You are on page 1of 223

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA VIỆT NAM HỌC

GIÁO TRÌNH

VĂN HOÁ NAM BỘ

Giảng viên: TS. Võ Sông Hương


KỊCH BẢN MÔN VĂN HÓA NAM BỘ Chú
Stt thích
Script 1
Video
1 Chương 1 Chạy
LỊCH SỬ VÙNG VĂN HOÁ NAM BỘ chữ
chương
Xin chào các bạn! Chào mừng các bạn đến với Chương trình đào tạo từ 1
xa, môn học Văn hóa Nam bộ.
Hôm nay, chúng ta bắt đầu tìm hiểu nội dung đầu tiên của môn học:
Chương 1. Lịch sử vùng văn hoá Nam bộ.
2 Chương này có 4 chủ đề cần làm rõ: Chạy
1.1. Nam Bộ thời kỳ các nền văn hoá cổ chữ

1.2. Nam Bộ thời kỳ Nhà Nguyễn


1.3. Nam Bộ thời kỳ Pháp thuộc
1.4. Nam Bộ thời kỳ Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ
Sau khi học chương này, các bạn sẽ có cái nhìn tổng quan về các giai
đoạn của văn hóa Nam Bộ.
3 Chúng ta đi vào chủ đề 1.1. Nam Bộ thời kỳ các nền văn hoá cổ Chữ,
Học xong chủ đề này, các bạn có thể nắm được các đặc điểm cơ bản của tên
văn hóa Đồng Nai và văn hóa Óc Eo. chương

4 1.1.1. NAM BỘ THỜI KỲ VĂN HÓA ĐỒNG NAI


Nếu như lịch sử vùng Nam Bộ chỉ mới hơn 300 năm thì lịch sử văn
hóa Nam Bộ được bắt đầu từ thời tiền sử - thời kỳ đồ đá.
Nền Văn hóa Đồng Nai là nền văn hóa cổ nhất của Nam Bộ, ra đời
cách đây 4.000-5.000 năm, cùng thời với văn hóa Đông Sơn (đồng bằng
châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả), văn hóa Sa Huỳnh (đồng bằng
hẹp ven biển miền Nam Trung Bộ).
- Văn hóa Đồng Nai tồn tại 2.000 năm, phát triển, giao tiếp với nhiều
nền văn hóa lớn cùng thời, tiền đề cho văn hóa Óc Eo.
5 * Các vùng kinh tế - dân cư của văn hóa Đồng Nai gồm có:
Vùng đất đỏ bazan Đồng Nai (mạn Đông Bắc của đồng bằng Nam bộ);
Vùng đất đỏ bazan Sông Bé (phía Bắc đồng bằng Nam Bộ, theo dòng
chảy của sông Bé, sông Sài Gòn, khu vực đồn điền cao su vùng Đông
Nam Campuchia);
Vùng đất phù sa hạ lưu sông Đồng Nai (phía Tây vùng đất đỏ Đồng Nai,
ven hai bên bờ sông Đồng Nai và sông Bé);
Vùng đất xám ven triền sông Vàm Cỏ Đông (Tây Ninh, Long An, quanh
sông Vàm Cỏ Đông);
Vùng doi cát theo đường bờ biển cổ (Long Thành Đồng Nai, Thủ Đức -
TPHCM);
Vùng đầm lầy (Châu Thành, Đồng Nai; nông trường Lê Minh Xuân-
TPHCM, Cần Giuộc-Long An).
6 * Hoạt động kinh tế của cư dân văn hóa Đồng Nai
Hoạt động thủ công nghiệp: làm đồ đá, đúc đồ đồng, rèn đồ sắt, làm
đồ xương-sừng, làm đồ gốm, se sợi dệt vải, đan lát, đóng thuyền, làm
nhà…
Hoạt động nông nghiệp: trồng trọt, săn bắn, khai thác sản vật rừng.
Hoạt động săn bắt đã đạt trình độ thuần thục và đạt hiệu quả kinh tế
cao. Trong hoạt động trồng trọt, đáng lưu ý là loại lúa cạn, tuy chưa tìm
thấy dấu vết vật chất trong các di tích văn hóa Đồng Nai nhưng các nhà
nghiên cứu cho rằng vùng đồi gò bán bình nguyên Đông Nam Bộ phù
hợp nhất với loại lúa này. Phương thức canh tác và kỹ thuật trồng trọt tuy
thô sơ (đồ đá - rẫy nương) nhưng nhờ đất đai màu mỡ, thời tiết ôn hòa,
nên nguồn lương thực rất dồi dào. Hoạt động trồng trọt đã hình thành nên
nền tảng vật chất cơ bản cho đời sống tinh thần và cấu trúc xã hội của cư
dân văn hóa Đồng Nai.
* Cuộc sống vật chất
7 Ăn: Các loại lương thực dạng hạt đều đã được nghiền, chà xát. Thực phẩm
rau đậu thịt đã được cắt, chặt, nạo, pha chế. Ăn uống đã qua nấu nướng.
Việc nấu nướng và ăn uống được tổ chức bên những bếp lửa lớn của tập
thể, của cộng đồng.
Mặc: đã có nghề se sợi ở Dốc Chùa, Bưng Bạc. Tập quán “Ở trần đi chân
đất”. Đã sử dụng trang sức nhưng nhìn chung là đơn giản, do “bản tính
mộc mạc” (Tấn thư)
Cái mặc của người thuở ấy ít thấy lưu lại trong các di tích.
“Cũng giống như người Phù Nam, Nam Man, có lẽ cư dân văn hóa Đồng
Nai có tập quán “ở trần đi chân đất”. (Tấn Thư, Nam Hải ký quy nội
pháp truyện)
“Nhìn chung, về phục sức và trang sức thì cư dân Văn hóa Đồng Nai ít
coi trọng, có lẽ do “bản tính mộc mạc” (Tấn Thư)
Ở: ở nơi có thế đất cao, thoáng, gần suối sông, có nguồn nước.
Phần lớn thời gian cho các hoạt động và sinh hoạt ở ngoài trời nhưng
cũng có những kiến trúc nhẹ để cư ngụ lúc mưa gió, tối trời. Dấu tích của
kiến trúc này là một loại nhà sàn trên cọc gỗ. Ngoài ra còn có loại hình
cư trú dùng đất đắp tường và đào hào bảo vệ xung quanh (vùng đất đỏ
bazan Sông bé), vẫn thuộc loại hình cư trú ngoài trời hoặc cư trú có kiến
trúc mái che bằng vật liệu nhẹ (tre, gỗ).
8 * Đời sống tinh thần
a. Các bộ môn nghệ thuật
Đã có 2 bộ môn nghệ thuật Hội họa và Tạo hình.
Trong nghệ thuật Hội họa: Các hình vẽ, các hoa văn trên đồ gốm lấy cảm
hứng từ các hiện tượng của tự nhiên (như hoa văn làn sóng, vỏ sò,…) của
cuộc sống nông thôn (hoa văn mắt lưới, vạch song song,..) của kiến thức
về hình học (hoa văn tam giác, bán nguyệt, răng cưa,…).
Hoa văn trên đồ đồng là các đồ án hình học có truyền thống từ nghệ thuật
khắc họa trên đồ đồng Đông Sơn ở Đông Nam Á.
Trong nghệ thuật Tạo hình: Chủ đề chính là các loài động vật, phản ánh
tín ngưỡng vật linh hoặc bái vật giáo. 3 con vật được tạo hình phổ biến
nhất là con rùa (động vật thuộc về nước), con heo (thuộc về rừng) và con
chó săn (thuộc về con người).
Nghệ thuật của cư dân Đồng Nai mới ghi nhận sự hòa nhập của con người
vào thiên nhiên; chưa phản ảnh tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã
hội của con người.
Âm nhạc
Nhạc cụ tiêu biểu nhất là đàn đá. Đàn đá là một sản phẩm âm nhạc được
ra đời ngay tại vùng đất của nền văn hóa Đồng Nai, hình thành từ hoạt
động của nền nông nghiệp rẫy nương trên vùng cao bán sơn địa.
Đàn đá của văn hóa Đồng Nai có hệ thống thang âm rất độc đáo, còn bảo
tồn trong âm giai của các bộ cồng, chiêng, và các loại đàn bằng tre, nứa,
trúc, lá, gỗ của vùng Tây Nguyên. Cách chơi được phỏng đoán gồm 5, 7
người, mỗi người dùng vật cứng như đá hoặc gỗ gõ vào một thanh, cùng
hòa tấu theo điệu thức. Ngoài hai khu kinh tế dân cư ở hạ lưu sông Đồng
Nai, Sông Bé, đàn đá còn có mặt ở một số nơi thuộc vùng Nam Tây
Nguyên.
Ngoài đàn đá khu văn hóa Đồng Nai còn có sự du nhập của Trống đồng,
một nhạc cụ tiêu biểu của văn hóa đồng thau Đông Sơn; và còn có những
chiếc lục lạc gắn vào các vòng tay bằng đồng.
b. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng nguyên thủy của cư dân văn hóa Đồng Nai là tín ngưỡng bái
vật giáo, vạn vật hữu linh. Ngoài các tượng rùa, heo, chó săn từ các hiện
vật còn sót lại trong nghệ thuật tạo hình, các nhà khoa học phỏng đoán cư
dân văn hóa Đồng Nai còn sùng bái những cây cao lớn, những vực sâu,
suối thẳm,… Chưa thấy dấu tích của sự thờ cúng tổ tiên, thánh thần,
những anh hùng khai phá hoặc ông tổ các nghề.
Cư dân văn hóa Đồng Nai có niềm tin về một thế giới khác sau khi chết
nên xem cái mộ là nơi ở của những người đã khuất.
Ban đầu các ngôi mộ được đặt cạnh khu người sống. Các ngôi mộ có thể
có đá tảng xung quanh hoặc không, có chôn theo người chết một số vật
dụng, nhiều hoặc ít, thể hiện sự phân biệt nghề nghiệp, sự giàu nghèo.
Đến thời kỳ đồ sắt xuất hiện kiểu chôn trong mộ chum. Các khu mộ đã
được tổ chức thành khu riêng biệt, số lượng mộ gồm hàng chục hàng trăm
ngôi. Bên trong có các trang sức ngoại nhập hoặc các vũ khí bằng sắt.
Vào thế kỷ trước và sau công nguyên còn có kiểu chôn gọi là cự thạch.
Hầm mộ được làm từ các phiến đá hoa cương rộng lớn, xung quanh là
các trụ đá cao 6,7m. Các di tích mộ cự thạch còn sót lại của văn hóa Đồng
Nai hầu hết đã bị đào phá, chưa xác định rõ niên đại.
* Con người và xã hội
9 Chủ nhân của văn hóa Đồng Nai là người Anhđônêdiêng, từng sinh sống
tại Việt Nam cách đây hơn 10.000 năm và sáng tạo nên nhiều trung tâm
văn hóa lớn là văn hóa Đông Sơn và văn hóa Sa Huỳnh. Con cháu của họ
nay là đồng bào Tây Nguyên.
Trong mỗi trung tâm văn hóa, người Anhđônêdiêng lập ra các thiết chế
xã hội khác nhau.
Nếu như tại trung tâm văn hóa Đông Sơn, nhà nước Hùng Vương có chế
độ “quân trưởng”. “Quân” là vua, kết hợp cùng các “trưởng” là những
người đứng đầu các thị tộc, bộ lạc, tạo nên thiết chế xã hội phụ quyền thế
tập thì tại trung tâm văn hóa Đồng Nai, thiết chế xã hội đơn sơ và nguyên
thủy hơn, là một xã hội mẫu quyền do dân cử, phù hợp với nền tảng kinh
tế nông nghiệp rẫy, nương, dựa vào truyền thống kỹ thuật đá mới.
Ở trên chúng ta có nhắc đến các hiện vật quý giá trong các ngôi mộ chum,
các ngôi mộ cự thạch, chúng thể hiện quyền uy và thế lực cá nhân, giòng
họ, là một tín hiệu về sự đổi thay của thiết chế xã hội. Tuy nhiên, chúng
chỉ phổ biến ở vùng dân cư đất đỏ bazan Đồng Nai, các vùng dân cư rộng
lớn khác vẫn theo chế độ mẫu quyền, theo thiết chế dân chủ của cộng
đồng truyền thống.
Người phụ nữ đã giữ vai trò đứng đầu trong quản lý xã hội, làm nên nhiều
thành tựu và đặt nền móng vật chất lẫn tinh thần cho cư dân văn hóa Đồng
Nai tiến sang thời kỳ mới chinh phục vùng châu thổ sông Cửu Long, xây
dựng nền văn hóa mới - văn hóa Óc Eo 1.
10 Chúng ta vừa kết thúc phần 1.1.1 của Chủ đề Nam bộ thời kỳ các nền văn
hóa cổ trong Chương 1. Các bạn cần ôn lại xem mình đã học được gì nhé.
11 Hẹn gặp lại các bạn ở phần 1.1.2. của Chương 1.

1
[Theo Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990: Văn hóa và cư dân ĐBSCL, NXB KHXH,
57-95].
STT NỘI DUNG Ghi chú
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ VÙNG VĂN HOÁ NAM BỘ
Chủ đề 1.1. Nam Bộ thời kỳ các nền văn hoá cổ
1.1.2. Văn hóa Óc Eo
1. Như đã giới thiệu, lịch sử VH NB có 2 nền VH cổ. Chúng ta đã Chạy tên
tìm hiểu về VH Đồng Nai, bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu về mục:
nền văn hóa Óc Eo trong phần 1.1.2. Văn hóa Óc Eo Văn hóa
Óc Eo
2. Từ vùng địa hình cao ráo của văn hóa Đồng Nai ở phiá Đông,
các cư dân Nam bộ xưa đã dần dần chinh phục xuống vùng đồng
bằng rộng lớn mênh mông ở phía Tây. Tiếp nối văn hóa Đồng
Nai và văn hóa Óc Eo.
Văn hóa Óc Eo phân bố trên phạm vi rộng lớn thuộc vùng hạ
lưu sông Mekong, không chỉ có ở miền Tây mà ở khắp Nam bộ,
là nền tảng vật chất và văn hóa của vương quốc cổ Phù Nam.
Văn hóa Óc Eo tồn tại từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ IX,
vương quốc Phù Nam thì tồn tại từ thế kỷ I - thế kỷ VII. Từ thế
kỷ thứ VII trở đi, sau khi vương quốc Phù Nam suy tàn (trên
vùng đất được xem là Thủy Chân Lạp), văn hóa Óc Eo có thêm
yếu tố của văn hóa tộc núi Chân Lạp cổ (Lục Chân Lạp).
Louis Malleret đã công bố những con số đáng kinh ngạc về
văn hóa Óc Eo: 1.311 hiện vật bằng vàng nặng 1.120 gram,
1.062 hạt ngọc và đá quý, các hiện vật từ nước ngoài, 45 hiện
vật khắc chữ nước ngoài, những di cốt động vật, trầm tích thực
vật cổ, những dấu tích lò thủ công kim hoàn, chạm khảm, đúc,
mộc, gốm,.., di cốt người cổ, hàng chục kinh đào,…
Chứng tỏ:
1. Phù Nam đã quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới Đông
Á, Nam Á, Tây Á, La Mã,
2. Trình độ phát triển cao của nền văn hóa Óc Eo.
Khai quật di tích văn hóa Óc Eo là cuộc đào bới và nghiên
cứu khảo cổ học có ý nghĩa lớn nhất của ngành sử học thế giới
vì đã: phát hiện một quốc gia đã bị biến mất (Bộ phim của
Mariam Stark và Ch. Higham: Funan the lost city) và tìm ra một

4
đầu mối thương mại biển Đông Tây cùng với một đế chế hàng
hải ở biển phương Nam.

3 * Các vùng sinh thái dân cư


a. Vùng Tứ giác Long Xuyên:
Di tích Ba Thê (An Giang), Đá Nổi (Tân Hiệp-Kiên Giang),
Phum Quao (Tịnh Biên-An Giang)
Trong đó, di tích Óc Eo Ba Thê, là trung tâm cư dân Óc Eo
lớn nhất ở đồng bằng Nam Bộ, là nơi đã có vai trò lớn về kinh
tế, văn hóa, xã hội và chính trị của cả vùng.
Điểm đáng chú ý ở vùng sinh thái dân cư này là khoảng 30
đường nước cổ, dài hàng trăm cây số, là những đường thủy quan
trọng thời Óc Eo, vừa phục vụ cho đời sống dân cư, vừa nối liền
khu vực với các vùng khác. Dân cư sống ven bờ hoặc gần các
đường nước, trong các ngôi nhà sàn dựng trên cọc gỗ → cư dân
VH Óc Eo không còn lệ thuộc vào các nguồn nước như cư dân
VH Đồng Nai mà đã biết chinh phục, cải tạo tự nhiên.
b. Vùng Đồng Tháp Mười:
Di tích Gò Hàng, Gò Rộc Chanh, Gò Bảy Liếp, Gò Bún, Gò
Bắc Dung, Gò Tháp. (“Gò” là nơi có thế đất cao)
Di Tích Gò Tháp (Tân Kiều-Đồng Tháp Mười) là di tích lớn,
có bia ghi lại đó là lỵ sở của của một chư hầu thuộc dòng vua
Phù Nam.
c. Vùng ven biển Tây Nam (U Minh, Năm Căn):
Di tích Cạnh Đền (Vĩnh Thuận-Kiên Giang) là điểm dân cư
lớn, cùng thời với trung tâm dân cư Ba Thê, là một cảng khẩu
quan trọng, đầu mối giao lưu kinh tế văn hóa của dân cư nội địa
với thế giới.
d. Vùng rừng Sác Duyên hải
Di tích Cần Giờ (TPHCM) có thể là một cảng khẩu thời Óc
Eo nối liền với các điểm cư dân bằng đường sông rạch.
e. Vùng ven biển Đông từ sông Tiền đến Minh Hải
Các di tích được phát hiện ở đồng bằng ven biển giáp sông
Tiền và sông Hậu. Tiêu biểu là di tích Trà Cú (Trà Vinh), nơi

5
phát hiện ra nhiều bàu nước, và Di tích Gò Thành (Chợ Gạo-
Tiền Giang).
f. Vùng Đông Nam Bộ
- Khu vực hạ lưu sông Đồng Nai: Di tích ở Vũng Tàu, Bãi
Dứa Gành Rái, Bến Đá, ở Biên Hòa và nội thành TPHCM (nơi
có vết tích của cá đường lộ cổ, như bình đồ của một đô thị).
- Khu vực ven sông Vàm Cỏ Đông: cụm chỉ Bình Trà (Long
An), Thanh Điền (Tây Ninh).
Toàn vùng Đông Nam bộ, các di tích văn hóa Óc Eo được
thiết lập thành từng cụm di chỉ kiến trúc. Mỗi kiến trúc nằm trên
1 gò đất đắp, phổ biến là đền tháp, có hào nước bao quanh hoặc
hồ nước hình chữ nhật, … Có lẽ đây là “đất thánh” của Phù Nam
Chân Lạp cổ. Trung tâm đất thánh gắn liền với các di tích ở
Campuchia như di tích Angkor Borei, Phnom Da, Ba Phnom,
Sambor Prei Kuk thông qua các đường nước cổ.
Các di tích, di chỉ, di vật trên các vùng sinh thái dân cư của
văn hóa Óc Eo đã cho thấy rằng: so với thời kỳ của văn hóa
Đồng Nai, cư dân của văn hóa Óc Eo đã làm một cuộc cách mạng
toàn diện về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, chính trị xã
hội và lối sống.

4 * Hoạt động kinh tế của cư dân


Ngoài các hoạt động kinh tế cổ truyền là nông nghiệp, thủ
công nghiệp, cư dân văn hóa Óc Eo đã có thêm các ngành nghề
mới như xây dựng, thương nghiệp, dịch vụ. Trong các ngành
kinh tế truyền thống thì kỹ thuật, sản phẩm, hình thức sản xuất
cũng đã có sự đổi mới. Nhìn chung, trong hoạt động kinh tế, cư
dân văn hóa Óc Eo đã làm một cuộc cách mạng cơ bản.
a. Nông nghiệp
Nghề trồng cây lương thực, trồng lúa luôn có vai trò chủ đạo.
Nền văn minh nông nghiệp lúa nước bắt đầu hình thành, tiếp
nối nền nông nghiệp lúa cạn và “trồng kê trên đất khô”, vùng
cao. Người Óc Eo đã biết làm hệ thống thoát nước xả lũ, rửa
chua, khử mặn cho đất.

6
Nghề làm vườn trồng cây ăn trái được triển khai trên quy mô
lớn. Nổi tiếng nhất là cây mía. Mía là vật phẩm dâng vua Phù
Nam. Sau là cau, dừa, là vật phẩm quan trọng trong đồ cúng tế
lễ dâng thần linh. Có những vườn dừa, vườn cau 300, 400, cây.
Ngoài ra còn vừng, thốt nốt, xoài, chuối, an thạch lựu.
b. Chăn nuôi đánh bắt
Hình ảnh trên nhiều di vật cho thấy có nhiều động vật đã được
thuần dưỡng (heo, mèo, gà, chó, voi, cá sấu, ...).
Voi có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Óc Eo. “Nhà
vua ra đi thì cưỡi voi. Đàn bà cũng cưỡi voi”; “Chân Lạp cổ có
5.000 voi chiến”; voi còn được dùng làm cống vật. Voi còn được
nuôi để ăn thịt (Tân Đường Thư).
“Chơi chọi gà, chọi heo” (Nam Tề Thư).
Chăn nuôi không chỉ để cung cấp nguồn lương thực mà còn
để làm phương tiện vận chuyển, bang giao đối ngoại, phục vụ
chiến tranh, hỗ trợ luật pháp, làm thú tiêu khiển,…
Quy mô chăn nuôi rất lớn. Bằng chứng, một chủ trại có thể
hiến cho thần 60 con bò, 2 con trâu, 30 con dê trong một dịp lễ;
có người còn hiến cả 100 con bò, 20 con trâu,…
c. Thủ công nghiệp
Đây là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và nổi bật nhất. Rất
nhiều ngành mới đã mở ra với kỹ thuật chế tác ở trình độ rất cao,
rất tinh xảo.
Gia công đồ trang sức bằng vàng
Gia công đồ trang sức bằng đá quý
Gia công đồ trang sức bằng kim loại màu - thiếc
Sản xuất đồ gia dụng (đồ gốm, đồ đá, đồ kim loại) “Dân Phù
Nam có đồ dùng ăn uống bằng bạc” (Tấn Thư).
d. Ngành sản xuất vật liệu xây dựng
Đây là ngành rất phát triển trong thời kỳ văn hóa Óc Eo. Số
lượng sản phẩm rất nhiều, chất liệu và kỹ thuật đa dạng, có mặt
ở hầu hết các di tích Óc Eo. Các sản phẩm gồm: Gạch, ngói, đất
nung, và đặc biệt là đá. Ngoài kỹ thuật đục đẽo tinh vi, đồ đá còn

7
đòi hỏi trình độ nghệ thuật và óc thẩm mỹ cao. Hai loại sản phẩm
tiêu biểu là cột trụ bà mi cửa chạm.
e. Nghề đóng thuyền
“Thuyền Phù Nam có chiều dài 7, 8 trượng1, rộng 7,7 thước,
đầu như đuôi cá,…Chiếc lớn chở cả trăm người” (Nam Tề thư).
“Thuyền dài 12 trượng, cao hơn mặt nước 2-3 trượng, trông
như một tòa nhà lầu, chở được 600-700 người, vật dụng tới vạn
hộc” (Sách Nam Châu dị vật chí, Vạn Chấn).
5 * Hoạt động thương nghiệp
“Dân Phù Nam tìm thấy kim cương rất nhiều dưới lòng sông,
trên núi đá. Dân chúng lặn xuống nước, mò kiếm dễ dàng, xứ đó
xuất kim cương” (Tân Đường thư).
Thuế má trong nước được trả bằng vàng, bạc, ngọc trai, trầm
hương (Tấn thư).
Phù Nam là nơi hội tụ của các thương nhân nước ngoài.
“Chợ ở đây là chốn Đông Tây giao hội, mỗi ngày có hơn
10.000 người” (Lương thư).
Thuyền vượt đại dương buôn bán với Trung Quốc.
Mua bán ruộng đất, quy đổi bằng bạc, đơn vị là Tamlin.
Tiền tệ hầu như chưa được nói đến như một đơn vị cơ bản.
Các đồng tiền giả định là của Phù Nam được đúc bằng thiếc, là
các đồng tiền ngoại nhập.
6 * Sinh hoạt vật chất
a. Cư trú
Dân vùng cao và các vùng đất giồng sống trong các ngôi nhà
làm bằng vật liệu nhẹ, tự nhiên như tre, lá; đã biết đào các bàu
trữ nước, rộng trên trăm mét vuông, thậm chí cả ngàn mét vuông
cho hàng chục gia đình dùng chung. Cách giải quyết nguồn nước
này đã mở rộng địa bàn cư trú của người Óc Eo.
Dân vùng thấp trũng thì sống trong các nhà sàn và ở trên nền
đất đắp. Các ngôi nhà sàn bằng gỗ có quy mô thành từng cụm
dài hàng km hoặc trong các vùng rộng gần ngàn mét vuông, gần

1
Một trượng = 3,3m; 7-8 trượng là khoảng 23 – 26 m

8
các lung lạch cổ - những còn đường sống của người Óc Eo xưa.
Lối cư trú bằng nhà sàn bằng gỗ trước đó rất hiếm thấy trong
vùng đồng bằng Nam Bộ, nay trở nên vô cùng phổ biến đến mức
trở thành đặc trưng quan trọng vì nó thoáng, mát, tránh ẩm thấp,
tránh các loài thủy tộc.
Hai loại hình sinh hoạt:
Ở vùng cao: nhà lá - bàu nước - đường lộ - xe cộ
Ở vùng thấp: nhà sàn - nhà nền đất đắp - sông đào - thuyền
ghe
b. Đi lại
Do cuộc sống gắn liền với sông nước, kênh đào nên thuyền
ghe trở thành phương tiện đi lại cơ bản nhất. Nghề đóng thuyền
là nghề quan trọng và mang tính chiến lược. Ghe thuyền mở ra
không gian sống rộng lớn cho người Óc Eo, trong nội địa và cả
với Đông Nam Á, phương Đông, phương Tây.
Ở các vùng đất rừng, đồi núi, voi và ngựa là 2 phương tiện
chính.
Người Óc Eo đã “biết làm đường bộ thuận tiện cho việc đi
lại đến xứ Chămpa” (Minh văn ở di tích Đá Nổi-An Giang).
c. Ăn uống
Gạo là nguồn thực phẩm chính, có nhiều loại đa dạng.
Biết xay xát, loại vỏ trấu, giã gạo cho trắng.
Biết nấu cơm, làm bánh bằng hạt kê, chế biến món ăn từ các
nguồn thực phẩm động, thực vật. Các món ăn rất phong phú, chế
biến phức tạp. “Các món ăn của Vua Xích Thổ có tới 100 món”.
“Việc làm vườn trồng rau có hẳn người chuyên làm”.
Dùng rượu phổ biến, rượu được làm từ hoa, mía, dừa,…
d. Ăn mặc
Nữ: váy (xà rông)
Nam: khố (xam pốt)
Người giàu mặc gấm, dân thường mặc vải thô
Thần linh và thần dân mặc giống nhau.

9
Cuộc sống vật chất của người dan văn hóa Óc Eo đã thoát khỏi
tính trạng mông muội, nguyên sơ, bước vào thời kỳ văn minh,
đạt tiêu chuẩn của sự giàu có.
7 * Sinh hoạt văn hoá tinh thần
a. Tôn giáo:
Người Óc Eo rất trọng tôn giáo.
Đạo Bàlamôn:
Từ nước Thiên Trúc-Ấn Độ, đạo Bàlamôn theo đường
thương mại du nhập vào nhiều nước Đông Nam Á hải đảo và
Nam Đông Dương, trong đó có vương quốc Phù Nam, trở thành
quốc giáo.
Trong các di tích còn sót lại, di tích đền thờ luôn có quy mô
khá lớn. Đền thờ, đền tháp, mộ thờ là các loại hình kiến trúc tôn
giáo Bàlamôn phổ biến trong văn hóa Óc Eo, chúng không chỉ
thể hiện tài nghệ của các nghệ nhân, các tu sĩ mà còn thể hiện
lòng sùng đạo rất lớn của cư dân Óc Eo.
Đạo sĩ Bàlamôn nắm thần quyền lẫn vương quyền.
Thờ các thần Civa, Visnu và các hóa thân của 2 vị thần, thần
Harihara - hỗn hợp của hai vị thần Visnu và Civa.
Tượng linga, linga-yoni được tôn thờ rộng rãi, một phần vì
nó gần gũi với tục thờ đá, thờ núi của người bản xứ.
Đạo Phật:
Du nhập từ Ấn Độ, có mặt ở Phù Nam từ thế kỷ thứ 2 sau
CN, tương đương hoặc sớm hơn đạo Bàlamôn.
Ở Nam Bộ, có mặt cả Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Các
tượng Phật phổ biến là tượng Phật Di Lạc, Phật Quan Âm.
Tượng Phật Quan Âm là nam giới nhưng đã biến thành tượng
Phật bà Quan Âm có thể do ảnh hưởng của chế độ mẫu quyền
còn được ngưỡng vọng trong đời sống người dân Óc Eo.
Các nhà sư nắm độc quyền trong việc bang giao với các nhà
vua Trung Quốc. Nhiều tượng Phật quý hiếm được vua Phù Nam
chọn làm cống vật dâng hoàng đế Trung Hoa.
“Phần đông dân chúng đều thờ Phật phát và tuân theo đạo
sĩ Bàlamôn”. Tượng Phật được dựng chung với tượng thần

10
Bàlamôn. Trong lễ tang, cả tăng ni lẫn Phật tử đều cùng làm lễ.
Nhà nước trọng dụng cả hai tôn giáo. Đạo Bàlamôn dùng để nội
trị, đạo Phật dùng để bang giao với nước ngoài.
b. Văn hoá nghệ thuật
Bàlamôn giáo và Phật giáo không chỉ có vai trò lớn trong xã
hội mà còn xâm nhập vào đời sống văn hóa-nghệ thuật.
Trong nghệ thuật Tạo hình, phổ biến là nghệ thuật tượng tròn
bằng gỗ và bằng đá của Bàlamôn giáo và Phật giáo.
Các tượng Phật đều có hình ảnh, phong cách bao dung, nụ
cười hiền hậu, rất gần gũi với người dân. Tượng thần Visnu,
Civa,… cũng được tạc theo xu hướng hiện thực, rất gần gũi với
tỉ lệ người thật. Các pho tượng của Thần, Phật đều trở nên rất
bình dị, giúp hai tôn giáo huyền bí dễ dàng xâm nhập sâu vào
đời sống người dân Óc Eo.
Tượng hình người nô lệ là tượng tròn duy nhất lấy đề tài sáng
tác từ người lao động.
Nghệ thuật Điêu khắc trên đá quý, họa trên lá vàng cũng là
loại hình nghệ thuật phổ biến. Hai xu hướng chính là hiện thực
sinh động - hình động vật và giản lược, khái quát - hình người
ngồi kiểu vương giả.
Nghệ thuật Ca múa nhạc là loại hình nghệ thuật phát triển
cao, chuyên nghiệp, phong phú với nhiều đào kép diễn xướng
rất hay, với nhiều đoàn ca múa nhạc được triều đình nuôi dưỡng.
Những đoàn văn công có sự phân định chuyên môn rõ ràng, ca
riêng, múa riêng, nhạc riêng, có phục trang và hóa trang khi biểu
diễn.
Nhạc cụ gồm: bộ gõ, bộ rung, bộ thổi, bộ dây; có các loại thô
sơ của cư dân tại chỗ như tù và và cồng đồng, có loại phức tạp,
du nhập từ La Mã như đàn harpe, du nhập từ Ấn Độ như kanjan,
lalv, vina,..
Trong cuộc sống cư dân Óc Eo có 2 nền nhạc: Nghệ thuật ca
múa nhạc trong cung đình, tôn giáo và Nghệ thuật ca múa nhạc
truyền thống dân gian.
Nghệ thuật ngôn từ: Hệ thống chữ viết cũng đã ra đời như
một phương tiện truyền bá tư tưởng, văn hóa, khoa học, chủ yếu
dùng trong sinh hoạt cung đình và tôn giáo.

11
Có niên đại sớm, thế kỷ thứ II-IV sau CN là chữ Brahmi (chữ
của thần Brahma), hay còn gọi là chữ Sancrit-Pali Óc Eo, chữ
Brahmi-Sancrit (Có tài liệu cho rằng từ thế kỷ thứ I 2).
Đến đầu thế kỷ VII xuất hiện lối chữ mới, gọi là chữ cổ
Khmer, hay chữ Óc Eo. Dần dần chữ Brahmi-Sancrit được thay
thế bằng chữ cổ Khmer.
Các minh văn của Phù Nam được tìm thấy phần lớn được viết
theo thể luật thi của dòng văn chương uyên bác Phạn ngữ, diễn
tả những tư tưởng nhân văn, triết học với các mỹ từ cao sang và
đầy tình cảm thiết tha. “Mong rằng người có tâm hồn cao thượng
sẽ làm khởi sắc những điều tốt đẹp của thần Bhagavat…, được
đến nơi yên nghỉ tối cao của thần Visnu và đạt được một thanh
danh to tát, vui hưởng niềm hạnh phúc vô biên” (Minh văn Gò
Tháp).
Dòng văn chương Phạn ngữ đã diễn tả những quan điểm của
người Phù Nam về con người, cuộc sống, về cái chết và ước mơ
về một thế giới vĩnh hằng.
Loại văn tự như trên phổ biến trong giới tăng lữ và quý tộc
cung đình. Nhưng trong nhiều thế kỷ, một số từ đã trở nên quen
thuộc với người bình dân, được khắc trên các vật dụng hàng
ngày như nhẫn, bùa đeo, con dấu riêng…
8 * Cấu trúc xã hội
- Thời kỳ này, đồng bằng Nam bộ có nhiều biến đổi lớn. Châu
thổ sông Cứu Long được khai phá trên diện lớn, công trình xây
dựng và các hoạt động kinh tế mở rộng, dân cư và lao động có
nhiều xáo trộn, cuộc sống và con người có rất nhiều đổi mới so
với thời kỳ văn hóa Đồng Nai với có nhiều ngành nghề hơn.
Bản thân nghề làm ruộng không chỉ là ruộng cạn trên nương
rẫy cao mà đã là ruộng nước trên vùng đồng bằng. Nghề nghiệp
hết sức đa dạng, phục vụ cuộc sống vật chất và tinh thần của con
người; không chỉ có giao thương buôn bán, những tay chèo,
những thợ may, thầy thuốc, các nhà khoa học mà còn có các
nghệ sĩ ca múa, có người giảng đạo, thuyết pháp,…
- Nhân công lao động trở thành nhu cầu lớn của xã hội. “Dân
xứ Phù Nam bắt dân ở các Ấp lân cận về làm nô tỳ” (Nam tề
2
Trần Đức Cường 2017: Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, NXB KHXH, 100.

12
thư). Nguồn lao động trở thành hàng hóa và tài sản riêng của
vua, quan, của các thế lực tôn giáo và của những người giàu có.
Tài sản dần quy tụ vào một thiểu số người dẫn đến việc tập trung
quyền lực vào tầng lớp thống trị.
- Tổ chức xã hội dân chủ với các đại gia đình mẫu hệ và cộng
đồng làng theo huyết hệ được thay thế bằng các tiểu gia đình phụ
hệ.
- Hình thức Công xã láng giềng được thay thế bằng cộng
đồng dân cư hành chính tôn giáo theo lãnh thổ.
- Cấu trúc xã hội mới: ấp-thành-quốc. Các di tích còn sót lại
đều phản ảnh sức mạnh vương quyền và thần quyền của một
vương quốc hùng mạnh, có kinh đô, có nhiều chư hầu (nước
nhỏ) và có thành, có phố, có ấp, có đủ các loại dân và tổ chức
Quân đội với quy mô lớn.
- Người đứng đầu nước: Vua, còn gọi là Varman (đấng tối
cao), nắm mọi quyền lực vương quyền, binh quyền, thần quyền.
Tầng lớp Đạo sĩ Bàlamôn: rường cột của chế độ.
Tầng lớp đại gia, đại thương gia: cơ sở chủ yếu của xã hội.
9 * Luật lệ
“Dùng theo luật pháp Ấn Độ” (Lương thư): dựng đền thờ và
tổ chức các nghi lễ cúng thần ở khắp nơi.
“Mỗi năm, vào tháng 5, tháng 6 có khí độc lưu hành, tức thì
đem lợn trắng, bò trắng, dê trắng ra ngoài cổng thành phía Tây
làm lễ cúng. Không cúng như vậy thì ngũ cốc không phong đãng,
lục súc chết chóc nhiều, dân chúng bị bệnh tật. Gần kinh đô có
núi Lăng - Già - Bát - Bà, trên núi có đền thờ thần Bà - Đa - Lợi
cúng bằng thịt người. Vua nước này, hàng năm có biệt lệ giết
người để cúng thần linh vào ban đêm, cũng có hơn ngàn lính
canh giữ” (Tùy thư).
Với các hành vi phạm pháp, xử tội theo quan niệm “thần linh
chiêm nghiệm”, đậm nét thần lực nguyên thủy, dùng nước sôi,
dùng cá sấu. Do hình phạt khốc liệt nên Phù Nam “không có
trộm cướp” (Tấn thư), “trong nước không có nhà lao, nhà ngục”
(Lương thư).

13
10 Thành phần nhân chủng cư dân Phù Nam
“Người Phù Nam hầu hết đều đen và xấu xí, tóc thì quăn, ở
trần, đi chân đất, tính tình mộc mạc, thẳng thắn, không trộm
cắp” (Tấn thư) (Pho tượng người nô lệ bằng đồng tại Óc Eo-Ba
Thê).
Cư dân bản địa của văn hóa Óc Eo là người Anhdonedieng,
nguyên Mã Lai, nguyên Đông Dương, Nam Á cổ. Trong thư tịch
cổ Trung Quốc gọi là người Man Man. Người bản địa chiếm đa
số trong thành phần dân cư Óc Eo. Hầu hết người bản địa đều
thuộc tầng lớp lao động.
Ngoài người bản địa, cư dân ngoại nhập có số lượng đông
đảo.
Đó là người Côn Luân, hay còn gọi là người Dvipantara,
người Malayo-Polynesien đền từ vùng biển Nam Hải; người
Môn, hay còn gọi là người nước Kim Lân, người Dvaravati. Họ
cùng loại hình nhân chủng Anhdonedieng, nhưng có các đặc
trưng văn hóa tộc người khác. Những người “ngoài biển đảo” và
láng giềng này cũng thuộc tầng lớp lao động.
Đó còn là người Thiên Trúc, người Nguyệt Thị có nguồn gốc
nhân chủng Ấn Âu, đến từ đất Thiên Trúc, Ấn Độ. Họ là những
vua, quan, thương nhân-đại thương gia, đạo sĩ, tăng lữ,… nắm
nhiều quyền lực trong xã hội.
Cộng đồng cư dân Óc Eo gồm nhiều tộc người nói bằng nhiều
ngôn ngữ khác nhau. Cư dân tại chỗ nói ngôn ngữ Môn- Khmer
cổ là đông đảo nhất.
10 Sau nhiều thế kỷ hưng thịnh, đến thế kỷ thứ V, Phù Nam bị
suy yếu dần do nạn hải tặc cùng với những xáo trộn, giao tranh
dọc theo con đường hàng hải. Con đường thương mại quốc tế
trên biển chuyển dần từ trọng tâm là thương cảng Óc Eo sang
khu vực Malacca (Malaysia) và Sumatra (Indonesia) do ảnh
hưởng của nạn hải xâm. Nội bộ vương quốc Phù Nam cũng bất
ổn do các cuộc tranh giành ngôi báu của các hoàng thân.
Từ nửa sau thế kỷ thứ VIII, cùng với những suy yếu sẵn có
từ các nguyên nhân bên trong và bên ngoài, cộng thêm sự tàn
phá của người Java - Nam Dương, vương quốc Phù Nam suy
vong và bị nước chư hầu cũ là Chân Lạp của người Khmer thôn

14
tính. Thời kỳ phát triển rực rỡ, thịnh vượng của quốc gia Phù
Nam, của văn hóa Óc Eo kết thúc.
Trung tâm văn minh dần chuyển về vùng Ăngkor. Người
Khmer gọi vùng đất Phù Nam xưa là Thủy Chân Lạp, phân biệt
với Lục Chân Lạp. Người Phần lớn dân cư Óc Eo đã trở về với
địa bàn xuất phát ban đầu ở vùng đồi gò cao, cao nguyên, rừng
rậm, với truyền thống nông nghiệp bán sơn địa, đàn đá…
Cả vùng Đồng bằng Nam bộ trở nên hoang phế suốt 500 năm
sau đó 3.
10 Chúng ta vừa tìm hiểu về nền VH cổ Óc Eo, kết thúc chủ đề 1.1.
Nam Bộ thời kỳ các nền văn hoá cổ của Chương 1.

