You are on page 1of 40

Chữ Quốc Ngữ trong giai đoạn cận đại

Từ 1861 đến 1945: Chữ Quốc ngữ đã khai sáng một Thời đại văn hóa Việt Nam
mới chịu ảnh hưởng tinh thần văn hóa Pháp
Cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân để biến Việt Nam thành một xứ thuộc địa
trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp đã đưa bộ chữ Việt Latin hóa trở thành
chữ Quốc ngữ mới, tạo nên nền văn hóa mới ở Việt Nam.
2.2.1. Chữ Quốc ngữ và nền giáo dục mới ở Nam Kì
Tháng 9 năm 1861, chỉ nửa năm sau khi quân Pháp đánh bại quân nhà Nguyễn và
chiếm được Sài Gòn, Đô đốc Charner đã kí nghị định mở Trường Bá Đa Lộc
(Collège d’Adran) dạy chữ Việt Latin hóa cùng tiếng Pháp cho học sinh người
Việt để đào tạo thông ngôn và thư kí làm việc trong các cơ quan hành chính [4].
Với việc mở trường học này, chữ Việt Latin hóa lần đầu tiên đã vượt khỏi
phạm vi giáo hội để thâm nhập vào đời sống xã hội người Việt, trước hết là ở
Sài Gòn.
Sau các Hòa ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), Nam Kì lục tỉnh chính
thức bị cắt nhường cho Pháp để trở thành thuộc địa của nước này. Chính quyền
thực dân hiểu rõ bộ chữ Việt Latin hóa là một công cụ hữu hiệu để cai trị dân
bản xứ, nên đã nhanh chóng đưa loại chữ này lên thay chữ Nho. Kì thi Hương
cuối cùng ở Nam Kì năm 1864 đã kết thúc sự tồn tại của hệ thống Nho học
dùng chữ Hán ở đây. Năm 1865, tờ báo đầu tiên dùng chữ Việt Latin hóa
mang tên “Gia Định Báo” được xuất bản nhằm phổ biến rộng rãi loại chữ mới
này trong cộng đồng người Việt. Tiếp đó, Thống đốc Nam Kì ra nghị định bắt
buộc các cơ sở hành chính phải dùng chữ Việt Latin hóa (năm 1869), nghị định
buộc công chức phải biết chữ Việt Latin hóa mới được tuyển dụng và thăng thưởng
(năm 1878); và đến năm 1879, Thống đốc Le Myre de Vilers ra lệnh thiết lập
nền học chính mới ở Nam Kì. [4] Một nền giáo dục mới kết hợp hai yếu tố
Pháp - Việt đã từng bước hình thành, bao gồm các trường tiểu học và trung
học sử dụng song song 3 ngôn ngữ là chữ Pháp (ghi tiếng Pháp), chữ Việt
Latin hóa (dưới đây sẽ gọi là chữ Quốc ngữ - dùng ghi tiếng Việt) và chữ Hán
(dùng ghi tiếng Việt) [4]. Trong sự phát triển của chữ Quốc ngữ ở Nam Kì, nhà
bác học danh tiếng Pétrus Trương Vĩnh Ký có vai trò rất quan trọng. Là nhân
vật chủ chốt của tờ “Gia Định Báo” và là tác giả của tác phẩm văn học đầu tiên
viết bằng chữ Quốc ngữ với tựa đề “Chuyện đời xưa” (năm 1866), ông đã viết trên
một trăm tác phẩm văn chương và công trình khảo cứu. Tiếp đó, học giả Paulus
Hùynh Tịnh Của đã đóng góp 17 tác phẩm văn chương và khảo cứu bằng chữ
Quốc ngữ, trong đó nổi bật là cuốn “Chuyện giải buồn” (1880), bộ“Đại Nam
quấc âm tự vị”- bộ sách Tự vị đầu tiên giải nghĩa tiếng Việt theo trình tự 24 chữ
cái Latin (1895-1896) và cuốn “Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn” (1897). Từ năm
1874 việc dạy chữ Hán trong nhà trường bị hạn chế ở mức tối thiểu; và từ
1882, mọi công văn giấy tờ hành chính ở Nam Kì phải viết bằng chữ Latin
(Pháp văn hoặc Quốc ngữ).
2.2.2. Nền giáo dục mới trên toàn quốc
Thất bại của nhà Nguyễn trong cuộc kháng chiến chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
đã dẫn đến kết quả bi thảm: Hòa ước Giáp Thân (1884) chấp nhận nước Pháp cai
trị trên toàn cõi Việt Nam. Từ đây, nền giáo dục và văn hóa mang yếu tố Pháp -
Việt từ Nam Kì bắt đầu phát triển ở cả Trung Kì và Bắc Kì [4]. Năm 1886, hệ
thống nhà trường Pháp - Việt bắt đầu hình thành ở Bắc Kì với 3 cấp học là ấu
học, tiểu học và trung học đều giảng dạy chữ Việt Latin hóa, tiếng Pháp và
chữ Nho. Năm 1896, Trường Quốc học Pháp - Việt đầu tiên ở Huế được thành
lập. Năm 1904, chương trình giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kì được công bố.
Trong khi đó, giới sĩ phu yêu nước Việt Nam có sự chuyển biến quan trọng về
nhận thức. Thất bại của phong trào Cần Vương theo hệ tư tưởng Nho giáo cuối
thế kỉ XIX, những biến chuyển to lớn về kinh tế - xã hội do chương trình khai
thác thuộc địa của nước Pháp đem lại, cùng với các “tân thư” thuộc hệ tư
tưởng Khai sáng của Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu),
Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), Khang Hữu Vi và Lương Khải
Siêu… đã giúp các sĩ phu Nho học nước ta nhận rõ tính ưu việt của nền văn
minh mới xuất phát từ các nước Âu-Mĩ được chính nước Pháp du nhập vào.
Do vậy, mọi phong trào yêu nước của các sĩ phu đều diễn ra theo con đường mới:
Duy tân xóa bỏ di sản phong kiến Nho giáo hủ lậu, phát huy các giá trị văn
minh mới để dân tộc trở nên cường thịnh theo khẩu hiệu “Khai dân trí - Chấn
dân khí - Hậu dân sinh” của Phan Châu Trinh. Theo đó, chữ Việt Latin hóa
trước kia bị bài xích như là sản phẩm của bọn xâm lăng dị giáo, thì nay được tôn
vinh là chữ Quốc ngữ và trở thành một công cụ cứu nước để thay cho chữ
Hán và Nho học đã lỗi thời. Các trường học mới được mở để dạy chữ Quốc ngữ
và các môn khoa học thực nghiệp ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục
Thanh năm 1907) và nổi bật là Đông kinh Nghĩa thục tại Hà Nội (1907) của Lương
Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc… Bài thơ sau đây (tương truyền là của
Trần Quý Cáp) trở thành tuyên ngôn của giới sĩ phu tiến bộ đương thời: Chữ Quốc
ngữ là hồn trong nước /Phải đem ra tính trước dân ta /Sách các nước, sách Chi
Na /Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường… Phong trào Duy Tân và Đông Kinh
Nghĩa thục đã “cảnh tỉnh nhân dân và thúc đẩy nhà cầm quyền phải sửa đổi chính
sách theo Tân học mà bỏ khoa cử” [10, tr.156]. Năm 1915, kì thi Hương cuối
cùng ở Bắc Kì kết thúc và đã chấm dứt luôn nền giáo dục Nho giáo từng tồn
tại hàng nghìn năm làm khuôn vàng thước ngọc của dân tộc ta. Với việc thành
lập Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội (khai giảng năm 1907 nhưng chính thức
hoạt động từ 1917), hệ thống giáo dục Pháp - Việt được hoàn chỉnh trên toàn
quốc đã đưa văn hóa Việt tiến theo nền văn minh Khai sáng. Những người đặt
nền móng cho nền giáo dục mới dùng chữ Quốc ngữ có kế thừa tinh hoa cổ
học Nho giáo là Trần Trọng Kim với hàng chục tác phẩm lớn mà nổi bật là
“Luân lí giáo khoa thư” (1916), “Việt Nam sử lược” (1919), “Quốc văn giáo khoa
thư” (1940), “Việt Nam văn phạm” (1941); Phan Kế Bính với các công trình biên
khảo “Việt Nam phong tục” (1915), “Hán-Việt văn khảo”(1918); Bùi Kỉ với
“Quốc văn cụ thể” (1932) và đồng tác giả “Việt Nam văn phạm bậc Trung học”
(1940), “Tiểu học Việt Nam văn phạm” (1945); Đào Duy Anh với “Hán-Việt từ
điển” (1932), “Pháp-Việt từ điển” (1936), “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938),
“Trung Hoa sử cương” (1942)…
2.2.3. Một thời đại Khai sáng văn hóa Việt Nam
Khai thác và khai hóa là mục tiêu hai mặt của chế độ thuộc địa Pháp tại Việt Nam:
khai hóa văn minh để khai thác kinh tế. Thủ tướng Pháp Jules Ferry tuyên bố:
“Nhiệm vụ của các dân tộc ưu việt là giúp đỡ các dân tộc nhược tiểu thoát khỏi
tình trạng lạc hậu” [dẫn theo 12]. Dù cho nhiệm vụ khai hóa đó được nhìn nhận
như thế nào, hệ thống giáo dục Pháp - Việt cũng đã dẫn tới sự khai sáng một
nền văn hóa Việt Nam mới theo hệ tư tưởng Nhân quyền (Human right) dựa
trên chữ Quốc ngữ. Hoạt động báo chí đã phát triển rất mạnh từ Nam ra Bắc,
tiếp cận được với “quyền lực thứ tư” trong nhà nước dân chủ theo nguyên tắc
“Tam quyền phân lập” ở các nước văn minh. Tại Nam Kì, tiếp theo tờ “Gia Định
Báo” lần lượt ra đời tờ “Phan Yên Báo”(1868) của Diệp Văn Cương, “Nhựt Trình
Nam Kì” (1883), nguyệt san “Thông loại Khóa trình” (1888) của Trương Vĩnh Ký,
tuần san “Nam Kì” (1897), tuần báo “Nông Cổ Mín Đàm” (1901), “Lục Tỉnh Tân
Văn” (1907) của Trần Chánh Chiếu, “Công Luận Báo” (1916) do Lê Sum chủ bút,
“Nam Trung Nhựt Báo” (1917) của Nguyễn Văn Của, “Nam Kì Địa Phận” (1908),
“An Hà Báo” (1917), “Nữ Giới Chung” (1918) do bà Sương Nguyệt Anh chủ trì,
“Đại Việt Tạp Chí” (1918). Từ thập kỉ 20-30 nổi lên các tờ “Đông Pháp Thời Báo”
(1923) do Trần Huy Liệu chủ bút, “Tân Thế Kỉ” (1926) của Cao Văn Chánh,
“Đuốc Nhà Nam” (1928) của Dương Văn Giáo, “Phụ Nữ Tân Văn” (1929) của
Nguyễn Đức Nhuận, “Thần Chung” (1929) của Diệp Văn Kì, “Sống” (1935) của
Trí Đức Văn Đoàn do Đông Hồ làm giám đốc… Xuất hiện cả những tờ báo tiếng
Pháp do người Việt chủ trì: “La Cloche Fêlée” (Quả chuông rè) của Nguyễn An
Ninh, “La tribune Indigène”(Diễn đàn Bản xứ) và “La Tribune Indochinoise”
(Diễn đàn Đông Dương) của Bùi Quang Chiêu, “L’Écho Annamite” của Nguyễn
Phan Long, “Le Progrès Annamite” của Lê Quang Trình, “L’Ère Nouvelle” do Cao
Triều Phát bảo trợ…
Tại Bắc Kì, tờ báo đầu tiên xuất hiện là “Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo” (1892)
vẫn dùng chữ Nho; nhưng từ tờ “Đại Việt Tân Báo” (1905) của Alfred Ernest
Babut trở đi, báo chí đều dùng chữ Quốc ngữ (có hoặc không có phụ thêm phần
chữ Nho): “Đăng Cổ Tùng Báo” (1907) và “Trung Bắc Tân Văn” (1919) của
Nguyễn Văn Vĩnh, “Nam Phong Tạp Chí” (1917) của Phạm Quỳnh, “Khai hóa
Nhật Báo” (1921) của Bạch Thái Bưởi, “An Nam Tạp Chí” (1926) của Tản Đà,
“Hà Thành Ngọ Báo” (1927) và “Đông Tây” (1929) do Hoàng Tích Chu chủ trì.
Từ thập kỉ 30 nổi lên hàng loạt báo chí mới: “Thời Báo” của Phùng Văn Long,
“Phong Hóa” và “Ngày Nay” của nhóm Tự lực Văn đoàn và hàng loạt báo chí
khác. Tại Trung Kì, nơi Nho học vẫn tồn tại cho đến kì thi Hương và thi Hội cuối
cùng (năm 1918-1919), báo chí Quốc ngữ phát triển chậm hơn, trong đó “Tiếng
Dân” của Huỳnh Thúc Kháng là tờ báo độc lập đầu tiên xuất bản vào năm
1927 và có ảnh hưởng sâu rộng mãi đến năm 1943, tiếp đó là các tờ “Sông
Hương”(1935), “Tràng An” (1936)… Cùng với báo chí, một nền văn học mới
dùng chữ Quốc ngữ và chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân văn Pháp đã phát
triển vô cùng mạnh mẽ với những thể loại văn chương mới hết sức phong phú.
Tại Nam Kì, tiếp theo Trương Vĩnh Ký và Hùinh Tịnh Paulus Của là Hồ Biểu
Chánh với hàng trăm tác phẩm thuộc nhiều thể loại; nhóm “Hà Tiên Tứ Tuyệt”
nổi tiếng về thơ, phóng sự và khảo cứu với các thi sĩ Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư
Khê và Trúc Hà… Tại Bắc Kì, Tản Đà là văn nhân nối liền từ cổ văn Nho học
sang văn chương Quốc ngữ mới; Phạm Duy Tốn là nhà văn xã hội tiên phong
của nền văn học mới; Hoàng Ngọc Phách mở đầu cho loại hình tiểu thuyết
mới và Phan Khôi khởi đầu thơ mới. Tự Lực Văn Đoàn (1932-1942) đưa văn
thơ Quốc ngữ lên một tầm cao mới với 7 thành viên là các nhà văn: Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ cùng hai thi sĩ là Tú Mỡ
và Xuân Diệu. Song song đó là các nhà văn nổi tiếng: Lê Văn Trương, Ngô Tất
Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng,
Nam Cao, Tô Hoài, Hồ Dzếnh, Nguyễn Huy Tưởng… Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chương và Đinh Hùng là những thi sĩ danh tiếng; Vũ Ngọc Phan có một số bút kí
hay nhưng sở trường là về phê bình văn nghệ…
Tại Trung Kì, Lưu Trọng Lư nổi bật về thơ mới; Hoài Thanh trở thành chuyên
gia phê bình văn học; Hải Triều - nhà lý luận phê bình theo chủ nghĩa Marx xuất
hiện cùng với nhiều tiểu luận đặc sắc; nhóm “Bàn thành Tứ hữu” danh tiếng gồm
4 thi nhân là Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn và Hàn Mặc Tử. Còn nhiều tác
giả với những tác phẩm khác mà ở đây chưa thể thống kê hết. Nền văn học Việt
Nam mới đã đạt được những giá trị rất cao, có thể sánh với những danh tác
quốc tế cận đại. Peter Zinoman - một nhà nghiên cứu Hoa Kì đã so sánh các đại
văn hào thế giới với một nhà văn Việt Nam thời ấy như sau: “Tôi có cảm tưởng
rằng Vũ Trọng Phụng là nhà văn lớn, rất lớn, không kém nhà văn lớn nào của
các nền văn học khác” [11, tr.14]. “Ông viết giỏi và mất sớm quá, ở được gì, mà
[ông đã] để lại một sự nghiệp khổng lồ. Ngay cả các nhà văn lớn như V. Hugo
hay Zola, bằng tuổi Vũ Trọng Phụng cũng chưa viết nhiều và hay được như
ông” [1]. “Vũ Trọng Phụng chỉ sống đến 27 tuổi; ở tuổi ấy, nhà văn Pháp
Balzac (…) còn hầu như chưa viết được gì đáng kể” [11, tr.17]. “Ở thế kỉ XX,
trong số các nhà văn lớn của thế giới, Vũ Trọng Phụng là người đáng kể” [1].
Từ văn học mới, một nền nghệ thuật mới cũng phát triển mạnh và đạt được những
giá trị rất cao. Kịch nói - loại hình nghệ thuật đặc trưng của phương Tây đã phát
triển mạnh ở Việt Nam với nhiều kịch bản hay bằng chữ Quốc ngữ. Tân nhạc với
hàng loạt nhạc phẩm trữ tình và hùng tráng theo nhạc lí phương Tây nhưng thấm
đẫm hồn dân tộc, gắn với tên tuổi các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương,
Dương Thiệu Tước, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Tô Vũ, Văn Cao, Phạm Duy,
