You are on page 1of 17

CHƯƠNG 1: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền

1. Cương lĩnh đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng:
a. Nội dung: Cương lĩnh chính trị - Ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp
cách mạng của chúng ta. Tuy còn vắn tắt nhưng nó là cương lĩnh cách mạng giải phóng
dân tộc, đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân
tộc nhân văn. Độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
 Tính khoa học đúng đắn:
Cương lĩnh chính trị được xây dựng dựa trên cơ sở quán triệt, vận dụng nhuần nhuyễn,
sáng tạo và phát triển các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, truyền thống tinh
hoa văn hóa dân tộc, phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt Nam . Nó vừa có tính lý
luận khoa học vừa có tính thực tiễn sâu sắc, kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng
yêu cầu bức thiết của cách mạng và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân.
 Tính độc lập, tự chủ
- Đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Cương lĩnh là của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng, nó không bị lệ
thuộc hay bị áp đặt bởi bất kì một tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt lõi bao trùm là độc
lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch rõ con đường cách mạng của Đảng đã lựa chọn,
đó là con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kì này, ta không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản - tổ chức lãnh
đạo chung của phong trào công nhân quốc tế, đề cao chủ nghĩa quốc tế chứ không phải
dân tộc. Chủ nghĩa Mác Angen - Bộ phận lớn của quốc tế cộng sản đề cao giai cấp trong
khi Bác Hồ đề cao vấn đề dân tộc dù nó gây khó khăn với cách mạng VN trong quan hệ
với quốc tế cộng sản. Quan điểm của cương lĩnh chính trị đầu tiên khác với quan điểm
Quốc tế cộng sản là đề cao mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội, đặt lợi ích của dân tộc lên
hàng đầu. Chúng ta đã không đi theo quốc tế cộng sản mà đưa ra quan điểm phù hợp với
điều kiện cụ thể thời điểm hiện tại của VN: vấn đề dân tộc cấp bách hơn, là mâu thuẫn
được đẩy lên hàng đầu, đặt nhiệm vụ giải phóng, giành độc lập dân tộc lên cao nhất và
chỉ khi đó mới huy động được lực lượng toàn dân.
Thực tiễn CM VN, đặc biệt giai đoạn 1939-1945 cũng đã chứng minh nhờ có việc giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc mà chúng ta đã tập hợp được lực lượng đông đảo quần
chúng nhân dân trong mặt trận Việt Minh để làm nên thành công của cách mạng tháng 8
– đánh giá là cuộc CM diễn ra nhanh gọn, không tốn kém và hầu như không có đổ máu.
Đây cũng chính là sự sáng tạo trong đường lối của Đảng, nhà nước và chủ tịch HCM.
- Xác định lực lượng tham gia cách mạng
Quan điểm QTCS chỉ đề cao công nhân và nông dân, triệt để CM, còn các giai cấp khác
không phải lực lượng tham gia CM. Nhưng quan điểm cương lĩnh không chỉ công nhân,
nông dân mà mọi tầng lớp giai cấp trong XH đều được đề cao. Đảng đã xác định cần tập
hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng tạo) đại bộ phận công nhân, nông dân; lôi kéo tiểu
tư sản, trí thức, trung nông… làm cho phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
đứng trung lập, từ đó xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh.
Chủ trương đề ra trong cương lĩnh chính trị là hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh VN lúc bấy
giờ – trong XH thuộc địa 1 phong kiến, không chỉ CN, ND mâu thuẫn với thực dân Pháp
mà mọi tầng lớp giai cấp đều bị ảnh hưởng và đều mâu thuẫn, do vậy việc lôi kéo, tập
hợp đông đảo lực lượng là việc đúng đắn. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh, nhờ có
việc tập hợp lực lượng, cụ thể là qua mặt trận Việt minh, Hội cứu quốc, phụ nữ cứu quốc,
nông dân cứu quốc..., chúng ta đã giành được chiến thắng vang dội t8/1945.
 Tính sáng tạo:
-  Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”
- Nhiệm vụ: + Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh và tổ chức quân
đội công nông, nhiệm vụ chống đế quốc đặt lên hàng đầu
+ Về xã hội- kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính
phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân
nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật
ngày làm 8h.
+ Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông
giáo dục theo công nông hóa.
+ Về lực lượng và phương pháp cách mạng: Tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng
tạo) đại bộ phận công nhân, nông dân; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… làm cho
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam đứng trung lập. Phải đoàn kết công
nhân, nông dân; dựa vào dân nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất. Lôi
kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ. => cơ sở chiến lược xây dựng đại
đoàn kết dân tộc, rộng rãi giữa các giai cấp.
