You are on page 1of 42

CÂU HỎI ÔN THI MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

CHƯƠNG 1

Câu 1: Trình bày những chuyển biến mới của tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX tác động đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Tình hình trong nước:

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội.
Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ
phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu
tư sản) với thái độ khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất
và ngày càng gay gắt.

Tình hình thế giới:

Từ nửa sau thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền, đẩy mạnh xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ-Latinh,
biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.

Vào giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác-Lê nin, chỉ rõ
sự ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức,
bóc lột. Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và những hoạt động cách mạng của Quốc tế
Cộng sản đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
đối với các nước tư bản và có ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.

Câu 2: Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó đến xã
hội Việt Nam?

-Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ,
cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề

Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam là “chế độ độc tài chuyên chế nhất,
nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á đời xưa”

Kinh tế: Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, lập các đồn điền, tập trung khai thác than và kim loại.

Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ hoặc được
miễn thuế, nhưng đánh thuế cao hàng hoá các nước khác, hàng hóa của Việt Nam chủ yếu là xuất sang Pháp

Chính trị: Chia Việt Nam thành ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kì là xứ nửa bảo hộ, Trung Kì theo
chế độ bảo hộ, Nam Kì theo chế độ thuộc địa.

Tổ chức bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương đều do thực dân Pháp chi phối

Văn hóa xã hội: thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời du
nhập những giá trị phản văn hóa, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã
hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng
“khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”

-Việt Nam đã biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mất hẳn quyền độc
lập, phụ thuộc vào nước Pháp về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của

1
thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo
nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ khác nhau. Những mâu
thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt

Câu 3: Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải
nghiệm thực tế qua nhiều nước.

Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở
Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Vécxây
(Versailles), Tổng thống Mỹ Uynxơn tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước nhược tiểu.
Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội
nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-
1919. Những yêu sách đó không được Hội nghị đáp ứng, những sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư
luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.

Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về
cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập
Quốc tế Cộng sản tại Đại học lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại
hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).

Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên
bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái
Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt
Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Ngày
30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt
động, đặc biệt là dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở
Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.

Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để
hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt
Nam.

Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.

Về tư tưởng. Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác,
Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).
Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,...

Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được
cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực
tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và
kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác
định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thể hiện, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động

2
trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường
cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao
động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”14. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

Về chính trị. Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc.
Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng
cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính
quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính
quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.

Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực
lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được
nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh;
còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”15. Do vậy, Người xác định
rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”16.

Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.

Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát động từ ngày 29-
9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của công nhân.

Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản - cho dân tộc Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra
đấu tranh giành tự do độc lập”17. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về
cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có đông người Việt Nam yêu
nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn
một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.

Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh
dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế
quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay
thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng
Châu.

Hội xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ,
mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và về phương hướng phát triển của cuộc vận động giải
phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra
3
số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời
Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong Tổng bộ đã tiếp tục việc xuất bản và hoạt động
cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải). Một số lượng lớn báo
Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước
ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.

Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái
người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về
lý luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13
và 13 B đường Văn Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử
về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được đào
tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và
trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).

Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được Quốc tế
Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở về châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái
Lan).

Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu
nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách
mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách
mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong.
Đường Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác
phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vấn đề sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng
đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.

Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở trong
nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm
(Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành
động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự
chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt
động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu
nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

Câu 4: Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930 và giải
thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam?

Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-1930

* Thời kỳ 1919-1925:

Để bù đắp những thiệt hại, tổn thất nặng nề trong chiến tranh, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) ở Việt Nam cả về quy mô và mức độ, nên số lượng công nhân tăng lên nhanh
chóng. Do đó, phong trào đấu tranh của công nhân cũng mạnh lên.

4
Đời sống của công nhân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp vô cùng cực khổ: ngày làm
việc thường kéo dài từ 9h đến 10h trong một ngày. “Có nơi như khu dệt Nam Định, ngày công của công nhân
trong năm 1924 được quy định bình quân là 12 giờ, công nhân không được hưởng bất kỳ một chế độ bảo hiểm
thân thể nào. Tiền lương rất thấp”. Ngoài đồng lương rẻ mạt, chết đói, điều kiện làm việc cực khổ, công nhân
còn bị đánh đập, cúp phạt, ngược đãi như nô lệ! Ở nhiều đồn điền, hầm mỏ, bọn chủ tư bản còn lập nhà lao, xà
lim riêng để đàn áp các cuộc phản kháng của công nhân. Tình trạng bị áp bức, đói khổ, cộng với lòng yêu nước
và truyền thống dân tộc đã thúc đẩy giai cấp công nhân hăng hái đứng lên đấu tranh chống cường quyền.

Vào thời kỳ đầu, do số lượng còn ít, trình độ giác ngộ còn thấp nên những cuộc đấu tranh của công
nhân chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc ở từng xí nghiệp, từng kíp thợ, xưởng mộc,… Mục đích đấu tranh chủ yếu là đòi
quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm. Hình thức đấu tranh chủ yếu là đập phá máy móc, đánh cai ký,
chủ thầu, phá giao kèo, bỏ trốn tập thể,… “Trong thời gian những năm 1919-1925, số lượng công nhân bỏ trốn,
phá giao kèo với chủ đã lên tới 4877 người. Càng ngày, công nhân đã biết sử dụng hình thức đấu tranh đặc thù
của mình là bãi công, mặc dù hình thức này bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết án tù”. Một sự kiện có ảnh
hưởng lớn tới sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam, đó là năm 1921“Liên đoàn công nhân tàu biển
ở Viễn Đông” đã được thành lập và phát triển các cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Một số công
nhân, thủy thủ Việt Nam làm việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập liên đoàn này. Họ đã có nhiều đóng
góp trong việc đưa đón cán bộ, vận chuyển các sách báo cách mạng từ Pháp về trong nước.

Từ năm 1922, phong trào công nhân bắt đầu có nét khởi sắc mới. Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của
600 công nhân thợ nhuộm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nguyễn Ái Quốc đánh giá đây là một “dấu hiệu của thời đại mới”,
“lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa”.

Năm 1924, có nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội,
Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn và có tổ chức
lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó, điển hình nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân Ba Son (Sài
Gòn) vào tháng 8/1925 để ngăn không cho tàu chiến Pháp chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Gắn liền với cuộc bãi công này là vai trò tổ chức của đồng chí
Tôn Đức Thắng. Sau khi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm 1920 đồng chí Tôn Đức Thắng về nước, xin
vào làm công nhân ở Sài Gòn. Tại đây, ông đã bí mật thành lập tổ chức “Công hội” đầu tiên của giai cấp công
nhân Việt Nam.

Đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ thấp, phụ thuộc vào
phong trào yêu nước nói chung, mang tính chất tự phát, chưa tỏ rõ được sức mạnh của một lực lượng chính trị
độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Cuộc bãi công Ba Son kết thúc thắng lợi
đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam: không chỉ nhằm vào mục tiêu đấu tranh kinh
tế mà cao hơn nữa còn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế của công
nhân Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, cuộc bãi công Ba Son là một mốc son rất quan trọng trong phong trào
công nhân - giai đoạn công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.

* Thời kỳ 1926-1930:

Trên thế giới, cách mạng dân tộc, dân chủ ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với những bài học kinh
nghiệm về sự thất bại của Công xã Quảng Châu 1927. Đại hội V của Quốc tế cộng sản với những nghị quyết
quan trọng về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

Trong nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt đã đẩy mạnh hoạt động trong phong trào
công nhân (mở lớp huấn luyện cán bộ), ra báo "Thanh niên", Nguyễn Ái Quốc viết cuốn "Đường cách mệnh",
phong trào "Vô sản hoá"...

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thông qua những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều
người Việt Nam yêu nước khác, các sách báo cách mạng đã được truyền bá vào nước ta. Nhờ đó, giai cấp công
nhân Việt Nam bước đầu biết tới Cách mạng tháng Mười Nga, biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở đó dần
dần tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa cộng sản để từng bước thấm sâu hơn vào tinh thần giác ngộ lý tưởng và đã
bắt đầu biến thành hành động cách mạng!