3
[Theo: Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990: Văn hóa và cư dân ĐBSCL, NXB KHXH,
105 – 175; Nhiều tác giả 2016: Giá trị của Di sản Văn hóa Óc Eo, An Giang trong tiến trình phát triển kinh
tế, xã hội, NXB ĐHQG TPHCM; Ban Quản ý di tích Văn hóa Óc Eo tỉnh An Giang, Viện Văn hóa nghệ
thuật quốc gia Việt Nam 2016: Di sản Văn hóa Óc Eo Ba Thê tỉnh An Giang, NXB VHDT, Hà Nội].

15
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 1 GHI
1.2 NAM BỘ THỜI KỲ CHÚA NGUYỄN, VUA NGUYỄN CHÚ

1 Chúng ta đã học xong phần 1.1. của Chương 1, được biết về


diện mạo của Nam Bộ thời kỳ các nền văn hoá cổ (VH Đồng
Nai và VH Óc Eo). Bây giờ, chúng ta cùng học sang phần 1.2.
Nam Bộ thời kỳ Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn
2 Học xong chủ đề này, các bạn có thể tóm tắt được những nét
chính về quá trình hình thành và phát triển của Nam Bộ dưới 9
đời Chúa và 13 đời Vua Nhà Nguyễn.
Phần 1.2 gồm có 2 phần chính:
1.2.1. Nam bộ thời kỳ các đời Chúa Nguyễn
1.2.2. Nam bộ thời kỳ các đời Vua Nguyễn
3 1.2.1. Nam Bộ thời kỳ các đời Chúa Nguyễn

a. Chúa Tiên - Nguyễn Hoàng (1525-1613)


“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
Bắt đầu vào năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được Vua Lê cho
vào trấn thủ đất Thuận Hóa1, dòng họ Nguyễn đã dựng nên 9 đời
chúa Nguyễn, xây dựng vương quốc Đàng Trong, đối đầu với nhà
Trịnh ở Đàng Ngoài.
Công lao của 9 đời Chúa Nguyễn mà khởi đầu là chúa Tiên
Nguyễn Hoàng thật là to lớn khi đã thực hiện công cuộc khai
hoang tới mũi Cà Mau, xây dựng đồng bằng sông Cửu Long màu
mỡ. Đây quả thật là một công lao cực kỳ to lớn, bởi ta đừng quên
bối cảnh lịch sử của hơn 500 năm đồng bẳng sông Cửu Long
chôn vùi những vết tích lộng lẫy của vương quốc Phù Nam, của
văn hóa Óc Eo dưới những vũng phèn mặn mênh mông. Những
đền đài thành quách năm xưa nay chỉ còn là “những cánh đồng
hoang không có một gốc cây. Xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ

1
Khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế ngày nay

16
cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy.
Tiếp đó nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm”2
Không chỉ là khẩn hoang, các đời chúa Nguyễn còn tiếp thu
văn hóa Khmer, đánh bại hoàn toàn Chămpa, Chân Lạp, dang tay
đón những người nhập cư mới, xác lập chủ quyền biển đảo phía
Tây Nam với Chân Lạp, Xiêm La và nhiều quốc gia Đông Nam
Á hải đảo láng giềng.
Chúa Tiên cũng đã đặt nền tảng “trọng thương” cho miền đất
phương Nam trù phú. “Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn
trở thành nơi đô hội lớn” (Đại Nam thực lục).
“Ngoại thương đã trở thành yếu tố quyết định trong tốc độ
phát triển của Đàng Trong” (Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế-xã
hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII).
Chúa lấy đức độ để phủ dụ, thi hành chính sách cai trị mềm
mỏng, rộng rãi, dân chúng cảm hóa theo rất đông. Chỉ hơn 10
năm vào đất Thuận Hóa mà nhân dân ở đây có đời sống sung túc,
trên chợ dưới thuyền, tấp nập, sản vật dồi dào dư thừa, tệ nạn
trộm cắp hầu như không có, cảnh thái bình thịnh trị. Xứ Thuận
Quảng từ một vùng lam chướng đã trở thành một nơi đô hội.
Chúa Nguyễn Hoàng mất năm 1613, lãnh thổ miền Nam lúc
ấy đã được kéo dài đến hết vùng Phú Yên.
4 b. Chúa Sãi - Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635)
Dưới sự trị vì chúa Sãi, Đàng Trong ngày càng hùng mạnh, các
nước lân bang như Chiêm Thành, Chân Lạp đều thần phục và
hàng năm cống tuế.
Năm 1623: Chính sách hòa thân của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên,
cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Vạn với Vua Chân Lạp là
một bước quan trọng trên con đường Nam tiến, sát nhập vùng đất
phía Nam vào lãnh thổ Việt Nam.
Từ cuộc hôn nhân đó, Chúa Sãi đã xây dựng hình hài lãnh thổ
phía Nam với việc lập 2 đồn kiểm soát quan thuế đầu tiên ở xứ
Prei Nokor (Sài Gòn - Rừng của vua hay Thành phố giữa rừng,

2
Lời kể của một sứ thần nhà Nguyên (TQ) khi đi ngang vùng ĐBSCL vào thế kỷ thứ XIII [Theo Nguyễn Công Bình,
Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990: 26]

17
Q5) và Kas Krobei (Bến Nghé - khu vực có nhiều trâu nước, Q1).
Hai đồn kiểm soát có ý nghĩa lớn:
1) Khẳng định chủ quyền hợp pháp của Chúa Nguyễn đối với
vùng đất đầu tiên của Nam Bộ ngày nay.
2) Giải quyết tài chính cho triều đình chúa Nguyễn.
3) Thể hiện tầm ảnh hưởng to lớn về chính trị và quân sự của Đại
Việt Đàng Trong.
4) Là đầu cầu giúp việc di dân của người Việt ngày càng có căn
bản vững chắc hơn, dần phát triển toàn diện công, thương, nông
nghiệp trên toàn vùng đất Thủy Chân Lạp.

5 c. Chúa Thượng - Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)


Đáng kể là 1644 đã đánh tan 3 chiếc tàu chiến trang bị tối tân của
Hòa Lan. – lần đầu đối đầu với tàu chiến ngoại quốc.
Tiếp tục các chính sách cải cách của cha, tổ chức khoa thi tuyển
nhân tài.
d. Chúa Hiền - Nguyễn Phúc Tần (1648- 1687)
Trong 39 năm ở ngôi, ngoài việc mở mang Đàng Trong, phần lớn
phải cầm quân đánh nhau họ Trịnh.
1653, vua Chiêm là Bà Tấm đem quân xâm phạm phủ Phú Yên.
Bà Tấm thua xin cắt đất thần phục. Chúa cho thành lập 2 phủ
mới. Như vậy là địa giới miền Nam đã đến Phan Rang.
Chúa bắt vua Chân Lạp phải thần phục và hàng năm nộp triều
cống.
1679, Chúa cho Dương Ngạn Địch đồn trú ở Mỹ Tho, lập nên Mỹ
Tho đại phố; Trần Thượng Xuyên đồn trú tại Biên Hòa ngày nay,
khai phá và lập phố chợ “Nông Nại đại phố”
1680, (có tài liệu ghi 1708, thời Quốc Chúa), Mạc Cửu tới Hà
Tiên, chiêu lập dân lập các xã thôn ở Phú Quốc, Cần Vợt, Rạch
Giá, Cà Mau…Lấy cả đất Chân Lạp dâng cho chúa Nguyễn.
Năm 1708 Mạc Cửu xưng thần với chúa Nguyễn, được phong
làm tổng binh, cai quản trấn Hà Tiên bao gồm Cần Thơ, Kiên
Giang, An Giang Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.

18
Nam Kỳ đã dần dần được hình thành.
6 e. Chúa Nghĩa - Nguyễn Phúc Thái (1687 – 1691)
Cũng là vị chúa khoan hòa, khiêm cung, tôn trọng người tài nên
toàn dân mến mộ. Thi hành các chính sách giảm nhẹ hình phạt,
thuế khóa, trọng dụng quan lại cũ trăm họ vui mừng. Dời đô về
Phú Xuân.
f. Chúa Minh/ Quốc Chúa – Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725)
1692: Chúa Minh mới lên ngôi 1 năm, vua Chiêm Thành là Bà
Tranh đem quân đánh phủ Diên Ninh. Chúa sai Nguyễn Hữu
Cảnh cầm quân dẹp loạn.
3/1693: bắt vua Bà Tranh cùng gia quyến đưa về Phú Xuân. Đất
Chiêm Thành trở thành khu vực tự trị của Đàng Trong, gọi
là Thuận Thành trấn. Nguyễn Hữu Cảnh được làm trấn thủ dinh
Bình Khang (Ninh Thuận ngày nay) để coi sóc vùng đất này.
1698: Chúa sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đồng Nai.
“Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long,
dựng Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện
Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định ngày nay). Mở rộng
đất nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ những dân xiêu dạt
từ Bố Chính trở vào Nam cho đến ở cho vui… Lấy người Thanh
đến buôn bán ở Trấn Biên lập xã Thanh Hà, ở Phiên trấn lập xã
Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ
(của ta) ”. (Đại Nam thực lục)
1699: Nặc Ông Thu, vua Chân Lạp bỏ triều cống tràn qua biên
giới đánh phá cướp bóc, Nguyễn Hữu Cảnh lại được sai đi dẹp
loạn. Sau khi vua Chân Lạp quy hàng, Nguyễn Hữu Cảnh tiến
hành chính sách an dân, khích lệ dân chúng. Một vùng đất Sài
Gòn, Đồng Nai với người Khmer, Hoa, Việt đã được ông đoàn
kết lại tạo tinh thần tương ái.
Thời Quốc Chúa, Đàng trong đã hùng mạnh, đất rộng, dân
đông, sản vật dồi dào, dân cư trù phú sung túc, phía Nam cơ
bản đã sát nhập vào Đàng Trong. Với lòng yêu nước mến dân,
Quốc Chúa đã làm cho nhân dân sống cuộc sống no ấm, thanh
bình.

19
7 g. Chúa Ninh - Nguyễn Phúc Thụ/ Nguyễn Phúc Chú/ Trú (1725
– 1739)
Cũng là người mộ đạo, tính tình hòa nhã, nhu thuận. Kế thừa công
lao, dùng chính sách cũ, thi ân bố đức, nghiêm trị tệ nạn xã hội,
xiển dương thuần phong mỹ tục, nhân dân ấm no hạnh phúc và
vô cùng biết ơn Chúa.
1732 vây Nam Vang, Cao Miên (CPC) do nước này thường
xuyên quấy nhiễu vùng biên giới, sau vài trận đã lấy được Gia
Định, đặt châu Định Viễn, dinh Long Hồ (ở Cái Bè). Từ đây Gia
Định thuộc hẳn về VN.
Chúa còn nổi tiếng về việc cải cách hành chính phát triển vùng
ĐBSCL. “Định lại quan chế, cải cách sắc phục, thay đổi phong
tục, mọi người đều làm theo lối mới, tránh cái thô lậu của Bắc
Hà từ trước tới nay. Miền Nam từ đây rạng rỡ một vùng y quan
văn vật” (Trịnh Hoài Đức – Gia định thành thông chí)
g. Chúa Vũ – Nguyễn Phúc Khoát (1739- 1765)
Chính thức lên ngôi Vương.
Xây dựng thành Phú Xuân hoa lệ, trở thành chốn đô hội giàu có,
đông đúc, náo nhiệt nhất Đàng Trong. “…Y phục toàn gấm vóc,
phú quý phong lưu rất mực. Từ binh sĩ đến người dân ăn chơi xa
xỉ, coi vàng bạc như cát, thóc gạo tựa bùn. Khắp đô thành đâu
đâu cũng thấy cảnh khoe giàu khoe sang…” (Lê Quý Đôn – Phủ
biên tạp lục)
Cải cách lại triều chính cho hợp với Vương vị. Tiếp tục mở rộng
bờ cõi về phía Nam.
Chân Lạp nội chiến, vua Chân Lạp thường sang cầu cứu, để nhớ
ơn, các vua Chân Lạp cắt đất hiến cho Vua. Nặc Ông Nguyên:
Tân An, Gò Công, Nặc Ông Thuận: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Nặc
Ông Tôn: dải đất dài từ Thất Sơn đến Sa Đéc, Kiên Giang, Long
Xuyên.
Như vậy đến 1757, lãnh thổ Đàng trong đã được như ngày
nay.
Tròn 200 năm, kể từ ngày Chúa Tiên rời Tây Kinh (1558), dòng
họ Nguyễn đời thứ 8 đã hoàn thành việc mở cõi vào Nam đến
mũi Cà Mau.

20
Từ 1802 – 1945, dưới thời vua Nguyễn, một số điểm cụ thể vẫn
còn điều chỉnh, nhưng trên cơ bản, toàn bộ đất NB đã thuộc chủ
quyền VN.
Sống cảnh sung túc, đầy đủ, thái bình thịnh trị, Chúa Nguyễn
Phúc Khoát đã không còn giữ được vai trò của một vị chúa chăm
lo muôn dân.
“Ai ơi ngẫm lại mà coi
Ngọc vàng con hát tôi đòi thằng dân”
8 h. Chúa Định – Nguyễn Phúc Thuần (1765- 1777)
Toàn bộ quyền hành trong tay Trương Phúc Loan. Đời sống nhân
khổ cực, mất mùa đói kém, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra.
Đến 1771, từ Bình Định, 3 anh em Tây Sơn giương lá cờ “Diệt
Trương Phúc Loan”. Khi Chúa Nguyễn nhận ra mối nguy hiểm
của khởi nghĩa Tây Sơn thì quân Trịnh Đàng Ngoài tham chiến.
Chúa Định phải cùng gia tộc chạy vào Gia Định. Sự nghiệp của
các Chúa dày công xây dựng đã tiêu tan, lịch sử bước sang
trang khác.
1777, Tây Sơn đánh thẳng vào Gia Định, nơi trú ẩn cuối của chúa
Nguyễn. Gia Định thất thủ, cuộc tàn sát bắt đầu. Nguyễn Phúc
Ánh 15 tuổi chạy thoát và mang mối hận Tây Sơn.
9 đời Chúa Nguyễn, 220 năm, đã chấm dứt3.
9 Nhìn lại,
Các vị Chúa cùng với những cư dân Nam bộ đầu tiên đã biến
vùng đất Nam bộ hoang vu đến 10 thế kỷ trở thành một vùng đất
trù phú, với mô hình “dân đi trước, nhà nước theo sau”, dần dần
xác lập chủ quyền toàn vùng Nam bộ theo một cách nhìn chung
là êm thắm và hòa bình do có sự đồng thuận, tình nguyện hiến
tặng đất của nhà nước Chân Lạp.
Cùng các chính sách khuyến khích khai khẩn, Nam tiến, các
Chúa Nguyễn còn tổ chức, thiết lập và củng cố hệ thống chính
quyền địa phương, tổ chức quân đội nhằm thực thi chủ quyền
trên vùng đất mới; tổ chức thu thuế ở Trấn biên dinh (Biên Hòa),
Phiên trấn (vùng Gia định), Long hồ (Vĩnh Long) nhằm khẳng

3
Theo Dũng Phan 2017: Sử Việt 12 khúc tráng ca, NXB Hội Nhà Văn, 202-231

21
định quyền kiểm soát đất đai, dân đinh, tài nguyên và các nguồn
lợi khác.
Ngoài ra, các Chúa Nguyễn còn triển khai các hoạt động kinh tế,
khai thác thế mạnh của Đàng Trong là thương mại, không chỉ
trong vùng, trong nước mà với cả quốc tế, nhờ vào sự ưu đãi của
thiên nhiên có nhiều sản vật phong phú, đặc biệt là lúa gạo, và hệ
thống kênh rạch sông nước cùng với yếu tố biển rất thuận lợi giao
thương. Chúa Nguyễn đã biến Nam bộ thành một trung tâm
kinh tế phát triển mạnh mẽ của khu vực Đông Nam Á.
“Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài
Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy chục ngàn
dặm. Họ Nguyễn (…) phát chặt, mở mang hết thảy bằng phẳng,
đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm trồng cau và làm nhà cửa.
Lại thu con trai, con gái người Mọi ở đầu nguồn đem về bán làm
nô tỳ, cho tự lấy nhau sinh đẻ nuôi nấng thành người, cày ruộng
làm nghề nghiệp, do đó mà thóc rất nhiều” (Lê Quý Đôn - Phủ
biên tạp lục)
Hai xứ Thuận Quảng rất giàu về lâm sản, nông sản, hải sản, có
cả mỏ vàng, sắt. “Những sản vật quý phần nhiều xuất từ miền
Nam… Xứ Quảng Nam (kể cả Gia Định) là đất phì nhiêu nhất
thiên hạ... Ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Gia Định thì thóc gạo
nhiều không kể xiết, nhất là Gia Định đất đai màu mỡ không lo
cái nạn hạn, lụt,…”4
Trong suốt hơn 200 năm này, đời sống nhân dân no đủ. (Thời
kỳ Chúa Thái tổ, Chúa Hy Tông, Chúa Thần Tông, khoảng 50
năm, ít giặc giã, nhân dân yên ổn làm ăn. Trong chiến tranh với
họ Trịnh, chỉ có dân Quảng Bình chịu nạn binh lửa). Tuy nhiên
vẫn có tình trạng tài nguyên nhiều nhưng phân bố không đều,
vùng Thuận Hóa, Quảng Nam những năm gặp hạn hán, lũ lụt thì
vẫn bị mất mùa, dân đói khổ.
Trong phong tục, đáng chú ý là việc Chính Lộc Khê hầu, tức ông
Đào Duy Từ khuyên Chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục ăn
mặc cho khác hẳn dân Đàng Ngoài.
Về giáo dục, các Chúa Nguyễn có mở các khoa thi (nhưng chỉ thi
Hương, không có thi Hội), có lập Văn Miếu. Nho học thịnh, văn
học cũng có nhiều văn nhân, thi sĩ có tài. “Văn mạch ở đất này
4
Lời một người thường buôn bán ở Gia Định nói với ông Lê Qúy Đôn. [Dẫn theo Phan Khang 2016: 449]

22
dằng dặt không dứt, thật đáng khen” (Lê Qúy Đôn). Trong dân
gian có mở nhiều trường học bậc đại học với nhiều giáo sư, các
cuộc thi hạch các cấp giống như ở Trung Quốc.
Về tôn giáo, Chúa Nguyễn tin tưởng Phật giáo, dân chúng cũng
sùng đạo Phật, chuộng lễ nghĩa; phụ nữ thì tôn thờ các nữ thần.
Về nghệ thuật, ca vũ nhạc đã thịnh hành nhưng có ảnh hưởng âm
nhạc Chiêm Thành nên nghe giai điệu rất ai oán, u buồn. Các câu
hát, hò mái nhì, chầu Văn Huế, ca vọng cổ được cho là ảnh hưởng
âm nhạc Chiêm Thành. Do công lao của Đào Duy Từ, Hát bội
cũng thịnh hành ở Đàng trong và khác hẳn với cách hát của hát
bội miền bắc.
Văn hóa Nam bộ là văn hóa của người Việt vùng Thuận –
Quảng5, giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa của các dân tộc
Hoa, Khmer, Chăm. Sự giao thoa văn hóa thể hiện rõ trong phong
tục, tín ngưỡng, trong kiến trúc nhà ở, trang phục, ẩm thực, các
loại hình nghệ thuật.
Sự tác động qua lại giữa các nền văn hóa tạo nên tính cởi mở,
phóng khoáng của văn hóa Nam bộ.Tính mở ấy thể hiện trong
các chính sách phát triển thương mại quốc tế, tiếp nhận một cách
rất nhanh chóng các yếu tố văn hóa, văn minh của phương Tây.
Các kiến thức sơ đẳng của các môn Khoa học tự nhiên, kỹ thuật
phương Tây, kiến thức Tây y, đạo Thiên Chúa được đón nhận và
ứng dụng trong cuộc sống của người dân Đàng Trong. Đặc biệt,
sự ra đời của Chữ Quốc Ngữ trong thế kỷ XVII là bước ngoặt
quan trọng của văn hóa VN6.
10 1.2.2. Nam bộ thời các đời Vua Nguyễn
Cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn kéo dài 13 năm.
Năm 1782 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vương ở Gia Định. Trong
vòng 5 năm, ông thể hiện tầm nhìn chính trị khi sắp đặt việc quân,
quản lý hành chính, lập mối giao bang với Chân Lạp, vỗ về dân
chúng…
1789, Nguyễn Vương thu tóm Gia Định. Ở Gia Định dân đói khổ,
do loạn lạc mãi, ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ,
5
Hay còn gọi là Ngũ Quảng: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên, Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi
6
[Theo Trần Nam Tiến 2018: Nam Bộ dưới thời Chúa Nguyễn, NXB KHXH, 257 – 269;
Tủ sách Phan Khoang 2016: Việt sử: Xứ Đàng trong 1558 – 1777, NXB KHXH ]

23
Nguyễn Vương đã khuyên nhủ quân dân cố sức làm ruộng, mộ
dân các nơi đến làm ruộng, phát trâu bò điền khí cho dân. Gia
Định từ đất hoang nay trở lại trù phú. Nguyễn Ánh thu phục được
Gia Định và lấy Gia Định làm bàn đạp để thu phục cả giang sơn.
a. Vua Gia Long (1802 – 1820)
1802 Nguyễn Ánh đã bình định xong toàn cõi, thống nhất đất
nước, chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, lấy quốc
hiệu là Việt Nam7.
Vua mất năm 1819, trị vì 18 năm, thọ 59 tuổi.
b. Vua Minh Mạng (1820 -1840)
Đây là thời thịnh trị nhất nhà Nguyễn.
Minh Mạng kế vị Gia Long, xây dựng đất nước trở thành một
trong hai nước hùng mạnh nhất Đông Nam Á.
1832, toàn bộ vương quốc Chăm pa sát nhập vào Việt Nam. Sau
đó, hai nước Thủy Xá và Hảo Xá của người Ê đê và Gia Rai –
vùng đất Tây Nguyên chính thức thuộc về nhà Nguyễn.
Vua phát triển giáo dục, phát triển nông nghiệp, hoàn chỉnh đê
điều miền Bắc, khai hoang biển Bắc bộ và đào kênh Vĩnh Tế ở
miền Nam, có giá trị lớn về mặt trị thủy, giao thông, thương mại,
biên phòng.
Đây là thời kỳ ra đời của “Nam kỳ lục tỉnh”
1808: Gia Long chia VN thành 3 khu vực: Bắc Thành, Kinh đô
Huế và Gia Định thành (gồm 5 trấn)
1832: Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng bỏ chức Tổng trấn, xóa tên
“Gia Định thành”, đổi “trấn” thành “tỉnh”, 5 trấn được chia thành
6 tỉnh, thuộc 3”kỳ”: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ.
Như vậy, Nam kỳ (南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại
Nam triều Nguyễn. Vì Nam kỳ từ 5 trấn đã được chia thành 6 tỉnh
nên người ta gọi Nam kỳ là Nam kỳ lục tỉnh.
(Từ khi VN giành độc lập năm 1945, Nam kỳ được gọi là Nam
bộ, cách gọi này được dùng cho đến nay. Tuy nhiên, trong

7
Cấm gọi An Nam vì gọi An là kỵ húy, An là tên húy của một người trong thân tộc vua. Một giả thiết khác: Vua sai
Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, nhưng Nam Việt xưa đã có tên, gồm cả đất
Lưỡng Quảng, nên nhà Thanh đổi lại thành Việt Nam cho khỏi nhầm lẫn tên cũ (Trần Trọng Kim, VN sử lược).

24
thời Quốc gia Việt Nam (1949-1955) và Việt Nam Cộng
hòa (1955-1975), Nam bộ còn được gọi là Nam phần).
….
Vua mất năm 1840, thọ 50 tuổi, trị vì 21 năm.
Minh Mạng là ông vua giỏi nhưng phát triển không đúng hướng
vì đã tập trung phát triển Nho giáo (cùng với vua Lê Thánh Tông
là 2 vị vua tiếp thu văn hóa Hán mạnh mẽ nhất), hạ thấp thương
nghiệp, cả nước chỉ có các nhà Nho biết thơ phú thiếu thực tiễn
kỹ nghệ; hạn chế sự tham dự của người Pháp, kiểm soát việc
truyền đạo, giết hại người theo Đạo, sợ hãi phương Tây, bế quan
tỏa cảng. Mầm mống mất nước đã xuất hiện.
11 c. Vua Thiệu Trị (1841 – 1847)
Trong thời Vua Thiệu Trị, Nam kỳ giặc giã, Chân Lạp nổi loạn,
Tiêm La đánh phá, phải dùng binh đánh dẹp mãi.
Việc cấm đạo có nguôi nhưng nhìn chung triều đình vẫn ghét đạo,
nhiều giáo sĩ ngoại quốc vẫn bị giam ở Huế.
1847 Vua mất, thọ 37 tuổi.
d. Vua Tự Đức (1847 -1883)
Thái tử Hồng Nhậm lên ngôi lúc 19 tuổi, đặt niên hiệu Tự Đức.
Đây là vị vua hiền lành, có hiếu, siêng năng, hiếu học.
Tiếp tục cấm đạo nghiệt ngã, giết giáo sĩ, không giao thương với
nước ngoài
Những người phò tá thanh liêm nhưng không am hiểu thời thế
mới, chỉ khư khư giữ lấy thói cổ. Tình thế trong nước công nghệ
không có, ngoại thương không có, ngoài việc cày cấy làm ruộng
thì nghèo không có nghề nghiệp, cuộc sống nghèo đói, lòng người
ly tán, phạn chia bè đảng giết hại nhau.
1858, Pháp xâm chiếm Việt Nam
Trong nước thường xuyên giặc giã, nghịch thần làm loạn, nước
lụt, vỡ đê, dân đói khổ nên theo giặc nhiều.
Đến thời vua Tự Đức, nhà Nguyễn mất quyền tự chủ. Nước Việt
Nam thuộc quyền bảo hộ của nước Pháp. Ngôi vua vẫn còn
nhưng quyền chính trị do chính phủ bảo hộ sắp đặt.

25
Ngày 16/9/1883, vua Tự Đức mất, làm vua 36 năm.
e. Vua Dục Đức (1883)
Làm vua 3 ngày
f. Vua Hiệp Hòa (1883)
Lên ngôi lúc 36 tuổi. Làm vua 4 tháng 10 ngày
g. Vua Kiến Phúc (1883 - 1884)
Lên ngôi lúc 13 tuổi. Làm vua 7 tháng.
h. Vua Hàm Nghi (1884 – 1885)
Lên ngôi lúc 13 tuổi.
14 tuổi, vua ký Hịch Cần vương kêu gọi nhân dân nổi dậy chống
Pháp được khắp nơi hưởng ứng.
1888, 17 tuổi, Vua bị Pháp bắt, 1889 bị đày đi Algérie
12 i. Vua Đồng Khánh (1885 – 1888)
8/1885: chính phủ Pháp sau khi thất bại trong việc chiêu dụ vua
Hàm Nghi về hàng đã phế truất vua Hàm Nghi, đưa em của vua
Hàm Nghi lên làm vua, đặt niên hiệu Đồng Khánh.
Là vị vua đầu tiên nhận quyền bảo hộ của Pháp. (Cho phép quan
lại Pháp vào cửa giữa Ngọ Môn – thể hiện sự nhượng bộ).
Tiệc tùng ăn uống xa xỉ, thích chải chuốc, trang điểm.
Lên ngôi lúc 22 tuổi, mất năm 25 tuổi, làm vua được 3 năm.
j. Vua Thành Thái (1889 - 1907)
Lên ngôi vua lúc 10 tuổi.
Có chí lớn
“Thương nòi xót giống trông ai đó
Thời buổi can qua biết nói sao”
Có ý thức chống Pháp và tay sai, bí mật huấn luyện các đoàn nữ
binh, không phê chuẩn việc thăng bổ các quan nịnh thần
1907 vua bị phế truất và giam lỏng, sau bị đưa đi đày.
Làm vua 8 năm.
k. Vua Duy Tân (1907 – 1916)

26
Lên ngôi lúc 8 tuổi
Khẩu khí vương quyền, nói tiếng Pháp lưu loát, trí thông minh
khác thường.
“Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa. Khi nước bẩn thì lấy chi mà
rửa?”
1916: tham gia cuộc khỏi nghĩa 5 tỉnh Trung kỳ của tổ chức Việt
Nam Quang Phục Hội (do Phan Bội Châu tổ chức) nhưng kế
hoạch bại lộ do có kẻ phản bội và bị Pháp bắt.
“Các ngài bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam thì hãy coi tôi
như một ông vua trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất
là có quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp”.
Nhà vua bị lưu đày.
13 l. Vua Khải Định (1916 – 1925)
Lên ngôi lúc 31 tuổi.
Không làm gì cho sự nghiệp xây dựng đất nước ngoài các công
trình cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho riêng mình và lễ Tứ tuần
Đại khánh kéo dài 10 ngày tốn kém ngân sách và 30% thuế nhân
dân.
Ai về địa phủ hỏi Gia Long
Khải Định thằng này phải cháu ông
Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ
Trăm gia “30 chục” khó nhà nông
Mới rồi ra Bắc tai liền đến
Năm ngoái qua Tây la vãi cùng
Bảo hộ trao dồi nên tượng gỗ
Vua thời còn đó, nước thì không!
1925 Vua băng hà, trị vì 9 năm.
m. Vua Bảo Đại (1925 – 1945)
1925 hoàng thái tử lên ngôi, lấy niên hiệu Bảo Đại.
Là một ông vua trẻ, nhiệt tình, Tây học.
Sau khi lên ngôi, giao việc triều chính cho Hội đồng phụ chính
để tiếp tục du học ở Pháp.

27
1932 trở về nước và thay đổi việc triều chính, muốn nắm quyền
bính và thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến nhưng bị chính
phủ Pháp cản trở.
Ngày 8/3/1945 Nhật đánh úp Pháp tại Đông Dương, với hứa hẹn
của đại sứ Nhật tại Đông Dương Yokohama, Bảo Đại tuyên chiếu
bố cáo nước Việt Nam đã độc lập và tất cả các hiệp ước ký kết
với Pháp đều hủy bỏ, thành lập Nội các mới gồm các nhà Tây
học, đứng đầu là Trần Trọng Kim.
2/9/1945, Bảo Đại trở thành Cố vấn tối cao của nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa.
Tuyên bố thoái vị, nhường quyền cho Đảng Cách mạng Việt Nam
Độc lập Đồng minh.
“Tôi thà làm dân của một nước độc lập còn hơn làm vua của một
nước nô lệ”
14 Nhìn lại,
Dưới thời Nhà Nguyễn,
Về dân cư: Năm 1884, 20 năm sau khi người Pháp chiếm
cứ, Nam kỳ lục tỉnh có 400.110 suất đinh, tổng số dân là
1.633.824 người. Châu thổ sông Cửu Long và các phụ lưu là
vùng đồng bằng rộng nhất nước nhưng dân cư thưa thớt. Đầu
triều vua Tự Đức, suất đinh của NB là 165.598 người trên tổng
số hơn 1 triệu dân đinh toàn quốc. Nhân khẩu trung bình là 90
người/ km vuông, tập trung nhiều nhất ở 3 tỉnh Gia Định, Định
Tường và Vĩnh Long. Quá trình cộng cư giữa các dân tộc Việt,
Khmer, Hoa, Chăm, Stiêng,.. vẫn tiếp tục diễn ra với nhiều làng
xã mới được thành lập. Vua Minh Mạng xuống dụ cho các dân
tộc sống gần nhau, xen kẽ với nhau để cùng học hỏi nhau; ban bố
lệnh cấm dân Việt không được lấn át các dân tộc khác. Các cuộc
tranh chấp đất đai giữa người Việt và người Khmer đều được các
triều Gia Long, Minh Mạng giải quyết ổn thỏa, bênh vực người
Khmer.
Về chính trị: Nhà Nguyễn đã tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ
thống hành chính và tổ chức bộ máy quản lý ở Nam Bộ. Sau khi
lên ngôi, Vua Gia Long- Nguyễn Ánh đã rất quan tâm đến NB,
cũng như các đời Vua Nguyễn sau này, liên tục xếp đặt lại hệ
thống quan chức ở các dinh trấn; đẩy mạnh việc xây dựng các
thành trì, trấn lỵ - nơi đặt các bộ máy cai trị; lập thêm phủ, huyện
28
mới, ấp mới, chứng tỏ công cuộc khai hoang lập ấp tiếp tục được
đẩy mạnh.
Nhà Nguyễn rất chú trọng việc gìn giữ biên giới, bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ quốc gia, xây dựng nhiều đồn bảo, thủ sở dọc
tuyến biên giới đường bộ và đường biển với Cao Miên, Xiêm La.
Tuy nhiên, khi quân Pháp chính thức xâm lược, triều đình nhà
Nguyễn không dảm nhận được vai trò lịch sử là dẫn dắt đất nước
thoát khỏi hiểm họa xâm lược. Những sai lầm về đường lối khiến
quân đội triều đình liên tiếp nhận thất bại. Suốt cuộc chiến thế kỷ
XIX, vua quan triều Nguyễn không có một biện pháp tích cực
nào nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc của các binh sĩ trong quân
đội cũng như phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. 4
tháng giết 3 vua, lãnh đạo rối loạn trong lúc cần sự ổn định
Về kinh tế: Để phát triển nông nghiệp, mở rộng giao lưu buôn
bán trong vùng Nam bộ, việc khơi đào, nạo vét kênh rạch được
các Vua Nguyễn tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện thường xuyên,
đặc biệt là cuối thời Gia Long. Hệ thống các công trình thủy lợi
không chỉ mang lại nhiều lợi ích kinh tế mà còn góp phần bảo vệ
lãnh thổ, nhất là địa bàn đọc biên giới Tây Nam, giáp Chân Lạp8
Ngoài ra, nhà Nguyễn còn ban hành nhiều chính sách về đo
lường, tiền tệ thống nhất trên cả nước tạo thuận lợi cho hoạt động
thương nghiệp. Việc buôn bán giữa các vùng Nam bộ và giữa
Nam bộ với các địa phương khác trong cả nước diễn ra rất sôi
nổi, nhất là nông sản, mà phổ biến nhất là gạo và cau, sau là các
hàng hóa khai thác từ nguồn lợi tự nhiên như các mặt hàng thủ
công sản xuất tại các địa phương (đồ sắt, ngói, tơ lụa, rượu… )
Từ 1802 đến 1858, kinh tế Nam kỳ phát triển nông nghiệp lẫn thủ
công thương nghiệp. Tuy nhiên chính quyền nhà Nguyễn quản lý
chặt chẽ ngọai thương nên tàu buôn nước ngoài giảm nhiều so
với thời chúa Nguyễn. Nhà nước ngăn cấm ghe thuyền nhân dân
ra nước ngoài buôn bán và trừng phạt nặng những ai vi phạm lệnh

8
Công trình thủy lợi quy mô nhất đầu triều Nguyễn là công cuộc đào sông Vĩnh Tế, kéo dài 5 năm, từ thời
Vua Gia Long sang Vua Minh Mạng, huy động 50 vạn binh dân người Kinh và người Chân Lạp. Sông Vĩnh Tế là
công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh cho dân cư hai nước VN, CL từ An Giang đến
Hà Tiên, là con hào bảo vệ vùng biên giới Tây Nam VN.

29
cấm. (Tuy vậy, nhiều thương gia người Hoa từ Nam Kỳ vẫn lén
lút sang buôn bán ở các hải cảng Malacca, Singapore, Nam
Dương)
Đến thời vua Minh Mạng, chính sách giao thương “không
phương Tây” thực thi nghiêm ngặt. Tàu thuyền Anh, Mỹ nhiều
lần đến xin giao thương đều bị khước từ. Chính quyền chuyển từ
“cấm đạo” sang “sát đạo” nên tàu buôn phương Tây và ĐNA
không đến Nam kỳ nữa.
“Thử nghiệm của nhà Nguyễn đã mở ra một cách cửa phát triển
khác cho Việt Nam… Cuối cùng, cánh cửa này bị đóng lại khi
mà trật tự trở thành một quan ngại xã hội to lớn của triều Nguyễn
sau năm 1802”
Về tôn giáo: Dưới thời Nguyễn, Phật giáo ở NB khá phát triển.
Nhiều ngôi chùa đã được xây dựng vào thời kỳ này.
Tóm lại, “Đàng Trong trở thành đầu tàu thay đổi mang tính lịch
sử, và kéo trọng tâm quốc gia – dù là được nhìn theo nghĩa chính
trị, kinh tế hay thậm chí văn hóa – về hướng Nam từ thế kỷ XVII
cho đến khi người Pháp áp đặt sự cai trị”.

30
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 1 GHI
1.3. NAM BỘ THỜI KỲ PHÁP THUỘC CHÚ

1 Chủ đề 1.3. Nam Bộ thời kỳ Pháp thuộc


Mục tiêu học tập chủ đề
Học xong chủ đề này, sinh viên có thể trình bày được toàn cảnh
vùng Nam Bộ, gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, giao thông vận
tải, văn hóa, xã hội, giáo dục,.. dưới sự cai trị của thực dân Pháp.
Nội dung gồm có 2 phần:
1.3.1. Nam Bộ thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1858 đến năm 1940
1.3.2. Nam Bộ thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1940 đến năm 1945
2 Nhắc đến Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc, có các cột mốc mà
chúng ta cùng điểm qua:
31/8/1858: Pháp nổ súng tại Đà Nẵng, chính thức xâm lược Việt
Nam.
17/2/1859: Pháp tấn công thành Gia Định.
1862: triều đình Huế ký hiệp ước nhượng 3 tỉnh miền Đông cho
Pháp.
1874: toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc toàn quyền kiểm soát của
Pháp.
1.3.1. Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1858 đến năm 1940
Về chính trị: thiết lập bộ máy cai trị hà khắc, xóa bỏ hoàn toàn
hệ thống hành chính cũ của nhà Nguyễn, dùng quan chức Pháp
cầm đầu bộ máy hành chính. Đóng đồn bốt khắp nơi, đàn áp
không nương tay các cuộc nổi dậy của dân chúng; xây dựng
hàng loạt nhà tù, đặc biệt là nhà tù Côn Đảo; dùng hệ thống tòa
án thực dân để giết hại những người VN ưu tú; thực hiện chính
sách khủng bố vô nhân đạo.
Về kinh tế: biến biển lúa gạo Nam kỳ thành món hàng xuất khẩu
chính của Đông Dương, là ngành xuất cảng độc quyền của Pháp,
mang lại các khoản lợi nhuận kếch sù.
- Diện tích canh tác ở Nam kỳ phá triển nhanh, từ vài trăm ngàn
hecta đã tăng lên 2.500.000 hecta, Nam Kỳ xuất khẩu mỗi năm
từ 1 triệu đến 2 triệu tấn lúa.