+  Về lãnh đạo của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng. Đồng thời là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm 1
số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng. =>
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với cách mạng nước ta, vì phải có chính đảng của
giai cấp vô sản với đường lối cách mạng đúng đắn mới lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
giành thắng lợi.
+ Về mối quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới;
phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là VS
Pháp. Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng
hộ các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp => ĐCS
VN đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
b. Ý nghĩa
-        Giá trị lý luận:
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng
Việt Nam, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng được yêu
cầu cấp bách và cơ bản của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết đúng đắn
hàng loạt vấn đề như: mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến, về lực lượng cách mạng… Qua đó, cương lĩnh đã góp phần
bổ sung, phát triển làm phong phú CN Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh công lao
to lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng sau này đã nhận xét: “Vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ
đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con
người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.
-        Giá trị thực tiễn:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân và thâm nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến thành phong
trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở thành dân
tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ vận mệnh của mình. Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng đến nay nó vẫn giữ
nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường
mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Cương lĩnh đã, đang, sẽ được
toàn Đảng, toàn dân trung thành, vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay.

2. * Bối cảnh lịch sử và nội dung, ý nghĩa nghị quyết HNTW 8 (5/1941)
a. Bối cảnh:
 Tình hình quốc tế
- Chiến tranh TGT2 bùng nổ, diễn ra gay go, ác liệt. Phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên
Xô, làm cho tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi. Chiến tranh thái bình dương bùng nổ
làm cho đế quốc suy yếu; LIên Xô nhất định thắng và phong trào thế giới phát triển
nhanh. TG hình thành 2 trận tuyến: Lực lượng dân chủ - Khối phát xít. Cuộc đấu tranh
của nd ta là 1 bộ phận của lực lượng dân chủ.  - ĐCS Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật,
Chính phủ Pháp đàn áp dân chủ, mặt trận nhân dân Pháp tan rã nhiều quyền tự do đòi đc
ở giai đoạn trước đã bị thủ tiêu.
 Tình hình trong nước
- Chính sách của Pháp và Nhật đã làm mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Chúng đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phát xít hóa bộ máy chính
trị, thẳng tay đàn áp phong trào CM của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào ĐCS
Đông Dương nhằm đặt Đảng CS Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật. Ngày
22/09/1940, Nhật tiến vào nước ta, ngay hôm sau Pháp đã đầu hàng, nhân dân ta chịu
cảnh 1 cổ 2 tròng áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật., “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp
giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”, đẩy mâu thuẫn giữa ta và địch
ngày càng dâng cao.
- 1939 – 1941, VN liên tục diễn ra các cuộc khởi nghĩa (Bắc Sơn, Nam Kì, Đô Lương).
Tuy rằng 3 cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị thất bại nhưng cũng đã phản ánh dưới ách
thống trị của thực dân P và phát xít N, nhân dân ta không thể cam chịu được nữa, dù
Đảng chưa chỉ đạo thì họ đã tìm mọi cách sinh tồn, đồng thời cũng chứng minh tinh thần
đấu tranh quyết liệt của nhân dân Việt Nam chống lại Đức và Nhật. Bởi vậy chúng ta
phải tìm ra một đường lối mới, đưa ra một phương thức đấu tranh mới để đáp ứng được
nguyện vọng đông đảo của quần chúng nhân dân lúc bấy giờ. Bác Hồ nhận định: “là
những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ
lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”
- Mâu thuẫn chủ yếu và cấp bách ở nước ta là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân VN với
bọn đế quốc, phát xít Pháp-Nhật. Bởi “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
-> Có thể nói, Chủ tịch HCM và ĐCSVN đã có bước nhận định tình hình: rất chính xác,
đúng đắn so với chiều hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, từ đó cho
phép chúng ta đề ra chuyển hướng chiến lược phù hợp. Vì sự thay đổi lớn trong nước và
thế giới như vậy nên trong giai đoạn này, Đảng đã quyết định gác lại nhiệm vụ dân chủ,
tập trung vào nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc), giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc.
b. Nội dung
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp – Nhật bởi vì dưới hai tầng
áp bức Nhật – Pháp, quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy
vọng không lúc nào bằng.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương phải thay đổi chiến lược đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. Để thực hiện nhiệm
vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân
cày nghèo, chia lị ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương,
thi hành chính sách dân tộc tự quyết; sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân tộc trên cõi
Đông Dương sẽ tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng tành lập một
quốc gia tùy ý. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương
một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống
kẻ thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú
nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều có thể cùng nhau tham
gia vào mặt trận Việt Minh cứu nước, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước của chung cả toàn thể dân
tộc.
