You are on page 1of 8

Văn tự và văn học Đông Nam Á cổ - trung đại

I.Văn tự
- Định nghĩa : Văn tự là hệ thống ký hiệu, cố định ngôn ngữ (với sự phụ trợ của các
nét) truyền đạt thông tin thông báo, lưu giữ chúng trong không gian thời gian.Văn tự là
hệ thống kí hiệu (ghi lại, cố định) ngôn ngữ ở dạng viết
1.Cam-pu-chia
Từ những thế kỉ đầu Cồng nguyên, người Khơ-me đã học chữ Phạn của người Ấn.
Trên cơ sở đó, từ thế kỉ VII, người Khơ-me đã sáng tạo nên  hệ thống chữ viết riêng
của mình. Từ đó về sau, các bài văn bia, ngoài phần mở đầu theo thói quen viết bằng
chư Phạn  còn phần lớn đều được viết bằng chữ Khơ-me cổ
2.Lào
Người Lào có hệ thống chữ viết riêng,
đuợc xây dựng một cách sáng tạo trên cơ sở vận dụng các nét chữ cong của Cam-pu-
chia và Mi-an-ma
3.Thái Lan
Chữ Thái ( hay chữ Xiêm ) cổ xưa nhất chính là chữ của Thái Đen ( Chữ Thái Việt
Nam ) ngày nay. Người ta chưa thể xác định rõ chữ Thái Đen ra đời từ khi nào, tuy
nhiên người ta đã biết đến các cuốn sách ghi chép từ thế kỷ XI, do đó có thể chữ Thái
Đen đã ra đời từ trước đó khá lâu. Bảng chữ cái Thái có nguồn gốc hoặc ít nhất chịu
ảnh hưởng từ bảng chữ cái Khmer Cổ, một loại chữ được phát triển từ ký tự Pallava có
nguồn gốc từ miền nam Ấn Độ Ký tự Pallava lại dựa trên ký tự Brahmi, một loại chữ
viết của Ấn Độ cổ đại.Chữ Thái được hình thành từ nét cong từ bộ chữ của người Thái
đen kết hợp với nét thẳng từ bộ chữ Tamil (Ấn Độ); kết quả cho ra bảng chữ cái tiếng
Thái được dùng phổ biến ngày nay
4.Myanmar
Tiếng Miến Điện, hệ chữ Miến, xuất phát từ hệ chữ Brahmi, là hệ chữ viết được dùng
để viết ngôn ngữ này.
5.Chăm-pa
Tiếng Chăm.có bộ chữ cái bắt nguồn từ chữ Phạn thuộc hệ Bhrami.
6.Mã Lai
Tiếng Mã Lai : Các nhà ngôn ngữ học lịch sử Mã Lai cho rằng khả năng quê hương
tiếng Mã Lai nằm ở phía tây Borneo kéo dài đến bờ biển Brunei Một dạng được gọi là
ngôn ngữ Mã Lai nguyên thủy đã được nói ở Borneo ít nhất năm 1.000 TCN và nó
được cho là ngôn ngữ tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ Mã Lai tiếp theo. Tổ tiên của nó,
ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo nguyên thủy, hậu duệ của ngôn ngữ Nam Đảo nguyên thủy,
bắt đầu phân tách ít nhất năm 2.000 TCN, có thể là kết quả của sự mở rộng về phía
nam của các dân tộc Nam Đảo vào Đông Nam Á hải đảo từ đảo Đài Loan
7.Việt Nam

- Thời Bắc thuộc, tiếng Hán theo nhiều ngả đường đã truyền vào Việt Nam. Với chính
sách đồng hóa của phong kiến phương Bắc, tiếng Việt bị chèn ép nặng nề. Nhưng
trong gần một nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc cũng là thời gian đấu tranh để
bảo tồn và phát triển tiếng nói của dân tộc.