Nhờ sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, các tư tưởng của Cách
mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân dân lao
5
động. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và chuyển biến nhanh chóng về chất.
Các cuộc đình công, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi. Trong hai năm 1926-1927, đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh
của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của 500 công nhân đồn
điền cao su Cam Tiêm, công nhân cao su Phú Riềng,… Các cuộc đấu tranh này đều nhằm hai mục tiêu chung là
đòi tăng lương từ 20% đến 40% và đòi thực hiện ngày làm 8h như công nhân bên Pháp.

Điều đó chứng tỏ, công nhân không còn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu sách lợi ích cục bộ,
địa phương mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp với nguyện
vọng chung của đông đảo công nhân. Một điều kiện thuận lợi quan trọng lúc bấy giờ là một số cán bộ được
Nguyễn Ái Quốc đào tạo tại Quảng Châu được đưa về nước, trực tiếp tham gia lãnh đạo đấu tranh. Họ tham gia
vào phong trào “vô sản hóa”, cụ thể là đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, xí nghiệp, thành thị, nông thôn,…
Một mặt, để tự rèn luyện, mặt khác để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho công nhân, nông dân và những người
yêu nước khác ở Việt Nam. Phong trào “vô sản hóa” phát triển mạnh nhất vào những năm 1928-1929, làm cho
phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Trong hai năm 1928-1929, số lượng các cuộc đấu
tranh của công nhân đã lên tới 40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927. Lớn nhất là các cuộc bãi
công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe lửa Trường Thi (Vinh),
mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng Ninh),… Các cuộc đấu tranh đó đã mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài
phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương. Tình hình đó chứng tỏ, trình độ
giác ngộ của giai cấp công nhân đã được nâng lên rõ rệt.

Đặc biệt, trong cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội) tháng 5/1929 đã
có sự lãnh đạo của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Chi bộ cộng sản đầu tiên, mà người đóng vai
trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự. Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một Ủy ban bãi công đã được
thành lập, phát truyền đơn kêu gọi công nhân và nhân dân lao động Hà Nội hưởng ứng và ủng hộ cuộc bãi công
của công nhân Avia. Cuộc bãi công đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của công nhân nhiều nhà máy, xí
nghiệp trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.

Tháng 7/1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập, đã đề ra chương trình, điều lệ và quyết định xuất bản
tờ báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của phong trào công nhân,
vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo thống nhất.

Nhìn chung, trong thời kỳ 1926-1929, phong trào công nhân đã có những bước tiến bộ mới, thay đổi về
chất từ có chủ nghĩa, đấu tranh mục tiêu rõ ràng, có tổ chức thống nhất. Những cuộc đấu tranh tự phát đã giảm
đi và thay vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức nổ ra liên tục, rầm rộ, rộng khắp, sôi nổi và quyết liệt hơn
với số lượng người tham gia đông, có sự phối kết hợp giữa các địa phương, đơn vị đấu tranh, có sự lãnh đạo
chặt chẽ của tổ chức công hội hay thanh niên với quy mô ngày càng lớn. Khẩu hiệu đấu tranh không chỉ giới hạn
ở mục đích kinh tế mà đã mang tính chất chính trị. Điều đó cho thấy, quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân
Việt Nam đang chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác.

Cùng với phong trào công nhân, phong trào nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước
khác cũng phát triển, tạo thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ rộng khắp cả nước. Trong đó, giai cấp
công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi đầu và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh cách
mạng.

Trước sự chuyển biến mạnh mẽ trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp
nhân dân ngày càng lên cao, “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” không còn đủ sức lãnh đạo. Yêu cầu phải
thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đang trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Từ đó,
dẫn tới sự tan rã của các tổ chức Thanh niên vàTân Việt, xuất hiện ba tổ chức cộng sản “Đông Dương Cộng sản
Đảng”(17/06/1929), “An Nam Cộng sản Đảng” (11/1929), “Đông Dương Cộng sản Liên đoàn” (01/01/1930).
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã khẳng định bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam: nó chứng tỏ hệ tư
tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc và những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản
đã hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ
“rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam
thực sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước. Thông qua chính đảng của mình,
6
giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể dân tộc vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở để đưa
con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng lợi.

Giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam

Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân và đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam. Trong tác phẩm “Thường
thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức
lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm
nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân”. Tuy nhiên, trong số đó, không phải tất cả họ đều là giai cấp
công nhân và chỉ ra tiêu chí căn bản để xác định đó là giai cấp công nhân đúng nghĩa mang đầy đủ “đặc tính”
của giai cấp công nhân quốc tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người viết: “Chủ chốt của giai cấp
ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa, vân vân... Những công nhân thủ công
nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, vân vân..., cũng thuộc về giai cấp công nhân.
Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân”. Về đặc điểm
giai cấp công nhân Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ đặc điểm của giai
cấp công nhân quốc tế, đó là: “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và
đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức
là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác”.

Thứ hai,giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa, với việc thực dân
Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền... Ngoài những đặc điểm của giai cấp công
nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng vì ra đời trong hoàn cảnh một nước thuộc
địa nửa phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân- là người bạn tự nhiên của nông dân, cơ cấu chủ yếu là công
nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời
đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.

Câu 5: Phân tích đường lối cách mạng thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 2 năm 1930)? Ý nghĩa của Cương lĩnh đối với tiến trình cách mạng Việt Nam?

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: phân tích thực trạng và
mâu thuẫn trong xã hội Việt, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc
ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu
chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm
trong phạm trù của cách mạng vô sản.

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống
phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc,
giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và
sáng tạo theo con đường cách mạng HCM, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, phải đáp
ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại.

Câu 6: Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, hãy chứng minh: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một
tất yếu?

- Nói ĐCSVN ra đời là 1 tất yếu lịch sử vì tại thời điểm đó, Việt Nam ta đã có những điều kiện cần và đủ
cho sự ra đời của Đảng đã xuất hiện

o Điều kiện cần:

Sự du nhập của CN Mác – Lênin: Tháng 7-1920, Bác Hồ đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16
và 17-7-1920. Sau khi đọc và hiểu được bản đề cương ấy, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận: “Muốn cứu nước
7
và GPDT, ko còn con đường nào khác ngoài con đường CMVS”. Từ đó Người tin theo CNCS, tin theo CN Mác
- Lênin và tin theo Quốc tế III. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc là 1 trong số 200 Đảng viên Đảng XH Pháp đã
giơ tay biểu quyết lập ĐCS Pháp và đồng ý gia nhập Quốc tế CS. Đây là 1 mốc son quan trọng trong lịch sử
VN, ghi dấu lần đầu tiên lịch sử VN có 1 người chấp nhận CNCS, tiếp thu CNCS và trở thành người CS. Từ đó,
Người tìm mọi cách truyền bá CN Mác - Lênin về VN và các nước thuộc địa thông qua làm báo, viết báo,
truyền bá sách báo yêu nước, mang tư tưởng CS về VN và Đông Dương. 1921 – 1924 là thời kỳ Nguyễn Ái
Quốc truyền bá gián tiếp CN Mác - Lênin về VN. 1925 trở đi, Nguyễn Ái Quốc truyền bá trực tiếp CN Mác -
Lênin về VN thông qua Hội VNCM thanh niên với phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc kỳ Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928. CN Mác - Lênin và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Ái
Quốc đã tạo nên đường CM mới ở VN. Nó góp phần quan trọng giải quyết khủng hoảng về đường lối cứu nước
ở VN.