Thứ sáu, Hội nghị xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân
dân để khi thời cơ đến, với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng
phần trong từng địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
c. Ý nghĩa
- Có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của p. trào CM, đi tới thắng lợi của
CMT8/1945, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.
- Là sự hoàn chỉnh chủ trương chiến lược từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930, đồng thời khẳng định kế thừa,
tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng đúng đắn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (1927) và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1930.
- Là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị,
trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh,
bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…
- Là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi
vĩ đại trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, giành độc lập tự do dân tộc, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
- Phát triển và làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lê-nin về CM giải phóng dân tộc

* Nội dung và ý nghĩa Chỉ thị 12/3/1945


Chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô quét sạch
phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình. Mâu thuẫn Pháp – Nhật trở nên gay gắt,
09/03/1945 Nhật đảo chính Pháp, hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương. Ngày 12/03/1945
Ban thường vụ Đảng ra chỉ thị: “Nhật- Pháp bắn nhau & hành động chúng ta”.
a. Nội dung
- Chỉ thị nhận định (vạch rõ nguyên nhân và hậu quả cuộc đảo chính): Vì mâu thuẫn
giữa Nhật Pháp ngày càng gay gắt không thể điều hòa được (hai tên đế quốc không thể
cùng ăn chung một miếng mồi béo bở). Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để chiếm
Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi
nghĩa chưa chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện
tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
-  Chỉ thị xác định: Kẻ thù trước mắt duy nhất của Đông Dương là phát xít Nhật, quyết
định thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật”.
- Chỉ thị chủ trương: Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho
tổng khởi nghĩa tháng 8. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động phải thay đổi cho thích hợp
với thời kỳ tiền khởi nghĩa như biểu tình, bãi công đơn vị, phá kho thóc của Nhật để giải
quyết nạn đói,...
- Phương châm đấu tranh: phát động đấu tranh du kích giải phóng từng vùng, mở rộng
căn cứ địa. Do tương quan lực lượng giữa ta và địch ở mỗi địa phương không giống nhau,
cách mạng có thể chin muồi ở các địa phương cũng không đều nhau nên nơi nào thấy so
sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cách mạng thì lãnh đạo quần chúng đứng lên
tiến hành giành chính quyền trong toàn quốc.
- Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như: Quân Đồng
minh tiến vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật kéo ra mặt trận càn quét quân Đồng minh để
sơ hở phía sau là thời cơ; cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền nhân dân Nhật được
thành lập; Nhật bị mất nước giống Pháp (1940), quân viễn chinh Nhật hoang mang và
mất tinh thần. Tuy nhiên chỉ thị xác định không được trông chờ, không được ỷ lại vào
bên ngoài mà phải chủ động, nắm bắt tình hình, thời cơ và phải dựa vào sức mình là
chính.

b. Ý nghĩa:
- Chỉ thị này có giá trị và ý nghĩa như một chương trình hành động, một lời hiệu, một lời
dẫn dắt dân ta tiến hành một cao trào kháng hật cứu nước, tạo cơ sở cho sự sáng tạo của
các địa phương trên cơ sở đường lối chung của Đảng.
- Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời của Đảng ta,
nhờ đó đẩy lên 1 cao trào CM, thúc đẩy tình thế CM mau chóng chín muồi
- Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện KN vũ trang từng
phần, tiến tới Tổng KN.
- Thể hiện năng lực của Đảng trong việc nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù hợp

* Nội dung và ý nghĩa HN toàn quốc của Đảng (13-15/8/45)


Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”,
phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc
của Đảng họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì,
tập trung phân tích tình hình và dự đoán: “Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc
Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương”. Hội nghị quyết định phát động toàn
dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng
minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn
độc lập! Chính quyền nhân dân! Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là
tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành động trong tổng khởi nghĩa: phải
đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và
chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi
đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào,
thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm chủ… Hội nghị cũng
quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau
khi giành được chính quyền. Về đối nội: Hội nghị thông qua 10 chính sách lớn của Mặt
trận Việt Minh. coi đó là những chính sách cơ bản, trước mắt trong toàn bộ những hoạt
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Hội nghị cũng nhấn mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục, tổ chức quần chúng, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các đoàn thể trong Mặt trận
Việt Minh; chú trọng đến nhiệm vụ kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp. Về mặt đối
ngoại: Hội nghị nêu rõ chủ trương triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ,
Tưởng; hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một
lúc; tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô và Đồng minh để chống lại mưu mô hồi
phục lại địa vị cũ ở Đông Dương của đế quốc Pháp và âm mưu xâm chiếm nước ta của
quân phiệt Tưởng. Trong khi đề cao việc tranh thủ Đồng minh, Hội nghị nhấn mạnh khâu
mấu chốt giành thắng lợi trên mặt trận đối ngoại là dù sao chỉ có thực lực của ta mới
quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh". Để bảo đảm lãnh đạo cuộc Tổng
khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị nhấn mạnh công tác đào tạo, sử dụng phân phối cán bộ,
kết nạp đảng viên; bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan7, Chu
Văn Tấn, Vũ Anh (Uỷ viên chính thức), Võ Nguyên Giáp (Uỷ viên dự khuyết). Ngày 15-
8, Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc, các đại biểu khẩn trương trở về các địa phương,
mang theo chủ trương của Đảng, kịp thời phát động và lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi
nghĩa giành chính quyền.

