You are on page 1of 27

VẤN ĐỀ ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

NĂM HỌC 2021 - 2022

1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và giá trị của Cương lĩnh. – 36 or 28
- Nội dung:
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương
trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản như sau:
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.
- Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Cương lĩnh
đã xác định: chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc
được đặt ở vị trí hàng đầu.
- Xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân, đây là lực lượng cơ
bản đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để
tập trung chống đế quốc và tay sai.
- Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định
phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng.
- Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
=> Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt”, nhưng đã phản
ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng
Việt Nam sang một trang sử mới.
* Giá trị của Cương lĩnh đối với CMVN
- Có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn
+ Lý luận:
 Phản ánh xúc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng VN:
Trong đó thể hiện Bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong vc đánh giá
dd, tính chất của XH thuộc địa nửa pk VN trong những năm 20 của tk 20, chỉ rõ
những mâu thuân cơ bản chủ yếu của dân tộc VN lúc đó. Đặc điểm là đánh giá
đúng và xác thực thái độ của các giai cấp, tầng lớp XH vs Nhiệm vụ gpdt  XĐ
được đường lối cl, sách lược của CMVN, pp cach smangj, Nv cách mạng, ll cm,
để thực hiện đl sách lược đề ra.
 Những nội dung clct là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của cn mác vào đk hc VN
– 1 xh thuộc địa nửa pk. Đó là gq đ đ các mqh cốt lõi, kết hợp đ đ các vđ giai cấp
và dtoocj, truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta, với
những kinh nghiệm của cách mạng thế giới, kết hợp cn yêu nước và cn quốc tế
trong sáng, sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo đặc điểm thực tiễn ,yêu cầu
cm VN với tư tưởng tiên tiến cm của thời đại, vẫn dụng chủ nghĩa mác lê nin vào
cmvn sáng tạo, có phát triển trong đk lịch sử mói
 Những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên trong cmvn phản ánh
phản ánh được quy luật khách quan của xã hội vn, đáp ứng nhu cầu cấp bách
của XHVN, phù hợp vs xu thế thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho
tiến trình của cách mạng việt nam
+ Thực tiễn
 Thực tiễn cmvn từ khi đảng ra đời đến nay khẳng định tính đúng đắn clct đt, đi
theo cưỡng linh đó, cmvn từ khi đảng ra đơi đã làm dưới sự lãnh đạo của đcs vn,
đã làm thay đổi vận mệnh của dân tộc, thay đổi thân phận của người dân và từng
bươc khẳng định vị thế của VN trên trường quốc tế.
Có thể khẳng định:Mọi thắng lọi của cmvn trong xã hội hđ này đều gắn liền với
vai trò lãnh đạo của DCS vn và cương lĩnh chính trị đầu tiên là mở đầu cho thắng
lợi đó. Từ khi đảng ra đời 1930, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản vn , sự chỉ
đường soi đường của clct đt, cmvn đi từ thắng lợi này đến tl khác: 1945- cmt 8
thành công, 1954- chiến thắng điện biên phủ miền bắc hoàn toàn giải phóng, 1975-
chiến dịch hồ chí minh lịch sử , giải phóng miền nam thống nhất đất nước, 1986-
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn như ngày nay
 Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong cương lĩnh ctđt của đảng -
> vn ta từ 1 xứ thuộc địa nửa pk -> trở thành 1 quốc gia độc lập ,tự do, phát triển
theo con đường xhcn, nd vn từ thân phận nô lệ trở thành ngươi làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội, đất nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, kém phát triển,. Nagyf
nay, dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vị thế vn ngày càng khẳng định
được vị trí trong khu vực và trên trường quốc tế.
Chủ tịch HCM: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa
số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác
thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường. Dưới ánh sáng soi
đường của cương lĩnh, đảng ta đã dẫn dắt dân tộc vượt qua mọi khó khăn thử
thahcs, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, và đang
trên đà đưa đất nước trở thành dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh
 Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là
ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn.
Khi đánh giá về qúa trình cách mạng VN 80 năm thực hiện clct đầu tiên của đảng,
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên cnxh , được bổ xung phát
triển 2011 đã nhận định: từ năm 1930 đên snay đnagr cộng sản vn do cti hcm sáng
lập và rèn luyện đã lãnh đạo nd ta tiến hành cuộc dấu tranh ,vượt qua muôn vàn
khó khăn thử thách, và giành được những thắng lợi vĩ đại. Thắng lợi cm T8/1945
đạp tan ách thống trị của thực dân phong kiến Lập lên đất nước vn dcch, đưa
dân tộc ta vào kỉ nguyên của dộc lập tự do. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
xâm lược, đỉnh cao là chiến thắng đb phủ 1954, đại thắng mùa xuân 1975, giải
phóng dân tộc thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế,
thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành cnh-hđh, hội nhập quốc tế đưa đn từng
bước quá độ lên cnxh với nhận thức và tư duy mới, phù hợp vơi thực tiễn việt nam
Như vậy, với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ được bổ xung
2011 Khẳng định những giá trị và ý nghĩa giá trị của clct đầu tiên của đảng
TÍNH SÁNG TẠO
- Chánh cương vắn tắt: phương hướng
2. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1939-1941). Ý nghĩa.
a)Bối cảnh lịch sử
- Ngày 1/9/1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước trực tiếp
tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở
trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
- Ngày 22/6/1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công
Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng
dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
- Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay
đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng
sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người,
sức của phục vụ chiến tranh.
- Tháng 9/1940 phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng. Chịu
cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về
chính trị, bần cùng về kinh tế.
b)Chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng
Nội dung chuyển hướng:
-đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
-Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh).
- quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang.
Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
- Giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương
đúng đắn.
- Giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành
thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho
nhân dân
3. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. 64 or 56
Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất
dân chủ mới thể hiện:
+ Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung
giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
với đế quốc xâm lược và tay sai.
+ Lực lượngcách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt Minh
với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi lực
lượng dân tộc lên trận địa cách mạng.
+ Thành lập chính quyền nhà nước của chung toàn dân tộc theo chủ trương của Đảng, với
hình thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc.
3.4.2. Ý nghĩa lịch sử
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiền xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc
trong hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế suốt 1000 năm và
ách thống trị của phát xít Nhật.
- Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở
thành người tự do, người làm chủ vận mệnh của mình.
- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một
đảng cầm quyền và hoạt động công khai.
- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho phong trào đấu
tranh giành độc lập và chủ quyền.
- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
- Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin và những sáng tạo của Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
3.4.3. Bài học kinh nghiệm
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc
và chống phong kiến.
Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông.
Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra bộ máy
Nhà nước của nhân dân.
Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Sáu là, xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
4. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm
1950.