31
- TD Pháp cướp đoạt ruộng đất nông dân, tạo mọi sự dễ dàng
cho giai cấp địa chủ chiếm càng nhiều đất càng tốt và dựa vào
nhóm người đó để cai trị. Phần lớn ruộng đất nằm trong tay số
ít người, nông thôn ân với gánh nặng tô tức, sưu thuế, bị mất hết
ruộng đất trở nên bần cùng, vừa bị địa chủ bóc lột, vừa bị tư sản
thương mại và bọn cho vay nặng lãi bóc lột. Nông thôn tiêu điều
xơ xác.
- Xây dựng các đồn điền cao su và cà phê rộng hàng trăm hàng
ngàn mẫu, mỗi đồn điền là một trại tập trung khép kín, công
nhân bị bóc lột tận xương tủy.
Về giao thông vận tải: nạo vét các sông rạch, đào kinh mới, cải
tạo đường bộ, xây dựng nhiều cầu đường (Cầu Long Biên, Tràng
Tiền và Bình Lợi), xây dựng đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho,
Sài Gòn – Nha Trang, Sài Gòn – Lộc Ninh nhằm phục vụ cho
quân sự và kinh tế.
“...Việc này thật phi thường, họ nói, những người Pháp làm
được tất cả những gì họ muốn… Việc xây dựng cây cầu (…) đã
tạo dấu ấn quyết định lên trí tưởng tượng của người bản xứ. Các
quy trình kỹ thuật và sự sáng tạo được sử dụng trong công trình
cũng như kết quả thu được đã làm họ ý thức được sức mạnh tốt
đẹp của nền văn minh Pháp. Năng lực khoa học, sức mạnh công
nghiệp của chúng ta đã chinh phục được tinh thần của một dân
tộc…” (Xứ Đông Dương - Paul Doumer)
Về giáo dục: thi hành chính sách ngu dân bằng các hạn chế giáo
dục, cấm đoán tự do báo chí, tự do ngôn luận. Hậu quả của chính
sách hạn chế giáo dục là đến năm 1945, 95% dân chúng Nam kỳ
vẫn còn mù chữ.
““Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà các nhà
cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”.
(Bản án chế độ thực dân Pháp - Nguyễn Ái Quốc)
Về văn hóa, xã hội: dùng thuốc phiện, rượu để đầu độc thanh
niên; cho hoạt động công khai nạn đĩ điếm, cờ bạc, phá hoại
thuần phong mỹ tục, nhiều gia đình tan nát, phân ly.
“Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại
lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một nghìn
làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học”

32
“Ngày 21 tháng 1 tới, tất cả chúng ta hãy đi Biên Hòa, chúng ta
sẽ vừa được dự những hội hè linh đình vui tươi, vừa được dịp tỏ
cho những gia đình tử sĩ An Nam ở Biên Hòa thấy rằng chúng
ta biết tưởng nhớ đến sự hy sinh của con em họ”
Thật là thời đại khác, phong tục khác. Nhưng phong tục kỳ quái
làm sao!” (Bản án chế độ thực dân Pháp - Nguyễn Ái Quốc)
Xã hội VN xuất hiện tầng lớp mới: Tư sản và Tiểu tư sản. Nhiều
người đã tham gia phong trào yêu nước theo khuynh hướng cách
mạng dân chủ tư sản (học được từ những tư tưởng tự do, tiến bộ
của người Pháp). Đại biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
………………………….
* Thái độ của người Việt Nam, người Nam bộ với văn hóa Pháp:
Ở Nam bộ cũng như trên cả nước, có 2 khuynh hướng trong việc
tiếp nhận văn hóa Pháp: Khoảng giữa thế kỷ XIX: tầng lớp sĩ
phu yêu nước và nhân dân đối kháng với đạo Thiên Chúa để giữ
gìn bàn thờ và tục thờ tổ tiên, không dùng rượu chát, bánh mì,
xà bông, không đi đường lộ Tây đắp, chống việc học chữ Quốc
ngữ.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ
Đầu thế kỷ XX: vẫn còn xung đột giữa lối sống “phong hóa
truyền thống” và lối sống tân thời. (Tuồng cải lương Tô Ánh
Nguyệt,…). Các tôn giáo mới như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài cố gắng bảo vệ nền
văn hóa Việt; người dân nỗ lực bảo vệ các tập tục cổ truyền, các
đình, chùa, miếu, võ, các thiết chế văn hóa truyền thống của làng
xã…
Nhưng rồi văn hóa Pháp vẫn thâm nhập vào đời sống của tầng
lớp trí thức ở Nam bộ cũng như các thành thị lớn trên cả nước.
Người VN chống thực dân Pháp nhưng không chống cái hay cái
đẹp của văn hóa Pháp.
3 1.3.2. Nam Bộ thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1940 đến năm 1945

33
Từ mùa thu 1940, Pháp đầu hàng Nhật trong chiến dịch Đông
dương lần thứ 1, mở cửa cho Nhật tiến vào Việt Nam, nhân dân
bị hai tầng xiềng xích Pháp Nhật. Pháp và Nhật hùa nhau khai
thác tối đa tài lực, vật lực.
12/1941, hiệp ước “Phòng thủ chung” thừa nhận quyền chiếm
đóng của Nhật trên toàn Đông Dương, Đông Dương trở thành
nơi cung cấp nguyên vật liệu cho phát xít Nhật. Pháp phải nộp
gạo, nộp tiền cho Nhật để nuôi quân đội chiếm đóng.
Tai hại nhất là nạn thu lúa ở Nam kỳ, dù mất mùa hay được mùa,
thực dân Pháp vẫn phải nộp cho Nhật một lượng lúa gạo tương
đương diện tích canh tác.
Chính quyền Pháp bắt dân nhổ lúa trồng đay, trồng bông, một
nguyên nhân góp phần làm chết đói 2 triệu dân Việt Nam.
Khắp các tỉnh Nam kỳ, giá thực phẩm và các nhu yếu phẩm tăng
nhanh, từ 10% - 30%, có nơi tăng trên 70%.
1942 đến đầu 1945, mâu thuẫn Pháp - Nhật càng gay gắt. TD
Pháp cay cú vì bị Nhật tước hết các nguồn bóc lột quan trọng ở
thuộc địa, càng ra sức vơ vét nhân dân, biện pháp cơ bản là tăng
đồng loạt 20% các sắc thuế.
- Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ chính
quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, tình hình kinh tế xã hội ở
Nam kỳ càng khủng hoảng nghiêm trọng, nạn nhân vẫn là nhân
dân. Nhân dân đói rách đến cùng cực.
(6/8/1945 Mỹ ném bom Hiroshima, 9/8/1945 Mỹ ném bom
Nagasaki, 15/8/1945, Nhật hoàng Hirohito đọc diễn văn trên Đài
phát thanh tuyên bố Nhật đầu hàng Đồng minh).
-19/8/1945: Ủy ban giải phóng Việt Nam - sau này là chính phủ
lâm thời nước VNDCCH - kêu gọi khởi nghĩa.
“Giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà giải phóng cho ta” (Thư của
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước Tổng khởi
nghĩa)
- Trong vòng 10 ngày, nhân dân đứng dậy khởi nghĩa lập chính
quyền cách mạng cả nước. (18/8: Bắc Giang, Hà Tĩnh, Hải
Dương, Quảng Nam… 23/8: Tân An, Bạc Liêu, 24/8: Gò Công,

34
Mỹ Tho, Vĩnh Long, …; 25/8: Sài Gòn; ... 28/8: Hà Tiên, Đồng
Nai)
(2/9/1945, nghi lễ đầu hàng đã thực hiện trên chiến hạm của hải
quân Hoa Kỳ, chính phủ Nhật ký văn kiện Nhật Bản đầu hàng,
kết thúc chiến tranh TG 2).
- Ngày 2/9/1945: Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa, chấm dứt 80 năm đô
hộ của Thực dân Pháp.
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đánh đổ
các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên
nước Việt Nam độc lập”
“…Chúng tôi – Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới đại diện
cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp,
xóa bỏ hết hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ
mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam”
(Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ Trần Văn Giàu
đã thay mặt hàng triệu đồng bào miền Nam tuyên bố ngày
2/9/1945:”Chúng ta thề cương quyết đứng bên cạnh chính phủ,
chống mọi xâm lăng,…”
- Ngày 12/9/1945, những đơn vị quân Anh đầu tiên cùng vài đơn
vị quân đội Pháp đã hạ cánh sân bay Tân Sơn Nhất.
- Ngày 23/9/1945: 6000 quân Pháp, dựa vào 10.000 quân Anh
gây hấn ở Sài Gòn muốn chiếm lại Nam bộ, làm bàn đạp chiếm
lại Việt Nam và Đông Dương lần nữa. Nhân dân miền Nam đã
tổ chức Nam Bộ kháng chiến chống lại việc Pháp tái chiếm Nam
bộ, mở đầu cho cuộc chiến 30 năm chống TD Pháp, chống can
thiệp Mỹ thống nhất đất nước.
4 Chúng ta cùng mở ngoặc một chút nói về tên gọi Nam kỳ lục
tỉnh và tên gọi “Nam bộ” các bạn nhé:
31/8/1858, Pháp chính thức xâm lược Việt Nam.
1862: sau khi thất bại ở Đà Nẵng, Pháp đem quân đánh Nam kỳ
và lần lượt chiếm Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long,
buộc triều đình Huế ký hiệp ước 1862 nhượng 3 tỉnh miền Đông
cho Pháp.

35
Từ đây, Nam kỳ nhiều lần bị thay đổi cách phân chia hành chính.
1862 - 1867: Pháp kiểm soát được tỉnh Gia Định và chiếm được
toàn bộ Nam kỳ, duy trì cách phân chia của triều Nguyễn một
thời gian, dùng các quan lại cũ đã đầu hàng điều hành bộ máy
hành chính cũ.
1880: Pháp chia Nam kỳ thành 20 hạt.
1899: Pháp đổi “hạt” thành “tỉnh”. Nam kỳ có 20 tỉnh, trong đó
không có Sài Gòn, Chợ Lớn và Cap Saint Jacques. Hệ thống
hành chính cũ của nhà Nguyễn bị xóa bỏ hoàn toàn trên cõi
Nam kỳ.
1947: Pháp lập thêm tỉnh 21 là Cap St- Jacques (Tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu ngày nay)
Chia Nam kỳ thành 21 tỉnh là một thủ đoạn tâm lý của TD Pháp
nhằm xóa nhòa ký ức về “Nam kỳ lục tỉnh”, cắt đứt lòng lưu
luyến của người Việt với truyền thống. Nhưng “Nam kỳ lục
tỉnh” đã đi sâu vào đời sống của người Nam bộ.
5 Khi Nam kỳ trở thành thuộc địa Pháp, kinh tế xã hội Nam kỳ có
những thay đổi sau:
- TD Pháp ra sức biến biển lúa gạo Nam kỳ thành món hàng xuất
khẩu chính của Đông Dương. Nam kỳ trở thành xứ nông nghiệp
độc canh.
- TD Pháp tạo mọi sự dễ dàng cho giai cấp địa chủ chiếm càng
nhiều đất càng tốt và dựa vào nhóm người đó để cai trị.
Chính sách trên đã làm cho:
- Diện tích canh tác ở Nam kỳ phát triển nhanh, từ vài trăm ngàn
hecta đã tăng lên 2 triệu rưỡi hecta, xuất khẩu mỗi năm từ 1 triệu
đến 2 triệu tấn lúa.
- Phần lớn ruộng đất nằm trong tay thiểu số người, bộ mặt nông
thôn là người bần nông không đất hoặc là người bần nông có ít
đất. Tầng lớp trung nông ít và ngày càng ít, rớt mau xuống vị trí
bần nông tá điền.
- Nông dân vừa bị địa chủ bóc lột, vừa bị tư sản thương mại và
bọn cho vay nặng lãi bóc lột. Trung nông yêu nước, bần nông
bền bỉ chiến đấu đến cùng là sức mạnh quần chúng của các cuộc

36
khởi nghĩa chống thực dân. (Vụ Ninh Thanh Lợi, đồng Nọc
Nạn)
Tinh thần nghĩa hiệp, tính bộc trực không nhẫn nhục, ý chí đấu
tranh của nông dân Nam bộ đã được tập hợp và dẫn dắt của Đảng
Cộng Sản – vốn là một tổ chức có nhiều chương trình hành động
bênh vực quyền lợi cơ bản và quyền lợi thiết thực của nông dân:
giảm tô, chống thuế; tịch thu đất đai của Pháp, địa chủ chia cho
dân… Nông dân tin vào Đảng, góp phần lớn giúp tổng khởi
nghĩa tháng 8/1945 thành công.

37
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 1 GHI
1.4 NB THỜI KỲ MỸ CHÚ

VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN CŨ


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
1 Chủ đề 1.4. Nam bộ thời kỳ Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ
(1954 -1975)
Sau khi học phần này, các bạn sẽ có cái nhìn tổng quan về Nam
Bộ trong thời kỳ ngắn ngủi Nam bộ nằm dưới sự quản lý của
chế độ Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Nội dung phần học gồm:
1.4.1. Về tư tưởng, chính trị quân sự:
1.4.2. Về kinh tế
1.4.3. Về văn hóa, đời sống xã hội
2 Bối cảnh lịch sử:
Chúng ta đều đã biết rằng từ những năm 1948, Mỹ đã can thiệp
vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
1954: chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp ký hiệp định Genève.
Pháp phải buông súng, thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, từ
bỏ âm mưu tách Nam bộ ra khỏi VN, chấm dứt 100 năm cai trị
Việt Nam.
Từ viện trợ, cố vấn, Mỹ đã trực tiếp tham chiến, bắt đầu từ khi
nhóm quân viễn chinh Mỹ đầu tiên để bộ lên Đà Nẵng.
Mỹ nhảy vào miền Nam, hỗ trợ chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa, ra sức viện trợ để duy trì các đô thị theo mô hình Mỹ.
Trong bối cảnh này, diện mạo Nam bộ ra sao?

3 1.4.1. Về tư tưởng, chính trị quân sự:


Pháp và Mỹ đã lôi kéo 1 bộ phận khá lớn các giáo phái (Cao
Đài, Hòa Hảo, Công giáo di cư, hàng vạn tín đồ chống kháng
chiến, giết đồng bào, hoàn toàn xa lạ tinh thần tôn giáo). Nông
thôn ĐBSCL bị chia cắt thành những mảng kình địch.
38

4
Page

1.4.2. Về kinh tế:

38
Thực dân cải cách điền địa, thực chất là mua lại đất của địa
chủ, bán lại cho nông dân để giành được sự tín nhiệm của nông
dân; mang lại các giống lúa mới, vật nuôi mới, máy móc công
nghiệp để nông dân thấy sức mạnh của Thực dân.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng Cộng sản VN vẫn cứ bền bỉ trong
cuộc chiến dành dân cày, đem lại lợi ích thiết thực cho nông
dân, tạm cấp ruộng, chia đất giảm tô, chống chế độ Diệm, chống
càn, phá ấp chiến lược…
5 1.4.3. Về văn hóa, đời sống xã hội:
Phát triển và giao lưu thương mại giữa thành thị và nông thôn,
do nhu cầu cung cấp luơng thực quá lớn của thành thị và mấy
triệu quân Mỹ, quân của chính quyền SG cũ và Đồng minh. Sự
giao lưu này làm biến đổi một số nếp sinh hoạt nông thôn và
một số nếp tư tưởng của dân làng.
Lối sống Mỹ, văn hóa Mỹ du nhập và ảnh hưởng vô cùng mạnh
mẽ đến lối sống của người dân đô thị miền Nam.
Bằng con đường y hệt của nhạc trẻ phương Tây, tức là đi theo
sách báo và lính Mỹ, phong trào hippy đã lan qua Sài Gòn và
các tỉnh miền Nam như một thứ dịch. Những năm 1960, trong
đời sống của thanh niên ở Sài Gòn phổ biến phong trào Hippy,
vốn là phong trào phản kháng thực tại, chán chường cảnh chiến
tranh của sinh viên học sinh Mỹ, sau lan ra cả thế giới. Thanh
niên Sài Gòn cũng mặc quần ông loe, áo chim cò, để tóc dài và
thường xuyên tụ tập, phá phách, tạo nên những cuộc hỗn chiến
trên đường phố…
“Anh nào có râu rậm thì râu quai nón, băng buộc đầu, đeo
chuỗi hạt tình yêu. Con gái diện váy dài và đeo vài thứ lằng
nhằng như dân di – gan. Sau đó là ra đời kiểu cổ áo ba tà, nút
áo được cài từ trên cổ xuống đến tận eo. Sau khi ca sĩ Mai Lệ
Huyền bận mini jupe hát nhún nhảy trên truyền hình, đường phố
Sài Gòn tràn ngập mini của các cô. Kế đến là kiểu áo dài vạt
cực ngắn gọi là áo dài mini.
Xuân khá xưa, báo Xuân năm con Gà Kỷ Dậu 1969 khổ lớn
phần nhật ký cô con gái thì thể hiện một nếp nghĩ hiện đại của
một cô gái tân thời trong xã hội Sài Gòn giữa cơn lốc hưởng
39

thụ thời chiến tranh tao loạn. Cô gái mong đợi đến ngày mở tiệc
Page

bum - ban khiêu vũ Tết với đám bạn bè và lo mua sắm quần áo.
39
Đám bạn cô thì đi mượn nhà để mở tiệc khiêu vũ. Cô phàn nàn
là bị ông bố xé bức ảnh tứ quái Beatles treo ở phòng ngoài. Ông
càu nhàu: “Ảnh ông bà cha mẹ không treo, lại rước cái thằng
mủi lõ đầu bù ấy …” và cô chê ông bố là “quê” quá cỡ…
Dân hippy Sài Gòn, như những thân gỗ đã bị bật gốc gia đình,
vẫn trôi lững lờ trên dòng xã hội đầy sôi động. Đa số còn rất
trẻ, chán chường và lo lắng, đua đòi và thích hưởng thụ. Họ
không tin vào xã hội đương thời, chỉ tin vào tuổi trẻ của mình
… Một số người buông thả, vướng vào chích hút và tàn đời.
Nhưng rất may, hầu hết đã quay lại cuộc sống thực tế, không
tiếp tục thể hiện mình là “bất cần đời” nữa và quay lại trường
học sau một mùa hè rong chơi, tu tỉnh, quên đi một thời “yêu
cuồng, sống vội”. Lúc đó, trong mắt họ, hình ảnh gia đình và
quê hương hiện rõ dần lên.1.
6 Tiểu kết chương 1
Lịch sử văn hóa Nam Bộ gắn liền với lịch sử hình thành vùng
đất Nam bộ và tiến trình lịch sử của cả nước Việt Nam.
Bắt đầu từ thời kỳ văn hóa Đồng Nai; đến thời kỳ văn hóa
Óc Eo; rồi thời kỳ hoang sơ chờ chúa Nguyễn Hoàng vào khai
phá, xây dựng vương quốc Đàng Trong; cho đến thời kỳ các vua
nhà Nguyễn để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp…, văn hóa
Nam bộ đã có rất nhiều sắc màu phong phú. Đó là màu sắc tươi
mới của những cư dân văn hóa Đồng Nai, lập dựng cuộc sống
ở vùng đất bazan màu mỡ, sống trên các gò, đồi cao, dựa vào
thiên nhiên, nương nhờ các dòng sông, con suối; là sắc màu lộng
lẫy của cuộc sống vương giả, giàu sang và phát triển tột độ của
cư dân văn hóa Óc Eo - những cư dân biết cải tạo thiên nhiên ở
vùng đồng bằng, dẫn nước về tận nơi mình sinh sống; là màu
sắc hoang dã của Nam bộ sau 5 thế kỷ dìm lấp bao đền đài cung
điện nguy nga của vương quốc Phù Nam;…
Kéo dài đến tận ngày nay, những tinh hoa của văn hóa Pháp,
những dấu tích cùa văn hóa Mỹ vẫn còn lại trong đời sống của
người dân phương Nam…
Lịch sử văn hóa Nam Bộ là một câu chuyện dài rất thú vị.
40
Page

1
https://tongkhothocao.blogspot.com/2018/06/nho-lai-mot-thoi-hippie-tai-sai-gon.html

40
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 2 GHI
VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN NAM BỘ CHÚ

2.1. Văn hóa Ăn của cư dân Nam Bộ


1 Mục tiêu học tập chương 2
Sau khi học chương này, các bạn có thể hiểu được sâu sắc về văn
hóa Ăn, Mặc, Ở, Đi lại của cư dân Nam Bộ, từ xưa đến nay.
2 Chủ đề 2.1. Văn hóa Ăn của cư dân Nam bộ
Mục tiêu học tập chủ đề
Học xong chủ đề này, sinh viên có thể:
- Trình bày được điểm cơ bản trong văn hóa ăn uống của cư dân
Đông Nam bộ và Tây Nam bộ, bao gồm nguồn nguyên liệu, hương
vị đặc trưng, món ăn phổ biến trong đời sống tâm linh và đời sống
hàng ngày, quan niệm của người Nam Bộ về việc ăn uống, ý nghĩa
các món ăn,… (Người Việt là thành phần dân tộc chiếm đại đa số
ở Nam bộ, nhưng tạm thời chúng tôi xếp vào khu vực Đông Nam
bộ. Và ở khu vực này, do thành phần dân tộc rất phong phú nên
ngoài người Việt, chúng tôi chỉ giới thiệu thêm dân tộc Stieng, là
dân tộc có số dân tương đối nhiều ở Đông Nam bộ sau người Việt)
- Phân tích được điểm khác nhau cơ bản trong văn hóa ăn uống
của hai miền Đông và Tây Nam bộ.
Mô tả vắn tắt về nội dung:
2.1.1. Nguồn lương thực ở Nam bộ
2.1.2. Văn hóa ăn uống của cư dân Đông Nam bộ
2.1.3. Văn hóa ăn uống của cư dân Tây Nam bộ
3 2.1.1 Nguồn lương thực ở Nam Bộ
“Gia Định đất tốt lại rộng. Thổ sản có lúa gạo, cá mắm cây gỗ
chim muông” (Trịnh Hoài Đức)
a/ Lúa gạo:
“Đại Điền Gia Định đất đai màu mỡ sản lượng thóc gạo lớn hơn
bất kỳ vùng đất nào ở Việt Nam. Cho đến nay vùng đất từ Bình
Định trở ra Bắc luôn phụ thuộc vào thức lúa Nam kỳ. Khi giá
gạo ở Gia Định tăng cao, giá cả ở các vùng còn lại cũng tăng
theo” (Đại Nam thực lục)

41
Hò ơ Cái răng, Ba Láng, Vàm Sáng, Phong Điền
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê
“Chúng tôi đã ở giữa đồng bằng mênh mông lúa của vùng châu
thổ sông Mê Kông. Ruộng lúa không bị cắt bởi một rặng cây
nào, cũng không bị cắt rặng núi cắt ngang tầm nhìn, ngược lại
với vùng đồng bằng sông Hồng, nó tạo ra một cảm giác bao la
của vẻ đẹp lớn lao” (Charles Fourniau)
- Cho đến thời vua Minh Mạng, 1820, ở Nam bộ sản phẩm
lương thực đã rất dồi dào, cuộc sống dư dật. Các loại lúa lúc ấy
là lúa Móng chân, lúa Móng tay, lúa Tàu, lúa Thơm; nếp than,
nếp sáp.
- 10 năm sau, 1922, sản phẩm lúa gạo lại càng nhiều. Miền Nam
có 519 giống lúa khác nhau gồm 160 loại lúa sớm, 179 loại lúa
mùa, 87 giống lúa muộn, 52 loại lúa 34 tháng, 16 loại lúa nổi.
- Năm 1990 Nam bộ có 2000 giống lúa. Nhiều nhất là những giống
lúa có tên Nàng: Nàng Dâu, Nàng Lên, Nàng Hương, Nàng Bung,
Nàng Úc, Nàng Dụ, Nàng Ngọc, Nàng Út, Nàng Mè,... (54
Nàng. Trịnh Hoài Đức cho rằng đó là do người dân NB theo đạo
Phật và thờ Thần Nữ). Đặc biệt nhất là gạo Nàng Thơm chợ Đào.
Nếp cũng có nhiều loại: nếp Hương, nếp Dừa, nếp Ruồi, nếp
Thằng Bè, nếp Kiên,… (18 loại)
-Trước 1954 chưa có các loại lúa gạo nhập cảng vì miền Nam là
vựa thóc gạo, cũng chưa có các giống lúa khoa học như các loại
lúa Thần Nông.
- Sau năm 1975, tiến bộ về kỹ thuật giống giúp ĐBSCL đạt năng
suất gấp đôi so với trước 1975 (3,3 tấn/ha và sản lượng trung bình
đạt 7,6 triệu tấn/ năm) và phòng trừ sâu bệnh hiệu quả. Khâu giống
là khâu trọng yếu để thâm canh tăng vụ ở ĐBSCL.
- Các giống lúa đặc biệt chỉ có ở miền Nam:
Lúa trời: thời xưa được xếp vào hàng nông sản quý hiếm cao cấp,
dùng dùng trong những ngày đại lễ, cúng tế và làm đặc sản tiếp
khách.
Lúa sạ: nước cao bao nhiêu lúa cao bấy nhiêu, lúa không cần cấy
chỉ cần sạ. Người dân Nam bộ có sáng kiến cấy lúa hai lần để kìm
giữ cho quá trình phát triển của cây lúa chậm lại. Kỹ thuật này chỉ
có ở vùng Tây Nam bộ Việt Nam, duy nhất trên thế giới.

42
- Năm 2010 diện tích lúa cả nước là 7514 ngàn hecta, trong đó chỉ
riêng Tây Nam Bộ đã là 3970 ngàn hecta, chiếm 53%.
Cho đến nay, miền Nam, nhất là Tây Nam bộ không chỉ đáp ứng
đủ nhu cầu lúa gạo của cư dân trong vùng mà còn đóng góp nước
gạo cho dự trữ lương thực quốc gia và là nguồn xuất khẩu lúa gạo
duy nhất của cả nước.
→ Nghề trồng lúa ở Nam bộ, đặc biệt là ĐBSCL đã được thực
hiện bằng nhiều phương thức, nhiều kỹ thuật canh tác khác nhau,
rất linh hoạt, phù hợp với từng vùng sinh thái nông nghiệp.
- Từ gạo người Nam bộ chế biến những món ăn khác ngoài cơm
như hủ tiếu, bánh canh, bún, các loại bánh như Bánh Bò, Bánh Ít,
Bánh Tằm, Bánh Tráng, Bánh Phồng, Bánh Xèo, Bánh Khọt,
Bánh Lọt, Bánh Xếp,..
4 b/ Cá, thủy sản
- Cá:
“Ngành ngư nghiệp rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt
diệu và rất đặc biệt. Tôi đã đi qua nhiều đại dương, đã đi nhiều
nước nhưng tôi cho rằng không nơi nào có thể so sánh được với
xứ Đàng Trong” (Christophoro Borri)
Vùng sông ngòi đồng bằng sông Cửu Long có đến 200 loại cá,
trong đó 30 loại có giá trị kinh tế cao.
Người dân sống dọc biển thì ăn cá biển, nhất là cá Thu, cá Rô biển,
hầu hết người miền Nam thích ăn cá đồng, phổ biến nhất là cá Lóc,
cá Sặc, cá Rô, cá Trê. Đặc biệt là cá Linh.
Cá nhiều nên người Nam Bộ làm nước mắm, làm mắm và làm
khô. Ông Christophoro Borri so sánh người Việt Nam dự trữ nước
mắm trong nhà như thể người châu Âu dự trữ rượu trong hầm
lạnh để dùng cho cả năm.
Có rất nhiều loại mắm: người Khmer có mắm bò hóc, mắm lào le,
mắm poliang… Người Chăm: mắm salac, mắm gền, mắm cá lóc,
mắm pá… Người Việt: Châu Đốc mắm thái cá lóc, Đồng Thắm
mắm ruột cá lóc, Kiên Giang, Vũng Tàu mắm ruốc, Gò Công mắm
còng, mắm tôm chà,… Ngoài ra còn có mắm lòng, mắm tôm đỏ,
mắm cá linh, mắm cá lành canh, mắm cá trèn, mắm ba khía,...

43
Có rất nhiều loại khô: khô cá sặc, khô cá tra, khô cá bống kèo, khô
cá lóc; khô gộc, khô khoai, khô mực, khô cá thiều, tôm khô.
- Thủy sản:
Về thủy sản đứng đầu là tôm tép: Tôm Đất, tôm Châu, tôm Sú,
tôm Lửa, tôm Càng; Tép Muổi, tép Rong.
Kế đến là cua, còng, ba khía, ghẹ
Sau là lươn, lịch, ốc,…
5 c/ Thịt:
- Heo: “con heo đi theo cây lúa”.
Anh đau em vái tận tình
Vái cho anh mạnh, mở cửa đình cúng heo
Thịt heo kho tàu là món đặc trưng trong ngày Tết của Nam bộ.
- Gà: là nguồn thực phẩm của cư dân, cũng là một phẩm vật quan
trọng trong cưới, hỏi, cúng giỗ, lễ tết,…
Em vái Ông Tơ vài ve rượu thiệt
Em cầu Bà Nguyệt năm bảy con gà
Xui cho đôi lứa hiệp hòa
Sau em trả lễ đặng mà đáp ơn.
Chăn nuôi gà phổ biến, ¾ hộ có nuôi gà.
Trò đá gà rất phổ biến ở Nam bộ và được nâng lên thành nghệ
thuật.
Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Tân Châu.
- Vịt: Vịt và ghe xuồng là đôi bạn trên vùng sông nước.
Đi ra gặp vịt cũng lùa
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.
d/ Sản vật lạ:
Nam bộ nổi tiếng với các sản vật lạ như đuông, chuột, rắn, rùa (rùa
vàng) cá sấu, dơi (dơi Quạ, dơi Sen, dơi Hương), dế cơm, ong non,
cóc ếch, le le
Thương chồng nấu cháo le le

44
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen
6 e/ Rau củ:
Có nhiều loại rau, đậu, bầu bí, các loại củ, khoai, các loại thực vật
ngỡ như hoang dại như bông Điên điển, bông Súng, bông So đũa,
đọt cây Vừng, cây Sộp, cây Chùm ruột, cây Điều, …
f/ Trái cây:
Miệt vườn “thể hiện vẻ đẹp lộng lẫy của miền Nam... Tôi có cảm
giác như đang tham quan khu vườn Eden. Hãy tưởng tượng trên
một khu đất rộng rất nhiều cây ăn quả như cây cam, cây xoài được
tưới bằng những con lạch nhỏ, mang lại nước và sự tươi mát. Tất
cả không phải thành dãy thẳng hàng như để kiếm tiền mà là sự
tổng hợp hài hòa gắn liền hai yếu tố vẻ đẹp và sự phì nhiêu… Việt
Nam được đặc trưng bởi những cánh đồng lúa, nhưng nhờ có miền
Nam, nó còn là xứ sở của các vườn cây và hoa quả” (Fourniau
Charles)
“Dưa gang hay dưa nước rất to và rất tuyệt” (Cristophoro Borri)
- Sầu riêng: “Sầu riêng là một trong những trái ngon nhất hoàn
cầu, không thấy có ở đâu trừ ở Malacca, Borneo và mấy đảo xung
quanh (…) Khi mở ra thì xông mùi khó chịu như mùi hành
thối nhưng ở trong thì không có mùi và lại rất thơm ngon. (…)
Thiên chúa cao cả đã cho xứ này một trái hiếm gọi là sầu riêng”
(Cristophoro Borri)
“Các ông cố đạo tùy tình hình an ninh mà có lúc ở Cái Mơn, lúc
lên Nam Vang, có khi rút về tận Malaysia, để rồi khi trở về Cái
Mơn mang theo nhiều giống cây ăn trái mới như sầu riêng, măng
cụt, chôm chôm, bòn bon…” (Sơn Nam)
- Dừa: cây dừa gắn bó với người Tây Nam bộ cả cuộc đời; là biểu
tượng cho sự hiên ngang bất khuất; lá dừa lợp nhà; xơ dừa làm
thảm; thân dừa làm cột, làm máng, làm cầu; gỗ dừa làm ván lót
sàn; gáo dừa làm hàng thủ công mỹ nghệ; cái dừa làm dầu, làm
xà bông; nước dừa làm thực phẩm, ...
“Uống nước dừa xiêm hơn tiêm thuốc bổ”
Người Khmer đồng bằng sông Cửu Long xem dừa là loại quả có
nước tinh khiết không chỉ dùng cho ăn uống mà còn dùng trong
các nghi thức long trọng.

45
Ngoài những lương thực kể trên người Nam Bộ còn chủ động làm
ra nhiều loại thực phẩm bằng những phương thức phù hợp với điều
kiện môi sinh tại chỗ đó là hoạt động kinh tế vườn, hoạt động nuôi
trồng thủy sản, nuôi gia súc, gia cầm, …
→ Nguồn thực phẩm dồi dào và ổn định.
7 2.1.2. Văn hóa ăn của cư dân Đông Nam bộ
a/ Cách ăn uống của người Việt
Cơm là thành phần chất bột chủ yếu nhất thường xuyên nhất của
người Nam Bộ nói chung. Ngoài cơm, có nhiều món ăn đi kèm,
gồm có 3 dạng: Món cúng, món ăn cơm và món ăn chơi
Món cúng: gồm 4 món cơ bản là hầm, thịt luộc, xào, kho, tương
ứng với 4 món giò, nem, ninh, mọc của ĐB Sông Hồng và rượu
đế.
Hầm: thường là giò heo hầm măng Mạnh Tông, loại măng ngon
nhất của Nam Bộ. Luộc: thịt ba chỉ xắt mỏng. Xào: xào chua, xào
mặn với rau cải, đồ lòng, tuyệt đối không dùng thịt rừng. Kho: thịt
heo hoặc cá lóc kho nước dừa.
- Có một số món ăn được quy định thành luật lệ trong các lễ nghi
tôn giáo, tín ngưỡng. Ví dụ: Cúng Bà mụ trong lễ Đầy năm phải
có chè; cúng Ông Địa phải có chè trôi nước; cúng cô hồn phải có
muối, gạo, tam sanh (cua, trứng vịt, thịt heo luộc), vịt luộc, bánh
ú nước tro,…
Theo quan sát của nhà văn Sơn Nam, những năm 1990, người
Nam Bộ không cúng mắm nữa. “Phải chăng đó là dấu ấn của
người Chăm, người Khơ me, người Việt chỉ muốn giữ những gì
thuần túy của ông bà từ nhiều thế hệ trước, chứng tỏ gia đình mình
đã ổn định, có nề nếp chứ không còn ở thời kỳ du canh du cư lúc
mới khẩn hoang” (Sơn Nam)
Món ăn cơm:
-Thông dụng và đặc sắc nhất là mắm. Mắm cung cấp nguồn đạm
động vật cho bữa cơm hàng ngày của người lao động.
Người Nam Bộ ăn mắm với các loại rau sống.
Mắm có thể chế biến theo nhiều dạng: mắm sống, mắm kho quẹt,
mắm kho lòng, mắm chiên, mắm chưng, mắm nấu với các thực
phẩm khác.

46
Cá kho tộ: món kho là món ăn căn bản của người miền Nam, nhất
là dân chúng ở xa chợ, vì món này giúp ăn được nhiều cơm, dễ
kiếm dễ nấu.
- Canh rau, canh chua: “Định hình nhất vẫn là canh chua cá kho,
hai món này mãi đến nay vẫn còn đứng vững, qua thế kỷ thứ 21”
(Sơn Nam). Món canh chua thích hợp với vùng khí hậu nóng như
đồng bằng sông Cửu Long. Khí hậu vùng khẩn hoang khá khắc
nghiệt, bệnh sốt rét và cảm cúm thường hoành hành nên người ta
cần phải ăn nhiều và ăn món chua để có sức chống lại bệnh tật.
Anh đi Anh nhớ Tháp Mười
Nhớ canh bông súng nhớ nụ cười Mỹ An.
Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
Món ăn chơi – Món nhậu:
“Nhậu là tiếng thanh không gợi ý thô tục. Xem tự vị của Huỳnh
Tịnh Của năm 1896, “nhậu” ghi là uống!”…. “Uống rượu chẳng
có gì xấu, chỉ xấu khi đến mức thái quá lãng phí tiền bạc và sức
khỏe” (Sơn Nam)
Rượu không quan trọng bằng mồi nhậu. Nhưng mồi chỉ cần một
món để thưởng thức hương vị.
“Nhậu đòi hỏi phải hài hòa hữu cơ giữa rượu, món ăn, cọng rau,
nước chấm, dĩ nhiên có bạn tri âm tri kỷ” (Sơn Nam)
8 b/ Cách ăn uống của người S'tiêng
Nguồn lương thực chính của người S'tiêng là lúa gạo. Do gắn bó
với rừng, sống dựa vào rừng nên thức ăn của họ cũng lấy từ rừng,
mang nhiều yếu tố rừng: dùng thân tre nứa lồ ô để nấu ăn, dùng
một số loại trái cây và rau rừng: trái troòng, chuối rừng, lá niu, lá
buông, trái chôm chôm rừng, rau mướp đắng, lá nhau, đọt mây,
....
Các món ăn truyền thống:
- Món cơm ống (cơm lam): Nguyên liệu chính là gạo nếp hoặc gạo
tẻ, đậu xanh hoặc đậu đen. Đây là món ăn hàng ngày, là lễ vật
cúng bái Thần linh và làm quà tặng cho người tham dự lễ hội, tiệc
mừng.