3. Một số kinh nghiệm về lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh
nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Trong
cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ
cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp nhằm phục vụ
cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tinh
thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về huy
động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao
trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng
từ của V.I.Lênin trong tác phẩm Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó
chính là một “lò lửa khởi nghĩa dân tộc”.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần
chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần,
giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên chớp đúng thời
cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền toàn quốc.
Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích
giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị
và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên cường
được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng. Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược
của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của đảng bộ các địa
phương.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch
sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hoá của dân
tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời, dù phải trải qua muôn vàn khó khăn
thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu của toàn
dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách mạng 1930-1945, Đảng đã lãnh đạo giai
cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân.
CHƯƠNG 2: Giai đoạn 1945-1975 
1. Hoàn cảnh lịch sử đất nước ta sau CM tháng Tám.
Sau khi CMT8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước đứng trước nhiều thuận lợi  cơ bản và khó khăn thử thách.
- Thuận lợi: 
Về quốc tế : + sau cttgt2, cục diện khu vực và thế giới có những thay đổi có lợi cho
CMVN
+ CNXH đã trở thành hệ thống lớn mạnh do Liên Xô đứng đầu, phong trào cách mạng
giải
phóng dân tộc có điều kiện phát triển,  phong trào dân chủ và hòa bình cũng vươn lên
mạnh
mẽ.
Về trong nước: +VN trở thành quốc gia độc lập, tự do; NDVN trở thành chủ nhân của
chế độ dân chủ mới
+ ĐCSVN trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo CM trong cả nước, hệ thống chính quyền
CM với bộ máy thống nhất từ TW đến cơ sở dc hình thành phục vụ cho lợi ích của ND,
tổ quốc
+ CTHCM là biểu tượng của nền độc lập, tự do-trung tâm của khối đại đoàn kết dtoc
+ QUân đội quốc gia, lực lượng CA, luật pháp dc xây dựng và phát huy vai trò đvs cuộc
đtranh chống thù trong, giặc ngoài, xd chế độ mới
- Khó khăn: 
 Trên thế giới: + Phe đế quốc CN âm mưu “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”, ra sức
đàn áp, tấn công ptrao CM trong đó có CMVN
+ Các nước lớn ko ủng hộ lập trường độc lập và địa vị pháp lý của nhà nước VNDCCH
+ VN nằm trong vòng vây của CN đế quốc, bị bao vây cách biệt với thế giới bên ngoài 
Trong nước : Ngay sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải
đối mặt với muôn vàn khó khăn:
+ Nạn đói : • Hậu quả nạn đói năm 1945 vẫn chưa khắc phục nổi. đê vỡ do lũ lụt đến
tháng 8/1945 vẫn chưa khôi phục, hạn hán làm cho 50% diện tích đất không thể cày cấy.
• Công thương nghiệp đình đốn, giá cả sinh hoạt đắt đỏ.
• Nạn đói mới có nguy cơ xảy ra trong năm 1946.
+ Nạn dốt : • Hơn 90% dân số không biết chữ.
• Các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc…tràn lan.
+ Ngân sách cạn kiệt
• Ngân sách quốc gia trống rỗng: Còn 1,2 triệu đồng, trong đó đến 1 nửa là tiền rách
không
dùng được.
• Hệ thống ngân hàng vẫn còn bị Nhật kiểm soát.
• Quân Tưởng đưa vào lưu hành đồng “Quốc tệ”, “Quan kim” làm rối loạn nền tài chính
nước ta.
+ Về văn hóa xã hội      
• Hơn 90% dân số không biết chữ.
• Các tệ nạn xã hội tràn lan.
