You are on page 1of 25

LÍ LUẬN VĂN HỌC

1. Quan điểm/ quan niệm sáng tác


+ Là gì:
- Chỗ đứng, điểm nhìn để nhà văn sáng tác.
- Phải được hiện thực hoá trong quá trình sáng tác.
- Được phát biểu trực tiếp hay thể hiện gián tiếp qua các tác phẩm.
- Nhà văn nào cũng có quan điểm/quan niệm sáng tác nhưng để tạo thành một hệ thống có giá trị
thì không phải ai cũng làm được.
+ Vai trò:
- Chi phối toàn bộ quá trình sáng tác (lựa chọn đề tài, hình tượng, lựa chọn lối viết, các hình thức
nghệ thụât...)
- Phần nào thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn.
+ Ví dụ: Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh: Văn học là vũ khí lợi hại phục
vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng.
+ Ứng dụng:
Phân tích quan điểm sáng tác của một nhà văn (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nam Cao…).
2. Phong cách nghệ thuật
+ Là gì:
Là nét riêng có tính hệ thống trong sáng tác của một nhà văn
+ Đặc điểm:
- Thiên về hình thức nghệ thuật.
- Có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà văn.
+ Vai trò:
- Là một trong những điều kiện quan trọng để đánh giá vị trí, tài năng của nghệ sĩ. Một nhà văn
lớn phải là nhà văn có phong cách.
- Thể hiện bản chất của văn chương: hoạt động sáng tạo.
+ Ví dụ:
- Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu: Thơ dù viết về đề nào cũng nồng nàn thao thiết niềm giao
cảm với đời. Tư tưởng nghệ thuật độc đáo này được chuyển hoá vào hệ thống các phương tiện
biểu hiện mới mẻ (bút pháp tương giao; ngôn ngữ rất Tây, tinh tế; cách cấu tứ theo sự vận động
của thời gian cùng giọng điệu thơ đa dạng, phong phú đủ để tái hiện những cung bậc, những biến
thái tinh vi nhất, chân xác nhất của thế giới cũng như tình cảm con người).
- Phong cách nghệ thuật Tố Hữu: mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi và
cảm hứng lãng mạn; giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết; đậm đà tính dân tộc
- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác; cảm quan sắc nhọn phong phú; chữ
nghĩa giàu có; tuỳ bút tài hoa...=> “Ngông”.
+ Ứng dụng
Phân tích phong cách nghệ thuật của một tác giả (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân,
Tố Hữu, Nam Cao, Xuân Diệu…)
3. Tình huống trong truyện ngắn
+ Là gì:
- Là lát cắt của đời sống mà qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất và tư tưởng nhà
thể hiện rõ nhất.
“Là một lát cắt, một khúc của đời sống. Nhưng qua lát cắt, qua khúc ấy người thấy được trăm
năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu)
- Biểu hiện qui luật có tính nghịch lí trong sáng tạo nghệ thuật: qui mô nhỏ nhưng khả năng phản
ánh lớn.
+ Vai trò:
- Khắc hoạ tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng nghệ sĩ.
- Xuất phát từ đặc trưng truyện ngắn: dung lượng nhỏ, thể hiện nhân vật qua một khoảnh khắc
ngắn ngủi của đời sống (tiểu thuyết: dài, theo sát toàn bộ cuộc đời, số phận nhân vật…) => Tình
huống phải giống như thứ nước rửa ảnh làm nổi lên hình sắc nhân vật và tư tưởng nhà văn =>
Xây dựng được tình huống truyện độc đáo là dấu hiệu của:
• Một tác phẩm có giá trị
• Một tác giả tài năng.
+ Ví dụ: tình huống đợi tàu ám ảnh (Hai đứa trẻ), tình huống cuộc gặp gỡ đầy éo le, oái oăm giữa
quản ngục và Huấn Cao (Chữ người tử tù), tình huống nhận thức (Chiếc thuyền ngoài xa)…
+ Ứng dụng:
Phân tích tình huống truyện trong: Chiếc thuyền ngoài xa, Vợ nhặt, Chữ người tử tù,…
4. Các giá trị văn học
+ Mô tả: có 3 giá trị cơ bản của văn học
- Giá trị nhận thức:
• Mang tới cho bạn đọc những tri thức sâu rộng về thế giới
• Giúp con người khám phá, nhận thức, thấu hiểu sâu sắc chính bản thân mình.
- Giá trị giáo dục
• Đem đến những bài học quí giá về lẽ sống
• Về tư tưởng: Hình thành cho con người những tư tưởng tiến bộ, có thái độ và quan điểm sống
đúng đắn.
• Về tình cảm: Giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn trở nên lành mạnh, trong sáng.
- Giá trị thẩm mĩ:
• Nội dung:
 Vẻ đẹp muôn hình vẻ của cuộc đời
 Vẻ đẹp bản thân con người.
• Hình thức: những biện pháp, thủ pháp xây dựng hình tượng nghệ thuật sinh động, giàu sức gợi.
- Mối quan hệ của 3 giá trị:
• Giá trị nhận thức: tiền đề của giá trị giáo dục.
• Giá trị giáo dục: làm sâu sắc hơn giá trị nhận thức
• Các giá trị nhận thức và giá trị giáo dục đều được phát huy tích cực nhất qua giá trị thẩm mĩ.
+ Ví dụ:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu mở rộng phạm vi nhận thức về
một hiện thực bề bộn, phức tạp thời hậu chiến với những nghịch lí đầy ngang trái, đồng thời khám
phá vẻ đẹp bên trong người đàn bà tưởng như chỉ biết cam chịu, khơi gợi ở bạn đọc một thái độ
sống, một cách nhìn cuộc đời sâu sắc, tỉnh táo hơn thông qua những hình ảnh có tính chất biểu
tượng, qua lối kể chuyện đa dạng.
+ Ứng dụng:
Đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học.
5. Nhà văn – văn bản – bạn đọc
+ Nhà văn: người sáng tạo ra văn bản => thực hiện quá trình kí mã => Ý đồ nghệ thuật, cách lí
giải của nhà văn về văn bản chỉ là một khả năng hiểu văn bản.
+ Bạn đọc: ngưòi tiếp nhận văn học => thực hiện quá trình giải mã.
+ Văn bản: là một bộ mã, có thể chấp nhận nhiều cách giải khác nhau nhưng phải phù hợp với
các mã đã được nhà văn kí gửi.
6. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ
+ Mô tả (so sánh với hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự)
Hiện ra qua giọng điệu, trạng thái tâm hồn, cảm xúc (nhân vật trong tác phẩm tự sự: có diện mạo,
tính cách, hành động cụ thể)
+ Phân loại:
- Xét sự xuất hiện của tác giả trong tác phẩm:
• Cái tôi trữ tình: tác giả
• Nhân vật trữ tình nhập vai: khi tác giả hoá thân vào nhân vật khác trong tác phẩm.
- Xét về vai trò:
• Chủ thể trữ tình (người trực tiếp bộc lộ cảm xúc)
• Đối tượng trữ tình: đối tượng hướng tới của tâm trạng chủ thể trữ tình
+ Ví dụ:
- “Tảo giải” (Giải đi sớm) khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh - chủ thể trữ tình,
cái tôi trữ tình với vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ và vẻ đẹp tinh thần chiến sĩ.
- “Sóng”: xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình “sóng” – nhân vật trữ tình nhập vai, đối tượng
trữ tình mang vẻ đẹp của khao khát tình yêu thuỷ chung, nồng nàn, mãnh liệt.
+ Ứng dụng:
Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong một bài thơ.
7. Giá trị hiện thực
+ Là gì:
- Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.
- Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện thực đời sống
sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…)
+ Biểu hiện:
Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nói đến giá trị
hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét chính:
- Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con
người bé nhỏ, bất hạnh.
- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa dạng. Cùng phản ánh tình cảnh
khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất Tố miêu tả nỗi chật vật về
vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cổ nhiều tròng, Nguyễn Công Hoan phơi bày
chân thực sự cùng đường tuyệt lộ của người nông dân (“Bước đường cùng”), Nam Cao lại đi vào
mảng hiện thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau
tinh thần khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.
+ Vai trò:
- Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.
- Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.
+ Ứng dụng:
- Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm. (Chí Phéo, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt…)
- Phân tích nhân vật làm rõ giá trị hiện thực mới mẻ và độc đáo trong một tác phẩm. (nhân vật
Chí Phèo, nhân vật Mị, nhân vật người phụ nữ vợ nhặt…)
8. Giá trị nhân đạo
+ Là gì:
- Hạt nhân: lòng yêu thương con người.
- Đối tượng: thường là nỗi khổ.
+ Biểu hiện: 3 khía cạnh cơ bản.
- Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh.
- Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.
- Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh.
Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt. Chẳng hạn,
cùng viết về người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, yêu thương sâu sắc, Ngô Tất Tố khám phá ở
Chị Dậu vẻ đẹp truyền thống, thuỷ chung, không tì vết; Kim Lân phát hiện ra nét nữ tính và khát
vọng hạnh phúc bất diệt trong tâm hồn người vợ nhặt, còn Tô Hoài thì khơi tìm sức sống tiềm
tàng, mãnh liệt nơi cô gái vùng cao - Mị…
+ Vai trò:
- Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn
“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki)
- Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn học là nhân học. Nghệ thuật
chỉ có nghĩa khi hướng tới con người, yêu thương con người).
+ Ứng dụng:
- Phân tích giá trị nhân đạo trong một tác phẩm (Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ, Chí Phèo…)
- Làm rõ giá trị nhân đạo độc đáo và mới mẻ của một tác phẩm qua việc phân tích nhân vật (Phân
tích nhân vật Tràng, phân tích nhân vật Mị, phân tích nhân vật Chí Phèo…)
+ Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
- Gắn bó hài hoà trong một tác phẩm.
- Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở chỗ: nếu nói giá trị hiện thực là
nhắc tới sự trình bày, miêu tả hiện thực một cách tương đối khách quan thì nói tới gía trị nhân
đạo tức là đã bao hàm thái độ của nhà văn (cảm thông, thương xót, đồng tình, ngợi ca…)

