Professional Documents
Culture Documents
Bài văn mẫu học sinh giỏi, chứng minh nhận định : điều còn lại với mỗi nhà văn chính là
cái giọng nói của riêng mình
Bài làm
Macxen Pruxt từng nói “Đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ, phong cách không phải
vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Cái nhìn mới mẻ rất là phong cách sáng tạo độc đáo của
nhà văn, tức là vấn đề cốt lõi, then chốt trong cuộc đời sáng tác của người nghệ sĩ đó là điều còn
lại, là hạt nhân quan trọng sau khi từ nhà văn bóc đi những cái không phải là của bản thân anh ta
với tất cả khi anh ta giống với người khác. Bởi vậy! Có ai đó đã khẳng định rằng “điều còn lại
với mỗi nhà văn chính là cái giọng nói của riêng mình”.
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… nếu anh không có
giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ”. Nhà văn sê-khốp đã từng khẳng định như thế.
Giọng nói riêng là cái nét riêng biệt, độc đáo, mới mẻ trong sáng tác của nhà văn. Nó biểu hiện
ở trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống một cách mới mẻ và cách thể hiện cái mới mẻ đó rất
độc đáo của nhà thơ. Hay nói một cách khác “giọng nói riêng” chính là phong cách riêng của mỗi
nhà văn. Có được trong giọng nói riêng nhà văn sẽ tạo ra được những tác phẩm bất hủ với thời
đại. Không những thế còn tạo ra được chỗ đứng cho mình trên diễn đàn văn học, tất cả những
điều đó chính là điều còn lại với mỗi nhà văn. Như vậy ý kiến trên muốn đề cao tính sáng tạo, đề
cao phong cách nghệ thuật riêng biệt của mỗi người nghệ sĩ.
Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn, nó như là đang đưa ra một yêu cầu khắt khe trong cuộc
đời sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Trong “đời thừa” Nam Cao đã khẳng định, “văn
chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương
chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những
gì chưa có”. Đúng như vậy! Nam Cao bản chất của văn học nghệ thuật là sự sáng tạo miệt mài
không ngừng nghỉ. Nghệ thuật sẽ chết nếu như không có nét riêng, nét độc đáo. Như Maxim
Gorki nói “cái tầm thường là cái chết của nghệ thuật. hơn nữa lao động của Nhà văn là lao động
sáng tạo, nên dù muốn hay không mỗi nhà văn phải tạo cho mình một nét riêng, một phong cách
nghệ thuật không trộn lẫn”. Nhà văn giống như một nhà quay phim hiện thực cuộc sống, được
thu vào lăng kính của nhà văn từ đó được phản chiếu qua những trang văn, điều đó không có
nghĩa là nhà văn sao chép hiện thực một cách y nguyên, nô lệ, mà cần phải có sự chọn lọc, phải
chắt lọc bằng cách nhìn và cách cảm thụ có tính khám phá. Cũng chính vì vậy mà phong cách
đem đến cho nhà văn cái nhìn mới mẻ, khác lạ về cuộc sống. Phong cách là nhu cầu biểu hiện
của người nghệ sĩ, là một tiêu chí đánh giá vai trò, vị trí tầm cỡ lớn nhỏ của nhà văn trong sáng
tạo văn học. Phạm Đình Kiên nói rằng “văn chương quý bất tùy nhân hậu”. Tức là cái quý của
văn chương là không theo người khác cũng là bởi vậy. ấy thế nhưng không phải nhà văn nào
cũng có được phong cách, chỉ có những nhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức sáng tạo ra
những nét riêng, độc đáo, lập đi lập lại mang tính thống nhất trong cả nội dung và hình thức tác
phẩm. Và Nguyễn Tuân chính là một nhà văn như thế, với phong cách nghệ thuật độc đáo của
mình. Ông đã sáng tạo nên thiên truyện “Chữ Người Tử Tù” để lại trong lòng bạn đọc bao ấn
tượng khó phai mờ.
Nguyễn Minh Châu ấn tượng nói Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa, toàn
bộ cuộc đời cũng như gần 5 nghìn Trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử”. Huyền sử của
người ưu lối chơi, “độc tấu”. Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuôn
nhà nhưng vời thanh âm trầm bổng khác nhau của nốt nhạc theo nhà văn. “tôi quan niệm đã viết
văn phải cố viết cho hay và cho đúng cái tạng của riêng mình. Văn chương cần có sự độc đáo
hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác”. Có lẽ vì thế mà phong cách Nguyễn Tuân có sức hấp dẫn người
đọc, độc đáo vô song, khiến người nghe rung cảm mãnh liệt. Tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”
chính là một điển hình tiêu biểu cho phong cách sáng tác rất “ngông”, mà vô cùng độc đáo của
Nguyễn Tuân.