+ Về thù trong, giặc ngoài:
• Từ vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) trở ra Bắc, 20 vạn quân tưởng ồ ạt vào Hà Nội.
• Từ vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) trở vào Nam, quân Anh mở đường cho thực dân Pháp trở lại
xâm lược. => VIỆT NAM ĐỨNG TRƯỚC TÌNH THẾ NGÀN CÂN TREO SỢI TÓC
2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng, bảo vệ chính quyền CM (1945-
1946) và ý nghĩa.
a. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng
- Trước tình hình mới, TW Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình
thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh
mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền,
bảo vệ nềnđộc lập, tự do vừa giành được.
- Nêu nd của chỉ thị kháng chiến kiến quốc:
Ngày 25-11-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến
quốc” vạch rõ nhiệm vụ chiến lược và nhiệm vụ cần kíp của cách mạng nước ta. Chỉ thị
xác định:
– Về chỉ đạo chiến lược: “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng. Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
– Về xác định kẻ thù : + Kẻ thù chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp xâm
lược.
+ Mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp ND, thống nhất mặt trận Việt –
Miên - Lào,...
– Về phương hướng, nhiệm vụ: Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của toàn dân tộc ta là: củng
cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống của nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng.
– Chỉ thị vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên.
+ Về nội chính: xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, lập hiến pháp,
xử lý bọn phản động đối lập, củng cố chính quyền nhân dân.
+ Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến.
+ Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù. Đối với
quân đội Tưởng, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện”.
b. Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm: 
- Kết quả: Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng giai
đoạn 1945-1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, quân sự, ngoại giao và đã giành được những kết quả hết sức to lớn.
+ Về chính trị - xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới - chế độ
dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.
+ Về kinh tế, văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ
thuế vô lý của chế độ cũ, các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. 
+ Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Nhân nhượng với quân đội Tưởng, tay sai để giữ
vững chính quyền, tập trung lực lượng chống Pháp ở MN. Tạo điều kiện cho quân dân ta
có thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới
- Ý nghĩa: Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban thường vụ Trung ương Đảng có ý
nghĩa hết sức quan trọng. 
+ Đã xác đúng kẻ thù của VN là thực dân Pháp
+ Đã chỉ ra kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và
sách lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền. 
+ Nêu rõ nhiệm vụ xd đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước
+ Nêu rõ những bp đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, thù trong, giặc
ngoài, đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. 
- Bài học kinh nghiệm: + Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. 
+ Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự
nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần
thiết trong hoàn cảnh, cụ thể. 
+ Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân,
đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi
kẻ địch bội ước.
    
3. * Nội dung, ý nghĩa HNTW 15 (1/1959)
a. Bối cảnh lịch sử: Đây là gđ đế quốc Mỹ từng bước thiết lập chế độ chủ nghĩa thực dân
kiểu mới ở miền Nam và xd chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, đàn áp phong trào đấu
tranh của nd ta. Thực hiện chính sách Tố cộng diệt công với phương châm Giết nhầm còn
hơn bỏ sót. Vì vậy ptrao CM miền Nam chịu những tổn thất hết sức nặng nề. Về phía ta,
Đảng kiên trì lãnh đạo nd đấu tranh chính trị
b. Nội dung của Nghị quyết
Về mâu thuẫn xã hội: Trên cơ sở phân tích đặc điểm, tình hình CM ở miền Nam, có 2
mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa nd ta với bọn đế quốc Mỹ - tay sai Ngô Đình Diệm;
Mâu thuẫn giữa nhân dân (trc hết là nông dân với địa chủ PK)
Về lực lượng tham gia CM: Gồm giai cấp nông dân, công nhân, tư sản dân tộc và tiểu tư
sản; Lấy liên minh công nông làm cơ sở
Về đối tượng của CM: Đế quốc Mỹ; Tư sản mại bản; Địa chủ PK; Tay sai
Nhiệm vụ cơ bản của CM Việt Nam: Giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của
đế quốc và PK; Thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng; Hoàn thành CM dân tộc
dân chủ, xây dựng 1 nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhưng
trên con đường dài thực hiện NV cơ bản ấy, CM miền Nam phải đi từng bước từ thấp đến
cao.
Nhiệm vụ trước mắt của CM miền Nam:Đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống trị
độc tài Ngô Đình Diệm; Thành lập Chính quyền Liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam;
Thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ; Cải thiện đời sống nhân dân; Thực
hiện thống nhất nc nhà.Tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở ĐNA và TG
Nghị quyết nhấn mạnh: Con đường phát triển cơ bản ở Miền Nam: con đường CM bạo
lực, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân; Cách mạng Miền Nam có khả năng hòa
bình phát triển, tuy ít, song Đảng cần tranh thủ để thay đổi cục diện chính trị có lợi cho
cách mạng; Con đường đó là lấy sức mạnh và lực lượng chính trị của quần chúng, kết hợp
với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và PK, dựng lên cơ
quan CM của nhân dân.