Hoàng Giác, Nguyễn Thiện Tơ, Hoàng Trọng, Nguyễn Văn Thương, Lưu Hữu
Phước... Trường Mĩ Thuật thuộc Đại học Đông Dương đã nâng nền hội họa Việt
Nam lên ngang tầm mĩ thuật hiện đại thế giới với các họa sĩ tài danh, như: Nguyễn
Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn,
Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Phan Kế
An…
Hệ thống giáo dục Pháp - Việt với Viện Đại học Đông Dương và các Đại học
Pháp đã đào tạo cho dân tộc Việt Nam các nhà khoa học hàng đầu tầm cỡ quốc tế
như Lê Văn Thiêm, Hồ Đắc Di, Hoàng Xuân Hãn, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Mạnh
Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa,
Đặng Thai Mai, Phạm Huy Thông… Hơn thế nữa, ngoài ý muốn của chính quyền
thực dân, chính nền giáo dục Pháp - Việt và nền văn hóa mới theo hệ tư tưởng
Khai sáng do người Pháp mang đến cũng làm nảy sinh và phát triển những trào
lưu cách mạng mới, kể cả khuynh hướng Marxist chống chủ nghĩa thực dân Pháp
để giành độc lập - tự do cho dân tộc Việt Nam. Khẩu hiệu, truyền đơn và báo chí
cách mạng bằng chữ Quốc ngữ (khởi đầu với tờ “Thanh Niên” của Nguyễn Ái
Quốc xuất bản năm 1925) trở thành phương tiện tuyên truyền hữu hiệu của đảng
cách mạng. – Các giai đoạn phát triển của chữ Quốc Ngữ Việt Nam và những
vấn đề của Tiếng Việt hiện đại. Lê Vinh Quốc (2016). tr.164-168
*Chú ý đến Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20
Trương Vĩnh Kí với sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Sau khi quân Pháp
chiếm được Sài Gòn (1861), Đô đốc Charner quyết định mở trường học Bá Đa Lộc
dạy chữ Quốc ngữ nhằm đào tạo đội ngũ tay sai phục vụ cho các cơ quan hành
chính. Thông qua sự kiện này, chữ Quốc ngữ đã có một bước tiến quan trọng hơn
khi đã thâm nhập được vào đời sống nhân dân người Việt, đầu tiên là ở thành phố
Sài Gòn.
Cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân để biến Việt Nam thành một xứ thuộc địa
trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp đã đưa bộ chữ Latin hóa tiếng Việt trở
thành chữ Quốc ngữ mới, tạo nên một sắc màu mới cho nền văn hóa Việt Nam.
Nhờ vậy một nền giáo dục mới có sự kết hợp yếu tố Phương Đông (Chữ Hán)-
Phương Tây(Chữ Pháp và Chữ Latin) đã được hình thành ở các trường Tiểu học và
Trung Học ở các tỉnh Nam Bộ trong đó có Sài Gòn. Một trong những nhân vật có
công phát triển chữ Quốc ngữ ở Nam Kì đó chính là nhà Bác học Trương Vĩnh Kí.
Ông là người có công phiên dịch một số sách kinh điển về nền giáo dục Nho học từ
nguyên bản Hán nôm ra chữ Quốc ngữ, tiêu biểu nhờ một số cuốn sách: Tam tự
kinh quốc ngữ diễn ca, Tam thiên tự giải âm, Trung dung,…qua đó một mặt có thể
thí nghiệm khả năng truyền tải của chữ Quốc ngữ, mặt khác có thể bảo tồn giá trị
văn hóa truyền thống lâu đời của người Việt. Mặc dù thực dân Pháp đã sử dụng
chữ Quốc ngữ đào tạo nhân lực làm công cụ cai trị xứ Nam kì, nhưng do tình yêu
quê hương đất nước, tình cảm với nếp cũ, lệ xưa vẫn ăn sâu vào phong tục tập
quán, cách suy nghĩ của ông. Tuy nhiên, các tác phẩm của Trương Vĩnh Kí chưa
nêu lên được tinh thần phản kháng chủ nghĩa thực dân, chưa nói lên được ý chí
giành được độc lập chủ quyền cho dân tộc. Nhưng vì ông chỉ là một tri thức tân
thời, phát triển nhờ trí thông minh, phục vụ cho nền văn học nước nhà cho nên
Trương Vĩnh Kí vẫn chƣa đủ tầm vóc sánh ngang với các văn thân sĩ phu thức thời
hay các đại thi hào của dân tộc. Tuy vậy, với tất cả các công trình thành quả mà
ông tạo dựng được cũng đã góp phần phát triển nền văn học phương Tây ở Việt
Nam và tạo được buổi bình minh sơ khai cho báo chí nước nhà. Trương Vĩnh Kí
đã biết sử dụng thế mạnh của văn học dân gian để biên soạn các câu truyện truyền
khẩu viết bằng chữ Quốc Ngữ và biên soạn thành sách, đặc biệt là các cuốn: Phép
lịch sự An Nam (1881), Nữ tắc (1882), Thơ dạy là dâu (1882),…Đặc biệt một số
tác phẩm thơ Nôm như: Kim Vân Kiều (1875), Lục Vân Tiên truyện đã được ông
biên dịch sang chữ Quốc ngữ. tuy nhiên mọi công trình nghiên cứu của Trương
Vĩnh Ký đều do chỉ thị của nhà cầm quyền lúc bấy giờ.
NGUYỄN VĂN VĨNH (1882 - 1936)
Ông Nguyễn Văn Vinh có thể coi là vị chủ soái của phong trào phổ biến và sử
dụng chữ quốc ngữ ở miền Bắc, mà có thể nói là cuộc cách mạng chữ viết hồi đầu
thế kỷ đạt tới tầm cả nước.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh có lợi thế hơn những người khác là nắm trong tay nhà in,
nhà xuất bản và báo chí (trước là tờ Đăng cổ tùng báo, sau là tờ Đông Dương tạp
chí, rồi tờ Trung Bắc tân văn, ngoài ra còn mấy tờ báo tiếng Pháp) đã cùng với một
số nhà trí thức tân học và cựu học thời bấy giờ (như các ông Phan Kế Bính,
Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền... ) dấy lên phong trào viết báo in sách bằng chữ quốc ngữ,
mở trường dạy chữ quốc ngữ (như Đông Kinh nghĩa thục và Hội Trí Tri là những
trường tư thục dạy chữ quốc ngữ đầu tiên không lấy tiền) rồi lan dần ra đến các
trường công cũng đòi phải dạy chữ quốc ngữ, sau cùng tiến tới xóa bỏ được chữ
Hán và chữ Nôm trong sinh hoạt và thi cử.
*Một cuộc cách mạng phải bao gồm ba nội dung sau: lật đổ cái cũ bất hợp lý, lạc
hậu; xây dựng cái mới tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn; phải nhièu người cùng làm, nghĩa
là thành một phong trào.
Sự thay đổi từ thái độ chủ chiến sang chủ hòa của triều Nguyễn trong việc
kháng Pháp tk XIX
*Lấy các bản hiệp ước làm mốc phân định: Hiệp ước Nhâm Tuất (1862); Hiệp ước
Giáp Tuất (1874); Hiệp ước Quý Mùi (1883); Hiệp ước Giáp Thân (1884). Trong
đó, mốc 1862 là quan trọng nhất.
Trước hiệp ước Nhâm Tuất, thái độ của triều đình đều thống nhất là “chiến”, bởi sự
đánh giá thiếu thực tế và khách quan của Tự Đức và quan lại về tương quan lực
lượng giữa Đại Nam và Đại Pháp. Đồng thời, những chiến thắng ban đầu của quân
dân Đại Nam ở Đà Nẵng đã củng cố niềm tin vào một thắng lợi của triều đình nhà
Nguyễn…
Bên cạnh đó, việc hòa bình và ổn định lâu dài đã làm mất đi sức cạnh tranh, điều
này đã khiến cho thực lực của Đại Nam dậm chân tại chỗ, thậm chí đã dần lạc hậu
so với thế giới. Việc bế quan tỏa cảng, hay nói cách khác là sự tự cô lập để tránh
những ảnh hưởng của dòng chảy lịch sử, đã khiến nhận thức về thế giới bên ngoài
của Việt Nam vô cùng thiếu sót và đầy tính chủ quan
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, giai đoạn
trị vì của triều đại này gắn liền với nhiều biến động của thời cuộc. Trong khoảng
thời gian giành quyền trị vì toàn cõi, các vua triều Nguyễn luôn đối mặt với nhiều
khó khăn thách thức từ bên ngoài đặc biệt dưới thời Tự Đức chứng kiến sự xâm
lăng từ tây phương.
Giai đoạn 1858-1884
Thái độ chủ chiến 1858 -1862
Kể từ khi liên quân TBN - Pháp nổ súng ở bán đảo Sơn Trà ( Đà Nẵng) triều đình
thể hiện thái độ kháng chiến mạnh mẽ khi đã thành công ngăn chặn kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh buộc phải chuyển sang lâu dài. Tuy nhiên thông qua trận chiến
này có thể thấy được nhà Nguyễn vẫn chưa lường được sức mạnh của người Phú
Lang Sa khi đây chỉ là số ít lực lượng của địch khi giao tranh với Annam. Vấn đề
lúc này đặt ra cần có bản hòa ước để thuận tiện giao thiệp với hai bên khi yêu cầu
từ người Pháp là đặt quan hệ ngoại giao, buôn bán và truyền đạo (khác với khoản
đòi đất khi trước) nhưng triều thần Tự Đức đã đánh giá chưa kĩ càng cho rằng “Họ
yếu mới sợ ta mà cầu hòa, phải đuổi họ ra bờ cõi cho sạch”. Có thể nói thái độ
chủ chiến, kiên quyết quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi là hết sức ghi nhận nhưng
từ đây đưa lịch sử nước nhà theo ngã rẽ mới.
Việc đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chương kí kết hòa ước Bắc Kinh năm 1860
đã tạo điều kiện cho người Tây dương vào Đại Nam cùng với đó kế hoạch ở Đà
Nẵng không thành đã buộc người Pháp phải thay đổi phương án tấn công cụ thể là
Gia Định ( bao tử của cả nước). Chiến sự ở vùng đất này dù đã được chuẩn bị kĩ
lưỡng nhưng chính do chênh lệch về sức mạnh quân sự đã dẫn tới thất bại khi đại
đồn Chí Hòa thất thủ, tiếp đó cả 3 tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa lần lượt bị
mất về phía giặc. Thất bại ngay từ khi trận chiến chưa bắt đầu bởi ngay cả lòng dân
căm giận cả bọn Phú Lang sa lẩn triều đình hay chủ quan nhìn nhận như Nguyễn
Tri Phương; “Chuyển ý về binh tài! Đấy là cốt lõi của ta không phải khắc phục
trong ngày một ngày hai”. Cũng chính từ thất bại này cho thấy nhà Nguyễn đang
thất thế trong đường lối ngoại giao với người Pháp
Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 đại diện triều Nguyễn là Phan Thanh Giản và Lâm Duy
Hiệp đã không diễn ra như kì vọng của Tự Đức tạo ra sự phẫn nộ trong lòng dân
chúng Theo hiệp ước này, triều đình Huế phải cắt nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền
Đông Nam Kỳ và đảo Côn Lôn,bồi thường chiến phí, kêu gọi nhân dân buông bỏ
vũ khí - được xem là đàn áp các phong trào khởi nghĩa dân chúng.
Sau đó, triều đình Huế đã xúc tiến việc thương thuyết để chuộc lại các tỉnh đã mất
nhưng bất thành, trong khi người Pháp đẩy mạnh chiếm đóng lãnh thổ vào năm
1867 khi 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên lần lượt bị mất.Có thể thấy sự thất
bại của triều đình Huế ở mặt trận Gia Định đã đưa đến những hậu quả hết sức tai
hại cho công cuộc bảo vệ đất nước những năm sau đó.
Giai đoạn 1862-1874
Pháp tấn công Bắc kì và Hiệp ước Giáp Tuất
Tháng 11/1873 quân Pháp tấn công ra Bắc kì lần 1, quân nhà Nguyễn dưới sự chỉ
huy của Nguyễn Tri Phương dù thất bại và để Pháp mở rộng bình định sang các
tỉnh lân cận của Hà Nội ( do một số quan tỉnh đã đầu hàng) nhưng gặp phải sự
kháng cự quyết liệt của dân quân và một trong số đó có đội quân cờ đen của Lưu
Vĩnh Phúc đã giết chết Garnier khiến quân Pháp ở Bắc Kỳ hết sức hoang mang.
Chúng dự định giết chết phái đoàn thương thuyết của triều đình Huế do Trần Đình
Túc dẫn đầu rồi rút khỏi Bắc Kỳ. Đáng tiếc chính quyền Tự Đức đã bỏ lỡ cơ hội
phản kích mà chỉ chú trọng thương thuyết dẫn đến Hiệp ước Giáp Tuất vào 1874
Ở Bắc Kỳ, sau khi triều đình kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất 1874, phong trào
phản kháng của giới văn thân đã bùng lên quyết liệt, thậm chí thành các cuộc bạo
động chống lại chính triều đình. Thực dân Pháp đã lợi dụng chính hòa nghị này để
lấn lướt tiến gần tới việc thôn tính hoàn toàn Annam.
Pháp tấn công Bắc kì lần 2 và sự đầu hàng của nhà Nguyễn.
Sau khi Pháp mở rộng xâm chiếm Bắc Kỳ lần 2(đầu năm 1883), tuy có gặp khó
khăn, lúng túng, nhưng nhìn chung, công cuộc kháng chiến của triều đình được đẩy
mạnh. Vua Tự Đức cũng tỏ thái độ kiên quyết chống xâm lược dù nhà vua có ý
thương thuyết, song mặt khác vẫn chú ý phòng bị. Nhân Tự Đức băng hà Pháp lấy
cớ tấn công cửa biển Thuận An ra sức ép cho nhà Nguyễn buộc phải đình chiến
bằng hiệp ước Harmand - Patonot đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình,
chính thức trở thành thuộc địa của người Pháp.
Kết bài
Vua Tự Đức và quần thần ý thức rất rõ trong việc bảo vệ độc lập thể hiện rõ qua
các hoạt động kháng chiến quyết liệt. Bên cạnh hoạt động kháng chiến, triều đình
Huế cũng nhiều lần xúc tiến việc thương thuyết, nghị hòa với Pháp. Có thể thấy,
cùng với chủ trương “chiến”, chủ trương “nghị hòa” cũng ngày càng chi phối vua
Tự Đức và triều đình. Phải nói rằng, những quyết sách sai lầm của triều đình Huế
một phần cũng bắt đầu từ sự mâu thuẫn lúc hòa lúc chiến . Trong cuộc đối đầu với
thực dân Pháp, triều đình Huế đã không thực thi chủ trương “chiến” một cách triệt
để. Dù “nghị hòa” có thể chỉ là kế “quyền nghi tạm thời”, xuất phát từ tình hình
chiến sự bất lợi cho phía ta và cả từ sự bất ổn trong nước (như tình hình loạn lạc
nghiêm trọng ở Bắc Kỳ), song khi vận dụng kế sách nghị hòa này, triều đình Huế
cũng không thành công.
Nhìn ra các nước phương Đông lân cận vẫn ở trong chế độ phong kiến đầy rẫy
khủng hoảng không bắt kịp xu hướng phát triển, canh tân trong khi phương tây bắt
đầu hành trình thực dân hóa mà Việt Nam nằm trong con đường đó. Thực tế nhìn
nhận nhà Nguyễn giai đoạn 1858-1884 lại đối mặt với quá nhiều khó khăn, lạc hậu:
từ kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội không đủ làm nền tảng vững chắc để chống đỡ
sức mạnh của đội quân tây phương hùng mạnh, trong khi các đề nghị canh tân chỉ
số ít được thực hiện. Tuy nhiên, không thể vì hạn chế trên của triều định mà phủ
định những nỗ lực của trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược dù nghị hòa
nhưng triều đình Tự Đức không hề từ bỏ chủ trương chủ chiến sớm thống nhất…