PHONG CÁCH SÁNG TÁC

I. Khái niệm phong cách sáng tác văn học:


+ Phong cách văn học là những nét độc đáo, riêng biệt trong cách cảm nhận và tái hiện đời sống
của một tác giả, được thể hiện qua các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cụa từng tác phẩm
cụ thể. Yếu tố cốt lõi của phong cách là cái nhìn mang tính phát hiện, in đậm dấu ấn riêng của
người nghệ sĩ: "Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần ne;ười nghệ sĩ độc đáo
xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập" (M. Pru-xtơ).
+ Phong cách văn học còn mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Trong phong cách riêng của mỗi
tác giả, người ta có thể nhận ra diện mạo tâm hồn, tính cách của một dân tộc và "Mỗi trang văn
đều soi bóng thời đại mà nó ra đời" (Tô Hoài). Chẳng hạn, qua những biểu hiện của phong cách
Nguyễn Du trong Truyện Kiều, có thể thấy nét riêng của tâm hồn Việt Nam và dấu ấn của một
thời "dâu bể".
II. Biểu hiện cơ bản của phong cách sáng tác văn học:
+ Phong cách sáng tác văn học trước hết được biểu hiện qua cái nhìn và giọng điệu độc đáo, riêng
biệt của tác giả. Ví dụ: Cái nhìn tài hoa, có khả năng khám phá mọi đối tượng từ phương diện
thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Qua cái nhìn ấy, thiên nhiên hiện lên như những công trình mĩ thuật
hoàn hảo của tạo hoá; con người luôn tiềm ẩn tư chất nghệ sĩ, tài hoa, tài tử. Giọng điệu trào
phúng của Nguyễn Khuyên thì hóm hỉnh, thâm trầm trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm
biếm sâu cay, đả kích quyết liệt.
+ Các lớp nội dung của tác phẩm như đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật,... cũng là những yếu tố
thổ hiện phong cách văn học. Nói đến Nam Cao là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn của "những
kiếp lầm than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở để đón nhận "những vangđộng của đời".
Nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ về một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với đời, luôn nồng
nàn, say đắm trong tình yêu.
+ Phong cách văn học còn được biểu hiện qua hệ thống các phương tiện nghệ thuật mà nhà văn
lựa chọn để tái hiện đời sống, từ cách dùng từ, lối cấu tạo câu đến nghệ thuậtxây dựng nhân vật,
tổ chức kết cấu. Tô Hoài nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc hoạ nét đẹp riêng
trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng với danh hiệu
bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ với khả năng sáng tạo những từ ngữ, hình ảnh mới lạ,
bất ngờ; nhữngcâu văn giàu chất nhạc, chất hoạ, linh hoạt như "biết co duỗi nhịp nhàng".
+ Trong biểu hiện của phong cách văn học luôn có sự hoà quyện giữa các yếu tố định hình, thống
nhất và sự biến đổi đa dạng, phongphú. Và điều quan trọng nhất là phong cách phải có ý nghĩa
thẩm mĩ - mang đến cho người đọc những tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ phong phú.
- Phân tích những biểu hiện của phong cách nghệ thuật qua một tác giả cụ thể (HS tự chọn).
Có thể lựa chọn một trong số những tác giả có phong cách nổi bật trong nền văn học Việt Nam
hiện đại như Nam Cao, Xuân Diệu, Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân,...

Bài văn mẫu học sinh giỏi, chứng minh nhận định : điều còn lại với mỗi nhà văn chính là
cái giọng nói của riêng mình
Bài làm

Macxen Pruxt từng nói “Đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ, phong cách không phải
vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Cái nhìn mới mẻ rất là phong cách sáng tạo độc đáo của
nhà văn, tức là vấn đề cốt lõi, then chốt trong cuộc đời sáng tác của người nghệ sĩ đó là điều còn
lại, là hạt nhân quan trọng sau khi từ nhà văn bóc đi những cái không phải là của bản thân anh ta
với tất cả khi anh ta giống với người khác. Bởi vậy! Có ai đó đã khẳng định rằng “điều còn lại
với mỗi nhà văn chính là cái giọng nói của riêng mình”.

“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… nếu anh không có
giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ”. Nhà văn sê-khốp đã từng khẳng định như thế.
Giọng nói riêng là cái nét riêng biệt, độc đáo, mới mẻ trong sáng tác của nhà văn. Nó biểu hiện
ở trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống một cách mới mẻ và cách thể hiện cái mới mẻ đó rất
độc đáo của nhà thơ. Hay nói một cách khác “giọng nói riêng” chính là phong cách riêng của mỗi
nhà văn. Có được trong giọng nói riêng nhà văn sẽ tạo ra được những tác phẩm bất hủ với thời
đại. Không những thế còn tạo ra được chỗ đứng cho mình trên diễn đàn văn học, tất cả những
điều đó chính là điều còn lại với mỗi nhà văn. Như vậy ý kiến trên muốn đề cao tính sáng tạo, đề
cao phong cách nghệ thuật riêng biệt của mỗi người nghệ sĩ.

Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn, nó như là đang đưa ra một yêu cầu khắt khe trong cuộc
đời sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Trong “đời thừa” Nam Cao đã khẳng định, “văn
chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương
chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những
gì chưa có”. Đúng như vậy! Nam Cao bản chất của văn học nghệ thuật là sự sáng tạo miệt mài
không ngừng nghỉ. Nghệ thuật sẽ chết nếu như không có nét riêng, nét độc đáo. Như Maxim
Gorki nói “cái tầm thường là cái chết của nghệ thuật. hơn nữa lao động của Nhà văn là lao động
sáng tạo, nên dù muốn hay không mỗi nhà văn phải tạo cho mình một nét riêng, một phong cách
nghệ thuật không trộn lẫn”. Nhà văn giống như một nhà quay phim hiện thực cuộc sống, được
thu vào lăng kính của nhà văn từ đó được phản chiếu qua những trang văn, điều đó không có
nghĩa là nhà văn sao chép hiện thực một cách y nguyên, nô lệ, mà cần phải có sự chọn lọc, phải
chắt lọc bằng cách nhìn và cách cảm thụ có tính khám phá. Cũng chính vì vậy mà phong cách
đem đến cho nhà văn cái nhìn mới mẻ, khác lạ về cuộc sống. Phong cách là nhu cầu biểu hiện
của người nghệ sĩ, là một tiêu chí đánh giá vai trò, vị trí tầm cỡ lớn nhỏ của nhà văn trong sáng
tạo văn học. Phạm Đình Kiên nói rằng “văn chương quý bất tùy nhân hậu”. Tức là cái quý của
văn chương là không theo người khác cũng là bởi vậy. ấy thế nhưng không phải nhà văn nào
cũng có được phong cách, chỉ có những nhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức sáng tạo ra
những nét riêng, độc đáo, lập đi lập lại mang tính thống nhất trong cả nội dung và hình thức tác
phẩm. Và Nguyễn Tuân chính là một nhà văn như thế, với phong cách nghệ thuật độc đáo của
mình. Ông đã sáng tạo nên thiên truyện “Chữ Người Tử Tù” để lại trong lòng bạn đọc bao ấn
tượng khó phai mờ.

Nguyễn Minh Châu ấn tượng nói Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa, toàn
bộ cuộc đời cũng như gần 5 nghìn Trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử”. Huyền sử của
người ưu lối chơi, “độc tấu”. Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuôn
nhà nhưng vời thanh âm trầm bổng khác nhau của nốt nhạc theo nhà văn. “tôi quan niệm đã viết
văn phải cố viết cho hay và cho đúng cái tạng của riêng mình. Văn chương cần có sự độc đáo
hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác”. Có lẽ vì thế mà phong cách Nguyễn Tuân có sức hấp dẫn người
đọc, độc đáo vô song, khiến người nghe rung cảm mãnh liệt. Tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”
chính là một điển hình tiêu biểu cho phong cách sáng tác rất “ngông”, mà vô cùng độc đáo của
Nguyễn Tuân.

