Professional Documents
Culture Documents
Chuyên đề 1
ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC
VD: Chí Phèo bị cộng đồng làng Vũ Đại quy kết về hạng lưu manh. Hắn chỉ có
thể hiểu một cách duy nhất thông qua những dán nhãn: con quỷ dữ, sinh vật lạ,
cùng hơn dân cùng, không bằng thẳng không cha. Khi nhìn người thông qua dán
nhãn, ta dễ tỉnh lược nhân tính của người khác, vắt kiệt lòng trắc ẩn. Chí Phèo là
một chất liệu để ta tư duy về cơ chế tạo ra hình ảnh một con người trong ý thức
của chúng ta. Chí Phèo làm nảy sinh những luồng suy nghĩ, phản ánh nhiều lựa
chọn sống của những con người trong làng Vũ Đại.
* Cái nhìn về Chí Phèo của những con người làng Vũ Đại:
- Bá Kiến:
+ Không có những thằng lưu manh lấy đâu ra án để mà xử
+ Nhìn Chí Phèo là người để lợi dụng nhưng cũng đồng thời cô lập Chí Phèo
Một kẻ lưu manh có quyền thế
- Người dân làng Vũ Đại:
+ Lẽ sống của họ: Không biết…chỉ biết…
+ Tò mò, tọc mạch nhưng cũng bưng bít, thượng đội hạ đạp
- Tự Lãng: thực chất là bản sao của Chí Phèo, cũng đánh mất ý nghĩa đời sống
- Thị Nở: đã có một lựa chọn sống đặc thù. Thị dở hơi trong mắt cộng đồng khi
không đối xử với Chí Phèo như họ. Thị bị coi là đần độn, ngu dốt, họ muốn Thị im
lặng để loại trừ Chí ra khỏi cuộc đời. Thị Nở đã nhìn Chí Phèo như một kẻ khác.
Chỉ khi nhìn con người như một kẻ khác, ta mới nhận ra sợi dây kết nối giữa mình
với họ.
Kẻ khác không phải là kẻ đối nghịch ta về giá trị. Chúng ta tôn trọng, thấu cảm
kẻ khác, hiểu lựa chọn sống của kẻ khác là tất yếu. Với họ, văn học giúp ta hiểu kẻ
khác bằng cách đẩy nhân vật vào những nếm trải.
- Nếu như văn chương quan tâm đến kinh nghiệm cá nhân và thấu cảm, cũng như ý
nghĩa hiện thực. Vậy văn chương khác gì với những cuốn sách self – help?
+ Sách self – help cho ta kỹ năng, mẹo vặt, lối tắt, ẩn chứa nguy cơ biến chùng ta
thành con người cung cụ, dễ đánh lạc hướng nhận thức con người.
+ Văn học:
~ “Ông già và biển cả” (Hemingway) là tác phẩm viết về cuộc sống không tương
xứng giữa con người với thiên nhiên, giữa kỳ vọng với thành quả, giữa ý đồ nghệ
thuật với tác phẩm thành hình.
~ Văn chương bắt ta đối mặt với chênh vênh, ngơ ngác, lầm lạc, khổ đau của con
người.
Con người văn học là con người bướng bỉnh, liều lĩnh, khờ dại, là con người
bước qua những giới hạn để nếm trải đến cùng lựa chọn cuộc đời mình. Điều này
làm nên chất người không thể phủ nhận, nó cho ta thấy niềm kiêu hãnh của việc
làm người. Chúa tạo ra vạn vật, chỉ con người dám phản địa đàng để cãi lại định
mệnh.
- Văn chương làm cho ta va đập với những trải nghiệm làm người, khó đem đến
cảm giác bằng lòng, thỏa mãn, nuôi cho con người ta biết “đói khát” (đói khát ý
nghĩa của sự sống). Văn chương vừa lấp đầy, vừa nuôi dưỡng nỗi bất an. Văn
chương lớn không bao giờ xoa dịu, vỗ về, nó mở toang thế giới đang vận hành.