Giới thiệu và giải thích các khái niệm xuất hiện trong giai đoạn LSVNCĐ:
Tân Vận Hội, giải phóng dân tộc, việt nam thức tỉnh
Tân vận hội:

Dậy! Dậy! Dậy!


Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Xuân ơi xuân, xuân có biết hay chăng?
Buồn cùng sông, thẹn cùng núi, tủi cùng trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót.
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khoả lũ đầu xanh.
Thưa các cô các cậu lại các anh!
Trời đã mới người càng nên đổi mới.
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,
Ghé vai vào gánh vác cựu giang san?
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan.
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành liên hiệp lại.
Ai hữu trí từ nay xin gắng gỏi!
Xếp nghiên bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần.
Đừng ham chơi! Đừng ham mặc! Ham ăn!
Dựng gan óc để đánh tan sắt lửa,
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ!
Mới thế này là mới hỡi chư quân,
Chữ rằng: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân”!
(Theo báo Tân Thế kỷ, số ra ngày 3-2-1927)
Tân vận hội có nghĩa gốc là thời vận mới, chỉ sự vận động của một thời đại mới
Trong bối cảnh sử dụng của Phan Bội Châu, “tân vận hội” có thể hiểu một sự vận
động mới của thời đại bấy giờ đã xuất hiện và bắt đầu. Ấy là sự vận động của xu
hướng giải phóng dân tộc theo trào lưu xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách
mạng vô sản, một xu hướng đang dần thay thế xu hướng dân chủ tư sản đã suy tàn
và đóng vai chủ đạo trong những phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc trong
nước, vào đầu Tk XX
"Tân vận hội" nhấn mạnh ý tưởng về sự đổi mới, tiến bộ, và phát triển xã hội.
Thuật ngữ này thể hiện sự chuyển đổi từ một xã hội truyền thống và địa chủ sang
một xã hội hiện đại, công bằng và dân chủ. Nó liên quan chặt chẽ đến sự thức
tỉnh dân tộc và những phong trào cách mạng trong thời kỳ đó. "Tân vận hội"
không chỉ ám chỉ sự thay đổi trong lĩnh vực chính trị, mà còn bao gồm cả mặt kinh
tế, xã hội, văn hóa và giáo dục. Nó tạo đào tạo cho việc ra đời của nhiều tạp chí,
báo chí, và các tác phẩm văn học mang tính tiến bộ, phản ánh sự phát triển xã hội
và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thay đổi và cải cách trong nền văn minh Việt
Nam.
Những tác giả và nhà văn như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc
(Hồ Chí Minh) đã sử dụng thuật ngữ "tân vận hội" trong các tác phẩm và diễn
thuyết của họ để khích lệ sự thức tỉnh và phát triển xã hội của Việt Nam trong giai
đoạn đó.
Giải phóng dân tộc:
Theo nghĩa là một tư tưởng trong chủ nghĩa Marxist, bắt nguồn từ học thuyết
Lenin: Giải phóng dân tộc là một chủ đề trong chủ nghĩa Mác, và đặc biệt là sau
các ảnh hưởng của Vladimir Lenin trong việc vận động chống chủ nghĩa đế quốc
và giành quyền tự quyết của các dân tộc, điều này đã trở thành phổ biến trong
phong trào cộng sản, đặc biệt là trong việc ủng hộ giải thoát khỏi chế độ thực dân ở
thế giới thứ ba. Giải phóng dân tộc đã được thúc đẩy bởi những người mácxít trở
thành quan điểm xã hội chủ nghĩa quốc tế nhiều hơn hơn là giải phóng dân tộc theo
quan điểm của phong trào dân tộc tư sản (?)
Theo nghĩa là cuộc đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc
của các nước thuộc địa trong thời kỳ bị các nước tư bản xâm chiếm vào thế kỷ XX
(?).
Xuất hiện trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) của Nguyễn Ái
Quốc, chương XII: Nô lệ thức tỉnh, mục V: Hỡi anh em vô sản và nông dân các
thuộc địa!
“Cuộc chém giết đẫm máu thế giới…. Khẩu hiệu đấu tranh giải phóng dân tộc của
giai cấp tư sản trẻ tuổi ở thuộc địa đề ra, được quần chúng lao động ở Ấn Độ, Ai
Cập, Thổ Nhĩ Kì,… hoan nghênh nhiệt liệt và ủng hộ mạnh mẽ.”
“Quốc tế Cộng sản đấu tranh không ngừng chống bọn cá mập tư sản ở tất cả các
nước trên thế giới. Có thể nào giả vờ quay lưng lại với phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được không?”
Hoặc trong bài viết “Phong trào cách mạng ở Đông Dương” được in trong tập san
Inprekorr, tiếng Pháp, số 91, ngày 14-8-1926: “… Trước cuộc mít tinh, người ta đã
rải truyền đơn, cuối tờ truyền đơn có câu: “Nếu Chính phủ không chịu trả lại cho
chúng tôi những quyền tự do cần thiết nói trên (quyền tự do báo chí,v.v.) thì chúng
tôi không còn chút tin tưởng nào ở thiện ý chủa Chính phủ và chúng tôi nguyện
cùng nhau tận tâm tận lực hoạt động để giải phóng dân tộc An Nam”.
“ Cũng vì đã viết những tiếng giải phóng dân tộc An Nam và…”
Việt Nam thức tỉnh:
“Việt Nam thức tỉnh” được sử dụng trong thế kỷ 20 để chỉ sự thức tỉnh của nhân
dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và chủ quyền.
Cụm từ “Việt Nam thức tỉnh” được Nguyễn Ái Quốc sử dụng để kêu gọi nhân dân
Việt Nam tỉnh táo và tự giác trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Ngoài ra, cụm từ này cũng được sử dụng để chỉ sự thức tỉnh của nhân dân Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thế kỷ XX.
Thuật ngữ "Việt Nam thức tỉnh" xuất hiện trong cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
tại Việt Nam, trong bối cảnh nước ta đối mặt với sự xâm lược và ách đô hộ của các
thế lực ngoại xâm.
"Việt Nam thức tỉnh" ám chỉ sự tỉnh thức và nhận thức của người dân Việt Nam về
tình hình đất nước, nhất là sau khi các thế lực ngoại xâm như Pháp và Nhật Bản
xâm chiếm và thực hiện các biện pháp áp bức, chiếm đóng, và đánh đồn cường
quốc lên dân tộc Việt Nam. Thuật ngữ này thể hiện lòng yêu nước, ý chí đấu tranh
và khao khát giành lại độc lập, tự do cho Việt Nam.
Trong giai đoạn này, nhiều nhà văn, nhà báo, và nhà nho ở Việt Nam đã tuyên
truyền và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thức tỉnh, khai phá tri thức, và sự
phát triển kinh tế, xã hội để đối phó với ách đô hộ ngoại xâm. Đây là thời kỳ mở
đầu cho các phong trào cách mạng, dân chủ, và đấu tranh giành độc lập của người
dân Việt Nam trong thời kỳ tới.
Thuật ngữ "Việt Nam thức tỉnh" không xuất hiện trong một tác phẩm hay tài liệu
cụ thể nào. Đây là một thuật ngữ tổng quát được sử dụng để miêu tả tình hình và
tâm trạng của người dân Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX khi đối mặt với
sự xâm lược và ách đô hộ của các thế lực ngoại xâm.

