mà nói, chỉ còn cách tìm đến cái chết.

Trong truyện Đời thừa (Nam Cao), nhân vật Hộ tỉnh dậy sau đêm say, sờ tay lên bàn thấy “ấm nước hãy còn ấm” cũng là
một chi tiết lạnh. Chi tiết ấy nói với Hộ về Từ, khiến cho Hộ nhìn thấy sự cao đẹp của Từ và tất cả sự tồi tệ của mình. Nó
chứng tỏ rằng Từ là một người có sự tử tế, chu đáo. Từ tử tế, chu đáo với Hộ cả khi Hộ tàn nhẫn với Từ. “Ấm nước còn
ấm” là hình ảnh của sự khoan dung, sự chăm sóc và tha thứ. Người ta chỉ có thể tha thứ cho người khác khi người ta mạnh
bởi đó là cái mạnh trong lương tri, lương tâm, tình người. Đối lập với sự yếu đuối trong hình hài, vóc dáng, Từ rất mạnh ở
lòng thương. Lòng thương ấy bền vững chứ không chông chênh như của Hộ. Nhận ra điều đó, Hộ càng thấy Từ đáng được
che chở, yêu thương, càng thấy mình đớn hèn, đáng khinh bỉ. Hộ đã khóc trước Từ khi nhận ra tất cả sự thảm hại ấy của
mình.

Cảm nhận chi tiết trong văn xuôi khi dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông có thể không phân loại nhưng nhất thiết phải
hiểu rõ chi tiết đó đóng vai trò gì trong mạch truyện, trong diễn biến tính cách, số phận nhân vật. Nói cách khác là luôn gắn
chi tiết với tổng thể để thấy được tính thống nhất của một chỉnh thể nghệ thuật. Quan trọng hơn là qua đó, hiểu được ý đồ
nghệ thuật, đọc được tư tưởng, tình cảm nhà văn muốn gửi gắm. Đồng thời, thấy được tài năng sáng tạo của người cầm
bút.

3.2. Chi tiết trong thơ


Khác với văn xuôi, thơ được xem là vương miện của nền văn học, là tinh chất của ngôn ngữ văn học. Một ngôn ngữ chưa
có thơ là một ngôn ngữ chưa phát triển. Một sự đổi mới văn học mà chưa có sự đổi mới về thơ là sự đổi mới chưa hoàn
thiện. Chi tiết vốn là lẽ sống của nghệ thuật, với thơ, chi tiết là hồn cốt. Bài thơ sống được hay không là nhờ chi tiết. Chi
tiết trong thơ thu hẹp lại trong một giới hạn nhỏ trong thi ảnh và ngôn từ. Đối với một bài thơ, nếu nắm được thi ảnh và
ngôn từ đặc sắc xem như đã nắm được linh hồn bài thơ, gọi là nắm được nhãn tự, kết tinh được thần thái linh hồn tác
phẩm. Quy mô chi tiết trong thơ thường nhỏ hơn rất nhiều trong tác phẩm văn xuôi.

Bài thơ “Tức cảnh Pac Bó” (Hồ Chí Minh) có một từ – một chi tiết đặc sắc nằm ở câu cuối: Cuộc đời cách mạng thật là
sang

“Sang” là nhãn tự của bài thơ, thâu tóm toàn bộ tinh thần bài thơ, cảm hứng thơ của Hồ Chủ Tịch. Toàn bộ cái hay trong
bài thơ là nói về cái sang của người làm cách mạng. “Sang” trước hết là một giá trị. Về bản chất, sang là một cái đẹp. Tất
nhiên, không phải cái đẹp nào cũng sang, cái đẹp là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ. Chỉ những khi nó đạt tới
đẳng cấp mới gọi là sang, nó thường đi liền với cao, với trọng, mang nghĩa quý phái, quý tộc, là đẳng cấp thẩm mỹ của quý
tộc. Cái đẹp thể hiện đẳng cấp mới là sang. Bác nói tới cái sang của người cách mạng là đẳng cấp cao trong văn hóa. Sang
trong quan niệm có hai loại: Sang theo kiểu trưởng giả (tỉ lệ thuận với vật chất, thường gọi là sang giầu). Kiểu sang này chỉ
có khi hưởng cao lương mĩ vị, gắn với một đối tượng người tầm thường nhất định trong xã hội. Loại thứ hai là sang theo
quan niệm kẻ sĩ (người có học). Sang là một giá trị tinh thần đôi khi còn đối lập với vật chất, trưởng giả giàu mới sang còn
kẻ sĩ thì nghèo mới sang. Biểu hiện nổi bật là coi thường vật chất, khinh thế. Những người cách mạng thực ra là những kẻ
sĩ. Những hình ảnh “cháo bẹ”, “rau măng”, “bàn đá” không nhằm nói lên điều kiện sống mà chủ yếu bộc lộ tư thế cao sang,
đẳng cấp văn hóa của người đi làm cách mạng. Cách cấu tứ của bài thơ này là nhập cái sang của kẻ sĩ trung đại với cái
sang của chiến sĩ hiện đại thành cái sang của người cách mạng. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và khí chất của người
cộng sản Hồ Chí Minh.

Trong bài thơ Đò Lèn (Nguyễn Duy) gồm 6 khổ, tác giả viết về một tuổi thơ nghèo khó bên cạnh người bà tần tảo. Hệ
thống chi tiết cảnh vật được nhà thơ liệt kê gồm: cống Na, đồng Quan, ga Lèn, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền cây Thị, đền
Sòng…, giúp người đọc hình dung về diện mạo một miền quê với những cảnh trí rất dân dã, gần gũi, quen thuộc. Quan
trọng hơn, nó giúp Nguyễn Duy thể hiện sâu sắc thân phận người bà: Đó là thân phận con sâu cái kiến, thân phận thảo dân,
mang sắc thái dân đen, đối lập với Tiên Phật, Thánh thần… Bài thơ nói về sự ân hận, sự trưởng thành muộn màng của
người cháu. Sống bên bà nhưng vô tâm với nỗi khổ của bà, sống bằng sự chăm sóc, yêu thương vất vả của bà mà cháu
không hề biết.

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực


Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần

Người cháu đã sống rất thực với cái hư và sống rất hư với cái thực. Chữ hư mang hai nghĩa: hư ảo và hư đốn. Nó chi phối
quyết định đến mạch tâm sự mang màu sắc triết luận, thể hiện quá trình giải thiêng, giải ảo. Nhìn ở góc độ tình cảm, đó là
quá trình rời khỏi niềm tin ngây thơ dành cho thánh thần để đến với tình thương dành cho người bà, từ đối tượng mơ hồ
đến đối tượng thực. Đôi khi người ta phải trả giá cho những bài học vô cùng đắt. Khi biết yêu thương thì bà đã mất rồi.
Nhìn từ góc độ đời sống, đó là cuộc rời bỏ những đối tượng không xứng đáng để đến với đối tượng xứng đáng hơn. Chính
người dân kia mới làm nên hiện thực đời sống. Chỉ hai chi tiết “hư” – “thực” đã nói lên sự sụp đổ niềm tin của tác giả, rời
bỏ thế giới của đức tin đơn thuần để đến với hiện thực cuộc đời gần gũi, đáng tin hơn.

Chi tiết trong thơ nhiều khi là một mật mã. Giải mã chi tiết tức nắm được ý đồ nghệ thuật, ý đồ tư tưởng của nhà thơ. Chỉ
qua một vài con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai)
mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ
“lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở… của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính
cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn và bỉ ổi của Hồ Tôn Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết
đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật.