Về khả năng phát triển của tình hình sau những cuộc KN của quần chúng, Hội nghị
dự kiến: Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên cuộc KN của ND miền Nam cũng có
khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang thường kỳ
c. Ý nghĩa: Nói “Nghị quyết 15 sáng soi con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam” vì:
- Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta, thể hiện tinh thần độc lập tự  chủ,
năng động, sáng tạo trong đánh giá, so sánh lực lượng, trong vận dụng lý luận Mac Lenin
và CM miền Nam, góp phần quan trọng vào quá trình hình thành chiến lược chung cho
cách mạng cả nước
- Nghị quyết 15 ra đời đã đáp ứng đúng đòi hỏi của tình hình và nguyện vọng của đông đảo
cán bộ, đảng viên, nhân dân, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển đi lên của cách mạng
Miền Nam khi tình thế đã đầy đủ và chín muồi là phải dùng bạo lực cách mạng, phải
chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang, để đưa phong trào vượt thoát khỏi tình thế hiểm
nghèo. Ðây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự chuyển ⁹ biến về tư tưởng chỉ
đạo đấu tranh cách mạng ở cấp lãnh đạo cao nhất, sự chuyển hướng mạnh mẽ về hình thức
và phương pháp đấu tranh.
- Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho cao trào Ðồng khởi trên quy mô lớn tại
các địa phương ở Nam Bộ và Khu 5. Trước khi có Nghị quyết 15, các cuộc đấu tranh có
tính chất vũ trang tự vệ của quần chúng cách mạng, yêu nước chỉ diễn ra lẻ tẻ, tự phát ở
một vài địa phương. Từ giữa năm 1959 trở đi đã có hàng loạt cuộc đấu tranh mang tính bạo
lực của quần chúng nổ ra ở các địa phương, như Minh Thạnh (Tây Ninh); Dầu Tiếng (Thủ
Dầu Một); Trà Bồng (Quảng Ngãi)... Ðiều đó báo hiệu một giai đoạn đấu tranh mới đang
hình thành. Quá trình khởi nghĩa từng phần ở Miền Nam đã bắt đầu. Như thế, ý nghĩa, tác
động của Nghị quyết 15 là trực tiếp, nhanh chóng và rõ rệt, mở ra hướng đi mới cho phong
trào đấu tranh ở Miền Nam.
- Ngay sau khi có văn bản Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ họp (11-1959), nhận định: tuy
địch có gây cho ta nhiều khó khăn nhưng xét về căn bản và toàn cục thì ta đã giành được
thế chủ động; cơ sở Ðảng vẫn được giữ vững, phong trào quần chúng phát triển cao hơn so
với năm 1958; hoạt động vũ trang tuyên truyền phát huy tác động hỗ trợ cho đấu tranh
chính trị.
- Nghị quyết 15 ra đời là vô cùng cần thiết, như ngọn đuốc soi sáng con đường phát triển
của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam. Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội đại
biểu Ðảng toàn quốc lần thứ 3 (9-1960), đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam ở
Miền Nam. Với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Ðảng ta đã chỉ đạo nhân
dân Miền Nam đứng lên tiến hành cuộc Ðồng khởi vĩ đại, đánh một đòn chí tử vào hình
thức thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, tạo ra một bước ngoặt đi lên cho cách mạng
Miền Nam, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, chuyển sang tiến hành "chiến
tranh đặc biệt" với sự dính líu và sa lầy ngày càng tăng ở Việt Nam.
- Nghị quyết 15 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ đấu tranh cách mạng
giải phóng Miền Nam, đánh đổ sự thống trị của Mỹ-Diệm, với nhiệm vụ xây dựng, củng cố
bảo vệ Miền Bắc, hậu phương lớn và trực tiếp của cách mạng Miền Nam. Ðồng thời, Nghị
quyết 15 cũng góp phần xác định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam
và phong trào cách mạng, đấu tranh bảo vệ hòa bình, giải phóng dân tộc trên thế giới. tiến
lên.

* Nội dung, ý nghĩa HNTW12 (12/1965).


