You are on page 1of 35

ĐỀ THI CUỐI KỲ ĐƯỜNG LỐI CÔ THU HẢI

CÂU HỎI 3 ĐIỂM


Câu 1: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng CSVN (2-1930) thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo?
Cương lĩnh chính trị - Ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng
của chúng ta. Tuy còn vắn tắt nhưng nó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân
tộc, đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính
dân tộc nhân văn. Độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
- Tính khoa học đúng đắn:
Cương lĩnh chính trị được xây dựng dựa trên cơ sở quán triệt, vận dụng nhuần
nhuyễn, sáng tạo và phát triển các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin,
truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc, phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Nó vừa có tính lý luận khoa học vừa có tính thực tiễn sâu sắc, kết hợp tính
giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng và nguyện vọng
cháy bỏng của nhân dân.
- Tính độc lập, tự chủ:
Cương lĩnh chính trị là sản phẩm thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc
Việt Nam, nó là bảo vật quốc gia, là kết tinh tư tưởng, cống hiến vĩ đại của Hồ Chí
Minh. Cương lĩnh là của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng,
nó không bị lệ thuộc hay bị áp đặt bởi bất kì một tổ chức nào khác. Với tư tưởng
cốt lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch rõ con đường cách
mạng của Đảng đã lựa chọn, đó là con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Tính sáng tạo:
+ Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”
+ Nhiệm vụ:
 Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm
cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông
bình, tổ chức quân đội công nông.
 Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn
của TBCN Pháp giao cho chính phủ công nông; tịch thu ruộng đất của đế
quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân
nghèo; thi hành luật ngày làm 8 giờ…
 Về VH – XH: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
 Những nhiệm vụ thể hiện đầy đủ yếu tố dân tộc và dân chủ, chống đế
quốc và chống phong kiến trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng: Lực lượng nòng cốt của cách mạng nước ta là
công - nông, đồng thời thấy được các giai cấp và tầng lớp khác cũng là lực
lượng cách mạng cần phải liên minh hoặc lôi kéo hay trung lập.
+ Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, trong đó Đảng là đội tiên phong.
 Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với cách mạng nước
ta, vì phải có chính đảng của giai cấp vô sản với đường lối cách mạng
đúng đắn mới lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi.
+ Quan hệ quốc tế: CM VN là một bộ phận khăng khít của CM thế giới.

Câu 2: Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam?

Giá trị lý luận:


+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách
mạng Việt Nam, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
được yêu cầu cấp bách và cơ bản của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế
thời đại.

+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết
đúng đắn hàng loạt vấn đề như: mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về lực lượng cách mạng… Qua đó,
cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin.

+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh
công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Thủ tướng
Phạm Văn Đồng sau này đã nhận xét: “Vào thời ấy, hệ thống luận điểm của Hồ
Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo
cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh
vạch đường cho thời đại”.

Giá trị thực tiễn:

+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng
của nhân dân và thâm nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến
thành phong trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối
cách mạng.

+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở
thành dân tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng
đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam
tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn.
Cương lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng, toàn dân trung thành, vận dụng vào công
cuộc đổi mới hiện nay.
Câu 3: Vì sao trong HNTW lần thứ 8 (tháng 5-1941), Đảng quyết định đưa
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu?
Giai đoạn 1939 – 1945 là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử của cách
mạng Việt Nam. Đảng ta đã phải hết sức cố gắng để đưa ra những quyết định đúng
đắn khi chèo lái con thuyền cách mạng của dân tộc, đưa nhân dân thoát khỏi bóng
tối nô lệ đi đến độc lập, tự do. Thực tiễn tình hình thế giới và trong nước đã buộc
Đảng ta quyết định đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong HNTW
lần thứ 8 (5/1941).
Tình hình thế giới: Ngày 1 – 9 – 1939, Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế
giới thứ 2 bùng nổ. Tháng 6 – 1940, Đức tấn công Pháp. Ngày 22 – 6 – 1941, Đức
tấn công Liên Xô
Tình hình trong nước:
+ Pháp thực thi chính sách “cai trị thời chiến” cực kỳ tàn bạo, đẩy mâu
thuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương càng thêm gay gắt và “thúc
đẩy nhanh quá trình cách mạng”.
+ Pháp phát xít hóa, Nhật vào Đông Dương (22/9/1940) => Pháp – Nhật cấu
kết thống trị nhân dân ĐD, nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, vận mệnh
dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.
+ Nhân dân ta đã nhiều lần đứng dậy chống lại ách áp bức bóc lột đó. Tiêu
biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9 - 1940), khởi nghĩa Nam Kì (11 - 1940),
binh biến Đô Lương (1 - 1941). Các cuộc nổi dậy vũ trang đó đã chứng tỏ ý thức
quật cường, tinh thần anh dũng bất khuất của nhân dân Việt Nam, giáng những đòn
phủ đầu chí tử vào thực dân Pháp, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo phát xít Nhật
khi chúng vừa mới đặt chân vào Đông Dương. Tuy nhiên, do kẻ thù còn mạnh, lực
lượng cách mạng chưa được chuẩn bị đầy đủ… nên trước sau đều bị thất bại nhưng
nó như những tiếng súng báo hiệu cho thời kì mới – thời kì giải phóng dân tộc.
Trước tình hình đó, Đảng ta nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải
được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít
Pháp – Nhật. Bởi “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Tại HNTW 8 (5/1941), Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến
lước và xác định: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách
mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền
địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc
giải phóng”. “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ
trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”.
Tóm lại, việc xác định nhiệm vụ duy nhất – giải phóng dân tộc ở đây là sự
phát triển lên một tầm cao mới, trong một hoàn cảnh mới của tư tưởng chống đế
quốc là nhiệm vụ hàng đầu. Nó thế hiện sự chuyển hướng và nghệ thuật lãnh đạo
tài tình của Đảng, xác định đúng đắn con đường đi cho dân tộc.