Chi tiết trong thơ hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ thuật. Để giải mã chi tiết trong thơ đôi
khi cần đến cả một chiều sâu văn hóa. Ví dụ để hiểu câu thơ: Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn (“Đất nước”
– Nguyễn Khoa Điềm) phải hiểu về nghi thức giao đãi, về nét đẹp trong phong tục ăn trầu của người Việt. Để cắt nghĩa
được hình ảnh, người đọc buộc phải liên tưởng về câu chuyện cổ Trầu cau và rất nhiều câu ca dao mượn hình ảnh cau trầu
để bộc lộ khát vọng nhân duyên và tình yêu đôi lứa. Từ chiều sâu văn hóa của hình ảnh miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm
muốn nhấn mạnh đến chiều dài của lịch sử và bề dày của văn hóa – những phương diện cấu thành Đất nước. Hình ảnh thơ
đó góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao, thần thoại – một tư tưởng cốt lõi trong
chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

Cảm nhận chi tiết trong thơ không chỉ là đi tìm nhãn tự, giải mã từ ngữ, cắt nghĩa hình ảnh mà cần đặt nó trong tương quan
với các biện pháp tu từ, cách sử dụng ngôn ngữ, âm, vần, nhịp điệu…để khám phá cái hay, cái đẹp của câu thơ. Đặc biệt,
cần chú ý đến tứ thơ, vì mọi chi tiết trong thơ thường xoay quanh tứ thơ. Tách rời chi tiết khỏi tứ thơ là tách rời nó khỏi
chỉnh thể nghệ thuật, mọi sự khám phá sẽ thiếu tính toàn vẹn. Chi tiết có thể giống nhau nhưng tứ thơ là sáng tạo đơn nhất,
không lặp lại. Gắn chi tiết với tứ thơ mới thấy được tài năng sáng tạo của thi sĩ.

Những hình ảnh dòng sông, con thuyền, nhịp cầu, cánh chim, làn mây, khói sóng…không phải là những hình ảnh xa lạ với
thơ ca truyền thống. Nhưng đi vào bài thơ “Tràng giang” (Huy Cận), chúng được tập trung làm rõ cho sự phi hòa điệu của
tạo vật với nhau và giữa con người với tạo vật, nhằm khắc họa cái Tôi cô đơn và nỗi buồn sông núi của nhà thơ. Tứ thơ đó
đã chi phối mạch cảm hứng của bài thơ, khiến tất cả các hình ảnh chỉ nhằm phản ánh sự mênh mông vô biên (về chiều
kích) và sự hoang vắng cô liêu (về tính chất) của tràng giang. Con thuyền và dòng nước, cành củi khô, cồn nhỏ đìu hiu,
sông dài trời rộng, cánh chim chiều chao nghiêng…mô tả sự lạc lõng, chia rời, sự hoang vắng, trống trải đến rợn ngợp của
đất trời. Đối diện với cảnh ấy, con người càng cảm thấy cô đơn. Cô đơn trên chính quê hương, đất nước mình là tâm trạng
chung của cả một thế hệ thi nhân mất nước lúc bấy giờ, nhưng có lẽ Huy Cận với bài thơ Tràng giang là tiêu biểu nhất.

Ngoài những yếu tố nêu trên, cảm nhận chi tiết trong thơ còn đòi hỏi người đọc có một năng lực thẩm thấu nhất định. Cảm
thụ thơ xưa nay chưa bao giờ là điều dễ dàng, bởi đó là sự cảm thụ cái hay, cái đẹp. Để hiểu về cái hay, cái đẹp cần có sự
kết hợp giữa một tâm hồn nhạy cảm biết rung động với một con mắt tinh tế biết phát hiện và một khả năng sử dụng ngôn từ
chọn lọc. Cần một sự bồi đắp, trau dồi, rèn giũa lâu dài mới đạt được.

Tóm lại, khó thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của chi tiết trong tác phẩm nghệ thuật. Với nhà văn, quá trình sáng tạo
gắn liền với ý thức làm nên những chi tiết đặc sắc, góp phần thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm. Chi tiết gánh trọng
trách chuyển tải đến người đọc những thông điệp mà nhà văn gửi gắm, những cách nhìn và quan niệm sâu xa về con người
và cuộc đời của người nghệ sĩ. Với người đọc, cảm nhận chi tiết nghệ thuật là mở những cánh cửa đầu tiên để đi vào thế
giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Nhà văn sẽ không thể làm nên tên tuổi nếu tác phẩm của anh ta không bắt đầu
từ những chi tiết. Người đọc sẽ không nối được nhịp cầu tri âm với tác giả nếu không thông qua tác phẩm từ những chi tiết
nghệ thuật nhỏ nhất bởi chân lí trong sáng tạo nghệ thuật luôn là: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. (Thi quốc gia)

Đề bài:
“Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm” (Pauxtopxki). Trình bày suy nghĩ của anh, chị về ý kiến
trên?
Bài làm
“Tình tự quá, thiêng liêng êm ái quá
Thơ ở đâu thong thả xuống đường mưa
Những hoa quý tỏa hương vương giả
Mây đa tình, như thi sĩ đời xưa…”

(Tình mai sau – Xuân Diệu)

Phải chăng, tự bao giờ, người ta luôn bằng lòng với quan niệm: Nghệ sĩ suốt đời săn tìm cái đẹp và chỉ đi tìm cái đẹp? Văn
chương luôn bắt nguồn từ một men say, một tia chớp lóe sáng, một mạch nước ngầm âm ỉ tự bao giờ? Mỗi tác phẩm phải
mở ra một hình sắc riêng, một cảm xúc riêng về cuộc sống. Say mê trong khu vườn ngôn từ, đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi:
Điều gì trước hết làm nên sức hấp dẫn của một tác phẩm? Tìm gặp ý kiến của Pauxtopxki, tôi đã có được lời giải đáp cho
chính mình: “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”

Văn chương tự bao giờ đã làm bạn với những niềm vui và nỗi buồn của con người? Chỉ biết rằng trên hành trình kiếm tìm,
vươn đến nghệ thuật, người nghệ sĩ luôn mang đến một định nghĩa, một chuẩn mực về văn chương. Văn chương là thứ bùa
màu nhiệm và bí ẩn có sức cuốn hút và mê đắm lòng người. Bởi lẽ nó được kết tinh từ hàng triệu vị sao tinh tú, của vạn
giọt nước trong và của nghìn viên ngọc giữa lòng cuộc sống. Nhà văn chính là người chắt chiu những vẻ đẹp tiềm ẩn, gạn
đục khơi trong, đãi cát tìm vàng để sáng tạo nên tác phẩm của mình. Nhưng cái làm nên tầm vóc của nhà văn không phải là
sự hoa mỹ về ngôn từ hay quy mô của tác phẩm mà chính là chi tiết – yếu tố đôi khi được coi là nhỏ nhặt, là vặt vãnh trong
một tác phẩm lớn. Chi tiết nghệ thuật chính là những yếu tố nhỏ lẻ nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng của
nhà văn. Chi tiết không chỉ là yếu tố cấu thành nên tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con
người, về cuộc đời. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư ký trung thành của thời đại” (H. Balzac) khi anh ta có khả năng làm
sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật
không chỉ thể hiện được bản chát sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc, tư tưởng của người cầm bút.
Như vậy, ý kiến của Pauxtopxki cho rằng chi tiết nghệ thuật là linh hồn của một tác phẩm, chi tiết vàng có sức biểu hiện,
sức gọi và ám ảnh càng lớn thì càng góp phần nâng cao giá trị và tạo nên những “bụi vàng” óng ánh cho tác phẩm.