47
- Thịt nướng: nướng nguyên con và nướng xiên que. Thường
không ướp gia vị nên giữ được hương vị tự nhiên của thịt (chấm
muối ớt giã nhuyễn với cây quế trắng hoặc ngò gai). Người S’tiêng
ưa thích thịt heo, thịt trâu nướng. Thịt heo nướng thường ăn với
cơm, thịt trâu nướng dùng trong các lễ hội truyền thống.
- Cá nướng: được dùng trong các bữa ăn hàng ngày.
- Đọt mây nướng: là món ăn yêu thích của người Stiêng, thường
được ăn trong gia đình, trong lễ hội hoặc dùng để tiếp khách. Món
ăn có một triết lý sâu sắc.
- Thịt trâu hầm lá lốt, mít non: thịt trâu có tính hàn, lá lốt có tính
nồng ấm, món ăn kết hợp âm dương rất hài hòa.
- Thịt ba ba nấu với bột gạo rang
- Canh thụt: nguyên liệu chính gồm thịt hoặc cá, cua nhỏ, tôm và
các loại cà, mướp, măng rừng. Vật liệu nấu là các ống tre. Món ăn
mang tính gắn kết cộng đồng rất cao, là món ăn hàng ngày và là
một món chính trong các lễ hội.
- Canh bồi: gồm bột gạo, thịt trâu làm mắm hoặc da trâu khô để
trên gác bếp, nấu chung với mướp mít non, rau dền hoặc măng.
- Mắm bò hóc: tiếp thu từ người Khmer, làm từ cá nước ngọt phơi
khô hoặc thịt trâu, thịt rừng đã nấu chín, cho vào các ống tre.
Rượu cần: không chỉ là thức uống đơn thuần mà còn là món uống
gắn liền với những điều thiêng liêng. Rượu cần là đặc sản và thức
uống không thể thiếu trong các lễ hội, được lưu truyền và giữ gìn
như một bảo vật của tiền nhân. Có hai loại rượu cần đắng và rượu
cần ngọt. Cả hai đều nồng độ cồn thấp, mùi thơm nồng, dễ uống.
Các món ăn của người S'tiêng có 2 hương vị đặc trưng là ngọt và
đắng, như triết lý cuộc đời phải trải qua thăng trầm thử thách thì
mới đạt được những điều tốt đẹp.
Đời sống người S’tiêng còn nghèo và lạc hậu nên nhìn chung các
món ăn đơn giản, thể hiện tính cộng đồng cao.
9 2.1.3. Văn hóa ăn của cư dân Tây Nam bộ
a/ Cách ăn uống của người Khơ Me
- Người Khơme nổi tiếng với món nổi tiếng làm mắm bò hóc.
Người Khmer dùng mắm bò hóc mỗi ngày: nêm vào hầu hết các
món ăn mặn để tạo nên hương vị đặc biệt, đậm đà dân tộc tính cho

48
món ăn; dùng để kho, chiên, chưng với cá rau. Đặc biệt người
Khmer rất mê món mắm sống trộn xả ớt bằm nhỏ, ăn với đậu đũa.
Từ mắm bò hóc, người Khơme đã làm nên món ăn đặc biệt là bún
nước lèo.
- Người Khmer rất thích làm mắm chua làm bằng tôm tép hoặc cá,
ăn với rau muống, rau chuối chát, uống cùng rượu đế được cất
bằng nếp hoặc gạo Nàng Thơm.
- Món cổ xưa của người Khmer là chả cá, chả tôm.
- Vị được ưa thích trong món ăn của người Khmer là chua, cay,
béo, nhất là vị chua → người Khmer là tộc người chế biến nhiều
món canh chua nhất, dùng các nguyên liệu rất đa dạng để tạo vị
chua như lá me non, trái bứa giây, trái khế rừng, cơm mẻ, xoài
bằm nhuyễn
- Hầu hết các món ăn mặn hay ngọt đều nấu với nước cốt dừa,
một công thức món ăn khá độc đáo mà không phải dân tộc nào
cũng chấp nhận được dễ dàng.
- Người Khmer cũng có các món ăn dân dã như cóc, nhái, lươn,
cá chạch chuột đồng, các loại ốc.
- Người Khmer rất tự hào về các loại bánh cổ truyền của dân tộc
vì nó chiếm một số lượng khá phong phú và vô cùng độc đáo.
Bánh ngọt có mặt trong tất cả các dịp lễ cúng bái theo phong tục
người Khmer.
- Người Khmer thường xuyên sử dụng đường thốt nốt và giải khát
bằng nước thốt nốt.
10 b/ Cách ăn uống của người Hoa
“Trong tất cả các dân tộc ở viễn Đông, chính người Hoa ở Đông
Dương ăn uống tốt hơn hết, thức ăn thay đổi nhất, khẩu vị tinh tế
nhất”. (Antoine Brebion)
- Ăn uống hàng ngày đơn giản nhưng yến tiệc thì phải có “sơn hào
hải vị”
- Vì quan niệm “thực bất cầu bão”, người Hoa thường thái nhỏ
các vật liệu để nấu các món ăn, không cần dùng dao nĩa vừa cắt
vừa ăn như phương Tây → đao pháp điêu luyện.
- Gạo là lương thực chính nhưng là loại lương thực hiếm vì vậy
người Hoa đã bổ sung thêm nguồn lương thực chế biến từ bột mì

49
như mỳ vằn thắn, mì sợi và chế biến những loại lương thực khô,
dự trữ nhiều ngày như bún, hủ tiếu, …
- Từng nhóm người Hoa có phong cách riêng. Người Quảng Đông
thường dùng nhiều dầu mỡ, người Triều Châu thích ăn mặn, người
Phước kiến thích ăn cay.
- Gia vị đóng vai trò rất quan trọng trong thức ăn của người Hoa.
muốn có mùi vị món Hoa phải có dầu hào, dầu mè , xì dầu, húng
lìu, giấm đỏ.
- Hầu như bếp ăn nào của người Hoa cũng phải có nồi nước lèo,
gọi là món lục, hầm từ xương heo hoặc cải bắc thảo để ngọt nước.
- Các món cổ truyền ngày tết là Bánh tổ, Lạp xưởng, Vịt lạp và
Giò heo hun khói, củ Cải bắc thảo, Trứng vịt bắc thảo.
- Nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long nổi tiếng với các loại
bánh của người Hoa như bánh pía Vũng Thơm, bánh in Cao Lãnh,
bánh mè láo Sóc Trăng.
- Người Hoa có nhiều món chè như: chè Mè đen, chè Đậu xanh,
chè Đậu đỏ táo khô, chè Hạt sen, chè Khoai môn và chè Khoai
lang, hầu hết đều là thức ăn mát bồi bổ cơ thể.
- Rượu là thức uống không thể thiếu trong bữa cơm, bữa tiệc, là
một nghi thức trong các mối quan hệ xã hội, phổ biến nhất là rượu
thuốc. Trà cũng là một thức uống thể hiện mối quan hệ xã hội về
vật chất lẫn tinh thần. Ở ĐBSCL, người Hoa Triều Châu có kỹ
thuật ướp trà lài nổi tiếng.
- Cách ăn uống của người Hoa là một loại biểu tượng văn hóa
nhằm biểu thị ý nghĩa tín ngưỡng, thái độ ứng xử, niềm ước mong,
tin tưởng của người dân“có đầu có đuôi”, “có trước có sau”; tên
các món ăn cũng gửi gắm nhiều ước vọng: “Hoa đẹp trăng tròn”,
“Cá gặp nước”, bánh Long Phụng, bánh Đào tiên, bánh Trường
thọ,…
- Trong sinh hoạt tín ngưỡng, thức ăn là lễ vật biểu hiện lòng thành
của con người dâng lên tổ tiên, thần thánh. Lễ vật cúng ở đền chùa,
trong cưới hỏi thường có con heo sữa quay.
- Người Hoa Thích bữa ăn đông vui, cả gia đình hoặc bạn bè thân
hữu cùng quây quần bên nhau. Người Hoa tin rằng ăn uống trong
tâm trạng vui vẻ, trong bầu không khí thân mật sẽ giúp thức ăn dễ
tiêu hóa, không hại cho tỳ, làm sảng khoái, dễ chịu cho thần kinh.

50
11 c/ Cách ăn uống của người Chăm
- Chịu sự chi phối của tôn giáo Islam: theo giáo luật Islam, tín đồ
không ăn thịt heo, ăn chay vào tháng Ramadal.
- Không cúng thức ăn cho người quá cố, (không khóc lóc trong lễ
tang) vì chết là được về với Thượng Đế.
- Cấm kỵ rượu bia với tín đồ Islam. Họ thích uống trà, trong
những ly to.
- Giữ tục ăn trầu dù giáo dục Islam xem trầu cau là món làm hôi
miệng.
- Vẫn giữ các món truyền thống là các món chua và cá (nướng,
nấu canh, nấu măng, hấp ăn với mắm nêm) giống như người Chăm
ở Trung Bộ.
-Trong các dịp cúng tế mang tính dân gian, gà luôn là con vật hiến
tế mang nhiều ý nghĩa và mục đích.
- Ảnh hưởng từ phong tục Ấn Độ và một số nông dân Khmer ở
Campuchia, người Chăm Islam có tập quán ăn bốc vì vậy món ăn
thường làm món khô, mâm cơm bày dĩa nhiều hơn tô.
- Món ăn chủ yếu và được yêu thích nhất của người Islam đều ảnh
hưởng món ăn Ấn Độ, có hương vị của chất cà ri hồi quế, chất
béo từ bơ sữa bò sữa dê và dừa.
- Bánh ngọt giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực ăn uống.
12 Nhìn chung, cách ăn uống của các dân tộc ở Nam bộ thể hiện
những đặc điểm sau:
1. Tận dụng các sản phẩm của thiên nhiên.
2. Ý thức ăn uống để chữa bệnh, để may mắn.
3. Trà là món uống thường xuyên hàng ngày trong mỗi gia đình
Việt, Khmer, Hoa Chăm.
4. Giao thoa văn hóa ẩm thực giữa 4 dân tộc:
- Người Hoa và người Việt, người Chăm Islam đều ăn mắm bò
hóc, ăn bún cá, các loại mắm của người Khơ Me; học của người
Khmer món canh chua;
- Người Hoa và người Khơ Me thích ăn Cá kho tộ của người Việt.

51
- Nhiều loại bánh của người Khmer được dùng rộng rãi trong cộng
đồng người Chăm như bánh Hột gà, bánh Bò nướng.
- Người Việt cũng nấu món cà ri của người Chăm ở Trung bộ,
Nam Bộ và bộ phận người Ấn sống lâu đời ở Nam Bộ; học người
Chăm miền Trung món Mắm nêm và bánh Gan.
- Người Việt có món bánh Bà ba nướng, chè Bà ba, học từ người
Bà ba ở Malaysia.
- Giao lưu với người Hoa, người Việt có các món Mì xào, Hủ tiếu
xào, Cơm chiên Dương Châu, Lẩu thập cẩm, Gà vịt tiềm thuốc
bắc, Vịt quay, Heo quay.
- Món cháo Triều Châu và Phước Kiến ăn với cá khô, trứng vịt
muối, dưa cải muối và cải tần ô dù chỉ được người Hoa xem là
món ăn đạm bạc của nhà nghèo cũng được người Việt ưa chuộng.
- Giao lưu với người Pháp, người Việt có dăm bông, gà, bò
ragout ăn với bánh mì.

52
STT NỘI DUNG GHI
CHÚ
CHƯƠNG 2
2.2. VĂN HÓA MẶC CỦA CƯ DÂN NAM BỘ
1 Chủ đề 2.2. Văn hóa Mặc của cư dân Nam bộ
Học xong chủ đề này, các bạn có thể trình bày được những nội
dung cơ bản của văn hóa Mặc, bao gồm chất liệu kiểu dáng, màu
sắc, ý nghĩa của các bộ trang phục đặc trưng của các dân tộc.
Mô tả vắn tắt nội dung
2.2.1. Văn hóa Mặc của cư dân Đông Nam bộ
2.2.2. Văn hóa Mặc của cư dân Tây Nam bộ
Cũng như trong văn hóa Ăn uống, phần phân chia theo hai khu
vực chỉ mang tính tương đối, vì người Việt có mặt ở cả miền Đông
lẫn miền Tây và thành phần dân tộc của mỗi khu vực lại có sự đan
xen rất độc đáo.
2 2.2.1. Văn hóa Mặc của cư dân Đông Nam bộ
a/ Trang phục của người Việt ở Nam bộ
Thời kỳ các Chúa Nguyễn
Khi chúa Nguyễn Hoàng mới vào Thuận Hóa, Quảng Nam thì y
phục, khí dụng cũng như phong tục của cư dân Việt còn giống ở
Đàng Ngoài: Phụ nữ mặc váy, yếm và áo tứ thân. Đàn ông đóng
khố.
Đến khoảng 1680, người Nam bộ thay đổi trang phục. Phụ nữ bỏ
mặc yếm và áo tứ thân để mặc áo năm thân cài khuy, thay kiểu
tóc bao (óc vấn) bằng kiểu tóc búi; thay thay váy bằng quần
dài…
Năm 1738 đến năm 1765, đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, trang
phục người Việt ở Đàng trong thay đổi một lần nữa:
Thường phục: đàn ông lẫn phụ nữ đều mặc áo cổ đứng ngắn tay.
Lễ phục: mặc áo cổ đứng tay dài, vải màu chàm đen hoặc trắng,
tất cả phụ nữ đều phải mặc quần, không mặc váy.
Thời kỳ Nhà Nguyễn

53
Sau khi nhà Nguyễn được thành lập, trang phục ở Đàng trong –
nhất là vùng Gia Định được xem là chuẩn mực, được các vua
Nguyễn ban chiếu nhiều lần để khuyến cáo cư dân Bắc thành noi
theo để cách ăn mặc được thống nhất ở cả ba miền.
Trang phục Phụ nữ: áo dài và quần. Đó là kiểu áo dài năm thân,
màu nâu sẫm hoặc màu chàm sẫm ngã sang màu đen mốc. Người
giàu đội nón ba tầm, chân đi guốc sơn hoặc hài cong, dép thêu
hay guốc xà cừ không quai; người bình dân thì đi chân không, đội
nón bẻ, nón lòng chảo.
Trang phục Nam giới:
Khi lao động mặc áo cánh ngắn (áo lá) bằng vải ta, cổ đứng, xẻ
giữa, cài nút; hoặc áo không có tay/ có tay kiểu của miền Trung.
Quần chỉ ngắn đến gối. Vào dịp long trọng hoặc trời lạnh mới mặc
quần dài. Quanh thắt lưng có một túi hổ phệ để đựng trầu cau
thuốc hút.
Khi dự lễ: người bình dân mặc áo dài đen quần đen đi chân đất.
Thành phần trí thức quan lại nho sinh (thế kỷ XVII - XIX) mặc
áo dài đen, cài khuy bên sườn phải, quần chùng trắng, bới tóc, đội
khăn đóng, đi hài.
Thời vua Tự Đức, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và đóng
khố, đi đâu mới mặc quần vải dài đến đầu gối. Người sung túc có
vài cái áo nâu đen và vài cái quần nâu. Vua cấm như vậy là có ý
muốn cho dân không quen thói xa hoa hoang phí, chỉ trừ những
người làm quan mới có đặc ân được ăn mặc hơn người.
Thời kỳ Pháp thuộc trở về sau:
- Ảnh hưởng phong trào Duy Tân 1906 - 1907, thanh niên tỉnh
thành Nam bộ bắt đầu cắt tóc ngắn, không còn búi tóc củ hành
nhưng họ vẫn tiếp tục mặc áo dài khăn đóng. Nhiều năm sau đó
thì chuyển sang mặc Âu phục.
“Đầu thế kỷ XX, chính dân Nam bộ đi đầu trong cả nước trong
việc canh tân trang phục theo mới” (Hoa Bằng)
- Ở tỉnh thành: áo dài của phụ nữ tỉnh thành Nam bộ ngày càng
sử dụng nhiều màu sắc tươi sáng, kỹ thuật cắt may ảnh hưởng thời
trang châu Âu nên đẹp và gọn hơn, càng ngày càng trở nên thanh
lịch, tươi mát.

54
- Ở nông thôn:
Từ 1930 - 1935: phụ nữ Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long vẫn
còn mặc áo dài thường xuyên, như một tập quán, kiểu áo rộng.
Đến 1945, áo dài thường nhật của tầng lớp phụ nữ bình dân ở
đồng bằng sông Cửu Long dần dần biến mất. Đó là thời kỳ suy
kiệt khiến người ta mặc quần áo vá chùm, vá đụp, vá quàng;
“Áo vá vai vợ ai không biết
Chứ áo vá quàng, chí quyết vợ tôi”
Và khi áo quần trở nên tả tơi, không còn gì để vá thì người Nam
bộ phải mặc bằng bất kỳ thứ gì có được như bao bố, bao tải thậm
chí sợi bàng đập dập, phơi khô đương thành quần áo.
Áo dài được thay bằng áo bà ba, mặc phổ biến đến tận ngày
nay. Đi cùng với áo bà ba là chiếc khăn rằn và cái nón lá.
3 b/ Trang phục của người Chơro
Trang phục phụ nữ:
- Trước đây, phụ nữ Chơ ro chỉ mặc váy quấn (xipút), ngực
để trần.
- Từ những năm 1950, phụ nữ Chơro bắt đầu mặc váy - áo và
đeo trang sức.
Áo (ao): Là loại áo ngắn chui đầu, không có tay, cổ áo (co ao)
có viền. Có hai loại áo: áo tay dài, bó, cổ vuông; và áo ngắn,
không tay, mặc ngoài váy.
Váy (mbần) là một tấm thổ cẩm nhiều màu sắc và hoa văn rực
rỡ. Các mảng màu hoa văn đường viền đường chạy theo chiều
ngang của tấm thổ cẩm.
- Từ 1960, phụ nữ Chơro có thêm một trang phục mới, ảnh
hưởng từ cách ăn mặc của người Kinh là áo bà ba, quần đen.
- Theo luật tục của người Chơro, trước đây khi đi dự lễ hội
cúng thần, các cô gái chưa chồng phải thực hiện nghi thức làm
thơm (hum huốc) và trang điểm.
Trang phục nam giới:

55
- Trước kia đàn ông Chơro đóng khố, cởi trần. Khố là trang
phục mặc thường ngày.Vải thổ cẩm làm khố được dệt từ các sợi
màu theo từng mảng màu khác nhau và tạo hình hoa văn.
- Đến những năm 1950, nam giới chuyển sang mặc quần ngắn
với áo. Đó là loại áo cổ vuông, không xẻ ngực làm từ tấm thổ cẩm
ngắn gập làm đôi.
- Nam giới không dùng khăn mà dùng một băng thổ cẩm nhỏ
quấn quanh đầu.
- Trước kia đàn ông để tóc dài và búi sau gáy.
- Họ thường đeo vòng cổ làm từ ngà voi xương thú hoặc gỗ.
Người Chơro tạo màu sắc cho trang phục bằng lá cây, vỏ cây,
rễ cây, củ, quả, đất bùn và màu của sợi bông tự nhiên. Màu chủ
đạo của trang phục người Chơro là 2 màu đỏ đen với nhiều sắc độ
khác nhau.
- Hoa văn trên trang phục của người Chơro có sự thống nhất
hài hòa, thể hiện tư duy thẩm mỹ và các mối quan hệ của họ với
thiên nhiên.
- Ngày nay y phục và đồ trang sức của người Chơro có nhiều
thay đổi theo xu hướng công nghiệp hóa, nhiều phụ nữ đã mặc
váy đầm cho họ và con gái, thanh niên thích mặc quần jean, áo
thun.

c/ Trang phục của người S’tiêng


Trang phục phụ nữ:
- Trang phục truyền thống của phụ nữ S’tiêng rất đơn giản: váy
cuốn cao lên ngực, vai để trần.
Váy (kanan) được may từ vải bông tự dệt màu đen, là một khổ vải
dài 150 cm, rộng 80 cm, hai đầu có tua. Trên thân váy trang trí
bốn mảng hoa văn nằm ngang, mô típ hoa văn nổi bật lên trên nền
đen.
- Khi mặc váy, phụ nữ S’tiêng thường quấn sát quanh thân người,
cao lên phía ngực thành hình váy ống, giống như kiểu váy của
người Giẻ Triêng.

56
- Ngày nay người S’tiêng đã mặc gần giống như người Kinh, các
loại vải tự dệt của dân tộc hầu như không còn nữa. Trang phục
dân tộc chỉ còn lại ở một số cụ già trong các dịp lễ hội.
Hoa tai (vê lốc): phụ nữ S’tiêng ưa dùng hoa tai làm bằng ngà voi.
Trang phục nam giới:
- Trang phục truyền thống của nam giới S’tiêng rất đơn giản, chủ
yếu là đóng khố, ở trần. Khố (tnong) thường dài từ 450 cm đến
480 cm, rộng 28 cm đến 30 cm, có nền màu xanh đen, dệt hoa văn
trang trí, hai đầu khố dệt màu đỏ, có tua.
- Trước đây, đàn ông S’tiêng để tóc dài, bới tóc thành búi, trang
điểm thành những búi màu và cài lông chim có màu sắc sặc sỡ.
- Hiện nay, nghề dệt của người S’tiêng bị mai một và gần như đã
mất hẳn, chỉ còn một số người nhà mặc khố trong những dịp buôn
làng tổ chức lễ hội truyền thống như đâm trâu, cúng thần lúa.
Ngày thường họ mặc quần áo như người Kinh.
4 2.2.2. Văn hóa Mặc của cư dân Tây Nam bộ
a/ Trang phục của người Khmer
Trang phục phụ nữ: do khí hậu vùng Nam Bộ thường xuyên nắng
nóng nên người Khmer chọn chất liệu vải mềm mỏng để may y
phục.
-Áo dài (ao giây/ srây, ao quyện/ wên) là kiểu áo chui đầu, may
bít tà, không xẻ nách, không cài cúc mà dùng nút buộc. Áo được
may bằng vải hoa màu đen gọi là vải xăng đầm, (vải Mỹ A). Trên
áo thường có các dạng hoa văn như hoa sen, bắp ngô, cành hoa.
- Áo sử dụng trong ngày thường gọi là ao giây, dùng trong lễ hội
đám cưới gọi là ao quyện. Ngày nay loại ao giây ít người mặc,
phần lớn phụ nữ lớn tuổi mặc áo bà ba đen giống phụ nữ Việt, các
cô gái trẻ thì mặc áo cánh hoa hoặc áo sơ mi. Ao quyện thì còn
được mặc trong các lễ hội và trong đám cưới của người Khmer.
- Áo ngắn: được may bằng vải phin, dạng cộc tay cổ vuông rộng.
Áo may chít nách và hơi xòe rộng ở gấu áo.
- Váy (xà rông) được may từ một mảnh vải thổ cẩm trên nền có in
nhiều họa tiết hoa văn đẹp. Ngày nay, phụ nữ vẫn duy trì hình
thức mặc váy. Chất liệu tơ tằm cùng hoa văn quả trám, hình hoa,
khiến váy người Khmer Nam bộ khác với các dân tộc Khmer

57
khác. Cách mặc váy đặc biệt (luồng giữa hai chân từ sau ra trước)
có thể coi là nét riêng của người Khmer Nam Bộ.
- Trang phục lễ hội truyền thống có đính hạt cườm hay kim sa lấp
lánh, kết hợp với hoa văn tinh xảo, gam màu khá sặc sỡ.
- Hai màu được ưa chuộng nhất của người Khmer là màu vàng và
màu đỏ vì nó không chỉ tôn thêm không khí hội hè mà còn rất phù
hợp với màu sắc trang trí kiến trúc của tôn giáo truyền thống.
- Cách đây 30 năm trang phục truyền thống trong ngày cưới của
cô dâu gồm có 9 món: mũ, dây buộc tóc, dây buộc trán, dây đeo
cổ, khăn quàng vai, áo dài, váy, dây buộc cổ tay, yếm.
- Ngày nay những bộ trang phục như vậy không còn nữa mà đã
được cắt may theo kiểu mới, cô dâu trong ngày cưới mặc váy màu
tím sẫm hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn chéo qua
người, để đầu trần hoặc đội mũ tháp nhọn nhiều tầng. Một số mặc
trang phục cưới như người Kinh.
Trang phục nam giới:
- Trong lao động và sinh hoạt hàng ngày nam giới Khmer thường
mặc áo, quần dài đi chân đất hoặc dép cao su.
- Trước đây, áo màu đen hoặc xanh cắt theo kiểu chui đầu, ngắn
tay, cổ thấp tròn xẻ ngực, cài nút. Quần may theo kiểu rộng giống
như quần của người Việt. Ngày nay áo quần kiểu truyền thống
này chỉ còn thấy ở người già vùng nông thôn, thanh niên mặc
trang phục hiện đại.
- Trang phục truyền thống của chú rể gồm có áo và váy. Áo: được
may theo kiểu bà ba. Váy: Trong xã hội cổ truyền của người
Khmer, nam giới, đặc biệt là tầng lớp quý tộc, nhất thiết phải có
chiếc váy.
Trang sức: đối với người Khmer, trang sức chứa một khát vọng
lớn lao về niềm vui và sức khỏe. Trang sức là vật không thể thiếu
trong đời sống của họ, trang sức là của hồi môn, có thể truyền qua
nhiều đời.
Ngoài trang sức, người Khmer có tục đeo bùa. Bùa có 3 loại: dây
cột tay (k’se chonkes), dây đeo cổ (k’se co) và dây thắt lưng (k’se
chonkes).
Khăn rằn (kama) phổ biến có hai loại: loại có hoa văn các đường
kẻ dọc ngang đỏ đen trắng, loại không có hoa văn, màu trắng. Từ
58
TK thứ 19 đến nay: nam giới, phụ nữ trung niên và người già
thường mặc bà ba đen, quấn khăn rằn
5 b/ Trang phục của người Chăm
Trang phục phụ nữ: gồm khăn đội đầu, áo và váy
1. Khăn đội đầu (khănh mờ om): là bộ phận rất quan trọng trong
bộ nữ phục, dùng trong ngày thường lẫn ngày lễ. Mỗi nhóm phụ
nữ Chăm có cách đội khăn khác nhau.
Người Chăm Nam bộ không cần giữ tục che mặt của phụ nữ tầng
lớp cao vì xã hội người Chăm không phân chia đẳng cấp, nhưng
tối thiểu khi ra đường luôn phải trùm khăn.
2. Áo: áo dài cổ truyền của phụ nữ chăm (áo táh) là kiểu áo dài
quá gối, rộng, may bít tà và cổ áo hình trái tim khoét rộng để có
thể mặc chui đầu, tay áo dài đến cổ tay, bó chặt, ngày nay chỉ mặc
vào các dịp lễ, Tết, ngày cưới, ngày thường thì mặc áo ngắn như
áo bà ba của người Việt hoặc áo sơ mi, áo kiểu. (Người Chăm ở
miền Trung thì mặc áo dài cả khi lao động)
Theo tài liệu thư tịch, vua Minh Mạng đã từng có sắc lệnh bắt
người Chăm phải thay đổi trang phục, ăn mặc như người Việt.
Đến đời vua Thiệu Trị thì người Chăm được phục hồi y phục và
các phong tục cũ, phụ nữ Chăm được mặc áo dài cổ truyền trở lại.
3. Váy (khănh): người già mặc váy mở (váy quấn), người trẻ mặc
váy kín (váy ống), dài đến gót chân.
Có ba loại váy, được phân biệt dựa vào nguyên liệu dệt cách thức
trang trí và phương thức sử dụng: loại dệt bằng tơ tằm giữ nguyên
sắc ngà của tơ dành cho phụ nữ lớn tuổi; loại dệt bằng chỉ kim
tuyến, chỉ bạc óng ánh (có thể ảnh hưởng từ y phục của phụ nữ
Malaysia) dành cho giới trẻ; loại làm bằng tơ tằm mịn, dệt công
phu những họa tiết và màu sắc đặc thù của người Chăm, có những
hình thoi màu vàng nổi trên làng lụa trắng xanh hoặc nâu đỏ, là
loại váy quý, dệt công phu, trước đây chỉ dành cho tầng lớp quý
tộc giàu có của người Chăm.
- Do giao tiếp văn hóa với các dân tộc cùng cộng cư, phụ nữ Chăm
ở An Giang cũng như ở Trung bộ, giống như người Việt, người
Hoa, Khmer ở ĐBSCL, thích dùng màu đen trong y phục, dù
đạo Islam rất kỵ màu này.

59
- Khi ở nhà, phụ nữ có thể mặc áo tay ngắn, nhưng váy vẫn phải
dài đến gót chân. Lúc có người lạ đến nhà hoặc đi ra đường phụ
nữ phải mặc váy với áo dài tay, và nhất định là phải có tấm khăn
choàng trên đầu.
- Làm đẹp:
Trước đây, người Chăm ưa chuộng các món trang sức bạc. Các
cô gái mới lớn đeo vòng cổ chân, trâm cài, thắt lưng, khuyên tai
bạc. Ngày nay người Chăm chuộng trang sức vàng.
Ngày tết dùng lá miềl nhuộm móng tay.
Dùng hoa mlih lấy hương thơm.
Tuân thủ theo giáo luật Hồi giáo các cô gái trong ngày thường rất
hạn chế dùng son phấn, ngày cưới là ngày duy nhất trong đời, các
cô được trang điểm lộng lẫy.
Trang phục nam giới:
Trang phục nam giới người Chăm ngày thường cũng như ngày lễ
đều có sự chi phối của tôn giáo Islam. Dù ở nhà hay lúc cầu
nguyện, nam giới Islam bắt buộc phải mặc y phục kín đáo từ trên
rốn xuống dưới gối.
Bộ thường phục của nam giới có mũ, áo và xà rông.
Mũ: tín đồ nam từ trẻ em đến người lớn đều phải đội mũ lúc ở
trong nhà và khi ra đường
Áo: Trẻ em và thanh niên ở đồng bằng sông Cửu Long thường
mặc áo sơ mi trắng hoặc áo thun ngắn tay.
Người trung niên thì thích mặc áo chêva. Đây là loại áo rộng, màu
trắng dài quá mông, cổ cao khoảng 3 đến 4 cm, từ cổ sẽ dập xuống
tới ngực áo cài khuy đồng, tay dài hơi rộng, hai bên sườn nách áo
có thể nối thêm miếng vải hình tam giác để thân áo thêm rộng rãi,
phía dưới may thêm 2 cái túi để đựng đồ dùng. Kiểu áo này có lẽ
được du nhập từ tín đồ hồi giáo ở Indonesia, Malaysia.
Váy (xà rông): nam giới Chăm thường mặc xà rông, rất ít khi
hoặc hoàn toàn không thấy mặc quần Âu.
Xà rông luôn phải dài tới cổ chân người mặc, may bằng vải mềm.
(Nhưng không được may hàng tơ vì tơ chỉ dành riêng cho phụ
nữ). Xà rông của nam giới thường dệt họa tiết kẻ sọc, phổ biến

60
nhất là loại hoa văn ô vuông to màu nâu đỏ tím, xanh lá cây, xanh
dương đậm.
Trong lễ cưới, trang phục chuẩn mực nhất là chú rể phải mặc
giống trang phục của một vị Heiji đi hành hương ở thánh địa, đó
là chiếc áo kơ rông màu trắng dài đến gót cùng với xà rông trắng,
trên đầu choàng khăn trắng dài đến thắt lưng và đội vòng ykal.
Chú rể cũng có thể sử dụng sử dụng trang phục cưới theo kiểu
phương Tây với điều kiện giữ lại và chi tiết nào đó trong bộ trang
phục liên quan tập tục Hồi giáo.
6 c/ Trang phục của người Hoa
Trang phục phụ nữ:
- Trang phục truyền thống của tầng lớp bình dân là bộ quần, áo
với chiếc áo ngắn, tay dài/ ngắn hoặc sát nách, có hò, cài cúc vòng
qua sườn phải, 5 nút thắt, cổ áo cao, mềm, xẻ tà hai bên hông hoặc
xẻ giữa, bên trong có một chiếc áo cánh trắng, có chiếc khăn tay
trắng thường được cài ngay hò để lau tay, lau mặt.
Quần giống quần cổ truyền của đàn ông, màu đen, đáy lá nem.
Chiếc quần của phụ nữ Hoa có kèm sợi dây lụa hai đầu có kết hai
miếng ngọc hoặc hai miếng đất cứng gọi là ngọc bội. Lúc mặc,
chiếc quần được kéo lên gần sát nách, người phụ nữ lấy sợi dây
lưng buộc ngang bụng, mối để trước bụng hai đầu kéo thẳng
xuống nhờ hai miếng ngọc bội, tấm vải lưng quần cuối cùng được
rút cứng, giắt mối trước bụng.
Vải áo luôn tốt hơn vải quần.
- Người Hoa có quan niệm thẩm mĩ tương tự người Việt. Giới trẻ
thích mặc y phục màu sắc rực rỡ vui tươi, thường có những sợi
chỉ kim tuyến, chỉ vải viền quanh bầu cổ, viền quanh hò, tà. Bộ
nút vải màu, thắt hình hoa, cầu kỳ hơn bộ nút của người lớn tuổi.
Người trung niên, lớn tuổi thì thích vải có hoa nhuyễn hoặc màu
nhã nhặn.
- Quê hương Triều Châu là vùng cao nguyên có nhiều rừng núi,
tổ tiên người Triều Châu là những người làm nghề lao động tay
chân, nên nhìn chung người Hoa gốc Triều Châu thích mặc những
bộ y phục sẫm màu, độ rộng vừa phải để tiện sinh hoạt. Người
Quảng Đông thì thích mặc những bộ y phục có màu tươi như quần
đen áo trắng, quần đen áo lam, quần đen áo hồng có hoa v.v.

61
- Ngày nay, chỉ còn một số phụ nữ lớn tuổi thích mặc áo truyền
thống của người Hoa, đa số phụ nữ Hoa thích mặc đồ bộ giống
người Việt. (Người Hoa mặc cả bộ đồ bộ vốn chỉ mặc trong nhà
này trong các dịp lễ, với vải tốt và đắt tiền hơn, có lẽ họ cho rằng
đây là bộ y phục cải tiến từ bộ y phục bình dân cổ truyền của họ
thôi).
- Kiểu tóc đặc trưng của người lớn tuổi tầng lớp bình dân là cắt
ngắn để thẳng vừa đến vai, rẽ ngôi giữa vén sau tai; người giàu
thì uốn tóc quăn hoặc búi tóc sau gáy, cài trâm nhưng không búi
tròn như người Việt mà ép dẹp xuống. Cây trâm bằng vàng hoặc
bạc có chạm trỗ, là vật bất ly thân. Ngày nay phụ nữ nhóm Hoa
Minh Hương mặc quần áo, bới tóc giống phụ nữ Việt.
- Khác với người Việt, phụ nữ Hoa có thói quen mang guốc hoặc
dép suốt ngày. Vào ngày lễ, tết hoặc khi dự tiệc họ thường mang
giày da.
- Phụ nữ Hoa có nhiều trang sức, người trẻ dùng trang sức nhiều
hơn người lớn tuổi. Họ thích các loại dây chuyền, chuỗi hạt hoặc
kiềng có chạm hình hoa mẫu đơn tượng trưng sự giàu sang, hoa
mai tượng trưng sự thanh cao, hoa sen tượng trưng sự tinh khiết,
con cá tượng trưng sự như ý. Trẻ con thường đeo dây chuyền mặt
hình cái khóa tượng trưng cho sự bình an. Do đời sống kinh tế
tương đối sung túc nên các loại nữ trang thường làm bằng vàng,
có loại khảm ngọc, khảm kim cương.
- Trang phục cưới: cô dâu người Hoa Quảng Đông mặc đồ áo cưới
màu đỏ gồm chiếc xiêm đỏ bằng gấm thêu, dài chấm gót và chiếc
áo ngắn bằng gấm ngũ sắc, cổ đứng, xẻ giữa, nút thắt to, tay áo
dài và rộng, để lộ chiếc áo trắng bên trong. Áo phùng xám (áo
thêu phụng).
Trang phục nam giới:
- Nam giới người Hoa lớn tuổi hoặc thành phần bình dân có trang
phục rất đơn giản. Trong nhà họ chỉ mặc quần lỡ, màu đen rất
rộng, dài đến gối, lưng cột dây rút và vấn tròn quanh bụng. (Người
giàu: dây nịt da to bản, mặt dây nịt làm bằng bạc hoặc nạm đá
quý) Khi lao động, mặc quần áo vải đen, áo xá xẩu cổ truyền: cổ
đứng, xẻ giữa, cài 5 nút thắt, lưng áo có đường nối. (Do vải dệt
lối thủ công, khổ hẹp, chỉ 0,40m-0,45m nên người Hoa và người
Việt đều may áo nối, kiểu đậu sống)

62
- Bộ trang phục của đàn ông người Hoa tầng lớp bình dân ở Nam
Bộ thường đi liền với chiếc nón được đan bằng mây hoặc bằng tre
rất nặng. Sau năm 1960, có một kiểu nón hình dáng giống như
kiểu nón lá của người Việt gọi là tức lối, vành rất rộng, đỉnh nón
có chỏm nhọn. Sau thay bằng nón cối nhựa có độ bền cao hơn.
- Người thuộc thành phần trung lưu thì mặc quần dài lãnh đen rất
rộng, áo xá xẩu bằng gấm, tay áo dài, cửa tay rộng, bên trong mặc
áo lót, đi giày gỗ hoặc hia gấm, đội mũ quả dưa hấu hoặc quả bí
màu đen.
- Trước năm 1911 đàn ông Hoa phải theo phong tục nhà Thanh
cạo bớt tóc xung quanh đầu để chỏm tóc dài thắt bím. Sau Cách
mạng Tân Hợi họ cắt bím tóc, xem cái bím là kết quả của sự nô
lệ nhục nhã, từ đó đàn ông người Hoa ở Nam Bộ cạo đầu trọc, đến
1930 mới để tóc ngắn theo kiểu phương Tây.
-Trang phục chú rể là bộ xiêm áo bằng gấm xanh, dệt chữ thọ
hoặc chữ phúc. Nếu áo có thêu rồng gọi là lùng xám. Trước ngực
đeo cái hoa to kết bằng lụa đỏ.
Ngày nay, cả nam và nữ người Hoa mặc quần áo bà ba đen và
mặc Âu phục theo kiểu giản dị. Một số người lao động ăn mặc
giống người Việt: áo thun ba lỗ, đi chân đất, mặc quần đùi, dây
lưng vải hoặc dây lưng thun. Nam giới người Hoa Minh Hương
có mặc quần trắng, áo dài the đen, đội khăn đóng như người Việt.
Người Hoa trung niên, lớn tuổi ở vùng đông người Khmer cũng
bắt chước người Khơme mặc xà rông ở nhà.
Cô dâu chú rể người Hoa cũng thích mặc Âu phục trong lễ cưới
hoặc kết hợp Âu phục với trang phục cổ truyền.