Câu 4: Tại sao trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25/11/1945), Đảng lại
xác định nhiệm vụ củng cố chính quyền là nhiệm vụ quan trọng nhất?

Củng cố chính quyền cách mạng là nhiệm vụ hết sức cấp bách, sống còn của
nhân dân lúc này. Chính quyền là công cụ sắc bén, là đòn bẩy để đưa cách mạng
Việt Nam tiến lên trong bối cảnh đất nước khó khăn chồng chất, Tổ quốc lâm
nguy, vận mệnh dân tộc ở thế ngàn cân treo sợi tóc.
+ Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết
liệt (quân Tưởng Giới Thạch vào Hà Nội để tước khí giới quân Nhật, quân Anh
vào Sài Gòn để giải giáp quân Nhật, tiếp tay cho Pháp quay lại Đông Dương, 6 vạn
quân Nhật đang chờ giải giáp ở trên khắp đất nước, bọn phản động Việt quốc Việt
cách…)
+ Chính quyền sơ khai vừa mới thành lập còn non trẻ phải đối đầu với nguy
cơ “giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm” và âm mưu xâm lược của đế quốc.
Thực tiễn tình hình trong nước buộc Đảng ta xác định “nhiệm vụ chính,
trọng tâm trong lúc này là củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, quân sự
để giữ vững nền độc lập”. Do đó củng cố chính quyền là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, không có chính quyền tức là không có độc lập, tự do ; chính quyền phải
vững mạnh mới có thể bảo vệ được thành quả của cách mạng, đảm bảo đời sống
cho nhân dân. Bên cạnh đó, việc củng cố chính quyền còn là bước tạo đà quan
trọng cho cuộc kháng chiến lâu dài tất yếu sau này và là cơ sở pháp lí để tranh thủ
được sự ủng hộ của quốc tế và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Muốn vậy, phải tăng cường khối đoàn kết toàn dân, hoà hợp dân tộc, xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hoá, xã hội và ngoại giao, kháng chiến đi đôi với kiến quốc, chống giặc ngoại
xâm gắn liền với chống giặc đói và giặc dốt.

Câu 5: Tại sao trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25/11/1945), Đảng lại
xác định Pháp là kẻ thù nguy hiểm nhất?

Trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25/11/1945), Đảng xác định Pháp là
kẻ thù nguy hiểm nhất vì:

Trong số kẻ thù Anh, Tưởng, Mỹ, Pháp, Việt quốc, Việt cách… nguy hiểm
nhất là thực dân Pháp. Chúng có đầy đủ cơ sở và điều kiện để trở lại xâm lược nước
ta lần 2, với âm mưu đặt ách thống trị và tái xác lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương.
Âm mưu đó được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn của chính phủ Đờ Gôn ngày 24 – 3
– 1945.
Nhận rõ âm mưu của các nước đế quốc sau chiến tranh TG thứ 2, Đảng ta cho
rằng, các thế lực đế quốc sẽ đi đến dàn xếp với nhau để cho thực dân Pháp trở lại
Đông Dương (cụ thể: quân Anh vào nước ta với danh nghĩa quân Đồng minh giải
giáp quân Nhật đã đồng lõa và tiếp tay cho TDP quay lại Đông Dương. Trước sau
chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng "sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở
về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng".)
Vì vậy, Đảng ta nhận định “nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình
và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân
Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn cờ đấu tranh vào chúng”.

Câu 6: Tại sao trong chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” (12/3/1945), Đảng ta lại xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ
thể trước mắt duy nhất?

Câu 7: Sách lược hòa hoãn với quân Tưởng và quân Pháp?

7.1. Tại sao ta phải hòa với Pháp? Ý nghĩa của việc hòa hoãn với Pháp?

Ngày 28 – 2 – 1946, Pháp và Tưởng kí Hiệp ước Trùng Khánh, thỏa thuận
mua bán quyền lợi với nhau. Tưởng đã đồng ý cho Pháp kéo quân ra miền Bắc
Việt Nam thay thế quân Tưởng để tước khí giới của quân đội phát xít. Việc làm
này nhằm hợp pháp hóa việc Pháp quay trở lại Đông Dương lần thứ 2.

 Hiệp ước đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn: hoặc là cầm vũ khí kháng
chiến chống Pháp; hoặc là hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng và tranh thủ
thời gian củng cố lực lượng.

Đứng trước thời khắc gay go, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết
sách lịch sử, sáng suốt “Hòa để tiến”. Ngày 6/3/1946, ta kí với Pháp “Hiệp định sơ
bộ”, hòa hoãn với Pháp.

Ta phải hòa với Pháp vì:


+ So sánh lực lượng không cân sức, đằng sau Pháp có cả phe đồng minh và
nhất là quân Mỹ. Kinh tế còn kém phát triển, chính trị chưa ổn định. Sau năm
1945 ta vẫn trong vòng vây phong tỏa của các nước đế quốc, chưa nước nào đặt
quan hệ ngoại giao với ta. Hòa với Pháp thì ta tránh được tình thế bất lợi: phải đối
phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù trong lúc lực lượng của ta còn non yếu.
+ Hòa với Pháp để dùng bàn tay của Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi
miền Bắc. Khi có hiệp định pháp lý cho Pháp ra thì Tưởng không còn lý do gì ở lại
và đồng thời lực lượng phản động Việt quốc Việt cách cũng phải về theo. Ta vừa
loại bỏ được ngoại xâm và nội phản.
+ Việc nhân nhượng với Pháp, buộc chúng phải công nhận Việt Nam là quốc
gia độc lập, tự do, có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, quân đội, tài chính riêng,...
làm cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh với Pháp.
+ Ta có thêm thời gian hòa hoãn cần thiết để tiếp tục xây dựng lực lượng,
củng cố chính quyền, chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp
lâu dài về sau.
+ Để tỏ thiện chí hòa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp và nhân
dân thế giới ưa chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh xảy ra, do đó ta có thể
tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ.
→ Việc hòa Pháp là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh ta vừa giành