Đọc “Chữ người tử tù”, đã nhận ra ngay nét mới lạ, riêng biệt của Nguyễn Tuân ngay từ ở đề tài
sáng tác “vang bóng một thời” như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn
cá tính con người tài hoa, tài tử Nguyễn Tuân. Đây là một đề tài trước nay chỉ ở Nguyễn Tuân
mới có, một truyện ngắn dựng nên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vang,
tiêu biểu cho khuynh hướng thoát ly của Nguyễn Tuân trước cách mạng viết về những thú chơi
tao nhã, những con người của quá khứ xa xăm thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của
nhà văn vốn nặng tình, cùng với thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong đó lại là một tâm
hồn dân tộc, yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó tác phẩm còn là
nơi gửi gắm tâm sự yêu thương, yêu nước, tâm trạng bất hòa của một người luôn cảm thấy bức
bối trong khuôn đời chật hẹp. Cảm hứng mãnh liệt ấy gắn với những nhân vật đối lập với quân
pháp của xã hội phong kiến thể hiện tập truyện trong truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù”.
Không chỉ mới về đề tài “Chữ Người Tử Tù” là một thiên truyện bất hủ trong lòng bạn đọc, bởi
cách dựng người, dựng cảnh rất độc đáo. Nguyễn Tuân luôn tiếp cận con người, sự vật dưới góc
nhìn tài hoa nghệ sĩ, mãnh liệt, phi thường. Bởi thế Huấn Cao hiện lên với vẻ đẹp cao cả, hoàn
mỹ, khác thường, đó là nhân vật mà cùng một lúc hội tụ và phát sáng cả ba vẻ đẹp tài hoa, khí
phách, thiên lương trong sáng.
Các nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm nghề gì, dù ở vị trí xã hội thế nào? đều được khắc họa với
vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Huấn Cao cũng là nhân vật như thế, cái tài hoa của Huấn Cao là ở cái tài
viết chữ đẹp, tên tuổi của ông nổi như cồn ở khắp tỉnh Sơn. Bởi lẽ “ông vốn có tiếng Viết chữ
nhanh và đẹp, chứ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông Huấn mà treo thì chẳng
khác gì có một vật báu trên đời”. Cũng chỉ vì vẻ đẹp, nho nhã, cổ truyền ấy mà ước nguyện của
viên quản ngục là có được một câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trong nhà. Điều đó
khiến viên quản ngục phải nung nấu, nhẫn nại và dũng cảm với cái chết để hoàn thành được sổ
nguyện của mình, khắc họa vẻ đẹp tài hoa ở Huấn Cao. Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện niềm
trân trọng trước một vẻ đẹp nhân cách, mà còn thể hiện niềm tiếc nuối trước một nhã thú cổ
truyền đang bị lụi tàn trong xã hội rở Tây rở ta nay chỉ còn vang bóng.
Là người văn võ song toàn, Huấn Cao không chỉ có vân tay tài hoa mà còn là người có khí phách
hiên ngang, bất khuất, điều đó được thể hiện qua lý tưởng về một cuộc sống không có áp bức,
bất công, vì thế ông dám từ bỏ công danh đứng về phía nhân dân, dũng cảm chống lại triều đình.
Đối với chế độ phong kiến ông là kẻ phản nghịch, một kẻ thù nguy hiểm đang đợi ngày ra pháp
trường để thụ án tử hình, nhưng đối với nhân dân ông lại là lãnh tụ được sùng bái, kính trọng,
dám làm, dám chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Đó chính là biểu hiện của một dũng khí
hiên ngang, qua thái độ khinh miệt của viên quản ngục, với chế độ nhà tù ta càng thấy rõ khí
phách ấy, thời gian sống của Huấn Cao chỉ được tính bằng giây bằng phút. Thế nhưng ngay trong
chốn ngục tù ấy Ông cho rằng những kẻ đang nắm giữ tính mạng của ông chỉ là một lũ tiểu nhân,
thì oai, khi đặt chân vào cửa nhà tù các khí phách ấy cũng đã hồi sáng, ngay cả đến thái độ cư xử
với viên quản ngục cũng chứng tỏ thái độ ngạo nghễ của ông. “hàng ngày được thầy thơ lại tiếp
đãi rượu, thịt ông vẫn thản nhiên nhận coi như đó là cái thú bình sinh lúc tự do vẫn làm”, lúc viên
quản ngục hỏi “người hỏi ta muốn gì? ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào
đây”. Sự khinh bạc ấy của Huấn Cao càng làm viên quản ngục thêm nể phục và càng làm tăng
thêm cái khí phách cao ngất trời của ông Huấn.