63
STT NỘI DUNG GHI
2.3 VĂN HÓA Ở CỦA CƯ DÂN NAM BỘ CHÚ

1 Mục tiêu học tập chủ đề:


Thông qua chủ đề Văn hóa Ở của cư dân Nam bộ, sinh viên biết
được các nội dung cơ bản về môi trường sinh thái của vùng Nam
Bộ (khi trả lời câu hỏi “Ở đâu”), tổ chức xã hội của cư dân Nam
Bộ (“Ở với ai”) và nhà cửa của người Nam Bộ (“Ở như thế nào?”)
Mô tả vắn tắt nội dung
2.3.1. Văn hóa Ở của người Việt ở Nam Bộ
2.3.2. Văn hóa Ở của các dân tộc khác ở Nam Bộ
2 2.3.1. Văn hóa Ở của người Việt ở Nam bộ
Trước tiên, như đã giới thiệu, chúng ta cùng tìm hiểu về môi
trường sinh thái của vùng Nam bộ, tức là trả lời câu hỏi “Ở
đâu?”
Tại vùng Đông Nam bộ:
Trong lịch sử, dân cư của miền Đông Nam bộ chỉ có 2 vùng
môi sinh chủ yếu: Vùng săn bắn và vùng hái lượm.
Vùng môi sinh săn bắn có giới hạn từ sông Đồng Nai, đến vùng
núi Bà Đen và núi Bà Rá, trở sang đất Campuchia hiện nay. Là
khu vực cư trú của nhóm người Anhđonediêng nói tiếng Môn-
Khmer cổ đại, mà con cháu có thể là nhóm người Mnông hiện
nay.
Vùng môi sinh hái lượm nằm về phía đông sông Đồng Nai kéo
dài về phía đông nơi cư trú của nhóm Chơro, Bà Rịa hiện nay.
Căn cứ vào những hiện vật đồng loại lớn cùng với những chiếc
khuôn đúc tìm thấy ở miền Đông Nam bộ người ta cho rằng nghề
đúc đồng đã xuất hiện, con người cổ đã sử dụng các dụng cụ bằng
đồng loại lớn để chặt cây chống thú dữ săn bắn và hái lượm sản
vật trong thiên nhiên để nuôi sống mình.
Tuy nhiên kéo dài nhiều thế kỷ, con người vẫn lang thang như
những loài động vật đi tìm mồi.
Đến khi con người tìm được lúa, biết chọn và thuần dưỡng
một số gia súc và cây lúa hoang để nuôi trồng cho những đám rẫy,

64
nền nông nghiệp nguyên thủy xuất hiện, con người mới bắt đầu
tổ chức môi trường sống cho mình.
Chủ nhân của văn hóa Đồng Nai đã chọn những nơi có thế đất
cao thoáng, giáp suối, gần sông, cây cối rậm rạp, có nguồn nước
vừa tiện dụng cho sinh hoạt vừa tiện lợi cho sản xuất.
Cư dân thuở ấy có truyền thống lập làng trên đồi cao, bên bờ
suối, tạo thành từng khu vực quần cư lớn, quy tụ nhiều di chỉ nơi
cư trú lại với nhau, thường là trên một khoảng đất rộng từ 1 đến
2 hecta. Lớp vật chất sinh hoạt của họ rất dày, gồm những vật
dụng, dụng cụ, nông cụ, đồ đựng. Chứng tỏ cuộc sống của người
dân văn hóa Đồng Nai đã ổn định. Họ không phải là những
người du cư triền miên.
Từ thời khẩn hoang đến nay, người Việt ở Đông Nam bộ sống
quây quần với nhau theo mô hình làng xã, vẫn còn nhiều ngôi làng
có lũy tre bao quanh, có cổng làng chắc chắn. Mỗi làng vẫn có
một ngôi đình làm nơi hội họp, sinh hoạt, thờ cúng chung. Những
ngôi nhà ba gian hai chái theo kiểu truyền thống như vậy vẫn còn
cho đến ngày nay. Gian giữa vẫn là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, có
phản gỗ dành cho chủ nhà và bàn ghế tiếp khách; hai gian hai bên
là giường tủ cho các thành viên nam. Không gian dành cho các
thành viên nữ và cất giữ lương thực vẫn kín đáo sau các tấm vách
của hai gian chái. Căn bếp trong gian nhà phụ vẫn là nơi để nông
cụ, cối xay, cối giã, và không xa đó là cái chuồng trâu…
Từ thời mới khẩn hoang cho đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20,
kiểu nhà ở Đông Nam bộ hầu như vẫn cố định: nhà nằm giữa,
khuôn viên trước là sân, xung quanh là vườn...
3 Ở Tây Nam bộ:
So với Đông Nam bộ, vùng Tây Nam bộ có môi trường sinh thái
rất đặc biệt, nên văn hóa Ở của cư dân có nhiều điều khác hoàn
toàn so với vùng Đông Nam bộ. Vì vậy, phần trình bày cần phải
chi tiết hơn, như sau:
Môi trường cư trú:

65
Từ cảnh trí thiên nhiên và môi trường sinh thái đa dạng phức tạp,
(các nhà nghiên cứu chia thành 7, 9 hoặc 5 tiểu vùng sinh thái1),
người Việt ở Tây Nam bộ đã lập nên những vùng quần cư là
những miệt giồng, miệt vườn, miệt kênh, miệt cù lao, miệt thứ,
miệt dưới, miệt trên,… tên gọi rất dân gian mà cũng rất khoa học,
hoặc cảm tính, mỗi miệt có những đặc điểm địa hình kinh tế dân
cư riêng.
- Miệt vườn là vùng đất phù sa màu mỡ, vùng cư trú đông nhất,
trù phú nhất ở Nam bộ, là vùng cư trú đặc trưng ở đồng bằng sông
Cửu Long: Cao Lãnh (Đồng Tháp), Cái Bè, Cai Lậy, Mỹ Tho
(Tiền Giang), Bình Thủy (Cần Thơ). Nơi đây, làng xã chạy dài
phân bố ven sông rạch, ven đường cái, không có lũy tre bao bọc
như ở Đồng bằng Bắc bộ. Miệt vườn thuận lợi về giao thông
đường bộ lẫn đường thủy, có thể canh tác cả lúa lẫn vườn cây ăn
trái nhờ có nước ngọt quanh năm. Miệt vườn cũng phù hợp để
sinh sống vì đáp ứng được quan niệm phong thủy lấy sông rạch,
vườn cây làm tiêu chuẩn, đem lại sự thoáng mát cho nơi cư trú.
Gái miệt vườn giỏi về nữ công, trình độ cao hơn gái quê.
Đất vườn cao giá hơn đất ruộng.
Miệt vườn tiêu biểu cho hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần
cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Các từ ngữ quen thuộc: về
vườn, gái vườn, công tử vườn, bắp vườn, nhà vườn…
Chuồn chuồn bay thấp
Mưa ngập ruộng vườn

1
Dựa vào 3 tiêu chí: độ cao, chất nước, độ kín hở trong quan hệ tiếp xúc với biển, Trần Ngọc thêm phân
biệt 5 tiểu vùng ở vùng Tây Nam bộ gồm có:

Vùng phù sa ngọt: vùng nước ngọt chiếm ưu thế, gồm miệt phù sa và miệt cù lao theo cách gọi dân gian

Vùng giòng Duyên Hải: nước mặn chiếm ưu thế tương ứng với miệt giồng…

Vùng Ngập hở: trũng thấp, nước từ chua đến mặn.

Vùng ngập kín: là vùng trung thấp, độ chua cao nhất - miệt kinh

Vùng ngập mặn: trũng thấp, nước mặn chiếm ưu thế - miệt U Minh, miệt Thứ

66
Nghe lời nói lại càng thương
Thương em anh muốn lập vườn cưới em
- Miệt kinh là miền đất ở mạn bắc sông Tiền, thuộc Đồng Tháp
Mười. Đây loại hình cư trú ở vùng ít hoặc là không có sông, phải
đào kênh để dẫn thủy nhập điền và lưu thông. Kênh đào đưa lại
nguồn nước sinh hoạt, cho cây trồng, cũng là con đường giao lưu
nội vùng, ngoại vùng.
Sống ở đây người dân phải thích ứng với điều kiện môi sinh khắc
nghiệt của vùng đất phèn với những cánh đồng lúa ngập nước bát
ngát nên cư dân chủ yếu sống bằng lúa sạ, đánh bắt thủy sản, thu
hoạch lâm sản. Nhà cửa ở rải rác ven kinh hoặc trên các gò nổi
giữa vùng đất chua phèn, cư dân sinh sống trong từng ấp nhỏ,
tạo thành những ốc đảo xanh tươi giữa vùng nước mênh mông.
- Miệt thứ: nằm trong vùng U minh thượng (không phải là vùng
tứ giác Long Xuyên), ở phía nam Rạch Giá. Trước đây là vùng
đất còn hoang dã nghèo nàn. Mãi từ năm 1910 mới bắt đầu rải rác
có người Việt đến sinh sống. Đây là vùng có các con rạch đổ ra
vịnh Thái Lan, chảy ngang dọc như “cựa gà”. Mùa mưa ngập
nước, mùa khô nứt nẻ. Dân cư tập trung dọc theo các đường kinh
nước ngọt, ven các lung lạch/ kênh rạch. Nhà cửa vùng này thưa
thớt, mỗi nhà cách nhau hàng cây số, không cần hàng rào, cửa
ghõ, xóm làng không biết đâu là ranh giới, trải dài.
- Miệt giồng: Là vùng đất ở mạn đông của châu thổ Sông Cửu
Long. Nơi đây có nhiều giồng đất chạy dài theo đường bờ biển cổ
từ Long An đến tận Sóc Trăng. Dân cư quy tụ trên đất giồng
cao thoáng. Giữa giồng là đường lộ chung, hai bên lộ là khu
cư trú gồm nhà cửa, vườn cây ăn trái và ruộng rẫy. Từ chân
giồng ra ngoài là vùng đất thấp, đầm lầy, mương rạch được cải
tạo để trồng lúa nước, làm nông nghiệp. Các công trình công cộng
như đình chùa miếu phần lớn được xây dựng ở đầu giồng gọi là
đất “đầu rồng”. Miệt giồng là khu quần cư thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế nông nghiệp ruộng vườn và cho cuộc sống của thôn
dân.
- Miệt cù lao: là vùng đất cư trú trên đất cù lao nằm giữa sông
Tiền sông Hậu, trải dài từ Tân Châu xuống Mỹ Tho, Bến Tre.
Khu quần cư này tựa như những ốc đảo nổi cao, bốn bề là
sông nước. Nhà cửa thường được cất ven rìa cù lao, gần mé sông

67
rạch, gần nguồn nước, vừa mát mẻ vừa tiện đi lại. Bên trong cù
lao là đất ruộng màu mỡ. Các hoạt động kinh tế vườn cây trái,
nông nghiệp, nuôi gia cầm và thủy sản đều rất thuận lợi. Nhờ kỹ
thuật đắp bờ bao mà quỹ đất nông nghiệp, thổ cư ngày càng tăng.
Khu dân cư ở đây có không gian hoạt động thật rộng rãi, phương
thức nông nghiệp đa dạng: vườn cây - ao cá - đàn vịt - ruộng lúa
- thương phẩm.
- Miệt U Minh: U Minh là tối và mờ, u u minh minh, cõi U Minh
là cõi âm phủ. Đây là vùng rừng ngập mặn ở ven biển Tây Nam.
Trong công cuộc khai phá lập làng, vùng này là gian truân
nhất. Người đến lập nghiệp ở đây đã cảm nhận được điều đó.
Mắm trước, đước sau, tràm theo sát
Sau hàng dừa nước, mái nhà ai.
Câu ca dao chỉ ra sự phân bố của hệ sinh thái thực vật gắn liền với
chế độ nước trong vùng. Phía trước giáp biển, nước mặn, chỉ có
cây mắm sống được; tiếp vào sâu hơn là cây đước mọc thành rừng,
rồi đến tràm, nước đã bớt mặn, sau hết là rừng dừa nước. Từ rừng
dừa nước trở vào nước hết mặn, cuộc sống đồng nội mới có điều
kiện môi sinh để bắt đầu phát triển mở rộng. “Mái nhà ai” chính
là sự ghi nhận khả năng một khu vườn cư hình thành, song song
với quá trình đào kênh lên liếp, thau chua rửa mặn.
Khu dân cư ở đây sống chủ yếu bằng nguồn lợi thủy sản lâm
sản; nông nghiệp khó phát triển. Nhà ở đơn sơ, cuộc sống vất
vả cơ cực hơn các vùng khác.
- Miệt trên: giáp vùng đất Đông Nam Bộ, có thế rất cao gồm nhiều
đồi gò có địa hình bán sơn địa. Nguồn nước ngọt dồi dào vào mùa
mưa nhưng lại thiếu vào mùa khô, nên nông nghiệp chỉ phát triển
thuận lợi vào mùa mưa. Ở đây có nhiều rừng già, việc khai thác
lâm sản phát triển. Khu dân cư phân bố trên bề mặt phù sa cổ,
theo mảng hoặc nằm thành tuyến theo đường uốn lượn của các
địa hình đồi gò phù sa cổ đất đỏ Bazan, gần nguồn nước sông hoặc
suối đầm, hồ nước, có vườn cây ăn trái, ruộng rẫy, hoa màu. Dân
cư vùng này không đào kênh lên liếp như ở châu thổ Cửu Long.
Miệt trên là khu vực Bắc Sông Hậu, Long An, Tiền Giang, Bến
Tre, Vĩnh Long, người dân chủ yếu làm vườn, có điều kiện học
hành tốt hơn, kinh tế tốt hơn người dân ở Miệt dưới.

68
- Miệt dưới là khu vực trồng lúa Nam Sông Hậu, Cà Mau, Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ.
Ngoài các miệt lớn nói trên, người dân Nam bộ còn có nhiều miệt
khác như: miệt Bảy núi, nơi có nhiều núi đá hoa cương có địa hình
phức tạp, miệt Mỹ (Mỹ Tho), miệt Vãng (Vĩnh Long), Miệt Cao
Lãnh, Miệt Chợ Thủ, Miệt Ông Chưởng,...
4 Và bây giờ ta tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ở với ai?” các bạn nhé.
Ở Bắc bộ, Đông Nam bộ, làng xã chi phối mọi hoạt động của các
thành viên trong làng, con người sống và quan hệ với nhau theo
lệ làng, theo hương ước; ở miền Nam từ thời khẩn hoang, con
người đã sống kiểu tự do “chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn”
nên lệ làng và hương ước không có.
Người Tây Nam bộ cũng cùng nhau mở làng lập ấp nhưng thành
phần dân cư trong làng dễ biến động, mức độ tứ xứ cao, quan hệ
cộng đồng trong làng rất lỏng lẻo.
Ở Đồng bằng Bắc bộ con người phải gắn bó với nhau theo đơn vị
là vì cuộc sống ở đây chỉ có một nghề làm ruộng nước, lệ thuộc
nhiều vào thiên nhiên, con người phải gắn bó chặt chẽ với nhau
theo quy mô làng mới đủ sức tưới nước tiêu nước đắp đê chống
lụt cái cần cho kịp thời vụ.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, cuộc sống quá dễ dàng làm nghề
gì cũng sống được; con người lại sống chung với lũ, hòa nhập với
thiên nhiên, không cần đắp đê chống lụt, không cần phải hỗ trợ để
cấy gặt cho kịp thời vụ, vì vậy nhà này ở cách xa nhà kia, thậm
chí không có láng giềng hàng xóm. Vì vậy nhìn chung ở Nam bộ,
vai trò của Gia đình quan trọng hơn Làng.
Gia đình, Gia Tộc - Dòng họ:
Ra đi đến vùng đất mới theo từng tốp nhỏ lẻ nên Gia tộc không
thể mang theo. Gia tộc, dòng họ đã trở thành quá khứ, là cái để lại
ở quê quán miền Trung.
Ở Tây Nam bộ Gia đình mạnh hơn Gia tộc.
Gia đình cũng mạnh hơn cả làng.
Không có Gia tộc nên vị trí người trưởng tộc, trưởng họ cũng
không còn.

69
Quan hệ họ hàng không có, hoặc nếu có thì cũng mong manh, dù
sâu thẳm người Tây nam bộ vẫn hướng về dòng họ: “Người mà
không biết họ hàng/ Cô đơn hiu quạnh xóm làng dễ khi”
Người ra đi phần lớn thuộc hàng bình dân, chữ nghĩa ít nên hầu
như không có việc ghi chép và lưu truyền gia phả của dòng họ.
Chỉ cần một thế kỷ trôi qua người Việt Tây Nam bộ đã không còn
biết nguyên quán của mình ở đâu.
Liên kết các dòng họ chỉ có thể truy đến đời sơ là cao nhất.
Sống trong môi trường tự nhiên hoang sơ, luôn phải đối phó với
nguy hiểm, con người càng có nhu cầu được gắn bó với gia đình:
“Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu” và
người Nam Bộ lấy làm mừng khi thấy “Làm sui một nhà biết ra
cả họ”.
Những dòng họ có điều kiện thì tụ họp sống quần tụ ở một khu
vực rộng và mở để tiện bề nương tựa lẫn nhau.
Ở một số nơi, những người mang cùng một Họ tập hợp nhau thành
lập các cơ sở thờ tự riêng gọi là Miếu họ và quy định lấy một ngày
trong năm làm ngày tế tổ, những ai mang cùng một Họ sẽ tới cùng
làm lễ.
Trong Gia tộc, các mối quan hệ rất nhẹ nhàng, do không có những
ràng buộc chặt chẽ mang tính lễ nghi phong tục như ở miền Bắc
miền Trung. Người Tây Nam bộ có xu hướng thân tình với bên
họ mẹ, bên ngoại.
“Con chim se sẻ, nó để cột đình
Bà ngoại đẻ má, má đẻ mình em ơi”
“Con sa nhà má, con rạ nhà chồng”...
Làng: (thôn)
Quá trình hình thành và phát triển của một thôn làng Nam bộ: một
nhóm nhỏ cư dân (thường là người có quan hệ huyết thống hoặc
cùng một dòng họ) tới một địa điểm mới định cư, khai hoang, đầu
tiên là lập xóm → phát triển dần thành ấp → các ấp liền nhau với
đủ các quan hệ huyết thống, không quen biết hợp lại thành thôn
hay là làng.
Muốn lập thôn làng, phải có người đứng ra làm đơn, khai rõ số
dân, số diện tích đất đã khai khẩn, vị trí cùng ranh giới của làng.

70
Quan trên sẽ cho người xuống xác minh rồi tâu lên triều đình.
Làng chỉ được coi là hình thành khi có lệnh của triều đình cho
phép lập thôn làng và chuẩn y tên thôn làng.
Người có công khai hoang đầu tiên và xin phép lập thôn làng lúc
sống được làm hương chức, khi chết được tôn làm Tiền hiền khai
khẩn;
Người có công lập chợ, làm cầu, đắp đường, sau khi chết được
phong làm Hậu hiền khai cơ;
Người có công khai hoang mở thêm ruộng được phong làm Hậu
hiền khai canh
“Đời Tự Đức ở Nam kỳ lục tỉnh, nhà nước khuyến khích lập làng
để thúc đẩy khẩn hoang, thu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập
làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu hay dân nghèo. (Sơn Nam)
Người quy tụ được 100 hộ được phong là bá hộ - Bá hộ Huy
Người quy tụ được 1000 hộ được phong là Thiên Hộ -Thiên Hộ
Dương
Ở Tây Nam bộ vai trò của Làng xã đã được thay thế bằng vai trò
của gia đình - nhà: “việc nhà việc nước”, khác với Bắc bộ: “việc
làng việc nước”.
5 Và bây giờ là câu trả lời cho câu hỏi “Ở như thế nào hay Nhà ở
ra sao?”
Nhà ở:
Ở miền Đông Nam bộ, kiểu nhà ở của người dân còn giữ nhiều
dáng dấp cơ bản của miền Bắc, miền Trung. Dần về phía Tây Nam
bộ, kiểu nhà có một ít biến đổi cho phù hợp với điều kiện tự nhiên,
môi trường sinh thái.
Và đặc biệt, vì nhiều lý do, vùng Tây Nam bộ còn có những kiểu
nhà khác hẳn các vùng khác trên cả nước.
Nhìn chung, về Cấu trúc của ngôi nhà của người Việt ở Nam bộ:
Phân loại theo loại hình nhà, có bốn loại: nhà đất, nhà sàn, nhà
nửa sàn nửa đất, nhà bè.
Nhà đất: Cột kèo, rui, mè làm bằng cây tre, cây đước, cây tre, thân
cây dừa; mái và vách bằng lá dừa nước chằm lại. Nhiều nhà chỉ
lợp một mái. Nhà đơn sơ có một gian, có thêm cái nhà nhỏ bên

71
cạnh để làm bếp. Nhà khá hơn có thể 2 hoặc 3 gian, gian ngoài
đặt bàn thờ, tiếp khách và cũng là chỗ ngủ của đàn ông. Gian trong
là nơi ngủ của đàn bà và là chỗ để vật dụng gia đình.
Nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất: cấu trúc tương tự loại nhà đất, cột
nhà đa số bằng cây tram, cây đước hoặc cột bê tông. Sàn nhà làm
bằng thân cây dừa, tràm hoặc bằng ván ghép lại.
Phân loại theo mặt bằng sinh hoạt, có 5 loại: Nhà Chữ Đinh (và
các biến thể), nhà Sắp đọi (và các biến thể), nhà Chữ Công; nhà
Không chái (không hiên) và nhà Có chái.
Nhà nghèo thường là nhà không chái hoặc là nhà một hai gian,
cộng với một chái. Nhà khá giả thường có nhà trên 3 gian, nối với
nhà dưới theo kiểu nhà nối đọi hoặc nhà chữ Đinh.
Phân loại theo vật liệu xây dựng, có hai loại:
Nhà thô sơ: khung sườn làm bằng gỗ tạp tại chỗ; mái nhà bằng lá
dừa nước, vỏ cây mốp; vách nhà làm bằng lá dừa nước, lá buông,
tre; nền nhà làm bằng đất nện.
Nhà bán kiên cố và kiên cố: khung sườn làm bằng gỗ tốt chắc;
mái nhà bằng mái tôn ngói; vách nhà bằng ván ép, gạch đá; nền
nhà bằng gạch Tàu, xi măng, gạch bông.
- Về vật liệu xây dựng và kiểu dáng, nhà ở Đông Nam bộ còn
giống nhà ở Trung Bộ hơn nhà ở vùng Tây Nam Bộ:
Vách đất, mái lợp tranh, rạ, bàng; ở miền Tây Nam bộ thì dùng lá
dừa để làm vách lợp mái.
Vị trí chuồng trâu được phân bố gần sát bên cạnh nhà trên, thậm
chí gian chuồng còn vượt lên một khoảng về phía trước so với nhà
trên, do quan niệm xem trọng vai trò của sức kéo trong nông
nghiệp, cũng do thói quen từ thời khẩn hoang, chuồng nằm trong
tầm quan sát để trâu bò tránh bị mất trộm và bị thú dữ trong rừng
bắt hại. Nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long thì chuồng trâu bò đặt
rất xa phía sau nhà ở.
Nhìn chung về nhà ở của người Việt ở Nam bộ:
 Kế thừa kết cấu kỹ thuật nhà ở miền Trung nhưng không
còn nguyên vẹn, có cải tiến.
 Chức năng nhà: để ở và thờ tự, một số nhà buôn bán.

72
 Nhà trên và nhà dưới được phân biệt rõ rệt về không gian
vị trí và chức năng.
 Nhà sàn, nửa sàn nửa đất phù hợp với vùng sông nước là
nét đặc trưng của văn hóa Ở của miền Nam.
 Nhà thô sơ chiếm số lượng rất lớn, bởi nhiều lý do:
Người Việt vốn coi trọng cái nhà, thế nhưng ở Tây Nam bộ từ thế
kỷ thứ 17 cho đến những năm 1950, 1960, người dân vẫn sống
tạm bợ trong những ngôi nhà tồi tàn, lụp xụp. Nhiều người vẫn
phải sống trong những cái nhà đạp, nhà đá, nghĩa là thể muốn đi
chỗ khác là có thể đạp, đá bỏ, hay những cái nhà/ túp lều bằng cây
lá xiêu vẹo.
Thứ nhất, do cuộc sống của người lao động khai hoang không ổn
định, nay tạm dừng chân chỗ này, mai mai lại ra đi do nạn cường
hào ác bá hoặc do không hợp thủy thổ, do điều kiện làm ăn khó
khăn.
Thứ hai, vùng đất mới sình lầy nên không chắc, vật liệu kiên cố
hiếm hoi vì vậy muốn làm một cái nhà vững chắc thì ngay cả tá
điền hạn trung cũng không dễ thực hiện.
Vả lại thời bấy giờ đất đai đều thuộc quyền sở hữu của Điền chủ,
nông dân không thể cất một cái nhà đàng hoàng trên đất của người
khác.
Sau 1950 - 1960, chế độ Điền chủ bị xóa bỏ, nhân dân Nam bộ đã
có đất có vườn riêng, nhà ở được tái thiết và nâng cấp rõ rệt. Ở
những nơi vùng đất quá thấp thì người ta cố gắng đắp một cái nền
thật cao để có thể xây nhà bán kiên cố hoặc kiên cố trên đó.
Sau 1975, từ khi đất nước chấm dứt chiến tranh đến nay, cuộc
sống người dân ổn định và sung túc hơn, số lượng nhà đạp, nhà
đá đã giảm đi rõ rệt, nhà kiên cố, bán kiên cố ngày càng nhiều.
Tuy vậy, nhìn chung, người miền Nam vẫn không xem trọng việc
phải có một cái nhà vững chắc như người miền Bắc, miền Trung;
không chắt chiu, nhịn ăn nhịn mặc để có một cái nhà như người
miền Bắc, miền Trung. Những ngôi nhà bằng lá đơn sơ vẫn là một
đặc trưng về nhà ở của người dân vùng Tây Nam bộ.
6 2.3.2. Văn hóa Ở của một số dân tộc khác ở Nam bộ
a/ Văn hóa Ở của người S’tiêng:

73
Môi trường cư trú của người S’tiêng:
Người S’tiêng thích ứng lâu đời với hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên vùng
đất đỏ badan có nhiều đầm lầy. Đó là những vùng đất gần lưu vực các con
sông lớn nên màu mỡ có nhiều rau cỏ, nhiều thú rừng tập trung sinh sống,
nhiều cá tôm, con người có thể làm rẫy trồng lúa và sinh sống một cách dễ
dàng…
Đầu thế kỷ thứ 20 kinh tế đồn điền của thực dân Pháp phát triển nhanh,
những rừng cao su nối tiếp nhau và những vùng dân cư mới phục vụ cho
công cuộc khai thác đồn điền xuất hiện. Cao su lại rất thích hợp với vùng
đất đỏ gần lưu vực các dòng sông ở Đông Nam Bộ. Do đó các đồn điền cao
su của TD Pháp đã xua đuổi người S’tiêng ra khỏi vùng môi sinh tồn tại lâu
đời của mình.
Người Stiêng phải lùi sâu vào rừng đến sống ở những vùng đất xám bạc
màu và khan nước. Ở đây họ gặp sự uy hiếp của những đàn thú dữ lớn, sự
thiếu thốn của những vật săn nhỏ, rau cỏ hiếm hoi, việc làm rẫy ngày càng
khó khăn… Con người rời khỏi vùng môi sinh và hệ sinh thái tối ưu dẫn
đến tình trạng suy thoái về đời sống xã hội.
Vì vậy, cuộc đấu tranh quyết liệt giữa người S’tiêng và TD Pháp thực chất
là cuộc đấu tranh giành lại vùng môi sinh và hệ sinh thái tối ưu cho quyền
con người.
Từ năm 1960 cho đến 1975, do tình hình xã hội và sự thất bại không ngừng
của cuộc chiến tranh thực dân ở vùng này, chế độ Mỹ và Sài Gòn kéo nhiều
nhóm người Stiêng ra khỏi vùng môi trường rừng rú để lập thành những
làng tập trung quanh đồn bót và căn cứ quân sự. Đến đây họ không đói
cơm, không thiếu muối nhưng lại bị tách hoàn toàn ra khỏi vùng môi sinh
và sinh thái của thiên nhiên.
Sau năm 1975 những người S’tiêng được trở về lại xóm làng cũ với tất cả
sự phấn khởi và hạnh phúc.
Tổ chức xã hội và đời sống của người S'tiêng:
-Dòng họ: Người S’tiêng Bù Đeh ở Bình Phước có khoảng 20 họ được tính
theo dòng mẹ.
Nguyên tắc hôn nhân là không được lấy nhau trong phạm vi ba đời tính
theo Họ mẹ.
Để biểu thị cho ý thức về nguồn gốc, có Họ kiêng ăn lươn, rắn; có Họ kiêng
ăn cá sấu, cọp; có Họ kiêng ăn đọt mây rừng,..

74
Những người cùng dòng họ luôn giúp đỡ nhau.
Khi gia đình gặp khó khăn hay hữu sự như ma chay cưới hỏi, trai tráng
trong Họ sẽ vào rừng chọn cây tốt khoét ruột làm quan tài; giúp thực hiện
các nghi thức trong đám tang, hoặc giúp gia đình tổ chức tiệc cưới cho đôi
trai gái…
Ngày nay người trong họ chỉ giúp nhau bằng cách đến chia buồn hoặc góp
tiền, mỗi gia đình chỉ một hai người đại diện thay vì cả nhà tham dự như
trước đây. Quan hệ các thành viên trong dòng họ không còn thân thiết như
trước nhưng người S’tiêng vẫn nhận nhau là bà con và giữ gìn nguyên tắc
hôn nhân.
Hệ thống thân tộc của người S'tiêng vùng Sông Bé được gọi là Gap Mpol,
gồm có hai phần là cấu trúc phổ hệ (cha mẹ, ông bà trở lên) và cấu trúc
bàng hệ (anh chị em). Ngoài ra, một dòng họ còn bao gồm cả quan hệ rộng
đối với gia đình bên gái của các anh con rể. Vì mối quan hệ này mà mỗi họ
có mối quan hệ rộng rãi trên một địa bàn rộng lớn. Những người già trong
làng thường nắm chắc các quan hệ dòng họ rộng rãi để điều tiết hôn nhân
đối với các lớp trẻ.
-Nhà dài: Người S’tiêng sống trong các Yau. Yau là một hộ nhà dài, nơi
mà nhiều gia đình nhỏ cùng dòng họ sống chung với nhau.
Quy mô nhà dài của người S'tiêng nhỏ hơn một số các dân tộc khác, chiều
dài của mỗi nhà dài thường không quá 30 m.
Mỗi nhà dài của người S'tiêng ở vùng Sông Bé cũ thường từ 3 đến 5 bếp
(nak), tương đương 3 đến 5 hộ gia đình nhỏ.
Mỗi gia đình được đánh dấu bằng cái bếp và những bịch thóc riêng đặt trên
giàn bếp. Có bao nhiêu bếp lửa, bao nhiêu bịch thóc là có chừng ấy gia đình
trong một nhà dài.
Các chiêng ché và các tài sản riêng của mỗi gia đình nhỏ được đặt ngay
trên đầu sạp ngủ.
Trong một hộ nhà dài gồm có gia đình riêng của cha mẹ và gia đình của tất
cả con gái cùng những chàng rể, một vài bà con người rể hoặc gia đình tôi
tớ cho gia chủ, nếu được sự đồng ý của người mẹ thì cũng được lập bếp ở
chung (phần cuối cùng của nhà dài). Mỗi gia đình nhỏ tự quyết định sinh
hoạt kinh tế của gia đình.
Người mẹ là người đại diện cho tất cả các sinh hoạt, các phong tục, nghi lễ
của nhà dài.

75
Nhóm S’tiêng Bù Đeh ở Bình Phước cũng được xem là nhóm mẫu hệ, quan
hệ thân tộc tính theo dòng họ mẹ, nhưng quản lý và điều hành gia đình lớn
lại là đàn ông, là người bố. Người này được gọi là Tom yau (chủ nhà).
Tom yau là người điều hành các nghi lễ trong nhà dài, xử lý tranh chấp giữa
các nak, tiếp khách, chọn đất dựng nhà, làm chủ lễ trong cát buổi cúng thần
linh, quyết định việc cưới xin ma chay, có trách nhiệm giáo dục, truyền
dạy văn hóa cho các thành viên trong gia đình,....
Tài sản chung của mỗi ngày dài hiện nay có tính chất tượng trưng để thể
hiện gia thế là các bộ chiêng và các ché đựng rượu quý.
- Làng (bon, buôn, s’roc): một bon là một tổ chức cư trú của một hay vài
ba nhà dài, nghĩa là vài ba dòng họ lớn có quan hệ với nhau. Có những bon
vừa có nhà dài, vừa có những nhà riêng của các gia đình nhỏ.
Bon của người Stiêng được phân bố dọc theo các dòng suối, dòng thác.
Nguồn nước đối với người Stiêng rất quan trọng, Nếu nắm được các nguồn
nước có vùng phân thủy rộng thì các bon ấy sẽ no đủ và có sức mạnh hơn
những bon khác.
Các nguồn nước có vùng phân thủy rộng sẽ phân bố nước ở một vùng đất
rộng để canh tác, để thu lượng lớn rau cỏ, lâm thổ sản. Những nơi có nước
cũng là nơi có nhiều thức ăn cho thú rừng, thú rừng sẽ tập trung ở đó với
số lượng cao.
Truyền thuyết còn lưu truyền những trận đánh nhau dữ dội để tranh giành
các thác nước lớn của người S’tiêng ở Phước Long, phản ảnh quá trình
thành lập làng của người S’tiêng.
Trong mỗi bon có một người đứng đầu, đó là người lớn tuổi có kinh nghiệm
về chọn đất và chỉ huy các cuộc săn bắn, gọi là Tom bon.
Các thành viên sống trong bon có bổn phận thực hiện những nghĩa vụ sau:
 nghiêm túc thực hiện các phong tục tập quán và nghi lễ của bon
 bảo vệ vùng đất vùng phân thủy của bon khi có người khác xâm
chiếm
 thực hiện mọi sinh hoạt cộng đồng của bon (dời làng, phát rẫy, săn
bắn, thờ cúng, tế lễ)
 thực hiện mọi điều hướng dẫn của Tom bon, trừng trị những ai phá
hoại các phong tục tập quán của bon.
 bảo vệ danh dự và chống lại sự xúc phạm danh dự của bon

76
Ngày nay xã hội S’tiêng đang có nhiều thay đổi:
- Xã hội cộng đồng tập thể, dòng họ chuyển sang xã hội gia đình cá thể
- Kiểu cư trú trong nhà dài đang tách ra thành những nhà nhỏ trong một
làng
- Chế độ công hữu cho toàn dân trong làng đang chuyển sang thời kỳ hình
thành quyền chiếm hữu đất đai canh tác đối với những người có công
khai phá đầu tiên.
7 b/ Văn hóa Ở của người Chơro:
Môi trường cư trú của người Chơro:
Nhiều tài liệu cho rằng người Chơro là một bộ phận của cộng
đồng người Mạ, chịu ảnh hưởng của văn hóa người Chăm và
Raglai.
Người Chơro sống ở vùng môi sinh hái lượm nằm về phía đông
và đông nam sông Đồng Nai và kéo dài về phía đông.
Người Chơro tổ chức nơi cư trú ở những nơi bằng phẳng, những
địa điểm có bưng thấp và các nơi giao tiếp của những đường phân
thủy, những con suối lớn. Do vùng mưu sinh của người Chơro là
vùng đất xốp, thích ứng với nền nông nghiệp lúa khô, chủ yếu nhờ
nước mưa trong thiên nhiên, không có điều kiện để dẫn nhập điền.
Tổ chức xã hội và đời sống của người Chơro:
- Dòng họ (Mway Gơnăng): là một tổ chức gồm những người có
huyết thống chung một Bà tổ hay một Ông tổ.
Người Chơro có những đặc điểm gần gũi của người S’tiêng về
mặt cấu trúc xã hội nhất là cấu trúc dòng họ hướng về phía mẹ,
song những đặc điểm này ít rõ nét hơn người S’tiêng.
Trước đây người Chơro tính dòng họ theo phía mẹ, nhưng sau
này đã dần sang lấy họ cha, gồm các họ: Thổ, Tống, Điểu, Lý,
Lâm, Văn, Sang, Đào, Hoàng, …, là những họ do nhà Nguyễn
đặt cho. Trước năm 1945, các họ có địa bàn cư trú riêng nhưng
nay thì đã phân tán và ở xen kẽ nhau.
Người trong cùng một họ tuyệt đối không được kết hôn với nhau.
Bà con ngoài năm đời mới được lấy nhau. Trong vòng 5 đời trở
lại, nhớ nhau rất rõ về quan hệ bà con thân thuộc.

77
- Nhà dài: Theo truyền thống, mỗi nhà dài là một đại gia đình
mẫu hệ có nhiều cặp vợ chồng sinh sống, dưới sự điều hành chung
của ông chủ nhà.Vai trò của những người lớn tuổi trong gia đình
rất quan trọng, chi phối mọi hoạt động của gia đình.
Ngày nay, nhà dài không còn nữa. Các hiện tượng xã hội dựa trên
quyền sở hữu tập thể, dựa trên cấu trúc nhà dài của người Chơro
đều chỉ còn lại trong phong tục.
Gia đình cá thể, là các tiểu gia đình phụ hệ được định hình. Cấu
trúc gia đình của người Chơro đang có nhiều biến động với nhiều
loại hình gia đình mới: gia đình đơn thân, gia đình có yếu tố nước
ngoài,…
Đầu thế kỷ 20 người Chơro còn có những ngôi nhà sàn trên cây
cổ thụ như những tổ chim lớn.
- Làng (palay): Palay là từ gọi làng của người Chơro, cũng là của
người Chăm, người Raglai.
Người Chơro lập làng ở những nơi thuận tiện giao thông đường
bộ, có nhiều trục đường cắt nhau. Mỗi làng có tên gọi riêng, theo
đặc điểm địa hình, sông suối, cây cối, động vật,…
Trưởng làng (Voq plây) là người đàn ông lớn tuổi, có uy tín, nắm
vững phong tục tập quán của làng mình.
Palay của người Choro trước đây có khoảng từ 15 đến 20 nóc nhà.
Ranh giới giữa các làng thường được phân biệt rõ ràng bằng
những vật chuẩn trong thiên nhiên như con suối, cánh rừng, mô
đất…
Trong phạm vi địa bàn sinh sống của làng tất cả mọi người trong
làng đều được sử dụng, những người ở làng khác không được đến
khai phá.
Trước đây, ngoài khu đất nghĩa địa và rừng cấm, mọi người trong
làng đều có thể tự do khai thác và tự chọn đất, không cần có người
chủ làng phân chia, vì đất rộng mà người ít.
Người Chơro không có các cuộc tranh chấp đất đai giữa các làng
8 c/ Văn hóa Ở của người Khmer

78
Phum, sóc: Là đơn vị cư trú đặc trưng của người Khmer. Muốn
hiểu về văn hóa của người Khmer thì phải đặt nó trong “khung xã
hội tộc người” đó.
Phum có từ thời Vương quốc Phù Nam truyền đến bây giờ.
Phum nhỏ: khoảng 4, 5 căn nhà, tất cả các thành viên đều có quan
hệ huyết thống với nhau tính theo dòng nữ. Xung quanh khuôn
viên phum thường có hàng rào tre gai hoặc xương rồng. Giữa các
nhà trong phum không cần có hàng rào, cửa nhà không cần đóng.
Phum lớn: là đơn vị cư trú huyết tộc, nhưng tính cộng đồng giữa
các thành viên trong phân không chặt chẽ bằng phum nhỏ; 30
phum mới thành một sóc.
Sóc là đơn vị cư trú do nhiều phum gộp lại. Trong mỗi sóc đều có
chùa. Chùa là quần thể kiến trúc quan trọng nhất trong khu vực
cư trú của người Khmer, nó là trung tâm sinh hoạt tôn giáo văn
hóa xã hội, là nơi bảo lưu và truyền kế văn hóa dân tộc.
Nhà ở:
Phân loại theo loại hình nhà: có hai loại: nhà sàn (truyền thống
và hiện đại) và nhà đất.
Phân loại theo mặt bằng sinh hoạt: nhà hai nóc, ba nóc; nhà không
chái; nhà có chái, nhà chữ đinh.
Phân loại theo vật liệu xây dựng: giống như nhà của người Việt.
Vị trí cửa cũng giống như nhà người Việt nhưng ít cửa sổ hơn,
loại nhà sàn thì cầu thang bắc vào giữa nhà.
Nhìn chung:
- Nhà sàn truyền thống chỉ là yếu tố tàn dư, hiện nay người
Khmer cư trú chủ yếu và phổ biến là nhà đất.
- Nhà sàn chỉ còn ở một số vùng để thích nghi với điều kiện
ngập nước
- Chức năng nhà là để ở, có thờ tự tượng trưng, không buôn
bán.
9 d/ Văn hóa Ở của người Hoa
Phân loại theo loại hình nhà: nhà đất và nhà sàn

79
Phân loại theo mặt bằng sinh hoạt: có 3 loại nhà sắp đọi; nhà
không chái; nhà có chái.
Phân loại theo vật liệu xây dựng: giống như nhà của người Việt.
Vị trí của cửa cái và cầu thang giống như nhà người Việt.
Nhìn chung:
 Nhà sàn chỉ có ở một số vùng để thích nghi với điều kiện
ngập nước.
 Chức năng nhà: để ở, để thờ tự và buôn bán sản xuất.
 Hệ thống thờ tự từ ngoài sân đến tận bếp (tín ngưỡng liên
quan đến cái bếp Và bàn thờ tổ tiên rất được xem trọng).
 Còn lưu giữ nhiều yếu tố truyền thống của người Hoa như
cửa chốt cài ngang bên trong, mắt cửa chạm chữ phúc
(Mắt cửa tròn hoặc vuông bằng gỗ chạm là Thần cửa bảo
vệ nhà; nhà không có ngạch cửa ví như con người không
có nề nếp)
Vào ngày tết nhà của người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long
thường rực lên màu giấy kim hoa màu hồng điều từ trước cửa
cho tới bếp để lấy sự may mắn.
Phần lớn người Hoa bình dân ít chú trọng đến việc xây dựng nhà
cửa khang trang mà chỉ để dành vốn lo làm ăn. Như vậy tình
hình kinh tế của người Hoa không được phản ánh trung thực qua
ngôi nhà họ sinh sống.
10 e/ Văn hóa ở của người Chăm
Palây:
Xã hội của người Chăm theo đạo Islam ở đồng bằng sông Cửu
Long là sự hợp nhất của toàn bộ các palây.
Mỗi Palây gồm có khoảng từ 100 đến 400 nhà, gộp lại từ nhiều
puk -xóm (30 đến 50 nhà).
Nghề nghiệp của người Chăm thường tập trung theo từng palây
(ví dụ nghề chài lưới sẽ phổ biến ở Ấp Ba Ấp đồng Ki; nghề chài
lưới kết hợp buôn bán ở ấp Lama, nghề dệt vải kết hợp với buôn
bán ở ấp Hòa bao).
Thánh đường Hồi Giáo là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của cư
dân trong Palây.