Phong trào CN: CN VN ra đời gắn liền với sự du nhập CNTB kiểu Pháp vào VN. Từ cuối thế kỷ XIX,
đặc biệt là trải qua 2 cuộc khai thác thuộc địa đầu thế kỷ XX, CN VN cho đến đầu 1939 đã có 22 vạn người. Từ
cuối chiến tranh thế giới I, nó đã thật sự trở thành 1 giai cấp mới, thật sự trở thành 1 lực lượng chính trị mới nổi
lên ở VN. Cho tới 1925, sau khi tổ chức Công hội đỏ ra đời, sau khi Hội VNCM thanh niên ra đời và phát triển
về VN, phong trào CN ở VN đã có bước phát triển nhảy vọt. Đặc biệt sau phong trào VS hóa năm 1928 của tổ
chức Hội VNCM thanh niên, CMVN đã thật sự tiếp thu CN Mác và cho tới đầu 1929, phong trào CN VN đã
chuyển hẳn từ đấu tranh từ phát sang đấu tranh tự giác. Điều này được thể hiện qua việc trong hai năm 1928-
1929, số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân đã lên tới 40 cuộc, tăng gấp 2,5 lần so với hai năm 1926-1927,
điển hình là các cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, diêm cưa Bến Thủy, xe
lửa Trường Thi (Vinh), mỏ than Mạo Khê, Hòn Gai (Quảng Ninh), cuộc bãi công của 200 công nhân xưởng sửa
chữa ôtô Avia (Hà Nội, 5/1929),…

o Điều kiện đủ: Phong trào yêu nước ở VN: Từ 1884 -1885 đi theo ngọn cờ Cần Vương mà đứng đầu là
vua Hàm Nghi nhưng cũng chỉ đến 1897 thì ngọn cờ phong kiến VN đã gãy đổ hoàn toàn. Sang đầu thế kỷ XX,
phong trào yêu nước VN đã hướng theo các tư tưởng DCTS được du nhập từ bên ngoài vào, tiêu biểu là xu
hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư sản
trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (12-1927 - 2-1930) đã tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc kỳ,
nhưng tất cả đều không thành công Phong trào yêu nước VN đang gặp khủng hoảng về đường lối cứu nước và
tổ chức lãnh đạo, đòi hỏi phải có 1 tổ chức CM tiên tiến với đường lối CM đúng đắn và khoa học để giải quyết
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo của CMVN.

- 3 điều kiện cần và đủ đã nêu ở trên từ cuối 1929 đến đầu 1930 được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau
trong thực tiễn CMVN và nó dẫn đến sự ra đời 3 tổ chức CS ở VN: Đông Dương CS Đảng (17/6/1929, chủ yếu
ở miền Bắc) – An Nam CS Đảng (8/1929) – Đông Dương CS Liên đoàn (9/1929) ..Sự xuất hiện của 3 tổ chức
CS này chứng tỏ phong trào CMVN đã đòi hỏi phải có Đảng lãnh đạo nhưng sự tồn tại cùng lúc 3 tổ chức CS có
nguy cơ kìm hãm sự phát triển và gây chia rẽ phong trào CMVN. Bản thân phong trào CMVN lúc này có 1 đòi
hỏi khách quan là phải thống nhất 3 tổ chức CS, phải đi đến một ĐCS thống nhất ở VN.

Câu 7: Phân tích nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 và rút ra nhận xét?
Thay cho Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là Luận cương chính trị
của Đảng Cộng sản Đông Dương với các nội dung chính 39:
Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là “một bên thì thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương
lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát
triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và
“đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có
quan hệ khăng khít với nhau: “... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách
mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa” . Luận
cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền
lãnh đạo dân cày.
8
Giai cấp vô sản là nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô
sản là động lực chính và mạnh.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở
Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường
“võ trang bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh
phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một
nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông
Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên
hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

Nhận xét:

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng. Tuy
nhiên, Luận cương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một
chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và chịu ảnh
hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản và
một số Đảng Cộng sản anh em trong thời gian đó.
Những hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, giữa
hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực lượng cách mạng còn
tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.

Câu 8: Nêu những điểm giống và khác nhau về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền được xác định
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng?
nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền

Giống:

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng
Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã
hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến
lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.

Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập
dân tộc.

Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ bản
đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.

Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ
trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về
tay công nông.

Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện sự
mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.

Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện
đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ
đại năm 1917.

9
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau: Cương lĩnh chính trị
xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn (Đông Dương).

Đánh đổ Đế quốc và phong kiến

Cương lĩnh chính trị đầu tiên Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930
của Đảng

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân
cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích
Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền
hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho
đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm
giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ
trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: “... có
được đặt ở vị trí hàng đầu. đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng
lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh
đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương nhấn
mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư
sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh
đạo dân cày.

→ Kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh → Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận
đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay cương đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng
sai phản cách mạng( nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn
cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề giai cấp đang ngày càng sâu sắc
dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cương
lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập,
nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày
nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ
chức cho quân đội công nông, thi hành chính sách tự
do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng
công nông hóa.

Về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính
trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp công của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai
nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp
minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo
phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn
Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như
tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống
→ ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của
cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía
cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng
quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao
phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân
thì họ sẽ theo đế quốc.
tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân
tộc. → Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn
kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng
của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và
phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc,
khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ
10
tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc
và tay sai.

Câu 9: Vì sao Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn
1939-1945? Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội nghị BCHTW 8 (tháng
5 năm 1941)?
a)Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong giai đoạn 1939-1945 vì:

-Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ (1-9-1939) tác động sâu sắc đến tình hình chính trị thế giới. Để phục vụ
cho chiến tranh, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách cực kỳ phản động, giải tán Đảng Cộng sản ở Pháp, ở
Đông Dương, chúng thực thi chính sách cai trị tàn bạo, điên cuồng tấn công nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản và
các đoàn thể do Đảng lãnh đạo, thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người,
cướp của tại chỗ phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc của chúng.

-Chính sách phát xít hóa bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương không làm Đảng ta bất ngờ, vì
Đảng đã sớm dự báo vấn đề này. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, Đảng cho rằng nếu cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) làm xuất hiện tình thế cách mạng ở Nga, dẫn tới cuộc Cách mạng Tháng
Mười năm 1917 nổ ra, thì cuộc chiến tranh thế giới lần này sẽ làm xuất hiện tình thế cách mạng. Nắm vững và
vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin: “giai cấp vô sản nắm lấy ngọn cờ dân tộc, tự mình trở
thành dân tộc”, dựa trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình ở Đông Dương lúc này, Đảng kịp thời đề ra chủ
trương cách mạng mới.

b)Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội nghị BCHTW 8 (tháng 5 năm 1941)?

-Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, nhấn
mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương cao ngọn cờ
dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

-Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong Mặt trận đều lấy tên
là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh
niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân nhân Cứu quốc... Với các dân tộc
Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một Mặt trận chung Đông
Dương.

-Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ
trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.

-Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa vũ trang".Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến
“với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể
giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

-Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào, Khơ me, thi hành
đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi...

-Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng.

11
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá
Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng
gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.

Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương thay đổi chiến lược cách
mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Câu 10: Làm rõ nguyên nhân Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)? Đảng Cộng sản Đông Dương đã có chủ
trương như thế nào? Ý nghĩa của chủ trương?

-Tháng 6/1940, Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Lợi dụng cơ hội đó, chính quyền phát xít Nhật tăng sức ép lên
chính quyền Pháp tại Đông Dương nhằm thế chân Pháp. Ngay từ năm 1940, Pháp đã có những động thái khiến
Đế quốc Nhật Bản xúc tiến từng bước để dần kiểm soát toàn Đông Dương. Theo Hiệp ước Tokyo 1940 thì Pháp
chấp nhận hầu hết các yêu sách của Nhật, trong đó có các điều khoản liên quan đến việc Nhật có quyền chi phối
nền kinh tế Đông Dương để thâu tóm miền Hoa Nam. Ngày 25 tháng 9 năm 1940, dù chỉ huy lực lượng võ trang
khá hùng hậu Pháp tỏ ra bất lực khi Nhật tấn công biên giới Việt - Hoa. Pháp tiếp tục phải nhượng bộ Nhật.
Hiệp ước Tokyo 1941, ấn định Nhật là nước hưởng những ưu đãi đặc biệt tại Đông Dương.

-Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, nước Pháp được giải phóng. Chính
phủ Đờ-Gôn trở về Pa-ri. Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật khốn đốn trước các đòn tấn công dồn dập
của quân Anh - Mĩ cả ở trên biển và trên bộ. Quân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ thời cơ để giành
lại địa vị thống trị cũ, làm cho mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Tình thế trên buộc Nhật phải đảo chính
Pháp, nhằm độc chiếm Đông Dương.

-Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng và đề ra chủ
trương: Ra chỉ thị ”Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày
9-3-1945 là một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy
nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật -
Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân
Đông Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa với hình thức đấu tranh:
từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua tổng khởi nghĩa
khi có điều kiện.

Câu 11: Phân tích chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng trong cách mạng
tháng Tám năm 1945?
Điểm đặc sắc trước hết là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời nắm bắt và chủ động tận dụng
triệt để thời cơ thuận lợi của cách mạng để lãnh đạo các lực lượng tiến hành tổng khởi nghĩa. Đến đầu tháng 8-
1945, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến hết sức mau lẹ, trực tiếp tạo thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam. Đó là sau khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Việt Nam cũng như ở Lào và
Cam-pu-chia rất hoang mang, tinh thần chiến đấu rệu rã; đồng thời, chính quyền tay sai và bọn Việt gian thân
Nhật cũng hoảng sợ, dao động. Trong khi đó, cao trào kháng Nhật, cứu nước của nhân dân ta và lực lượng vũ
trang cách mạng đang dâng lên rất mạnh mẽ trên khắp cả nước; một số tầng lớp trung gian do dự, lừng khừng đã
ngả theo cách mạng.

Tận dụng thời cơ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo thực hành tổng khởi nghĩa; chủ
động tổ chức, phát huy sức mạnh của toàn dân ở từng vùng, miền và trên quy mô cả nước. Quán triệt và chấp
hành Lệnh tổng khởi nghĩa của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc, từ ngày 14-8-1945, các tầng lớp nhân dân, các
dân tộc, tôn giáo… được huy động tổ chức thành những đội quân chính trị đông đảo và đội quân vũ trang, trong
đó có Việt Nam Giải phóng quân và lực lượng vũ trang các địa phương làm nòng cốt, xung kích ở khắp ba miền
Bắc, Trung, Nam, do Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và các đảng bộ địa phương lãnh đạo. Toàn bộ lực lượng
chính trị và lực lượng quân sự tham gia tổng khởi nghĩa quán triệt và thực hiện theo 3 nguyên tắc do Hội nghị
toàn quốc của Đảng đề ra. Một là, tập trung lực lượng vào những mục tiêu chính. Hai là, thống nhất các mặt
chính trị, quân sự, hành động và chỉ huy. Ba là, kịp thời tổ chức hành động đồng loạt, không bỏ lỡ cơ hội.

12
Nhờ phát động kịp thời, nhanh chóng tổ chức được những đạo quân chính trị đông đảo và đội quân vũ trang làm
nòng cốt, tiến hành tổng khởi nghĩa đúng thời cơ và vận dụng theo 3 nguyên tắc chỉ đạo, Đảng ta đã phát huy
được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù, nhanh chóng giành thắng lợi.

Cuộc cách mạng tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công là do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo,
chủ động kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng quân sự, tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến
lên tổng khởi nghĩa trên quy mô cả nước. Tận dụng thời cơ thuận lợi và thực hiện Lệnh tổng khởi nghĩa của
Trung ương, đông đảo nhân dân ở nhiều địa phương có đội quân vũ trang (tổ, đội) hỗ trợ đã đồng loạt nổi dậy,
giành chính quyền. Ở một số địa phương, tuy chưa nhận được Lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng thực hiện Chỉ thị
“Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, các đảng bộ đã lãnh đạo quần chúng nhân dân, có các đội tự
vệ xung kích nổi dậy, giành chính quyền ở địa phương.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, cuộc tổng khởi nghĩa do các đảng bộ tỉnh, thành phố trực tiếp lãnh đạo
diễn ra trên cả nước rất đa dạng, phong phú. Hầu hết các tỉnh, thành phố đều tổ chức khởi nghĩa dưới hình thức
kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa đấu tranh chính trị với đòn tiến công quân
sự, trong đó lực lượng chính trị tiến hành đấu tranh chính trị đóng vai trò quyết định, lực lượng vũ trang thực
hiện đấu tranh vũ trang đóng vai trò chế áp lực lượng địch, kết hợp với sách lược mềm dẻo, cô lập và vô hiệu
hóa quân thù nên giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Trong tất cả các tỉnh, thành phố, đặc khu trong cả
nước tiến hành khởi nghĩa, có 36 tỉnh, thành phố về cơ bản ta tổ chức lực lượng khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện,
phát triển lên tỉnh lỵ, từ ngoại thành vào nội thành, rồi kết thúc ở một số huyện, xã còn lại; 15 tỉnh tổ chức lực
lượng tiến hành khởi nghĩa ở tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện và 11 tỉnh, đặc khu tổ chức lực lượng cùng khởi
nghĩa cả ở tỉnh lỵ và nông thôn trong một ngày.

Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở các tỉnh, thành phố, đặc biệt là thắng lợi ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8) và
Sài Gòn (25-8) đã tác động mạnh tới phong trào nổi dậy ở các địa phương trong cả nước. Nhờ tổ chức kịp thời
các đòn đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng có tự vệ vũ trang xung kích hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ đòn tiến
công quân sự của lực lượng vũ trang, chỉ trong nửa tháng (từ ngày 14-8 đến 28-8-1945), cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trên phạm vi cả nước đã giành thắng lợi, để ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và đặt cơ sở để xây dựng, phát triển toàn diện đất nước.

CHƯƠNG 2

Câu 2.1: Tại sao nói: Sau cách mạng tháng Tám nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”? Để giải
quyết tình thế trên, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương như thế nào?

Trả lời:

*Chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình thế “Ngàn cân
treo sợi tóc”. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng kéo vào, theo chúng là bọn tay sai thuộc các tổ chức
phản động, âm mưu cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, hơn 1 vạn
quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Ngoài ra, trên cả nước còn hơn 6 vạn
quân Nhật đang chờ giải giáp. Bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách
mạng. Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực lượng vũ trang còn yếu. Nạn đói vẫn chưa khắc phục. Hàng hoá
khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Di sản văn hoá lạc hậu của chế độ cũ rất nặng nề, hơn 90%
dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn phổ biến. Ngân sách Nhà nước trống rỗng...

*Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để tranh thủ thời gian củng
cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù. Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh
cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-
1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh,
Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hợp quốc nêu rõ thiện chí hòa bình, mong muốn Liên hợp quốc chấp
nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình. Đồng thời, Người liên tục gửi thư cho Chính
phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương để tìm cách cứu
vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi thiện chí, nỗ lực
của chúng ta. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của
13
Việt Nam, trong các ngày 15 và 16-12-1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17-12-1946,
chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên
Ninh. Ngày 18-12-1946, tướng Môlie gửi cho ta 2 tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ
mọi công sự và chướng ngại vật trên các đường phố, đòi để cho chúng giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố
nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động, chậm
nhất là sáng ngày 20-12-1946.

Vậy là kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước 2 con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại làm nô lệ; hai là
đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó, buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu. Chính vì vậy, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến. Đây là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức
mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cỗ vũ toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến trưởng kỳ giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Câu 2.2: Trình bày sách lược hòa hoãn của Đảng trong những năm 1945 – 1946 và ý nghĩa lịch sử?

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong ba thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế
kỷ XX. Thắng lợi đó đã tạo ra "một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta": chấm dứt sự áp bức,
bóc lột của thực dân Pháp tồn tại trong 87 năm (1858-1945) và sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại
ngót nghìn năm, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập…Cả dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời, chưa kịp củng cố và phát triển thì chính quyền cách
mạng phải đối phó với muôn vàn khó khăn: kinh tế nghèo nàn lạc hậu, ngân quỹ nhà nước trống rỗng, nạn đói,
nạn dốt, sự chống phá của các đảng phái phản động… nhưng khó khăn lớn nhất khiến vận mệnh dân tộc rơi vào
tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" đó là âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, đặc biệt là của quân Tưởng
và thực dân Pháp.

Để giữ vững chính quyền cách mạng, để bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân đã đạt được, trên
lĩnh vực ngoại giao, Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chính trị vô cùng
linh hoạt, sáng tạo đó là "cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược", triệt để lợi dụng mẫu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù, tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc.