Bên cạnh vẻ đẹp của cái tài ở Huấn Cao còn phát sáng vẻ đẹp của cái tâm, điều đó được thể hiện
qua hành động cho chữ viên quản ngục và những lời khuyên chân thành của ông. Nhất sinh Huấn
Cao không vì vàng ngọc hay quyền thề mà ép mình cho chữ bao giờ, cả đời ông chỉ mới cho chữ
có ba người đều là ở chỗ tri kỷ cả. Thế nhưng khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Ông
nói “thiếu chút nữa thôi ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, vì thế ông đã quyết định dành
cái đêm cuối cùng của đời mình để viết tặng chữ cho viên quản ngục.
Đến đây Nguyễn Tuân đã phô diễn toàn bộ cái độc đáo, mới mẻ trong phong cách của mình để
dựng lên cảnh cho chữ “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
một cảnh tượng đầy thực diễn ra, đó là sự đối lập tương phản giữa một bên là một buồng tối chật
hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa
trắng tinh, căng thẳng và với ánh sáng của bó thuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực, dưới ánh sáng
của bó đuốc đỏ rực, bó đuốc của trí thiện, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật
trang nghiêm, thật thiêng liêng này Huấn Cao dồn hết tâm linh vào từng nét chữ. Ông không mảy
may lưu ý gì đến cái xấu xa, bẩn thỉu đang tồn tại, mà hoàn toàn bị thu hút quyến rũ vào một sự
vật “tấm lụa bạch nguyên vẹn”. đúng thế Ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn
tại. chính tấm lụa trắng này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới
thực sự có sức mạnh. Ở đây không còn là một huấn cao tử tù nữa, chỉ còn một Huấn Cao tự do
nhất, sống động nhất, cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về
chân lý của cái đẹp ngời sáng, ngôi sao sáng Huấn Cao đang phát quang, bừng tỉnh, cháy không
gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời nơi đây. Huấn Cao đem đến nơi đây một không
gian văn hóa, vẻ đẹp cao ngân, nó đã làm cho “viên quan coi ngục lại vội khúm núm cất từng
đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng
chậu mực. Tuy ở nhà ngục này có sự thay đổi ngôi bậc, có sự chuyển hóa vì vị trí xã hội của con
người. Nó nói lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn, giờ phút này và tại nơi đây không phải do
viên quản ngục làm chủ, sức mạnh quyền lực của cái đẹp và tâm lý tồn tại trên đời thể hiện sức
mạnh quyền uy theo cách riêng của nó.
Nó không khuất phục ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó, nó không
giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại nó buộc con người ta đứng
dậy, tự nguyện đi theo để nó hướng tới cái chân, thiện, mỹ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn, và
ở đây cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém. Cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt
con người, cái đẹp đăng quang, cái xấu xa đã phải chuyển xuống nhường chỗ cho cái đẹp, cái
đẹp đã tồn tại sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn cao cho
chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp đẽ mãi sinh sôi, nảy nở đi vào cõi
vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc họa bằng ngòi bút lãng mạn, cứ sừng sững
hiên ngang, hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ tới cuộc sống đang tràn
ngập màn đêm, một ngày tù túng, trì trệ.
Phải chăng đó là quan niệm thẩm mĩ của Huấn Cao hay chính Nguyễn Tuân, cái đẹp phải gắn
với cái thiện, nó không thể sống chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành mộc mạc, giản dị đó
của Huấn Cao đã khiến cho ngục quản cảm động vái một lậy và rưng rưng “kẻ mê muội này xin
bài lĩnh”.