Một bài thơ hay, một câu thơ đặc sắc phải là nơi cất giấu được nhiều chi tiết giá trị. Trong thơ, nhờ chi tiết mà cảm xúc của
nhà thơ có nơi nương náu. Đặc thù của thơ là cảm xúc và hình ảnh. Hình ảnh chính là chi tiết trong thơ: một cánh chim,
một làm mây, một chiếc lá, một nhành hoa hay một tia nắng đi vào thơ không còn là sự vật vô tri nữa…

Nó là hình ảnh phản chiếu tâm trạng, cảm xúc và suy nghĩ của người cầm bút. Để từ một cảnh huống, một tâm trạng mà
thấy được nỗi niềm không chỉ của cá nhân thi sĩ mà của cả một thời đại. Trong cái tận cùng của sự cô đơn, cái rợn ngợp
của đất trời, như một thói quen của những con người mang trong mình nhiều tâm sự, người thi sĩ đã gửi gắm nỗi buồn của
mình thông qua những chi tiết đắt giá:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh


Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

(Tự tình – Hồ Xuân Hương)

Cũng như nhiều bậc thi nhân, Hồ Xuân Hương tìm đến rượu với mong muốn mượn cơn say để quên đi thân phận cô đơn,
tủi hổ, bẽ bàng, chua sót của chính mình nhưng càng buồn tủi cùng cực khi “say lại tỉnh”, men rượu không thể xoa dịu
được số phận hẩm hiu, lẻ mộn của người phữn. Đi hết vòng say tỉnh của men rượu, người thi sĩ lại càng ý thức được sâu
sắc hơn nỗi cô đơn của cuộc đời, nỗi buồn ngấm sâu vào tâm hồn không có gì có thể làm vơi bớt được. Chi tiết “say lại
tỉnh” giống như một vòng luẩn quẩn của tình duyên khi trăng khuyết vẫn chưa một lần tròn đầy viên mãn. Thông qua
những chi tiết mang giá trị cảm xúc cao, người đọc thấy được một con người chơi vơi giữa thế giới mênh mông, hoang
vắng và bất lực trước nỗi cô đơn, trơ trọi của chính mình. Từ đó, người đọc thấy được nỗi buồn của thi sĩ không chỉ là nỗi
buồn của đêm tàn canh vắng mà còn là nỗi đau nhức nhối, xót xa, bất lực trước thân phận lẻ mọn của chính mình.

Một câu thơ hay phải cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ luồng gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nên đẹp đẽ,
gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Một nhà thơ tài năng phải là một người thợ lặn lành nghề, lặn
sâu vào đại dương cuộc sống, không phải để nhặt nhạnh mảnh san hô bình thường mà để tìm kiếm những viên ngọc trai lấp
lánh, những “khối tình con”kết từ máu huyết của loài trai nhẫn lại. cần cù. Chi tiết nghệ thuật không phải là thứ phơi bày ra
trước mắt người nghệ sĩ mà là thứ ngọc khô cằn trong bàn tay tài hoa của anh. Một người nghệ sĩ sáng tạo sẽ biết cách khai
phá được nhiều chi tiết đặc sắc, mang ấn tượng chủ thể riêng. Cảm nhận chi tiết trong thơ không chỉ là đi tìm nhãn tự, giải
mã từ ngữ, cắt nghĩa hình ảnh mà cần đặt nó trong sự tương quan với các biện pháp tu từ, cách sử dụng ngôn ngữ, âm, vần,
nhịp điệu để khám phá cái hay, cái đẹp của câu thơ. Ta yêu” Truyện Kiều” đâu chỉ vì “Đoạn trường tân thanh” xé ruột cất
lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc, truân chuyên của cánh hoa Thúy Kiều tài sắc. Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều”
vì những “ngôn từ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác trong câu thơ lục bát thân thương:

“Long lanh đáy nước in trời


Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)


Nếu Nguyễn Du không được mệnh danh là “bậc thầy về ngôn ngữ” thì có lẽ truyện kiều sẽ nhàm chán biết bao! Chi tiết
được thể hiện thông qua ngôn ngữ, thì văn sẽ hay. Ngôn ngữ của đời thường là một loại quặng còn lẫn tạp chất. Thi sĩ làm
công việc của người tình nguyện loại bỏ những tạp chất để đúc kết nên thứ kim loại hoàn hảo hơn, đủ sức óng ánh để phản
chiếu tâm hồn. Có những từ là nhãn tự của thơ thì mới có những khổ thơ, bài thơ xuất thần, độc đáo. Nhà thơ làm công
việc lựa chọn ngôn từ sao cho đắc ý nhất và mang được ý nghãi sâu sắc nhất. Khi miêu tả Thúy Kiều với đôi ba nét,
Nguyễn Du đã dự báo trước số phận của nàng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn


Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Những sinh vật vô tri làm sao có thể “ghen”, làm sao có thể “hờn” trước nhan sắc của con người? Hay phải chăng chính
Nguyễn Du đã dự báo trước cuộc đời của Thúy Kiều là mọt cánh hoa “hồng nhan bạc mệnh”? Thi sĩ của chúng ta còn viết

“Bất tri tma bách dư niên hậu


Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

(Độc Tiểu Thanh ky – Nguyễn Du)

Tiếng “khấp” của đại thi hào vĩ đại Việt Nam vẫn còn vang vọng hàng bao thế kỉ, đi giữa lòng người để nói về nỗi đau
cuộc đời chất chứa trong tim. Thi sĩ không sử dụng tiếng “khóc” mà lại là tiếng “khấp” tiếng nức nở trong lòng, tiếng nấc
xót thương còn vương mãi không nguôi. Nguyễn Du đã để lại cho dời một “tòa lâu đài ngôn ngữ” vô giá, ngôn ngữ làm
nên văn chương và văn chương có sức mạnh xoa dịu, phản kháng và tàn phá. Phải trân trọng và biết sử dụng ngôn ngữ thì
mới có thể sáng tác và tạo nên những chi tiết “bụi vàng” cho tác phẩm.

Trong tác phẩm “Mấy ý nghĩ về thơ” nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết: “Hình ảnh của thơ trái lại, phải là hình ảnh thực
nảy lên trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy. Đụng chạm với hành động hàng ngày,
tâm hồn nảy lên bao nhiêu hình ảnh như những tia lửa tóe lên khi búa đập vào sắt trên đe. Người làm thơ lượm những tia
lửa ấy, kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ.” Một câu thơ hay phải là câu thơ có chiều sâu về hình ảnh, tức là giàu
những chi tiết thực đáng giá. Nếu Huy Cận làm thơ với một “cửa lòng đóng khép”, nếu anh không “mở hồn ra đón lấy tất
cả những váng động của đời” thì làm gì có một “Tràng Giang” mà mỗi khi nhắc đến người ta đều phải thốt lên:

“Là tràng giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước
Là Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ ưu sầu”
Một “Tràng giang” được cất lên bởi một nỗi sầu mênh mang của sóng nước:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

(Tràng giang – Huy Cận)