được chính quyền, lực lượng còn non trẻ, công tác chuẩn bị còn yếu, ta cần thời
gian để xây dựng, củng cố mọi mặt cho cuộc kháng chiến tất yếu sau này. Nó thể
hiện sự sáng suốt của Đảng và chủ tịch HCM trong việc nhân nhượng nhưng có
nguyên tắc.
Ý nghĩa của việc hòa hoãn với Pháp:
Mặc dù thực dân Pháp bội ước nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh việc ký
Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 là một chủ trương sách lược đúng đắn của
Đảng, Chính phủ và chủ tịch HCM. Đó là một mẫu mực tuyệt vời về việc lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc. Nhờ đó chúng
ta đã loại trừ được một kẻ thù nguy hiểm là quân đội Tưởng. Tranh thủ thời gian
hòa hoãn Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tích cực đẩy mạnh sản xuất ổn định đời
sống, tích trữ lương thực phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các chiến khu, mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, chuẩn
bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân pháp, đồng thời làm cho
dư luận quốc tế chú ý ủng hộ nguyện vọng hòa bình, tự do của dân tộc VN.
Thực tiễn lịch sử của thời kỳ này đã đem lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm
quý báu:
¢ Thứ nhất, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù Đảng rút vào hoạt động
bí mật, nhưng vẫn không ngừng củng cố và phát triển. Trong điều kiện có nhiều
đảng phái tham gia chính quyền, Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo nhà nước một cách
khéo léo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm việc giữ vững
bản chất cách mạng của chính quyền nhân dân.
¢ Thứ hai, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, dựa vào dân. Phát huy độ sức
mạnh của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chính quyền. Chính
quyền được xây dựng sau Cách mạng Tháng Tám thực sự của dân, do dân và vì
dân. Chính phủ đã thực hiện những chính sách thiết thực như: bầu cử dân chủ,
chính sách ruộng đất, xoá nạn mù chữ... để nhân dân có thể hưởng những quyền lợi
do chế độ mới đem lại, từ đó ủng hộ, tin tưởng tuyệt đối vào chính quyền, vào
Đảng.
¢ Thứ ba, lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi
nhọn vào kẻ thù chính, nguy hiểm nhất. Giai đoạn này, chúng ta đã lợi dụng mâu
thuẫn (Anh - Pháp, Mỹ -Tưởng, mâu thuẫn giữa các nhóm trong chính quyền và
quân đội Tưởng, mâu thuẫn trong nội bộ thực dân Pháp) để phân hoá, làm suy yếu
các kẻ thù, tranh thủ xây dựng lực lượng và bảo vệ được chính quyền nhân dân.
7.2. Phân tích cơ sở của chủ trương hòa với Tưởng.
- Cơ sở lý luận :
Áp dụng chủ trương của Lênin về hòa hoãn sau CMT10 khi nước Nga có thù
trong giặc ngoài thì Nga đã kí hoàn hoãn với 14 nước đế quốc bên ngoài để tập
trung lực lượng chống phản động trong nước. Năm 1920, Nga đã thành công chống
thù trong giặc ngoại => Lênin kết luận : Trong tình thế đối đầu với nhiều kẻ thù thì
phải thực hiện hòa hoãn và chọn hòa với kẻ thù ít nguy hiểm trước. Để có lợi cho
cách mạng thì dù có phải hòa với kẻ cướp ta cũng phải hòa.
- Cơ sở thực tiễn:
+ So sánh lực lượng lúc này không cho phép ta đối phó với cả Tưởng và
Pháp. Hơn nữa, Tưởng trong phe Đồng minh đến tước vũ khí của phát xít Nhật nên
ta không được phép đánh Tưởng. Tránh nguy cơ đối đầu với nhiều kẻ thù, Đảng ta
chủ trương hòa với Tưởng, kiên trì thực hiện nguyên tắc “thêm bạn bớt thù”.
+ Pháp lăm le muốn Tưởng nhanh chóng về nước để Pháp ra miền Bắc
nhưng ta lại hòa với Tưởng để đẩy mâu thuẫn giữa Tưởng và Pháp trở nên gay gắt
+ Tưởng là kẻ thù ít nguy hiểm hơn Pháp, bởi vì Pháp mới là kẻ thù nguy
hiểm nhất, kẻ thù chủ yếu của CM lúc này, phải tập trung mũi nhọn đánh Pháp =>
Hòa với Tưởng trước.
+ Trong lúc này, Tưởng cũng muốn hòa với ta vì Tưởng muốn ở lại lâu để
củng cố địa vị tay sai và để tiếp tục mặc cả với Pháp. Lúc này nếu ta muốn hòa với
Pháp cũng không được vì Pháp đang muốn đánh nhanh thắng nhanh từ miền Nam
ra miền Bắc.
+ Hòa với Tưởng để ta có thể tập trung lực lượng đánh Pháp ở miền Nam.
+ Hòa với Tưởng để khoét sâu mâu thuẫn, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng lối
kẻ thù giữa 2 tập đoàn đế quốc Anh – Pháp, Mỹ - Tưởng về quyền lợi Đông
Dương, tránh nguy cơ Pháp câu kết với Tưởng hòng tiêu diệt chúng ta.
→ Trong tình thế phải đối đầu với nhiều kẻ thù thì phải thực hiện hòa hoãn và phải

chọn hòa hoãn với kẻ thù ít nguy hiểm nhất. Để có lợi cho cách mạng thì dù có
phải hòa với kẻ cướp ta cũng phải hòa – việc áp dụng lí luận về hòa hoãn của
Lenin phù hợp với hoàn cảnh của đất nước cho thấy sự sáng suốt của Đảng ta, vừa
là nhân nhượng nhưng cũng biến nó thành cơ hội để tranh thủ tạo bước tiến mới
cho cách mạng Việt Nam.