Tuy nhiên, khá nhiều tác phẩm văn học, báo chí và tư tưởng của thời kỳ đó đã phản
ánh tâm trạng và ý chí thức tỉnh của người dân Việt Nam. Điển hình là Nguyễn Ái
Quốc, Nguyễn An Ninh,..
“Cao vọng của bọn thanh niên An Nam” – Nguyễn An Ninh – bài diễn thuyết
ngày 15 tháng 10 năm 1923
Chọn, phân tích một sự kiện quan trọng trong giai đoạn CĐVN trên cơ sở có
sử dụng các sử liệu khác nhau: Phong trào yêu nước mang khuynh hướng dân
chủ tư sản-Đông du “Việt Nam thức tỉnh”
Trong “Việt Nam thời Pháp đô hộ”:
Trong khoảng một phần ba thế kỷ sau năm 1900, phong-trào quốc-gia Việt-Nam có
nhiều hình-trạng hơn. Với sự chiến-thắng của Nhật-bản sau chiến tranh Nga Nhật
năm 1905, ý-thức quốc-gia của người Việt và phong trào quốc-gia Việt-Nam được
phối-hợp với một phong trào rộng lớn hơn, phong-trào Liên-Á. Đông-Kinh, thủ đô
của cường-quốc Á-Châu đầu tiên đã thắng được người da trắng, trở thành hy-vọng
và biểu-tượng của các nhà cách mạng: năm 1905, Kỳ-Ngoại-Hầu Cường-Để tới
Đông-Kinh với Phan-Bội-Châu và trong lâu năm, có một xu-hướng chờ đợi ở
sự giúp-đỡ của Nhật-Bản và đặt mọi tin-tưởng vào chủ-nghĩa Liên-Á. Do đó,
phong-trào Đông-Du phát triển, muốn làm cho nước mạnh dân giàu theo kiểu
Nhật-Bản, vì, với Phan - Bội - Châu, sự giải-phóng quốc gia phải đi đôi với sự
canh-tân, chứ không phải với sự sùng-bái một quá-khứ lỗi thời nữa.
Hoạt động của Phan-Bội-Châu và những đồng chí của cụ nhắm vào sự khôi-phục
một chế-độ quân-chủ độc lập với sự trợ-giúp của những nước bạn, như Trung
hoa và Nhật-bản. Muốn tổ-chức trong vòng bí-mật cuộc cách-mạng sẽ lật đổ
chính-quyền thuộc-địa, phong-trào hoạt động dưới hinh-thức những hội kín. Giữa
năm 1900 và 1905, sau khi đỗ thủ-khoa trường Nghệ; Phan-Bội-Châu cố gắng lối
cuốn các nhà nho miền Trung hưởng-ứng sự chống-đối nền bảo hộ của Pháp. Các
nhà chí-sĩ này đồng ý lựa chọn Kỳ Ngoại-Hầu Cường-Để, hậu-duệ vua Gia-Long,
làm lãnh tụ của phong-trào quốc-gia, để sau này lên ngôi vua trong một nước Việt-
Nam độc-lập và canh-tân. Đồng thời, Phan-Bội-Châu cũng soạn cuốn Lưu cầu
huyết lệ tân thư (1903) để tả cái nhục mất nước, và để cảnh tỉnh nhóm quan lại
Nam-triều. Cuối năm 1904, Phan-Bội-Châu gặp Tăng Bạt Hồ vừa mới ở Nhật-Bản
trở về; cuộc gặp gỡ này mở đầu một giai-đoạn mới trong đời sống cách mạng của
Phan-Bội Châu.
Năm 1905, Phan-Bội-Châu quyết-định cùng với các đồng-chí của cụ đưa Kỳ-
Ngoại hầu Cường-Để qua Đông-Kinh, để tổ-chức tại đó bản-dinh của phong-trào
quốc-gia; cụ bắt đầu kêu gọi đưa thanh niên Việt-Nam xuất-ngoại qua Đông-Kinh
(Phong-trào Đông-du), để tại đây họ được huấn luyện về mặt quân-sự và chính trị.
ngõ hầu sau này có thể giữ vai-trò lãnh-đạo trong việc chống Pháp và việc cổ động
dân-tâm, nâng cao dân trí. Để góp phần vào công việc vận động này, cụ Phan Bội –
Châu soạn nhiều quyển sách được bí-mật đưa về Việt-Nam phát-hành: Khuyến
Thanh-niên du-học, Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Tân-Việt Nam kỷ
niệm lục, Ai cáo Nam kỳ phụ lão, Việt-Nam sử khảo, v v... Năm 1906, Phan-Bội-
Châu thành-lập tổ-chức chính trị đầu tiên của cụ: Việt-Nam Duy-tân hội; cụ cố
gắng phối-hợp qua trung-gian của hội các hoạt động của các đồng-chí trên lãnh thổ
Việt-Nam. Chương-trình của hội gồm có 3 điều chính: vì giải-phóng quốc gia Việt-
Nam, phục-hưng một chính thể quân chủ thoát ách đỏ-hộ của người Pháp, công-
bố một biến-pháp theo gương Nhật Bản. Như vậy, thời-gian ở Nhật đã khiến Phan-
Bội-Châu từ bỏ lập trường cần vương lúc ban đầu của cụ để chủ trương quân-chủ
lập-hiến, rập theo kiểu Nhật bản. Ở trong nước, Duy-tân hội lập ra nhiều cơ-quan
đề tổ-chức và dẫn đạo du học-sinh sang Nhật. Sự tuyên truyền của Hội cũng gây
nên những cuộc phiến-động khắp ba kỳ.
Ở Bắc-kỳ, hãng buôn Đồng-lợi-tế tại Hà-nội vừa hiến phương-tiện để gửi học-sinh
du-học Nhật-Bản, vừa cổ-động tinh-thần phát-triển kinh-doanh. Sự kêu gọi phiến
loạn chính trị của Duy-tân hội được hưởng ứng bởi nhiều thành-phần xã hội khác
nhau: các nhà nho, các thầy phong-thủy, các thông-ngôn và viên chức của các cơ
quan hành-chánh hay các hội buôn, các hạ sĩ quan của các đội lính khố xanh, khổ
đỏ. Nhiều nhóm bí-mật tổ-chức cuộc tranh đấu và liên-lạc chặt chẽ với Hoàng-
Hoa-Thám để thực-hiện các âm mưu chống Pháp. Năm 1908, nhân danh Phan-Bội-
Châu, ông Đồ Đàm và một thầy cúng mưu toan với Đề-Thám đầu độc quân lính
Pháp ở Hà-Nội; âm mưu này bị phát giác vì không được chuẩn-bị kỹ-lưỡng.
Những người liên-hệ bị đàn áp nặng nề, và năm 1909 quân Pháp được phái tới
vùng Yên-Thế để phá chiến lũy của Đề Thám; năm 1913, Hoàng-Hoa-Thảm bị hạ
sát.
Ở Nam-kỳ, sự tuyên-truyền chống Pháp có một tính cách đặc-biệt, dưới sự khiến
của Trần-Chánh-Chiếu, tức Gilbert Chiếu, còn được gọi là Phủ Chiếu nữa: xứ Nam
kỳ là một xứ giàu, nên chủ-trương của Duy-tân hội ở đây là tìm phương-tiện tài-
chính cho hội và kêu gọi dư-luận tôn phò Cường-Để, qua trung-gian của các hội
kín như Thiên-Địa-Hội. Nhân-hòa-đường, Lương-hữu hội, Đồng bào Ái-chưởng,
v.v.... Tại Saigon-Chợ Lớn, Gilbert Chiếu lập Minh-Tân Công nghệ xã và Nam-
Trung khách-sạn; một Khách-sạn khác cũng được mở ở Mỹ-Tho. Công-nghệ-xã và
các khách sạn này cho phép Gilbert Chiếu kinh tài cho Duy-tân hội, và cũng cho
phép các đồng-chí đi lại và tụ họp mà không bị nghi ngờ. Nhờ hoạt động của
Gilbert Chiếu mà các sách cách-mạng của Phan Bội Châu được truyền vào Nam,
và một số đông thanh niên được đưa qua Nhật. Năm 1908, trong số 200 du học-
Sinh thì có 100 học sinh ở Nam kỳ. Tờ Lục tỉnh Tân văn do Gilbert Chiếu làm chủ
bút cũng hô hào dân-chủng chống Pháp bằng những bài “Hợp quần giữa các đồng
bang”, “Thượng bất chính hạ tắc loạn”, “Khuyến nông”, vv... Hoạt động của
Gilbert Chiếu khiến chính quyền thuộc địa e ngại; tổ-chức của ông bị phá hủy khi
ông bị bắt cùng 92 đồng chí, song, vì những người bị bắt đa số có Pháp-tịch, họ
đều đã được tha bổng, tại vì pháp-luật Pháp đã không tìm lý-do để kết-án họ.
Nhưng sau năm 1907, chính-phủ Nhật không còn ủng hộ các nhà chính-khách
Việt-Nam lưu-vong trên đất Phù-tang nữa. Vì gặp nhiều khó-khăn tài-chính sau
chiến tranh Nga-Nhật, chính-phủ Nhật phải nhìn nhận tất cả các thuộc-địa của
Pháp ở Á-châu với hiệp-ước ngày 10-7 1907, để đổi lấy một ngâm khoản là 300
triệu franc mà Pháp cho Nhật vay. Không bao lâu sau, chính-phủ Nhật tỏ ý không
muốn dung nạp các du học-sinh Việt Nam nữa; một số phải bỏ qua Trung-hoa, một
số khác tới Xiêm-la. Năm 1910, để lấy lòng chính-phủ Pháp, chính phủ Nhật trục-
xuất Cường-Để và Phan-Bội-Châu: Kỳ Ngoại-Hầu đi Hương-cảng, còn cụ Sào-
Nam thì tới Xiêm trú-ngụ. Nhưng khi cuộc cách-mạng Tân-Hợi bùng nổ ở
Trung-Hoa, cả Cường-Để và Phan-Bội-Châu đều tới Quảng-Châu. Phan Bội
Châu cải-tổ phong-trào của ông, vì Duy-Tân Hội không những đã mất sự ủng-
hộ của Nhật Bản, mà cũng mất cả một số đồng-chí không còn tán thành các
mục-tiêu bảo-thủ của hội nữa. Dưới ảnh-hưởng của Tôn-Dật-Tiên và của
Trung-Hoa Quốc Dân Đảng, Phan-Bội-Châu quyết định từ bỏ quan niệm
quân chủ cải cách cũ của cụ. Tổ chức mới mà cụ thiết-lập năm 1912: Việt-Nam
Quang-Phục Hội, công-bố rằng sẽ lập một cộng-hòa dân-chủ sau khi thắng
người Pháp. Phan-Bội Châu cũng thành-lập một chính-phủ lưu-vong, với
Cường Để là Tổng Đại-Biểu; bộ bình nghị của Việt-Nam Quang Phục Hội gồm
có những người tiêu biểu cho cả ba kỳ: Bắc-kỳ có Nguyễn-Thượng-Hiền,
Trung-kỳ có Phan-Bội Châu, Nam-kỳ có Nguyễn-Thành-Hiến.
Tuy phong-trào của Phan-Bội-Châu có một mục-tiêu mới, nó thiếu một chương-
trình thích đáng. Phan-Bội-Châu là một nhà cách-mạng hoạt-động, nhưng cụ
không phải là một lý-thuyết-gia chính-trị, và cụ không nghĩ đến việc dự thảo
những cải cách chính-trị cụ-thể và những biện pháp kinh-tế, vừa để làm
chương-trình hoạt động một khi đạt được độc-lập, vừa lôi cuốn khối quần
chúng hưởng ứng sự tranh đấu quốc-gia. Trái lại, Cường-Để và Phan-Bội Châu
vẫn chờ đợi ở sự giúp đỡ của ngoại quốc để thực hiện sự giải-phóng Việt-Nam:
giúp đỡ của Trung-hoa, và giúp đỡ của nước Đức nữa (khi đệ-nhất thế-chiến
bùng nổ, Cường-Để đi Bá-Linh để xin viện-trợ, còn Phan-Bội Châu gặp vị lãnh
sự Đức ở Vọng-Các và được giúp một số tiền 10.000$).
Tuy nhiên, Phan-Bội-Châu được người Pháp coi như là nhà cách-mạng đáng sợ
nhất. Cho đến khi đệ nhất thế chiến chấm dứt, không một hành động kháng chiến
nào xảy ra mà không có sự nhúng tay của các ủy-viên mà Việt Nam Quang-phục
hội phái về vận động trong nước hay thực-hiện những kế hoạch bạo động:
- Năm 1913, nhiều cuộc bạo-động xảy ra trên khắp lãnh-thổ Việt-Nam; Việt-
Nam Quang-Phục Hội gửi về nước nhiều trái bom mua ở Thượng-hải. Đặc-
biệt ở Nam-kỳ, các hội kín nhận mệnh-lệnh của hội để gây xáo trộn ; ngày
21 tháng 3, tám quả bom nổ ở Saigon và Chợ-lớn ; ngày 28 tháng 3, 600
nông dân mặc áo trắng và mang bùa biểu tình ở Saigon với hy-vọng Phan-
Xích-Long, một thầy phù-thủy tự xưng là con vua Hàm-Nghi, sẽ từ trên trời
xuống để hướng-dẫn họ đánh đuổi quân Pháp. Ở Bắc-kỳ, quan tuần-phủ
Thái-Bình bị ám-sát ngày 12 tháng 4 với một quả tạc đạn; ngày 26 tháng tư,
một quả bom khác được liệng vào nhà hàng Hanoi-Hotel. Song, tất cả những
vụ khủng bố nói trên không nằm trong một phong-trào nổi loạn tổng quát, và
chính-phủ thuộc địa đã có thể cho thi hành những sự trừng phạt một cách dễ-
dãi: ở Nam Kỳ Phan-Xích-Long bị bắt giam; ở Bắc kỳ, có 254 người bị bắt,
7 người bị xử tử trong khi Cưỡng Để và Phan-Bội Châu bị kết án khiếm-
diện.
- Năm 1914-1915, nhiều cuộc nổi loạn của dân miền núi xảy ra trong vùng
Yên-thế và Phú-Thọ, và các đồn biên-giới vùng Lao Kay bị tấn-công. Những
cuộc nổi loạn này, mặc dầu chưa phối-hợp lực-lượng được với nhau, hầu hết
đều có dính líu với Việt-Nam Quang-Phục Hội. Riêng về việc tấn-công
những đồn biên-giới như đồn Tả-lùng, nó nằm trong kế-hoạch quân sự và
chính trị của hội.
- Vào tháng giêng hai năm 1916, các tù nhân chính trị bị giam ở Biên-hòa nổi
loạn, chiếm khí-giới, tràn ra các vùng lân-cận và được tiếp-ứng bởi những
đoàn nông dân vũ-trang và tổ-chức bởi các hội kín. Ngày 15-2-1910, khoảng
300 người tấn-công nhà Khám lớn ở Saigon để giải-phóng Phan-Xích-Long,
đã bị kết án khổ sai chung thân từ năm 1913. Đồng thời, nhiều cuộc bạo-
động cũng xảy ra tại Vĩnh-Long, Sa Đéc, Gia-Định, Mỹ-Tho, Chợ-Lớn, Bà-
Rịa, Tây-Ninh, Cần-Thơ, Trà-Vinh, Châu-Đốc, Long-Xuyên, Thủ-dầu-một;
các cuộc bạo-động này đều có những đặc điểm y hệt nhau, chúng đều được
tổ chức bởi những hội kín và chúng có mục đích tiếp tay phong trào nổi dậy
ở Sài Gòn. Cho đến khi ấy, chính quyền còn coi thường hoạt động của các
hội kín, tưởng rằng ảnh hưởng của các hội này không sâu rộng lắm; phong
trào rộng lớn năm 1916 khiến chính quyền thuộc địa phải áp dụng những
biện pháp trừng phạt rất nặng nề.
- Việt-Nam Quang-Phục Hội cũng có nhiều ảnh hưởng đối với vua Duy-Tân,
đã nối ngôi vua Thành Thái năm 1907. Vốn có tinh thần nhiệt-thành yêu
nước, nhà vua lại căm tức hành–động ngang tàng của khâm-sử Mahé đã đào
lăng-làm vua Tự-Đức để tìm vàng. Vào tháng năm năm 1916, được biết
Trần-Cao-Van khởi-nghĩa ở Quảng Nam, nhà vua mưu toan trốn khỏi Huế
đề cầm đầu phong trào; nhưng, cơ mưu bại lộ, vua Duy-Tân bị bắt, và bị
Pháp đày sang đảo Réunion. Chính-phủ bảo hộ đặt con vua Đồng-Khánh là
Khải-Định lên ngôi.
- Tháng 8 năm 1917, Lương Ngọc Quyến, một trong những người đầu tiên
qua Nhật Bản và đã được Phan Bội Châu phái về nước hoạt động nhưng bị
Pháp bắt ở Thái Nguyên, mưu với viên đội khố xanh Trịnh Văn Cấn phá
ngục và chiếm đồn Thái Nguyên. Các đội lính tập nổi loạn đã có thể chiếm
nhà tù, thả tù nhân, cướp phá kho súng và kho bạc, trước khi rút ra khỏi tỉnh
lỵ trước các đội quân được phái từ Hà Nội tới để dẹp loạn. Cuộc khởi nghĩa
của Đội Cấn lúc đầu được nông dân ủng hội, vì họ thù ghét viên công sứ
Darles đã cai trị tỉnh Thái Nguyên một cách tàn bạo. Nhưng Đội Cấn cũng
chỉ cầm cự được đến cuối năm mà thôi.
- Tháng hai năm 1918, tù-nhân ở Côn-lôn, được tuyên-truyền rằng quân đội
Đức thắng thế ở Âu-châu bởi những nhân-vật chính-trị bị lưu đày ra tù-lao
này, nổi loạn. Viên quản ngục ra lệnh nổ súng; kết quả, có 83 tù-nhân bị bắn
chết.
- Sau đệ-nhất thế-chiến, ảnh-hưởng của Việt Nam Quang-Phục Hội giảm đi
nhiều, nhất là cách-mạng cộng-sản ở Nga gây nên một sự chuyển hướng của
các lực lượng cách-mạng Việt-Nam ; phải đợi đến năm 1925, khi Phạm
Hồng-Thái mưa-sát toàn-quyền Merlin nhân một bữa tiệc ở Quảng Châu,
phong-trào của Phan-Bội-Châu mới lại được đề ý đến nhiều. Tuy nhiên, làm
quan-trọng lịch-sử của Việt-Nam Quang-Phục Hội không phải là do
những kết-quả trực-tiếp mà hội gặt được, mà là do sự giúp đỡ của hội đối
với những nhóm hoạt động khác, kể cả nhóm cộng-sản. Nhờ sự bí-mật
giúp đỡ phương tiện của hội, nhiều sinh-viên Việt-Nam đã có thể qua Trung-
hoa du-học và, kể từ năm 1920 trở đi, được huấn-luyện quân sự tại trường
võ-bị Hoàng Phố gần Quảng Châu, hoặc được gửi đi xa hơn nữa, tới Paris
hay Mạc-tư-khoa. Hội cũng gửi về nước nhiều truyền-đơn, và chính nhờ
những truyền-đơn này mà nhiều nhà cách-mạng tương-lai đã học hỏi những
tư-tưởng chính-trị đầu tiên của họ.
Năm 1925, Phan-Bội-Châu bị bắt ở Thượng-Hải bởi mật-thám Pháp và được đưa
về Hà-Nội; Hội-đồng Đề-Hình Pháp kết án cụ khổ sai chung thân. Nhưng trước áp
lực của dư luận, toàn quyền Varenne ân-xá cho cụ, và đem cụ về giam lỏng tại
Bến-Ngự (Huế). Cuộc đời chính-trị của Phan-Bội-Châu chấm dứt tại đây, mặc dầu
cụ còn sống thêm 15 năm nữa: cụ tượng-trưng cho một giai-đoạn của phong-trào
quốc-gia đã thuộc về quá khứ.
Sự thất-bại của Phan-Bội-Châu cũng là sự thất bại của một phong-trào cách-
mạng chỉ căn cứ trên các nguyện vọng chính trị của giới thượng-lưu trí-thức.
Việt-Nam Quang-Phục Hội không phải là một đảng-phái chính-trị thực thụ, mà là
một liên-minh mưu bạn, tin tưởng ở hiệu-năng chính trị của hoạt động khủng bố
bởi một tổ chức bí-mật. Hội đòi hỏi các hội-viên phải có kỷ-luật và phải bảo mật;
các hội viên phải trả những món tiền nhập hội khá cao, và điều này loại bỏ khối
quần chúng nghèo. Các quan niệm tổ chức này, cùng với các tư tưởng Tây phương
của Phan Bội Châu khiến phong trào của cụ trở nên xa lạ với khối quần chúng, và
chỉ giới hạn trong giới học thức và có khả năng tài chính. Các tác phẩm của Phan
Bội Châu cũng chỉ nhằm tới giới trí thức và chỉ đề cập tới các những ước vọng
chính trị của tầng lớp thượng lưu; sự thật, cụ đã không phân tích xã hội Việt Nam,
cụ đã không đặt vấn đề về những mâu thuẫn quyền lợi giữa giới trí thức và khối
bình dân mù chữ; cụ đã không phát biểu những đòi hỏi cụ thể về cải cách xã hội
và đã không vạch ra một chương trình có thể khiến khối quần chúng hiểu rằng độc
lập quốc gia mới có thể cải thiện đời sống của họ. Tóm lại, chủ trương của Phan
Bội Châu có thể tóm lược trong một điểm độc nhất: đuổi người Pháp ra khỏi Việt
Nam.
Trong cuốn “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp” của Trần Huy Liệu:
Theo Trần Huy Liệu, sở dĩ có cái gọi là Đông Du, tức phong trào sang Nhật Bản
cầu học, chủ yếu do bấy giờ ảnh hưởng mạnh mẽ của “cuộc quật cường của giai
cấp phong kiến tư bản hóa nước Nhật” đã dội mạnh vào các dân tộc nhỏ yếu ở
châu Á, trong đó có Việt Nam. Một bộ phận tiến bộ nhất trong giai cấp phong kiến
Việt Nam và cũng là bộ phận chịu ảnh hưởng nhiều nhất trào lưu tư tưởng tư sản
bấy giờ phấn khởi thấy một dân tộc da vàng đã đánh ngã đế quốc da trắng. Vậy
nên, họ gửi gắm toàn bộ hy vọng vào nước “đồng văn”, “đồng chủng” ấy có thể
giúp Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ, từ đó xu hướng thân Nhật trong những trào
lưu yêu nước bấy giớ phát triển mạnh, từ giai cấp phong kiến, giới sĩ phu, đến dân
chúng.
Sau khi nước Nhật tư bản đã trở thành chỗ lý tưởng của các sĩ phu yêu nước Việt
Nam, thì một xu hướng nổi lên là muốn sang Nhật cầu học. Vì Nhật Bản ở phía
Đông nên các phong trào sang Nhật du học mới được gọi là Đông Du
Tiêu biểu trong các phong trào Đông Du là Phong trào Đông du của Phan Bội
Châu cùng với các đồng chí của ông. Tuy nhiên, theo Trần Huy Liệu tuy “Phan Bội
Châu chủ trương cầu ngoại viện bằng việc phái người đi du học, nhưng cái đám mà
Phan định dựa vào lại là bọn quan lại có thế lực hồi đó thì ngoài một số làm tay sai
cho giặc không kể, những người còn lại hầu hết thuộc loại cẩu an”. Còn về quyển
tân thư đầu tiên của Phan Bội Châu – “Lưu Cầu huyết lệ tân thư”, Trần Huy Liệu
cho rằng đối tượng chính của tác phẩm ấy là quan lại đương thời, nên kết quả thu
lại chỉ là một số đồng tình tiêu cực. “Vì, thực ra, cho đến bấy giờ, giai cấp phong
kiến Việt Nam, không kể những kẻ hàng địch từ đầu, ngay đến một bộ phận chủ
trương kháng địch thì cũng tiêu mòn hầu hết. Còn đâu là khí phách “bình Tây sát
tả” ngày xưa! Nên Phan muốn cời đống tro tàn để nhóm lại lửa cần vương của
giai cấp mình cũng không được nữa.”
5-1904, Duy tân hội được thành lập, gồm sĩ phu ái quốc như Phan Bội Châu, Đặng
Thái Thân, Nguyễn Thành, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ,…. Do hậu duệ Gia Long
là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm hội chủ. Mục đích chính của Duy tân hội vẫn là
dùng bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, tuy nhiên lần này không nổ ra khởi
nghĩa ở một đại bàn nào đó, mà chủ yếu là vận động trong nước và cử người ra
nước ngoài để học tập, từ đó trù tính kế hoạch trù tính. Có thể nói, hoạt động lần
này của Duy tân hội đã mang tính tập đoàn, có cả chương trình hoạt động, song lại
không hề có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh.
Đầu năm 1905, Đông du khởi đầu bằng việc sang Nhật của Phan Bội Châu và Tăng
Bạt Hổ. Kế đó, một số chí sĩ khác cũng lần lượt ra nước ngoài, trong đó có hoàng
tộc như Cường Để, cũng có quan lại bỏ mũ quan mà ra đi như Nguyễn Thượng
Hiền, điều này đã làm dư luận càng sôi nổi. Đối với Phan Bội Châu, chuyến đi này
chủ yếu vẫn là cầu viện ở nước ngoài để bạo động trong nước. Song, khi qua Nhật
cùng với sự tiếp xúc với những nhà cách mạng Trung Quốc như Lương Khải Siêu,
Tôn Văn; cùng một số yếu nhân trong chính giới Nhật như Khuyến Dưỡng Nghị,
Đại Ôi, Phúc Đảo,…, thì sau cùng Phan Bội Châu chỉ làm được hai việc là giới
thiệu nước Việt Nam vong quốc với nước ngoài, gửi tài liệu tuyên truyền về nước
và đưa học sinh sang du học. Cũng tại Nhật, Phan Bội Châu đã sáng tác các tác
phẩm cổ động, tuyên truyền như Việt Nam vong quốc sử, Đề tỉnh quốc dân ca, Hải
ngoại huyết lệ thư và gửi về nước. Những tài liệu mang tính dân tộc này đã dội
mạnh vào một số sĩ phu ái quốc, hưởng ứng phong trào.
Tự Phán: tự truyện của Phan Bội Châu
Bản ý của Phan Bội Châu:
- Liên kết với người đảng cũ Cần - vương, các trai tráng ở chốn sơn lâm. xướng khí
quân nghĩa. mục đích chuyên ở nơi « đánh giặc trả thù », mà thủ đoạn thứ nhất thì
tất thủ nạn bằng cách bạo động.
-Ứng phủ một vị minh chủ, kén chọn trong Hoàng-thân lập ra, âm kết với những
người hữu-lực ở đương triều làm người nội - viện và cũ hợp cả thảy người trung
nghĩa Nam Bắc, tính cách đồng thời đại-cử.
-Y như hai kế hoạch trên có nhờ đến ngoại viện thì phải một phen xuất dương cầu
viện, nhưng mục đích cốt ở khôi-phục Việt-Nam, đặt một độc lập chính - phủ. Trừ
ngoài ấy ra chưa có chủ nghĩa gì khác nữa.
Mục tiêu của hội kín Duy tân hội:
-Muốn khuếch trương thế lực cho hội, tất phải trong thời kỳ gần gỏi đây, chiêu
đảng-viên cho đồng,góp đảng phí cho dày sẽ trù tính cho đủ các món tài liệu.
-Sau khi bạo động phát khí, phải lo gấp những tài liệu tiếp tụ: đề tấn hành.
-Xác định một phương châm ra ngoài cầu viện, và thủ đoạn nên thế nào.
Sở ý của Lương Khải Siêu đối với Phan Bội Châu:
1) Quý quốc không lo không có ngày độc lập, mà chỉ lo quốc dân không có đủ tư
cách độc lập:
2) Kế-hoạch quang phục yếu kiện chỉ có 3 điều : a) Có thực lực trong nước ; b)
Nhờ sức viện trợ của Lưỡng-Quảng ; c) Nhờ Nhật Bản viện trợ bằng thanh thế.
Nhưng nếu ở trong nước quý quốc không có thực lực thì hai điều sau đó không
phải là hạnh phúc của quý quốc.
Ông Lương viết đến đó, lại có phụ chú rằng: «Thực lực của quý quốc là dân trí,
dân khí và nhân tài. Lưỡng-Quảng chỉ giúp cho quân hướng với khí giới; Nhật Bản
chỉ giúp ở trên trường ngoại giao. Hễ khi nước mình có độc-lập, tất phải yêu cầu
liệt-cường thừa nhận, mà Nhật Bản là cường quốc ở Á-châu, có thể thừa nhận
trước hết được”.
Lúc đó tôi tỏ ý đến việc cầu viện với Nhật Bản, ông Lương nói :
« Mưu ấy sợ không tốt: quân Nhật Bản đã một lần vào nước, quyết không lý gì
đuổi nó ra được. Thế là muốn phục quốc, mà thực là làm cho chóng mất. Quý quốc
chớ lo không có cơ hội độc lập, mà chỉ lo không có nhân-tài hay chụp ở cơ hội. Hễ
đến ngày Đức Pháp tuyên chiến với nhau, tức là một cơ hội rất tốt cho quý quốc
độc lập đấy”.
Vẫn là lời của Lương Khải Siêu bàn về cách hoạt động cho Phan Bội Châu
1)Hết sức dùng văn tự đau đớn thống thiết và hãng hái,mô tả cho hết tình-trạng
bệnh . thống của quý quốc, với mưu hiểm độc diệt chủng diệt quốc của người
Pháp, tuyên-bố cho người thế.giới biết, họa may kêu dậy được dư-luận của thế giới
làm môi giới ngoại giao cho các ngài, đó là một kế-hoạch.
2) Ông có thể trở về nước, hay là đưa văn thư gửi về trong nước, cơ động những
hạng người thanh niên xuất dương cầu học, mượn đó làm cái nền tảng hưng dân
khí, khai dân-trí, lại là một kế hoạch.
« Trừ ngoài hai kế hoạch ấy thì chỉ nằm gai nếm mật chứa giận chờ thời, một mai
nước tôi mạnh lên, tất phải đối ngoại tuyên chiếu, mà tiếng súng nở lần thứ nhất,
tất nhiên là đối với Pháp ở Việt Nam. Bởi vì quý quốc liên tiếp với đất nước tôi, mà
hai ngọn đường sắt Việt-Nam – Quảng-Tây, Việt Nam Vân Nam, thiệt là cái họa
trong lòng bụng chúng tôi. Những hạng chi-sĩ nhân nhân nước tôi không chốc phút
nào quên việc ấy, các ngài hãy chờ xem. »
Tôi được nghe bấy nhiêu lời, óc và mắt tôi bây giờ mới tính táo được nhiều, mà
phàn nàn những tư tưởng mình trước kia, và những việc kinh - dinh, thảy là hoang
đường mạnh lãng, không tý gì thiết thực. Từ biệt về nhà trú, tôi mới bắt đầu thảo
quyền VIỆT-NAM VONG QUỐC SU. Thảo xong, đem tới ông Lương xem và nhờ
ông xuất bản, ông ừ ngay. Chỉ một tuần lễ sách in xong tôi mới tới nhà ông Lương
xin từ biệt về nước.