Huy Cận sử dụng chi tiết cành củi khô “lạc mấy dòng” mà không phải là “trôi mấy dòng” phải chăng đó cũng như tâm
trạng của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng, bơ vơ bị cuốn trôi theo chiều xoáy của cuộc đời? Cái tôi cô đơn, tội nghiệp
của thơ ca lãng mạn đã tìm thấy sự tương đồng của nó trong chi tiết cành củi khô “lạc mấy dòng” của nhà thơ Huy Cận.
Chi tiết nghệ thuật làm cho “cái tôi” trong thơ được biểu hiện một cách khái quát. “Cái tôi” xuất hiện mà tận chiều sâu khát
vọng của nó mang một ý nghĩa nhân bản sâu sắc, hơn bao giờ hết, con người có thể lắng nghe mọi cung bậc cảm xúc của
lòng mình qua thơ ca. “Cái tôi” của Huy Cận buồn ảo não, ngẩn ngơ một nỗi sầu nhân thế, sầu không gian tha thiết. “Cái
tôi” của Xuân Diệu sôi nổi, đắm say, rạo rực, tìm ra cái buồn trong cái vui, tìm ra cái đẹp trong sự hắt hiu tàn tạ. “Cái tôi”
của Hàn Mặc Tử như điên, như tỉnh, như thực, như mơ, quằn quại, đau đớn và vật vã.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa


Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)

Không tìm thấy sự hòa hợp ở cõi thực, thi sĩ tìm niềm an uier trong cõi mộng nhưng mộng đẹp cũng chỉ là hư ảo. Trong
giây phút xúc động không nói lên lời, Hàn Mặc Tử viết thơ, đưa những trong trẻo, ngây thơ của ánh mắt năm ấy nhìn mình
qua khung cửa. Những đau thương bao ngày còn để lại, không vồn vã, không băn khoăn. Giữa những yêu thương ấy, người
thi sĩ họ Hàn kia có đau lòng không? Có đau lòng không khi hình ảnh của người con gái ấy giờ đây như lẫn vào sương khói
mông lung và hư ảo? Chi tiết “áo em trắng” đã làm cho câu thơ thêm sự cô đơn, một khung cnarh xứ Huế hiện lên mờ mịt,
hư ảo, thi nhân như sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường mà là bằng đôi mắt tâm tư của thi sĩ. Chi tiết “áo
em trắng” không chỉ gợi ra một vẻ đẹp rất riêng của xứ Huế mộng mơ, một vùng đất nhiều sương giăng lãng bãng, những
tà áo dài trắng của nữ sinh duyên dáng một thời mà dường như với Hàn Mặc Tử, bóng người con gái ấy cứ xa mãi và cuối
cùng chỉ còn đọng lại trong tiềm ức. Chỉ cần một chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng nó đã làm cho bài thơ thể hiện rõ một “cái
tôi” đau thương và khát khao tình đời, tình người. Trước sau vẫn là là biểu hiện của một tâm hồn yêu đời đến đau thương
và tuyệt vọng…

Bàn về tương quan giữa chi tiết và tổng thể, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nghệ thuật đơn thuần là ánh nắng, chói lọi trong
giây lát trước mọi ngươi, mà chi tiết nghệ thuật còn là sắc xanh của buổi chiều tà, đọng lại trong lòng người để rồi cứ vấn
vương trăn trở”. Câu nói đó đã khẳng định thực tế, chi tiết luôn tác động mạnh mẽ đến nhận thức con người.

“Trong tác phẩm văn chương, chi tiết có thể nhỏ về quy mô, tầm vóc nhưng nó chứa đựng tư tưởng lớn, tình cảm lớn.
Không nhà văn vĩ đại nào nào không tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật từ những chi tiết nhỏ, đặc sắc. Thực tế cho
thấy, chỉ bằng những chi tiết cô đúc, tiêu biểu, kết hợp với lối hành văn đầy ẩn ý, nhiều nhà văn đã để lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức biểu cảm.

Trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, hình ảnh Liên và An ngồi nhìn bầu trời đêm với “ngàn sao ganh nhau lấp
lánh” không phải là một chi tiết vu vơ. Thạch Lam xây dựng sự tương quan giữa ánh sáng và bóng tối xuyên suốt trong tác
phẩm của mình. Bóng tối nơi phố huyện gợi lên bóng tối ấy hiện lên qua đôi mắt của Liên “ngập dần vào cái buồn của một
buổi chiều quê”, qua hình ảnh bà cụ Thi với tiếng cười khuất dần trong đêm tối. Đó còn là bóng tối hiện lên qua hình ảnh
mẹ con chị Tý với cái chõng nước và ngọn đèn dầu leo lét. Giữa cái bống tối dày dặc của không gian, của cuộc đời thì một
tia sáng nhỏ nhoi cũng trở nên quý giá hơn ai. Cái hay độc đáo trong nghệ thuật thể hiện của Thạch Lam là nhà văn đã
dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối. Trên trời, ánh sáng xuất hiện với sự lấp lánh của những ngôi sao và những con đom
đóm lập lòe. Ở con phố huyện nghèo, ánh sáng hiện lên với ngọn đèn của mẹ con chị Tý, bếp lửa của bác Siêu, những hột
sáng lọt ra từ khe cửa của ngôi nhà, Thạch Lam tập trung miêu tả hình tượng bóng tối và ánh sáng xuyên suốt trong tác
phẩm của mình đó không phải là một chi tiết vu vơ. Đằng sau nó chứa đựng niềm khao khát rất lớn của hai đứa trẻ, niềm
khát khao hướng đến một bầu trời khác, nguồn sáng khác mà không phải là cuộc sống lụi tàn trong vô vọng như ở phố
huyện…

Trong tác phẩm văn học, nếu thiếu đi chi tiết, nhà văn sẽ không thể đúc kết nên tác phẩm. Và không có một tác phẩm lớn
nào mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống. Trong tiếp nhận văn học, càng không xem nhẹ chi tiết. Mỗi người
nghệ sĩ đều có cánh khai thác chi tiết riêng biệt. Nếu Thạch Lam đi tìm và khám phá chi tiết trong cái đẹp đời thường, Vũ
Trọng Phụng mổ xẻ một hiện thực cực đoan, Nguyễn Tuân khao khát cái đẹp trong một thời quá vãng thì Nam Cao lại thể
hiện và xây dựng chi tiết bằng ngòi bút tỉnh táo và đúng mực. Xuất phát từ hiện đại về con người, hướng tới vẻ đẹp nhân
văn đích thực của con người. Truyện ngắn và truyện dài của Nam Cao mạnh dạn đi vào tận cùng các cực đối lập trong
nhân tính, tâm hồn của con người. Khi cùng viết về đề tài người nông dân, nhưng ở hai văn khác nhau, hại góc độ khác
nhau lại sinh ra những nhân vật và giá trị thẩm mũ khác nhau. Đọc “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, người đọc tiếp cận với một
khoảng không gian ngột ngạt, oi bức, nỗi khổ đè nặng trên đôi vai gầy yếu, nỗi đau xé lòng của Dậu dường như đã trở
thành nỗi đau tột cùng. Bên cạnh đó, còn có một hình ảnh Chí Phèo, một hình ảnh của sự khốn cùng về người nông dân
trong xã hội cũ. Với ngòi bút sắc lạnh nhưng ấm áp tình người, Nam Cao đã thổi hồn cho nhân vật của mình bước ra khỏi
trang văn, đến với hiện tại và trở thành một điển hình của nghệ thuật. Viết về cái bi nhưng Nam Cao cũng muốn tô sáng cái
đẹp, nếu nhà văn không thương lấy nhân vật của mình thì có lẽ cuộc đời của Chí sẽ không có sự xuất hiện của Thị. Nam
Cao xây dựng nên một nhân vật Thị Nở trong tác phẩm của mình đã thể hiện được ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Khi cả làng Vũ
Đại không chấp nhận Chí là một con người thì Thị lại chính là người dang rộng vòng tay để đón lấy Chí. Một người đàn bà
xấu xí, dở hơi kỳ diệu thay thay lại là một nguồn sáng duy nhất chiếu rọi vào chốn tối tăm nơi tâm hồn Chí để thức tỉnh, để
gợi dậy bản tính người nơi Chí, để thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua ngày tháng bị vùi dập, hắt hủi. Nhân Vật Thị Nở
được ví như một vị thiên sứ, vị thiên sứ này không có đôi cánh thiên thần nhưng có một đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ
ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn Chí; nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh Chí; nếu là
lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả lại Chí hình hài một con người… Ngòi bút của Nam Cao bao giờ cũng mạnh mẽ,
bao giờ cũng dứt khoát và lạnh lùng, nhưng mấy ai biết được rằng bên trong sự lạnh lùng, dứt khoát ấy vẫn là một tình yêu
thương tha thiết đối với nhân vật của mình? Nam Cao xây dựng chi tiết “bát cháo hành” đâu phải là một chi tiết vu vơ, nhà
văn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ là nó có thể sống dậy
mạnh mẽ, tha thiết… “Bát cháo hành” khiến hắn cảm thấy xúc động bởi vì lần đầu tiên hắn được một người đàn bà nấu
cho. Hương cháo là hương của cuộc đời, hương của tình yêu mà trước giờ chưa ai cho hắn cả. Hình ảnh “bát cháo hành” là
một chi tiết nghệ thuật đặt giá mà Nam Cao xây dựng thành công trong tác phẩm của mình. Bởi lẽ, đằng sau một chi tiết
nhỏ nhặt ấy lại chính là sự vị tha và yêu thương tha thiết của nhà văn trước những bản tính tốt đẹp nơi Chí nói riêng và
người nông dân bần cùng trong xã hội cũ nói chung.