Đọc “Chữ người tử tù”, đã nhận ra ngay nét mới lạ, riêng biệt của Nguyễn Tuân ngay từ ở đề tài
sáng tác “vang bóng một thời” như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn
cá tính con người tài hoa, tài tử Nguyễn Tuân. Đây là một đề tài trước nay chỉ ở Nguyễn Tuân
mới có, một truyện ngắn dựng nên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vang,
tiêu biểu cho khuynh hướng thoát ly của Nguyễn Tuân trước cách mạng viết về những thú chơi
tao nhã, những con người của quá khứ xa xăm thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của
nhà văn vốn nặng tình, cùng với thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong đó lại là một tâm
hồn dân tộc, yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó tác phẩm còn là
nơi gửi gắm tâm sự yêu thương, yêu nước, tâm trạng bất hòa của một người luôn cảm thấy bức
bối trong khuôn đời chật hẹp. Cảm hứng mãnh liệt ấy gắn với những nhân vật đối lập với quân
pháp của xã hội phong kiến thể hiện tập truyện trong truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù”.

Không chỉ mới về đề tài “Chữ Người Tử Tù” là một thiên truyện bất hủ trong lòng bạn đọc, bởi
cách dựng người, dựng cảnh rất độc đáo. Nguyễn Tuân luôn tiếp cận con người, sự vật dưới góc
nhìn tài hoa nghệ sĩ, mãnh liệt, phi thường. Bởi thế Huấn Cao hiện lên với vẻ đẹp cao cả, hoàn
mỹ, khác thường, đó là nhân vật mà cùng một lúc hội tụ và phát sáng cả ba vẻ đẹp tài hoa, khí
phách, thiên lương trong sáng.

Các nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm nghề gì, dù ở vị trí xã hội thế nào? đều được khắc họa với
vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Huấn Cao cũng là nhân vật như thế, cái tài hoa của Huấn Cao là ở cái tài
viết chữ đẹp, tên tuổi của ông nổi như cồn ở khắp tỉnh Sơn. Bởi lẽ “ông vốn có tiếng Viết chữ
nhanh và đẹp, chứ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông Huấn mà treo thì chẳng
khác gì có một vật báu trên đời”. Cũng chỉ vì vẻ đẹp, nho nhã, cổ truyền ấy mà ước nguyện của
viên quản ngục là có được một câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trong nhà. Điều đó
khiến viên quản ngục phải nung nấu, nhẫn nại và dũng cảm với cái chết để hoàn thành được sổ
nguyện của mình, khắc họa vẻ đẹp tài hoa ở Huấn Cao. Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện niềm
trân trọng trước một vẻ đẹp nhân cách, mà còn thể hiện niềm tiếc nuối trước một nhã thú cổ
truyền đang bị lụi tàn trong xã hội rở Tây rở ta nay chỉ còn vang bóng.

Là người văn võ song toàn, Huấn Cao không chỉ có vân tay tài hoa mà còn là người có khí phách
hiên ngang, bất khuất, điều đó được thể hiện qua lý tưởng về một cuộc sống không có áp bức,
bất công, vì thế ông dám từ bỏ công danh đứng về phía nhân dân, dũng cảm chống lại triều đình.
Đối với chế độ phong kiến ông là kẻ phản nghịch, một kẻ thù nguy hiểm đang đợi ngày ra pháp
trường để thụ án tử hình, nhưng đối với nhân dân ông lại là lãnh tụ được sùng bái, kính trọng,
dám làm, dám chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Đó chính là biểu hiện của một dũng khí
hiên ngang, qua thái độ khinh miệt của viên quản ngục, với chế độ nhà tù ta càng thấy rõ khí
phách ấy, thời gian sống của Huấn Cao chỉ được tính bằng giây bằng phút. Thế nhưng ngay trong
chốn ngục tù ấy Ông cho rằng những kẻ đang nắm giữ tính mạng của ông chỉ là một lũ tiểu nhân,
thì oai, khi đặt chân vào cửa nhà tù các khí phách ấy cũng đã hồi sáng, ngay cả đến thái độ cư xử
với viên quản ngục cũng chứng tỏ thái độ ngạo nghễ của ông. “hàng ngày được thầy thơ lại tiếp
đãi rượu, thịt ông vẫn thản nhiên nhận coi như đó là cái thú bình sinh lúc tự do vẫn làm”, lúc viên
quản ngục hỏi “người hỏi ta muốn gì? ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào
đây”. Sự khinh bạc ấy của Huấn Cao càng làm viên quản ngục thêm nể phục và càng làm tăng
thêm cái khí phách cao ngất trời của ông Huấn.
Bên cạnh vẻ đẹp của cái tài ở Huấn Cao còn phát sáng vẻ đẹp của cái tâm, điều đó được thể hiện
qua hành động cho chữ viên quản ngục và những lời khuyên chân thành của ông. Nhất sinh Huấn
Cao không vì vàng ngọc hay quyền thề mà ép mình cho chữ bao giờ, cả đời ông chỉ mới cho chữ
có ba người đều là ở chỗ tri kỷ cả. Thế nhưng khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Ông
nói “thiếu chút nữa thôi ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, vì thế ông đã quyết định dành
cái đêm cuối cùng của đời mình để viết tặng chữ cho viên quản ngục.

Đến đây Nguyễn Tuân đã phô diễn toàn bộ cái độc đáo, mới mẻ trong phong cách của mình để
dựng lên cảnh cho chữ “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
một cảnh tượng đầy thực diễn ra, đó là sự đối lập tương phản giữa một bên là một buồng tối chật
hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa
trắng tinh, căng thẳng và với ánh sáng của bó thuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực, dưới ánh sáng
của bó đuốc đỏ rực, bó đuốc của trí thiện, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật
trang nghiêm, thật thiêng liêng này Huấn Cao dồn hết tâm linh vào từng nét chữ. Ông không mảy
may lưu ý gì đến cái xấu xa, bẩn thỉu đang tồn tại, mà hoàn toàn bị thu hút quyến rũ vào một sự
vật “tấm lụa bạch nguyên vẹn”. đúng thế Ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn
tại. chính tấm lụa trắng này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới
thực sự có sức mạnh. Ở đây không còn là một huấn cao tử tù nữa, chỉ còn một Huấn Cao tự do
nhất, sống động nhất, cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về
chân lý của cái đẹp ngời sáng, ngôi sao sáng Huấn Cao đang phát quang, bừng tỉnh, cháy không
gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời nơi đây. Huấn Cao đem đến nơi đây một không
gian văn hóa, vẻ đẹp cao ngân, nó đã làm cho “viên quan coi ngục lại vội khúm núm cất từng
đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng
chậu mực. Tuy ở nhà ngục này có sự thay đổi ngôi bậc, có sự chuyển hóa vì vị trí xã hội của con
người. Nó nói lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn, giờ phút này và tại nơi đây không phải do
viên quản ngục làm chủ, sức mạnh quyền lực của cái đẹp và tâm lý tồn tại trên đời thể hiện sức
mạnh quyền uy theo cách riêng của nó.

Nó không khuất phục ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó, nó không
giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại nó buộc con người ta đứng
dậy, tự nguyện đi theo để nó hướng tới cái chân, thiện, mỹ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn, và
ở đây cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém. Cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt
con người, cái đẹp đăng quang, cái xấu xa đã phải chuyển xuống nhường chỗ cho cái đẹp, cái
đẹp đã tồn tại sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn cao cho
chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp đẽ mãi sinh sôi, nảy nở đi vào cõi
vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc họa bằng ngòi bút lãng mạn, cứ sừng sững
hiên ngang, hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ tới cuộc sống đang tràn
ngập màn đêm, một ngày tù túng, trì trệ.

Phải chăng đó là quan niệm thẩm mĩ của Huấn Cao hay chính Nguyễn Tuân, cái đẹp phải gắn
với cái thiện, nó không thể sống chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành mộc mạc, giản dị đó
của Huấn Cao đã khiến cho ngục quản cảm động vái một lậy và rưng rưng “kẻ mê muội này xin
bài lĩnh”.