- Tiếng Việt, với nguồn gốc Nam Á, có nhiều đặc trưng khác tiếng Hán, tuy nhiên,
trong quá trình tiếp xúc, để tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tiếng Việt đã vay mượn rất
nhiều từ ngữ Hán. Chiều hướng chủ đạo của việc vay mượn này là Việt hóa về mặt âm
đọc, ý nghĩa và phạm vi sử dụng. Với hướng Việt hóa âm đọc của chữ Hán, qua nhiều
thế kỉ, người Việt đã xác lập được cách đọc chữ Hán riêng biệt, gọi là cách đọc Hán
Việt (hoặc âm Hán Việt của chữ Hán). Từ ngữ Hán được vay mượn bằng nhiều cách
như rút gọn, đảo lại vị trí các yếu tố, đổi yếu tố (trong các từ ghép), đổi nghĩa hoặc thu
hẹp, mở rộng nghĩa... Nhiều từ Hán được dùng như yếu tố tạo từ để tạo ra nhiều từ
ghép chỉ thông dụng trong tiếng Việt.

- Trong thời kì Bắc thuộc, tiếng Việt đã phát triển mạnh mẽ nhờ những cách thức vay
mượn theo hướng Việt hóa. Những cách thức Việt hóa làm phong phú cho tiếng Việt
cả ở những thời kì sau này và cho đến ngày nay.

- Từ thế kỉ XI, cùng với việc xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến độc lập ở
nước ta, Nho học được đề cao và giữ vị trí độc tôn. Việc học ngôn ngữ - văn tự Hán
được các triều đại Việt Nam chủ động đẩy mạnh. Một nền văn chương chữ Hán mang
sắc thái Việt Nam hình thành và phát triển.

- Nhờ những hoạt động ngôn ngữ - văn hóa được đẩy mạnh, trong đó có việc vay
mượn từ ngữ Hán theo hướng Việt hóa, tiếng Việt ngày càng phong phú, tinh tế, uyển
chuyển. Dựa vào việc vay mượn một số yếu tố văn tự Hán, một hệ thống chữ viết được
xây dựng nhằm ghi lại tiếng Việt, đó là chữ Nôm.

- Với chữ Nôm, tiếng Việt khẳng định những ưu thế trong sáng tác thơ văn, ngày càng
trở nên tinh tế, trong sáng, uyển chuyển, phong phú.

Ý nghĩa :

- Việc sáng tạo ra chữ viết của cư dân Đông Nam Á không phải là sự bắt chước giản
đơn mà là một quá trình công phu, sáng tạo. Điều đó thể hiện thái độ tiếp thu một cách
chủ động, sáng tạo những thành tựu văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ của cư dân Đông
Nam Á.