Hoàn cảnh lịch sử: Tổng thống Mỹ Giôn-xơn quyết định tiến hành chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam. Đây là một hình thức chiến tranh trong chiến lược
toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của Mỹ, biểu hiện là đưa quân Mỹ và quân đồng minh vào
trực tiếp tham chiến, quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình
định. Đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền
Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Nội dung: Chiến tranh lan rộng ra cả nước và đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước
những thách thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 12 (12/1965) của
BCH TW Đảng đã phát động kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Nội dung đường lối kháng chiến trong giai đoạn này bao gồm:
- Quyết tâm chiến lược: Phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong toàn
quốc, coi chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc
- Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
- Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh, tập trung lực lượng, tranh thủ thời cơ
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết
tiến công và tiếp tục tiến công, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc
phòng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tích cực
chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng mở rộng chiến tranh cục bộ
ra cả nước
- Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Miền Nam là tiền tuyến lớn,
miền Bắc là hậu phương lớn → Giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc. Cần ra sức
tăng cường lực lượng cho miền Bắc về mọi mặt, nhất là kinh tế và quốc phòng, nhằm
đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời tiếp tục xây dựng CNXH nhằm phát
huy tối đa vai trò của hậu phương với tiền tuyến.
Ý nghĩa: Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12/1965) đã thể hiện tư tưởng nắm vững,
giương cao ngọn cờ độc lập và CNXH, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính trong hoàn cảnh mới, là cơ sở để Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi vẻ vang.
Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của Hội nghị Trung ương lần thứ 15
(1/1959) về cách mạng miền Nam.
Hoàn cảnh lịch sử
- Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã giành được thắng lợi nhưng theo hiệp
định Giơnevơ đã ký kết thì đất nước tạm thời chia cắt làm 2 miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới
tuyến quân sự tạm thời.
- Miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng và bước vào công cuộc khôi phục kinh tế, thực
hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm tạo tiền đề đưa
miền Bắc từng bước quá độ lên CNXH.
- Miền Nam đã bị đế quốc Mỹ độc chiếm để biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn
cứ quân sự của Mỹ. Mỹ Diệm đã tiến hành cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống
lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Cách mạng miền Nam bị tổn thất rất
nặng nề.
b. Nội dung - Về mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:
+ Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ , giai cấp địa chủ Phong
kiến và bọn tư sản mại bản.
+ Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền
Bắc. Tuy tính chất khác nhau, hai mâu thuẫn cơ bản có mối quan hệ biện chứng và tác
động lẫn nhau
- Về đối tượng cách mạng: Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc và tay sai.
+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài
Ngô Đình Diệm, thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc.
- Về phương pháp cách mạng: Dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ bạo lực phản cách
mạng, kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Con đường phát triển của cách
mạng miền Nam có thể phát triển theo 2 hướng:
+ Thứ nhất là tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
+ Thứ hai là tiến hành đấu tranh vũ trang lâu dài để giành thắng lợi cuối cùng.
- Về vấn đề mặt trận: Hội nghị chủ trương cần phải thành lập một mặt trận dân tộc thống
nhất riêng ở miền Nam để tập hợp lực lượng chống đế quốc và tay sai.
- Về công tác xây dựng Đảng ở miền Nam: Hội nghị chỉ rõ: sự tồn tại và trưởng thành
của Đảng bộ miền Nam là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng miền Nam. Vì vậy
phải xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách
mạng miền Nam.
c. Ý nghĩa - Là một bước ngoặt về phương pháp cách mạng, đáp ứng những nhu cầu cấp
bách của cách mạng miền Nam.
- Đường lối này đã mở đường cho cách mạng miền Nam phát triển, đã xoay chuyển cục
diện cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn công.
- Đường lối thể hiện rõ bản lĩnh tự chủ, sáng tạo và ý chí cách mạng của Đảng ta trong
hoàn cảnh hết sức khó khăn.
CHƯƠNG 3: Giai doạn 1975 - 2021
1. Các bước đột phá về kinh tế thực hiện qua hai giai đoạn 1979-1981 và 1984-1986.
Giai đoạn 1979 - 1981
- Hội nghị TW 6 (8-1979) là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng với chủ trương
khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo XHCN, phá bỏ những
rào cản đề cho “sản xuất bung ra”
➔ Chính phủ ra quyết định (10/1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục
hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những
trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
- Nông nghiệp: Sản lượng lương thực bình quân từ 13.4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên
17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông
nghiệp giảm đi đáng kể do thực hiện Chỉ thị số 100 - CT/TW (1/1981) về khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp.