Văn chương không chắc làm ta can đảm hơn nhưng khiến ta bớt vô tâm, biết cảm
nghĩ hơn. Sống vô ưu, không suy nghĩ đôi khi không phải là sự lựa chọn đúng đắn.
II. Đặc trưng nội dung, tình cảm, xã hội thẩm mỹ của văn học:
+ VD1: Bức kí họa của ông họa sĩ trong “Lặng lẽ Sa Pa”: Vẽ được chân dung
anh thanh niên theo cách thức của tấm gương nhưng không thỏa mãn cái nhìn chủ
quan của người nghệ sĩ.
+ VD2: Tấm ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là cầu nối với hiện thực, được
nhìn ở nhiều điểm. Nó không chỉ cho ta thấy mà còn biết đặt câu hỏi:
Anh đang ở đâu? Anh nhìn đời sống này như thế nào? Tại sao những người đau
khổ như thế, anh chỉ thấy mà không thấu? Hay là họ vô hình trong mắt anh?
- Nội dung tác phẩm văn học luôn mang tính chủ thể, chứa đựng cái nhìn lớn hơn
những gì ta nghĩ.
Bài thơ “Lá diêu bông” một thời kỳ được cho là cái tôi trữ tình mang mặc cảm
Oedipus (Oedip). Nhưng cái nhìn văn học về lá diêu bông lớn hơn kinh nghiệm
trên. Con người luôn có những khắc khoải, tâm linh, có những nỗi buồn mơ hồ,
tiếp nhớ một quá vãng, một vẻ đẹp nào đó chỉ trong tưởng tượng. Đọc văn học là
đọc cái nhìn ấy, tìm hiểu nội dung văn học là đi tìm cái nhìn của nhà văn về thế
giới.
~ Cái nhìn khoa học luôn tiết chế cảm xúc, thuyết phục người đọc bằng tri thức
khách quan.
~ Cái nhìn văn học lưu trữ ký ức, thuyết phục người đọc bằng những ấn tượng chủ
quan về thế giới.
- Trong văn học, hiện thực được khúc xạ qua các góc nhìn rất chủ quan, do nhà
văn lựa chọn, chắt lọc và được tổ chức lại đời sống. Nhà văn cải tạo hiện thực
thành thế giới nghệ thuật, thế giới nghệ thuật chính là sự biến dạng đời sống trong
cái nhìn của nhà văn. Đừng bao giờ đòi hỏi đời sống trong văn học giống hệt đời
thực, dù cho tác phẩm văn học nào cũng có sự đổ bóng của thời đại.
- Cấu trúc của hiện thực luôn bị phá vỡ bởi cấu trúc của ngôn ngữ. Hiện thực, trải
qua cảm xúc và lý giả của tác giả nên nó luôn mang tính quan niệm.
+ VD: Cùng là một hiện thực tăm tối nhưng quan niệm của tác giả khác nhau dẫn
đến cấu trúc biểu đạt ngôn ngữ khác nhau.
~ Truyện ngắn “Nhà mẹ Lê” (Thạch Lam) được nhìn qua lăng kính lãng mạn
(sóng tràn bờ - con người được đặt trong thế giới dạt dào cảm xúc). Do đó, hiện
thực được đào sâu thông qua thế giới nội tâm của mẹ Lê (một người mẹ sắp chết,
lo sợ con mồ côi). Do đó, tác phẩm nhìn từ điểm nhìn nhân vật với cấu trúc ngôn
ngữ đậm đặc cảm xúc.
~ “Tắt đèn” được nhìn qua lăng kính hiện thực phê phán. Hiện thực được phân
tích thông qua những xung đột, mâu thuẫn. Vì vậy, cần một điểm nhìn bao quát
toàn cảnh.
Cùng một phạm vi đối tượng những mỗi nhà văn có một lăng kính khác nhau.