Như vậy, chi tiết nghệ thuật phải gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi
nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật,
tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn. Trong truyện nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai
và phát triển đầy đặn, thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tính cách, tâm trạng, hình dáng, số phận của nhân vật
được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Nhiều chi tiết trở thành những điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trị không thể thiếu
trong sự phát triển của cốt truyện, gắn liền với những bước ngoặt trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi tiết là sự đặc
tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên hời hợt, thiếu sức hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu quá nhiều chi tiết thì truyện sẽ rối rắm,
rườm rà, giảm giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Chi tiết gánh trọng trách truyền tải đến người đọc những thông điệp mà nhà
văn gửi gắm, những cách nhìn và quan niệm sâu sa về con người và cuộc đời của người nghệ sĩ. Nói người đọc, cảm nhận
chi tiết nghệ thuật là mở ra những cánh cửa đầu tiên để đi vào thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Nhà văn sẽ
không thể làm nên tên tuổi của tác phẩm tự những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhất bởi chân lý trong sáng tạo nghệ thuật luôn
là: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.

Tóm lại, Pauxtopxki đã đưa ra một quan niệm đúng đắn trong nghệ thuật sáng tác. Dù là thơ hay văn xuôi, đều cần phải
xây cát từ chi tiết. Theo quy điển hình hóa của nhân vật, qua một giọt sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có
khả năng chưng cất cả đại dương vào trong giọt nước, để vũ trụ vào trong một sương. Tầm cỡ của nhà văn là khi viết về
những vấn đề những cái không đâu, vặt vãnh nhưng khơi gợi được những vấn đề lớn liên quan đến số phận con người,
nhân loại nhờ chi tiết. Xin mượn câu nói của nhà phê bình Nguyễn Thanh Tú để đúc kết lại vấn đề rằng: “Nếu một tác
phẩm được ví như bóng đèn điện thì các chi tiết được ví như những sợi dây tóc phát sáng. Tác phẩm chỉ có thể sống được
nếu nó được xây dựng nên những chi tiết đắt giá”. (Ngọc Ly.)

Thơ và đặc điểm của ngôn ngữ thơ


Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất, dài thuật ngữ thơ
được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản
chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.

Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm “thơ là gì?” đã được đề cập đến từ rất sớm. Cách đây khoảng
1500 năm, trong cuốn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã đề cập đến ba phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là tình
cảm, ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn). Kế thừa quan niệm của Lưu Hiệp, đến đời Đường,
Bạch Cư Dị đã nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì
trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa.
Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc
nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả
gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu
sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.

Các nhà Cấu trúc chủ nghĩa Châu Âu lại thay thế câu hỏi “thơ là gì?” bằng một câu hỏi khác: tính thơ là gì? và nó được thể
hiện ra như thế nào? Trong tiểu luận “Thơ là gì”, Jacobson viết: “Nhưng tính thơ được biểu hiện ra như thế nào? Theo cái
cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ định, theo cách
những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu
hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng”. Tiếp tục triển khai lý thuyết tự qui chiếu, Jacobson
sau khi nhắc lại hai kiểu sắp xếp cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn và kết hợp, đã đi đến kết luận: “Chức năng
thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”. Mặc dù có lưu ý ít nhiều đến hoạt động
nguyên lý tương đương về ý nghĩa nhưng trong tư duy nghiên cứu của Jacobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa của đối
tượng gọi tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc có tính chất khép kín của văn
bản. Điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa được hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, như ta thấy, ý nghĩa của
thơ nhiều khi đã vượt ra ngoài giới hạn của văn bản.
Ở Việt Nam, khái niệm “thơ là gì?” cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với nhiều quan niệm, nhiều khuynh
hướng khác nhau. Lý giải về bản chất của thơ, các tác giả nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng: “Thơ là một cái gì huyền ảo,
tinh khiết, thâm thuý, cao siêu”. Còn nhà thơ Tố Hữu thì quan niệm: “Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống”. Dưới cái nhìn cấu
trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghĩa: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải
nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này”. Định nghĩa này của giáo sư Phan Ngọc đã kế thừa được
những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau của Tây Âu trong mấy chục
năm qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần
tuý mà chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.

Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã được chứng kiến rất nhiều định nghĩa về thơ. Theo tôi, cách định nghĩa của
nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có thể xem là chung nhất:
“Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm
súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”. Định nghĩa này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình
thức nghệ thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong những thể loại văn học
khác.

Từ sự nhận diện về thơ như trên, ta có điều kiện để đi vào tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ. So với ngôn
ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có những điểm khác biệt như:

1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính


Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện
bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh
học của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ…) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại
được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết.
Bởi thế, đặc trưng tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.

Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt cơ bản. Đó là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng
điệp:
– Sự cân đối là sự tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có thể là hình ảnh, là âm thanh, chẳng hạn:
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đường luật thất
ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu này không khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật
của phép đối xứng trong thơ của mình.

– Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ cao giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu với
hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã biểu hiện được cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời


Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Chính Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của từ “xôn xao” trong câu thơ “Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa” (Mẹ
Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh, âm
thanh của từ “xôn xao” đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu ấy. Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp
điệu:
“Sen tàn/ cúc lại nở hoa
Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân”.

Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của tháng năm bốn mùa… Nhịp thơ ở đây là
nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như vậy, âm thanh, nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp
phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.

– Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng như một phương tiện
kết dính các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp
trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
“Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân”
(Tiếng đàn mưa- Bích Khê).

Lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương
vấn không dứt trong lòng người.

Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ. Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một
số người có xu hướng bỏ vần để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc điệu nội tại nào đó
như sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.

2. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc


Đây là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể loại mà nó biểu hiện một
cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời
thường, nó chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến cực độ để tái hiện bộ
mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng, đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính “đặc
tuyển”. Là thể loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng
chiếm lĩnh thế giới. Nói như Ôgiêrốp: “Bài thơ là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất”.
Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải “thôi xao”, nghĩa là phải phát huy sự tư duy
ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ là “trả chữ
với với giá cắt cổ”:

“Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ


Như khai thác chất hiếm radium
Lấy một gam phải mất hàng bao công lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.”

Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô
đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất
kiểu như Nguyễn Du đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô
học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào; cái
tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.

Do quy mô của tác phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất “tiết kiệm”. Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng
các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của
người nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ “khô” trong câu thơ của Tản Đà: “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày” là một từ có tính
hàm súc cao mà những yếu tố tương đương với nó (như “tuôn”) không thể thay thế. Nó không chỉ diễn tả được chiều sâu
của tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của những tháng năm chờ đợi. Nó vừa đảm bảo được tính chính xác, tính hình
tượng, vừa có tính truyền cảm.

Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn của cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị
ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là “quái đản”. Dưới áp lực
của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ
điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ. Ví dụ: Khi Hồng
Nguyên viết: “Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau” thì chính trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ “đột
kích” được cấp cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: “Em đã lấy
tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa” thì sự kết hợp bất thường về nghĩa đã mở ra những liên tưởng hết sức thú vị. Trong
đời thường, khi nói đến việc “thắp lửa”, người ta một là nghĩ đến phương tiện như: cái bật lửa, que diêm … hai là nguyên
liệu như: dầu hoả, dầu dừa … Ở đây, nhà thơ lại thay nó bằng một “chất liệu” rất trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và
trong quan hệ với cái chất liệu trừu tượng đó, nghĩa bề mặt của “ngọn lửa” bị mờ đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân
lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời…
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong
thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau, như
ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây là một ví dụ:

“Khăn thương nhớ ai


Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhơ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.”

Bài ca dao có số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải nhớ mong
của người con gái dường như còn vang mãi, dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một người mà của nhiều
người.

3. Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm


Tính truyền cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của
cảm xúc của người nghệ sĩ trước cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương
phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người
đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ
ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà
văn dùng ngôn ngữ để thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích… thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm. Khi Quang
Dũng viết:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà
tác giả khơi trong ta nỗi nhớ thương mất mát, nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan
biến trong đời… Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm
trạng của chính mình.

Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với cuộc đời. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm
trạng cho nên sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh
giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu


Dây thép gai đâm nát trời chiều”
(Nguyễn Đình Thi).

Ở đây, mỗi câu thơ đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình cảm. Những từ đó như là những tiêu điểm để ta nhìn
thấu vào tâm hồn tác giả. Tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ ngữ, các phương
thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ. Chẳng hạn:

“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan


Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”
(Tố Hữu).
Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng và phụ âm mũi vang khiến câu thơ nghe giàu tính nhạc, kéo dài như
âm vang của sóng biển vỗ bờ. Nhạc tính đó không đơn thuần là sự ngân nga của ngôn ngữ mà còn là khúc nhạc hát lên
trong lòng người.

Tóm lại, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ
mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính chính xác,
tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm… Tuy nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy
lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trưng ngôn ngữ
riêng… (Học văn văn học.)

Tiếp nhận văn học: đánh giá sự hay-dở qua 1 tác


phẩm
Trong “Tùy viên thi thoại”, Viên Mai từng kể, Lý Phi đời Đường cho thơ Bạch Cư Dị là dâm, diễm, phóng túng, cuối
cùng, người đời sau chỉ biết có Bạch mà chả hề nhắc tới tên họ Lý năm nào. Mọi tác phẩm muốn đi theo năm tháng, muốn
trường tồn với nhân gian, phải có sự giúp đỡ của người đọc. Người đọc là đối tượng mà văn học cần truyền tải và cũng là
con thuyền giúp nhà văn đi qua những bão giông, úa tàn của vô thường, của vũ trụ. Dẫu vậy, vấn đề tiếp nhận vẫn còn là
một câu chuyện nan giải, chưa có hồi kết. Vì thị hiếu thẩm mỹ của mỗi người người rất khác nhau, cảm xúc thẩm mỹ lại
thay đổi theo thời đại. Một tác phẩm bị quên lãng vào thời đại mà nó sinh ra, lại có thể bùng lên ngọn lửa vào những thế kỉ
sau. Vậy nên, việc đánh giá sự thành bại, hay dở của một tác phẩm văn học, luôn cần soi chiếu nhiều phương diện khác
nhau.

Tác phẩm ban đầu chỉ là một dạng giá trị tinh thần bên trong những cảm xúc, tư tưởng của nhà văn. Sau đó, nhờ những
phẩm chất đặc biệt, những giá trị tinh thần này được truyền tải dưới dạng chất liệu là ngôn từ, trở thành một dạng giá trị vật
chất . Công cuộc thai nghén của nhà văn kết thúc từ đây. Tác phẩm đã được “cắt rốn” ra khỏi suy nghĩ nhà văn, bắt đầu
cuộc hành trình sống, đi tìm chỗ đứng của bản thân mình. Cuộc đời của tác phẩm chỉ bắt đầu khi nhà văn kết thúc nó. Và
rồi, khi nó đến được với người đọc, quá trình tiếp nhận bắt đầu được thực hiện, giờ đây, nhà văn và tác phẩm tách biệt
nhau, mỗi người đều có một cuộc đời khác. Chỉ đến lúc này, tác phẩm mới chính thức được công nhận là một tác phẩm
toàn vẹn.

Dẫu vậy, tác phẩm cũng đòi hỏi ở người đọc một số năng lực tối thiểu, cần thiết. Trước hết, người đọc phải đọc được ở lớp
từ ngữ một cách trọn vẹn, sau đó, thâm nhập vào hệ thống hình tượng, những ẩn ý mà nhà văn đã đưa ra. Rồi từ những
hình tượng này, thể nghiệm nó trong đời sống, nâng cấp nó trở thành một dạng quan niệm, tư tưởng, để từ đó tác phẩm có
thể tìm được chỗ đứng của chính bản thân trong đời sống lịch sử. Những suy nghĩ ỷ lại, tầm thường, rằng chỉ nhà văn mới
cần phẩm chất, còn người đọc thì không, cần được triệt tiêu càng sớm càng tốt. “Người làm văn nhờ xúc cảm dồi dào, mà
viết thành văn, thì người đọc cũng phải biết rẽ văn mà thâm nhập vào tình cảm” (Lưu Hiệp). Nếu không chỉ như nhân vật
trong truyện ngắn Sekhov, xem xong kịch Opera chỉ biết khen diễn viên có giọng hát hay. Đọc một tác phẩm mà chỉ như
cưỡi ngựa xem hoa, cuối cùng chẳng đọng lại được gì, chỉ như “nước đổ đầu vịt”.

Tiếp nhận văn học luôn là một lĩnh vực đòi hỏi tính khách quan, như trong một thời gian dài, nó đã được coi như một hoạt
động giữa những cá nhân. Văn học Trung Hoa cổ đại rất coi trọng tính chất cá nhân này, coi “tri âm”, “tri kỉ” là một đích
đến trong cuộc đời thơ văn. Thời Xuân Thu, Chương Tử Kỳ đàn cho Bá Nha nghe, Bá Nha thấy được sông núi biển trời.
Sau Bá Nha chết, Chương Tử Kỳ cũng đập cây đàn độc nhất, không sử dụng một lần nào nữa. Cách nghĩ này khiến văn
chương trở thành một lĩnh vực chỉ dành cho những người sành nghệ thuật, mang cách đọc tầm nguyên, cốt tìm cho ra dụng
ý của tác giả mà không quan tâm tới những tư tưởng thời đại, xã hội thời bấy giờ. Lại có ý cho rằng “ý của tác giả chưa
chắc đã vậy, tại sao ý của người đọc lại không được như vậy”. Cách nghĩ này dẫn đến những lối nghĩ chủ quan, xa rời thực
tế, xa rời ý đồ thực sự của tác phẩm. Như xưa kia, Kinh Thi bị coi là một dạng sách vở giáo điều, lại có kẻ cho rằng là một
dạng dâm ô tục tĩu, nhưng vẫn có khía cạnh đề cao trượng nghĩa. Đến khi được nhìn nhận đúng, Kinh Thi là những bài dân
ca tình tứ mang đậm suy nghĩ thế nhân, Và chỉ đơn giản là như vậy.