* Biện pháp nhân nhượng với quân Tưởng của Đảng vào tháng 9/1945 đến
tháng 2/1946
- Nội dung: Nêu cao khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện”, thực hiên phương
pháp, chính sách tiêu cực đề kháng. Thực hiện biện pháp nhân nhượng quyền lợi
về nhiều mặt
+ Chính trị:
 Tháng 11/1945, để gạt mũi nhọn tấn công của kẻ thù vào, ĐCS Đông Dương
tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật nhằm giữ
vững vai trò lãnh đạo của chính quyền nhân dân. Chỉ để lại công khai là
"Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương" và đây chính là nơi những
người Cộng sản ra vào hoạt động.
 Chấp nhận nhường 70 ghế trong quốc hội mà không cần bầu cử và 4 ghế bộ
trưởng trong chính phủ cho Việt quốc Việt cách tay sai của Tưởng.
 Thực chất thời kì này ta thực hiện đa nguyên chính trị, chính phủ lúc này là
chính phủ liên hiệp 3 bên, bao gồm: người của mặt trận Việt Minh, người
yêu nước không đảng phái và người của Việt quốc, Việt cách. Tuy nhiên thì
các ghế trong chính phủ, ghế nào quan trọng, chủ chốt thì là của ta và người
yêu nước không đảng phái còn ghế nào rắc rối, khó khăn thì là người của
Việt quốc Việt cách như: Bộ trưởng bộ ngoại giao, bộ trưởng bộ canh nông,
bộ trưởng bộ văn hóa.
+ Kinh tế:
 Chấp nhận cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi 20 vạn quân Tưởng.
 Tiêu 2 loại tiền: Quan kim, Quốc tệ (2 loại tiền mất giá ở Trung Quốc).
+ Quân sự: Các đơn vị vũ trang tỉnh táo, không gây xung đột đề kháng, lực
lượng vũ trang đóng xa quân Tưởng, tránh xung đột trực tiếp với quân Tưởng và
tay sai để tránh mắc vào cạm bẫy khiêu khích, kiếm cớ lật bổ chính quyền cách
mạng.
- Kết quả:
+ Hạn chế thấp nhất hoạt động khiêu khích lật đổ chính quyền của quân
Tưởng và tay sai của chúng.
+ Tập trung được lực lượng đánh Pháp ở miền Nam.
Câu 8: Tại sao trong Đại hội III (tháng 9-1960), Đảng xác định “cách mạng
miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp”?
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam được xác định trong Đại hội III
là giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện
độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược
và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ,
thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền nam, thực hiện độc lập
dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa
bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và trên thế giới. Vì Miền Nam là tiền tuyến
nên Đảng ta xác định cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng, có vai trò
quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ đế quốc Mĩ và tay sai, giải phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước.
Câu 9: Tại sao trong Đại hội III (tháng 9-1960), Đảng xác định “cách mạng
miền Bắc giữ vai trò quan trọng nhất”?
Trong Đại hội III (tháng 9-1960), Đảng xác định “cách mạng miền Bắc
giữ vai trò quan trọng nhất” vì:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Miền bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng
đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh cây mới tốt".
+ Vì miền Bắc thực sự vững mạnh về mọi mặt là cơ sở vững chắc cho nhân
dân cả nước trong cuộc đấu tranh chống chính sách xâm lược thực dân mới của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đồng thời thiết thực chuẩn bị điều kiện và tạo tiền đề
vững chắc cho bước phát triển mới của cách mạng cả nước sau khi đánh thắng
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
+ Nhiệm vụ chiến lược đối với miền Bắc giai đoạn 1954-1964 được xác định
trong Đại hội III là tiến hành đẩy mạnh cách mạng XHCN. Cách mạng XHCN ở
miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa cách mạng của cả
nước, hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi
lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ
cách mạng VN và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ cách mạng ở
miền Bắc vừa nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của miền Bắc trong hoàn cảnh nước
nhà bị chia cắt, lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta
với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là
hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Kết luận: Từ thực tiễn trên, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định: “Không thể
nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có
miền Bắc xã hội chủ nghĩa suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm
vụ chiến lược... Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ
sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ
căn cứ địa cách mạng của cả nước”.
Miền Bắc có tác dụng quyết định nhất gắn liền với miền Nam, giúp cách
mạng miền Nam vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, vùng lên đúng lúc, trụ
vững trong những lúc ác liệt nhất, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng
khắp trên cả ba vùng chiến lược. Hai miền chung sức đánh giặc, cả nước kháng
chiến nên đã tạo ra sức mạnh to lớn đánh thắng Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
Câu 10: Tại sao nói cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng DTDCND ở
miền Nam có mối quan hệ mật thiết và thúc đẩy lẫn nhau? (Giống câu 11)
Câu 11: Vai trò và mối quan hệ giữa miền Bắc và miền Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, qua Đại hộị III (tháng 9-1960)?