Từ tháng 9-1945 đến trước tháng 3-1946, thực hiện việc nhân nhượng với quân Tưởng, chính quyền cách
mạng cung cấp 10 ngàn tấn gạo mỗi tháng cho quân đội Tưởng, thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về nhà ở, điều
kiện sinh hoạt, tạm thời cho phép lưu hành tiền Quan Kim trong phạm vi trao đổi hàng hoá giữa nhân dân ta với
quân đội Tưởng, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp lâm thời, dành 1 ghế Phó Chủ tịch nước, 4 ghế Bộ
trưởng và 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt Cách không thông qua bầu cử, tránh mọi xung đột với
quân đội Tưởng. Phải nhân nhượng với Tưởng nhưng Đảng ta cũng xác định phải giữ vững 2 nguyên tắc, đó là
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, chính quyền cách mạng và giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước; đồng thời kiên quyết trừng trị bọn tay sai phản cách mạng.

Với sách lược tạm hòa hoãn với quân Tưởng, chúng ta đã hạn chế đến mức thấp nhất mọi hoạt động phá hoại
của quân Tưởng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng, góp phần làm ổn định
mọi mặt ở miền Bắc, tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị
bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 28-2-1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch và thực dân Pháp ký Hiệp ước Hoa - Pháp tại Trùng
Khánh. Theo Hiệp ước này, quân đội Tưởng rút về nước nhường cho quân Pháp quyền giải giáp quân đội Nhật
của chúng ở miền Bắc Đông Dương. Đổi lại, Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung
Hoa, bán cho Tưởng đoạn đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều, nhượng cho Tưởng một đặc khu ở cảng Hải Phòng,
hàng hóa của Tưởng vận chuyển qua miền Bắc sẽ được miễn thuế.

14
"Hiệp ước Hoa - Pháp" là một sự chà đạp thô bạo đối với độc lập, chủ quyền của Việt Nam; buộc Đảng và
nhân dân ta phải lựa chọn một trong hai con đường: hoặc là đánh Pháp ngay từ khi chúng đưa quân ra miền Bắc,
hoặc là chủ động hoà hoãn với Pháp để đuổi 20 vạn quân Tưởng về nước, tránh tình thế cùng một lúc phải đối
phó với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, tiến
lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Lựa chọn giải pháp hòa với thực dân Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
chỉ rõ lập trường đàm phán của chúng ta là: "Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân ta… và sự
thống nhất quốc gia của ta".

Chủ trương hòa với thực dân Pháp được tiến hành thông qua việc ký kết bản "Hiệp định sơ bộ" (6-3-1946) và
bản "Tạm ước" (14-9-1946) giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp.

Mọi nỗ lực ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều bị tư tưởng hiếu chiến của thực dân
Pháp phá bỏ. Nhân dân Việt Nam một lần nữa phải đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.

Chủ trương "cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược" đã thể hiện rõ sự thông minh, sáng suốt, tài
tình, khéo léo, bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ
trương này được thực hiện thắng lợi không chỉ góp phần to lớn vào việc giữ vững nền độc lập, bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ, đưa dân tộc vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", cả nước có thêm thời gian
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với hoạt động ngoại
giao của Đảng và Nhà nước ta trong những giai đoạn sau này.

Ý nghĩa:

Nhờ có sách lược hòa hoãn với tưởng và Pháp mà chúng ta có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới

Qua đó cta rút ra được:

-lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất.

-bài học về việc kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng

- bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng

- bài học biết phân hóa kẻ thù

- bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng có nguyên tắc

Câu 2.3: Trình bày nội dung, ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp?
. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ
lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh - Hàng Bún (Hà Nội). Đồng
thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi phải tước hết vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật
tự ở Thủ đô.
- Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn Phúc,
Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên
đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà
hoãn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã quyết định hạ quyết
tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn
kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các
chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là: cuộc chiến tranh của
ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi
mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
15
Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào
công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một
số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
- Ngay sau cách mạng tháng Tám, trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta đã khẳng định kẻ thù chính
của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, trung ương
Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu
của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định
phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân
cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra ngày 5/11/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và
khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946)
và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947).

Nội dung:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn
cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh
toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính . Đường lối đó được
thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-
1945), Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị Hòa để tiến (9-3-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng
chiến (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm
Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947),...

Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất hoàn
toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...

Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực tham gia kháng
chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến
sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc.

Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang
tính quyết định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất,
tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.

Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa đánh
tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên
chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu
dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến
có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy
nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc
16
chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần
và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ
dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ,
hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Ý nghĩa:

- Việt Nam: Thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến buộc Pháp và Mỹ công nhận độc lâp chủ quyền giải
phóng Miền Bắc

- Quốc Tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và mở đầu cho sự sụp đổ Chủ Nghĩa
Thực Dân cũ trên thế giới, trươc tiên là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Bài học kinh nghiệm:

- Đảng ta xây dựng đường lối kháng chiến đúng đắn quán triệt sâu sắc.

- Kết hợp đúng đắn nhiêm vụ chống đế quốc và phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để gây mầm
móng cho Chủ Nghĩa Xã Hội.

- Thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hâu phương vững mạng.

- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ lâu dài nhất định thắng lợi.
Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã
làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng
phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở
rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu
tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở rộng địa bàn,
tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu
tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng
lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã
hội chủ nghĩa trên thế giới".

Câu 2.4: Trình bày nội dung cơ bản Chính cương của Đảng (2-1951) và ý nghĩa lịch sử?

Bài làm:

a) Nội dung cơ bản:

+ Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất
đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và
tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

+ Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng:

17
•Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.

•Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động.

+ Nhiệm vụ cách mạng:

•Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.

•Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng.

•Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.

Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc.

+ Động lực của cách mạng gồm: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những thân sĩ
(địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là
công nông, lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

+ Sắp xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng dân
tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ,
nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích:

Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.

Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân.

Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.

Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin mà công lao to lớn
thuộc về đồng chí Trường Chinh.

+ Phương hướng tiến lên của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất
định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua ba giai đoạn:

•Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.

•Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.

•Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội

Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.

+ Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.

+ Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ
nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.

+ Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết
Việt - Miên - Lào.