Không chỉ mới nở về cách dựng người, dựng cảnh mà ngôn ngữ của Nguyễn Tuân cũng rất riêng
biệt. Điều đó đã đưa nhà văn trở thành bậc thầy về ngôn từ, ngôn ngữ cổ kính, giàu tính tạo hình,
cách diễn đạt sinh động, linh hoạt đã làm nên sự sáng tạo lớn về nghệ thuật của nhà văn. Đoạn
văn miêu tả cảnh cho chữ là một đoạn văn rất giàu tính tạo hình, nhà văn đã tập trung toàn bộ bút
lực để tái hiện lại cảnh tượng có một không hai này, nó được tạo nên bởi những câu văn đầy hình
thái, không khí “khói như đám cháy nhà, lửa đâm cháy rừng rực, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”, ngôn
ngữ lại biến hóa, biến chuyển rất linh hoạt. Cùng miêu tả về tấm lụa như Nguyễn Tuân bạn có rất
nhiều cách diễn đạt, khi thì “tấm lụa bạch còn nguyên nhân hổ”, lúc lại “tấm lụa trắng tinh” phiến
lụa nóng bức lụa trắng, chính vì cách diễn đạt đa nghĩa giàu sức biểu cảm như vậy nên văn
Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.
“Chữ người tử tù” đã thể hiện được tài năng của Nguyễn Tuân trong việc tạo tình huống truyện
độc đáo. Trong nghệ thuật dựng cảnh khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang
trọng trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình, đây đúng là một văn
phẩm gần đạt đến sự hoàn thiện và toàn mỹ.
Điều còn lại với Nhà văn chính là cái giọng nói của riêng mình, ý kiến đã khẳng định tầm quan
trọng của cá tính sáng tạo trong sáng tác văn học với người nghệ sĩ, đó là kim chỉ nam cho sự
nghiệp sáng tác của họ với người đọc. Đó lại là tiêu chí để đánh giá chính xác một nhà văn thực
thụ. Có lẽ thế mà người đọc luôn đòi hỏi sự sáng tạo ở người nghệ sĩ, “nhà văn không đi trên con
đường của sự sáng tạo, tức là anh ta đang tự xóa đi dấu chân mình, tên tuổi mình trong lòng độc
giả”.
Nếu như cần phải minh họa cho bản chất sáng tạo của văn học thì không thể không nhắc đến
Nguyễn Tuân, người với những trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra không chỉ một con đường,
một lối đi riêng mà phải nói là một đại lộ riêng trên các ngả khai phá của văn học Việt Nam. Trên
đại lộ ấy ta bắt gặp nét quen thuộc và cả những điều mới mẻ, cái làm nên hồn cốt Nguyễn Tuân./.
Bài văn: Phân tích Chữ người tử tù để chứng minh nhận định :Điều còn lại với mỗi nhà
văn chính là “cái giọng nói riêng” của mình.
Nhà văn Nga Sê-khốp đã từng cho rằng, nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không
bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ. Đúng
như vậy, nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng, là một bộ môn của dấu ấn chủ quan, của
phong cách sáng tạo. Vì vậy, thước đo để đánh giá, giá trị tác phẩm, cũng như tài năng của Nhà
văn chính là phong cách. Một tác phẩm có sức sống lâu bền, cũng như một nhà văn tài năng, điều
đầu tiên ảnh hưởng đến người đọc chính là dấu ấn cá nhân, phong cách. Hay như Sê-khốp gọi là
giọng riêng. Bàn về vấn đề này đã có ý kiến cho rằng: Điều còn lại với mỗi nhà văn chính là “cái
giọng nói riêng” của mình. Minh chứng rõ nhất cho điều đó chính là giọng riêng của Nguyễn
Tuân thông qua truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù”.
Với âm nhạc Người ca sĩ để lại cho người đọc ấn tượng về mình bằng một giọng hát, chỉ ở
riêng mình. Với điêu khắc, mỗi người thợ có một cách khác riêng, mang đậm tài năng và cái nhìn
thẩm mỹ của họ. Còn đối với văn chương, Nhà văn bộc lộ dấu ấn của mình cho độc giả, bằng
giọng nói riêng của mình. Đó chính là phong cách, là sự sáng tạo riêng, khẳng định vị trí chỗ
đứng của nhà văn. Như vậy, điều còn lại với mỗi nhà văn, chính là “cái giọng riêng của mình”,
là một ý kiến thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách sáng tạo của một tác giả. Đó là thước đo để
đánh giá những nhà văn ưu tú, nhà văn thực thụ.
Văn học đề cao dấu ấn chủ quan, phong cách sáng tạo, bởi văn học là một bộ môn nghệ thuật
rất cần những cái mới mẻ, sáng tạo của mỗi tác giả. Muốn được như vậy, mỗi nhà văn, nhà thơ
phải cho mình một phong cách riêng, một ấn tượng riêng để sáng tác tìm đến với văn chương.