- Công nghiệp: sau khi ban hành Quyết định số 25-CP (1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26-CP về
việc mở rộng hình thức trả lương khoán,lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong
các đơn vị sản xuất kinh doanh, sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa
phương vượt kế hoạch 7.5%.
b. Giai đoạn 1985 - 1986
- Về cơ cấu sản xuất: + Tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư
theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc
phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và
nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển của nông nghiệp.
+ Tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tự, thực hiện cho ba chương trình quan trọng nhất
về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
- Về cải tạo XHCN: + Phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp lên đến
cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn.
+ Nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các
tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế.
- Về cơ chế quản lý kinh tế: + Đổi mới kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo
của các quy luật kinh tế XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa -
tiền tệ.
+ Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
+ Phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh
doanh của các đơn vị kinh tế.
2. ĐH VI (12/1986) - Một số bài học kinh nghiệm được đại hội VI tổng kết
Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng đã tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là cột mốc
lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Công cuộc đổi
mới qua hơn bốn năm đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình kinh tế - xã hội
có chuyển biến tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định con đường chúng ta đang đi là đúng. Tuy
nhiên khó khăn còn nhiều, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Từ thực tiễn cách
mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, có thể rút ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá
trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Toàn Đảng, toàn
dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Hai là, sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi
lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của
nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa
rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Ba là,
không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành
công, đại thành công!" Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hoá mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, càng cần phải
kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa
đất nước tiến lên. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức
của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống
được những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán
bộ, đảng viên.
Nội dung đổi mới về kinh tế được nêu tại ĐH VI và ý nghĩa.
Bối cảnh lịch sử - Trải qua quá trình khảo nghiệm tìm tòi đường lối đổi mới. Từ hội nghị TW lần
6 khoá 4 tháng 8/1979 làm cho sản xuất tung ra đúng hướng đến chỉ thị 100 tháng 1/1981 của
ban bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (.) hợp tác xã nông nghiệp và quyết
định 25, 26 CP của chính phủ(1/1981) về cái tiến cơ chế quản lý ktế trong ktế quốc doanh đến
nghị quyết hội nghị lần 8 BCH TW khóa 5 (6/1985) về giá lương tiền xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu hành chính bao cấp và kết luận của bộ chính trị về các quan điểm ktế đó là 3
bước đột phá để hình thành lên đường lối đổi mới.
b. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội 6 đề ra
- Một là, đổi mới cơ cấu ktế, thực hiện chính sách ktế nhiều thành phần.
+ Bố trí cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, thực hiện cho đc 3 chương trình mục tiêu
về lương thực thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp, chuyển
sang hạch toán kinh doanh XHCN.
+ Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý là xd cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và
phù hợp với trình độ phát triển của nền ktế. Xác định 2 đặc trưng quan trọng của cơ chế quản lý
mới, đó là tính kế hoạch và sử dụng đúng qhệ hàng hoá tiền tệ. Thực chất của cơ chế mới về
quản lý ktế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ.
- Ba la, để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước
+ Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính ktế với chức năng quản lý SXKD, kết hợp quản lý
theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể. XD chiến lược kinh tế XH và cụ thể hoá
chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển ktế XH.
- Bốn là, về mở rộng và nâng cao hiệu quả ktế đối ngoại.
+ Công bố chính sách khuyến khích nc ngoài đầu tư vào nc ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối
với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật
đầu tư cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nc ngoài và việt kiều
vào nc ta để hợp tác kinh doanh.
- Năm là, tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.
+ Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng phải đổi mới về nhiều
mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi
mới phong cách lãnh đạo và công tác
c. Ý nghĩa
- Đại hội đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ
của toàn Đảng toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và
dân tộc.
- Đường lối đổi mới do Đại hội 6 đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và
tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kỳ mới of sự nghiệp CM nc ta trên con đường đi lên
CNXH.

3. ĐH VII (6/1991): Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH được
thông qua tại ĐH VII (1991)
Cương lĩnh đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, phân tích hoàn cảnh quốc tế có những
biến đổi to lớn: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút
tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá
trình quốc tế hoá sâu sắc; bên cạnh đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã lâm
vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò
lãnh đạo. Bối cảnh quốc tế đó, vừa tạo cơ hội; vừa có nhiều thách thức đã ảnh hưởng đến Việt
nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thuận lợi, cơ hội phát triển và nhiều khó khăn, thách thức, cản
trở. Kế thừa và phát triển những quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh năm 1991 đã nêu ra một số dấu hiệu đặc trưng, cơ bản của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ. Có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
với tất cả các nước trên thế giới. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã
hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát
triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù
địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững những phương
hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do đảng
cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Hai là, phát
triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân. Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với
tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới. Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ
sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù
hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là:
thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh
ở chặng sau.

You might also like