- Thể hiện sự sáng tạo, tinh thần dân tộc mạnh mẽ. 
- Tạo dựng một nền văn học viết đa dạng với nhiều tác phẩm xuất sắc còn được lưu
giữ đến ngày nay, như Truyện Kiều (Việt Nam), Riêm Kê (Cam-pu-chia), Ra-ma-kiên
(Thái Lan),…
II.Văn học
1.Văn học viết
a.Định nghĩa : - Văn học viết là văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (văn học trung
đại) và văn học từ đầu thế kỉ XX đến nay (văn học hiện đại).
- Văn học viết ra đời khi đã có chữ viết, được lưu giữ bằng văn tự (chữ viết).
- Được lưu giữ bằng văn tự (chữ viết). – Là những sáng tác của cá nhân nên mang dấu
ấn phong cách của từng tác giả.
b.Lịch sử phát triển
- Văn học viết truyền thống của Đông Nam Á được nuôi dưỡng từ ba nguồn lớn: văn
học dân gian, văn học lịch sử, văn học nước ngoài.
- Ra đời khá muộn,từ khoảng thế kỷ X-XIII nhiều quốc gia ở ĐNÁ mới xuất hiện văn
học viết
2.Văn học dân gian
a. Định nghĩa : Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng
được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác
nhau trong đời sống cộng đồng.
b. Lịch sử phát triển + Ý nghĩa
- Trước khi tiếp xúc với những nền văn hoá lớn của Phương Đông  như Ấn Độ, Trung
Quốc, thì văn học Đông Nam Á đã được hình thành trên cơ tầng văn hoá nói chung
của Đông Nam Á thời tiền sử, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
- Đây là nền tảng, là cơ sở quy định sự phát triển văn hoá tinh thần, văn hoá vật chất,
cơ cấu xã hội và đời sống tâm linh, tư duy triết lý của con người Đông Nam á trong
suốt quá trình vận động của xã hội Đông Nam Á từ xưa cho tới nay. Nền văn minh
nông nghiệp lúa nước này là cội nguồn  và bản sắc riêng, phát triển liên tục trong lịch
sử. Lớp văn hoá nguyên sơ này được nhiều nhà nghiên cứu gọi là cơ tầng văn hoá
Đông Nam Á. - Trên cơ tầng văn hoá này, văn học dân gian nảy nở, phát triển. Văn
học dân gian được xem là ngọn nguồn của văn học dân tộc khu vực Đông Nam Á và
đây cũng là lớp văn hoá bản địa trước khi Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền
văn hoá lớn  từ bên ngoài.
+ Văn học dân gian chiếm phần lớn, nổi bật, bao trùm lên toàn bộ quá trình văn học
Đông Nam Á vì nó xuất phát từ một nền văn hoá nông nghiệp với cơ cấu tổ chức làng,
xã ở các nước Đông Nam Á.
- Khi có văn học viết, văn học dân gian vẫn phát triển mạnh mẽ, phong phú và vẫn
đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, khi nghiên cứu  bức tranh văn học Đông Nam Á, đặc biệt
là văn học dân gian, phải nghiên cứu nó trong mối quan hệ liên ngành và đa ngành
như: tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật...
- Trước khi tiếp nhận chịu ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài, các cộng đồng tộc người ở
Đông Nam Á đều có tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng đa thần giáo, vạn vật hữu linh và
tục thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này gắn chặt chẽ với sự phát sinh phát triển của văn
học dân gian trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
- Sự ra đời các nghi lễ nông nghiệp ban đầu còn gắn với tôn giáo, mang ý nghĩa tôn
giáo và dần dần trở thành các sinh hoạt văn nghệ, văn học dân gian. (từ các hình thức
diễn xướng đám rước, múa thiêng, lễ ca, lễ nhạc đến các nghi thức tế tự đều có mối
tương tác đan xen với các hình thức hát giao duyên, múa vui, diễn trò tạo nên một sự
đồng nhất giữa đạo và đời, giữa cái thánh thiện và cái trần tục. Vì vậy, nghệ thuật diễn
xướng bao giờ cũng gắn với tôn giáo và giải trí).