Hoàn cảnh.

- Cuối tháng 11/1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm Hải Phòng,
Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn công vào các vùng tự do của
ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

- Trong các ngày 16 và 17/12/1946, quân đội Pháp ở Hà Nội ngang nhiên tấn công đánh
chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính của ta; bắn đại bác gây ra vụ thảm sát
đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún.

- Ngày 18/12, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính
phủ Việt Nam, đưa liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp; giải tán lực lượng
tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ an ninh, trật tự của thành
phố...

- Ngày 12/12/1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.

- Ngày 18/12/1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) họp tại làng Vạn
Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) đã đề ra chủ trương đối phó và
quyết định phát động toàn dân, toàn quốc tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp.

- Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng
định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập, tự do.

- Bắt đầu từ 20 giờ ngày 19/12/1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, quân và dân Hà
Nội và ở các đô thị từ bắc vĩ tuyến 16 trở ra đã đồng loạt nổ súng, cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ.

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát
triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Đường lối đó được thể
hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25/11/1945),
Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3/3/1946), Chỉ thị Hòa để tiến (9/3/1946), Chỉ thị Toàn dân
kháng chiến (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/12/1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8/1947),...

Nội dung đường lối:

+ Mục đích kháng chiến: tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp
xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.

+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh
chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

+ Chính sách kháng chiến: Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp.
Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân,
thực hiện toàn dân kháng chiến...phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.

+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.

+ Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.

=> Đường lối kháng chiến của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

4.1.2.2. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950

1. Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947

- Ngày 6/4/1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương,
nhấn mạnh việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp, củng cố chính quyền
nhân dân ở vùng địch tạm chiếm, phát động chiến tranh du kích, đẩy mạnh công tác ngoại giao
và tăng cường công tác xây dựng Đảng...

- Về quân sự
+ Thu Đông 1947, Pháp đã huy động khoảng 15.000 quân, gồm cả ba lực lượng chủ lực lục
quân, hải quân và không quân, hình thành ba mũi tiến công chính tiến lên vùng ATK Việt Bắc.