Đối với độc giả, lại tìm đến những tác phẩm mà mình yêu thích. Đó cũng chính là sự lý giải
phong cách, là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên tên tuổi và tài năng của nhà văn, và khác
với lao động của Nhà văn là lao động sáng tạo, nên dù muốn hay không, mỗi nhà văn phải tạo
cho mình một nét riêng, một phong cách nghệ thuật không trộn lẫn. Do đó có thể coi phong cách
là dấu ấn riêng của người nghệ sĩ, in đậm trong các sáng tác nghệ thuật của họ. Phong cách là
một phạm trù thẩm mỹ, thể hiện sự tương đối ổn định của hệ thống hình tượng. Các phương tiện
biểu hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo, sáng tạo trong quá trình sáng tác của nhà văn. Giữa
trào lưu văn học dân tộc, hay xuyên suốt dòng chảy thơ văn, cả một thời đại, phong cách đem
đến cái nhìn mới mẻ, khác lạ của nhà văn trong việc cảm nhận và phản ánh cuộc sống. Điều đó
là sự đánh dấu trưởng thành và bản lĩnh cá nhân của nhà văn, trong quá trình sáng tác. Song
không phải nhà văn nào cũng có một giọng nói riêng, một phong cách riêng, mà điều đó chỉ xuất
hiện ở những nhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức sáng tạo ra nét riêng, độc đáo. Giọng
nói riêng, hay phong cách được thể hiện ở cách nhìn, cách cảm có tính khám phá được thể hiện
ở giọng điệu riêng, ở quan niệm về cuộc sống con người thông qua đề tài, chủ đề, cách chọn nhân
vật và cuối cùng phong cách thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật mà nhà văn lựa chọn để tái
hiện đời sống. Từ cách dùng từ tổ chức, kết câu. Tóm lại phong cách văn học chính là dấu ấn
riêng biệt của tác giả về mặt tư tưởng, nội dung lẫn hình thức, nghệ thuật, để lại ấn tượng sâu
đậm trong lòng người đọc.
Là một cây bút tài hoa, uyên bác có đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn học nước nhà, có trước
và sau cách mạng. Nguyễn Tuân được người đọc biết đến là một phong cách văn học rất độc đáo,
nhất riêng biệt, bởi một chữ “ngông” ông luôn nhìn mọi việc, mọi nhân vật, nhìn người ở phương
diện cái đẹp, phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Đọc văn Nguyễn Tuân người ta đến được thế giới của
cái đẹp, cái tài, hiện ra một cách mới mẻ, rõ ràng, đặc biệt trước cách mạng do không bằng lòng
với xã hội “Tây tàu nhố nhăng” Nguyễn Tuân tìm lại quá khứ, trân trọng những vẻ đẹp này chỉ
còn vang bóng, như chơi chứ, uống trà, ngâm thơ với tư tưởng xưa mà không cũ ấy. Cùng với
bút pháp nghệ thuật đặc biệt, Nguyễn Tuân đã viết ra bộ truyện ngắn đạt gần tới sự hoàn thiện và
toàn mỹ đó là tập “vang bóng một thời”. Nổi bật lên trong đó có một truyện ngắn rất hay, đồng
thời thể hiện rất rõ phong cách sáng tác giọng nói riêng của Nguyễn Tuân chính là truyện ngắn
“Chữ Người Tử Tù”.
“Giọng nói riêng” của Nguyễn Tuân được thể hiện độc đáo và sâu sắc, thâu tóm trong một
chữ “ngông”. Đó tức là thái độ khinh đời, ngạo đời, làm khác thường dựa trên sự tài hoa uyên
bác và nhân cách hơn đời của mình. Điều đó được thể hiện trước hết ở việc Nguyễn Tuân tiếp
cận mọi sự vật ở một văn hóa thẩm mỹ, để khám phá và khen chê “Chữ Người Tử Tù” bộc lộ rõ
mặt đó của Nguyễn Tuân. Đến với truyện ngắn này độc giả chắc chắn ai cũng nhận ra Nguyễn
Tuân viết về một thời kỳ xa xưa, nhưng nay chỉ còn vang bóng, ông trân trọng nâng niu và giữ
gìn, làm sống dậy trong lòng người đọc một thú chơi tao nhã của người xưa đó là thú chơi chữ.