- Văn học dân gian thời kỳ này mang màu sắc nguyên sơ của các cộng đồng làm nông
nghiệp, trồng trọt, săn bắn, đánh cá. Thần thoại, truyền thuyết phản ánh rõ nét các sinh
hoạt nghi lễ tín ngưỡng của các cư dân Đông Nam á trước sức mạnh của thiên nhiên và
những quan niệm cổ sơ của họ về vũ trụ, về thế giới bao quanh mình. Thần thoại về
lụt, về nguồn gốc dân tộc, về các nhân vật văn hoá phổ biến ở các nước Đông Nam
Á.  Nhân vật văn hoá là những anh hùng của thị tộc, bộ lạc. Họ là những nhân vật có
công lao, có tài hơn người khác. Những người anh hùng ấy được quần chúng bộ lạc
tôn thờ, tô vẽ, phóng đại, thêu dệt thành những thần thoại vì họ là những ông tổ giúp
loài người, dạy loài người làm ăn sinh sống. ở Đông Nam á ta bắt gặp nhân vật văn
hoá lên trời lấy thóc giống đem về mặt đất gieo trồng. Điều đó phản ánh một hiện thực
là văn hoá nông nghiệp hình thành, con người đã biết lấy lúa về để canh tác. Những
thần thoại còn lại đến ngày nay như Sự tích cây lúa, tục lệ thờ cúng cây lúa, các sản
phẩm làm ra từ lúa...(Sự tích Bánh chưng bánh dày của Việt Nam).
- Thần thoại về Nhân vật văn hoá phản ánh bước chuyển mình của cư dân Đông Nam
Á từ cuộc sống săn bắn, hái lượm tự nhiên chuyển sang trồng trọt, chế tác ra công cụ
lao động. Trong kho tàng truyện cổ Đông Nam Á có các truyện về cách đan lưới bắt
cá, và cơ sở của một loạt truyện khác sau này có liên quan đến tục ăn trầu, sử dụng
trầu, cau, rễ, vôi của cư dân Đông Nam Á. Gắn với tín ngưỡng vạn vật hữu linh, trong
văn học dân gian Đông Nam Á có nhiều bài mo cầu nguyện thần linh mà đến nay còn
lưu lại ít nhiều. Từ quan niệm tín ngưỡng này mới nảy sinh ra các tập quán như kiêng
cữ, tránh né các thần, các hồn ở trong các sự vật làm phương hại đến cuộc sống của
con người. Tất cả các hiện tượng nêu trên là nền tảng của một cơ tầng văn hoá Đông
Nam Á, một thứ văn học nguyên bản hỗn hợp trước khi có tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ
và Trung Quốc.
- Trước khi chuyển từ thời tiền sử sang thời kỳ lịch sử (với sự hình thành của các nhà
nước cổ đại) tức là vào khoảng các thế kỷ VI,V, IV  trước Công nguyên thì các cư dân
ở Đông Nam Á đã có một trình độ tương đối phát triển. Những quan niệm về tính chất
lưỡng phân- lưỡng hợp của thế giới như đối lập mặt trăng với mặt trời, trời với đất, núi
với biển, loài có cánh với loài thuỷ tộc, cư dân miền Thượng lưu và cư dân miền Hạ
lưu....được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong thần thoại và truyền thuyết của
vùng Đông Nam Á tiền sử.