Ta thấy được gì ở hiện thực mà văn học nắm bắt? (đối thoại với quan niệm; văn
học phản ánh hiện thực, nội dung tác phẩm văn học là hiện thực đời sống)
+ Ngộ nhận: Văn học là tấm gương phản chiếu toàn bộ hiện thực. Do đó, có một
thời, người ta đánh giá cao tác phẩm có khả năng tiên tri, cho rằng hiện thực trong
văn học phải có tính khái quát.
VD: Trước năm 80, chị Dậu được đánh giá cao hơn Chí Phèo vì nhiều người dự
báo rằng, những người như chị Dậu sẽ hòa vào dòng người đi phá kho thóc Nhật
theo quy luật Cách mạng. Thực tế, không cần đến văn học, xã hội học hay báo chí
vẫn có thể phản ánh được thời đại.
“Phải định nghĩa về vai trò nhà văn, ngày nay anh ta không thể là kẻ phục vụ
những con người làm nên lịch sử mà anh ta phải phục vụ những con người tuân
thủ lịch sử. Nếu không, anh ta sẽ bị cô độc và bị tước mất nghệ thuật. Toàn bộ các
đạo quân triệu triệu người của nền chuyên chế cũng không dứt nổi anh ta khỏi nỗi
cô đơn, thậm chí ngay cả khi nhà văn thuận tình nhập vào theo bước chân những
đạo quân ấy. Trong khi đó, sự lặng câm của một tù nhân vô danh bị bỏ rơi trong
nhục mạ ở tít chân trời lại đủ kéo nhà văn ra khỏi chốn lưu đày, mỗi khi đang
sống giữa những đặc quyền tự do nhưng nếu như ít ra anh ta đủ sức không quên đi
sự lặng câm kia và bằng phương tiện nghệ thuật. Nhà văn tiếp sức cho kẻ tù nhân
nọ để cái lặng câm của anh ta thành ra tiếng vang xa.”
(Albert Camus)
Giải thích nhận định:
~ Con người làm nên lịch sử: những vĩ nhân, con người ở trung tâm quyền lực
~ Con người tuân thủ lịch sử: con người nhỏ bé, dưới đáy, chìm khuất, dư ra
~ Ngay cả khi nhà văn thuận tình nhập vào theo bước chân những đạo quân
ấy: Con người của nhà văn trùng khít với con người của nhân dân, anh ta xuôi
chiều viết những gì theo lịch sử.
VD: Tố Hữu, được coi là người viết Biên niên sử Đảng bằng thơ, bám sát vào các
sự kiện của lịch sử Đảng.
Như vậy, văn chương mạnh khi nó đứng về phía kẻ yếu. Văn chương lớn khi nó
cúi xuống những kiếp người nhỏ bé.
“Nhân đạo trước tiên là giúp con người hiểu rõ mình, trạng thái nhân thế mà
mình đang lâm vào, cũng tức là chỉ rõ cái tình cảnh biến dạng, cả mày mặt lẫn
tâm linh và sự khốn cùng đã để lại trên con người mình. Không thiên về vuốt ve an
ủi nhằm đánh vào tình thương nơi người đọc, chủ nghĩa nhân đạo ở đây tìm cách
hướng vào toàn bộ đời sống tinh thần của những người đọc ấy, thức tỉnh suy nghĩ,
để rồi mỗi người xác định lấy thái độ, tình cảm của mình. […]. Đến Nam Cao,
cuộc đời như được nhận chân, vạch vôi đánh dấu lại nó quá nghịch dị nên nó
không giống ai khác. Nhưng nếu sau khi đọc kỹ Nam Cao, một lúc nào đó người
đọc chợt nhận ra, cuộc đời xung quanh họ không bằng bằng nhạt nhạt như họ vẫn
thấy mà bỗng nhiên rất giống như cuộc đời trong văn Nam Cao.”