Không chỉ mới nở về cách dựng người, dựng cảnh mà ngôn ngữ của Nguyễn Tuân cũng rất riêng
biệt. Điều đó đã đưa nhà văn trở thành bậc thầy về ngôn từ, ngôn ngữ cổ kính, giàu tính tạo hình,
cách diễn đạt sinh động, linh hoạt đã làm nên sự sáng tạo lớn về nghệ thuật của nhà văn. Đoạn
văn miêu tả cảnh cho chữ là một đoạn văn rất giàu tính tạo hình, nhà văn đã tập trung toàn bộ bút
lực để tái hiện lại cảnh tượng có một không hai này, nó được tạo nên bởi những câu văn đầy hình
thái, không khí “khói như đám cháy nhà, lửa đâm cháy rừng rực, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”, ngôn
ngữ lại biến hóa, biến chuyển rất linh hoạt. Cùng miêu tả về tấm lụa như Nguyễn Tuân bạn có rất
nhiều cách diễn đạt, khi thì “tấm lụa bạch còn nguyên nhân hổ”, lúc lại “tấm lụa trắng tinh” phiến
lụa nóng bức lụa trắng, chính vì cách diễn đạt đa nghĩa giàu sức biểu cảm như vậy nên văn
Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.

“Chữ người tử tù” đã thể hiện được tài năng của Nguyễn Tuân trong việc tạo tình huống truyện
độc đáo. Trong nghệ thuật dựng cảnh khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang
trọng trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình, đây đúng là một văn
phẩm gần đạt đến sự hoàn thiện và toàn mỹ.

Điều còn lại với Nhà văn chính là cái giọng nói của riêng mình, ý kiến đã khẳng định tầm quan
trọng của cá tính sáng tạo trong sáng tác văn học với người nghệ sĩ, đó là kim chỉ nam cho sự
nghiệp sáng tác của họ với người đọc. Đó lại là tiêu chí để đánh giá chính xác một nhà văn thực
thụ. Có lẽ thế mà người đọc luôn đòi hỏi sự sáng tạo ở người nghệ sĩ, “nhà văn không đi trên con
đường của sự sáng tạo, tức là anh ta đang tự xóa đi dấu chân mình, tên tuổi mình trong lòng độc
giả”.

Nếu như cần phải minh họa cho bản chất sáng tạo của văn học thì không thể không nhắc đến
Nguyễn Tuân, người với những trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra không chỉ một con đường,
một lối đi riêng mà phải nói là một đại lộ riêng trên các ngả khai phá của văn học Việt Nam. Trên
đại lộ ấy ta bắt gặp nét quen thuộc và cả những điều mới mẻ, cái làm nên hồn cốt Nguyễn Tuân./.

Bài văn: Phân tích Chữ người tử tù để chứng minh nhận định :Điều còn lại với mỗi nhà
văn chính là “cái giọng nói riêng” của mình.

Nhà văn Nga Sê-khốp đã từng cho rằng, nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không
bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ. Đúng
như vậy, nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng, là một bộ môn của dấu ấn chủ quan, của
phong cách sáng tạo. Vì vậy, thước đo để đánh giá, giá trị tác phẩm, cũng như tài năng của Nhà
văn chính là phong cách. Một tác phẩm có sức sống lâu bền, cũng như một nhà văn tài năng, điều
đầu tiên ảnh hưởng đến người đọc chính là dấu ấn cá nhân, phong cách. Hay như Sê-khốp gọi là
giọng riêng. Bàn về vấn đề này đã có ý kiến cho rằng: Điều còn lại với mỗi nhà văn chính là “cái
giọng nói riêng” của mình. Minh chứng rõ nhất cho điều đó chính là giọng riêng của Nguyễn
Tuân thông qua truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù”.

Raxecn Gam ratop, nhà thơ Đaghextan từng viết:

“Qua giọng hát anh nhận ra người hát,

Qua nét Phác anh nhận ra người thợ bạc”.

Với âm nhạc Người ca sĩ để lại cho người đọc ấn tượng về mình bằng một giọng hát, chỉ ở
riêng mình. Với điêu khắc, mỗi người thợ có một cách khác riêng, mang đậm tài năng và cái nhìn
thẩm mỹ của họ. Còn đối với văn chương, Nhà văn bộc lộ dấu ấn của mình cho độc giả, bằng
giọng nói riêng của mình. Đó chính là phong cách, là sự sáng tạo riêng, khẳng định vị trí chỗ
đứng của nhà văn. Như vậy, điều còn lại với mỗi nhà văn, chính là “cái giọng riêng của mình”,
là một ý kiến thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách sáng tạo của một tác giả. Đó là thước đo để
đánh giá những nhà văn ưu tú, nhà văn thực thụ.
Văn học đề cao dấu ấn chủ quan, phong cách sáng tạo, bởi văn học là một bộ môn nghệ thuật
rất cần những cái mới mẻ, sáng tạo của mỗi tác giả. Muốn được như vậy, mỗi nhà văn, nhà thơ
phải cho mình một phong cách riêng, một ấn tượng riêng để sáng tác tìm đến với văn chương.
Đối với độc giả, lại tìm đến những tác phẩm mà mình yêu thích. Đó cũng chính là sự lý giải
phong cách, là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên tên tuổi và tài năng của nhà văn, và khác
với lao động của Nhà văn là lao động sáng tạo, nên dù muốn hay không, mỗi nhà văn phải tạo
cho mình một nét riêng, một phong cách nghệ thuật không trộn lẫn. Do đó có thể coi phong cách
là dấu ấn riêng của người nghệ sĩ, in đậm trong các sáng tác nghệ thuật của họ. Phong cách là
một phạm trù thẩm mỹ, thể hiện sự tương đối ổn định của hệ thống hình tượng. Các phương tiện
biểu hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo, sáng tạo trong quá trình sáng tác của nhà văn. Giữa
trào lưu văn học dân tộc, hay xuyên suốt dòng chảy thơ văn, cả một thời đại, phong cách đem
đến cái nhìn mới mẻ, khác lạ của nhà văn trong việc cảm nhận và phản ánh cuộc sống. Điều đó
là sự đánh dấu trưởng thành và bản lĩnh cá nhân của nhà văn, trong quá trình sáng tác. Song
không phải nhà văn nào cũng có một giọng nói riêng, một phong cách riêng, mà điều đó chỉ xuất
hiện ở những nhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức sáng tạo ra nét riêng, độc đáo. Giọng
nói riêng, hay phong cách được thể hiện ở cách nhìn, cách cảm có tính khám phá được thể hiện
ở giọng điệu riêng, ở quan niệm về cuộc sống con người thông qua đề tài, chủ đề, cách chọn nhân
vật và cuối cùng phong cách thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật mà nhà văn lựa chọn để tái
hiện đời sống. Từ cách dùng từ tổ chức, kết câu. Tóm lại phong cách văn học chính là dấu ấn
riêng biệt của tác giả về mặt tư tưởng, nội dung lẫn hình thức, nghệ thuật, để lại ấn tượng sâu
đậm trong lòng người đọc.

Là một cây bút tài hoa, uyên bác có đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn học nước nhà, có trước
và sau cách mạng. Nguyễn Tuân được người đọc biết đến là một phong cách văn học rất độc đáo,
nhất riêng biệt, bởi một chữ “ngông” ông luôn nhìn mọi việc, mọi nhân vật, nhìn người ở phương
diện cái đẹp, phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Đọc văn Nguyễn Tuân người ta đến được thế giới của
cái đẹp, cái tài, hiện ra một cách mới mẻ, rõ ràng, đặc biệt trước cách mạng do không bằng lòng
với xã hội “Tây tàu nhố nhăng” Nguyễn Tuân tìm lại quá khứ, trân trọng những vẻ đẹp này chỉ
còn vang bóng, như chơi chứ, uống trà, ngâm thơ với tư tưởng xưa mà không cũ ấy. Cùng với
bút pháp nghệ thuật đặc biệt, Nguyễn Tuân đã viết ra bộ truyện ngắn đạt gần tới sự hoàn thiện và
toàn mỹ đó là tập “vang bóng một thời”. Nổi bật lên trong đó có một truyện ngắn rất hay, đồng
thời thể hiện rất rõ phong cách sáng tác giọng nói riêng của Nguyễn Tuân chính là truyện ngắn
“Chữ Người Tử Tù”.

“Giọng nói riêng” của Nguyễn Tuân được thể hiện độc đáo và sâu sắc, thâu tóm trong một
chữ “ngông”. Đó tức là thái độ khinh đời, ngạo đời, làm khác thường dựa trên sự tài hoa uyên
bác và nhân cách hơn đời của mình. Điều đó được thể hiện trước hết ở việc Nguyễn Tuân tiếp
cận mọi sự vật ở một văn hóa thẩm mỹ, để khám phá và khen chê “Chữ Người Tử Tù” bộc lộ rõ
mặt đó của Nguyễn Tuân. Đến với truyện ngắn này độc giả chắc chắn ai cũng nhận ra Nguyễn
Tuân viết về một thời kỳ xa xưa, nhưng nay chỉ còn vang bóng, ông trân trọng nâng niu và giữ
gìn, làm sống dậy trong lòng người đọc một thú chơi tao nhã của người xưa đó là thú chơi chữ.
Nguyễn Tuân đã cho ta rạo rực sống lại cái thuở còn kim Hán học, với nghệ thuật thư pháp điêu
luyện từng “vang bóng một thời”. Với những mảnh lụa trắng, bút lông nghiêng mực, hai câu đối,
hoành phi. Cái đẹp thanh khiết của cả người cho chữ và người chơi chữ, tất cả cuốn người đọc
về hồn dân tộc. Nguyễn Tuân tha thiết với những giá trị văn hóa, tinh thần của cha ông gửi gắm
một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tinh thần dân tộc có màu sắc độc đáo. Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh đã từng nhận xét “lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với những giá trị văn
hóa cổ truyền, là tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Tuân đã tạo nên giá trị chân chính và lâu bền cho
tác phẩm của ông”. Đọc văn Nguyễn Tuân, ta như luyến tiếc một thời đã qua và trân trọng những
gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống.