- Từ đầu Công nguyên (thậm chí còn sớm hơn) cho đến nay, Đông Nam Á là nơi tiếp
xúc và chịu ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập, Ba
Tư, Tây Âu. 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của văn
hoá Ấn Độ, văn hoá Trung Quốc qua các con đường, những cách thức khác nhau.
Người ấn Độ thâm nhập vào vùng Đông Nam Á đem tới đây các tôn giáo (Bàlamôn
giáo; Phật giáo...) và các loại hình văn hoá của Ấn Độ, trong đó có văn học. Các dân
tộc ở Đông Nam Á đã tiếp thu một cách đầy sáng tạo các  đề tài, cốt truyện, các phong
cách  nghệ thuật của Ấn Độ và biến cải nó cùng với vốn văn hoá của mình để rồi tạo
nên những công trình điêu khắc kiến trúc đồ sộ như  Bôrôbuđua;
ĂngcoVat, những áng văn học đậm đà tính chất dân gian lấy từ Jataka, Panchatantra,
Ramayana, Mahabrrahata....
- Những tác phẩm văn học cổ đại Ấn Độ khi vào Đông Nam Á gặp ngay đời sống dân
gian vô cùng sống động ở vùng này nên chúng được dân gian hoá, được “tái sinh’
trong dân gian, chúng làm giàu thêm cho kho tàng văn học dân gian vùng này.
Mối quan hệ qua lại giữa văn học nói và văn học viết là một trong những đặc trưng cơ
bản của nền văn học Trung đại Đông Nam Á.
* Hầu như văn học Đông Nam Á đều hình thành hai bộ phận: văn học bằng tiếng vay
mượn (Sanskrit, Pali, Hán, Ả rập, Tây Ban Nha) và văn học bằng tiếng dân tộc.
Nền văn minh nông nghiệp với sự phát triển của văn học dân gian đã làm cho văn học
thành văn của Đông Nam Á ra đời muộn. 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, các nước ở
Đông Nam Á chưa có chữ viết, trong khi đó tôn giáo Ấn Độ và Phật giáo du nhập &
phát triển ở các quốc gia Đông Nam Á. Tiếng Pali, Sanskrit, tiếng Hán không những
đóng vai trò ngôn ngữ trong truyền giáo mà còn đóng vai trò ngôn ngữ văn học ở các
quốc gia Đông Nam Á. ban đầu các quốc gia ở Đông Nam Á đã vay mượn trực tiếp
các chữ viết của ấn Độ, Trung Quốc. Sau đó cư dân Đông Nam á mới dựa trên những
mẫu chữu đó để sáng tạo ra chữ viết rieng của mình. Thứ chữ viết này chủ yếu dùng
trong công việc hành chính ở các quốc gia cổ đại Đông Nam Á.
- Từ xu hướng bản địa hoá các tác phẩm văn học cổ ấn Độ tiến đến dân tộc hoá nền
văn học viết, đó cũng là đặc điểm chung của văn học Đông Nam Á.
Quá trình đó diễn ra trong văn học viết truyền thống từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII
khi văn học Hồi giáo ả Rập- Batư, văn học châu Âu thâm nhập vào các nước này, đặc
biệt ở Philippines, Indonesia, Malaysia...
- Trước thế kỷ thứ X, các dân tộc ở Đông Nam Á chưa có chữ viết, thường phải sử
dụng tiếng Pali, Sanskrit, chữ Hán.  Các dân tộc Đông Nam Á đã mượn mẫu chữ trên
để sáng tạo ra một loại chữ viết của dân tộc mình.. Có nhiều nhà ngôn ngữ học cho
rằng, các dân tộc Đông Nam Á biết đến chữ viết từ thế kỷ III, IV hoặc có thể ở thế kỷ
V, VI, những mãi đến thế kỷ X họ mới sử dụng trong văn học.
Thời kỳ đầu của của văn học thành văn (khoảng thế kỷ X- XV), tiếng Pali, Sanskrit,
Hán đóng vai trò ngôn ngữ văn học. (Ví dụ: văn học thế kỷ VII-XIII ở Mã lai-
Indonesia lấy Sanskrit làm ngôn ngữ thơ ca. Trong khi đó tiếng Mã Lai cổ, tiếng Gia
va chỉ dùng trong công việc hành chính và trong sinh hoạt.)
- Như vậy có thể thấy điểm mốc văn học viết của Đông Nam Á bắt đầu khoảng thế kỷ
XII-XIII, tuy có nước văn học víet xuất hiện sớm hơn và có nứoc văn học viết xuất
hiện muộn hơn. Đông Nam Á thực sự tạo ra nền văn học viết phải tính từ thế kỷ XIV
trở đi.