Theo Việt Nam Pháp Thuộc Sử (1971) – Phan Khoang:
Đại cương chương trình Duy-tân hội có ba điều:
-Bài Pháp.
-Khôi phục Việt Nam
-Kiến thiết quốc-gia Việt-nam dưới chánh-thể quân-chủ lập-hiến
Theo lời bàn của Lương Khải Siêu, Phan tính đến việc đưa thanh niên trong xuất
dương du-học để bồi thực nhân-tài, làm căn bản cho nước nhà sau này. Ông bèn
viết bài “Khuyên thanh niên du học”, in ra mấy nghìn bản, giao cho Tăng Bạt Hổ
đem về nước cổ-động…
“… Lúc này, sau một cuộc hội-nghị giữa các đồng-chí ở Nhật sang, ở trong nước
đến, ở Tàu và Phan, hội Duy-tân thủ-tiêu, hội Việt-Nam Quang-phục thành-lập
(1912).Việt-nam Quang-phục chủ trương Dân-chủ Cộng-hòa, nhưng toàn thể
đồng-chí Nam-kỳ, nhưng toàn thể đồng-chí Nam-kỳ phản-đối”.
“… Việt Nam Quang Phục hội có cơ phát triển, có kẻ nghĩ đến sự bạo động, phái
nhiều người mang tạc đạn về hoạt động ở ba kỳ trong nước, nhưng kết quả không
được gì, chỉ gây ra vụ ném bom giết chết Tuần vũ Thái Bình là Nguyễn Duy Hàn
và hai võ quan người Pháp ở khách sạn Hà Nội…”
“Phan Bội Châu là một nhà Cách-mệnh làm trụ cột cho tất cả công cuộc vận
động độc lập của người Việt Nam từ sau khi đảng Cần vương tan rã cho đến kỳ
chiến tranh thế giới thứ nhất.

Đọc, hiểu, giới thiệu và phân tích sách “Việt Nam thời Pháp đô hộ” của
Nguyễn Thế Anh:
.

1. Giới thiệu về tác phẩm “Việt Nam thời Pháp đô hộ”


"Mỗi một nghiên cứu là một đột phá... Và mỗi một đột phá đó vẫn còn tạo nên
sự cố kết cho một bức tranh mà, từ nét cọ này qua nét cọ khác, mở ra cho
chúng ta một tầm nhìn hấp dẫn về lịch sử lâu đời của Việt Nam và các nước
láng giềng". (Đánh giá của GS. TS. Philippe Papin về mỗi bài viết của Nguyễn
Thế Anh)
Việt Nam thời Pháp đô hộ thuộc tủ sách Sử - Địa Đại học, do Lửa Thiêng (Sài
Gòn) xuất bản lần đầu tiên năm 1970, được tác giả Nguyễn Thế Anh biên soạn
dưới dạng tài liệu giảng dạy cho sinh viên khoa Sử trường Đại học Văn Khoa Sài
Gòn. Được sự đồng ý của tác giả, tủ sách Biên khảo - Sử liệu tiến hành biên tập tái
bản cuốn sách để giới thiệu đến rộng rãi bạn đọc trong cả nước sau hơn 45 năm kể
từ lần in đầu tiên.
Trước và ngay khi đặt ách đô hộ, trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chính phủ Pháp đã
có những bước chuẩn bị có mục đích và chuyên nghiệp cho công cuộc cai trị bằng
một nhà nước thực dân với các chính sách thuộc địa trên các lĩnh vực quân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội. Đó là việc tổ chức nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu
chuyên sâu về lịch sử, con người, vùng đất, văn hóa, tộc người, nghi lễ, phong
tục, tập quán… do chính các nhà khoa học Pháp thuộc các lĩnh vực lịch sử,
ngôn ngữ, dân tộc học, địa lý, khảo cổ học, các luật gia, kinh tế, chính trị gia
có bề dày trải nghiệm chính sách thuộc địa ở nhiều quốc gia thực hiện. Đã có
hàng loạt tên tuổi các nhà khoa học được huy động cho các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về ba nước Đông Dương, về nước Việt Nam trước, trong và sau thời kỳ
đô hộ vốn khá quen thuộc với giới nghiên cứu khoa học xã hội trong nước và thế
giới như Taboulet Georges, Cordier Henri, P. Gourou, Ph. Devllers, P. Doumer, G.
Aubaret, John Crawfurd,…
Việt Nam thời Pháp đô hộ phác họa một bức tranh tổng thể về hình ảnh nước Việt
Nam kể từ khi bị người Pháp chiếm cứ bằng quân sự với phát súng nổ đầu tiên ở
Đà Nẵng năm 1858. Cuốn sách khai thác các nguồn sử liệu gốc phong phú của
chính quyền thực dân Pháp, được tác giả chắt lọc, phân tích, lý giải một cách khoa
học giúp người đọc dõi theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp khi lần lượt
bằng quân sự chiếm cứ Nam kỳ, gây áp lực và vô hiệu hóa quyền lực của triều đình
Huế, xâm nhập Bắc kỳ cho đến khi thiết lập nền hành chính đô hộ.
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Thế Anh còn cung cấp cho người đọc một lát cắt đối
nghịch với chủ trương thực dân của chính quyền đô hộ Pháp, đó là phản ứng của
nhân dân Việt Nam bằng các phong trào phản kháng, đáp trả với những xu hướng
khác nhau nhằm chấm dứt chế độ thuộc địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Đặt trong bối cảnh cuốn sách được dùng làm tài liệu giảng dạy ở một trường đại
học uy tín và được xuất bản ngay tại thủ phủ Sài Gòn những năm 70 của thế kỷ
XX, khi đất nước còn chia cắt, hai miền Nam - Bắc với hai chính thể khác nhau, thì
những phân tích cố gắng có cái nhìn khách quan, không phán xét, đánh giá về
từng cuộc vận động, phong trào quốc gia phản kháng đòi tự trị, đòi cải cách
xã hội, xóa bỏ chế độ đô hộ là những điều đáng được ghi nhận về thái độ của
tác giả Nguyễn Thế Anh - người làm công việc chép sử.
Bố cục sách: 3 phần chính
PHẦN 1: SỰ CHIẾM CỨ QUÂN SỰ
Nguyên nhân, quá trình xâm lược, xác lập chế độ thuộc địa ở An Nam
Chương 1: Sự chiếm cứ ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bởi người Pháp
Chương 2: Chính sách bành trướng của Pháp từ năm 1865 đến 1871
Chương 3: Từ sự xâm nhập của người Pháp vào Bắc Kỳ đến sự thiết lập nền
đô hộ của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam
PHẦN 2: CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA
Quá trình khai thác thuộc địa ở Việt Nam
Chương 1: Sự tổ chức guồng máy cai trị
Chương 2: Sự khai thác kinh tế
Chương 3: Các sự biến đổi xã hội
PHẦN 3: PHẢN ỨNG CỦA DÂN VIỆT NAM ĐỐI VỚI CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA
Chương 1: Nhận xét tổng quát
Chương 2: Các phong trào quốc gia trong giai đoạn 1900-1930
Chương 3: Các diễn biến đưa tới sự chấm dứt chế độ thuộc địa