Điều đó cho thấy văn học phải được nhìn nhận khách quan, dưới những khía cạnh trong đời sống lịch sử xã hội. Những
biến chuyển của xã hội sẽ tác động tới suy nghĩ, tư tưởng, những định kiến của con người khi nhìn nhận một vấn đề. Đó
chính là lí do tác phẩm có thể không phù hợp với giai đoạn này nhưng lại là “bất hư” với giai đoạn khác. Thời Nguyễn
Công Trứ, khi nho giáo, những ràng buộc đối với người phụ nữ vẫn còn, ông cho Kiều là “ đáng kiếp tà dâm”, nhưng đến
thời Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, khi thời đại đang đề cao tiếng nói cá nhân, những tình cảm rất riêng tư, con con, mộc
mạc, thì một nhân vật như Kiều lại đáng được trân trọng. Nhà văn thường không được công nhận vào đúng thời của mình,
chính là vì anh ta đang đi trước thời đại quá xa. Hay chuyện của Sekhov, kể về một người đàn bà có nhiều đời chồng.
Lênin cho rằng vậy là “gió chiều nào theo chiều ấy”, là không chung thủy, là bởi ông thuộc về con người của tư duy, của lí
trí, của những kiên định và sắt đá. Lep Tônxtôi lại bênh vực, thương cảm thay cho người phụ nữ kia. Rằng người đàn bà ấy
sao mà khổ, mà thương, khi dành trọn tình cảm cho ai cũng không có được kết cục viên mãn. Là người con gái, ai chẳng
mong được hạnh phúc bên người mình yêu, có một mái ấm, một bờ vai vững chắc. Hai người có hai lí lẽ rất khác nhau.
Không ai đúng, sai, hoàn toàn, chỉ bởi hai người khai thác ở hai khía cạnh khác nhau, và tâm tư, lối nghĩ của hai người
cũng được định hình theo những lối khác nhau.

Ngoài tính khách quan, cũng không thể phủ nhận khả năng sáng tạo của người đọc. Người đọc và nhà văn sẽ cùng thực
hiện chức năng “đồng sáng tạo”. Nhưng đây hoàn toàn là hai lối sáng tạo khác nhau. Với nhà văn, là sáng tạo ra tác phẩm
mới, ra một đứa con tinh thần đến với người đọc. Và bởi “ Viết thông minh là không viết hết” (Faulre), nên quá tình sáng
tạo của người đọc bắt đầu. Người đọc sẽ hiểu, thâm nhập sâu vào hệ thông ý nghĩa và hình tượng trong tác phẩm, rồi phát
hiện ra những khía cạnh mới, những lối nghĩ mới trong không gian đa chiều của tác phẩm. Thế đứng và vai trò của tác
phẩm trong đời sống lịch sử cũng nhờ thế mà được khẳng định một cách sâu sắc hơn. Nhưng số phận của tác phẩm không
chỉ ở người đọc, mà còn ở “phẩm chất bên trong” (Phạm Văn Đồng), nên người đọc cũng nên tránh những lối đọc xa rời
thực tế, xa rời ý nghĩa ban đầu.

Bằng những yếu tố nêu trên, có thể, có thể thấy, tiếp nhận văn học là một khái niệm rất đa dạng, đa chiều, nhưng vô cùng
quan trọng đối với cuộc đời của tác phẩm và của nhà văn. Để đánh giá một tác phẩm hay hay dở, sẽ phụ thuộc vào phẩm
chất nhà văn, những giá trị mà nó đem lại trong đời sống văn học và tác động của những giá trị đó đối với những biến
chuyển của xã hội. Còn thực chất, chẳng thể nói rõ cho được, tác phẩm nào là thành hay bại. Đã là một đứa con tinh thần
được nhà văn thai nghén suốt bao tháng ngày, là một sản phẩm chứa đựng thế giới tinh thần và xúc cảm của nhà văn, thì nó
không bao giờ là điều thất bại.

Trong khi tác phẩm cùng thời chỉ tập trung vào việc đề cao, phóng đại hóa cái chân – thiện – mỹ, thì William Golding lại
đi vào những điều trần trụi nhất, phũ phàng nhất của thế giới loài người – cái ác bản năng. Trong khi ai ai cũng tin rằng
“Nhân chi sơ, tính bổn thiện” (Khổng Tử) thì ông tuyên bố cái ác có sẵn trong tâm tưởng mỗi người. Đi ngược thời đại như
vậy, “Chúa Ruồi” của William Golding đã gây rất nhiều tranh cãi. Ông để những tâm hồn lương thiện nhất, non nớt nhất, ở
một nơi chẳng hề có luật lệ, và xem xét sự tương quan giữa chúng, giữa cái cách mà hoàn cảnh tác động lên bản tính
người. Ở nơi hoang sơ như vậy, lũ trẻ buộc phải giết những sinh vật khác để sinh tồn, như cách mà bao đời nay vẫn thực
hiện để bảo toàn chuỗi thức ăn. Nhưng trong những cảnh giết chóc đó, một điều gì đó đã được bùng lên, một dạng khoái
cảm, thỏa mãn khi được nắm quyền sinh sát, được là kẻ cai trị, được nếm trải cảm giác của máu, của những tiếng than
khóc, và sự tuyệt vọng. Có câu chuyện là một chuỗi những sự lựa chọn, văn minh hay mọi rợ, luật kệ hay không luận lệ,
giết hay sống. “Chúa Ruồi” được sinh ra khi lòng trắc ẩn không còn được rung lên nữa, người sống không còn là người,
mà đã trở về với nguyên bản, với dạng hoang dã, với sự biến mất của những bữa trà chiều, những tiếng nói trọn vẹn, và
thay vào đó, là những mái tóc dài, những vỏn vẹn, những cuộc săn người man rợ.

Người ta thường nói nhiều về những giọt nước mắt. Nước mắt của hạnh phúc vỡ òa, của những nỗi buồn thương, của mỉa
mai chua xót. Nam Cao, nhà văn cả cuộc đời mình mải miết viết chỉ để giữ gìn sự trong sáng của giọt lệ, đã để Chí Phèo,
trong những khoảnh khắc cuối cùng, là “hình như mắt hắn ươn ướt”. Dẫu chỉ là thoáng qua, là mong manh, nhưng Chí
Phèo cũng đã khóc. Còn khóc là còn ánh lên chút thiện trong bản tính người. Trong “Chúa Ruồi”, William Golding cũng
để Ralph khóc. “Khóc cho sự ngây thơ đã chết và lòng dạ đen tối của con người”. Khóc cho em, và cho cả cuộc đời. Khóc
thay cho những tháng năm về sau sống trong bóng tối và ám ảnh, vì đã nhìn thấy những góc khuất, những đớn đau của
cuộc đời này quá sớm, khi mà em còn chưa được trang bị gì, chưa phải va vấp gì. Đời đã ném em vào hố đen, và giờ chỉ
còn mình em khuất bóng trong những năm tháng về sau. Và người lớn, chừng như còn biết bao điều phải lo nghĩ, phải bộn
bề giữa trăm nghìn công việc, nên chẳng hề quan tâm đến cái nỗi đau hồ mơ, chênh vênh của một đứa trẻ vặt. Nhưng con
người thì hoàn toàn, mãi mãi, có thể làm những gì đáng sợ ấy lại một lần nữa, trên hòn đảo vô danh củaThái Bình Dương
nắng gắt.