Chưa dừng lại ở đó, giọng nói riêng của Nguyễn Tuân còn được bộc lộ qua việc Nguyễn Tuân
luôn nhìn nhận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Để sáng tạo nên những nhân vật tài
hoa, nghệ sĩ đó là điểm riêng mà chỉ có ở Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù”,
hiện lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao với ba phẩm chất hội tụ đó là, tài năng, khí phách và thiên
lương. Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn, với cái tài viết chữ nhanh và đẹp được mọi người
biết đến và khao khát muốn có chữ của ông Huấn, “có chữ đó mà treo trong nhà chẳng khác nào
có một báu vật ở trên đời”, “chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm”. Ngay đến cả kẻ thù của ông
cũng khao khát, mơ ước có thứ báu vật quí ấy. Như vậy có thể thấy rằng, Huấn Cao là người có
trí tuệ uyên thâm, tài năng siêu phàm thì mới có thể viết ra những nét chữ “vuông, tươi tắn, nói
lên sự tung hoành của cả một đời người”, kia mà, ai ai cũng mong muốn sở hữu bên cạnh. Vẻ
đẹp của tài năng chính là vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, khí phách của một vị anh hùng “đội
trời, đạp đất” điều đó được thể hiện rõ qua lý tưởng về một cuộc sống không có áp bức, bất công,
vì thế Huấn Cao dám từ bỏ công danh đứng về phía nhân dân, chống cảm, chống lại triều đình.
Đối với chế độ phong kiến ông là một kẻ phản nghịch, một tử tù nguy hiểm, nhưng đối với nhân
dân Ông là một vị lãnh tụ được sùng bái, kính trọng, dám làm, dám chịu với những việc mình đã
làm. Trái với khí phách kiên cường, bất khuất của Huấn Cao còn được thể hiện qua thái độ kinh
miệt viên quản ngục nhà tù thực dân, thời gian sống của ông chỉ còn được tính bằng giây, bằng
phút thế nhưng ngay trong chốn lao tù ấy, ông vẫn xem những kẻ đang nắm giữ mạng sống của
ông chỉ là lũ tiểu nhân thi oai. Ông xuất hiện trước viên quản ngục và bọn Cai tù bằng động tác
“súc mạnh cái gông nặng bẩy ,tám tấn”, khi nghe lời đe dọa lúc ở tù ông vẫn thản nhiên nhận
rượu, thịt coi đó như một việc đường hoàng. Từ phong thái ung dung, đường hoàng Ông dám nói
những lời nói khó nghe với viên quản ngục. Đã chờ đợi một sự trả thù của kẻ thù, tất cả cho thấy
ông Huấn là một người hiên ngang, bất khuất, không những là người có tài mà Huấn Cao còn
phát sáng vẻ đẹp của cái tâm. “ông nhất sinh không bao giờ mất mình cho chữ vì vàng bạc hay
quyền thế”, “cả cuộc đời của ông, ông mới cho chứ vài ba người và toàn là chỗ tri kỷ. Cái tâm
của ông còn được hiện rõ qua việc cho chữ viên quản ngục và lời khuyên chân thành về lẽ sống,
ông cảm động trước tấm lòng của thầy quản, “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ”. Vì thế ông đã quyết định dành cái đêm cuối cùng của cuộc đời mình để viết chữ tặng
viên quản ngục, ở Huấn Cao cái tài kết hợp với cái tâm đã tạo nên người anh hùng toàn diện, toàn
mỹ. Đây cũng là một điểm thể hiện rất rõ phong cách nhìn người của Nguyễn Tuân trước cách
mạng.

Giọng nói riêng biệt của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua việc vận dụng kiến thức của
nhiều ngành Văn hóa, nghệ thuật. Nhiều ngành không liên quan đến nghệ thuật, để quan sát hiện
thực và sáng tạo hình tượng, đối với “Chữ Người Tử Tù” ta thấy tầm hiểu biết của Nguyễn Tuân
về triều đại phong kiến nhà Nguyễn, một chiều Đại mục rỗng, hỗn loạn, nhiều cuộc nổi dậy của
nông dân và người anh hùng “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” Cao Bá Quát. Nhưng điều đó đã tạo
nên sức hấp dẫn của câu chuyện, đồng thời tô điểm thêm vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao. Nguyễn
Tuân còn tỏ ra rất kinh nghiệm khi công ra những hiểu biết về văn hóa, xã hội hay cảnh cho chữ
cuối cùng trong thiên truyện thể hiện rõ dấu ấn điện ảnh của Nguyễn Tuân. Sự tương phản, đối
lập rõ nét giữa ánh sáng và bóng tối, cái đẹp rực rỡ của cảnh cho chữ, là cái xấu xa của nhà tù,
“cái không gian đỏ rực và màn khói trắng”. Mọi thứ, mọi tông tô đậm thêm cho “một cây bút tài
hoa nghệ sĩ”.

Bắt gặp không ít trong văn của cụ Nguyễn Chính, là sự tôn trọng cái phi thường gây cảm giác
mãnh liệt, dữ dội. Nguyễn Tuân thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đỉnh cái đẹp ấy
là sự hội tụ của cái đẹp khi bị trữ tình và cái vẻ đẹp hoành tráng, dữ dội đến dữ dằn. Ở “Chữ
Người Tử Tù” ta bắt gặp một không khí hừng hực lửa cháy và khói trắng trong đêm, qua cảnh
cho chữ ở nhà tù tỉnh Sơn đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Theo lẽ thường người ta cho
chứ ở thư phòng sang trọng, nghi ngút hương thơm, hay ít nhất phải có đầy đủ ánh sáng. Thế mà
ở đây, Nguyễn Tuân đã xây dựng một cảnh cho chữ trong lúc nửa đêm, tại ngục tù hôi hám, bẩn
thỉu “tường đầy mà nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gian”. Chưa dừng lại ở đó, cái độc đáo
của cảnh cho chữ còn được thể hiện ở sự đảo lộn trật tự vị thế trong nhà tù. Kể tử tù ngày mai ra
pháp trường Lãng ăn thì đường Hoàng Uy Nghi lẫm liệt. Người trong tù đại diện cho một chế độ
thì Cúm Núm với lại kẻ tử tù vẫn cao cổ đeo gông chân vướng trường xích vẫn đang cố gắng
gian dạy quản cục tài khoản nên tìm về quê mà ở thầy Hãy thoát khỏi cái nghề này đi rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chứ. Ở đây có giữ thiên lương cho làng vững rồi nghe nước mất cả đời
lương thiện”. Lời khuyên của Huấn Cao là lời khuyên bất tử, là lời chứng minh rằng cái đẹp có
thể sinh ra ở miền đất ác, nhưng cái đẹp không bao giờ chịu sống chung với cái xấu và cái ác.
Những lời khuyên đó dường như đã thấm sâu vào thầy quản, khiến con người vừa đáng trọng,
vừa đáng thương này quỳ gối nói trong nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bài lĩnh”.
Cảnh cho chữ đã gợi ra không khí của một thời tiền sử, một cảnh thơ ảo nhưng cũng rất huyền bí
ẩn, chứa sức mạnh tiềm tàng.

Cuối cùng giọng nói riêng biệt của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua những bút pháp nghệ
thuật đặc sắc, điển hình là việc sử dụng ngôn từ. Nguyễn Tuân biết đến là bậc thầy của ngôn từ,
là chuyên gia của tiếng Việt. Ông có một vốn từ hết sức phong phú. Trong “Chữ Người Tử Tù”
vốn từ đó thể hiện rất rõ, hàng loạt những từ Hán Việt được sử dụng công phu như khí phách,
thiên lương, tử tù… Góp phần làm nên màu sắc của thiên truyện, đưa người đọc về cõi xa xưa về
một thời vang bóng. Tiếp đó là sử dụng thành công biện pháp so sánh, đặc sắc của ông. Khi nói
về viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã ví von như “mặt nước ao Xuân bằng lặng, kín đáo và êm
nhẹ”, hay nói về tính cách ông đã viết “như một thanh âm trong trẻo, chen vào giữa một bản nhạc
mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Rồi cũng như bao nhà văn khác, Nguyễn Tuân đã xây dựng
được một tình huống truyện độc đáo, một thủ pháp nghệ thuật độc lập, tương phản, độc đáo, dựng
không khí cổ xưa cho câu chuyện…Có thế thấy rằng “Chữ người tử tù” đã bộc lộ hội tụ những
vẻ đẹp nghệ thuật và Nguyễn Tuân hay sử dụng tạo nên một thiên truyện mang đậm phong cách
của ông.