Vai trò, nhiệm vụ cách mạng của hai miền


- Do đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Đảng và Chính phủ đã đề ra
cho cách mạng mỗi miền những nhiệm vụ chiến lược phù hợp với đặc điểm tình
hình và yêu cầu của cách mạng từng miền.
- Miền Bắc chuyển sang làm cách mạng XHCN. Nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng miền Bắc là cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế. Khi Mĩ gây chiến tranh phá hoại, miền Bắc vừa phải kết hợp chiến
đấu bảo vệ mình, xây dựng thành căn cứ địa và hậu phương vững chắc của cả
nước, vừa phải phối hợp với cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam.
- Miền Nam: Tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh
đổ ách thống trị của Mĩ và tay sai để giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất
đất nước…

Mối quan hệ của cách mạng hai miền


- Trong việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chung, cách mạng mỗi miền có vị
trí và vai trò khác nhau nhằm giải quyết yêu cầu riêng của từng miền.
+ Miền Bắc là hậu phương và là căn cứ địa cách mạng của cả nước nên có vị
trí quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với
sự nghiệp thống nhất đất nước.
+ Miền Nam là tiền tuyến nên có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh
đổ đế quốc Mĩ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

- Cách mạng hai miền có mối quan hệ qua lại gắn bó mật thiết với nhau,
phối hợp, thúc đẩy tạo điều kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi giành được ở mỗi
miền là thắng lợi chung của cách mạng hai miền, của sự nghiệp chống Mĩ cứu
nước toàn dân tộc, nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
=> Thực tiễn lịch sử đã chứng minh đường lối trên phản ánh đúng quy luật
vận động cách mạng của từng miền và của cả nước, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại và phát huy được sức mạnh chung của cả nước và của thời đại để đánh
Mĩ và thắng Mĩ.
Câu 12: Tại sao nói Đại hội III (9/1960) là đại hội xác định mục tiêu xây dựng
CNXH và giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước?
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-
9-1960. Đại hội diễn ra trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam vừa hoàn thành khôi
phục kinh tế sau kháng chiến chống Pháp và cải cách ruộng đất cùng với cải tạo
công thương nghiệp; trong khi ở miền Nam một phong trào chống chính
quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối năm 1959 và trở
thành đồng khởi từ đầu năm 1960.
Đại hội III đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới và nhấn mạnh “Đại hội lần này là đại hội xây dựng
CNXH ở miền bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
+ Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ
của từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách mạng từng miền và mối quan hệ giữa
cách mạng hai miền.
Nhiệm vụ cách mạng ở hai miền tuy khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu
chung là: thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc; đều nhằm giải quyết mâu thuẫn
chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai
của chúng. Vì vậy, Đại hội xác định: “Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong
giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
+ Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Còn cuộc cách mạng miền Nam “có tác
dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”. 
=> Đại hội lần thứ III của Đảng có một ý nghĩa rất trọng đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là ngọn đèn pha sáng
ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống
nhất nước nhà, tiến tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh. Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn
Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng
tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”

Câu 13: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (tháng 5 - 1941)

1. Hoàn cảnh lịch sử:


- Chiến tranh thế giới II bước vào năm thứ ba. Phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên
Xô, làm cho tính chất chiến tranh thay đổi. Thế giới hình thành hai trận tuyến: Một
là lực lượng dân chủ, bên kia là khối phát xít. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta là
một bộ phận của lực lượng dân chủ.
- Tình hình trong nước ngày càng khẩn trương. Tháng 1 - 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ ngày 10 đến 19-5 -
1941, Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pắc Bó
(Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