Nguyễn Tuân đã cho ta rạo rực sống lại cái thuở còn kim Hán học, với nghệ thuật thư pháp điêu
luyện từng “vang bóng một thời”. Với những mảnh lụa trắng, bút lông nghiêng mực, hai câu đối,
hoành phi. Cái đẹp thanh khiết của cả người cho chữ và người chơi chữ, tất cả cuốn người đọc
về hồn dân tộc. Nguyễn Tuân tha thiết với những giá trị văn hóa, tinh thần của cha ông gửi gắm
một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tinh thần dân tộc có màu sắc độc đáo. Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh đã từng nhận xét “lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với những giá trị văn
hóa cổ truyền, là tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Tuân đã tạo nên giá trị chân chính và lâu bền cho
tác phẩm của ông”. Đọc văn Nguyễn Tuân, ta như luyến tiếc một thời đã qua và trân trọng những
gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống.
Chưa dừng lại ở đó, giọng nói riêng của Nguyễn Tuân còn được bộc lộ qua việc Nguyễn Tuân
luôn nhìn nhận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Để sáng tạo nên những nhân vật tài
hoa, nghệ sĩ đó là điểm riêng mà chỉ có ở Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù”,
hiện lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao với ba phẩm chất hội tụ đó là, tài năng, khí phách và thiên
lương. Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn, với cái tài viết chữ nhanh và đẹp được mọi người
biết đến và khao khát muốn có chữ của ông Huấn, “có chữ đó mà treo trong nhà chẳng khác nào
có một báu vật ở trên đời”, “chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm”. Ngay đến cả kẻ thù của ông
cũng khao khát, mơ ước có thứ báu vật quí ấy. Như vậy có thể thấy rằng, Huấn Cao là người có
trí tuệ uyên thâm, tài năng siêu phàm thì mới có thể viết ra những nét chữ “vuông, tươi tắn, nói
lên sự tung hoành của cả một đời người”, kia mà, ai ai cũng mong muốn sở hữu bên cạnh. Vẻ
đẹp của tài năng chính là vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, khí phách của một vị anh hùng “đội
trời, đạp đất” điều đó được thể hiện rõ qua lý tưởng về một cuộc sống không có áp bức, bất công,
vì thế Huấn Cao dám từ bỏ công danh đứng về phía nhân dân, chống cảm, chống lại triều đình.
Đối với chế độ phong kiến ông là một kẻ phản nghịch, một tử tù nguy hiểm, nhưng đối với nhân
dân Ông là một vị lãnh tụ được sùng bái, kính trọng, dám làm, dám chịu với những việc mình đã
làm. Trái với khí phách kiên cường, bất khuất của Huấn Cao còn được thể hiện qua thái độ kinh
miệt viên quản ngục nhà tù thực dân, thời gian sống của ông chỉ còn được tính bằng giây, bằng
phút thế nhưng ngay trong chốn lao tù ấy, ông vẫn xem những kẻ đang nắm giữ mạng sống của
ông chỉ là lũ tiểu nhân thi oai. Ông xuất hiện trước viên quản ngục và bọn Cai tù bằng động tác
“súc mạnh cái gông nặng bẩy ,tám tấn”, khi nghe lời đe dọa lúc ở tù ông vẫn thản nhiên nhận
rượu, thịt coi đó như một việc đường hoàng. Từ phong thái ung dung, đường hoàng Ông dám nói
những lời nói khó nghe với viên quản ngục. Đã chờ đợi một sự trả thù của kẻ thù, tất cả cho thấy
ông Huấn là một người hiên ngang, bất khuất, không những là người có tài mà Huấn Cao còn
phát sáng vẻ đẹp của cái tâm. “ông nhất sinh không bao giờ mất mình cho chữ vì vàng bạc hay
quyền thế”, “cả cuộc đời của ông, ông mới cho chứ vài ba người và toàn là chỗ tri kỷ. Cái tâm
của ông còn được hiện rõ qua việc cho chữ viên quản ngục và lời khuyên chân thành về lẽ sống,
ông cảm động trước tấm lòng của thầy quản, “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ”. Vì thế ông đã quyết định dành cái đêm cuối cùng của cuộc đời mình để viết chữ tặng
viên quản ngục, ở Huấn Cao cái tài kết hợp với cái tâm đã tạo nên người anh hùng toàn diện, toàn
mỹ. Đây cũng là một điểm thể hiện rất rõ phong cách nhìn người của Nguyễn Tuân trước cách
mạng.