Một truyện ngắn sáng tác trước cách mạng “Chữ người tử tù” đã bộc lộ rõ được tài năng cũng
như “giọng nói riêng biệt” của Nguyễn Tuân. Qua đây ta cũng thấy “điều còn lại với một nhà văn
là giọng nói riêng của mình”, là ý kiến, thước đo đánh giá hoàn toàn đúng đắn. Không chỉ có vai
trò như vậy, Ý kiến còn đặt ra vai trò, trách nhiệm của nhà văn, độc giả và lịch sử văn học. Đối
với nhà văn, phong cách luôn là điều cần thiết họ phải tạo cho mình một giọng nói riêng biệt thì
mới có thể in đậm dấu ấn chủ quan trong lòng người đọc bằng chính tác phẩm của mình. Đối với
độc giả, khi tiếp nhận một văn bản văn học, cần cố gắng tìm ra giọng nói phong cách riêng của
từng tác giả, tiếp thu hết những cái hay, cái đẹp mà tác giả đó đem đến. Đối với lịch sử văn học,
chỉ tiếp nhận những nhà văn thực sự có giọng riêng, có phong cách riêng, đem lại sự phong phú
cho nền văn học nước nhà.

Ivan tuốc ghê nhép đã từng quan niệm “cái quan trọng trọng tài năng văn học và tôi nghĩ rằng
cũng có thể trong bất kỳ tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình”. Văn
chương cũng như bao môn nghệ thuật khác, điều quan trọng chính là cái dấu ấn riêng, cái giọng
nói riêng biệt. Đó chính là, những gì còn lại sau dòng chảy của thời gian. Với một nhà văn tài
hoa, uyên bác như Nguyễn Tuân điều đó lại càng đúng hơn nữa, phong cách riêng của cây bút
độc đáo này thể hiện rõ qua từng tác phẩm mà “Chữ Người Tử Tù” là một minh chứng điển hình.
Chính vì điều đó nên tác phẩm xứng đáng tồn tại mãi với thời gian, đến với người đọc cả hôm
nay và mai sau./.