80
Trong Palây còn có một vài tiểu thánh đường surao, là nơi sinh
hoạt cộng đồng của các puk - xóm.
Palây của người Chăm ở An Giang có nhiều bóng mát do trồng
nhiều cây xanh, khác với các làng Chăm ở Trung Bộ khô cằn
không có cây do tập quán kiêng trồng cây quanh nhà.
Nhà ở:
Phân loại theo loại hình nhà: chỉ có một loại: nhà sàn
Phân loại theo mặt bằng sinh hoạt: nhà sắp đọi; nhà sàn không có
nhà phụ; nhà sàn có nhà phụ.
Phân loại theo vật liệu xây dựng: giống như nhà người Việt.
Cửa cái luôn luôn trỗ ở vách đầu hồi; cầu thang bắt vào giữa nhà.
Nhìn chung:
 Cư trú chủ yếu trên nhà sàn.
 Chức năng nhà để ở, không thờ tự.
 Nhà luôn có buồng riêng cho con gái, khi con gái có chồng,
đó là buồng cưới.
 Trong nhà rất ít đồ đạc. Nếu có chỉ là cái tủ.
 Dấu ấn của tôn giáo Islam rất sâu sắc trong nhà (trang trí
họa tiết thực vật, có sàn rửa xác, không thờ ngẫu tượng).

81
STT NỘI DUNG GHI
CHỦ ĐỀ 2.4. VĂN HÓA ĐI LẠI CỦA CƯ DÂN NAM BỘ CHÚ

1 Mục tiêu học tập chủ đề:


Chủ đề này giúp Sinh viên nhìn tổng quát về việc đi lại của cư dân Nam
Bộ, trả lời được các câu hỏi Đi đâu?, Đi bằng phương tiện gì?
Mô tả vắn tắt nội dung:
2.4.1. Đi đâu?
2.4.2. Đi bằng phương tiện gì?
Trong chủ đề này, chúng ta không phân chia nội dung theo các dân tộc vì
hầu hết việc đi lại đều nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản hằng ngày, và
với các dân tộc ít người thì các nhu cầu ấy lại càng đơn giản. Các điểm
đến công cộng, các phương tiện đi lại của các dân tộc khác ở Nam bộ hầu
hết đều tương tự các phương tiện mà người Việt sử dụng.
Sau phần Văn hóa Đi lại là phần Tổng kết về Văn hóa Vật chất của Cư
dân Nam bộ.
2 2.4.1. “Đi đâu?”
Trong việc đi lại, câu hỏi đầu tiên luôn là “đi đâu?”
Dân gian thường nói chung chung: đi chợ, đi ruộng, đi chùa, đi làm, đi
học, đi chơi,… đó là các hoạt động đi lại cơ bản, đáp ứng các nhu cầu vật
chất và tinh thần tối thiểu của con người.
Trong nền văn hóa thuần nông, đi ruộng còn bao gồm đi cày, đi cấy, đi sạ,
đi gặt, đi thăm đồng… Với người sống với biển, với sông thì hoạt động đi
lại của họ còn có đi câu, đi lưới, đi chài, … Mỗi ngành nghề có các hoạt
động đi lại đặc thù riêng, và tùy từng tình huống trong cuộc sống, người
ta còn có những nhu cầu đi lại cụ thể hơn. Chẳng hạn đi chơi có thể là đi
coi hát, đi đám, đi thăm (ai đó)…
Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày một cách sơ lược bốn nội dung
mà toàn bài Văn hóa Nam bộ chưa đề cập, gồm: đi chợ - chỉ hoạt động
trao đổi, mua bán; đi làm - các họat động mưu sinh bằng những ngành
nghề khác nhau; đi học - hoạt động giáo dục và đi chơi - hoạt động giải trí
- để phác họa một bức tranh chung về đời sống Nam bộ thật sự có nhiều
biến đổi, làm gia tăng đột biến nhu cầu đi lại của người Nam bộ, bắt đầu
từ khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam.
2.4.1.1. Đi chợ

82
Từ thời văn hóa Óc Eo “Các nước ngoài biên cảnh đi lại buôn bán rất
thường xuyên… Chợ ở đây là chốn Đông Tây giao hội, mỗi ngày có hơn
vạn người” (Lương thư).
Đến thời những người Việt Đàng ngoài vào Đàng trong khai hoang,
chợ lại được hình thành. “Chợ Nguyễn Thực ở phía Tây trấn thự, cách 10
dặm, lập năm Đinh Mùi Túc Tông thứ 3 (1727), do người Quảng Ngãi tên
là Nguyễn Văn Thực phá rừng rậm rạp lập chợ ở đây, bèn thành chỗ tụ
hội đông ở miền núi gò” (Trịnh Hoài Đức). Nhu cầu đi lại để giao lưu, trao
đổi, buôn bán của người Nam Bộ từ xưa đã luôn là rất lớn. Đó là một hoạt
động sống.
Từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, hoạt động mua bán ở Nam
bộ đã diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Chợ hình thành ở khắp các tỉnh thành,
nhiều loại hình, nhiều quy mô: chợ họp trên sông, nơi giao nhau của các
dòng nước, chợ lưu động bằng ghe thuyền, chợ cố định trên đất… Hàng
hóa dồi dào, sản phẩm phong phú, thành phần người bán người mua đa
dạng, nhiều dân tộc, nhiều quốc tịch. “Ở trấn Phiên An (phần lớn người
Tàu buôn bán), thuyền biển buôn bán đi về, cột buồm sát nhau, trăm thứ
hàng hóa hợp lại, khiến chốn ấy là nơi đô hội lớn của đất Gia Định, cả
nước không nơi nào bằng…” (Trịnh Hoài Đức). Giữa thế kỷ XIX, hệ thống
chợ tại các địa phương Nam bộ đã hình thành như mạng lưới. Tại Nam bộ
thời kỳ này có “93 chợ với các quy mô khác nhau”.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp chủ trương “đào kênh,
lập chợ, mở lộ xe”, thương nghiệp phát triển mạnh, các chợ nổi ở miền
Tây Nam bộ ra đời càng nhiều, “buổi sáng lúc nhóm chợ xuồng ghe tấp
nập đến nỗi chúng ta có thể đi một vòng qua năm con kênh xáng, bằng
cách bước chuyển từ xuồng này sang ghe kia đậu sát bên…” (Sơn Nam);
chợ cũ được nâng cấp, chợ mới được dựng thêm.
Thời kỳ Nam bộ phụ thuộc vào viện trợ Mỹ, 1954-1975, chỉ riêng Sài
Gòn đã có “hàng trăm chợ lớn, nhỏ, hàng vạn cửa hàng…”
Sau thời “ngăn sông cấm chợ”, bước vào thời kinh tế thị trường, năm
1999, cả Nam bộ có hơn 2.000 chợ lớn nhỏ. “Đông Nam bộ có 886 chợ,
TPHCM 304 chợ, ĐBSCL có 1.178 chợ, tất cả tạo thành mạng lưới chợ
dày đặc và liên hoàn…” [Theo: Nguyễn Thị Thoa 2011: 15- 31].
2.4.1.2. Đi làm
Thời Pháp thuộc, công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp bao gồm các
hoạt động khai thác Nông nghiệp, Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp và
Giao thông vận tải đã tạo ra rất nhiều ngành nghề mới, nhiều công việc
mới. Ở Nam bộ, cũng như toàn Việt Nam bắt đầu xuất hiện các Phòng
Canh nông, Vườn bách thảo, các đồn điền cao su, Cơ quan địa chính…
Rồi hàng loạt các nhà máy ra đời, nhà máy xay xát lúa gạo, sửa chữa tàu

83
biển, ghe thuyền, nhà máy rượu, bia, nước ngọt, nhà máy điện, nhà máy
nước, nhà máy thuốc lá, nhà máy thủy tinh, nhà máy xà bông,…; các
xưởng cơ khí v.v…
Đó là chưa kể các hoạt động Tài chính; hoạt động Văn hóa, thể thao;
hoạt động Bưu điện, Viễn thông, Y tế… với nhiều văn phòng, nhiều công
sở làm việc rất mới mẻ so với đời sống nông nghiệp trước đây như ngân
hàng, tòa soạn, đài phát thanh, nhà in, thư viện, viện bảo tàng, bệnh
viện,… Rất nhiều người Việt trở thành công nhân, thành thợ, thành nhân
viên phải đi làm mỗi ngày.
Nhu cầu đi lại của người dân gia tăng một cách ngoạn mục từ ngày đó
cho đến tận bây giờ, theo đà phát triển chung của xã hội.
2.4.1.3. Đi học
Để khuyến khích người Việt học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ nhằm phổ
biến văn hóa Pháp, hướng người Việt đến văn minh Pháp, đến đạo Thiên
Chúa mà quên đi văn hóa cổ truyền, chính quyền thực dân Pháp đã mở
trường, cấp học bổng, cho ở nội trú, cung cấp mọi tiện nghi ăn ở, áo quần,
sách vở cho học sinh.
Các trường học từ cấp tiểu học đến trung học, đại học lần lượt ra
đời, dùng mọi cách để lôi kéo học sinh. Tinh thần bài Pháp khiến người
Việt không cho con cái đi học trường Pháp, không học chương trình mới…
Nhưng hệ thống trường học ấy, cùng với thời gian tồn tại lâu đời ở
Việt Nam cũng đã đào tạo ra nhiều trí thức cho Việt Nam. Nhiều người
Việt đã học cái hay của văn hóa Pháp để hiểu Pháp và chống Pháp.
Hệ thống trường học theo các cấp lớp như thời mới ra đời ấy đã được
duy trì đến ngày nay.
2.4.1.4. Đi chơi
Người Nam bộ “đi chơi” ở đâu? Người dân có thể đến rạp xem hát bội.
Rạp và ban hát bội có rất nhiều ở các tỉnh, thành Nam bộ. Chẳng hạn, ở
Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định có đến 22 rạp và ban hát bội và ở Sa Đéc
có rạp rất lừng danh của ông Cả Tam.
Hay đêm đêm có thể cùng quây quần trên manh chiếu, quanh bình trà
mà đờn ca với nhau, vui với phong trào đờn ca tài tử. Rồi ít lâu sau đó,
kéo nhau đến rạp xem ca ra bộ, xem chiếu bóng. Rạp hát kiểu phương
Tây là những gì rất mới mẻ với đời sống tinh thần người Việt1. Chiếu bóng
đã tới Sài Gòn năm 1898, chỉ 3 năm sau khi bộ môn nghệ thuật này xuất

1
Ở Sài Gòn, năm 1894, Nhà hát thành phố được khởi công xây dựng quy mô, trải qua nhiều biến động lịch
sử, đến nay Nhà hát vẫn còn là nơi dành cho các bộ môn giải trí mang tính hàn lâm của người Nam bộ.

84
hiện lần đầu tiên lại Pháp, chiếm mất vai trò độc tôn của nghệ thuật hát
bội truyền thống.
Ảnh hưởng những bộ môn nghệ thuật mới của phương Tây, từ đờn ca
tài tử, ca ra bộ, nghệ thuật Cải lương đã ra đời. Cải lương với các rạp ở
Sài Gòn, Mỹ Tho và các đoàn cải lương đi diễn khắp vùng miền Tây Nam
bộ đã trở thành món ăn tinh thần quá tuyệt vời, hợp khẩu vị với người
Nam bộ suốt cả trăm năm.
Ngoài Cải lương, người dân còn có thể giải trí bằng kịch nói và xiếc,
hai bộ môn nghệ thuật hoàn toàn mới lạ đối với xứ Nam kỳ. Cũng mới lạ
như vậy là các trận bóng đá trên sân vận động; các trận quần vợt, đua xe
đạp và các cuộc đua ngựa ở các trường đua, …
Nội dung “đi chơi” của người Nam bộ trở nên phong phú hơn rất nhiều từ
khi văn hóa Việt Nam giao lưu, ảnh hưởng văn hóa Pháp.
Việc đi chơi còn bao gồm cả việc đi tham dự các đám, tiệc, thăm viếng
vốn rất quen thuộc và thường xuyên trong văn hóa nông nghiệp Việt Nam.
Ngoài đi chợ, đi học, đi làm, đi chơi, … người Nam bộ khi ăn mặc sạch
sẽ, tươm tất hơn một chút thì người đó có thể đang chuẩn bị đi chùa…
Đi chùa (Phật giáo) phổ biến hơn đi lễ (Thiên chúa giáo) vì lý do gì thì ta
đã biết trong chương 1, Lịch sử Văn hóa NB, và trong chương 3, phần Tôn
giáo, ta sẽ có dịp biết rõ hơn nữa về nội dung này.
3 2.4.2. “Đi bằng phương tiện gì?”
2.4.2.1. Giao thông vận tải đường bộ
a. Con đường Cái Quan hay còn gọi là đường Quan lộ, đường Quan
báo, đường Thiên lý.
Hệ thống đường bộ ở Việt Nam sử ghi là có từ thời nhà Lý, chia thành
từng "cung", có trạm xá với mục đích chạy công văn. Mỗi trạm cách nhau
khoảng 15-20km có phu trạm canh gác.
Sang thời nhà Lê, năm 1471 triều đình đã cho đắp đường Thiên lý từ
Thăng Long vào đến Bình Định.
Khi vua Gia Long thống nhất đất nước, lập ra nhà Nguyễn thì con
đường giao thông Nam Bắc được triều đình sai đắp lại, chạy dài từ Ải
Nam Quan đến Hà Tiên. Dọc đường cách khoảng 30 dặm thì đặt một trạm
xá có viên chức địa phương trông coi. Tổng cộng vào giữa thế kỷ XIX có
133 trạm và 6.000 cai đội và phu trạm phục dịch.
Quốc lộ 1 ngày nay có nhiều đoạn đã được hình thành từ con đường
Thiên lý lịch sử này.

85
Con đường Thiên lý có giá trị văn hóa lớn đối với người Việt, nói lên
sự thống nhất của mọi miền đất nước và lịch sử Nam tiến của dân tộc.
Trước khi người Pháp chiếm Nam kỳ, giao thông vận tải cả Nam kỳ
chưa phát triển. Đường bộ chỉ mới có đường thiên lý, mang tính quốc lộ.
Sự lưu thông gặp nhiều trở ngại vì ngăn cách bởi nhiều con sông sâu, gặp
mùa bão lụt thì bị tắt. Sông rạch thì chằng chịt, thuyền phải đi quanh co,
lại chịu ảnh hưởng của thủy triều Nam bộ có nhiều chỗ giáp nước, phải
chờ thuận dòng mới đi được.
Khi mới đến, người Pháp cố tìm cách sử dụng hệ thống đường thủy,
nhưng sau đó không thành hiện thực vừa vì lý do chính trị, địa-chiến lược,
vừa vì công nghệ. Vì thế, Nha Công Chính tập trung vào những phương
tiện trên mặt đất. Từ những năm 1910-1920, các khoản đầu tư chủ yếu đổ
vào phát triển hệ thống đường xá, đầu tiên là tuyến quốc lộ 1 xuyên suốt
Việt Nam, cải tạo các tuyến đường thiên lý đã có sẵn sau đó là những tuyến
đường khác bắt nguồn từ quốc lộ 1 toả đi khắp nơi.
b. Từ 1880-1920: hệ thống đường bộ trên địa bàn Nam kỳ đã được
thực hiện rộng khắp, gồm:
Hệ thống đường thuộc địa; (Sài Gòn-Tây Ninh, Cam pốt; Sài Gòn-
Vũng Tàu, Sài Gòn-Sóc Trăng; Sài Gòn-Hà Tiên; Thủ Đức-Thủ Dầu Một,
Vĩnh Long-Cần Thơ, Long Xuyên-Rạch Giá).
Hệ thống đường quản hạt hay đường tỉnh;
Hệ thống đường địa hạt hay đường tỉnh;
Hệ thống đường làng và liên hương, đường nông thôn.
(Năm 1929: tỉnh Bạc Liêu có 10 hương lộ, 11 đường nông thôn, tỉnh
Chợ Lớn có 11 hương lộ, 7 đường nông thôn, tỉnh Gia Định có 45 hương
lộ, 4 đường nông thôn).
c. Hệ thống cầu
Để hệ thống đường bộ liền lạc, vai trò của các cây cầu là vô cùng lớn,
nhất là ở địa hình nhiều sông rạch như ở miền Nam.
“Làm cầu rồi lại làm cầu
Làm cầu cho đến bạc đầu chưa xong”.
“Chỉ riêng ở xã Vĩnh Hòa Hưng, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang,
trên chặng đường từ Ủy ban xã đến ấp Vĩnh Anh dài 7km tính theo đường
chim bay, mà đã phải đi qua 241 cây cầu lớn nhỏ bắc qua mương rạch mà
hầu như mỗi nhà đều làm” (Sơn Nam).
Miền Nam là nơi có nhiều loại cầu hơn các vùng miền khác: Cầu khỉ, Cầu
ván, Cầu phao, Cầu đúc - cầu xi măng, Cầu sắt, Cầu quay

86
“Bao giờ cầu nọ hết quay
Thì qua với bậu mới đứt dây can trường”.
Ngày nay:
Cầu Mỹ Thuận là cầu dây văng dài nhất Đông Nam Á.
Cầu Rạch Miễu do Việt Nam tự đầu tư và thiết kế.
Cầu Cần Thơ là cầu dây văng có nhịp chính dài nhất Đông Nam Á.
4 d. Các loại phương tiện vận tải và các tuyến đường bộ:
Hệ thống đường bộ phát triển dẫn đến việc ra đời và phát triển của
ngành kinh doanh vận chuyển hành khách và hàng hóa bằng các loại
phương tiện từ các loại xe thô sơ đến các loại xe tân tiến nhập từ Pháp.
d1/ Các loại xe thô sơ
Các loại xe thô sơ đã có từ lâu và được chế tạo tại chỗ như xe kiếng,
xe kéo, xe thổ mộ2, xe trâu, xe bò, người Pháp gọi chung là loại xe
malabares.
Vùng đồi gò, đồng bằng, thành thị người ta dùng xe bò, xe trâu, sau
dùng xe ngựa làm phương tiện giao thông và phục vụ trong sản xuất nông
nghiệp.
“Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang
Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một
Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu".
Xe cá thường thấy ở Long An, được thiết kế rất đơn giản không mui,
không đèn vì chủ yếu chở người làm đồng, người buôn bán.
Xe lá liễu khá mỏng manh và phổ biến ở Đà Lạt, Vũng Tàu phục vụ
cho các tiểu thư, phu nhân thời Pháp thuộc.
Các loại xe thô sơ hầu hết chạy trong 2 thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn,
các thị xã, tỉnh lỵ và vùng ngoại ô. Về sau các loại xe thô sơ đã được sử
dụng rộng rãi khắp địa bàn các tỉnh.
Năm 1904, thống đốc Nam kỳ đã ra quy định về độ tuổi, sức khỏe,…
cho những người điều khiển xe công cộng trên toàn Nam Kỳ.

2
Xe thổ mộ là xe ngựa, xuất hiện trong thành phố Sài Gòn và những vùng quê lân cận từ thập niên 40. Lính
Tây kêu xe đó là boite d' allumettes (xe hộp quẹt) hay bình dân hơn là xe "tac a tac". Người Việt kêu là xe
thổ mộ vì cái thùng liền với cái mui cong cong giống như một cái mả đất. Có các giả thuyết khác là tên gọi
thổ mộ xuất phát từ tiếng Quảng Đông "xe độc mã" người Tàu đọc là thu ma, người Việt gọi trại ra là thổ
mộ; hoặc thổ mộ là cách nói tắt của Thủ Dầu Một, là nơi được cho là quê hương của xe thổ mộ.

87
d2/ Tàu điện
Các loại xe thô sơ như xe kính, xe ngựa mỗi chuyến không chở được
nhiều người mà di chuyển lại chậm, ô tô của châu Âu nhập vào chưa nhiều,
hầu hết là chỉ phục vụ cho giới quan chức chính quyền cấp cao hay các
nhà tư bản. Vì vậy người Pháp nghĩ đến tàu điện để giải quyết nhu cầu đi
lại và giao lưu hàng hóa giữa khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn.
Ưu điểm của tàu điện là vận tốc chậm hơn xe lửa, chạy trong thành
phố qua các con đường hoặc dọc các đường không cần phải có rào chắn,
người gác. Tàu điện có chuông báo động liên tục từ xa, người ta đã có thể
nhận ra tàu sắp đến để tránh. Ưu điểm thứ hai là đường ray của tàu điện
đặt chìm, không hạn chế sự di chuyển của các loại xe cộ khác.
Dưới thời Pháp thuộc trên địa bàn Nam kỳ của các tuyến đường tàu
điện như:
1. Tuyến đường tàu điện Sài Gòn-Chợ Lớn chạy ngay đường thấp (nay
là bến Chương Dương bến Hàm Tử), cặp rạch Tàu Hủ.
2. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Chợ Lớn chạy trên đường cao (nay là đường
Nguyễn Trãi).
3. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Gò Vấp nối đến chợ Hóc Môn.
Lợi nhuận của các nhà đầu tư trên 3 tuyến đường tàu điện này rất đáng
kể, chẳng hạn năm 1897 phí tổn bỏ ra khai thác 1km tuyến đường Sài Gòn-
Chợ lớn là 4093 đồng bạc Đông Dương, thu vào 4.110 đồng; năm 1901
vốn bỏ ra là 6.883 đồng, thu vào là 23.956 đồng.
Song song với các chuyến tàu điện còn có các chuyến xe buýt cách
nhau 15 phút.
4. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Gò Vấp-Lái Thiêu-Thủ Dầu Một
Hàng ngày nông dân ở vùng Lái Thiêu đem nông sản sang bán tại các
chợ thuộc nội thành Sài Gòn rất đông. Năm 1909, thống đốc Nam Kỳ mở
cuộc trưng cầu ý dân về việc mở đường tàu điện từ Gò Vấp lên Hóc Môn,
ra tới bờ sông Sài Gòn. Đến 1912, đoạn đường sắt này đã làm xong và
được phép khai thác. Đầu năm 1930, tuyến đường được kéo dài từ Thủ
Dầu Một đến bến Đông Sơ chở công nhân từ các đồn điền cao su ở Thủ
Dầu Một lên đến Lộc Ninh, đưa mủ cao su về cảng Sài Gòn để xuất khẩu.
5. Tuyến tàu điện Sài Gòn-chợ Bình Tây
6. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Phú Nhuận
Hệ thống tàu điện bao gồm tất cả các tuyến, hoạt động đến khi Nam
bộ kháng chiến thì chấm dứt vì đường ray bị phá hoại nhiều đoạn, chỉ có
tuyến từ ga Sài Gòn đến bến cảng là còn hoạt động để bốc xếp hàng hóa.

88
d3/ Xe lửa
* Tuyến đường sắt Sài Gòn Mỹ Tho
Song song với việc xây dựng và khai thác hệ thống tàu điện trong hai
thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, người Pháp còn nghiên cứu tuyến đường sắt
đi qua địa bàn Nam Kỳ, xuyên qua vùng châu thổ sông Cửu Long đông
dân, nhiều của cải với các điểm mốc là Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Ôn, Châu
Đốc rồi sau đó qua Phnôm Pênh, lên đến Lào.
Việc xây dựng tuyến đường sắt gặp nhiều khó khăn vì phải qua nhiều
sông rạch, cánh đồng, đất bồi đắp phải chở từ xa hoặc phải đào sâu các
thửa ruộng dọc tuyến đường, phải xây dựng nhiều cây cầu, trong đó 2 cây
cầu khó khăn nhất là Cầu Bến Lức dài 550m và cầu Tân An dài 113m.
Ngày 20/7/1885 là ngày khánh thành tuyến đường sắt Sài Gòn-Mỹ
Tho, nhưng muốn qua sông Bến Lức thì đoàn tàu phải chuyển qua bằng
Phà.
Đến tháng 5/1886 cầu Bến Lức xây xong và được thông tàu. Đi từ
thành phố này đến thành phố kia chỉ mất 3 tiếng thay vì 12 tiếng như trước.
Đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành
giao thông vận tải của xứ Nam kỳ lúc bấy giờ nhưng nó đã không đáp ứng
được tham vọng của các nhà tư bản Pháp. Khi xây dựng tuyến đường này,
các nhà xuất cảng gạo hi vọng nó sẽ là phương tiện lợi hại để chuyên chở
lúa gạo từ miền Tây bằng thuyền lên Mỹ Tho, rồi bốc lên xe lửa chở về
Sài Gòn một cách nhanh chóng. Nhưng họ đã tính toán sai, vì thuyền chở
lúa gạo đến Mỹ Tho thì sẵn lớn nước đi thẳng lên Chợ Lớn, không có
thuyền nào ghé lại Mỹ Tho vì quá phức tạp và tốn kém.
Đường xe lửa lại chạy qua những vùng nông thôn chỉ là vườn cây ăn
trái và hoa màu không phải là vựa lúa, dân cư lại thưa thớt, hành khách đi
lại cũng không nhiều, đa số là nông dân có nhu cầu đi lại thăm viếng bà
con hoặc đem các nông sản lên Sài Gòn cung cấp cho các vựa, mỗi lần đi
chỉ đủ một gánh trên vai, các tiểu thương lên thành phố lấy hàng công
nghệ phẩm về bán lẻ ở các chợ của 2 thị trấn nhỏ, các công chức đi công
vụ, các công tử con điền chủ lên thành phố ăn chơi hoặc học sinh đi học.
Đến năm 1949, Pháp cho sửa chữa tuyến đường sắt nhưng chỉ có tác
dụng tuyên truyền, về mặt kinh doanh khai thác thì thua lỗ lớn. Vì sau khi
tái chiếm miền Nam, thực dân Pháp đã cho nhập vào rất nhiều xe khách
mà dân chúng quen gọi là xe đò. Người dân cần di chuyển đều dùng xe
đò, vừa nhanh vừa thuận tiện, dọc đường muốn lên xuống xe chỗ nào cũng
được. Các chuyến xe lửa chỉ lơ thơ người đi.
Năm 1954, chính quyền Sài Gòn tiếp tục duy trì tuyến đường nhưng
số người sử dụng xe lửa vẫn không tăng lên.

89
Cuối năm 1959 tuyến đường bị hủy bỏ sau 73 năm tồn tại, tuy vậy,
tuyến đường sắt đầu tiên ấy cũng đã đi vào đời sống tinh thần của người
Nam bộ.
Đường rày nghiêng xe lửa cũng nghiêng
Gặp nhau đây trên thủy dưới thuyền
Lời phân chưa cạn nước mắt liền tuôn rơi
Ngoài tuyến đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho, hệ thống đường sắt còn có
các tuyến đường sắt Sài Gòn-Nha Trang; Sài Gòn-Lộc Ninh (hoạt động
đến khi xảy ra Nam Bộ kháng chiến).
d4/ Ô tô
* Xe buýt
Tuyến xe buýt đầu tiên là tuyến chạy trong thành phố Sài Gòn và Chợ
Lớn do Công ty Tàu điện cho chạy thử, song song với tàu điện trên tuyến
Sài Gòn - ngã tư Phú Nhuận.
* Xe đò
Việc vận chuyển bằng xe đò được thực hiện rất sớm giữa Sài Gòn và
các tỉnh lân cận. Ban đầu chỉ là vài chiếc xe ô tô sử dụng cho ngành bưu
chính tại Sài Gòn để chuyên chở thư từ và bưu phẩm.
Năm 1885, những chiếc xe đò đầu tiên được đem vào khai thác, đó là
tuyến Sài Gòn-Trảng Bàng, Sài Gòn-Tây Ninh.
Từ 1903 đến 1908 tại Sài Gòn đã có khoảng 30 xe ô tô, kiểu xe muốn
chạy phải đốt cho máy nóng trước.
Năm 1918, có chuyến xe đò chạy tuyến Chợ Lớn-Lộc Giang, hành
khách tối đa là 11 người kể cả tài xế, vận tốc 25km một giờ và tuyến Sóc
Trăng-Bạc Liêu chở 10 người, kể cả tài xế và lơ xe, vận tốc 30km giờ.
Năm 1935: Xe ô tô chở khách, chở hàng rộ lên khắp Nam Kỳ. Các nhà
tư bản bỏ vốn đầu tư mua xe chạy khắp các ngả, từ thành thị đến thôn quê.
*Xe hơi
Năm 1905 miền Nam có khoảng 6 chiếc, phần lớn thuộc về người châu
Âu và chỉ có một hoặc hai chiếc thuộc về người Việt. Các xe hơi thời đó
chủ yếu là xe hơi Pháp, hiệu Citroen, Peugeot và Renault, ba thương hiệu
nổi trội đầu thế kỷ XX.
Từ năm 1910 trở đi, xe ô tô đã tiến bộ hơn nhiều, kiểu dáng thanh lịch,
máy móc tối tân. Những người có xe ôtô thời ấy là các quan chức người
Pháp hay các nhà cự phú.

90
Đến năm 1914, xe hơi đã phổ biến trong giới điền chủ lớn tư sản và
công chức vùng Tây Nam Bộ. Ở miệt vườn người ta đã gặp những ông
điền chủ đội khăn xếp đen mặc áo dài, ra dáng nhà Nho, ngồi sau tay lái
xe hơi chạy băng băng trên đường mỗi giờ đến bảy tám mươi ngàn thước
(30km).
Trong những năm 1920, thị trường xe hơi Pháp mở rộng hơn ở Đông
Dương. Ngoài ra, một số người mua lại xe tải hoặc xe có kích thước lớn
để biến thành xe chở khách. Có hơn 500 công ty vận tải trên khắp lãnh thổ
Đông Dương, do người Việt và người Hoa quản lý, đảm bảo phương tiện
giao thông cho người dân địa phương.
Từ cuối những năm 1940 đầu 1950, quảng cáo xe hơi bắt đầu nhắm
vào khách hàng Việt Nam thuộc tầng lớp trung lưu, được thiết kế bằng
hình ảnh những phụ nữ Việt trong bộ áo dài tạo dáng trước những chiếc
xe.
(Xăng dầu: Từ ngày người ta dùng dầu lửa để thắp đèn thay cho dầu
dừa, dầu mù u và xe ô tô được nhập vào Nam kỳ, nhu cầu xăng dầu trở
nên cần thiết. Năm 1906, thống đốc Nam kỳ ban hành nghị định cấp phép
xây dựng kho xăng Nhà Bè. Xăng dầu đã lọc hoặc thô chủ yếu được nhập
từ các thuộc địa của Hà Lan như Malaysia, Indonesia hoặc từ Hoa Kỳ và
Trung Quốc. Cũng vào giai đoạn này, một số khu vực phân phối và trạm
xăng đã được xây dựng trong thành phố và dọc theo trục quốc lộ 1).
Ngoài xe hơi còn có các loại phương tiện được cải tiến tại chỗ, chạy
bằng gazogène, nghĩa là động cơ chạy bằng than củi. Loại xe này khá phát
triển tại Đông Dương, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và
trong Thế Chiến II, sau khi quân Nhật đổ vào Việt Nam. Kiểu xe này có
hình dạng khác với các mẫu ô tô thông thường vì có thêm một lò đốt than
đằng sau, trong khi xe vẫn chạy. Mẫu xe này đến những năm 1980 vẫn
còn được sử dụng nhiều ở Nam bộ.
Bên cạnh đó còn có những chiếc Citroen, Renault được cải tiến để
thích nghi với điều kiện địa phương, biến những chiếc xe hơi chạy xăng
thành xe chạy gazogène.
5 2.4.2.2. Giao thông vận tải đường thủy:
a/ Kênh rạch, kênh đào
Nam kỳ có hệ thống sông rạch tự nhiên phân bố khắp nơi nên việc
giao thông bằng đường thủy đã có từ trước.
Tuy nhiên sông rạch có dòng chảy quanh co, cung đường rất dài, một
số rạch cạn và hẹp, tàu thuyền có trọng tải lớn không đi qua được… Do
đó người Pháp đã đặt công tác nạo vét sông rạch, đào kênh mương để
phục vụ cho việc vận chuyển bằng đường thủy lên hàng đầu, làm rầm rộ

91
từ năm 1907 đến năm 1930, tạo nên một hệ thống giao thông đường thủy
hết sức thuận lợi giữa Sài Gòn, Chợ Lớn với các tỉnh và giữa các tỉnh, các
quận với nhau.
Nhiều công ty nhiều hãng tư nhân vận tải đường thủy ra đời, đặc biệt
là các hãng tư nhân của người Hoa. Một trong những người Hoa nổi tiếng
kinh doanh vận tải đường thủy là chú Hỷ, có tàu chạy khắp Nam kỳ. Tàu
chú Hỷ có giá vé rẻ hơn, cơm nước dễ chịu nhưng giờ giấc thì không đúng
như tàu Pháp. Tuy nhiên, vì hành khách toàn là người Việt, người Hoa,
người Khmer, nên chậm giờ không sao. Vì vậy tàu của người Hoa chiếm
dần hành khách của tàu Pháp.
Nếu không kể hệ thống kênh đào được cư dân Phù Nam thực hiện vào
thời Óc Eo thì con kinh lớn đầu tiên được đào tại vùng Tây Nam bộ là
con kinh do ông Nguyễn Cửu Vân, một danh tướng kiêm nhà doanh điền
thời chúa Nguyễn Phúc Chu, chỉ huy thực hiện năm 1705. Con kênh dài
22km, nối sông Vàm Cỏ Tây với rạch Mỹ Tho, đến năm 1819 vua Gia
Long cho nạo vét lại đặt tên là kinh Bảo Định.
Kênh đào lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến Việt Nam là kinh
Vĩnh Tế, dài gần 100km, nối từ sông Châu Đốc đến sông Giang. Ngoài
việc tạo sự thông thương đi lại, kênh Vĩnh Tế có nhiệm vụ xả nước ngập
ra biển Tây, rửa phèn cho tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên, dẫn nước ngọt
về để khẩn hoang suốt cả dải đất phía Tây Nam. Con kênh chạy song song
với đường biên giới Việt Nam-Campuchia nên còn có vai trò trọng yếu
trong việc giữ gìn bảo vệ biên cương bờ cõi đất nước. Kinh được khởi
công cuối năm 1819 và hoàn tất năm 1824. Sau khi hoàn tất vua Minh
Mạng rất hài lòng, cho lấy tên vợ của ông Nguyễn Văn Thoại (người trực
tiếp chỉ huy đào kênh) là Châu Vĩnh Tế để đặt tên cho con kênh này và sai
khắc hình con kinh lên Cao đỉnh, một trong chín Cửu đỉnh tại Thái miếu,
kinh thành Huế.
Dưới thời Pháp thuộc, con kênh có quy mô lớn đầu tiên được thực
hiện là Kinh Xáng xà no. Công trình này có thể so sánh với việc xây dựng
đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho trên bộ. Con kinh dài gần 40km, được
người Pháp thi công trong 3 năm 1901-1903 bằng phương tiện cơ giới
hiện đại là xáng múc để múc đất. Xáng múc chạy bằng hơi nước, mạnh
350 mã lực, với một giàn gầu sắt, mỗi gầu múc được 375 lít, bùn chảy
theo máng ra hai bên và được thổi xa đến 60m. Từ xa chiếc xáng sừng
sững như một chiếc chiến hạm, tiếng máy nổ vang xa tới năm ba cây số.
Dọc hai bờ kênh người ta phải chở củi tới chờ sẵn để dùng cho việc đốt
nồi súp de. Người điều khiển và đi theo phục vụ lên đến hàng trăm người.
“Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kia liệt máy, anh mới đành bỏ em”.