+ Để đối phó với cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc, ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp.

+ Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21/12/1947, quân và dân ta đã
lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng
ngàn tên địch, phá hủy hàng trăm xe cơ giới, bắn chìm nhiều tàu xuồng và nhiều phương tiện
chiến tranh khác.

+ Ta đã bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế
hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.

- Phát huy thắng lợi, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để làm
thất bại âm mưu của Thực dân Pháp trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao.

- Tháng 11/1949, Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Lực lượng ba
thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) được phát triển nhanh chóng.
Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh và phát triển nhanh trong 2 năm 1948, 1949.

- Từ cuối năm 1948 đầu năm 1949, Trung ương Đảng chủ trương tăng cường phối hợp
chiến đấu với quân, dân Lào, Campuchia và Trung Quốc. Trực tiếp đưa bộ đội tham gia hỗ trợ
quân giải phóng Trung Quốc trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn ở khu vực biên giới Việt -
Trung…

2. Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950

- Từ giữa năm 1949, tướng Revers (Rơve) - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp đề ra
kế hoạch mở rộng chiếm đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt biên giới Việt -
Trung.

- Tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch quân sự
lớn tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt - Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (Chiến
dịch Biên giới Thu Đông 1950), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng
căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên giai đoạn mới.

- Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của quân và dân ta diễn ra không nghỉ trong suốt
30 ngày đêm liên tục, từ ngày 16/9 đến 17/10/1950 và đã giành được thắng lợi to lớn, “đạt được
mục tiêu diệt địch, kết thúc thời kỳ chiến đấu trong vòng vây”. Chiến thắng này đã mở ra cục
diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn.

5. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung cơ bản của Đại hội III của Đảng (9/1960). Ý nghĩa lịch
sử. – (102 or 94)

1. Hoàn cảnh lịch sử:

- Giua lúc cách mạng 2 miền Nam – Bắc có những bước tiến quan trọng:

+ Miền Bắc: vừa hoàn thành khôi phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và cải cách
ruộng đất cùng với cải tạo công thương nghiệp

+ Miền Nam: phong trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối
năm 1959 và trở thành Phong trào Đồng Khởi từ đầu năm 1960.

=> Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III từ ngày 5 đến
10/9/1960 tại Hà Nội.

2. Nội dung: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960):
- Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam: xác định nhiệm vụ thực hiện đồng thời
hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:
+đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
+ tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
 thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
- Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách
mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song
trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống
nhất đất nước.
- Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên
"Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc
đẩy lẫn nhau".
- Vị trí, tác dụng:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ
địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với
sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực
hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước.
- Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị
Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt
Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù
hợp với xu hướng chung của thế giới. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao
cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước
ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ
quốc.
-  Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất
nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu
dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối
cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả
nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng.

- Thông qua kế họach 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

- Bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn
làm Tổng Bí Thư. 

4. Ý nghĩa:

- Đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo

- Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Là cơ sở để toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện
hoà bình, thống nhất nước nhà.

6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới
kinh tế 1982- 1986.

Đại hội V của Đảng (3/1982)


- Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982.
Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên cả nước, có 47 đoàn
đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế. Đại hội gồm 116 ủy viên chính thức, Bộ Chính
trị gồm 13 ủy viên chính thức. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư của
Đảng.
- nhiệm vụ kiểm điểm những hoạt động của Đảng từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV (tháng 12/1976), đánh giá những thành tựu và khuyết điểm, phân tích thực trạng
kinh tế xã hội nước ta và những nguyện nhân dẫn đến thực trạng đó. Đồng thời chỉ ra
những phương hướng cơ bản để tháo gỡ khó khăn, tíêp tục đưa đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
- Đại hội thảo luận và thông qua các văn kiện: Báo cáo chính trị; Phương hướng, nhiệm
vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981- 1985) và những
năm 80; Báo cáo xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng (bổ sung và sửa đổi). Nội dung cơ bản
của những văn kiện đó là:
Một là, chỉ ra ba thắng lợi trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV.
Hai là, xuất phát từ thực tiễn, Đại hội đã nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
nước ta trong giai đoạn mới là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có
quan hệ mật thiết với nhau.
Ba là, đưa ra khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, bao gồm thời kỳ 5 năm
(1981 - 1985) và kéo dài đến năm 1990, "là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc
biệt", nhiêm vụ cần thiết trước mắt là ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Bốn là, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý một cách đồng bộ, lấy kế hoạch nhà nước làm
trung tâm, đồng thời coi trọng các đòn bẩy kinh tế, vận dụng các quan hệ thị trường,
khuyến khích sáng kiến và tài năng, nâng cao hiệu lực điều hành của các cấp, làm cho kế
hoạch nhà nước thật sự là cương lĩnh thứ hai của Đảng, là công cụ trung tâm của hệ thống
quản lý.
Năm là, đề ra một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1981 - 1985): sản
xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm là 6 - 7%, sản xuất công nghiệp tăng bình
quân khoảng 4 - 5%, thu nhập quốc dân tăng bình quân 4,5 - 5%, sản lượng lương thực
tăng 32%...
Về công tác đối ngoại, đại hội xác định: ra sức tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội chủ trương xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một
Đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao và gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
5.2.2. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
Bước đột phát thứ nhất, Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8-1979) chủ trương
xóa bỏ các rào cản chính sách để làm cho sản xuất “bung ra”.
Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (15-23/8/79) “tìm kiếm lối thoát” cho nền kinh tế ra khỏi
khủng hoảng, trì trệ với những chủ trương, biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết,
đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, làm cho sản xuất
“bung ra”; tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tự do lưu
thông hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ”. Đặc biệt là Chỉ thị 100-CT/TW của Ban
Bí thư ngày 13/01/1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm
lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp...
Về Quyết định 25/CP ngày 21/01/1981 là phát huy quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh và
quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Nghị quyết 26/CP của Hội
đồng Chính phủ về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình
thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước.
Bước đột phá thứ hai, Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) chủ trương xóa
bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang
cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy “Giá-lương-tiền” làm khâu đột phá.
Bên cạnh đó, còn có Kết luận Bộ Chính trị (20/9/86) về thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần, cho phép sở hữu các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý, xóa
cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp thực hiện hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa…; đổi mới cơ cấu kinh tế, phải “thật sự coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu”.
Bước đột phá thứ ba, Hội nghị Bộ Chính trị (Khóa V, tháng 8-1986) đưa ra kết luận về 3
quan điểm kinh tế, là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng.
Về cơ cấu sản xuất, Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu
đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo
của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
*Ý nghĩa đối với đổi mới nhận thức tư duy về kinh tế của Đảng
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng bắt đầu
từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết theo
chuyển động thị trường.
=>Các bước đột phá: Thứ nhất là Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (Tháng 8/1979), thứ
hai là Hội nghị Trung ương 8 khóa V (Tháng 6/1985), thứ ba là Hội nghị Bộ chính trị
khóa V (Tháng 8/1986) phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng
kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối
đổi mới.
Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho
rằng, “đây là những bước ngoặt lớn trong tư duy lãnh đạo. Chính đổi mới đã khơi dậy sức
mạnh toàn dân, giải phóng sức lao động và đưa đến những thành công như hôm nay…, là
mốc lớn đánh dấu việc chính thức đổi mới của Đảng ta. …Mốc Đại hội 6 cực kỳ quan
trọng, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ sự thật, nói đúng sự thật và nhấn xoáy vào điểm là
đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khó lắm, tức là đổi mới cái đầu của mình. Tư duy ở đây
trước hết là tư duy về kinh tế. Đảng ta đang đi đúng trọng tâm của nó”
7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986).