BÀI VIẾT THAM KHẢO


Bình luận quan niệm của J.Paul. Sartre:
“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó
xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng
nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”
1. Nhiều năm trở lại đây, vấn đề tiếp nhận tác phẩm không chỉ là mối quan tâm của lí luận văn
học mà còn là đối tượng của rất nhiều khoa học nghiên cứu văn học. Bình luận và phân tích quan
niệm của J.Paul.Sartre trên cơ sở ngôn ngữ học hiện đại cho chúng tôi những kiến giải sâu sắc.
2. Nếu như vai trò sáng tạo của nhà văn có lịch sử nghiên cứu khá đầy đặn thì vai trò của người
đọc, bản chất của quá trình tiếp nhận văn học dẫu đã được “canh tác” ít nhiều vẫn còn là mảnh
đất khá màu mỡ, mời gọi khám phá.
Lấy mối quan hệ tác giả - tác phẩm - bạn đọc làm căn cốt, xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau về
yếu tố trung tâm của hoạt động văn học.
Trước đây, có một quan niệm đã trở thành quán tính trong nghiên cứu phê bình: lấy tác giả cùng
cá tính sáng tạo làm trung tâm. Nó xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận.
Ý tưởng của nghệ sĩ là nòng cốt, là “chỉ dẫn của Chúa” để soi đường cho những tín đồ văn chương
mải miết đi tìm chân lí. Tiếp nhận được xem như một nỗ lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ vào
tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà văn trong bề mặt ngôn ngữ, văn bản.
Theo đó, phê bình cố gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để dựng lại một tác phẩm văn học
duy nhất trong ý đồ sáng tạo. Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là tiếp cận trực
tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp.
Vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các tác phẩm khuyết danh, các sáng tác của các nhà văn
không đồng thời với chúng ta hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào
ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khoá đi vào văn bản mãi mãi bị vùi lấp.
Xem tác phẩm văn học “như một quá trình”, các nhà nghiên cứu đã phục nguyên vai trò của bạn
đọc.
Chúng tôi quan tâm tới phân tích của hai tác giả Nguyễn Lai và Bùi Minh Toán trên góc độ ngôn
ngữ học.
GS.Nguyễn Lai trong bài viết “Về quá trình tiếp nhận văn học” có đưa ra 5 luận điểm quan trọng:
Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, thoạt tiên ta nghĩ ngay tới “sản phẩm” được làm ra. Theo
cách đó, sản phẩm chưa qua tay người tiêu dùng thì mới ở dạng tiềm năng. Do vậy, năng động
chủ quan của người tiếp nhận là cánh cửa đầu tiên để ta có thể đi vào ngôi nhà tạo nghĩa của quá
trình tiếp nhận văn học.
Chủ thể hoạt động biến “thành phẩm” thành tác phẩm.
Sự khác nhau giữa kí hiệu thẩm mĩ và hình tượng thẩm mĩ. Tuy cùng là những gợi dẫn thẩm mĩ,
nhưng ở hình tượng tượng thẩm mĩ, tính năng động chủ quan của chủ thể phát huy cao độ và phát
huy với thế hoàn toàn chủ động. Từ ngữ, kí hiệu thẩm mĩ chỉ là phương tiện của quá trình gợi
dẫn. Trong luận điểm này, tác giả cũng phân tích quá trình chuyển mã từ mã ngôn ngữ sang mã
hình tượng.
Quá trình tác động một cách có qui luật của tác phẩm nghệ thuật đối với người tiếp nhận.
Mối quan hệ giữa người tiếp nhận với tác phẩm và xã hội thông qua ngôn ngữ.
Coi hoạt động văn học như là hoạt động giao tiếp, GS Bùi Minh Toán xem xét quá trình tiếp nhận
văn học trên hai khía cạnh.
Vai trò của người đọc trong quá trình tiếp nhận.
Vai trò của người đọc trong chính hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ.
Trong quá trình sáng tạo của nhà văn, độc giả có vai trò nhất định, chi phối quá trình sáng tạo và
chi phối cả nội dung, hình thức của tác phẩm.
Trong quá trình tiếp nhận, độc giả có vai trò đồng sáng tạo. Tác phẩm là một bộ mã, nhà văn là
người kĩ mã, bạn đọc giải mã.
3. Như vậy, ở Việt Nam, quan niệm về quá trình tiếp nhận và vai trò của bạn đọc đã được thấu
thị qua những lăng kính khoa học đáng tin cậy. Dễ dàng nhận thấy những luận điểm đó khá gần
gũi với nhận định của J.Paul.Sartre.
“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận đông. Muốn làm cho nó
xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng
nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”.
Trước hết, Sartre nhận xét tác phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình thai
nghén của nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như “con quay kì lạ”. Tác phẩm chỉ hiện tồn
“trong vận động”.
Dường như, ở đây có một cuộc đối thoại ngầm với các quan điểm cho rằng tác phẩm là cố định,
duy nhất, chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà văn ( đã phân tích ở trên). Vận động là điều kiện thiết
yếu để tác phẩm có thể xuất hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.
Vậy cơ chế nào cho sự vận động của văn bản nghệ thuật? Ông khẳng định “cần có hoạt động cụ
thể là sự đọc”, đồng thời tiếp tục nhấn mạnh vai trò của sự đọc hay cũng chính là vai trò của độc
giả “tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục.
Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”. Như vậy sự đọc có ý nghĩa sống
còn đối với sức sống của tác phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những “vệt
đen trên giấy trắng” – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Sự đọc là máu để biến một thể xác
vật chất (văn bản) thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có trăn trở.
Tóm lại, J.Paul.Sartre sử dụng cách nói quá để nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của tiếp
nhận đối với đời sống văn học. Vô hình chung, tác giả đã xem văn học là hoạt động giao tiếp, là
một quá trình.
Dễ dàng nhận thấy dấu ấn triết học hiện sinh trong nhận định này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong
thế giới ở hình thức cá thể, hiện thực với sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm văn học là một
sản phẩm tinh thần, được cụ thể bằng dạng vật chất (văn bản ngôn từ), cũng chỉ có ý nghĩa trong
đời sống của nó – sự đọc. Được viết ra từ những ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc giả,
nhân loại nói chung, tách khỏi sự đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.
Khẳng định ý nghĩa của sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhà văn và quá trình sáng
tạo. “Con quay kì lạ” dẫu biến ảo, vận động về đâu cũng cần có một trục trụ duy nhất để cân
bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày công xây dựng
trong tác phẩm. Tác phẩm là một quá trình, Sartre nhấn mạnh vào quá trình thứ hai – giải mã.
“Tác phẩm chỉ có thể kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục” .
So sánh quan niệm của Sartre với luận giải của Nguyễn Lai, Bùi Minh Toán (đã nên ở trên), có
thể thấy sự tương đồng rõ nét. Nếu Sartre cho rằng thiếu sự đọc, tác phẩm chỉ là “những vệt đen
trên giấy trắng” thì Nguyễn Lai coi văn bản được nhà văn sáng tạo ra mới chỉ ở dạng “tiềm năng”.
Tiềm năng ấy chỉ được hiện thực hóa thông qua quá trình giải mã tín hiệu thẩm mĩ dựa trên sự
tác động có qui luật của văn bản lên người đọc. Bùi Minh Toán phân tích chỉ rõ vai trò của độc
giả một cách toàn diện. Như vậy, từ những so sánh này, có thể khẳng định:
Quá trình văn học được tạo thành từ quá trình sáng tác (của nhà văn) và quá trình tiếp nhận (của
người đọc). Nó có tính liên tục, quan hệ chặt chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn bản.
Trung tâm của quá trình văn học là văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng nghĩa với việc sáng
tạo những tín hiệu thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã (chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ
nghệ thuật). Đến lượt mình, độc giả thực hiện việc giải mã.
Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn
hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác cho văn bản.
Xét ở góc độ này, văn bản có tính độc lập tương đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục của “con
quay kì lạ” chính là những chỉ dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm.
Đời sống của tác phẩm không phải tính bằng thời gian nhà văn thai nghén ra nó. Có những sản
phẩm nghệ thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả. Lại
có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn tiếp tục.
Thực tế đời sống văn học cho thấy quan niệm của Sartre là hoàn toàn có lí.
Truyện Kiều – sản phẩm của “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” của Nguyễn Du khai sinh
cách đây mấy nghìn năm vẫn còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao cách cảm nhận và tranh luận
khác nhau. Nguyễn Du đã mất nhưng sinh mệnh nghệ thuật Truyện Kiều dường như bất tử. Mối
thế hệ bạn đọc, với nền tảng văn hóa, tinh thần khác nhau lại giải mã tác phẩm theo một cách
khác bằng một thái độ riêng.
Có thời, người ta đặt Truyện Kiều lên bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị trí của tác
phẩm. Dùng quan điểm xã hội học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận xét mà không căn cứ
vào ngôn từ, mọi nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế tắc.
GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm mĩ đã rút ra những
luận điểm chính xác về Thi pháp Truyện Kiều, gợi mở cho chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ
của “con quay kì lạ” chính là ngôn từ nghệ thuật.
Tính độc lập tương đối của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc có thể phát hiện những nét mới
ngoài ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm 2005,
có một học sinh được điểm 10 khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ dụng công trong xây
dựng phẩm chất anh cu Tràng (sự hiếu thảo với bà cụ Tứ). Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ
đã kí gửi – văn bản có thể giải theo nhiều cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ cảm phong
phú.
Sáng tạo văn học đồng nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ
thuật người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục quay này.
Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ “mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử) có thể hiểu là khuôn
mặt của người con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của người con gái soi qua trái tim nhớ thương
da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa là gắn với văn cảnh
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền” để thấy được nét đẹp của con người Vĩ Dạ và niềm hoài mong
đau đáu của Hàn Mạc Tử.
Tương tự như thế, cặp hình tượng “non – nước” ở “Thề non nước” của Tản Đà mang tính đa
nghĩa: vừa là hai vật thể thiên nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người con trai và người con
gái nhớ thương trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một
trạng thái cảm xúc chung.
Hồ Chí Minh khi cầm bút đều đặt ra bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết
như thế nào? Người đọc như vậy còn có vai trò chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn.
Văn bản thì duy nhất nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là bất tận. Tác phẩm có thể chỉ
được tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó là bất tử (đối với các kiệt tác). Độc giả chính
là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Quan niệm hiện sinh của J.Paul.Sartre
xét cho cùng đã đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm văn học.
Nhận định về văn xuôi
1. Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái
đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.(Trích trong Nhật ký của Nguyễn
Văn Thạc)
2. Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ. (Dostoevski)
3. Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi
ra đi. (Albert Schweitzer)
4. Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm. (Pauxtopxki)
5. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng
trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người. (Nadimetlicmet)
6. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau
hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó. (Bêlinxki)
7. Văn học là nhân học (M. Gorki)
8. Nhà văn là người cho máu ( Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet)
9. Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy(Sê – Khốp)
10. Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người(Van Gốc) 11. Văn chương bất hủ cổ kim đều
viết bằng huyết lệ (Lâm Ngũ Đường)
12. Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà
con người hướng đến vẫn là con người. (Đặng Thai Mai)
13. Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong
lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người” (Lê Trí Viễn)
14. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người (Xê – Lê
– Khốp)
15. Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người (Hoài Chân) 16.
Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân
văn thiên về ngợi ca vẻ đeho của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm. (Hoài Thanh)
17. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo. (Nguyên Ngọc)
18. Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người (Đề thi HSG văn toàn quốc bảng B
năm 1996)
19. Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả
loài người. Nó phải chứa đựng nột cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bằng…Nó làm cho người gần người hơn. (Đời Thừa – Nam Cao)
20. Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. (Pautopxki)
21. Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả.
Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải
cao cả. (Nguyễn Đình Thi)
22. Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại
đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. (Nguyễn Văn Siêu)
23. Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ (Tố Hữu)
2
4. Nhà văn phải là người đi tìm gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người. (Nguyễn
Minh Châu)
25. Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị
hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để
bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.(Nguyễn Minh Châu)
26. Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được run lên
ở các cung bậc và tình cảm và tình cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình
cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào.
(Nguyễn Khải)
27. Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương. (Bạch Cư Dị)
28. Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được
dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hóa hoặc ngôn ngữ cuối
cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng
máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người. (Maxin
Malien)
29. Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người (M. Gorki)
30. Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi
dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và
sự tiến bộ của loài người. (Sô – Lô – Khốp)
31. Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng
yêu thương con con người. (Từ điển văn học)
32. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. (L. Tônxtôi)
33. Nếu truyện Kiều là một dòng sông thì thơ chữ Hán là những con suối nhỏ, tất cả đều đổ vào đại dương mênh
mông là chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ (Nguyễn Đăng Mạnh)
34. Nhà văn phải là nhà thư ký trung thành của thời đại. (Banlzac) 35. Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp
trong ánh sáng (Charles DuBos)
36. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và
bảo vệ những cái tốt đẹp(Ai – ma – tôp )
37. Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại văn chương
là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn
ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú thêm. (Thạch Lam)
38. Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con
người khát vọng hướng tới chân lý. (M. Gorki)
39. Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể
là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. (Nam Cao)
40. Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. (Thạch Lam)
41. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Nam Cao)
42. Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà
còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay…
Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không
biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó.
Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…. (Nguyễn Tuân)
43. Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là mỗi phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung. (Lêonit Lêonop)
44. Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi
muốn gọi là tiếng nói của riêng mình. (Ivan Tuốc Ghê Nhiép)
45. Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng,
anh khó trở thành nhà văn thực thụ (Sê – Khôp)
46. Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều
hơn.(M.L.Kalinine)
47. Đối với con người, sự thật đôi khi nghiệt ngã, nhưng chưa bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người
đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong
sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ
của loài người. (Sô – Lô – Khốp)
48. Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp
đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống. (Giooc – giơ – Đuy – a – men)
49. Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà
văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn luôn rộng hơn bất kỳ một câu trả lời cặn kẽ nào.(Ciaudio Magris – Nhà
văn Ý)
50. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bornh vì một xã hội công
bằng, bình đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng
máu nóng của mình cho nhân loại. (Leptonxtoi)
51. Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có
nhiều công bằng, thương yêu hơn. (Thạch Lam)
52. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự
vật, để cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức. (Thạch Lam)
53. Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. (Lê Ngọc
Trà)
54. Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là
đê tiện. (Nam Cao)
55. Tôi khuyên bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến
rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hòa cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn
sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp
tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào những tác phẩm của nhân dân, nó trong lành như nguồn nước
ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra. (M. Gorki)
56. Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất. (Béc – tôn
Brếch)
57. Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất
của con người. (Raxun Gazatop)
58. Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra. (Anđecxen)
59. Cuộc đời là nơi xuất bản, cũng là nơi đi tới của văn học. (Tố Hữu)
60. Sự trưởng thành của một thể loại được đánh dấu bằng cổ nhiên, nhưng rõ hơn lại đánh dấu bằng những phong
cách. (LLVH)
61. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá
trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng. (M. Gorki)
62. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đồi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút
người đọc. (LLVH)
63. Cái bóng của độc giả đang cuối xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay
cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không
thể tẩy xóa được của mình. (LLVH)
64. Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra. (Heghen)
65. Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện
về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như
một lực lượng sống nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự
thật. (Aimatop)
66. Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi
phối nhiều điều trong cuộc sống con người. (Nguyễn Minh Châu)
67. Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn.
Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ
thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh
động…thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người…Nhân vật trong tác
phẩm của một thiên tài thật sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển
hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi
thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian. (LLVH)
68. Cái đen là cuộc sống. (Secnưsepxki)
69. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là
sự thực ở đời. (Vũ Trọng Phụng)
70. Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả. (M. Gorki)
71. Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc. (Trần Thái Tông) 7
2. Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi. (Nguyên Hồng)
73. Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có
giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ. (Sê – Khốp)
74. Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi viết. (Nêkratxtop)
75. Có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung. Khi đó tôi viết. (Lecmôntop)
76. Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ. (Tố Hữu)
77. Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên. (Ruskin)
78. Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất. (Sống mòn – Nam
Cao)
79. Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân
chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người
trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết
nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại. (Đặng Thai Mai)
80. Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con
người khát vọng hướng tới chân lí. (M. Gorki)
81. Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân. (Quan niệm của Nam Cao sau Cách
mạng tháng Tám)
82. Nhà văn phải: “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy mọi vang động của cuộc đời”.
83. Tất cả trong con người! Tất cả vì con người! Con người! Tiếng ấy thật kì diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh
và hùng tráng xiết bao! (M. Gorki)
84. Một tác phẩm trác việt là một tác phẩm làm bất hủ nỗi thống khổ của con người.
85. Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có
lổ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng
Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận.
86. Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà
còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo,không nên ăn bám vào người khác.Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ
hay...Cũng cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước.Có vốn mà
không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của.Dùng chữ như đánh cờ tướng,chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí
của nó.Văn phải linh hoạt.Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp (Nguyễn Tuân) 87. Cái quan trọng
trong tài năng văn học là tiếng nói của chính mình, là cái giọng riêng của chính mình mà không thể tìm thấy trong
cổ họng của bất kỳ một người nào khác. (Tuốc – ghê – nhép)
88. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới,
rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình. (Nguyễn Tuân)
89. Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. (Viên Mai)
90. Điều còn lại đối với mỗi nhà văn chính là giọng nói của riêng mình.
91. Không có tiếng nói riêng không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường
mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết. (Lêonit Lêonop)
92. Tình huống là lát cắt của thân cây mà qua đó ta thấy được trăm năm đời thảo mộc
93. Tình huống là sự kiện mà tại sự kiện đó tính cách của con người được bộc lộ.
94. Tình huống là một khoảnh khắc của dòng chảy đời sống mà qua khoảng khắc thấy được vĩnh viễn, qua giọt
nước thấy được đại dương.
95. Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đời sống, là kết quả của mối quan hệ đời sống nên nó éo le và nghịch
cảnh.
96. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và
bảo vệ những điều tốt đẹp. (Ai – ma – tốp)
97. Giá trị của 1 tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên
ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người
viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn (Nguyễn Khải). 98. Mỗi con
người đều mang trong mình nhiệm vụ của người nghệ sĩ.(M. Gorki)
99. Những kết luận khoa học như những thỏi vàng chỉ lưu hành trong một phạm vi nhỏ hẹp. Còn tri thức từ những
tác phẩm văn chương như những đồng tiền nhỏ dễ dàng lưu thông len lõi đến với người ta.
100. Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai
thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.(Bêlinxki)
101. Đối tượng mà anh muốn nói đến dù là cái gì cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó. (Môpat xăng - Pháp)
102. Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã ,nhưng bao giờ cũng dũng cảm cũng cố trong lòng người đọc
niềm tin ở tương lai.Tôi mong muốn những tác tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch
hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của
loài người (Sô – lô – khốp)
103. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và
nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một
nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh
mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ,
bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc
sống. (Nguyễn Minh Châu)
104. Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật. (Nguyễn Tuân)
105. Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội. (Phạm Văn Đồng)
106. Nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn học được. (Tsêkhôp)