Khi mới được xuất bản, “Chúa Ruồi” không được nước sở tại, đất nước quê hương của tác giả đón nhận. Anh vừa trải qua
bao cuộc chiến tranh khốc liệt, và người ta cho rằng, không cần thêm bất cứ một sự u ám, một sự khốc liệt và trần trụi nào
nữa. Tác phẩm đã không được công nhận theo đúng tầm vóc và vị trí mà nó xứng đáng phải có. Nhưng khi được đưa qua
Mỹ, “Chúa Ruồi” lại được đón tiếp nồng nhiệt. Vốn với tư tưởng phóng khoáng, yêu thích những gì mới, những điều khác
lạ, “Chúa Ruồi” như một làn gió hạ mang theo hương mùa, phả lên cảnh vật những điều tươi mới nhất. Công chúng Mỹ đã
đón nhận tác phẩm một cách nồng nhiệt. Cho đến quãng thời gian sau này, “Chúa Ruồi” cũng tìm được chỗ đứng của nó
trong lòng độc giả quê nhà. Tác phẩm của William Golding được giảng dạy trong trường học, để giáo dục và mặt nhận
thức. Nhận thức về thế giới, rằng con người nói nhiều về quá khứ, về những người đã chết vì chiến tranh, mà không hề hay
biết, lịch sử chưa bao giờ dừng lại. Thế giới sẽ đi về đâu, trong một xã hội mà những cuộc chiến tranh cứ liên tiếp nổ ra, do
nhân loại và để tiêu diệt chính nhân loại?
Không chỉ ở nước ngoài, mà văn học Việt Nam cũng có những khía cạnh tiếp nhận rất thú vị. “Người đàn bà ngồi đan” của
Ý Nhi đã khiến bao thế hệ thiếu nữ Hà Nội, sống và học theo cung cách đó.

“Giữa chiều lạnh


Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
Vội vã như thể đó là lần sau chót.
Không thở dài
Không mỉm cười
Chị đang giữ kín đau thương
Hay là đang hạnh phúc
Lòng chị tràn đầy niềm vui
Hay là đang ngờ vực”.

Người đàn bà của Ý Nhi đan những sợi tơ trong guồng quay cuộc đời. Sợi rối, sợi quăn, sợi quấn vào nhau, như những
nghĩ suy đan xen phức tạp. Bởi chị đang đan những sợi tơ lòng. Tiếng nói chẳng còn, xúc cảm cũng không thể biểu lộ, chị
chỉ còn biết gửi tâm tư vào trong bao sợi tơ lòng. Đan rồi, tơ ơi, liệu có còn phải phải chờ đợi? Liệu có còn phải sống giữa
những lặng câm, giữa những kìm nén để thấy mình mạnh mẽ ? Tơ lòng, rối rắm, buồn thương. Tơ lòng, đan xen, vất
vưởng. Tơ lòng, chênh vênh.

Còn với Ý Nhi, chị đan vào lòng những người con gái Hà Nội biết bao sợi tơ thơ. Khiến những người con gái Tràng An,
giữa bao bộn bề đau thương, biết sống dịu dàng, đoan trang, biết sống hiền thục, nữ tính. Nhưng quyện với đó, là bao mạnh
mẽ, sục sôi, bao sức sống và xúc cảm đang chờ ngày được tỏ bày. Tơ thơ của Ý Nhi đã đan cài vào cả một thế hệ. Biết yêu,
biết sống, những cũng biết chờ đợi, biết nhớ mong. Biết thương, biết buồn, nhưng cũng biết xoa dịu, mạnh mẽ. Tơ Thơ đi
vào lòng người nhẹ nhàng và thầm lặng như chính bản thân của nó. Tơ mà, mong manh, dịu nhẹ, nhưng đan quyện cũng
rất đậm, rất sâu.

Có thể thấy, tiếp nhận văn học không chỉ giúp tác phẩm, nhà văn có được chỗ đứng, mà còn giúp người đọc sống được
nhiều cuộc đời. Nếu đã từng trải, có dịp chiêm nghiệm và nhận xét. Nếu chưa từng trải bao giờ, có dịp trải như chính cuộc
đời mình. Từ đó tự quan sát, soi xét lại mình, thanh lọc bản thân để trở thành một con người tốt hơn. Văn học giáo dục con
người là như vậy. Nhờ văn chương mà thay đổi được cả một lớp người, biến chuyển được cả một thời đại, cũng là nhờ
những thần kỳ mà ta có được nhờ văn chương. Nói đến văn chương là nói đến tình cảm, mà tình cảm thì thấm sâu, thấm
lâu. Những gì nhờ tình cảm mà có cũng được níu giữ lâu dài. Văn là tình, người cũng là tình, văn nhờ người mà sống,
người cũng nhờ văn mà trở nên hoàn thiện, toàn vẹn hơn, ngày càng hướng đến chân – thiện – mỹ.

Tác phẩm, xét cho cùng, cũng nhờ phẩm chất nhà văn mới có. Nhà văn phải có đủ tài – tâm – thức, thì văn mới sâu, ý mới
rộng, người mới nhờ đó mà tỏ, mà sáng biết bao chuyện ở đời. Vậy nên, một khi quá trình tiếp nhận diễn ra thành công, tác
phẩm đến được với lớp lớp người đọc nhà văn luôn cần được đề cao về vai trò, về năng lực sáng tác. Tác phẩm có chỗ
đứng trong tiến trình văn học, trong đời sống nội tại, trong lịch sử xã hội, thì cũng đồng thời với việc nhà văn đó được công
nhận, có vị trí trong lòng người đọc. Hai mối quan hệ này luôn bổ sung lẫn nhau, và không thể tách rời. Cũng như tác
phẩm không có tiếp nhận sẽ không được toàn vẹn. Haniki Munraka từng nói: “Một khi cơn bão đã thực sự chấm dứt, khi ta
bước ra, ta sẽ không còn là người khi đã bước vào”. Và những thay đổi ấy chưa bao giờ là xấu, chưa bao giờ là muộn.

Văn học trường tồn và đi mãi với thời gian, vượt qua những vô thường và bao sự vô tâm của dòng đời, chính là vì nó mang
trong mình tổ hợp của những giá trị. Văn học được dựng xây bởi giá trị. Mà giá trị thì không bao giờ bị những bão giông
của năm tháng làm cho vụn vỡ. Nó được lưu truyền và gìn giữ trong lòng người, trong suy nghĩ và tâm tư của thế nhân, từ
đó nảy nở biết bao tư tưởng của thời đại. Tiếp nhận sẽ mãi và luôn luôn, được khai hoa kết quả trong tác phẩm, trong lòng
người đọc, và trong cuộc đời nhà văn. Để rồi, từ đó, nó trả hương cho nhân thế.
“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Ta hi sinh bao nhiêu vật cho đời
Nên ta chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ sống thay ta, có mặt giữa muôn đời.”
(Đào Cảng). ( Đặng Mỹ Linh)

You might also like