Phần đầu tiên có tiêu đề là “Sự chiếm cứ quân sự”, tức chỉ sự tấn công về quân sự
của thực dân Pháp đối với Đại Nam. Phần này mở đầu bằng việc giải thích các
nguyên nhân dẫn đến sự cạn thiệp của Pháp vào Việt Nam, một nơi vốn dĩ không
hề quá hấp dẫn với Pháp.
, tác giả viết rằng nhà Nguyễn giảm thiểu đến mức tối đa các sự tiếp xúc giữa Việt
Nam và Tây phương dù chính phủ của các quốc gia này, nhất là Pháp, đã nhiều lần
ngỏ ý thiết lập bang giao với nước ta. Chính phủ Pháp mong được triều đình hiến
cho đặc quyền buôn bán và truyền bá đạo Thiên chúa, song các đề nghị không thể
được chấp nhận vì sự kiện nổ súng bắn phá các pháo đài trấn phòng cửa biển Đà
Nẵng năm 1856.
Bước vào chương I, tác giả chỉ rõ từ năm 1858 Pháp chỉ có một mục tiêu rõ rệt là
làm thế nào để buộc triều đình phải chấp nhận cho các nhà truyền đạo độc quyền
giảng đạo trên lãnh thổ. Cũng trong thời gian này, Pháp nhận thấy không thể tiếp
tục dùng Đà Nẵng làm căn cứ, quyết định đem quân đánh vào miền Nam, “quyền
cai trị của quan lại Việt Nam đã biến đi, nhường chỗ lại cho quyền cai trị của nước
Pháp”. Sự kháng cự lại quân Pháp được tổ chức rất mau chóng, chính vào lúc quân
Pháp yếu thế thì tháng 5 năm 1862, triều đình chấp nhận thương thuyết bằng Hòa
ước Nhâm Tuất, “Ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cùng đảo Côn Lôn
được chuyển nhượng cho Pháp và tất cả chủ quyền trên lãnh thổ ấy”. Nội tình
không cho phép tiếp tục chiến tranh và nhà vua nghĩ rằng người Pháp không chiếm
giữ đất đai lâu dài mà chỉ nhằm kiểm tra thị trường.
Năm 1863, vua Tự Đức cử sứ bộ qua Pháp nhằm đề nghị tu chỉnh vài điều khoản
của hòa ước: sau khi Pháp hoàn lại cho Việt Nam ba tỉnh miền Đông Nam kì, nhà
vua sẽ nhượng đứt cho Pháp đảo Côn Lôn, Sài Gòn và thương khẩu Thủ Dầu Một.
Đối với chiến phí bồi hoàn, hoặc giảm bớt số tiền bồi thường hoặc gia tăng kỳ hạn
thanh toán. Pháp chấp nhận tu chỉnh hòa ước nhưng sau đó trở mặt vì nguyên nhân
kinh tế: muốn phát triển thương mại, Pháp phải kiểm tra tất cả xứ Nam kỳ. Hiệp
ước bất thành đem lại tình trạng khó khăn cho triều đình, mọi sự nhượng bộ của ta
đều bị Pháp coi là nhu nhược. Từ nay Pháp chỉ nghĩ đến việc bành trướng Nam kỳ.
Tiếp theo chương II, tác giả cho thấy mục tiêu của Pháp từ năm 1865 là chiếm ba
tỉnh miền Tây Nam kỳ: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Triều đình vẫn muốn theo
đuổi chính sách hòa hoãn với Pháp vì lúc này, ngân sách triều đình bị thâm thủng
và các âm mưu làm loạn trong triều góp phần vào sự lay chuyển chế độ nhà
Nguyễn. “Sự yếu ớt và các mối lo ngại của triều đình Huế được phản ánh trong
thái độ khéo léo và quy phục của chính phủ An Nam”. Tình hình không cho phép
bắt đầu cuộc chiến tranh thuộc địa, Pháp phải tìm cách thương lượng: Pháp chỉ có
thể làm môi giới nếu bảo hộ Việt Nam. Triều đình sẽ vẫn duy trì quyền cai trị trong
nước, còn các vấn đề ngoại giao sẽ do Pháp giải quyết hộ; quân đội Pháp sẽ che
chở nước Việt Nam trước mọi sự xâm lăng và sẽ giúp triều đình dẹp mọi cuộc nội
loạn. Pháp đã nhắc lại một lần nữa đề nghị này và thấy chỉ còn giải pháp quân sự
mới giúp đạt được mục tiêu. Việc Pháp chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam kỳ dẫn
đến yêu cầu phải có hòa ước khác thay Hòa ước Nhâm Tuất.

Từ khi Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng, một số người nhận thấy cần phải có những cải
cách sâu rộng. Đặc biệt trong số đó là Nguyễn Trường Tộ với những bản điều trần
dâng lên triều đình. Nhưng tất cả các đề nghị không thể làm chuyển động guồng
máy hành chính quá nặng về hình thức. Triều đình đã không đủ khả năng để vạch
ra một chính sách sâu sắc và chỉ có thể đối phó với tình trạng cực kỳ nguy khốn
bằng những biện pháp lặt vặt, thiển cận.

Mở đầu chương III, tác giả nói lên nhu cầu của quân Pháp muốn tìm con đường
thủy ở Bắc kỳ để chuyên chở hàng hóa giữa nước ta và Trung Hoa. Họ nghĩ rằng
phương thức hữu hiệu nhất là can thiệp vào Bắc kỳ và làm áp lực lên triều đình.
Hậu quả là miền trung du Bắc Việt rơi vào tình trạng hỗn loạn. Vấn đề Bắc kỳ
không còn là vấn đề quân sự mà trở thành vấn đề chính trị. Đây là nguyên nhân
chính khiến vua Tự Đức chấp thuận thương lượng để đi đến hiệp ước mới ký năm
1874 với các vấn đề lãnh thổ, ngoại giao, thương mãi, tôn giáo; thay cho Hòa ước
Nhâm Tuất 1862. Có thể nói với hiệp ước này, Việt Nam đã mất độc lập.
Chính vào lúc dư luận Pháp hưởng ứng chính sách bành trướng đế quốc thì chính
phủ bị đặt giữa hai sự lựa chọn: nhân danh hiệp ước ký kết năm 1874 mà đặt sự
bảo hộ lên xứ Bắc kỳ hoặc hoàn toàn rút khỏi xứ Bắc kỳ. Quốc hội Pháp tỏ rõ ý
định muốn đặt nền bảo hộ trên nước Việt Nam.
Hiểu rằng vấn đề Bắc kỳ chỉ có thể được giải quyết ở Huế, Pháp lợi dụng những
biến loạn xảy ra sau khi vua Tự Đức băng hà để thương lượng và ký kết hòa ước
năm 1883 gọi là Hòa ước Quý Mùi hay Hòa ước Harmand. Triều đình chính thức
nhìn nhận sự bảo hộ của Pháp và để Pháp kiểm tra tất cả chính sách ngoại giao.
Cùng lúc đó Trung Quốc thừa nhận sự bất lực, cùng với thỏa ước Thiên Tân cam
kết rút hết quân đội khỏi Bắc kỳ và tôn trọng tất cả hiệp ước ký kết giữa Pháp và
Việt Nam. Trước sự kiện ấy, năm 1884 triều đình chấp nhận ký hòa ước mới gọi là
Hòa ước Giáp Thân hay Hòa ước Patenôtre, việc thiết lập nền bảo hộ của Pháp
không còn bị ngăn cản.
Sau Hòa ước Giáp Thân, vua Hàm Nghi kêu gọi thần dân nổi dậy chống Pháp
với phong trào Cần vương, được thể hiện dưới hai hình thức: sát hại tín đồ Thiên
Chúa giáo và phục kích đồn ải Pháp. Phong trào thoái bộ dần khi vua Hàm Nghi bị
bắt và dù có Phan Đình Phùng tiếp tục lãnh đạo, cuối cùng vẫn phải chịu khuất
phục. Từ năm 1892 trở đi chỉ có Hoàng Hoa Thám chống Pháp. Cái chết của ông
chấm dứt thời kỳ kháng cự bằng khí giới. Sự phát triển phong trào chống Pháp còn
bị ngăn chặn bởi những mâu thuẫn nội bộ của xã hội Việt Nam.
Phần thứ nhất của tác phẩm khái quát về quá trình đấu tranh với Pháp đến khi
phong trào Cần Vương thất bại. Đặc biệt với khả năng nghiên cứu tài liệu Pháp
ngữ của mình, tác giả đã khắc họa tài tình những nỗ lực mong muốn xâm chiếm
Việt Nam trong lòng xã hội Pháp cũng như những trớ trêu của lịch sử! Sự mở rộng
xâm chiếm miền Đông Nam kỳ, miền Tây Nam kỳ, Bắc kỳ chỉ là những cuộc
phiêu lưu quân sự của quân đội viễn chinh Pháp tại Việt Nam nhưng đem lại lợi ích
ngoài dự kiến cho chính phủ Pháp.
Phần thứ hai – Chế độ thuộc địa: phần này gồm 3 chương nói về Sự tổ chức
guồng máy cai trị, Sự khai thác kinh tế, Các sự biến đổi xã hội.
Mở đầu chương I, tác giả đã viết “Guồng máy cai trị mà mẫu quốc Pháp tổ chức
tại Việt Nam cũng như các biện pháp xã hội và kinh tế đem áp dụng tại đây được
vạch ra để đáp ứng cho các quyền lợi của người Pháp trong mọi miền bảo hộ”.
Quan điểm này chia thành hai khuynh hướng với nhiều tranh luận: khuynh hướng
đồng hóa và khuynh hướng liên hiệp. Trên nguyên tắc, chính sách đồng hóa đã
được áp dụng với Nam kỳ, Bắc kỳ và Trung kỳ vẫn duy trì chính sách liên hiệp.
Sự cai trị của Pháp ở Nam kỳ được tổ chức qua hai giai đoạn: từ 1861 đến 1879
và từ 1879 trở đi. Pháp bổ nhiệm sĩ quan hải quân vào chức giám đốc bản xứ vụ
rồi sau đó bị thay thế bởi những vị quan người Việt. Giai đoạn cai trị bởi Soái phủ
Nam kỳ chính thức chấm dứt khi Pháp đặt Nam kỳ dưới quyền một thống đốc dân
sự. Họ phân biệt quyền hành chính và quyền tư pháp; thành lập Hội đồng Quản
hạt, Hội đồng đô thị Sài Gòn. Chính sách trực trị và đồng hóa chứa đựng nhiều
khuyết điểm và sai lầm nhưng nó khiến cho Nam kỳ mang một “sắc thái Pháp
hóa”. Tác giả triển khai thêm quan niệm của người Pháp về chế độ bảo hộ. Tất cả
các lãnh thổ thuộc Pháp ở Đông Dương là “đại diện trực tiếp của chính phủ Pháp
trong mọi lãnh thổ sáp nhập hay bảo hộ”. Nhưng chế độ bảo hộ đã nhường chỗ
cho chế độ trực trị, tổ chức hành chính Pháp đã choán chỗ tổ chức hành chính Việt
Nam. Nước Việt Nam chia thành ba mảnh, mỗi mảnh có đời sống riêng và có
những thể chế đặc biệt: Nam kỳ sáp nhập vào Pháp, Bắc kỳ thành gần như một
thuộc địa và Trung kỳ mà quy chế bảo hộ chỉ là lý thuyết.
Sự cai trị ba miền được thực hiện bởi một vị Khâm sứ ở Trung kỳ, một vị
Thống sứ ở Bắc kỳ, một vị Thống đốc ở Nam kỳ, dưới quyền giám sát và điều
khiển tối cao của vị toàn quyền Đông Pháp. Khắp mọi nơi, các công chức người
Pháp nắm quyền hành thực thụ. Các đô thị hoàn toàn thuộc quyền kiểm tra của
người Pháp. (lấy thêm dẫn chứng từ tr129). Trong tất cả giai đoạn bảo hộ, một
nguyên tắc chính được áp dụng là không một người dân Việt Nam nào, dù có đầy
đủ khả năng chuyên môn lại có thể giữ một chức vụ cao cấp trong tổ chức hành
chính. Tiếp theo chương II, tác giả nhận thấy sự đô hộ của Pháp đã cho phép ghép
vào tổ chức kinh tế truyền thống những hình thức khai thác tài nguyên thiên nhiên
mới có tính cách tư bản. Đường xe lửa, ngay từ đầu, được coi là phương tiện cần
thiết cho sự khai thác Đông Dương. Cùng với đó là việc xây dựng các hải cảng và
các công trình thủy nông. Số vốn các công ty tư bản Pháp đưa vào Việt Nam được
sử dụng cho các hoạt động kinh tế mới mẻ; chúng được đặt nhiều nhất vào sự khai
thác các đồn điền, các mỏ. Nhưng chúng lại càng làm cho sự mất thăng bằng kinh
tế giữa lĩnh vực tư bản và lĩnh vực truyền thống mạnh thêm. Nông dân không thể
lợi dụng sự tiến bộ của nền kinh tế thị trường; hoạt động tiểu công nghệ truyền
thống không những đình trệ mà còn suy đồi. Khủng hoảng kinh tế năm 1930 có
ảnh hưởng trầm trọng với nền kinh tế Việt Nam: các công ty thương mại tổn thất,
nền ngoại thương trì trệ…
Cơ cấu nền kinh tế Pháp thiết lập ở Việt Nam là một cơ cấu tư bản: hoạt động
kỹ nghệ và thương mại được điều khiển bởi những công ty đặt trụ sở tại những đô
thị lớn. Ngân hàng Đông Dương nắm phần lớn tư bản của hầu hết xí nghiệp quan
trọng. Sự đầu tư của tư bản Pháp không phù hợp với các nhu cầu kinh tế thực thụ
của Việt Nam mà chỉ nhằm mục đích làm sao cho tư bản nảy sinh lợi nhanh chóng.
“Chế độ tư bản là một con đỉa có hai miệng hút, một miệng bám vào giai cấp vô
sản ở mẫu quốc và một miệng bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết
chết con đỉa ấy thì phải cắt bỏ cả hai miệng hút cùng một lúc”.
Ngoại thương là bộ phận chủ yếu của kinh tế. Đây là nền ngoại thương có tính
cách thuộc địa, trong đó những sản phẩm xuất cảng là những nguyên liệu, những
sản phẩm nhập cảng là những chế phẩm của kỹ nghệ mẫu quốc. Với các con số
thống kê do tác giả cung cấp, ta thấy nền kinh tế thời Pháp thuộc vẫn còn sơ khai,
chưa thoát khỏi giai đoạn công nghiệp và khai thác mỏ. Chính phủ bảo hộ đã
không chuyên tâm đến việc định hướng cho hoạt động kinh tế ở Việt Nam: các vị
toàn quyền đều giao phó sự khai thác kinh tế cho sáng kiến tư nhân và cho sự tự do
kinh doanh mà không bao giờ kiểm soát sự đầu tư. Sự đầu tư này là kết quả của sự
đầu cơ của các nhà tư bản Pháp chứ không đáp ứng thực thụ cho nhu cầu kinh tế ở
Việt Nam. (lấy thêm dẫn chứng từ tr199). Bước vào chương III, dưới ảnh hưởng
của sự đô hộ bởi người Pháp, xã hội Việt Nam có thêm những sắc thái mới mẻ.