2. Nội dung Hội nghị:

Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu
thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với bọn đế quốc - phát xít xâm lược Pháp -
Nhật.
- Xác định nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng là giải phóng dân tộc:
“Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi đươc độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp vạn năm cũng không đòi lại
được”.
- Chủ trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và
Việt gian chia cho dân cày nghèo. Thực hiện giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng
công”, tiến tới thực hiện “người cày có ruộng”.
Như vậy, vấn đề ruộng đất chỉ được đề ra ở một mức độ nhất định, nhằm phân hóa
giai cấp địa chủ, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc - phát xít Pháp - Nhật.
- Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước
Đông Dương. Song các dân tộc ở Đông -Dương phải đoàn kết cùng nhau chống kẻ
thù chung là Pháp - Nhật, đồng thời liên hệ mật thiết với Liên Xô và các lực lượng
dân chủ chống phát xít.
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực
lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
- Quyết định thành lập ở Việt Nam một mặt trận lấy tên là Việt Nam độc lập
đồng minh gọi tắt là Việt Minh, bao gồm các tổ chức quần chúng mang tên Cứu
quốc nhằm tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng quần chúng nhân dân chống lại kẻ thù
chính là đế quốc - phát xít Pháp - Nhật và tay sai.
- Sau khởi nghĩa thắng lợi sẽ lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ba là, chủ trương tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- Coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng,
toàn dân.
- Vạch rõ khởi nghĩa vũ trang muốn giành thắng lợi phải nổ ra đúng thời cơ,
phải có đủ điều kiện chủ quan và khách quan.
- Chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Câu 14: Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945)
Hoàn cảnh lịch sử :
Chiến tranh thế giới thứ 2 đang đi đến hồi kết với thắng lợi thuộc về phe
đồng minh. Hồng quân Liên Xô truy kích tiêu diệt quân phát xít đến tận Berlin,
phát xít Nhật lâm vào nguy khốn.
Trong khi đó, mâu thuẫn Pháp-Nhật trở nên gay gắt : 9/3/1945, Nhật đảo
chính Pháp chiếm Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng Nhật. Trước tình
hình đó, 12/3/1945, Đảng ra chỉ thị : ‘Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta’
Nội dung :
- Nhận định đây là thời cơ chín muồi để thực hiện Tổng khởi nghĩa
- Xác định kẻ thù chính duy nhất là phát xít Nhật 
- Khẩu hiệu đấu tranh ‘đánh đuổi phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách
mạng của nhân dân Đông Dương’ 
- Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc
Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi 
- Khẳng định phương châm đấu tranh là tiến hành khởi nghĩa từng phần dẫn
đến tổng khởi nghĩa.
- Chỉ thị cũng xác định rõ những thời cơ có thể nắm bắt, dựa vào sức mình
để giành thắng lợi
Ý nghĩa :
- Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời
của Đảng ta, nhờ đó, dấy lên 1 cao trào cách mạng, thúc đẩy tình thế cách
mạng mau chóng chín muồi
- Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện khởi
nghĩa vũ trang từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa
- Thể hiện năng lực của Đảng trong nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù
hợp
Câu 15: Hội nghị toàn quốc của Đảng (13 đến 15/8/1945)
Trước tình hình chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc với thắng lợi thuộc về phe
Đồng minh, phát xít Nhật ở châu Á đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn, TW Đảng đã
quyết định họp Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) với nhận định đây
là cơ hội rất tốt để tổng khởi nghĩa giành chính quyền độc lập
Nội dung :
- Quyết định phát động tổng khởi nghĩa trước khi quân Đồng minh vào
- Nguyên tắc chỉ đạo tổng khởi nghĩa : tập trung, thống nhất và kịp thời ; đánh
chiếm ngay những nơi chắc thắng không kể thành thị hay nông thôn, quân
sự kết hợp với chính trị…
- Lấy 10 chính sách của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền
cách mạng
- Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn, bớt thù,
triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để tránh tình thế bất lợi
- Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, đặc biệt là nhân dân Pháp và nhân dân
Trung Quốc
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để phát lệnh tổng khởi nghĩa
13/8/1945
Câu 16 : Phân tích nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng (2/1930)?
Hoàn cảnh lịch sử: Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (từ
ngày 3 đến ngày 7 - 2 - 1930) ở Hương Cảng (Trung Quốc) do Nguyễn Ái Quốc
chủ trì, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản để thành
lập một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời thông qua
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc dự
thảo. Các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.
- Cương lĩnh đã vạch ra con đường của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai
giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai
đoạn này kế tiếp nhau “không có bức tường nào ngăn cách”.
Phân tích: Như vậy là ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấu suốt con
đường phát triển của cách mạng nước ta là con đường kết hợp và giương cao hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường tất yếu và đúng đắn của
cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh chỉ rõ: Cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ bọn đế quốc
Pháp; bọn phong kiến và giai cấp tư sản phản động, làm cho nước Việt Nam được
độc lập; dựng lên chính phủ công nông binh; tiến hành cách mạng ruộng đất, đem
lại ruộng đất cho nông dân…
- Phân tích: Các nội dung trên đã bao trùm cả hai nội dung cơ bản của cách mạng
giải phóng dân tộc ở nước ta là dân tộc và dân chủ (chống đế quốc và chống phong
kiến). Đặc biệt, Cương lĩnh đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc (chống đế quốc)
lên vị trí hàng đầu.
- Cương lĩnh cũng chỉ ra rằng: lực lượng để đánh đổ đế quốc phong kiến là công
nông. Đồng thời phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để lôi kéo
họ về phe giai cấp vô sản. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản dân
tộc thì phải lợi dụng hay ít ra là trung lập họ…
Phân tích: Cương lĩnh đã phản ánh đúng đắn động lực của cách mạng Việt Nam,
phát huy được truyền thống yêu nước của dân tộc ta; từ đó, xây dựng được khối đại
đoàn kết dân tộc nhằm thực hiện được nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải
phóng dân tộc ở nước ta là giành độc lập dân tộc.
- Cương lĩnh khẳng định: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc bị áp bức và giai
cấp công nhân thế giới.
Phân tích: Điều này phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, thấm nhuần quan
điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin; qua đó kết hợp được sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt
Nam.
- Cương lĩnh khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng của giai
cấp vô sản và là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
phải có trách nhiệm thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, thu phục cho được đại đa số dân cày, đồng
thời phải liên minh với giai cấp cách mạng và các tầng lớp yêu nước khác, đoàn
kết và tổ chức họ đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Phân tích: Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Bởi vì, trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, chỉ có giai cấp
công nhân, thông qua chính đảng của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo mới có đủ
điều kiện và khả năng đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Kết luận: Cương lĩnh chính trị của Đảng ta do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là
cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về
quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm đượm tính dân tộc và tính
nhân văn; trong đó, độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi. Nó đặt cơ sở cho
Đảng ta kế thừa và hoàn chỉnh đường lối lãnh đạo cách mạng nước ta trong các
giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Trọng tâm chương 1, 2, 3

Chương 1:
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Ý nghĩa của
Cương lĩnh?
Chương 2: Giai đoạn 1939 - 1945
+ Nghị quyết TW lần thứ 8 (5-1941)
+ Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945)
+ Hội nghị toàn quốc của Đảng (13 – 15/8/1945)
Chương 3:
- Đường lối chống Pháp (1945-1946)
+ Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc của Đảng” (25/11/1945)
+ Sách lược hòa hoãn với quân Tưởng và quân Pháp
- Đường lối chống Mỹ (1954-1975)
+ Nghị quyết 15 (1/1959)
+ Đại hội III (9/1960)
+ Hội nghị TW lần thứ 11,12 (1965)
Câu hỏi 7 điểm

Câu 1: Phân tích quan điểm CNH, HĐH của Đảng: “Lấy việc phát huy nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.

Liên hệ:

1) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để thực sự phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

2) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để phát triển nhanh nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

Đáp án
Vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con người được coi là một nhiệm
vụ trọng yếu, một khâu đột phá chiến lược, luôn được Đảng CSVN đề cập tới trong
nhiều kỳ đại hội, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, với phương
châm đổi mới xuất phát từ con người và vì con người. Con người là trung tâm của
mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm, vừa là
mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy, Đảng đã
khẳng định “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững”.
1. Cơ sở lựa chọn quan điểm: 5 lý do
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người
luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là:
vốn, KH & CN, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước
trong đó con người là yếu tố quyết định. Vì các nguồn lực khác thì sẽ dần cạn kiệt
nhưng nguồn lực con người thì có khả năng tự tái sinh.
Đảng ta chủ trương CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lưc, nhất là trí lực (con người) có vai trò, ý nghĩa quyết định.
Xét trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế – xã hội, nguồn
lực con người luôn đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự phát
triển xã hội. Vai trò của nguồn lực con người được thể hiện với tư cách vừa là chủ
thể, vừa là khách thể. Con người là chủ thể, không chỉ quyết định hiệu quả của
việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác hiện có mà còn
góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của tương lai. Mặt khác, con
người là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự
phát triển, qua đó đề cao, nhấn mạnh sức sáng tạo của con người.
Con người là đối tượng thụ hưởng duy nhất của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, với phương châm đổi mới xuất phát từ con người và vì con người. Do
đó, con người có vị trí quyết đinh, giữ vai trò nền tảng, là động lực, là mục tiêu cao
nhất của sự phát triển KT – XH.