Giọng nói riêng biệt của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua việc vận dụng kiến thức của
nhiều ngành Văn hóa, nghệ thuật. Nhiều ngành không liên quan đến nghệ thuật, để quan sát hiện
thực và sáng tạo hình tượng, đối với “Chữ Người Tử Tù” ta thấy tầm hiểu biết của Nguyễn Tuân
về triều đại phong kiến nhà Nguyễn, một chiều Đại mục rỗng, hỗn loạn, nhiều cuộc nổi dậy của
nông dân và người anh hùng “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” Cao Bá Quát. Nhưng điều đó đã tạo
nên sức hấp dẫn của câu chuyện, đồng thời tô điểm thêm vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao. Nguyễn
Tuân còn tỏ ra rất kinh nghiệm khi công ra những hiểu biết về văn hóa, xã hội hay cảnh cho chữ
cuối cùng trong thiên truyện thể hiện rõ dấu ấn điện ảnh của Nguyễn Tuân. Sự tương phản, đối
lập rõ nét giữa ánh sáng và bóng tối, cái đẹp rực rỡ của cảnh cho chữ, là cái xấu xa của nhà tù,
“cái không gian đỏ rực và màn khói trắng”. Mọi thứ, mọi tông tô đậm thêm cho “một cây bút tài
hoa nghệ sĩ”.
Bắt gặp không ít trong văn của cụ Nguyễn Chính, là sự tôn trọng cái phi thường gây cảm giác
mãnh liệt, dữ dội. Nguyễn Tuân thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đỉnh cái đẹp ấy
là sự hội tụ của cái đẹp khi bị trữ tình và cái vẻ đẹp hoành tráng, dữ dội đến dữ dằn. Ở “Chữ
Người Tử Tù” ta bắt gặp một không khí hừng hực lửa cháy và khói trắng trong đêm, qua cảnh
cho chữ ở nhà tù tỉnh Sơn đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Theo lẽ thường người ta cho
chứ ở thư phòng sang trọng, nghi ngút hương thơm, hay ít nhất phải có đầy đủ ánh sáng. Thế mà
ở đây, Nguyễn Tuân đã xây dựng một cảnh cho chữ trong lúc nửa đêm, tại ngục tù hôi hám, bẩn
thỉu “tường đầy mà nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gian”. Chưa dừng lại ở đó, cái độc đáo
của cảnh cho chữ còn được thể hiện ở sự đảo lộn trật tự vị thế trong nhà tù. Kể tử tù ngày mai ra
pháp trường Lãng ăn thì đường Hoàng Uy Nghi lẫm liệt. Người trong tù đại diện cho một chế độ
thì Cúm Núm với lại kẻ tử tù vẫn cao cổ đeo gông chân vướng trường xích vẫn đang cố gắng
gian dạy quản cục tài khoản nên tìm về quê mà ở thầy Hãy thoát khỏi cái nghề này đi rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chứ. Ở đây có giữ thiên lương cho làng vững rồi nghe nước mất cả đời
lương thiện”. Lời khuyên của Huấn Cao là lời khuyên bất tử, là lời chứng minh rằng cái đẹp có
thể sinh ra ở miền đất ác, nhưng cái đẹp không bao giờ chịu sống chung với cái xấu và cái ác.
Những lời khuyên đó dường như đã thấm sâu vào thầy quản, khiến con người vừa đáng trọng,
vừa đáng thương này quỳ gối nói trong nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bài lĩnh”.
Cảnh cho chữ đã gợi ra không khí của một thời tiền sử, một cảnh thơ ảo nhưng cũng rất huyền bí
ẩn, chứa sức mạnh tiềm tàng.
Cuối cùng giọng nói riêng biệt của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua những bút pháp nghệ
thuật đặc sắc, điển hình là việc sử dụng ngôn từ. Nguyễn Tuân biết đến là bậc thầy của ngôn từ,
là chuyên gia của tiếng Việt. Ông có một vốn từ hết sức phong phú. Trong “Chữ Người Tử Tù”
vốn từ đó thể hiện rất rõ, hàng loạt những từ Hán Việt được sử dụng công phu như khí phách,
thiên lương, tử tù… Góp phần làm nên màu sắc của thiên truyện, đưa người đọc về cõi xa xưa về
một thời vang bóng. Tiếp đó là sử dụng thành công biện pháp so sánh, đặc sắc của ông. Khi nói
về viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã ví von như “mặt nước ao Xuân bằng lặng, kín đáo và êm
nhẹ”, hay nói về tính cách ông đã viết “như một thanh âm trong trẻo, chen vào giữa một bản nhạc
mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Rồi cũng như bao nhà văn khác, Nguyễn Tuân đã xây dựng
được một tình huống truyện độc đáo, một thủ pháp nghệ thuật độc lập, tương phản, độc đáo, dựng
không khí cổ xưa cho câu chuyện…Có thế thấy rằng “Chữ người tử tù” đã bộc lộ hội tụ những
vẻ đẹp nghệ thuật và Nguyễn Tuân hay sử dụng tạo nên một thiên truyện mang đậm phong cách
của ông.