92
Xáng múc đã tạo nên ấn tượng rất mạnh với người Tây Nam Bộ về sức
mạnh cơ giới của phương Tây, vì vậy mà dân chúng thường thêm chữ
xáng vào tên gọi của con kênh này, gọi là Kinh Xáng Xà no.
Con kênh đã mang nước sông Hậu rửa mặn cho cả một vùng đất hoang
rộng lớn để phát triển nông nghiệp, nhờ nó mà diện tích trồng lúa và sản
lượng lúa gạo ở vùng này tăng lên. Dân đến lập nghiệp dọc hai bên bờ
kênh ngày càng đông, ấp Chợ Vàm, Cái Nhum được hình thành. Con kênh
được mệnh danh là con đường lúa gạo miền Hậu Giang.
b. Các phương tiện vận chuyển đường thủy:
Dù người Pháp đưa canô, tàu thủy, xà lang chạy bằng máy hơi nước
hoặc bằng xăng cho những tuyến đường thủy dài liên tỉnh, việc di chuyển
của hành khách và chuyên chở hàng hóa vẫn phải dùng ghe, xuồng
truyền thống. Ghe, xuồng vẫn được sử dụng cho tới ngày hôm nay.
Ghe xuồng đã có tại Việt Nam từ xa xưa, thể hiện qua các hình ảnh
trên trống đồng. Lịch sử Việt Nam cũng rất nổi tiếng với những trận đánh
trên sông.
Trong quá trình Nam tiến, người Việt sử dụng chủ yếu là ghe, vào đến
phương Nam, giao lưu với các dân tộc và các nước trong khu vực có kỹ
thuật đóng ghe thuyền nên ghe của người Việt càng phát triển.
Tùy theo kích cỡ và kiểu dáng mà ghe được chia thành nhiều loại, loại
lớn, đi xa thì gọi là ghe, loại nhỏ, đi gần gọi là xuồng.
“Không xuồng nên phải lội sông
Đói lòng nên phải ăn ròng bè môn”.
Một số ghe xuồng còn phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay:
Xuồng ba lá: trọng lượng nhỏ, sức chở hạn chế, nhỏ nhẹ nên không
cần gắn động cơ, dễ dàng kéo ngang bờ không cần rất nhiều người, dễ đi
vào những kênh rạch nhỏ. Do diện tích tiếp xúc nhỏ, hạn chế tối đa sức
cản của nước nên có thể di chuyển nhanh ngay cả ở nơi nước cạn. Mũi và
đuôi xuồng giống nhau nên tính linh hoạt và cơ động trong việc điều khiển
rất cao. Chiếc xuồng được ghép từ 3 miếng ván nên được gọi là xuồng ba
lá.
Vào mùa mưa hay mùa nước nổi, chiếc xuồng là người bạn thân thiết.
Vào mùa nắng, người ta ngâm xuồng dưới sông, khi nào dùng thì kéo lên
lại, gọi là lắc nước xuồng.
Ở vùng sông rạch lớn, còn có loại xuồng be tám, xuồng be chín, kích
thước bằng xuồng ba lá, nhưng đóng bằng nhiều tấm ván. Xuồng để đi
bán dạo hoặc đi câu người ta làm thêm cái mui, trên có đủ vật dụng như

93
bếp lửa, mùng mền,... Cũng có người dùng xuồng nhỏ này vượt sông lớn
để đi tìm luồng cá.
Xuồng 5 lá: Dài và rộng hơn xuồng ba lá, có mũi nhọn hoặc mũi vỏ,
hai bên có hai mắt, giữa có nút hình chuồng hay mỏ neo, sức chở từ 1 đến
2 tấn, loại này thường thấy ở Cần Thơ.
Xuồng tam bảng (ghe tam bảng): Tam bản có nguồn gốc từ tiếng Hoa
(xam pản), người Pháp đọc thành sampan.
Không phải ghép từ 3 tấm mà là nhiều tấm, kích cỡ có nhiều loại, mũi
và lái hơi bầu, dùng để chuyên chở nhẹ, mỗi xuồng có thể chở được từ 20
đến 30 giạ lúa. Loại xuồng này thường xuất hiện ở các bến chợ, ngã ba
sông. Các điền chủ nhỏ và vừa thường dùng để đi lại trên sông rạch. Ở
Vĩnh Long, xuồng tam bản còn được dùng đi câu tôm hoặc cào tôm cá.
Xuồng vỏ gòn: giống vỏ trái Gòn, kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản,
kiểu dáng gọn nhẹ.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) của người Khmer, làm bằng cách chẻ dọc
thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột. Một số được làm bằng gỗ sao, gỗ sến
mua ở Campuchia.
Ngoài ra còn có các loại xuồng câu tôm, xuồng bơi, xuồng máy, …
Ghe bầu: là loại có kích thước lớn, chở nặng. Ghe bầu xuất xứ từ miền
Bắc, miền Trung, mũi lái nhọn, bụng phình to để chở nhiều hàng và để
chống với sóng lớn vì loại này đi được ngoài biển. Khi có gió thì căng
buồm để chạy nhanh.
Ghe be: không mui hoặc có mui nhỏ lệch về phía lái làm nơi cư trú.
Có kèm theo hai ghe bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe chài: là loại thuyền to, chở được nhiều, mui rất kiên cố, có hai
tầng. Ghe chia thành hai phần: phần đầu chở hàng hóa, phần sau là nơi
nghỉ ngơi. Có một cái mui rời phía sau lái làm nơi tắm giặt nấu nướng.
Ghe cá/ghe rỗi: chở cá sấu đi bán xa. Do trữ cá sống nên mực nước
trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên ngoài để ghe được thăng
bằng.
Trách ai nỡ đốn cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm.
Ngoài ra còn có các loại ghe khác như ghe cửa, ghe hàng bổ, ghe giàn,
ghe cui, ghe ngắn,…
Hai loại ghe mà ngày nay chỉ thấy kiểu tương tự, dành cho khách du
lịch là:

94
Ghe hầu: dành cho Cai tổng, Tri phủ, Tri huyện; ban đêm thắp sáng
đèn để báo hiệu là ghe của Quan. Đầu rồng đuôi phụng, mui lộng lẫy, bên
trong trang trí rất đẹp như một phòng khách trên nhà, chiếu bông, gối dựa
vải màu sặc sỡ, văn án thấp, ống điếu bình… Về sau các nhà giàu có dư
giả cũng sắm ghe hầu đi cho oai.
Ghe điệu: sơn son thếp vàng, lót ván trơn bóng, có chỗ nấu nướng, đủ
tiện nghi để hút á phiện cho giới nhà giàu.
Cuối thời Pháp thuộc, khi các động cơ máy nổ được dùng phổ biến
trong các ngành công nghệ, thợ đóng thuyền ở miền Tây đã sản xuất một
ghe chạy bằng máy đuôi tôm rất nhanh gọi là vỏ lãi và tắc rán.
Vỏ lãi có mũi bằng dài khoảng 9 mét, thành ghe thấp, bề ngang hẹp.
Sử dụng nhiều ở Cà Mau.
Tắc ráng: dài hơn vỏ lãi, mũi nhọn làm bằng nhựa tổng hợp, rất bền,
chạy nhanh, có thể chạy 60km một giờ, xuất hiện cuối năm 1959 tại vùng
Tắc Ráng, nay là khóm Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch
Giá, Kiên Giang.
Trẹt: có trọng tải lớn, hai đầu lái thiết kế giống nhau, vận chuyển lúa
gạo, các vật liệu xây dựng. Khi đi xa gắn thêm máy nổ, đi gần dùng sào
chống. Có khi còn được sử dụng như đò ngang đưa xe và khách qua sông.
Phà (bắc) Tải trọng lớn hàng trăm tấn, nối liền các con sông lớn chưa
có cầu. Các phà lớn ở miền Tây Nam Bộ là phà Rạch Miễu, phà Mỹ Thuận,
phà Cần Thơ, phà Hàm Luông. Các bến phà này hiện nay hầu hết đều đã
được thay thế bằng những chiếc cầu.
Xà lan (chaland) không tự vận hành được mà cần phải có tàu kéo, rất
lớn, chuyên vận chuyển xi măng sắt thép, lúa gạo trên những tuyến sông
lớn, đường dài.
c. Phương thức lưu thông và điều khiển ghe thuyền:
Ở những con sông hẹp dưới 20m, đi hai phía trái, phải như đi xe.
Ở sông lớn đi tự do hơn, ghe xuồng nhỏ đi bên trong vì nước chảy yếu
hơn; ghe đi xuôi dòng thì đi giữa dòng để tận dụng sức nước.
Mỗi ghe có treo 2 đèn: bên phải xanh, bên trái đỏ. Ghe ngược chiều
phải đi phía bên trái, màu đỏ, gặp những khúc sông có đóng đáy (treo đèn
bão), cũng đi về phía đèn đỏ.
Ban đêm đi giữa vệt sáng của hai bóng cây, quan sát dòng sáng của
nước để tránh ghe trước và quan sát dòng xoáy để tránh chướng ngại vật.
Ghe chở nặng thường không đi xuôi dòng nước vì rất khó dừng lại nếu
muốn, thường đi theo ngược nước nhưng lúc nước chảy yếu.

95
Vì gắn bó đường thủy lâu năm, người dân đồng bằng sông Cửu Long
có cách nhận biết con nước lớn, nước ròng rất độc đáo. Nước ròng nhưng
mặt nước có nhiều bọt có nghĩa là nước sẽ rất lớn. Trăng mọc nước bắt
đầu ròng, trăng trên đỉnh đầu nước bắt đầu lớn.
Mùng 2, 17 ÂL nước đầy, mùng 10, 20 ÂL nước kém.
Sông sâu nước chảy mùng 7 kém rồi
Tảo tần chi cho lắm, cái nồi cũng ra ơ.
d. Kỹ thuật đi ghe xuồng:
Bơi lái, bơi mũi - dùng mái dầm (hình cây mái dầm)
Chống xuồng - dùng sào
“Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa”.
Chèo tay (chèo chiếc, chèo đôi)
Chèo đạp
Từ ngữ về chèo phong phú: chèo mái nổi, chèo mái chìm, chèo mái
cuốc, chèo mái một, liệc (giảm tốc độ), móc, lạu (thay bánh lái), nại (nại
khỏi chỗ đó)
Chèo ghe mái nổi mái chìm
Lòng anh thương bậu nên tìm tới đây
Tới đây lạ xứ lạ làng
Ai ai cũng lạ chỉ mình nàng quen.
Chức năng của ghe thuyền:
 Chuyên chở
 Đánh bắt
 Thương mại
Buôn bán trên sông nước là một nghề nghiệp rất đặc thù của vùng Tây
Nam bộ. Trong lịch sử Việt Nam xưa nay chưa có nghề nào đầy tự hào
như nghề buôn bán ở Tây Nam Bộ.
Miền Bắc miền Trung: “Thật thà cũng thể lái trâu”, “Đồ con buôn”
Miền Nam: “Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống bể lên nguồn gạo chợ nước sông”.
“Sông Tiền sông Hậu cùng nguồn

96
Thuyền bè tấp nập bán buôn dập dìu”.
“Ghe bầu các lái đi buôn
Đêm khuya ngồi buồn kể chuyện ngân nga”.
Quan hệ giữa khách buôn hồ và người dân ở các thôn ấp Nam Bộ là
một thứ quan hệ tin cậy, chất phát, gắn bó với nhau bằng nghĩa, bằng tình
 Cư trú
 Phục vụ du lịch
e. Các tín ngưỡng liên quan đến ghe thuyền:
Không có phương tiện nào liên quan nhiều đến tín ngưỡng như phương
tiện đường thủy. Từ khi đóng một chiếc thuyền, các trại thuyền phải thực
hiện các nghi thức:
Lễ cúng ghim lô: Khởi công, mâm cúng đặt trên tấm ván gỗ đầu tiên
của chiếc thuyền, miếng gỗ có cột vải đỏ hoặc mâm cúng có miếng vải đỏ
cầu may mắn.
Lễ cúng khai nhãn: Tục vẽ mắt thuyền ở Việt Nam đã có từ thế kỷ 1
để tránh loài thủy quái, giống tục xăm mình. Thuyền là vật linh, phải có
mắt. Phải cúng cho mắt sáng sủa, lanh lợi, đi đúng hướng, tránh rủi ro.
Không cho người lạ sờ mắt thuyền sợ bị yếm đối. Người dân Vũng Tàu
xem ngày vẽ mắt là ngày chẵn.
Lễ hạ thủy: Luôn cúng vịt (trắng) vì vịt bơi lội giỏi và không bao giờ
chìm.
Khi đi ghe thuyền,:
- Không bước lên, ngồi ở mũi ghe vì mũi ghe là nơi linh thiêng
- Không chạy nhảy, gác một chân trên ghe
- Không ngồi quay lưng về phía trước ghe
- Không ngồi thả chân xuống nước
- Rửa mũi ghe khi có con vật gì đó bang ngang trước mũi ghe
- Không sờ mắt ghe, …
Trên ghe người ta thờ: Thần tài, Thần mộc, thần máy trên thuyền
Lập miếu cúng ở những nơi ghe xuồng hay xảy ra tai nạn.
Hàng năm có Lễ tết ghe (mùng 3 tết ÂL), Lễ tống phong (thả đầu heo,
xôi chè, bánh trái, hình nhân cầm chèo trên bè chuối…), Lễ cầu mưa (đua
ghe), Lễ Nghinh Ông (Lễ tôn sùng Ông lớn, ông Khơi, ông Chuông, ông
Nam Hải, kết hợp thờ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, cầu an, cầu mùa).

97
6 2.4.2.3. Giao thông vận tải đường hàng không
Năm 1791, sớm hơn tất cả các vùng khác trong nước, người dân Gia
Định đã từng được chứng kiến một quả khinh khí cầu do Giám mục Bá
Đa Lộc thả lên bầu trời Bến Nghé để tuyên truyền cho dân chúng Đàng
trong biết đến nền văn minh của nước Pháp, đồng thời gây thân thế cho
Chúa Nguyễn Ánh bấy giờ đang tích cực chuẩn bị ra đánh quân Tây Sơn
ở Quy Nhơn.
Ngày 10/12/1910, lần đầu tiên một chiếc máy bay loại 4 cánh đã xuất
hiện trên bầu trời Sài Gòn, lượn mấy vòng cho dân chúng ngắm vật lạ. Sau
đó máy bay đáp xuống trường đua ngựa của thành phố, nay là Bộ chỉ huy
Quân sự TPHCM, đường Cách mạng tháng Tám. Chiếc máy bay đáp
xuống Sài Gòn vô tình đã gợi ý cho viên toàn quyền Đông Dương lúc bấy
giờ là Albert Sarraut có chủ trương dùng máy bay vào mục đích quân sự
để đối phó với các cuộc nổi dậy của người Việt.
Năm 1911: toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut cử một Phái đoàn
chuyên viên người Pháp nghiên cứu việc đưa ngành hàng không vào xứ
thuộc địa.
Năm 1917: chính quyền Bắc kỳ cho xây sân bay Vị Thủy ở tỉnh Sơn
Tây.
Năm 1919: sau khi chính thức thành lập phi đội Nam Kỳ, chính quyền
thực dân Pháp ở Sài Gòn xây dựng sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là tên
của một thôn làng nằm trên vùng đất cao phía bắc TPHCM, cách trung
tâm thành phố 5km.
Năm 1920: sân bay Tân Sơn Nhất hoàn thành, nhưng chỉ dùng trong
quân sự, có một đường băng nền đất trồng cỏ. 4 năm sau, đường băng
được trải nhựa, nhà ga bắt đầu được xây dựng.
Tháng 1/1921: 2 chuyến bay đầu tiên được thực hiện: Hà Nội ↔ Sài
Gòn, Hải Phòng ↔ Xiêng Khoảng.
Tháng 4/1921: chuyến bay thẳng Hà Nội-Sài Gòn đầu tiên được thực
hiện, mất 8giờ30
Tháng 4/1923: Hàng không vận chuyển thư từ và các dịch vụ về bưu
điện của nhà nước.
Năm 1930: chính quyền Sài Gòn muốn mở rộng sân bay nhưng giá đất
xung quanh sân bay đã tăng cao không đủ ngân sách bồi thường.
Năm 1933: chuyến bay đầu tiên của hãng hàng không Pháp đã bay
chuyến Paris-Sài Gòn-Paris trong 50 giờ, đúng một tuần lễ mới đến Sài
Gòn, do không bay được ban đêm.
7 Tiểu kết:

98
Nhìn chung, trong Văn hóa đi lại của người miền Nam:
1. Văn hóa sông nước là đặc điểm nổi trội.
Ghe xuồng không chỉ là phương tiện đi lại không thể thiếu mà còn đi
sâu vào đời sống tinh thần của người Tây Nam Bộ.
Trong số 1.554 câu ca dao người Việt vùng Tây Nam Bộ: 68 lần xuất
hiện từ ghe, 46 lần xuất hiện từ thuyền, 42 lần xuất hiện từ tàu, 33 lần
xuất hiện từ đò, 22 lần xuất hiện từ xuồng, động từ chèo gặp 56 lần, bơi
15 lần, lái 12 lần…. Trung bình cứ 100 câu thì có 19 câu liên quan đến
việc đi lại trên sông nước
2. Người miền Nam, tiếp thu văn minh phương Tây, cụ thể là các
phương tiện giao thông mới một cách nhanh chóng, dứt khoát, rõ ràng và
sử dụng một cách rất linh hoạt.
Cuối thế kỷ thứ XIX, xe kéo tay du nhập vào Tây Nam Bộ.
Năm 1912 xe đạp xuất hiện tại Tây Nam Bộ, đầu tiên là ở Mỹ Tho.
Xe đạp lúc bấy giờ được gọi là xe máy, rất cồng kềnh và nặng nề...
Đầu năm 1917, Pháp đưa xuống Gò Công 10 chiếc cho nhân viên bưu tá
sử dụng. Lúc đầu, Sở bưu chính Gò Công phải mời hai chuyên viên từ Sài
Gòn xuống tập luyện cho các nhân viên trong một tuần. Khi biết sử dụng
rồi thì người dân nắm bắt công nghệ rất nhanh. Đến năm 1918, ở Gò Công
đã tổ chức cuộc đua xe đạp đầu tiên toàn vùng Tây Nam Bộ3.
Ít lâu sau, xe lôi đạp ra đời ở Nam Bộ.
Năm 1906 xe hơi được nhập vào Sài Gòn, đến năm 1914 đã rất phổ
biến trong giới điền chủ, tư sản và công chức Nam Bộ.
Công tử bạc liêu Trần Trinh Huy sắm xe hơi đi đòi nợ các tỉnh và đi
chơi. Năm 1922 xe hơi thể thao Peugeot ở miền Nam chỉ có 2 chiếc, ông
có một chiếc và chiếc thứ hai là của vua Bảo Đại. Ông cũng sắm máy bay
để đi thăm đồng “toa sắm máy bay đi thăm ruộng còn có ích hơn Bảo Đại
sắm máy bay đi Buôn Mê Thuột chơi bời”.
Các loại xe đã đi vào đời sống người dân Tây Nam Bộ thật hồ hởi náo
nức:
Bước lên xe kéo, miệng réo xe hơi

3
Trong kháng chiến chống Pháp, người Việt Nam đã dùng xe đạp để thồ hàng hóa.

Jules Roy, một sĩ quan Pháp từng tham chiến ở Điện Biên Phủ, đã viết trong hồi ký: “Không phải viện trợ
Trung Quốc đã đánh bại tướng Navarre, mà là những chiếc xe đạp Peugest chở 200 - 300 kilô do người
đẩy”.

99
Anh bảo em về sắm áo kim thời
Khăn rằn ri em đội, cho kịp đời văn minh”
“Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Sóc Trăng
Bước lên xe đầu đội khăn rằn
Nói cười yểu điệu nhiều chàng phải mê”
“Hò rồi ghé nhà qua chơi
Tổn hao qua chịu hết, mướn xe hơi đưa em về”

100
STT NỘI DUNG GHI
CHỦ ĐỀ 2.4. VĂN HÓA ĐI LẠI CỦA CƯ DÂN NAM BỘ CHÚ

1 Mục tiêu học tập chủ đề:


Chủ đề này giúp Sinh viên nhìn tổng quát về việc đi lại của cư dân Nam
Bộ, trả lời được các câu hỏi Đi đâu?, Đi bằng phương tiện gì?
Mô tả vắn tắt nội dung:
2.4.1. Đi đâu?
2.4.2. Đi bằng phương tiện gì?
Trong chủ đề này, chúng ta không phân chia nội dung theo các dân tộc vì
hầu hết việc đi lại đều nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản hằng ngày, và
với các dân tộc ít người thì các nhu cầu ấy lại càng đơn giản. Các điểm
đến công cộng, các phương tiện đi lại của các dân tộc khác ở Nam bộ hầu
hết đều tương tự các phương tiện mà người Việt sử dụng.
Sau phần Văn hóa Đi lại là phần Tổng kết về Văn hóa Vật chất của Cư
dân Nam bộ.
2 2.4.1. “Đi đâu?”
Trong việc đi lại, câu hỏi đầu tiên luôn là “đi đâu?”
Dân gian thường nói chung chung: đi chợ, đi ruộng, đi chùa, đi làm, đi
học, đi chơi,… đó là các hoạt động đi lại cơ bản, đáp ứng các nhu cầu vật
chất và tinh thần tối thiểu của con người.
Trong nền văn hóa thuần nông, đi ruộng còn bao gồm đi cày, đi cấy, đi sạ,
đi gặt, đi thăm đồng… Với người sống với biển, với sông thì hoạt động đi
lại của họ còn có đi câu, đi lưới, đi chài, … Mỗi ngành nghề có các hoạt
động đi lại đặc thù riêng, và tùy từng tình huống trong cuộc sống, người
ta còn có những nhu cầu đi lại cụ thể hơn. Chẳng hạn đi chơi có thể là đi
coi hát, đi đám, đi thăm (ai đó)…
Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày một cách sơ lược bốn nội dung
mà toàn bài Văn hóa Nam bộ chưa đề cập, gồm: đi chợ - chỉ hoạt động
trao đổi, mua bán; đi làm - các họat động mưu sinh bằng những ngành
nghề khác nhau; đi học - hoạt động giáo dục và đi chơi - hoạt động giải trí
- để phác họa một bức tranh chung về đời sống Nam bộ thật sự có nhiều
biến đổi, làm gia tăng đột biến nhu cầu đi lại của người Nam bộ, bắt đầu
từ khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam.
2.4.1.1. Đi chợ

82
Từ thời văn hóa Óc Eo “Các nước ngoài biên cảnh đi lại buôn bán rất
thường xuyên… Chợ ở đây là chốn Đông Tây giao hội, mỗi ngày có hơn
vạn người” (Lương thư).
Đến thời những người Việt Đàng ngoài vào Đàng trong khai hoang,
chợ lại được hình thành. “Chợ Nguyễn Thực ở phía Tây trấn thự, cách 10
dặm, lập năm Đinh Mùi Túc Tông thứ 3 (1727), do người Quảng Ngãi tên
là Nguyễn Văn Thực phá rừng rậm rạp lập chợ ở đây, bèn thành chỗ tụ
hội đông ở miền núi gò” (Trịnh Hoài Đức). Nhu cầu đi lại để giao lưu, trao
đổi, buôn bán của người Nam Bộ từ xưa đã luôn là rất lớn. Đó là một hoạt
động sống.
Từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, hoạt động mua bán ở Nam
bộ đã diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Chợ hình thành ở khắp các tỉnh thành,
nhiều loại hình, nhiều quy mô: chợ họp trên sông, nơi giao nhau của các
dòng nước, chợ lưu động bằng ghe thuyền, chợ cố định trên đất… Hàng
hóa dồi dào, sản phẩm phong phú, thành phần người bán người mua đa
dạng, nhiều dân tộc, nhiều quốc tịch. “Ở trấn Phiên An (phần lớn người
Tàu buôn bán), thuyền biển buôn bán đi về, cột buồm sát nhau, trăm thứ
hàng hóa hợp lại, khiến chốn ấy là nơi đô hội lớn của đất Gia Định, cả
nước không nơi nào bằng…” (Trịnh Hoài Đức). Giữa thế kỷ XIX, hệ thống
chợ tại các địa phương Nam bộ đã hình thành như mạng lưới. Tại Nam bộ
thời kỳ này có “93 chợ với các quy mô khác nhau”.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp chủ trương “đào kênh,
lập chợ, mở lộ xe”, thương nghiệp phát triển mạnh, các chợ nổi ở miền
Tây Nam bộ ra đời càng nhiều, “buổi sáng lúc nhóm chợ xuồng ghe tấp
nập đến nỗi chúng ta có thể đi một vòng qua năm con kênh xáng, bằng
cách bước chuyển từ xuồng này sang ghe kia đậu sát bên…” (Sơn Nam);
chợ cũ được nâng cấp, chợ mới được dựng thêm.
Thời kỳ Nam bộ phụ thuộc vào viện trợ Mỹ, 1954-1975, chỉ riêng Sài
Gòn đã có “hàng trăm chợ lớn, nhỏ, hàng vạn cửa hàng…”
Sau thời “ngăn sông cấm chợ”, bước vào thời kinh tế thị trường, năm
1999, cả Nam bộ có hơn 2.000 chợ lớn nhỏ. “Đông Nam bộ có 886 chợ,
TPHCM 304 chợ, ĐBSCL có 1.178 chợ, tất cả tạo thành mạng lưới chợ
dày đặc và liên hoàn…” [Theo: Nguyễn Thị Thoa 2011: 15- 31].
2.4.1.2. Đi làm
Thời Pháp thuộc, công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp bao gồm các
hoạt động khai thác Nông nghiệp, Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp và
Giao thông vận tải đã tạo ra rất nhiều ngành nghề mới, nhiều công việc
mới. Ở Nam bộ, cũng như toàn Việt Nam bắt đầu xuất hiện các Phòng
Canh nông, Vườn bách thảo, các đồn điền cao su, Cơ quan địa chính…
Rồi hàng loạt các nhà máy ra đời, nhà máy xay xát lúa gạo, sửa chữa tàu

83
biển, ghe thuyền, nhà máy rượu, bia, nước ngọt, nhà máy điện, nhà máy
nước, nhà máy thuốc lá, nhà máy thủy tinh, nhà máy xà bông,…; các
xưởng cơ khí v.v…
Đó là chưa kể các hoạt động Tài chính; hoạt động Văn hóa, thể thao;
hoạt động Bưu điện, Viễn thông, Y tế… với nhiều văn phòng, nhiều công
sở làm việc rất mới mẻ so với đời sống nông nghiệp trước đây như ngân
hàng, tòa soạn, đài phát thanh, nhà in, thư viện, viện bảo tàng, bệnh
viện,… Rất nhiều người Việt trở thành công nhân, thành thợ, thành nhân
viên phải đi làm mỗi ngày.
Nhu cầu đi lại của người dân gia tăng một cách ngoạn mục từ ngày đó
cho đến tận bây giờ, theo đà phát triển chung của xã hội.
2.4.1.3. Đi học
Để khuyến khích người Việt học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ nhằm phổ
biến văn hóa Pháp, hướng người Việt đến văn minh Pháp, đến đạo Thiên
Chúa mà quên đi văn hóa cổ truyền, chính quyền thực dân Pháp đã mở
trường, cấp học bổng, cho ở nội trú, cung cấp mọi tiện nghi ăn ở, áo quần,
sách vở cho học sinh.
Các trường học từ cấp tiểu học đến trung học, đại học lần lượt ra
đời, dùng mọi cách để lôi kéo học sinh. Tinh thần bài Pháp khiến người
Việt không cho con cái đi học trường Pháp, không học chương trình mới…
Nhưng hệ thống trường học ấy, cùng với thời gian tồn tại lâu đời ở
Việt Nam cũng đã đào tạo ra nhiều trí thức cho Việt Nam. Nhiều người
Việt đã học cái hay của văn hóa Pháp để hiểu Pháp và chống Pháp.
Hệ thống trường học theo các cấp lớp như thời mới ra đời ấy đã được
duy trì đến ngày nay.
2.4.1.4. Đi chơi
Người Nam bộ “đi chơi” ở đâu? Người dân có thể đến rạp xem hát bội.
Rạp và ban hát bội có rất nhiều ở các tỉnh, thành Nam bộ. Chẳng hạn, ở
Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định có đến 22 rạp và ban hát bội và ở Sa Đéc
có rạp rất lừng danh của ông Cả Tam.
Hay đêm đêm có thể cùng quây quần trên manh chiếu, quanh bình trà
mà đờn ca với nhau, vui với phong trào đờn ca tài tử. Rồi ít lâu sau đó,
kéo nhau đến rạp xem ca ra bộ, xem chiếu bóng. Rạp hát kiểu phương
Tây là những gì rất mới mẻ với đời sống tinh thần người Việt1. Chiếu bóng
đã tới Sài Gòn năm 1898, chỉ 3 năm sau khi bộ môn nghệ thuật này xuất

1
Ở Sài Gòn, năm 1894, Nhà hát thành phố được khởi công xây dựng quy mô, trải qua nhiều biến động lịch
sử, đến nay Nhà hát vẫn còn là nơi dành cho các bộ môn giải trí mang tính hàn lâm của người Nam bộ.

84
hiện lần đầu tiên lại Pháp, chiếm mất vai trò độc tôn của nghệ thuật hát
bội truyền thống.
Ảnh hưởng những bộ môn nghệ thuật mới của phương Tây, từ đờn ca
tài tử, ca ra bộ, nghệ thuật Cải lương đã ra đời. Cải lương với các rạp ở
Sài Gòn, Mỹ Tho và các đoàn cải lương đi diễn khắp vùng miền Tây Nam
bộ đã trở thành món ăn tinh thần quá tuyệt vời, hợp khẩu vị với người
Nam bộ suốt cả trăm năm.
Ngoài Cải lương, người dân còn có thể giải trí bằng kịch nói và xiếc,
hai bộ môn nghệ thuật hoàn toàn mới lạ đối với xứ Nam kỳ. Cũng mới lạ
như vậy là các trận bóng đá trên sân vận động; các trận quần vợt, đua xe
đạp và các cuộc đua ngựa ở các trường đua, …
Nội dung “đi chơi” của người Nam bộ trở nên phong phú hơn rất nhiều từ
khi văn hóa Việt Nam giao lưu, ảnh hưởng văn hóa Pháp.
Việc đi chơi còn bao gồm cả việc đi tham dự các đám, tiệc, thăm viếng
vốn rất quen thuộc và thường xuyên trong văn hóa nông nghiệp Việt Nam.
Ngoài đi chợ, đi học, đi làm, đi chơi, … người Nam bộ khi ăn mặc sạch
sẽ, tươm tất hơn một chút thì người đó có thể đang chuẩn bị đi chùa…
Đi chùa (Phật giáo) phổ biến hơn đi lễ (Thiên chúa giáo) vì lý do gì thì ta
đã biết trong chương 1, Lịch sử Văn hóa NB, và trong chương 3, phần Tôn
giáo, ta sẽ có dịp biết rõ hơn nữa về nội dung này.
3 2.4.2. “Đi bằng phương tiện gì?”
2.4.2.1. Giao thông vận tải đường bộ
a. Con đường Cái Quan hay còn gọi là đường Quan lộ, đường Quan
báo, đường Thiên lý.
Hệ thống đường bộ ở Việt Nam sử ghi là có từ thời nhà Lý, chia thành
từng "cung", có trạm xá với mục đích chạy công văn. Mỗi trạm cách nhau
khoảng 15-20km có phu trạm canh gác.
Sang thời nhà Lê, năm 1471 triều đình đã cho đắp đường Thiên lý từ
Thăng Long vào đến Bình Định.
Khi vua Gia Long thống nhất đất nước, lập ra nhà Nguyễn thì con
đường giao thông Nam Bắc được triều đình sai đắp lại, chạy dài từ Ải
Nam Quan đến Hà Tiên. Dọc đường cách khoảng 30 dặm thì đặt một trạm
xá có viên chức địa phương trông coi. Tổng cộng vào giữa thế kỷ XIX có
133 trạm và 6.000 cai đội và phu trạm phục dịch.
Quốc lộ 1 ngày nay có nhiều đoạn đã được hình thành từ con đường
Thiên lý lịch sử này.

85
Con đường Thiên lý có giá trị văn hóa lớn đối với người Việt, nói lên
sự thống nhất của mọi miền đất nước và lịch sử Nam tiến của dân tộc.
Trước khi người Pháp chiếm Nam kỳ, giao thông vận tải cả Nam kỳ
chưa phát triển. Đường bộ chỉ mới có đường thiên lý, mang tính quốc lộ.
Sự lưu thông gặp nhiều trở ngại vì ngăn cách bởi nhiều con sông sâu, gặp
mùa bão lụt thì bị tắt. Sông rạch thì chằng chịt, thuyền phải đi quanh co,
lại chịu ảnh hưởng của thủy triều Nam bộ có nhiều chỗ giáp nước, phải
chờ thuận dòng mới đi được.
Khi mới đến, người Pháp cố tìm cách sử dụng hệ thống đường thủy,
nhưng sau đó không thành hiện thực vừa vì lý do chính trị, địa-chiến lược,
vừa vì công nghệ. Vì thế, Nha Công Chính tập trung vào những phương
tiện trên mặt đất. Từ những năm 1910-1920, các khoản đầu tư chủ yếu đổ
vào phát triển hệ thống đường xá, đầu tiên là tuyến quốc lộ 1 xuyên suốt
Việt Nam, cải tạo các tuyến đường thiên lý đã có sẵn sau đó là những tuyến
đường khác bắt nguồn từ quốc lộ 1 toả đi khắp nơi.
b. Từ 1880-1920: hệ thống đường bộ trên địa bàn Nam kỳ đã được
thực hiện rộng khắp, gồm:
Hệ thống đường thuộc địa; (Sài Gòn-Tây Ninh, Cam pốt; Sài Gòn-
Vũng Tàu, Sài Gòn-Sóc Trăng; Sài Gòn-Hà Tiên; Thủ Đức-Thủ Dầu Một,
Vĩnh Long-Cần Thơ, Long Xuyên-Rạch Giá).
Hệ thống đường quản hạt hay đường tỉnh;
Hệ thống đường địa hạt hay đường tỉnh;
Hệ thống đường làng và liên hương, đường nông thôn.
(Năm 1929: tỉnh Bạc Liêu có 10 hương lộ, 11 đường nông thôn, tỉnh
Chợ Lớn có 11 hương lộ, 7 đường nông thôn, tỉnh Gia Định có 45 hương
lộ, 4 đường nông thôn).
c. Hệ thống cầu
Để hệ thống đường bộ liền lạc, vai trò của các cây cầu là vô cùng lớn,
nhất là ở địa hình nhiều sông rạch như ở miền Nam.
“Làm cầu rồi lại làm cầu
Làm cầu cho đến bạc đầu chưa xong”.
“Chỉ riêng ở xã Vĩnh Hòa Hưng, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang,
trên chặng đường từ Ủy ban xã đến ấp Vĩnh Anh dài 7km tính theo đường
chim bay, mà đã phải đi qua 241 cây cầu lớn nhỏ bắc qua mương rạch mà
hầu như mỗi nhà đều làm” (Sơn Nam).
Miền Nam là nơi có nhiều loại cầu hơn các vùng miền khác: Cầu khỉ, Cầu
ván, Cầu phao, Cầu đúc - cầu xi măng, Cầu sắt, Cầu quay

86
“Bao giờ cầu nọ hết quay
Thì qua với bậu mới đứt dây can trường”.
Ngày nay:
Cầu Mỹ Thuận là cầu dây văng dài nhất Đông Nam Á.
Cầu Rạch Miễu do Việt Nam tự đầu tư và thiết kế.
Cầu Cần Thơ là cầu dây văng có nhịp chính dài nhất Đông Nam Á.
4 d. Các loại phương tiện vận tải và các tuyến đường bộ:
Hệ thống đường bộ phát triển dẫn đến việc ra đời và phát triển của
ngành kinh doanh vận chuyển hành khách và hàng hóa bằng các loại
phương tiện từ các loại xe thô sơ đến các loại xe tân tiến nhập từ Pháp.
d1/ Các loại xe thô sơ
Các loại xe thô sơ đã có từ lâu và được chế tạo tại chỗ như xe kiếng,
xe kéo, xe thổ mộ2, xe trâu, xe bò, người Pháp gọi chung là loại xe
malabares.
Vùng đồi gò, đồng bằng, thành thị người ta dùng xe bò, xe trâu, sau
dùng xe ngựa làm phương tiện giao thông và phục vụ trong sản xuất nông
nghiệp.
“Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang
Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một
Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu".
Xe cá thường thấy ở Long An, được thiết kế rất đơn giản không mui,
không đèn vì chủ yếu chở người làm đồng, người buôn bán.
Xe lá liễu khá mỏng manh và phổ biến ở Đà Lạt, Vũng Tàu phục vụ
cho các tiểu thư, phu nhân thời Pháp thuộc.
Các loại xe thô sơ hầu hết chạy trong 2 thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn,
các thị xã, tỉnh lỵ và vùng ngoại ô. Về sau các loại xe thô sơ đã được sử
dụng rộng rãi khắp địa bàn các tỉnh.
Năm 1904, thống đốc Nam kỳ đã ra quy định về độ tuổi, sức khỏe,…
cho những người điều khiển xe công cộng trên toàn Nam Kỳ.

2
Xe thổ mộ là xe ngựa, xuất hiện trong thành phố Sài Gòn và những vùng quê lân cận từ thập niên 40. Lính
Tây kêu xe đó là boite d' allumettes (xe hộp quẹt) hay bình dân hơn là xe "tac a tac". Người Việt kêu là xe
thổ mộ vì cái thùng liền với cái mui cong cong giống như một cái mả đất. Có các giả thuyết khác là tên gọi
thổ mộ xuất phát từ tiếng Quảng Đông "xe độc mã" người Tàu đọc là thu ma, người Việt gọi trại ra là thổ
mộ; hoặc thổ mộ là cách nói tắt của Thủ Dầu Một, là nơi được cho là quê hương của xe thổ mộ.

87
d2/ Tàu điện
Các loại xe thô sơ như xe kính, xe ngựa mỗi chuyến không chở được
nhiều người mà di chuyển lại chậm, ô tô của châu Âu nhập vào chưa nhiều,
hầu hết là chỉ phục vụ cho giới quan chức chính quyền cấp cao hay các
nhà tư bản. Vì vậy người Pháp nghĩ đến tàu điện để giải quyết nhu cầu đi
lại và giao lưu hàng hóa giữa khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn.
Ưu điểm của tàu điện là vận tốc chậm hơn xe lửa, chạy trong thành
phố qua các con đường hoặc dọc các đường không cần phải có rào chắn,
người gác. Tàu điện có chuông báo động liên tục từ xa, người ta đã có thể
nhận ra tàu sắp đến để tránh. Ưu điểm thứ hai là đường ray của tàu điện
đặt chìm, không hạn chế sự di chuyển của các loại xe cộ khác.
Dưới thời Pháp thuộc trên địa bàn Nam kỳ của các tuyến đường tàu
điện như:
1. Tuyến đường tàu điện Sài Gòn-Chợ Lớn chạy ngay đường thấp (nay
là bến Chương Dương bến Hàm Tử), cặp rạch Tàu Hủ.
2. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Chợ Lớn chạy trên đường cao (nay là đường
Nguyễn Trãi).
3. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Gò Vấp nối đến chợ Hóc Môn.
Lợi nhuận của các nhà đầu tư trên 3 tuyến đường tàu điện này rất đáng
kể, chẳng hạn năm 1897 phí tổn bỏ ra khai thác 1km tuyến đường Sài Gòn-
Chợ lớn là 4093 đồng bạc Đông Dương, thu vào 4.110 đồng; năm 1901
vốn bỏ ra là 6.883 đồng, thu vào là 23.956 đồng.
Song song với các chuyến tàu điện còn có các chuyến xe buýt cách
nhau 15 phút.
4. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Gò Vấp-Lái Thiêu-Thủ Dầu Một
Hàng ngày nông dân ở vùng Lái Thiêu đem nông sản sang bán tại các
chợ thuộc nội thành Sài Gòn rất đông. Năm 1909, thống đốc Nam Kỳ mở
cuộc trưng cầu ý dân về việc mở đường tàu điện từ Gò Vấp lên Hóc Môn,
ra tới bờ sông Sài Gòn. Đến 1912, đoạn đường sắt này đã làm xong và
được phép khai thác. Đầu năm 1930, tuyến đường được kéo dài từ Thủ
Dầu Một đến bến Đông Sơ chở công nhân từ các đồn điền cao su ở Thủ
Dầu Một lên đến Lộc Ninh, đưa mủ cao su về cảng Sài Gòn để xuất khẩu.
5. Tuyến tàu điện Sài Gòn-chợ Bình Tây
6. Tuyến tàu điện Sài Gòn-Phú Nhuận
Hệ thống tàu điện bao gồm tất cả các tuyến, hoạt động đến khi Nam
bộ kháng chiến thì chấm dứt vì đường ray bị phá hoại nhiều đoạn, chỉ có
tuyến từ ga Sài Gòn đến bến cảng là còn hoạt động để bốc xếp hàng hóa.