Quan điểm trên là sự tiếp thu, học tập kinh nghiệm từ các nước đi trước
trong quá trình CNH, HĐH mà điển hình là Nhật Bản.
2. Nội dung quan điểm:
2.1. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH cần
đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo, coi “giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con người Việt Nam
khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.2. CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân
lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho CNH – HĐH đòi
hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng
sáng tạo công nghệ mới.
2.3. Vấn đề phát huy nguồn lực con người qua các kỳ ĐH:
+ ĐH VIII: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”. “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển
nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân,
phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường”.
+ ĐH IX, X tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”
+ ĐH XI: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát
triển nhanh và bền vững”
+ ĐH XII: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng
lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
3. Kết luận
Như vậy, vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người luôn được
Đàng quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, với quan điểm đổi
mới xuất phát từ con người, vì mục tiêu con người và “lấy việc phát huy nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Sau 30 năm đổi
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực
đặc biệt là nguồn lực con người, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa”; để lại những bài học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong đó
“đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào dân phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực
của nhân dân…” .Trong những năm tiếp theo, đất nước ta đang đứng trước những
thời cơ và thách thức mới, để tiếp tục phát huy nhân tố con người trong điều kiện
cách mạng mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, tất cả vì một xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”… con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Liên hệ:

Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”.

Theo anh (chị), cần có giải pháp gì để thực hiện tốt văn hóa lễ hội ở Việt
Nam hiện nay?

Đáp án

Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”.
1. Cơ sở lựa chọn quan điểm

Văn hóa là tài sản tinh thần chung của dân tộc, là yếu tố đặc biệt trong sự
gắn kết cộng đồng thành một khối thống nhất. Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng
định: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió
và thác ghềnh, tưởng chừng như không thể vượt qua được, để không ngừng phát
triển và lớn mạnh”. Văn hóa là phần cốt tủy, là tinh hoa được chưng cất, kết tụ nên
bản chất, bản sắc, linh hồn của dân tộc, của thời đại; là động lực của sự phát triển,
nó luôn mang tính chủ động, có khả năng đi trước, vừa là nhân tố khởi xướng đổi
mới đồng thời cũng là nơi tiếp nhận thành quả của đổi mới.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đó là mục
tiêu quan trọng của xã hội chủ nghĩa.  Đảng ta đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hiện nay xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tác
động mạnh mẽ đối với đời sống văn hoá của đất nước ta. Toàn cầu hoá là một xu
thế khách quan, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực tác động đến nền văn hoá
dân tộc. Chúng ta phải từng bước khắc phục sự suy thoái trầm trọng về tư tưởng,
đạo đức, lối sống hiện nay. Mặt khác, chúng ta cần chủ động học tập, tiếp thu
những thành tựu, giá trị tích cực, những tinh hoa của văn hoá nhân loại để làm giàu
cho mình, tránh tư tưởng khép kín, bài ngoại, đồng thời loại bỏ những yếu tố phản
động, tiêu cực, không phù hợp trong quá trình giao lưu văn hóa, toàn cầu hóa hiện
nay.
2. Nội dung quan điểm
- Tính chất tiên tiến của nền văn hóa (thể hiện ở 5 đặc trưng):
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt
lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn cách
mạng: vì con người, vì sự phát triển toàn diện con người (cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức). “Nhằm mục tiêu
tất cả vì con người, vì hạnh phúc và phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con
người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã
hội”
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện được tinh thần dân chủ: phát
huy quyền làm chủ của nhân dân - tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân tham gia
vào quá trình sáng tạo, hưởng thụ và biểu hiện văn hóa; tôn trọng, bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa dân tộc; tạo điều kiện cho sự phát triển văn hóa của các dân tộc,
vùng, miền, làng xã, gia đình một cách bình đẳng; tôn trọng sự sáng tạo của cá
nhân.
“Phải đảm bảo dân chủ, tự do cho mọi sáng tạo và mọi hoạt động văn hóa. Mặt
khác cần nhấn mạnh rằng sự sáng tạo chân chính gắn liền với trách nhiệm trước
công chúng, trước dân tộc và thời đại” (NQ HNTW 4 – Khóa VII)
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa mang tính hiện đại: tiếp thu, tiếp biến
các thành tựu văn hóa, tri thức, khoa học, công nghệ hiện đại của nhân loại. Sử
dụng các thành quả văn hóa, văn minh của thời đại vào giải quyết các vấn đề của
dân tộc (hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước). Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng tiến bộ vào sự nghiệp xây dựng đất nước, con người và xã
hội.
“Nâng cao trình độ tư duy khoa học, duy lý trong mọi hoạt động KT-XH trong điều
kiện KTTT, giải quyết các vấn đề dân tộc đặt ra trên tầm thời đại...”
+ Nền văn hóa tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện và các phương tiện hiện đại để chuyển tải nội dung. “ Xây dựng có
trọng điểm cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin đại
chúng, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước tiến kịp trình
độ kỹ thuật tiên tiến của thế giới” (NQ TW 4 – Khóa VII)
- Tính chất dân tộc (đậm đà bản sắc dân tộc)
+ Mối quan hệ giữa văn hóa và dân tộc: văn hóa là một yếu tố hình thành
dân tộc. Văn hóa là bộ mặt tinh thần, là linh hồn, là sức sống của một dân tộc.
+ Bản sắc văn hóa của dân tộc là bản sắc của dân tộc thể hiện trong văn hóa
là những yếu tố "độc đáo", "đặc sắc" của nền văn hóa dân tộc, là "cốt cách dân
tộc", "đặc tính dân tộc" (Hồ Chí Minh), là bộ “gen” bảo tồn dân tộc.
+ Bản sắc văn hóa Việt Nam là "tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam" là giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam (Văn kiện Hội nghị Trung ương
năm, khóa VIII). Biểu hiện ở 5 giá trị cơ bản:
1. Tinh thần yêu cầu nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc;
2. Tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
quốc;
3. Tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động;
4. Lòng nhân ái khoan dung trọng nghĩa tình đạo lý;
5. Tính giản dị trong lối sống, sự tinh tế trong ứng xử.
3. Kết luận
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, quan điểm của Đảng ta về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là quan điểm
nhất quán và xuyên suốt thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập quốc tế. Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng,
cùng với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nền văn hoá nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước, đã và đang trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh mới hiện nay, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn là một nhiệm vụ hàng
đầu, cấp thiết, quan trọng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội - với mục tiêu cao
cả là để Tổ quốc ta mãi mãi là một quốc gia văn hiến, để dân tộc ta mãi mãi là một
dân tộc văn hóa, xứng đáng với tầm vóc của mình trong lịch sử và đủ sức, tự tin,
vững bước tiến cùng thời đại.