Nhận định về thơ ca

1. Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim
ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi
trái tim những người cùng khổ. (Pauxtopxki)

2. Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt

3. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay. (Chế Lan Viên)

4. Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi.

5. Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang. (Chế Lan Viên)

6. Cuộc sống là cánh đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi.(Puskin)

7. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu.

8. Người giai nhân: bến đợi dưới cây già

9. Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt. (Xuân Diệu)

10. Thơ ca mang đến cho con người những điều kỳ diệu.

11. Thi ca là một tôn giáo không kì vọng

12. Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm. (Voltaire)

13. Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. (Sóng Hồng)

14. Thơ là thần hứng. (Platon)

15. Thơ là ngọn lửa thần. (Đecgiavin)


16. Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình.(C. Mac)

17. Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật. (Bêlinxki)

18. Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm
sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy. (Phạm Văn Đồng)

19. Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

20. Còn một nửa để mùa thu làm lấy

21. Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá

22. Nó không là anh nhưng nó là mùa. (Chế Lan Viên)

23. Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý
tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách
riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ. (Raxun
Gamzatop)

24. Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy. (Tố Hữu)

25. Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.(Maiacopxki)

26. Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi. (Lưu Trọng Lư)

27. Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể

28. Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bể sâu. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)

29. Hình thức cũng là vũ khí

30. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. (Nghĩ về thơ – Chế Lan Viên)

31. Đời thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa

32. Nhan sắc của viên ngọc ư! Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi. (Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)

33. Câu thơ phải luôn bất ổn và xôn xao

34. Không thể nằm yên mà ngủ được nào. (Chế Lan Viên)

35. “Ta là ai?” Như ngọn gió siêu hình

36. Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt

37. “Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bất

38. Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. (Chế Lan Viên)
39. Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự
cô độc của chính mình. (B. Shelly)

40. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu, cạn cho nên thơ mờ có tỏ, rộng hẹp khác
nhau. Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản
dị.(Nguyễn Cư Trinh)

41. Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm. (Leonardo DeVinci)

42. Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử. (Shelly)

43. Thơ là rượu của thế gian. (Huy Trực)

44. Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được. (Nhêcơraxop)

45. Trên đời có những thứ chỉ giải quyết được bằng thơ.(Maiacopxki)

46. Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng. (Bêlinxki)

47. Thơ là chuyện đồng điệu. (Tố Hữu)

48. Thơ là tiếng gọi đàn. (Xuân Diệu)

49. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

50. Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay.
(Raxun Gamzatôp)

51. Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà
cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm
hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại… (LLVH)

52. Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường
bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một
gam mật.(P. Povienko)

53. Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương.(Pauxtopxki)

54. Thơ là bà chúa của nghệ thuật. (Xuân Diệu)

55. Thơ là tiếng nói của tri âm. (Tố Hữu)

56. Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ. (Etga Pô)

57. Thơ ca phải say mới thích. (Tố Hữu)

58. Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một
sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ
kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế. (Hoài Thanh)

59. Thơ chính là tâm hồn. (M. Gorki)


60. Thơ là thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng)

61. Thơ là tiếng lòng. (Diệp Tiếp) 62. Thơ là thư kí chân thành của trái tim. (Duy bra lay)

63. Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi
sĩ vẫn còn là điều bí mật. (Trần Đăng Khoa)

64. Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. (Sóng Hồng)

65. Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn
thơ phải thật là gan ruột của mình.(Tố Hữu)

66. Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi dây đàn (Platông)

67. Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa. (Xuân Diệu)

68. Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái
tim của quần chúng nhân dân. (Sóng Hồng)

69. Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con
người. (Chu Văn Sơn)

70. Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ.

71. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được
do phong cách riêng của mình mà có. (Tô Hoài)

72. Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời. (Tố Hữu)

73. Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời,
là lương tri, là tiếng gọi con người hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân,
thiện, mỹ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống.

74. Thơ là tâm hồn, tình cảm. Nó diễn đạt rất thành công mọi cung bậc tình cảm đa dạng và phong
phú của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, tâm trạng chán chường, tuyệt vọng, nỗi trăn
trở, băn khoăn, sự hồi hợp, phấp phỏng, một nỗi buồn vu vơ. Một nỗi niềm bâng khuâng khó tả,
một sự run rẩy thoáng qua, một phút chốc ngẩn ngơ… Có những tâm trạng và cung bậc tình cảm
của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Chính vì thế thơ không chỉ nói hộ lòng mình, thơ còn
là sự an ủi, vỗ về, động viên khích lệ người ta đứng dậy đi tới.

75. Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ.
(Eptusencô)

76. Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên
trong. (R.Tagore)

77. Thơ phát khởi trong lòng người ta.(Lê Quý Đôn)

78. Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngô Thì Nhậm)
79. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải
đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái
khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi
hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ
nghĩa. (Xuân Diệu)

You might also like