b) Ý nghĩa: Không biết

18
Câu 2.5: Trình bày nội dung và ý nghĩa đường lối chiến lược chung được Đảng ta thông qua tại Đại hội
lần thứ III (tháng 9-1960)?
Tóm tắt:
* Đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng ta được thông qua tạiĐại hội Đảng III (tháng 9/1960):
+ Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơsở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông
Nam Á và thế giới"
.+ Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:•Một là, tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.•Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ
và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến
lược khác nhau,mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền tronghoàn cảnh nước nhà tạm bị
chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và
bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc".
+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ chiến lược
ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".
+ Vị trí, tác dụng:
•Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu
thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định
nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
•Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con
đường hoà bình thốngnhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà
bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với
xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình
thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân
dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thựchiện thống nhất nước nhà là một quá trình
đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền
Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi
lên chủ nghĩa xã hội
diễn giải:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế giới có những đặc
điếm nổi bật sau đây: Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước tiến quan
trọng. Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã giành được thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm lung lay chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Phong
trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực
lượng chuyển sang thế tiến công. Trong thời điểm này, tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi, vừa là thuận
lợi, vừa là thách thức cho cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên
Xô và Trung Quốc đã có nhiều ảnh hường tích cực đến cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Đó là thuận lợi cơ bản cho cách mạng
Việt Nam ở cả hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong trào cộng sản mà tâm điểm là quan hệ Liên Xô -
Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và cũng ảnh
hưởng đến cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc - Nam đòi hỏi Đảng phải nhanh
chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành động, định hướng tư tưởng và
hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền. Mặt khác, đã gần 10 năm kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần
19
thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách mạng Việt Nam đã có nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước đã phát
triển, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho cả dân tộc ta trên con đường cách mạng gải phóng dân
tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cùng với sự thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một
nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc Việt Nam đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt
ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải sớm khẳng định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất
nước. Lần đầu tiên sau 30 năm hoạt động trong điều kiện bí mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội
có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước đến tham
dự Đại hội còn có đại biểu các đoàn thể và các đảng phái dân chủ trong nước và đại biểu của 16 đoàn quốc tế.
Nội dung chủ yếu của Đại hội:
Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà".
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày, thảo
luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Nhiệm vụ và
phương hướng của kế hoạch 5 năm lấn thứ nhất (1961 - 1965).
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết do Đại hội thông qua về nhiệm vụ và
đường lối của Đảng trong giai đoạn mới gồm những vấn để lớn sau:
- Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới
cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau: chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược
đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược cách mạng ở mỗi miền
của đất nước có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục tiêu chung là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng đă trở thành căn cứ địa cách mạng chung của cả nước. Tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng cường về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách
mạng ở miền Nam. bảo dám sự phát triển của cách mạng trong cả nước. Vì vậy, "cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc rỏ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc , dân chủ nhân
dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam "có tác dụng quyết định trực tiếp đối
vời sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai".
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng ở hai miền đều nhằm giải quyết
mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực
hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong thời ký mới là:
''Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
- Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong
kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đại hội đề ra "Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền Nam là đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô
Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam. thực hiện
độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chu và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống
nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước.
Đó là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai
của chúng ở miền Nam.
- Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
20
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo
luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội
xác định: cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, là một
quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá và kỹ thuật.
Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị khẳng định:
'Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc
ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cơ bản,
trong đó, cải cạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo nhằm tăng năng suất lao lộng, phát
triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. nhằm xâydựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội "Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây dựng một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng,
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông
nghiệp hiện đại".
Cùng với việc phát triển kinh tế, Nghị quyết Đại hội còn đề cập đến việc phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học-
kỹ thuật: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân: tăng cường đoàn kết quốc tế, vấn đề Đảng và công tác tổ chức
cán bộ của Đảng.
Căn cứ vào đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội đã thảo luận và
thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục tiêu: "phấn đấu
để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội; đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho kinh tế miến Bắc nước ta thành một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa".
Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội đề ra năm nhiệm vụ:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện.
- Hoàn thành công cuộc cảicách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh.
- Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng kinh tế và
công nhân lành nghề, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
- Đi đôi với kết hợp phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng, cho nên Đảng cần phải tăng
cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đốivới cuộc đấu tranh nhằm
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Muốn
thế, "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là phải tăng cường tính chất giai cấp và
tính chất tiên phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng".
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa III gồm có 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Bộ
Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm có 7 dồng chí. Đồng chí Hồ Chí
Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển mới của cách mạng nước ta do
Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Nghị quyết của Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở để toàn Đảng và toàn

21
dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành sự nghiệp
đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất lại nước nhà.
Ý nghĩa:

Ngày 10-9/1960, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn
mới; Thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Lao động Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội.

- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình
hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và
sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và
Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện
tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử,
vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.

- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân
dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

Câu 2.6: Trình bày đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng được đề ra trong Nghị quyết Trung ương
Đảng lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 và ý nghĩa của Nghị quyết?
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa thực dân
mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn xơn
quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” (The limited war) là
một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ, biểu hiện là đưa
quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên
chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình định. Đồng thời, đế
quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm
suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.

Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng. Trước
tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và hạ quyết tâm chiến lược:
“Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ
tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”47.

Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa và phát triển sáng tạo
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960), gồm các
nội dung lớn là:

Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh
lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã
có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến
hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế
thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào cứu vãn
được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung ương khẳng
22
định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi chống
Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố gắng đến
mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng
lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến
công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi
giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. “Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng
quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng”.

Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững
mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở
mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để
đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.

Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước,
miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ
miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là
thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc
về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hai
nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ
chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu
chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể hiện tư tưởng nắm vững,
giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân
tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn
cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang.

CHƯƠNG 3:

Câu 3.1: Trình bày quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau ngày 30-04-1975?
- Nguyên nhân cần thống nhất đất nước về mặt nhà nước: Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước

ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực

hiện bước quá độ này, rất nhiều nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là lãnh đạo

thống nhất nước nhà về mặt nhà nước cụ thể là thống nhất hai chính quyền khác nhau ở hai miền là Chính phủ
23
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở

miền Nam.

- Quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước:

o Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn thành thống nhất

nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy

mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải

đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thống nhất đất nước vưà là nguyện

vọng thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch

sử dân tộc Việt Nam. Cần xúc tiến việc thống nhất nước nhà một cách tích cực và khẩn trương. Thống nhất càng

sớm thì càng mau chóng phát huy sức mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ

của các thế lực phản động trong nước và trên thế giới.

o Dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 27-10-1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Hội nghị cử đoàn

đại biểu miền Bắc gồm 25 thành viên do đồng chí Trường Chinh làm trưởng đoàn để hiệp thương với đoàn đại

biểu miền Nam.

o Ngày 5 và 6-11-1975, tại Sài Gòn, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,

Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam, Chính phủ Cách mạng

Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và đại biểu các nhân sĩ, trí thức đã họp

hội nghị liên tịch và cử đoàn đại biểu miền Nam gồm 25 thành viên do đồng chí Phạm Hùng dẫn đầu để hiệp

thương với đoàn đại biểu miền Bắc.

o Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Bắc, Nam đã họp tại

Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất về

mặt nhà nước. Tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa

đầu năm 1976 theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

o Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 228-CT/TW nêu rõ tầm quan trọng của cuộc

Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc bầu cử.

o Thực hiện chủ trương đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội

chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri, đạt tỷ lệ 98,77% tổng số cử tri đi bầu,

đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại

biểu tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo... trên cả nước. Thắng lợi của

công việc bầu cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ

24
Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định

phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một

nhà”11.

o Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã họp tại Thủ đô

Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao

vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam, Thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội đã bầu Tôn Đức Thắng làm

Chủ tịch nước; Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước; Trường Chinh làm Chủ tịch

Quốc hội và Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội

đã và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp mới. Theo chủ trương của Đảng, các tổ chức chính trị-xã hội đều

được thống nhất cả nước với tên gọi mới: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí

Minh, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,...

- Ý nghĩa: Hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước là một trong những thành tựu nổi bật, có ý

nghĩa to lớn; là cơ sở để thống nhất nước nhà trên các lĩnh vực khác, nhanh chóng tạo ra sức mạnh toàn diện của

đất nước; là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó còn thể hiện tư duy chính

trị nhạy bén của Đảng trong thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.

Câu 3.2: Trình bày nội dung cơ bản, ý nghĩa và hạn chế của Đại hội IV của Đảng (12-1976)?

- Những nội dung cơ bản Đại hội:

o Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm (1976-1980),

Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản

Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự

khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng.

o Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khẳng định thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất và

đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có

tính thời đại sâu sắc.

o Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam trong

giai đoạn mới: “Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất

nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai là, Tổ quốc ta đã hòa

bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó

25
khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra12. Ba là, cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách

mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt”13. Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ

điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài,

đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng.

Trong ba đặc điểm trên, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách mạng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta.

o Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là: “Nắm

vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc

cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa,

trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ

trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây

dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa;

xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên

củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa

bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”. Trong đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về

chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản

xuất lớn, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ

tập thể của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

o Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã

hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và

công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương,

kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng

thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.

o Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa (1976-1980) nhằm hai mục tiêu cơ bản

và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ

nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; tăng cường

Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh

chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc

biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của

Đảng.

26
- Ý nghĩa: Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất

Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ vũ, động viên

toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di

chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Hạn chế: Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21

năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, vừa

xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa

làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong điều kiện đó không thể áp

dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất yếu phải thực hành chính sách bao cấp để

đáp ứng yêu cầu tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong điều kiện đó, chưa phát hiện những khuyết tật

của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá

trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết

thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế

nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương nóng vội, thực tế đã không thực

hiện được.

Câu 3.3: Trình bày những quan điểm mới được đề ra tại Đại hội V của Đảng (3-1982). Nêu ý nghĩa và
hạn chế của Đại hội.
*Những quan điểm mới:

Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những khó khăn

về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường.

Hiện nay nước ta đang ở chặng đường đầu tiên với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất nặng nề.

Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian

có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến lên cải thiện một bước đời

sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu

nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ

đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội. “Kinh nghiệm của 5 năm 1976-1980 cho thấy

phải cụ thể hóa đường lối của Đảng-đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng

nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vạch ra chiến lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá

trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” 1. Chặng đường trước mắt trong những năm 80 là ổn định và cải thiện

một bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã

hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xây dựng; đáp ứng nhu cầu của quốc phòng, giữ vững an

ninh, trật tự xã hội.

27
Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. “Trong khi không

một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu

nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là tập

trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên

sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng hàng tiêu dùng và

công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý. Nhận thức đó phù hợp với thực tiễn nước ta, khai thác

và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề..., làm cơ sở để thực hiện nhiệm

vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo.

*Ý nghĩa và hạn chế:

Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,

trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn; khuyết điểm là trong khâu tổ chức thực

hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức và cần thiết. Tuy nhiên, Đại hội chưa thấy hết sự cần

thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về

công tác quản lý lưu thông, phân phối; vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở

miền Nam trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng

một cách tràn lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng

tiêu dùng…

Câu 3.4: Trình bày ba bước đột phá kinh tế của Đảng thời kỳ trước đổi mới? Nêu ý nghĩa?
Bài làm:

a)Ba bước đột phá kinh tế:

-Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất "bung ra"

là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta.

+Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã

hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát

triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do;

khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức

(quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ

phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích

tính tích cực của người lao động,...


28
+Trên cơ sở đó, Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán

sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm cho người lao động thực sự

gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, đã bước đầu tạo

ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.

+Trên lĩnh vực công nghiệp, với Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết

định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng

trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng,bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực công nghiệp..

+Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6

khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời kỳ này như sau:

*Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở đầu có ý

nghĩa quan trọng.

*Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực lượng sản xuất" , “làm cho sản

xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo

ra động lực cho sản xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động. Những tư

duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.

Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư

tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tòi đổi mới

ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong

nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện

khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy

luật của sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.

- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh tế

với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ

cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh

xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận

sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá.

- Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem

xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề

thuộc về quan điểm kinh tế: a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận

hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; b) Trong cải tạo xã

hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

29
hội ở nước ta; c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng

quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng

quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý

nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

b)Ý nghĩa:

-Những thành công:

+Một là, quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng là xuyên suốt nhất quán, ngày

càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sự thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa

phát triển và hội nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy lý luận kinh

tế của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới và phát triển kinh tế trên

thực tế. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã trải qua nhiều giai

đoạn cả khó khăn và thuận lợi, đặc biệt là trong bối cảnh sự tan rã của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu ở thời

kỳ đầu đổi mới; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu…Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên

trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cho đến nay, thực tế đã chứng minh đây là con

đường đi đúng đắn bằng những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội mà nước ta đã đạt được trong gần 30 năm

qua.

+Hai là, đã hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế .

Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền

kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu, nhiều

thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước, trên cơ sở đó đã có những chủ trường, định

hướng đúng đắn về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, từ đó huy

động được tổng hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.

+Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế.

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước vừa xây dựng chế độ, chính sách vừa thực hiện mọi hoạt

động của nền kinh tế, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh.

Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ, đó là xây dựng và hoàn thiện thể chế,

tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu

sửa chữa những khuyết tật của thị trường và đảm bảo an sinh xã hội. Đồng thời, Nhà nước cũng đóng vai trò là

một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công.

+Bốn là, chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong cả nước và giữa trong nước và nước

ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chính sách “cởi

30
trói” để hàng hóa được tự do lưu thông cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi mới tư duy trong sản

xuất và phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang một nền kinh tế sản xuất hàng hóa, từ

một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trở thành một nền kinh tế thị trường được nhiều

nước trên thế giới công nhận .

+Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chuyển dịch từ chỗ coi

Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối (phân phối lần đầu và phân phối lại) sang việc coi thị trường

quyết định phân phối lần đầu và vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. Cơ chế phân bổ nguồn lực

bằng hiện vật và cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí hiệu quả, tập trung vào

những ngành, lĩnh vực trọng tâm đã góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong phân bổ ngân sách nói

riêng và nguồn lực xã hội nói chung. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng

ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo dựng được những tiền đề cần thiết cho sự

phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ

tăng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học

công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển.

Sáu là, cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, không phản ánh đúng quy luật giá trị, là một trong

những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã khắc

phục nhưng bất cập, hạn chế về giá, giá cả hàng hoá phản ánh giá trị hàng hoá, khắc phục được những mặt trái

về giá trong KTTT, đảm bảo ổn định và an sinh xã hội.

+Bảy là, khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó thị trường tài chính đã được chú

trọng, đặc biệt là thị trường vốn để tạo kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Phát triển thị trường

không chỉ bao gồm thị trường hàng hóa và dịch vụ mà còn cả thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, tài sản,

tiền tệ và sức lạo động.

+Tám là, nhận thức được vai trò tích cực của cơ chế thị trường và đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị

trường. Trong đó, Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, công cụ đòn bảy

kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Từng bước tách chức năng kinh doanh của doanh

nghiệp và chức năng quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, chủ sở hữu, hình thành các định chế tài

chính trung gian để thực hiện nhiệm vụ tín dụng chính sách của nhà nước cũng như đầu tư kinh doanh vốn nhà

nước.

Câu 3.5: Trình bày những chủ trương đổi mới được đề ra tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Ý nghĩa của
Đại hội VI.
*Những chủ trương đổi mới:

31
Đường lối đổi mới do Đại hội VI toàn diện trên các lĩnh vực, nổi bật ở những nội dung sau:

Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm

điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đó là những sai lầm nghiêm trọng

và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư

tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí,

lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa

“tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt

động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Một là, trong toàn bộ

hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ

thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại trong điều kiện mơi. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh

đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Về kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ

cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị

trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất

đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương

trình kinh tế lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung

công nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên

với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ

chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức

thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an

ninh. Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng

và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ

chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối

ngoại.

Về chính sách xã hội, Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần có

chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường

đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động. Thực

hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lo

đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo

trợ xã hội.

32
Về quốc phòng và an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết

đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ

quốc.

Về nhiệm vụ đối ngoại: Góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ

và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa;

bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên

thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương,

Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp

tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.

Về xây dựng Đảng: Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư tưởng; đổi

mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường

đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy

động lực lượng của quần chúng.

*Ý nghĩa:

Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát triển mới

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách mạng, tạo

bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là chưa tìm ra những

giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.

Câu 3.6: Trình bày sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII
(6-1991)? Làm rõ đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam.
*Sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng:

Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản

là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và

chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người

được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự

do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ

lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.

*Đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

33
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát ở tính chất tiên tiến của

nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở việc giữ gìn bản

sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền

thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).

Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia. Xu thế này, một

mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác làm nảy sinh nguy

cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế mà các chế độ chính trị -

xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; trong giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu

việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng phải được thể hiện không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của

đặc trưng về văn hóa vừa nêu, mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.

Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh
hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị
mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa,
làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Câu 3.7: Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991) được thông qua tại Đại hội VII (6-1991).

*Nội dung cơ bản:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua (gọi tắt là

Cương lĩnh năm 1991) đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; chỉ ra những thành công,

khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn. Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng

cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng

lợi của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản

là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và

chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người

được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự

do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ

lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.

34
Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền

nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến

cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã

hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tiến hành cách mạng xã hội chủ

nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị

trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện hai nhiệm vụ

chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường với

những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại. “ Mục tiêu tổng quát phải

đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với

kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ

nghĩa phồn vinh”.

Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống

chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm

nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

*Ý nghĩa lịch sử:

Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp

đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.