Sự gia tăng dân số được tác giả coi như là một thành quả tích cực của sự cai trị bởi
người Pháp. Sự khác biệt về mật độ nhân khẩu giữa hai vùng Bắc và Nam được
phản ánh trong sự phát triển hai nền kinh tế, một phải tìm cách tự cung tự cấp và
một căn cứ trên sự xuất cảng các nông phẩm. Chính phủ bảo hộ cũng chú trọng đến
việc cung hiến phương tiện giáo dục cho số dân ngày một gia tăng. Chủ trương
chính là dân bản xứ bắt buộc học chữ quốc ngữ và chỉ những phần tử thông minh
nhất mới lên học những lớp cao đẳng tiểu học để sau này có thể theo học những
trường trung học mà chương trình giảng huấn hoàn toàn là chương trình Pháp. Một
trong những hậu quả của sự đô hộ bởi người Pháp là sự xuất hiện của những
giai cấp xã hội mới: giai cấp thượng lưu tư bản, giai cấp trung lưu và giai cấp trí
thức.
Sự biến chuyển của các giai cấp liên hệ với sự sản xuất truyền thống biểu hiện
ở sự tương phản giữa hai giới địa chủ và nông dân nghèo. Sự sản xuất của nông
dân không đủ đáp ứng các chi phí căn bản, phải vay tiền từ địa chủ và do đó lại
càng lâm vào tình trạng phụ thuộc chặt chẽ hơn. Chính sách điền thổ của chính
quyền thuộc địa tạo thuận lợi cho việc thành lập đại địa sản. Sự xuất hiện những
giai cấp mới dưới ảnh hưởng của sự diễn biến kinh tế. Cuộc vận động Duy tân
dẫn đến phong trào khuếch trương thương nghiệp. Các công ty doanh nghiệp
Pháp hoạt động ngày càng nhiều cũng như các xí nghiệp tư bản của người Việt
tăng thêm. Trái lại, sự phát triển của giai cấp trung lưu bị cản trở bởi tính cách chế
tài của sự khai thác thuộc địa. Sự hiện diện của các xí nghiệp tư bản ngoại quốc
cùng sự phát triển của các hình thức khai thác kinh tế tư bản đã làm nảy nở một
giai cấp lao động vô sản mà xã hội chưa từng biết đến: giai cấp công nhân. Giai
cấp này xuất phát từ giới nông dân; trình độ chuyên môn còn thấp kém; phần lớn
làm việc cho xí nghiệp ngoại quốc. Không khí xã hội còn được phản ánh qua các
tác phẩm của các văn gia thời tiền chiến, vì các tác phẩm này không chỉ là cách
thức phát triển văn chương của giới trí thức mà còn là cách thức phát biểu các quan
niệm chính trị. Do đó, các tác phẩm như Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay những phong
tục tiểu thuyết là luận đề tiểu thuyết của phái Tự Lực văn đoàn, là những tài liệu
giá trị về các vấn đề xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc.
Trong phần này, tác giả đã sử dụng nhiều số liệu về thuế khóa, tài chính, tình
hình khai thác kinh tế… Việc sử dụng thuần thục phương pháp lượng tính đã
giúp Nguyễn Thế Anh thể hiện rõ nét bức tranh xã hội thuộc địa, nhất là trên
lĩnh vực kinh tế. Những thay đổi về chính sách cai trị của chế độ thuộc địa đã dẫn
đến một hệ quả quan trọng đó là làm biến động cấu trúc xã hội Việt Nam sau hàng
nghìn năm dưới chế độ phong kiến. “Những yếu tố khác nhau này làm cho sự diễn
biến xã hội trở nên phức tạp, trong khi các lưu phẩm truyền thống không biến đi
ngay lập tức: giai cấp sĩ phu vẫn giữ lại uy tín cũ của họ”. Và chính “lưu phẩm
truyền thống” này đã khơi mào cho các phong trào quốc gia về sau.
Phần thứ ba – Phản ứng của dân Việt Nam đối với chế độ thuộc địa: Ở phần
này, Nguyễn Thế Anh có một cách nhìn đương tối khác về phong trào yêu nước
thời cận đại. Nguyễn Thế Anh đã gắn phong trào yêu nước với các thế hệ trí thức
người Việt.
Giai đoạn đầu gắn liền với tầng lớp thượng lưu phong kiến: giới sĩ phu cầm đầu
nổi dậy kháng Pháp (phong trào Cần Vương, Văn Thân).
Giai đoạn thứ hai gắn liền với tầng lớp nho sĩ cấp tiến và dân chủ tư sản.
Giai đoạn thứ ba gắn với tầng lớp bình dân qua trung gian các nghiệp đoàn và
Đảng Cộng sản.
Và cột mốc tác giả chọn để kết thúc giai đoạn thời Pháp đô hộ này là sự kiện
ngày 19/12/1946.
Trong khoảng thời gian 1858-1945 có những sự nổi dậy, những cuộc dấy binh hay
những vận động chính trị để thể hiện ý chí của dân Việt muốn giành lại nền độc
lập. Phong trào giải phóng quốc gia này trải qua những giai đoạn khác nhau, dưới
những hình thức khác nhau, với những mục tiêu chính trị khác nhau, với những ý
thức hệ khác nhau. Trước khi đi vào chi tiết ta sẽ phác họa các giai đoạn cùng
những đặc điểm chính yếu của từng giai đoạn.
Giai đoạn đầu của phong trào quốc gia: Sự kháng cự bắt đầu ở Nam kỳ ngay từ
khi quân viễn chinh Pháp đặt chân đến đây và tiếp tục trên toàn lãnh thổ với sự
chiếm cứ miền Bắc. Giai đoạn đầu gắn liền với tầng lớp thượng lưu cũ: giới sĩ phu
cầm đầu nổi dậy kháng Pháp. Cuộc kháng chiến không mong muốn cải cách xã
hội hay chính trị mà đề cao nguyên tắc của chính thể quân chủ truyền thống,
dẫn đến hoặc phải quy phục chế độ mới hoặc tái lập chế độ đã tự ý đầu hàng
quân xâm lăng. Tính cách địa phương và cá nhân giới hạn ảnh hưởng của phong
trào và không cho phép đạt những thành công dài hạn.
Giai đoạn thứ hai của phong trào quốc gia: Trong khoảng một phần ba thế kỷ
sau năm 1900, phong trào quốc gia có nhiều hình trạng hơn (phong trào Đông du,
phong trào Duy tân). Từ năm 1920 phong trào cách mạng Trung Hoa trở thành
gương mẫu. Ở Nam kỳ xuất hiện những phong trào tôn giáo có liên hệ mật thiết
với hoạt động của các hội kín. Trong khi giới trí thức hiểu rằng phải thay thế Nho
giáo bằng ý thức hệ tiến bộ thì các hội kín lại hướng về quá khứ và chỉ nhắm tới
mục đích khôi phục nền quân chủ đã mất. Những yếu tố khác nhau này khiến
phong trào quốc gia giai đoạn thứ hai có tính chất phức tạp.
Giai đoạn thứ ba của phong trào quốc gia: Các hậu quả xã hội của khủng
hoảng kinh tế 1930 đã tiếp thêm sức mạnh cho phong trào quốc gia. Các lực
lượng bình dân giữ vai trò quyết định, qua trung gian của các nghiệp đoàn và Đảng
Cộng sản. Phong trào quốc gia sau sự thất bại của các cuộc nổi dậy năm 1940 phải
tổ chức lại trong một khung cảnh mới, thích ứng với các nhu cầu mới trong sự đấu
tranh.
Những năm đầu thế kỷ XX đánh dấu sự chuyển hướng chính trị: cần phải có một
sự canh tân mới mong thoát khỏi ách đô hộ. Tác giả đề cập cụ thể các phong trào
quốc gia trong giai đoạn 1900-1930, tiêu biểu là phong trào Đông du của Phan
Bội Châu và phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh.
Hoạt động của Phan Bội Châu nhắm vào sự khôi phục chế độ quân chủ độc lập
với sự trợ giúp của Nhật Bản, sau này là thiết lập chế độ cộng hóa dân chủ qua
sự giúp đỡ của lực lượng cách mạng Trung Quốc (QDĐ và THDQ). Ông kêu gọi
đưa thanh niên Việt Nam xuất ngoại qua Đông Kinh (phong trào Đông du) để được
huấn luyện về quân sự và chính trị, sau này có thể lãnh đạo trong việc chống Pháp.
Ông chủ trương thành lập Duy Tân hội (1906) và Việt Nam Quang Phục hội
(1912). Sự thất bại của Phan Bội Châu cũng là sự thất bại của phong trào cách
mạng chỉ căn cứ trên nguyện vọng chính trị của giới thượng lưu trí thức. Chủ
trương của Phan Bội Châu có thể tóm lược trong một luận điểm độc nhất: đuổi
người Pháp ra khỏi Việt Nam.
Phong trào của Phan Châu Trinh có nhiều điểm khác biệt với phong trào của Phan
Bội Châu. Phan Châu Trinh ý thức việc canh tân đất nước trước hết phải giáo
dục quần chúng, nâng cao dân trí rồi mới đòi độc lập bằng một phong trào bất
bạo động. Ông lập nên trường Đông Kinh Nghĩa Thục đề cao sự cần thiết phổ biến
giáo dục và khuếch trương thương nghiệp. Dù bị nhà cầm quyền Pháp kết án tù
nhưng ông vẫn không ngừng hoạt động cho đến cuối đời.
Đệ nhất thế chiến làm các nhà trí thức đặt tin tưởng nhiều hơn vào chủ nghĩa tự
do của Pháp. Chính trong bầu không khí này mà các chủ trương Pháp Việt đề huề
xuất hiện. Phạm Quỳnh cố gắng xác định một chính sách quốc gia thực tế, đòi hỏi
áp dụng một cách trung thực hiệp ước bảo hộ, dung hòa cái “quốc túy” trong
nước với cái học vấn tư tưởng của Tây phương. Những đề nghị này bị chính phủ
bảo hộ bác bỏ. Tiếp theo đó, Đảng Lập hiến ra đời đòi hỏi một địa vị xứng đáng
cho người Việt trong các chức vụ chính phủ, sự đối đãi bình đẳng giữa những công
chức và nới rộng các điều kiện hành nghề. Những đòi hỏi ôn hòa này vấp phải sự
cản trở của Pháp vì chúng không muốn mất đi bất cứ một đặc quyền nào.

Phân tích một cuốn sách có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào mục
đích và ngữ cảnh phân tích. Dưới đây là một cách phân tích sách thông qua các yếu tố chính:
1. Ngữ cảnh và bối cảnh: Xác định ngữ cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội mà tác phẩm được viết. Tìm hiểu
về tác giả, thời đại và sự ảnh hưởng của nó đối với tác phẩm.
2. Cấu trúc và tổ chức: Phân tích cấu trúc của sách, bao gồm các phần, chương và cách chúng được tổ
chức. Xác định những yếu tố cốt lõi như nhân vật, sự kiện và đường dẫn câu chuyện.
3. Nhân vật: Xem xét và phân tích những nhân vật xuất hiện trong sách. Đánh giá độ phát triển, tính cách
và vai trò của từng nhân vật trong việc triển khai câu chuyện.
4. Ngôn ngữ và phong cách viết: Đánh giá ngôn ngữ, phong cách viết và cách tác giả sử dụng ngôn từ,
câu trúc và hình ảnh để truyền đạt ý nghĩa. Xem xét sự ảnh hưởng của ngôn ngữ và phong cách viết đối
với trải nghiệm đọc.
5. Chủ đề và ý nghĩa: Tìm hiểu chủ đề và ý nghĩa chung của cuốn sách. Xác định thông điệp tác giả muốn
truyền tải, những giá trị và tư tưởng mà tác phẩm mang lại.
6. Phân tích văn bản: Đào sâu vào các đoạn văn, trích dẫn hoặc hình ảnh đặc biệt trong sách để phân
tích cách tác giả sử dụng ngôn từ, biểu đạt ý nghĩa và tạo ra hiệu ứng nghệ thuật.
7. Tác động và giá trị: Đánh giá tác động của cuốn sách đối với độc giả và xã hội. Xem xét giá trị văn
hóa, xã hội, lịch sử hoặc tư duy mà tác phẩm mang lại.
8. Đánh giá cá nhân: Tạo ra nhận định và đánh giá cá nhân về cuốn sách dựa trên phân tích và các yếu
tố trên.
Lưu ý rằng cách phân tích sách có thể linh hoạt và được điều chỉnh dựa trên loại tác phẩm và mục đích
phân tích của bạn. Quan trọng nhất là tìm hiểu kỹ lưỡng cuốn sách và có ý kiến đánh giá phản biện dựa
trên các yếu tố quan trọng của nó.