- Nhu cầu đổi mới


+ Đường lối do Đại hội IV (năm 1976) và Đại hội V (năm 1982) đề ra đã phạm nhiều sai
lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo
xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế khiến cho đất nước lâm vào khủng hoảng KT-XH
trầm trọng.
+ Về đối ngoại, nước ta ở vào tình thế bị các thế lực thù địch cô lập, bao vây, cấm vận,
phải chống lại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt do bọn bành trướng, bá quyền gây ra.
+ Đầu những năm 80 nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng.
+ Đổi mới bắt đầu từ dưới lên.Trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, các đổi mới cục
bộ (còn gọi là làm chui hoặc xé rào) đã diễn ra ở nhiều địa phương và đơn vị trong toàn
quốc.
+ Đại hội họp từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu
thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước và 32 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức
quốc tế.
+ Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” ĐH
VI (năm 1986) đã “phân tích đúng đắn nguyên nhân (chủ quan) của tình hình khủng
hoảng kinh tế - xã hội từ nhiều năm trước, đề ra các định hướng lớn để từng bước thoát
khỏi tình trạng đó”.
- Nội dung Đại hội
+ Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm,
khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976 - 1986).
+ Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách
mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và
nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.
+ Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách
lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của
những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ
về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng
buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và
nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
+ Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân
tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo.
+ Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình
kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ
thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các
thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng
dân chủ, giữ kỷ cương phép nước.
Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
+ Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ
thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ
cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa; phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
+ Trong hệ thống các giải pháp, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực vào việc thực
hiện được ba chương trình, mục tiêu: 1. Lương thực - thực phẩm; 2. Hàng tiêu dùng; 3.
Hàng xuất khẩu. Đây là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
+ Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại nhằm góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Dương,
Đông Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn
diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc
vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
+ Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, thực hiện khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra", tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động
lực lượng to lớn của quần chúng.
+ Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội nêu rõ
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ
chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
+ Đại hội đã thông qua bản Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu Ban Chấp hành Trung ương
khoá VI gồm 124 uỷ viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức, 01 uỷ viên dự khuyết. Ban Bí
thư gồm 13 đồng chí. Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội VI
của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên.
=> Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội thể hiện sự kết tinh trí tuệ của
toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước
và trước dân tộc. Sau Đại hội, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng
bước đạt được những thành tựu rất quan trọng.
8. Quá trình lãnh đạo xây đựng nền KTTT định hướng XHCN từ ĐH IX đến ĐH XIII.
6.2.1. Quá trình nhận thức của Đảng về KTTT từ ĐH VI đến ĐH VIII
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng chỉ rõ: Thực chất của
cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh
doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đại hội lần thứ VII (6/1991) Đảng khẳng định: tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Trong cơ chế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh. Nhà
nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn đắt các thành phần kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường.
- Đại hội lần thứ VIII (6/1996) của Đảng chỉ rõ tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN.
=> Qua ba Đại hội lần VI, VII, VIII của Đảng cho thấy điểm nổi bật của thời
kỳ1986-1996 là Đảng thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường, cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà
là thành tựu phát triển chung của nhân loại, không đối lập với CNXH.
+ Thứ 2: Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
+ Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Kinh tế thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
6.2.2. Quá trình lãnh đạo xây đựng nền KTTT định hướng XHCN từ ĐH IX đến
ĐH XIII
- Đại hội IX của Đảng (2001) lần đầu tiên xác định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đó là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
- Đại hội XI của Đảng (2011) xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Đại hội
chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hình thức kinh tế thị
trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội và yêu cầu hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại.
- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại
hội XII (2016) của Đảng xác định: Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng
XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và
hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Đại hội Đảng XIII (2021) khẳng đình nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là
nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được
khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội.
6.2.3. Kết quả thực hiện
6.2.3.1. Hoàn thiện nhận thức KTTT
Trong hơn 35 năm đổi mới, nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước
ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã từng bước hình
thành, được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện, phù hợp với quy luật khách quan,
thực tiễn của đất nước và xu hướng chung của thế giới, của thời đại:
+ Từ nhận thức, quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường, xem kinh tế thị trường là
đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư sản, đối lập kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội,
Đảng đã từng bước thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, cần thiết của kinh tế thị
trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Nhận thức về vai trò và chủ trương phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ thừa
nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu toàn dân (nhà nước) và tập thể về
tư liệu sản xuất, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, Đảng đã
thừa nhận sự tồn tại, khuyến khích phát triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nhận thức về phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Từ
chỗ tất cả giá cả sản phẩm hàng hóa mua bán, lưu thông đều do Nhà nước quyết định, khi
chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, ban đầu, Đảng chủ trương thực hiện cơ chế hai
giá, một giá vẫn do Nhà nước quyết định (đối với một số hàng hóa có ảnh hưởng, tác
động lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân) và một giá do người sản xuất, kinh doanh
quyết định (đối với các hàng hóa do họ sản xuất kinh doanh).
+ Nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ không được thừa nhận, rồi được xem chỉ
là yếu tố hỗ trợ cho kế hoạch, vai trò, chức năng của thị trường được nhận thức ngày càng
đầy đủ; thị trường được xác định đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các
nguồn lực, xác định giá cả, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, lưu thông của hàng hóa,
là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.
+ Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức của Đảng đã phát triển từ mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế tới chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; từ đẩy mạnh
các hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài tới ký kết các hiệp định thương
mại, đầu tư song phương, đa phương, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế; đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế.
+ Nhận thức về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Định hướng
xã hội chủ nghĩa là yêu cầu được Đảng đặt ra ngay từ khi xác định nền kinh tế nước ta là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (Đại hội VII) và nền kinh tế thị trường (Đại hội
IX). Tuy nhiên, nhận thức về những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
chỉ được hoàn thiện từng bước.
+ Nhận thức về yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cần
phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội; đẩy
mạnh, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong
Đảng và trong xã hội để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng.
6.2.3.2. Hoàn thiện thể chế KTTT
+ Đã hình thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động. Vai trò của Nhà nước đã được điều
chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, về cơ bản, đã thiết lập được khung pháp luật và
bộ máy thực thi hiệu quả hơn.
+ Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ từng bước hình
thành đồng bộ, vận hành cơ bản thông suốt và bước đầu có sự gắn kết với thị trường khu
vực và quốc tế.
+ Thể chế phát triển thị trường bất động sản và quyền sử dụng đất được hoàn thiện
và hoạt động bền vững hơn, huy động được nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội.
+ Các giải pháp phát triển thị trường lao động được chú trọng thực hiện; công tác
nghiên cứu, dự báo, khớp nối cung - cầu lao động và cập nhật hệ thống thông tin thị
trường lao động được tăng cường. Thể chế thị trường khoa học và công nghệ ngày càng
được hoàn thiện và phát triển.
+ Nhìn chung, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được
hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập tuy nhiên thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành
thông suốt, hiệu quả. Một số thị trường chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc,
nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ. Một số quy định
pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, chưa ổn định. Vẫn còn các
điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, ban hành giấy phép con trái quy định. Thiếu cơ
chế, chính sách thí điểm các mô hình kinh doanh mới, mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu
quả tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã.
6.2.3.3. Hoàn thiện các thành phần kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần
kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật, đều là những bộ phận hợp
thành của nền kinh tế; khi tuân thủ đầy đủ luật pháp, chính sách của nhà nước, đóng góp
tích cực vào phát triển đất nươc, nâng cao đời sống nhân dân đều được khuyến khích và
trân trọng. Tuy nhiên, mỗi thành phần kinh tế, đồng thời, có vai trò riêng, khác nhau.
Kinh tế nhà nước được xác định giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể là nền tảng,
kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế:
+ Đối với kinh tế tư nhân, từ chủ trương phát triển kinh tế hộ gia đình trong nông
nghiệp, Đảng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong
các lĩnh vực, các ngành kinh tế, rồi đi tới xác định kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là
một động lực của nền kinh tế. Hiện nay, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp tư nhân
được kinh doanh ở mọi ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
+ Kinh tế nhà nước được xác định có vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể từng
bước trở thành nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng
thời, Đảng yêu cầu phải tăng cường quản lý tài sản công, các nguồn lực nhà nước (đất đai,
tài nguyên, vốn nhà nước); cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư công và đẩy mạnh sắp
xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước.
+ Đối với các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, Đảng chủ trương đổi mới cả về
tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường. Các hợp tác xã phải
hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện của các thành viên, làm chức năng cung cấp dịch
vụ cho các thành viên, hỗ trợ cho các thành viên trong vay vốn, ứng dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ, tiêu thụ sản phẩm… để giảm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
6.2.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Trong hơn 30 năm vừa qua, kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã tiến
từ chỗ phá thế bao vây cấm vận, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với các nước sang
việc đàm phán, ký kết gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế, ký kết các hiệp nghị
thương mại tự do thế hệ mới với các nước và khu vực, đặc biệt là Hiệp định Đối tác toàn
diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa EU
và Việt Nam (EVFTA).
+ Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta mới đang dừng ở cấp độ nông của hội nhập kinh
tế quốc tế, nghĩa là mới từng bước dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại và đầu tư quốc
tế. Hội nhập kinh tế quốc tế theo chiều sâu đòi hỏi phải có sự hài hòa chính sách các tiêu
chuẩn, phải nâng cấp thể chế hành chính và kinh tế lên tầm hiện đại và quốc tế, gia tăng
hiệu quả của quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư.
9. Đặc điểm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nhà nước của dân, do dân và vì dân.


- Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho
Hiến pháp, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực hành dân chủ,
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo,có sự
giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên của Mặt trận.
10. Tầm quan trọng, nội dung của chiến lược xây dựng con người mới trong giai đoạn hiện
nay.
 Tầm quan trọng của chiến lược xây dựng con người mới trong giai đoạn hiện nay

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định con người là một thực thể tự nhiên, đồng thời là
một thực thể xã hội mang bản chất xã hội.
- Theo Mác, xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người cũng tạo ra xã hội ở mức
độ đó.
- Theo V.I.Lênin, chính từ trong cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây
dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, những con người mới được hình thành. Họ là sản
phẩm của lịch sử đồng thời cũng là chủ thể góp phần sáng tạo lịch sử: Chúng ta phải xây
dựng con người mới từ những vật liệu mà xã hội cũ đã để lại. Và chính trong quá trình
xây dựng đất nước, những con người mới sẽ xuất hiện và trưởng thành.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa". Người khẳng định: "Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta
"Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng, rất cần thiết".
- Trong quá trình đổi mới, Đảng tập trung vào đổi mới kinh tế, đồng thời nhấn mạnh tới
việc phát triển kinh tế phải chú ý đến hiệu quả văn hóa và xã hội, quan tâm tới việc xây
dựng con người xuất phát từ hai yếu tố sau:
Thứ nhất, là quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong xu thế toàn cầu hóa đặt ra những yêu
cầu mới về con người và xây dựng con người.
Thứ hai, những mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã và đang tác động tiêu cực, làm sói mòn tư tưởng, lối sống và đạo đức xã hội.
 Nội dung chiến lược xây dựng con người mới
- Văn kiện Đại hội VI (1986) khẳng định việc quan tâm đến con người và thái độ tôn
trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội, nhất là trong các dịch vụ phục vụ nhân dân.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta khẳng định: “Phát huy nhân tố con
người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập
thể và cộng đồng xã hội”1.
- Đại hội VIII (1996) chỉ rõ muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người, con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
- Nghị quyết của Đại hội IX (2001) xác định phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
đói, giảm nghèo.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã đặc biệt nhấn mạnh tới việc
xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản
sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi
dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống,
lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam.
- Đại hội XI (2011) của Đảng đã yêu cầu: Sớm có chiến lực quốc gia về xây dựng gia
đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa,
con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị
chung của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và
phát triển 2011) khẳng định con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền
và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chăm lo xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri
thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, tình nghĩa; có tinh thần quốc tế chân
chính.
- Đại hội XII (2016) xác định: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải
trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa
và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật.
- Đại hội Đảng XIII (2021) chủ trương phát triển con người toàn diện; tài năng, trí tuệ,
phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan
trọng nhất của đất nước.
11. Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới.

Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục
tiêu xoá đói giảm nghèo.
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc
làm và thu nhập, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống nòi.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
12. Kết quả công tác đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

- Thành tựu
+ Qua 30 năm đổi mới các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết
quả, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
+ Kiên định trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia, dân
tộc.
+ Quản lý và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển với các nước láng
giềng. Làm tốt công tác bảo hộ công dân.
+ Tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác; nâng cấp quan hệ song
phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện; đưa
quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn.
+ Đã chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và
quốc tế, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc. Kiên trì
cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông
(DOC) và tiến tới xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).
+ Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy
phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên.
- Hạn chế
+ Quan hệ đối ngoại có mặt còn hạn chế. Chưa tạo được nhiều sự đan xen lợi ích kinh tế
với các đối tác. Ngoại giao đa phương chưa phát huy hết các lợi thế. Khai thác những
thuận lợi trong hội nhập hiệu quả chưa cao.
+ Chưa chuẩn bị tốt các điều kiện để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức trong hội
nhập. Cơ chế phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế còn bất cập.
+ Thông tin về hội nhập quốc tế chưa được phổ biến rộng rãi đến cộng đồng doanh
nghiệp và người dân. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp
ứng kịp yêu cầu. Sự gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phòng, an ninh, văn
hóa, xã hội, ngoại giao nhân dân có mặt còn hạn chế.

You might also like