Câu 3.8: Trình bày những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định
tại Đại hội IX của Đảng (4-2001). Ý nghĩa của Đại hội IX.
Ngoài những nội dung tiếp tục đổi mới toàn diện, các văn kiện của Đại hội IX nổi bật với những nhận
thức mới về con đường xã hội ở nước ta:
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc: Khoa học và công nghệ tiến nhanh
chưa từng thấy; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu thế kỷ phong trào cách mạng phát triển rộng
toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào. Đối với nước ta, thế kỷ XX là
thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam; thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh
liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

35
Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tiếp theo (2001-2010) với mục tiêu tổng quát là đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại
Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn,
luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lối đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội;
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển.
- Phát triển kinh tế
- Những đổi mới về công tác tư tưởng, lý luận
- Những đổi mới về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
- Về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tq
Ý nghĩa
Đại hội IX của Đảng đã họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI,
cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ,
một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng cường can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực
Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực
mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ
của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta.

Câu 3.9: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X (7-2008).
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định

chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh

thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là

36
một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển nông

nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực; phát huy nội lực; đồng thời

tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho

nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp,

nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu

nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ,

có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng

nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Ba vấn đề này có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng phát triển kinh tế-xã hội bền

vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và

bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Trên cơ sở quan điểm đó Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải

pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới.

Câu 3.10: Trình bày những điểm bổ sung, phát triển chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) so với Cương lĩnh năm 1991.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm

2011), gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011 có kết cấu bốn phần cơ bản giữ như Cương lĩnh năm 1991 có bổ sung,

phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội dung từng phần.

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điểm mới:

-Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: 1/ Dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minhvà 2/ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng này cũng đã được

nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc trưng thứ nhất của Cương lĩnh

2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc

thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục

tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi

dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.

Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng tới

phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản

của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính
37
là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để

thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

-Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao động

làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân

dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái niệm

''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết

toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng

xã hội chủ nghĩa.

-Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng

sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có

nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là

cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng

giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu

chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở

hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ

sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong những bài học quan

trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất.

-Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh 1991

(cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn

kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc''

của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.

-Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn diện'' (trong

Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi

''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ

nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.

-Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết

và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình

đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh

thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''.

Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội

38
dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và

''giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.

-Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có quan hệ hữu

nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương

lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế

giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''.

Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà

nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.

Câu 3.11: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tại Hội nghị Trung ương 9, khóa XI (5-2014).
Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, đất nước đã đạt những thành

tựu rất nổi bật về phát triển văn hóa. Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong xây dựng và phát triển văn hóa

chưa tương xứng với yêu cầu và chưa vững chắc; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị;

giữa các lĩnh vực của văn hóa; chưa tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế-xã hội, đến xây dựng con người.

Trong bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế; sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhất là công

nghệ thông tin, truyền thông; quá trình toàn cầu hóa, trong đó có toàn cầu hóa về văn hóa đã và đang đặt ra

những yêu cầu mới. Hội nghị Trung ương 9 (5-2014) đã chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa, con

người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương: Văn hóa là

nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang

hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất

trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong

xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ

bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn

hóa, chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người

mới. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân

là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội

ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Câu 3.12: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XI (11-2013).
Hội nghị Trung ương 8 (11-2013) đã ra Nghị quyết “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
39
nhập quốc tế”. Cái mới của Nghị quyết này không chỉ ở nhận thức mà cả trong chỉ đạo thực tiễn phải coi giáo

dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục

tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng,

sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình,

cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trung ương đã nêu ra các

nhiệm vụ và giải pháp nhằm chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn

diện năng lực và phẩm chất người học; gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ

khoa học và công nghệ. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình

độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo

dục và đào tạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu hội nhập

quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.

Câu 3.13: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được thông qua tại Hội nghị Trung
ương 9, khóa XII (10-2018).
Hội nghị Trung ương 8 (10-2018) đề ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và
tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc. Biển là bộ phận cấu thành chủ
quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững,
thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ
vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì
môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam. Trung ương
đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và năm 2045, một số chủ trương lớn và khâu đột
phá, các giải pháp để thực hiện Chiến lược biển tiếp tục phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong nhiều
năm tới.

Contents
Câu 1: Trình bày những chuyển biến mới của tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX tác động đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?.....................................................1
Câu 2: Trình bày khái quát chính sách cai trị của thực dân Pháp và tác động của chính sách đó
đến xã hội Việt Nam?..................................................................................................................................................... 1
Câu 3: Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam?..................................................................................................................................................................................... 2
Câu 4: Trình bày sự phát triển phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam 1919-
1930 và giải thích tại sao giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt
Nam?..................................................................................................................................................................................... 4

40
Câu 5: Phân tích đường lối cách mạng thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 2 năm 1930)? Ý nghĩa của Cương lĩnh đối với tiến trình cách mạng
Việt Nam?........................................................................................................................................................................... 7
Câu 6: Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, hãy chứng minh: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời là một tất yếu?........................................................................................................................................................... 7
Câu 7: Phân tích nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 và rút ra nhận
xét?........................................................................................................................................................................................ 8
Câu 8: Nêu những điểm giống và khác nhau về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền được xác
định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của
Đảng?.................................................................................................................................................................................... 9
Câu 9: Vì sao Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong
giai đoạn 1939-1945? Nội dung chủ trương chiến lược mới của Đảng được thông qua tại Hội
nghị BCHTW 8 (tháng 5 năm 1941)?................................................................................................................... 11
Câu 10: Làm rõ nguyên nhân Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)? Đảng Cộng sản Đông Dương đã
có chủ trương như thế nào? Ý nghĩa của chủ trương?................................................................................. 12
Câu 11: Phân tích chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng trong
cách mạng tháng Tám năm 1945?......................................................................................................................... 12
Câu 2.1: Tại sao nói: Sau cách mạng tháng Tám nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”? Để giải quyết tình thế trên, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương như
thế nào?............................................................................................................................................................................. 13
Câu 2.2: Trình bày sách lược hòa hoãn của Đảng trong những năm 1945 – 1946 và ý nghĩa lịch
sử?....................................................................................................................................................................................... 14
Câu 2.3: Trình bày nội dung, ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp?................................15
Câu 2.4: Trình bày nội dung cơ bản Chính cương của Đảng (2-1951) và ý nghĩa lịch sử?............17
Câu 2.5: Trình bày nội dung và ý nghĩa đường lối chiến lược chung được Đảng ta thông qua tại
Đại hội lần thứ III (tháng 9-1960)?........................................................................................................................ 18
Câu 2.6: Trình bày đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng được đề ra trong Nghị quyết
Trung ương Đảng lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 và ý nghĩa của Nghị quyết?..........................22
Câu 3.1: Trình bày quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước sau ngày 30-04-1975?........23
Câu 3.2: Trình bày nội dung cơ bản, ý nghĩa và hạn chế của Đại hội IV của Đảng (12-1976)?...25
Câu 3.3: Trình bày những quan điểm mới được đề ra tại Đại hội V của Đảng (3-1982). Nêu ý
nghĩa và hạn chế của Đại hội................................................................................................................................... 27
Câu 3.4: Trình bày ba bước đột phá kinh tế của Đảng thời kỳ trước đổi mới? Nêu ý nghĩa?.....28
Câu 3.5: Trình bày những chủ trương đổi mới được đề ra tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Ý
nghĩa của Đại hội VI.................................................................................................................................................... 31
Câu 3.6: Trình bày sáu đặc trưng cơ bản xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được xác
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông
qua tại Đại hội VII (6-1991)? Làm rõ đặc trưng về nền văn hóa Việt Nam.........................................33
Câu 3.7: Trình bày nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991) được thông qua tại Đại hội VII
(6-1991)............................................................................................................................................................................. 34
Câu 3.8: Trình bày những nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được xác định tại Đại hội IX của Đảng (4-2001). Ý nghĩa của Đại hội IX.............................................35
Câu 3.9: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X (7-2008)...........................36
Câu 3.10: Trình bày những điểm bổ sung, phát triển chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) so với Cương lĩnh năm
41
1991..................................................................................................................................................................................... 37
Câu 3.11: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tại Hội nghị Trung ương 9,
khóa XI (5-2014)............................................................................................................................................................ 38
Câu 3.12: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 8,
khóa XI (11-2013)......................................................................................................................................................... 39
Câu 3.13: Trình bày các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được thông qua tại
Hội nghị Trung ương 9, khóa XII (10-2018)...................................................................................................... 40

42

You might also like