(Vương Chí Nhàn)
3. Sáng tạo:
- Làm mới, làm sâu thêm những vấn đề tưởng như đã cũ
- Được tưởng tượng, tạo ra những thế giới mới (Người câm biết nói, 2021)
- Nhu cầu đối thoại với các quan niệm khác
B. Chí Phèo:
I. Khái quát:
- Cái lò gạch cũ (1941)
+ Không gian ra đời của Chí Phèo
+ Mở đầu – Kết thúc thủ vĩ ngâm lò gạch
+ Vòng luẩn, bế tắc
- Đôi lứa xứng đôi: mỉa mai, giễu cợt Không phù hợp với ý đồ sáng tác của
Nam Cao
- Chí Phèo
+ Lấy nhân vật trung tâm làm nhan đề (Lão Hạc, Lang Rận, Dì Hảo, Ở Hiền,…)
+ Truyện ngắn mang tư duy tiểu thuyết
+ Chí: tên người, Phèo: phần bỏ đi
Ngoại vi hóa số phận con người
* Kết cấu văn bản:
Quá trình lưu manh hóa Quá trình thức tỉnh
Con người Sinh vật lạ (đánh mất lương thiện) Tỉnh rượu Tỉnh ngộ (thèm
lương thiện) Không thể lương thiện
Quá trình lặp lại mở rộng hiện tượng Chí Phèo
- Tiếng chửi là một động thái ăn vạ, gây sự. Bởi hắn muốn tìm một ai đó chịu trách
nhiệm cho hắn đổ lỗi và để lý giải cuộc đời này của hắn.
- Chí Phèo là một kẻ trần trụi, một thân phận đơn độc bị gạt ra bên lề. Hắn ngật
ngưỡng ở giữa làng nhưng khồn ai chấp nhận hắn là người làng, không ai coi hắn
là con người.
- Tâm lý của người dân làng Vũ Đại – những người nghe chửi mà vờ như không
nghe thấy.
+ Không chấp một thằng say, tự AQ, tự cho mình quyền đứng ngoài để phán xét.
+ Vì họ quen thuộc, không xa lạ tiếng chửi của cụ Bá, những thằng lưu manh.
+ Vì co cụm hiếu kỳ, muốn xem điều gì xảy ra tiếp theo.
+ Vì bất lực và vì họ hoàn toàn hiểu hoàn cảnh của Chí Phèo, hiểu hắn cần cái gì
đó để chửi.
Sự im lặng cho thấy họ cam chịu, chẳng biết làm gì nên đành không làm gì
khi chứng kiến con đường lưu manh hóa của Chí Phèo. Hoặc cũng vì tâm lý
thờ ơ giữ mình, họ đáng thương mà cũng đáng chửi vì bị xúc phạm như thế
cũng chẳng làm gì.
- Đối thoại trở thành độc thoại tức tưởi, không gian chắc chắn phải có ai lên tiếng
nhưng không ai lên tiếng cả. Thế thì rốt cuộc Chí Phèo là ai? Hắn đã không là ai
cả, nỗi đau của hắn không được để ý, không ai thương xót, không ai nhận ra rằng,
hắn đang hát một tiếng hát đầy méo mó, tiếng hát cầu xin được làm người. Bài
chửi ấy Nam Cao đã thể hiện sự va đập nhiều giai điệu đa thanh, lúc thì ông trần
thuật dưới góc độ của Chí Phèo, lúc thì đứng từ phía dân làng Vũ Đại, lúc thì như
nhà quan sát độc lập, tò mò, tinh quái, sắc sảo. Âm thanh chung đúc nên một giai
điệu, vừa hài hước, vừa lạnh lùng, đau đớn, xót xa. Việc tráo vai liên tục ấy khiến
ta giật mình vì Nam Cao bắt chúng ta đặt mình vào hoàn cảnh của Chí, không
đứng ngoài cuộc, phải đối diện với định kiến của chính mình khi ta ứng xử với
những người dưới đáy cùng xã hội. Chí Phèo vừa đáng cười, vừa đáng thương
trong chính bộ dạng thê thảm, mạt hạng. Thực chất, tiếng chửi là tiếng nói của
những kẻ lạc loài, là tiếng nói của một kẻ bị vật hóa.