Một truyện ngắn sáng tác trước cách mạng “Chữ người tử tù” đã bộc lộ rõ được tài năng cũng
như “giọng nói riêng biệt” của Nguyễn Tuân. Qua đây ta cũng thấy “điều còn lại với một nhà văn
là giọng nói riêng của mình”, là ý kiến, thước đo đánh giá hoàn toàn đúng đắn. Không chỉ có vai
trò như vậy, Ý kiến còn đặt ra vai trò, trách nhiệm của nhà văn, độc giả và lịch sử văn học. Đối
với nhà văn, phong cách luôn là điều cần thiết họ phải tạo cho mình một giọng nói riêng biệt thì
mới có thể in đậm dấu ấn chủ quan trong lòng người đọc bằng chính tác phẩm của mình. Đối với
độc giả, khi tiếp nhận một văn bản văn học, cần cố gắng tìm ra giọng nói phong cách riêng của
từng tác giả, tiếp thu hết những cái hay, cái đẹp mà tác giả đó đem đến. Đối với lịch sử văn học,
chỉ tiếp nhận những nhà văn thực sự có giọng riêng, có phong cách riêng, đem lại sự phong phú
cho nền văn học nước nhà.
Ivan tuốc ghê nhép đã từng quan niệm “cái quan trọng trọng tài năng văn học và tôi nghĩ rằng
cũng có thể trong bất kỳ tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình”. Văn
chương cũng như bao môn nghệ thuật khác, điều quan trọng chính là cái dấu ấn riêng, cái giọng
nói riêng biệt. Đó chính là, những gì còn lại sau dòng chảy của thời gian. Với một nhà văn tài
hoa, uyên bác như Nguyễn Tuân điều đó lại càng đúng hơn nữa, phong cách riêng của cây bút
độc đáo này thể hiện rõ qua từng tác phẩm mà “Chữ Người Tử Tù” là một minh chứng điển hình.
Chính vì điều đó nên tác phẩm xứng đáng tồn tại mãi với thời gian, đến với người đọc cả hôm
nay và mai sau./.
1. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim
ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi
trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki)
2. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt
3. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên)
4. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi.
5. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)
6. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi.(Puskin)
10. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu.
12. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire)
13. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng)
17. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki)
18. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm
sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng)
23. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý
tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách
riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ. (Raxun
Gamzatop)
24. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)
25. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.(Maiacopxki)
26. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)
28. Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)
30. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)
31. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
32. Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi. (Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)
34. Không thể nằm yên mà ngủ được nào. (Chế Lan Viên)
38. Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. (Chế Lan Viên)
39. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự
cô độc của chính mình. (B. Shelly)
40. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác
nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản
dị.(Nguyễn Cư Trinh)
41. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci)
42. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)
44. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)
45. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ.(Maiacopxki)
46. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng. (Bêlinxki)
49. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)
50. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay.
(Raxun Gamzatôp)
51. Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà
cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm
hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại… (LLVH)
52. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường
bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một
gam mật.(P. Povienko)
53. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.(Pauxtopxki)
56. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô)
58. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một
sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ
kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (Hoài Thanh)
61. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp) 62. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay)
63. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi
sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng Khoa)
64. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)
65. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn
thơ phải thật là gan ruột của mình.(Tố Hữu)
66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn (Platông)
67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu)
68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái
tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng)
69. Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con
người. (Chu Văn Sơn)
71. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được
do phong cách riêng của mình mà có. (Tô Hoài)
72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu)
73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời,
là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân,
thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống.
74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình cảm đa dạng và phong
phú của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn
trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm bâng khuâng khó tả,
một sự run rẩy thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ… Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm
của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn
là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng dậy đi tới.
75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ.
(Eptusencô)
76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên
trong. (R.Tagore)
77. Thơ phát khởi trong lòng người ta.(Lê Quý Đôn)
78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngô Thì Nhậm)
79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải
đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái
khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi
hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ
nghĩa. (Xuân Diệu)