- Văn học viết thế kỷ XIII-XVIII nói chung là văn học cung đình, còn ảnh hưởng của
văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc. (riêng Indonesia, Malaysia chịu ảnh hưởng của văn hoá
Giava và văn hoá Hồi giáo của Ả Rập- Ba tư. Cá biệt như Philippines đã tiếp thu ảnh
hưởng của văn học châu Âu sớm hơn cả- thông qua Tây ban Nha, vì thế sau này, văn
học Philippines cách tân sang thời kỳ hiện đại sớm hơn các nước khác trong khu vực).
- Văn học viết truyền thống ở Đông Nam Á bao gồm dòng văn học viết bằng tiếng và
chữ vay mượn ở ngoài và dòng văn học viết bằng chữ viết dân tộc.
- Bộ phận văn học viết bằng ngôn ngữ vay mượn lúc đầu có ưu thế trội hơn bộ phận
văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc vì ngôn ngữ vay mượn chuyển tải văn học được
xem là cao quý, bác học. Dần dần văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc chiếm ưu thế,
trở thành phương tiện biẻu đạt đời sống tinh thần của dân tộc. Về phương diện nội
dung, văn học truyền thống các nước Đông Nam Á lúc ban đầu còn đi vào những đề
tài xa lạ với đời sống thực tế của dân tộc; những câu chuyện văn học thường nói tới
những xứ sở xa xôi, những nhân vật thần thoại, hoang đường.
- Văn học trung cổ Đông Nam Á phần nhiều mang tính chất nửa lịch sử, nửa nghẹ
thuật. Truyện thơ giai đoạn này là phổ biến, thường là truyện thơ khuyết danh.(ở Việt
Nam có các truyện thơ nôm khuyết danh; ở thế giới Melayu có các Hykayat....)
- Thế kỷ XV,XVII, XVIII, văn học Đông Nam Á phát triển mạnh (ở Indonesia, vào thế
kỷ XV, văn học Giava phát triển nở rộ, xuất hiện những tác phẩm lớn hoàn toàn đoạn
tuyệt với văn hoá Ấn Độ. Tác phẩm Pararaton- nghĩa là sách của các ông vua viết vào
thế kỷ XV là một ví dụ. Tác phẩm này viết bằng ngôn ngữ Giava trung cổ, gần gũi với
ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày cảu nhân dân thời đó. Tác phẩm viết về sự cai trị của
vua Giava, phản ánh sự hưng thịnh của nhà nước Magiapahit. Trong văn học chung
Malay-Indonesia xuất hiện tác phẩm nổi tiếng: “Truỵện về Hang Tuak” viết vào thế kỷ
XVII.
Ở Thái Lan, văn học phát triển nở rộ hơn cả cũng ở thế kỷ XVII, nhất là dưới thời vua
Pra Narai. Vua Pra Narai đã tập hợp các nhà thơ tài năng xung quanh mình. Họ nói về
cung vua Narai vĩ đại thời đó “tất cả đều hít thở bằng thơ’. Có những nhà thơ lớn như
Maharachakru, Si Mahosot...Không khí sáng tác văn học, thưởng thức văn học sôi nổi
làm cho đời sống văn học ở Thái Lan thế kỷ XVII phong phú hẳn lên và rõ ràng là nó
có những thành tựu văn học nhất định.
- Những tác phẩm văn học viết nổi tiếng lại chính là những tác phẩm văn học dân gian
đã từng được lưu truyền qua các thế hệ và trở nên nổi tiếng.
- Đến thế kỷ XVII, XVIII, XIX mới nở rộ một loạt tác phẩm xuất sắc viết bằng chữ
của dân tộc mình như: Truyện Kiều ở Việt Nam; XỉnXay ở Lào; Phrra Aphaymani,
Khủn Chang Khủn Phèn ở Thái Lan; truyện Hang Tuak (Hikayat Hang Touah) ở
Indonesia; truyện Apđula (Hikayat Abdoullah) ở Malaysia.

- Văn học viết dân tộc ngày càng phát triển, mang đậm tính dân tộc, đó chính là sự kế
thừa, tiếp nối và sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói không nơi nào sức sống của văn
học dân gian mãnh liệt và bền vững như ở vùng Đông Nam á này.
- Văn học dân gian vẫn tiếp tục cung cấp cho văn học viết đề tài, hình thức thể hiện và
chất trữ tình, làm cho màu sắc dân tộc càng đậm nét trong các tác phẩm văn học. ở
Việt Nam thể ca dao lục bát; ở Thái Lan thể Klon 8, ở Indonesia thể Pantun 4 câu đều
được các nhà thơ sử dụng rất điêu luyện. Do sử dụng hình thức đó mà thể loại truyện
thơ phát triển mạnh tạo tiền đề cho tiểu thuyết ra đời khi tiếp cận được với văn học
Phương Tây ở thế kỷ XIX, XX.

You might also like