Câu 3: Phân tích định hướng của Đảng: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”.

Liên hệ:
1) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để nâng cao việc ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở nông thôn?
2) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để giải quyết tốt vấn đề việc làm
cho lao động nông thôn hiện nay?
3) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để giải quyết tốt vấn đề bảo vệ
môi trường ở nông thôn hiện nay?
4) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để cải thiện chất lượng nông sản
của nông dân trong thời kỳ hội nhập?
Đáp án:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Nghị
quyết 26 - HNTW7 khóa X). "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước" (Hội nghị 7, BCH TW khóa
X (8/2008)

Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ,
gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Phát triển toàn diện, hiện đại
hóa nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới là căn bản, nông dân giữ
vai trò chủ thể, “tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển
nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông
dân” (ĐH ĐBTQ lần thứ XII (1/2016)
1. Cơ sở định hướng
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn có tầm
quan trọng đặc biệt đối với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng
cao đời sống của nông dân. Đó là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ
nước nào, nhất là nước ta có điểm xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại.
+ Nước ta có thế mạnh để phát triển nông nghiệp (gần 70% dân số sống ở
nông thôn, hơn 47% lao động làm nông nghiệp). Nông nghiệp Việt Nam với vị trí
là cái gốc của đất nước, là cái lợi thế rõ ràng nhất. Do đó để đảm bảo cho đời sống
dân cư ổn định, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để phát triển thì rất cần
thiết phải đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Nước ta đã nhận thức rõ được mối quan hệ giữa nông nghiệp và công
nghiệp trong thời đại CNH, HĐH đó là: Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp, là địa bàn tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp. Công nghiệp làm tăng
năng suất cho nông nghiệp, cung cấp máy móc, kĩ thuật, cơ sở hạ tầng cho nông
nghiệp, bộ mặt của nông nghiệp có thay đổi được hay không là phụ thuộc vào sự
phát triển của CN.

+ Mục đích của đất nước ta là tăng trưởng KT gắn với tiến bộ và công bằng
XH, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Do đó cần
phải thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Nông nghiệp phát triển, bộ mặt nông thôn thay đổi, đời sống nhân dân
được cải thiện là một tiền đề quan trọng để giữ vững sự ổn định chính trị XH.
+ Đó là ta học tập kinh nghiệm không chỉ từ thành công mà còn từ thất bại
của các nước khi thực hiện CNH, HĐH (Hoa Kỳ, các nước Tây Âu, Nhật Bản)
2. Nội dung định hướng: 3 nội dung
- Một là, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo
ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường;
đẩy nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù
hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
+ Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và
dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
- Hai là, về quy hoạch phát triển nông thôn.
+ Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc
sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
+ Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - XH đồng bộ
như thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm
y tế, bưu điện, chợ,…
+ Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với nếp sống văn hóa, nâng cao trình
độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín, dị đoan, bảo đảm an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
- Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
+ Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu
lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông
nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để
lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao
động nước ngoài.
+ Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Đánh giá
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, là vấn đề có tính quy luật và là đòi hỏi tất yếu
của sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, chủ nghĩa xã
hội. Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng, cùng với sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận xã hội cao, trong tương lai không xa,
Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại với
một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh và một nông thôn văn minh, giàu đẹp, mang
đậm bản sắc dân tộc. Trước mắt, việc khắc phục những tác động tiêu cực của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với nông thôn, nông nghiệp, nông dân
(như chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu
đồng bộ, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, vấn đề đất đai, ô nhiễm môi
trường…) phải được coi là vấn đề cấp thiết và là một nhiệm vụ trọng yếu của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hiện nay.  
Câu 4: Phân tích tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường được đề ra
trong đại hội XI (1/2011). Từ đó nêu giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp và doanh nhân khởi nghiệp của VN trong thời gian tới.
Đáp án:
Các quan điểm từ Đại hội IX, X về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được Đại hội XI (01-2011) của Đảng khẳng định và cụ thể hóa
thêm trên một số phương diện gắn với việc giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của
nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay và mục tiêu phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đại hội khẳng định:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa
tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”
Mục tiêu phát triển: “Phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao
đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm
nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”
Phương hướng phát triển: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí
then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng cùng
phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnhcùng phát triển theo pháp luật.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp.
Định hướng xã hội, phân phối:
 Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội; Thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
 Phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông
qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Quản lý kinh tế - xã hội:
 Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nhà nước đóng
vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các
nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và
điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi
trường, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
 Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN bằng luật pháp, các
cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực
kinh tế.
 Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.

You might also like