*Phân tích một công trình nghiên cứu lịch sử có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về phương pháp, cấu trúc, và
giá trị của công trình đó. Dưới đây là một hướng dẫn cách phân tích một công trình nghiên cứu lịch sử:
1. Ngữ cảnh và mục tiêu nghiên cứu: Xác định ngữ cảnh lịch sử và mục tiêu nghiên cứu của tác giả. Tìm
hiểu về lý do và nhu cầu của việc thực hiện nghiên cứu này.
2. Vấn đề nghiên cứu: Xem xét vấn đề nghiên cứu được đặt ra và câu hỏi nghiên cứu. Đánh giá tính cấp
thiết và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử.
3. Phương pháp và tài liệu: Đánh giá phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu được sử dụng. Xem xét
tính hợp lý và đáng tin cậy của phương pháp và tài liệu nghiên cứu.
4. Cấu trúc và kiến trúc: Xem xét cấu trúc và kiến trúc của công trình. Xác định các phần chính như giới
thiệu, tài liệu tham khảo, phân tích và kết luận. Đánh giá tính logic và sự liên kết của các phần trong
công trình.
5. Phân tích và đánh giá dữ liệu: Đánh giá cách tác giả phân tích và hiểu dữ liệu lịch sử. Xác định sự
công bằng, mạch lạc và logic trong việc phân tích và sử dụng dữ liệu.
6. Kết quả và kết luận: Đánh giá kết quả nghiên cứu và kết luận. Xem xét mức độ trả lời được câu hỏi
nghiên cứu và đạt được mục tiêu nghiên cứu hay không.
7. Giá trị và ý nghĩa: Đánh giá giá trị và ý nghĩa của công trình nghiên cứu lịch sử. Xem xét sự đóng góp
của nó cho lĩnh vực lịch sử và các nghiên cứu liên quan.
8. Đánh giá cá nhân: Tạo ra nhận định và đánh giá cá nhân về công trình nghiên cứu dựa trên phân tích
và các yếu tố trên.
Lưu ý rằng

*Giới thiệu chung (tiêu đề, tác giả, nội dung chính,...)
Tác giả
Tác phẩm
Mở đầu: vài dòng về tác phẩm. CÓ thể nêu lý do chọn tác phẩm???
Phần chính:
Trình bày về tác phẩm:
Về hình thức: cách trình bày, cách viết hay bố cục,...
Về nội dung: tóm tắt nội dung chung của tác phẩm và tóm tắt nội dung từng chương hay
từng phần...
Phân tích hay đánh giá tác phẩm:
Nên nêu một số phân tích hay đánh giá khách quan về tác phẩm,
Rồi mới nêu phân tích chủ quan của bản thân...
Kết lại phần này???
Kết bài???
Nêu nội dung tổng quan/rút gọn/giới thiệu về đối tượng viết bài cảm nhận: đầu tiên, hãy để độc
giả hiểu bạn đang viết về cái gì. Một số câu giới thiệu truyện hoặc cuốn sách mà bạn sẽ nêu
nhận thấy là điều thiết yếu.
Nêu cảm nhận các cụ thể hoặc tình tiết ấn tượng: Một bài nhận thấy nên có những điểm sáng
chắc chắn, việc nêu các chi tiết ấn tượng ra và ghi vài dòng cảm nghĩ về nó cũng làm cho bài
review của bạn phong phú hơn.(
Một số ý: (tất cả các ý cần có dẫn chứng cụ thể!!!!)
Cuốn sách cũng đưa ra nhiều phân tích đáng chú ý liên quan đến các vấn đề đã xảy ra cách đây
không lâu, hoặc còn đeo bám dai dẳng đến nay.
Chẳng hạn, tác giả Nguyễn Thế Anh cho rằng việc các dân tộc thiểu số quy phục chính quyền
bảo hộ là phù hợp với khuynh hướng lịch sử của các sắc dân này, vì “không bao giờ họ chịu
nhận quyền lực của người Kinh”. Đến thời Việt Nam Cộng hòa và sau năm 1975, các dân tộc
thiểu số vẫn luôn xung đột với chính quyền. Cho đến nay, các khu vực đồi núi phía Bắc hay Tây
Nguyên vẫn bị chính quyền giám sát rất chặt chẽ, các quyền tự do bị hạn chế. Về vấn đề di cư,
làn sóng di cư vào phía Nam vẫn tiếp tục dưới thời Pháp cai trị sau khi dân số tăng nhanh ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ gây nên tình trạng thiếu ruộng đất. Sau năm 1975, tình trạng này tiếp diễn với
cùng lý do là thiếu đất đai, dẫn đến nhiều hệ lụy kinh tế - xã hội. Dưới thời Pháp cai trị, người
nông dân vẫn không thoát khỏi tình trạng mắc nợ quanh năm. Việc này xuất phát từ nhiều lý do,
trong đó có việc Pháp không thực thi chính sách phát triển kinh tế hợp lý, khiến đất đai tập trung
vào tay địa chủ, địa chủ bóc lột tá điền. Vì làm không đủ ăn, người nông dân phải cầm cố đất
đai của mình để vay nợ. Việc cho vay nặng lãi rất phổ biến dưới thời Pháp cai trị. Tác giả cũng
nhận định rằng giới công nhân người Việt vốn xuất thân từ tầng lớp nông dân. Họ vẫn gắn bó
chặt chẽ với các làng mạc. Nếu xảy ra bất cứ biến động gì ở nơi làm việc thì họ đều quay về
nông thôn. Tính chất này khiến giới công nhân không ổn định. Như bạn đã biết, hầu hết công
nhân hiện nay vẫn xuất thân từ các vùng nông thôn. Họ cũng sẵn sàng bỏ nông thôn để đến các
nhà máy và cũng sẵn sàng bỏ việc để trở về quê.
Cách trình bày theo trình tự thời gian của cuốn sách có thể làm nản lòng những ai không đủ
kiên nhẫn. Bên cạnh đó, văn phong của tác giả có thể tạo cảm giác khó đọc khi sử dụng nhiều
mệnh đề trong một câu. Đây có lẽ là ảnh hưởng từ lối viết Pháp văn ở thời đại của tác giả.
Nhưng bù lại, cuốn sách đã sử dụng nguồn tư liệu phong phú, sắp xếp cẩn trọng, xứng đáng là
một tài liệu tham khảo hữu ích về thời Pháp đô hộ Việt Nam.
Việt Nam thời Pháp đô hộ phác họa một bức tranh tổng thể về hình ảnh nước Việt Nam kể từ khi
bị người Pháp chiếm cứ bằng quân sự với phát súng nổ đầu tiên ở Đà Nẵng năm 1858. Cuốn
sách khai thác các nguồn sử liệu gốc phong phú của chính quyền thực dân Pháp, được tác giả
chắt lọc, phân tích, lý giải một cách khoa học giúp người đọc dõi theo bước chân xâm lược của
thực dân Pháp khi lần lượt bằng quân sự chiếm cứ Nam kỳ, gây áp lực và vô hiệu hóa quyền lực
của triều đình Huế, xâm nhập Bắc kỳ cho đến khi thiết lập nền hành chính đô hộ. Bên cạnh đó,
tác giả Nguyễn Thế Anh còn cung cấp cho người đọc một lát cắt đối nghịch với chủ trương thực
dân của chính quyền đô hộ Pháp, đó là phản ứng của nhân dân Việt Nam bằng các phong trào
phản kháng, đáp trả với những xu hướng khác nhau nhằm chấm dứt chế độ thuộc địa trên toàn
lãnh thổ Việt Nam
Sử dụng phương pháp thống kê, định lượng bên cạnh phương pháp định tính phổ biến thông qua
các số liệu, bảng biểu trong phần hai: chế độ thuộc địa…
BÀI NHÁP:
Với tư cách là một lĩnh vực khoa học, khoa học lịch sử luôn luôn đòi hỏi sự khách
quan, toàn diện, tổng thể, cũng như tính khoa học, bên cạnh tính giai cấp và chủ
quan khó có thể tránh, trong nghiên cứu lịch sử. Vì vậy, một nghiên cứu lịch sử hay
một tác phẩm lịch sử hoàn toàn mang tính khoa học, tính tổng thể, với một góc
nhìn đa chiều, đa diện, cũng như hạn chế tối thiểu tư duy cá nhân chủ quan, phiến
diện, luôn là một nghiên cứu, tác phẩm được đánh giá cao trong lĩnh vực khoa học
lịch sử. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện nay, đặc biệt là
nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận đại (1858-1945), tức giai đoạn triều đại phong
kiến Việt Nam cuối cùng là nhà Nguyễn sụp đổ, cùng với việc đất nước bị biến
thành thuộc địa của thực dân Pháp, lại chưa có nhiều tác phẩm nghiên cứu mang
tính khoa học cao, cũng như có một góc nhìn khách quan; hầu hết các nghiên cứu
ấy đều mang tính chủ quan, nhằm phục vụ một hay một số mục đích nhất định, chứ
chưa hề nghiên cứu toàn diện, thậm chí chúng còn không được xem là tác phẩm
nghiên cứu lịch sử đúng nghĩa. May mắn là trong số những tác phẩm còn mang
nhiều tính chủ quan và phiến diện ấy, vẫn tồn tại những tác phẩm xuất sắc, khách
quan, cũng như có thể xem là một tác phẩm khoa học, đáng chú ý hơn cả là tác
phẩm của vị cố giáo sư đầu ngành trong lĩnh vực khoa học lịch sử-Nguyễn Thế
Anh, đó là tác phẩm "Việt Nam thời Pháp đô hộ", một điển hình trong những công
trình khoa học nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thời cận đại.
Cố Giáo sư Nguyễn Thế Anh sinh ngày 01/6/1936 tại Vientiane, Lào. Thầy học
chương trình Pháp bên Lào, rồi về học trung học ở trường Chasseloup Laubat Sài
Gòn. Xong trung học, Thầy được học bổng du học Pháp năm 20 tuổi. Lấy bằng
Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp về Sử Học năm 1964 ở Đại Học Toulouse, Thầy về nước
giảng dạy môn Sử tại Đại Học Văn Khoa Huế; ít lâu sau, lên làm Khoa Trưởng rồi
lên làm Viện Trưởng Đại Học Huế. Sau biến cố Mậu Thân (1968), Thầy vào Đại
Học Sài Gòn, đứng đầu ban Sử tại đây, lãnh trách nhiệm soạn thảo chương trình
Tiến Sĩ Văn Khoa Việt Nam. Khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Thầy qua Mỹ, làm
giảng viên tại Đại Học Havard, đi làm việc với tư cách học giả tại viện Institute of
Southeast Asian Studies (Viện Đông Nam Á Học), Singapore. Năm 1976, Thầy xin
qua Pháp định cư và được thu dụng ngay làm nghiên cứu tại Centre National de la
Recherche Scientique (CNRS – Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học).
Năm 1987, Thầy trình luận án lấy bằng Tiến Sĩ Quốc Gia ở Sorbonne, Thầy được
cử giữ chức Directeur d’Études (Giám Đốc Học Vụ) từ năm 1991 ở Centre
Pratique des Hautes Études (EPHE – Trung Tâm Thực Hành Nghiên Cứu Cao Cấp)
và Giáo Sư Thực Thụ về Lịch Sử & Văn Minh Bán Đảo Đông Dương. Thầy đã
biên soạn bằng 3 ngôn ngữ: Việt, Pháp, Anh nhiều công trình liên quan đến Sử
Học, đặc biệt sử Việt Nam, Đông Dương, Đông Nam Á, ngoài ra, còn có công
trình về sử Ấn Độ, sử Hoa Kỳ. Qua các công trình biên soạn và cách làm việc của
Thầy, các học giả thế giới đánh giá Thầy có phát kiến mới về lịch sử, cách nhìn
mới về lịch sử, cách xử lý nghiêm túc các tài liệu sử dụng để tham khảo.
Về “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ (ấn bản năm 1970
và 1974), còn có tên Việt Nam thời Pháp đô hộ (ấn bản năm 2008, 2017) được ấn
hành lần đầu tiên tại Sài Gòn, là giáo trình tâm huyết của GS Nguyễn Thế Anh
dành tới sinh viên sử học khi ông nhận trọng trách điều khiển Ban Sử thuộc Đại
học Văn khoa Sài Gòn. Thời điểm ra đời của công trình sử học Việt Nam này cũng
là khi nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đang tiếp thu và hòa nhập đầy sức sống
theo mô hình đại học thực dụng và tự trị của Mỹ, trong tương quan với giai đoạn
ngay trước đó được kiến tạo trên nền tảng của mô hình đại học Pháp thiên về tính
hàn lâm. GS Nguyễn Thế Anh là người được hấp thụ cơ bản nền giáo dục Pháp,
đồng thời tiếp nhận các nguồn tư liệu và thành tựu nghiên cứu từ cộng đồng Anh
ngữ toàn cầu (New York, Cambrigde-Harvard, London-Oxford, …).
Được viết bằng tiếng Việt, Việt Nam thời Pháp đô hộ cung cấp cho độc giả ở miền
Nam Việt Nam thời ấy những cách tiếp cận trước đó chưa từng có: quan sát sự
kiện theo vấn đề, phân tích sử liệu từ nhiều giác độ: Việt Nam-khu vực-toàn
cầu, vi mô-vĩ mô, khách quan nhìn nhận các nhân tố kinh tế chủ về thực dụng
đồng đẳng với các nhân tố quốc gia-dân tộc chủ về tinh thần vốn là nếp nghĩ
lâu đời của người Việt. Cùng với Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn chung một tác giả cũng được ấn hành ở Sài Gòn trước năm 1975, đường
hướng nghiên cứu và phương pháp chép sử – viết sử cùng nhãn quan sử học của
GS Nguyễn Thế Anh là một nguồn hứng khởi đối với không ít nhà nghiên cứu sử
Việt thuở đương thời, như Tạ Chí Đại Trường, Hà Mai Phương, Trương Ngọc
Phú…
Nhiều người viết sử thường có khuynh hướng dẫn dắt cảm xúc và nhận thức người
đọc khiến họ hoặc thăng hoa phấn khích, hoặc trầm lắng bi hùng theo giọng văn
và cái nhìn của tác giả. Đọc Việt Nam thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh thì
khác: trang sử Việt của một giai đoạn vô tiền khoáng hậu được tái hiện với sự
điềm đạm trong quan sát và sự trung chính trong nhận xét của người viết sử.
Người đọc mặc dầu tiếp nhận lịch sử thông qua lăng kính của tác giả, nhưng
không bị chi phối thiên lệch bởi cảm xúc cá nhân của người viết. Với những
người theo đường nghiên cứu lịch sử, từng vấn đề mà tác giả là nhà nghiên cứu-
giảng dạy đặt ra khơi gợi nhiều chủ đề hứng thú khích lệ đồng nghiệp nhiều thế hệ
dấn bước. Đó cũng là điều mà Nguyễn Thế Anh đã tiếp thu từ các tác phẩm sử học
của tiền nhân, những người đã mở lối, nối đường để hậu sinh dựa vào đó mà kế
thừa tri thức và tiếp tục sáng tạo phương pháp.

Nguyễn Thế Anh trình bày nhiều hơn là bình luận hay đánh giá, kể cả có đánh giá
thì cũng rất hạn chế, hoặc kèm theo những dẫn chứng, sử liệu,...(nêu dẫn chứng),
cũng như giọng văn của ông trong những đánh giá ấy thường khách quan hoặc
trung lập hơn là mang tính cá nhân (khiến người đọc cảm thấy thậm chí đó không
phải là đánh giá hay bình luận của ông?). Thậm chí nhiều khi ông còn bình luận
hay đánh giá, mà chẳng qua chỉ đưa ra những đánh giá của học gải hây nhân vật
khác...
“Xin độc giả dừng tìm trong quyền sách này những sự khen chê. Tinh thần vô tư
của sử học chỉ cho phép người viết phát-biều những nhận xét mà người viết mong
là khách quan, tuy thái độ khách quan khó mà đạt được đối với những vẫn đề còn
gây nhiều tranh luận.” – Nguyễn Thế Anh
Việc viết sử của ông cũng tuân thủ chặt chẽ vấn đề sử liệu, đồng thời nguồn sử liệu
của ông cũng vô cùng phong phú và đa chiều, đa dạng (có tài liệu trong nước, tài
liệu Pháp, tài liệu Trung Hoa, hay...)
Cách trình bày chặt chẽ: lập luận thường đi kèm với dẫn chứng, không trình bày
kiểu "nói suông"...
Hành văn mạch lạc, câu cú súc tích, ngắn gọn, rất hiếm việc trình bày dài dòng với
những câu ghép, mà ông thường sử dụng những câu đơn với dấu chấm dứt khoát...
Về mặt chính tả, ngữ pháp đều theo quy củ của một bài khảo cứu: đúng quy chuẩn
Về cách tiếp cận: tiếp cận đa chiều, đa diện
Về phương pháp nghiên cứu:

You might also like