88
d3/ Xe lửa
* Tuyến đường sắt Sài Gòn Mỹ Tho
Song song với việc xây dựng và khai thác hệ thống tàu điện trong hai
thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, người Pháp còn nghiên cứu tuyến đường sắt
đi qua địa bàn Nam Kỳ, xuyên qua vùng châu thổ sông Cửu Long đông
dân, nhiều của cải với các điểm mốc là Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Ôn, Châu
Đốc rồi sau đó qua Phnôm Pênh, lên đến Lào.
Việc xây dựng tuyến đường sắt gặp nhiều khó khăn vì phải qua nhiều
sông rạch, cánh đồng, đất bồi đắp phải chở từ xa hoặc phải đào sâu các
thửa ruộng dọc tuyến đường, phải xây dựng nhiều cây cầu, trong đó 2 cây
cầu khó khăn nhất là Cầu Bến Lức dài 550m và cầu Tân An dài 113m.
Ngày 20/7/1885 là ngày khánh thành tuyến đường sắt Sài Gòn-Mỹ
Tho, nhưng muốn qua sông Bến Lức thì đoàn tàu phải chuyển qua bằng
Phà.
Đến tháng 5/1886 cầu Bến Lức xây xong và được thông tàu. Đi từ
thành phố này đến thành phố kia chỉ mất 3 tiếng thay vì 12 tiếng như trước.
Đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành
giao thông vận tải của xứ Nam kỳ lúc bấy giờ nhưng nó đã không đáp ứng
được tham vọng của các nhà tư bản Pháp. Khi xây dựng tuyến đường này,
các nhà xuất cảng gạo hi vọng nó sẽ là phương tiện lợi hại để chuyên chở
lúa gạo từ miền Tây bằng thuyền lên Mỹ Tho, rồi bốc lên xe lửa chở về
Sài Gòn một cách nhanh chóng. Nhưng họ đã tính toán sai, vì thuyền chở
lúa gạo đến Mỹ Tho thì sẵn lớn nước đi thẳng lên Chợ Lớn, không có
thuyền nào ghé lại Mỹ Tho vì quá phức tạp và tốn kém.
Đường xe lửa lại chạy qua những vùng nông thôn chỉ là vườn cây ăn
trái và hoa màu không phải là vựa lúa, dân cư lại thưa thớt, hành khách đi
lại cũng không nhiều, đa số là nông dân có nhu cầu đi lại thăm viếng bà
con hoặc đem các nông sản lên Sài Gòn cung cấp cho các vựa, mỗi lần đi
chỉ đủ một gánh trên vai, các tiểu thương lên thành phố lấy hàng công
nghệ phẩm về bán lẻ ở các chợ của 2 thị trấn nhỏ, các công chức đi công
vụ, các công tử con điền chủ lên thành phố ăn chơi hoặc học sinh đi học.
Đến năm 1949, Pháp cho sửa chữa tuyến đường sắt nhưng chỉ có tác
dụng tuyên truyền, về mặt kinh doanh khai thác thì thua lỗ lớn. Vì sau khi
tái chiếm miền Nam, thực dân Pháp đã cho nhập vào rất nhiều xe khách
mà dân chúng quen gọi là xe đò. Người dân cần di chuyển đều dùng xe
đò, vừa nhanh vừa thuận tiện, dọc đường muốn lên xuống xe chỗ nào cũng
được. Các chuyến xe lửa chỉ lơ thơ người đi.
Năm 1954, chính quyền Sài Gòn tiếp tục duy trì tuyến đường nhưng
số người sử dụng xe lửa vẫn không tăng lên.

89
Cuối năm 1959 tuyến đường bị hủy bỏ sau 73 năm tồn tại, tuy vậy,
tuyến đường sắt đầu tiên ấy cũng đã đi vào đời sống tinh thần của người
Nam bộ.
Đường rày nghiêng xe lửa cũng nghiêng
Gặp nhau đây trên thủy dưới thuyền
Lời phân chưa cạn nước mắt liền tuôn rơi
Ngoài tuyến đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho, hệ thống đường sắt còn có
các tuyến đường sắt Sài Gòn-Nha Trang; Sài Gòn-Lộc Ninh (hoạt động
đến khi xảy ra Nam Bộ kháng chiến).
d4/ Ô tô
* Xe buýt
Tuyến xe buýt đầu tiên là tuyến chạy trong thành phố Sài Gòn và Chợ
Lớn do Công ty Tàu điện cho chạy thử, song song với tàu điện trên tuyến
Sài Gòn - ngã tư Phú Nhuận.
* Xe đò
Việc vận chuyển bằng xe đò được thực hiện rất sớm giữa Sài Gòn và
các tỉnh lân cận. Ban đầu chỉ là vài chiếc xe ô tô sử dụng cho ngành bưu
chính tại Sài Gòn để chuyên chở thư từ và bưu phẩm.
Năm 1885, những chiếc xe đò đầu tiên được đem vào khai thác, đó là
tuyến Sài Gòn-Trảng Bàng, Sài Gòn-Tây Ninh.
Từ 1903 đến 1908 tại Sài Gòn đã có khoảng 30 xe ô tô, kiểu xe muốn
chạy phải đốt cho máy nóng trước.
Năm 1918, có chuyến xe đò chạy tuyến Chợ Lớn-Lộc Giang, hành
khách tối đa là 11 người kể cả tài xế, vận tốc 25km một giờ và tuyến Sóc
Trăng-Bạc Liêu chở 10 người, kể cả tài xế và lơ xe, vận tốc 30km giờ.
Năm 1935: Xe ô tô chở khách, chở hàng rộ lên khắp Nam Kỳ. Các nhà
tư bản bỏ vốn đầu tư mua xe chạy khắp các ngả, từ thành thị đến thôn quê.
*Xe hơi
Năm 1905 miền Nam có khoảng 6 chiếc, phần lớn thuộc về người châu
Âu và chỉ có một hoặc hai chiếc thuộc về người Việt. Các xe hơi thời đó
chủ yếu là xe hơi Pháp, hiệu Citroen, Peugeot và Renault, ba thương hiệu
nổi trội đầu thế kỷ XX.
Từ năm 1910 trở đi, xe ô tô đã tiến bộ hơn nhiều, kiểu dáng thanh lịch,
máy móc tối tân. Những người có xe ôtô thời ấy là các quan chức người
Pháp hay các nhà cự phú.

90
Đến năm 1914, xe hơi đã phổ biến trong giới điền chủ lớn tư sản và
công chức vùng Tây Nam Bộ. Ở miệt vườn người ta đã gặp những ông
điền chủ đội khăn xếp đen mặc áo dài, ra dáng nhà Nho, ngồi sau tay lái
xe hơi chạy băng băng trên đường mỗi giờ đến bảy tám mươi ngàn thước
(30km).
Trong những năm 1920, thị trường xe hơi Pháp mở rộng hơn ở Đông
Dương. Ngoài ra, một số người mua lại xe tải hoặc xe có kích thước lớn
để biến thành xe chở khách. Có hơn 500 công ty vận tải trên khắp lãnh thổ
Đông Dương, do người Việt và người Hoa quản lý, đảm bảo phương tiện
giao thông cho người dân địa phương.
Từ cuối những năm 1940 đầu 1950, quảng cáo xe hơi bắt đầu nhắm
vào khách hàng Việt Nam thuộc tầng lớp trung lưu, được thiết kế bằng
hình ảnh những phụ nữ Việt trong bộ áo dài tạo dáng trước những chiếc
xe.
(Xăng dầu: Từ ngày người ta dùng dầu lửa để thắp đèn thay cho dầu
dừa, dầu mù u và xe ô tô được nhập vào Nam kỳ, nhu cầu xăng dầu trở
nên cần thiết. Năm 1906, thống đốc Nam kỳ ban hành nghị định cấp phép
xây dựng kho xăng Nhà Bè. Xăng dầu đã lọc hoặc thô chủ yếu được nhập
từ các thuộc địa của Hà Lan như Malaysia, Indonesia hoặc từ Hoa Kỳ và
Trung Quốc. Cũng vào giai đoạn này, một số khu vực phân phối và trạm
xăng đã được xây dựng trong thành phố và dọc theo trục quốc lộ 1).
Ngoài xe hơi còn có các loại phương tiện được cải tiến tại chỗ, chạy
bằng gazogène, nghĩa là động cơ chạy bằng than củi. Loại xe này khá phát
triển tại Đông Dương, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và
trong Thế Chiến II, sau khi quân Nhật đổ vào Việt Nam. Kiểu xe này có
hình dạng khác với các mẫu ô tô thông thường vì có thêm một lò đốt than
đằng sau, trong khi xe vẫn chạy. Mẫu xe này đến những năm 1980 vẫn
còn được sử dụng nhiều ở Nam bộ.
Bên cạnh đó còn có những chiếc Citroen, Renault được cải tiến để
thích nghi với điều kiện địa phương, biến những chiếc xe hơi chạy xăng
thành xe chạy gazogène.
5 2.4.2.2. Giao thông vận tải đường thủy:
a/ Kênh rạch, kênh đào
Nam kỳ có hệ thống sông rạch tự nhiên phân bố khắp nơi nên việc
giao thông bằng đường thủy đã có từ trước.
Tuy nhiên sông rạch có dòng chảy quanh co, cung đường rất dài, một
số rạch cạn và hẹp, tàu thuyền có trọng tải lớn không đi qua được… Do
đó người Pháp đã đặt công tác nạo vét sông rạch, đào kênh mương để
phục vụ cho việc vận chuyển bằng đường thủy lên hàng đầu, làm rầm rộ

91
từ năm 1907 đến năm 1930, tạo nên một hệ thống giao thông đường thủy
hết sức thuận lợi giữa Sài Gòn, Chợ Lớn với các tỉnh và giữa các tỉnh, các
quận với nhau.
Nhiều công ty nhiều hãng tư nhân vận tải đường thủy ra đời, đặc biệt
là các hãng tư nhân của người Hoa. Một trong những người Hoa nổi tiếng
kinh doanh vận tải đường thủy là chú Hỷ, có tàu chạy khắp Nam kỳ. Tàu
chú Hỷ có giá vé rẻ hơn, cơm nước dễ chịu nhưng giờ giấc thì không đúng
như tàu Pháp. Tuy nhiên, vì hành khách toàn là người Việt, người Hoa,
người Khmer, nên chậm giờ không sao. Vì vậy tàu của người Hoa chiếm
dần hành khách của tàu Pháp.
Nếu không kể hệ thống kênh đào được cư dân Phù Nam thực hiện vào
thời Óc Eo thì con kinh lớn đầu tiên được đào tại vùng Tây Nam bộ là
con kinh do ông Nguyễn Cửu Vân, một danh tướng kiêm nhà doanh điền
thời chúa Nguyễn Phúc Chu, chỉ huy thực hiện năm 1705. Con kênh dài
22km, nối sông Vàm Cỏ Tây với rạch Mỹ Tho, đến năm 1819 vua Gia
Long cho nạo vét lại đặt tên là kinh Bảo Định.
Kênh đào lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến Việt Nam là kinh
Vĩnh Tế, dài gần 100km, nối từ sông Châu Đốc đến sông Giang. Ngoài
việc tạo sự thông thương đi lại, kênh Vĩnh Tế có nhiệm vụ xả nước ngập
ra biển Tây, rửa phèn cho tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên, dẫn nước ngọt
về để khẩn hoang suốt cả dải đất phía Tây Nam. Con kênh chạy song song
với đường biên giới Việt Nam-Campuchia nên còn có vai trò trọng yếu
trong việc giữ gìn bảo vệ biên cương bờ cõi đất nước. Kinh được khởi
công cuối năm 1819 và hoàn tất năm 1824. Sau khi hoàn tất vua Minh
Mạng rất hài lòng, cho lấy tên vợ của ông Nguyễn Văn Thoại (người trực
tiếp chỉ huy đào kênh) là Châu Vĩnh Tế để đặt tên cho con kênh này và sai
khắc hình con kinh lên Cao đỉnh, một trong chín Cửu đỉnh tại Thái miếu,
kinh thành Huế.
Dưới thời Pháp thuộc, con kênh có quy mô lớn đầu tiên được thực
hiện là Kinh Xáng xà no. Công trình này có thể so sánh với việc xây dựng
đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho trên bộ. Con kinh dài gần 40km, được
người Pháp thi công trong 3 năm 1901-1903 bằng phương tiện cơ giới
hiện đại là xáng múc để múc đất. Xáng múc chạy bằng hơi nước, mạnh
350 mã lực, với một giàn gầu sắt, mỗi gầu múc được 375 lít, bùn chảy
theo máng ra hai bên và được thổi xa đến 60m. Từ xa chiếc xáng sừng
sững như một chiếc chiến hạm, tiếng máy nổ vang xa tới năm ba cây số.
Dọc hai bờ kênh người ta phải chở củi tới chờ sẵn để dùng cho việc đốt
nồi súp de. Người điều khiển và đi theo phục vụ lên đến hàng trăm người.
“Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kia liệt máy, anh mới đành bỏ em”.

92
Xáng múc đã tạo nên ấn tượng rất mạnh với người Tây Nam Bộ về sức
mạnh cơ giới của phương Tây, vì vậy mà dân chúng thường thêm chữ
xáng vào tên gọi của con kênh này, gọi là Kinh Xáng Xà no.
Con kênh đã mang nước sông Hậu rửa mặn cho cả một vùng đất hoang
rộng lớn để phát triển nông nghiệp, nhờ nó mà diện tích trồng lúa và sản
lượng lúa gạo ở vùng này tăng lên. Dân đến lập nghiệp dọc hai bên bờ
kênh ngày càng đông, ấp Chợ Vàm, Cái Nhum được hình thành. Con kênh
được mệnh danh là con đường lúa gạo miền Hậu Giang.
b. Các phương tiện vận chuyển đường thủy:
Dù người Pháp đưa canô, tàu thủy, xà lang chạy bằng máy hơi nước
hoặc bằng xăng cho những tuyến đường thủy dài liên tỉnh, việc di chuyển
của hành khách và chuyên chở hàng hóa vẫn phải dùng ghe, xuồng
truyền thống. Ghe, xuồng vẫn được sử dụng cho tới ngày hôm nay.
Ghe xuồng đã có tại Việt Nam từ xa xưa, thể hiện qua các hình ảnh
trên trống đồng. Lịch sử Việt Nam cũng rất nổi tiếng với những trận đánh
trên sông.
Trong quá trình Nam tiến, người Việt sử dụng chủ yếu là ghe, vào đến
phương Nam, giao lưu với các dân tộc và các nước trong khu vực có kỹ
thuật đóng ghe thuyền nên ghe của người Việt càng phát triển.
Tùy theo kích cỡ và kiểu dáng mà ghe được chia thành nhiều loại, loại
lớn, đi xa thì gọi là ghe, loại nhỏ, đi gần gọi là xuồng.
“Không xuồng nên phải lội sông
Đói lòng nên phải ăn ròng bè môn”.
Một số ghe xuồng còn phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay:
Xuồng ba lá: trọng lượng nhỏ, sức chở hạn chế, nhỏ nhẹ nên không
cần gắn động cơ, dễ dàng kéo ngang bờ không cần rất nhiều người, dễ đi
vào những kênh rạch nhỏ. Do diện tích tiếp xúc nhỏ, hạn chế tối đa sức
cản của nước nên có thể di chuyển nhanh ngay cả ở nơi nước cạn. Mũi và
đuôi xuồng giống nhau nên tính linh hoạt và cơ động trong việc điều khiển
rất cao. Chiếc xuồng được ghép từ 3 miếng ván nên được gọi là xuồng ba
lá.
Vào mùa mưa hay mùa nước nổi, chiếc xuồng là người bạn thân thiết.
Vào mùa nắng, người ta ngâm xuồng dưới sông, khi nào dùng thì kéo lên
lại, gọi là lắc nước xuồng.
Ở vùng sông rạch lớn, còn có loại xuồng be tám, xuồng be chín, kích
thước bằng xuồng ba lá, nhưng đóng bằng nhiều tấm ván. Xuồng để đi
bán dạo hoặc đi câu người ta làm thêm cái mui, trên có đủ vật dụng như

93
bếp lửa, mùng mền,... Cũng có người dùng xuồng nhỏ này vượt sông lớn
để đi tìm luồng cá.
Xuồng 5 lá: Dài và rộng hơn xuồng ba lá, có mũi nhọn hoặc mũi vỏ,
hai bên có hai mắt, giữa có nút hình chuồng hay mỏ neo, sức chở từ 1 đến
2 tấn, loại này thường thấy ở Cần Thơ.
Xuồng tam bảng (ghe tam bảng): Tam bản có nguồn gốc từ tiếng Hoa
(xam pản), người Pháp đọc thành sampan.
Không phải ghép từ 3 tấm mà là nhiều tấm, kích cỡ có nhiều loại, mũi
và lái hơi bầu, dùng để chuyên chở nhẹ, mỗi xuồng có thể chở được từ 20
đến 30 giạ lúa. Loại xuồng này thường xuất hiện ở các bến chợ, ngã ba
sông. Các điền chủ nhỏ và vừa thường dùng để đi lại trên sông rạch. Ở
Vĩnh Long, xuồng tam bản còn được dùng đi câu tôm hoặc cào tôm cá.
Xuồng vỏ gòn: giống vỏ trái Gòn, kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản,
kiểu dáng gọn nhẹ.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) của người Khmer, làm bằng cách chẻ dọc
thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột. Một số được làm bằng gỗ sao, gỗ sến
mua ở Campuchia.
Ngoài ra còn có các loại xuồng câu tôm, xuồng bơi, xuồng máy, …
Ghe bầu: là loại có kích thước lớn, chở nặng. Ghe bầu xuất xứ từ miền
Bắc, miền Trung, mũi lái nhọn, bụng phình to để chở nhiều hàng và để
chống với sóng lớn vì loại này đi được ngoài biển. Khi có gió thì căng
buồm để chạy nhanh.
Ghe be: không mui hoặc có mui nhỏ lệch về phía lái làm nơi cư trú.
Có kèm theo hai ghe bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe chài: là loại thuyền to, chở được nhiều, mui rất kiên cố, có hai
tầng. Ghe chia thành hai phần: phần đầu chở hàng hóa, phần sau là nơi
nghỉ ngơi. Có một cái mui rời phía sau lái làm nơi tắm giặt nấu nướng.
Ghe cá/ghe rỗi: chở cá sấu đi bán xa. Do trữ cá sống nên mực nước
trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên ngoài để ghe được thăng
bằng.
Trách ai nỡ đốn cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm.
Ngoài ra còn có các loại ghe khác như ghe cửa, ghe hàng bổ, ghe giàn,
ghe cui, ghe ngắn,…
Hai loại ghe mà ngày nay chỉ thấy kiểu tương tự, dành cho khách du
lịch là:

94
Ghe hầu: dành cho Cai tổng, Tri phủ, Tri huyện; ban đêm thắp sáng
đèn để báo hiệu là ghe của Quan. Đầu rồng đuôi phụng, mui lộng lẫy, bên
trong trang trí rất đẹp như một phòng khách trên nhà, chiếu bông, gối dựa
vải màu sặc sỡ, văn án thấp, ống điếu bình… Về sau các nhà giàu có dư
giả cũng sắm ghe hầu đi cho oai.
Ghe điệu: sơn son thếp vàng, lót ván trơn bóng, có chỗ nấu nướng, đủ
tiện nghi để hút á phiện cho giới nhà giàu.
Cuối thời Pháp thuộc, khi các động cơ máy nổ được dùng phổ biến
trong các ngành công nghệ, thợ đóng thuyền ở miền Tây đã sản xuất một
ghe chạy bằng máy đuôi tôm rất nhanh gọi là vỏ lãi và tắc rán.
Vỏ lãi có mũi bằng dài khoảng 9 mét, thành ghe thấp, bề ngang hẹp.
Sử dụng nhiều ở Cà Mau.
Tắc ráng: dài hơn vỏ lãi, mũi nhọn làm bằng nhựa tổng hợp, rất bền,
chạy nhanh, có thể chạy 60km một giờ, xuất hiện cuối năm 1959 tại vùng
Tắc Ráng, nay là khóm Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch
Giá, Kiên Giang.
Trẹt: có trọng tải lớn, hai đầu lái thiết kế giống nhau, vận chuyển lúa
gạo, các vật liệu xây dựng. Khi đi xa gắn thêm máy nổ, đi gần dùng sào
chống. Có khi còn được sử dụng như đò ngang đưa xe và khách qua sông.
Phà (bắc) Tải trọng lớn hàng trăm tấn, nối liền các con sông lớn chưa
có cầu. Các phà lớn ở miền Tây Nam Bộ là phà Rạch Miễu, phà Mỹ Thuận,
phà Cần Thơ, phà Hàm Luông. Các bến phà này hiện nay hầu hết đều đã
được thay thế bằng những chiếc cầu.
Xà lan (chaland) không tự vận hành được mà cần phải có tàu kéo, rất
lớn, chuyên vận chuyển xi măng sắt thép, lúa gạo trên những tuyến sông
lớn, đường dài.
c. Phương thức lưu thông và điều khiển ghe thuyền:
Ở những con sông hẹp dưới 20m, đi hai phía trái, phải như đi xe.
Ở sông lớn đi tự do hơn, ghe xuồng nhỏ đi bên trong vì nước chảy yếu
hơn; ghe đi xuôi dòng thì đi giữa dòng để tận dụng sức nước.
Mỗi ghe có treo 2 đèn: bên phải xanh, bên trái đỏ. Ghe ngược chiều
phải đi phía bên trái, màu đỏ, gặp những khúc sông có đóng đáy (treo đèn
bão), cũng đi về phía đèn đỏ.
Ban đêm đi giữa vệt sáng của hai bóng cây, quan sát dòng sáng của
nước để tránh ghe trước và quan sát dòng xoáy để tránh chướng ngại vật.
Ghe chở nặng thường không đi xuôi dòng nước vì rất khó dừng lại nếu
muốn, thường đi theo ngược nước nhưng lúc nước chảy yếu.

95
Vì gắn bó đường thủy lâu năm, người dân đồng bằng sông Cửu Long
có cách nhận biết con nước lớn, nước ròng rất độc đáo. Nước ròng nhưng
mặt nước có nhiều bọt có nghĩa là nước sẽ rất lớn. Trăng mọc nước bắt
đầu ròng, trăng trên đỉnh đầu nước bắt đầu lớn.
Mùng 2, 17 ÂL nước đầy, mùng 10, 20 ÂL nước kém.
Sông sâu nước chảy mùng 7 kém rồi
Tảo tần chi cho lắm, cái nồi cũng ra ơ.
d. Kỹ thuật đi ghe xuồng:
Bơi lái, bơi mũi - dùng mái dầm (hình cây mái dầm)
Chống xuồng - dùng sào
“Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa”.
Chèo tay (chèo chiếc, chèo đôi)
Chèo đạp
Từ ngữ về chèo phong phú: chèo mái nổi, chèo mái chìm, chèo mái
cuốc, chèo mái một, liệc (giảm tốc độ), móc, lạu (thay bánh lái), nại (nại
khỏi chỗ đó)
Chèo ghe mái nổi mái chìm
Lòng anh thương bậu nên tìm tới đây
Tới đây lạ xứ lạ làng
Ai ai cũng lạ chỉ mình nàng quen.
Chức năng của ghe thuyền:
 Chuyên chở
 Đánh bắt
 Thương mại
Buôn bán trên sông nước là một nghề nghiệp rất đặc thù của vùng Tây
Nam bộ. Trong lịch sử Việt Nam xưa nay chưa có nghề nào đầy tự hào
như nghề buôn bán ở Tây Nam Bộ.
Miền Bắc miền Trung: “Thật thà cũng thể lái trâu”, “Đồ con buôn”
Miền Nam: “Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống bể lên nguồn gạo chợ nước sông”.
“Sông Tiền sông Hậu cùng nguồn

96
Thuyền bè tấp nập bán buôn dập dìu”.
“Ghe bầu các lái đi buôn
Đêm khuya ngồi buồn kể chuyện ngân nga”.
Quan hệ giữa khách buôn hồ và người dân ở các thôn ấp Nam Bộ là
một thứ quan hệ tin cậy, chất phát, gắn bó với nhau bằng nghĩa, bằng tình
 Cư trú
 Phục vụ du lịch
e. Các tín ngưỡng liên quan đến ghe thuyền:
Không có phương tiện nào liên quan nhiều đến tín ngưỡng như phương
tiện đường thủy. Từ khi đóng một chiếc thuyền, các trại thuyền phải thực
hiện các nghi thức:
Lễ cúng ghim lô: Khởi công, mâm cúng đặt trên tấm ván gỗ đầu tiên
của chiếc thuyền, miếng gỗ có cột vải đỏ hoặc mâm cúng có miếng vải đỏ
cầu may mắn.
Lễ cúng khai nhãn: Tục vẽ mắt thuyền ở Việt Nam đã có từ thế kỷ 1
để tránh loài thủy quái, giống tục xăm mình. Thuyền là vật linh, phải có
mắt. Phải cúng cho mắt sáng sủa, lanh lợi, đi đúng hướng, tránh rủi ro.
Không cho người lạ sờ mắt thuyền sợ bị yếm đối. Người dân Vũng Tàu
xem ngày vẽ mắt là ngày chẵn.
Lễ hạ thủy: Luôn cúng vịt (trắng) vì vịt bơi lội giỏi và không bao giờ
chìm.
Khi đi ghe thuyền,:
- Không bước lên, ngồi ở mũi ghe vì mũi ghe là nơi linh thiêng
- Không chạy nhảy, gác một chân trên ghe
- Không ngồi quay lưng về phía trước ghe
- Không ngồi thả chân xuống nước
- Rửa mũi ghe khi có con vật gì đó bang ngang trước mũi ghe
- Không sờ mắt ghe, …
Trên ghe người ta thờ: Thần tài, Thần mộc, thần máy trên thuyền
Lập miếu cúng ở những nơi ghe xuồng hay xảy ra tai nạn.
Hàng năm có Lễ tết ghe (mùng 3 tết ÂL), Lễ tống phong (thả đầu heo,
xôi chè, bánh trái, hình nhân cầm chèo trên bè chuối…), Lễ cầu mưa (đua
ghe), Lễ Nghinh Ông (Lễ tôn sùng Ông lớn, ông Khơi, ông Chuông, ông
Nam Hải, kết hợp thờ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, cầu an, cầu mùa).

97
6 2.4.2.3. Giao thông vận tải đường hàng không
Năm 1791, sớm hơn tất cả các vùng khác trong nước, người dân Gia
Định đã từng được chứng kiến một quả khinh khí cầu do Giám mục Bá
Đa Lộc thả lên bầu trời Bến Nghé để tuyên truyền cho dân chúng Đàng
trong biết đến nền văn minh của nước Pháp, đồng thời gây thân thế cho
Chúa Nguyễn Ánh bấy giờ đang tích cực chuẩn bị ra đánh quân Tây Sơn
ở Quy Nhơn.
Ngày 10/12/1910, lần đầu tiên một chiếc máy bay loại 4 cánh đã xuất
hiện trên bầu trời Sài Gòn, lượn mấy vòng cho dân chúng ngắm vật lạ. Sau
đó máy bay đáp xuống trường đua ngựa của thành phố, nay là Bộ chỉ huy
Quân sự TPHCM, đường Cách mạng tháng Tám. Chiếc máy bay đáp
xuống Sài Gòn vô tình đã gợi ý cho viên toàn quyền Đông Dương lúc bấy
giờ là Albert Sarraut có chủ trương dùng máy bay vào mục đích quân sự
để đối phó với các cuộc nổi dậy của người Việt.
Năm 1911: toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut cử một Phái đoàn
chuyên viên người Pháp nghiên cứu việc đưa ngành hàng không vào xứ
thuộc địa.
Năm 1917: chính quyền Bắc kỳ cho xây sân bay Vị Thủy ở tỉnh Sơn
Tây.
Năm 1919: sau khi chính thức thành lập phi đội Nam Kỳ, chính quyền
thực dân Pháp ở Sài Gòn xây dựng sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là tên
của một thôn làng nằm trên vùng đất cao phía bắc TPHCM, cách trung
tâm thành phố 5km.
Năm 1920: sân bay Tân Sơn Nhất hoàn thành, nhưng chỉ dùng trong
quân sự, có một đường băng nền đất trồng cỏ. 4 năm sau, đường băng
được trải nhựa, nhà ga bắt đầu được xây dựng.
Tháng 1/1921: 2 chuyến bay đầu tiên được thực hiện: Hà Nội ↔ Sài
Gòn, Hải Phòng ↔ Xiêng Khoảng.
Tháng 4/1921: chuyến bay thẳng Hà Nội-Sài Gòn đầu tiên được thực
hiện, mất 8giờ30
Tháng 4/1923: Hàng không vận chuyển thư từ và các dịch vụ về bưu
điện của nhà nước.
Năm 1930: chính quyền Sài Gòn muốn mở rộng sân bay nhưng giá đất
xung quanh sân bay đã tăng cao không đủ ngân sách bồi thường.
Năm 1933: chuyến bay đầu tiên của hãng hàng không Pháp đã bay
chuyến Paris-Sài Gòn-Paris trong 50 giờ, đúng một tuần lễ mới đến Sài
Gòn, do không bay được ban đêm.
7 Tiểu kết:

98
Nhìn chung, trong Văn hóa đi lại của người miền Nam:
1. Văn hóa sông nước là đặc điểm nổi trội.
Ghe xuồng không chỉ là phương tiện đi lại không thể thiếu mà còn đi
sâu vào đời sống tinh thần của người Tây Nam Bộ.
Trong số 1.554 câu ca dao người Việt vùng Tây Nam Bộ: 68 lần xuất
hiện từ ghe, 46 lần xuất hiện từ thuyền, 42 lần xuất hiện từ tàu, 33 lần
xuất hiện từ đò, 22 lần xuất hiện từ xuồng, động từ chèo gặp 56 lần, bơi
15 lần, lái 12 lần…. Trung bình cứ 100 câu thì có 19 câu liên quan đến
việc đi lại trên sông nước
2. Người miền Nam, tiếp thu văn minh phương Tây, cụ thể là các
phương tiện giao thông mới một cách nhanh chóng, dứt khoát, rõ ràng và
sử dụng một cách rất linh hoạt.
Cuối thế kỷ thứ XIX, xe kéo tay du nhập vào Tây Nam Bộ.
Năm 1912 xe đạp xuất hiện tại Tây Nam Bộ, đầu tiên là ở Mỹ Tho.
Xe đạp lúc bấy giờ được gọi là xe máy, rất cồng kềnh và nặng nề...
Đầu năm 1917, Pháp đưa xuống Gò Công 10 chiếc cho nhân viên bưu tá
sử dụng. Lúc đầu, Sở bưu chính Gò Công phải mời hai chuyên viên từ Sài
Gòn xuống tập luyện cho các nhân viên trong một tuần. Khi biết sử dụng
rồi thì người dân nắm bắt công nghệ rất nhanh. Đến năm 1918, ở Gò Công
đã tổ chức cuộc đua xe đạp đầu tiên toàn vùng Tây Nam Bộ3.
Ít lâu sau, xe lôi đạp ra đời ở Nam Bộ.
Năm 1906 xe hơi được nhập vào Sài Gòn, đến năm 1914 đã rất phổ
biến trong giới điền chủ, tư sản và công chức Nam Bộ.
Công tử bạc liêu Trần Trinh Huy sắm xe hơi đi đòi nợ các tỉnh và đi
chơi. Năm 1922 xe hơi thể thao Peugeot ở miền Nam chỉ có 2 chiếc, ông
có một chiếc và chiếc thứ hai là của vua Bảo Đại. Ông cũng sắm máy bay
để đi thăm đồng “toa sắm máy bay đi thăm ruộng còn có ích hơn Bảo Đại
sắm máy bay đi Buôn Mê Thuột chơi bời”.
Các loại xe đã đi vào đời sống người dân Tây Nam Bộ thật hồ hởi náo
nức:
Bước lên xe kéo, miệng réo xe hơi

3
Trong kháng chiến chống Pháp, người Việt Nam đã dùng xe đạp để thồ hàng hóa.

Jules Roy, một sĩ quan Pháp từng tham chiến ở Điện Biên Phủ, đã viết trong hồi ký: “Không phải viện trợ
Trung Quốc đã đánh bại tướng Navarre, mà là những chiếc xe đạp Peugest chở 200 - 300 kilô do người
đẩy”.

99
Anh bảo em về sắm áo kim thời
Khăn rằn ri em đội, cho kịp đời văn minh”
“Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Sóc Trăng
Bước lên xe đầu đội khăn rằn
Nói cười yểu điệu nhiều chàng phải mê”
“Hò rồi ghé nhà qua chơi
Tổn hao qua chịu hết, mướn xe hơi đưa em về”

100
1 CHỦ ĐỀ 2.5. TIỂU KẾT VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT
CỦA CƯ DÂN NAM BỘ
Ăn uống:
Các dân tộc Đông Nam bộ:
 Ăn uống thể hiện tính cộng đồng cao
 Các món ăn, thức ăn là sản vật của rừng,
 Có triết lý trong ăn uống
Các dân tộc Tây Nam bộ:
 Tận dụng tất cả các sản vật phong phú của tự nhiên
 Cách ăn uống thể hiện sự phóng khoáng (ăn miếng to, uống ly trà
đá to, bữa ăn nhiều thức ăn)
 Liều lĩnh, thích thử nghiệm cái mới (ăn rau dại, hoa, các động vật
lạ: Cần chi cá lóc cá trê/ Thịt chuột thịt rắn nhậu mê hơn nhiều)
 Chú trọng việc ăn uống giữ gìn sức khỏe (vì rừng thiêng nước độc,
cân bằng âm dương nhiệt hàn trong đồ ăn: trái cây ngọt - âm, chấm muối
- dưong; cháo cá - âm, thêm gừng - dương, nấu chè ngọt - âm cho chút
muối - dương, ăn nhiều chất chua, canh chua để giải cảm).
 Bữa ăn hàng ngày không câu nệ phải đầy đủ cả nhà và mời mọc
nhau.
 Sự giao thoa văn hóa trong văn hóa ẩm thực diễn ra vô cùng mạnh
mẽ.
Ăn mặc:
Các dân tộc Đông Nam bộ:
 Đang mất dần bản sắc trong ăn mặc.
 Nghề dệt cổ truyền từ xưa đến nay chỉ luôn ở quy mô nhỏ và có nguy
cơ bị biến mất.
Các dân tộc Tây Nam bộ:
 Đời sống khẩn hoang, lao động tay chân vất vả khiến người Nam Bộ
ăn mặc hàng ngày đơn giản, xoàng xĩnh. (Mần cho lắm, tắm không áo
quần thay/ Mần lai rai, ngày thay hai bộ)
 Trang phục đặc biệt nhất là bộ bà ba với chiếc khăn rằn rất đa năng.
 Các dân tộc ít người chịu ảnh hưởng cách ăn mặc của người Việt,
của phương Tây. (Chứng tỏ, những gì tiện dụng luôn chiếm ưu thế, như
chiếc khăn rằn).

82
Ở:
 Nhà ở truyền thống: nhà dài của đồng bào Đông Nam bộ, nhà sàn
của đồng bào Tây Nam bộ đã dần biến mất. Nhà đất kiểu người Kinh phổ
biến khắp vùng, chứng minh cho tính tiện dụng.
 Nhà của người Tây Nam bộ chú trọng: “Nhất cận thị, nhị cận giang”
để thuận lợi chuyện đi lại và buôn bán.
 Thói quen trong tiềm thức của những người đi khai hoang vẫn còn,
cộng với thiên nhiên không quá khắc nghiệt và đặc tính không biết tiết
kiệm chắt chiu, khiến người Nam Bộ không đầu tư lắm vào ngôi nhà.
Đi lại:
 Văn hóa sông nước chi phối rất mạnh mẽ, thể hiện qua cách hiểu và
tận dụng, đối phó với nước; qua sự phong phú của các loại ghe xuồng.
Ghe xuồng không chỉ là phương tiện mà còn đi vào đời sống tinh thần của
người Nam bộ.
 Về phương tiện đường bộ, người Nam bộ đã tiếp nhận các phương
tiện của phương Tây theo đúng chất Nam Bộ: nhanh, thoáng, hồ hởi, thực
tế và linh hoạt.
 Các tài liệu văn hóa không đề cập đến việc đi lại của các dân tộc ít
người ở Đông Nam bộ lẫn Tây Nam bộ, điều đó cho thấy đi lại chỉ là một
nhu cầu trong sinh hoạt và phương tiện nào đáp ứng tốt nhất nhu cầu đó
thì sẽ được con người dễ dàng tiếp nhận.
Tóm lại trong giao thoa văn hóa giữa các dân tộc khu vực Nam bộ:
mức độ đậm nhạt sẽ đi từ: Đi lại - Nhà ở - Ăn mặc và Ăn uống.
Vấn đề ăn mặc và ăn uống không có sự giao thoa văn hóa nhiều như
vấn đề đi lại và nhà ở, vì:
Trang phục truyền thống của mỗi dân tộc không chỉ là vật che thân mà
còn là câu chuyện việc lịch sử, về chính trị, về bản sắc văn hóa;
Ăn uống không chỉ để nuôi thân mà còn là vấn đề tín ngưỡng tôn giáo,
là bản sắc của mỗi dân tộc.
Như vậy,
Các nhu cầu cơ bản nhất của con người, các nhu cầu vật chất như ăn
(để sống, để no, để khỏe, để ngon,) mặc (tiện lợi, thoải mái, dễ sắm) đi lại
(nhanh, dễ), thì các dân tộc học hỏi lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau một
cách tự nhiên và mạnh mẽ.
Cũng cùng những lĩnh vực đó nhưng những gì liên quan đến đời sống
tinh thần (như thức ăn dâng cúng, trang phục trong lễ nghi, trang phục

83
truyền thống,…) thì mỗi dân tộc vẫn đang bảo lưu, gìn giữ, vì nó chính là
cái nền, cái gốc, là cái bản sắc của từng dân tộc.

84
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 3 VĂN HÓA TINH THẦN CHÚ

CỦA CƯ DÂN NAM BỘ


CHỦ ĐỀ 3.1. TÍN NGƯỠNG
1 Chương 3
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN NAM BỘ
Mục tiêu học tập chương
Sau khi học chương 3, các bạn có thể trình bày được những
kiến thức cơ bản về Tín ngưỡng, Tôn giáo, Phong tục, Nghệ
thuật của cư dân Nam Bộ, thấy được văn hóa tinh thần của
người Nam bộ đặc biệt so với người Bắc bộ và Trung bộ như
thế nào.
Chủ đề 3.1. Tín ngưỡng
Học xong chủ đề này, sinh viên có thể phân biệt được Tín ngưỡng
và Tôn giáo của người Nam bộ.
Nội dung mục này gồm có các phần:
3.1.1. Tín ngưỡng thờ Cọp
3.1.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
3.1.3. Tín ngưỡng thờ trời đất
3.1.4. Tín ngưỡng thờ Thần hoàng bổn cảnh
3.1.5. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ
2 3.1.1. Tín ngưỡng thờ Cọp
Ở vùng đất mới, rừng rậm và thứ dữ, cọp và cá sấu là hai loài
hung dữ nhất. Người Nam bộ sống trên đất liền va chạm với cọp
nhiều hơn cá sấu cho nên con cọp để lại một dấu ấn sâu sắc trong
tâm thức người dân, sâu săc đến mức trở thành một tín ngưỡng
mà đến nay dẫu cọp không còn nhiều như xưa nhưng tín ngưỡng
thờ cọp thì vẫn còn.
a/ Kiêng kỵ, tôn kính trong xưng hô:
Ông Ba Mươi (hay đi đêm) Ông Ba cụt (3 chân) Ông Ba ngoe (3
móng), Ông Chằn1, Ông Kẹ; người dân Cà Mau gọi là Ông Thầy,

1
Chằn, văn hóa Khmer gọi là Yeak, Yak, là hình tượng thần được thể hiện dưới dạng một người khổng lồ
với khuôn mặt dữ tợn: mắt lồi, mày xếch, miệng rộng, mũi to, hai nanh dài và nhọn; mặc áo rét trụ, đầu đội
103
Ông Hổ, Ông Hai Cọp hoặc Ông Khái… (Hổ, cọp, hùm, kễnh,
khái); không dám rủa con là “cọp vật mày” hay “cọp bắt mày”
(vì đã có câu chuyện sau khi mẹ rủa con như vậy, cọp đến bắt đứa
bé ngay).
b/ Phong chức tước cho cọp:
- Cọp được bầu vào chức “Hương cả”, chức vụ cao nhất làng,
đứng đầu Ban hội đề gồm 12 vị, thường dành cho người cao niên,
học nhiều hiểu rộng, có uy tín.
Chuyện bầu Hương cả ở làng Hòa Tú, Sóc Trăng và huyện
Châu Thành, Bến Tre.
(Câu chuyện ở Hòa Tú: cuối thế kỷ XIX, khi khẩn hoang lập
ấp đã cơ bản hoàn thành, người ta tiến hành bầu Ban hội tề và
Hương cả để giữ gìn an ninh trật tự. Cả ba ông đầu tiên đều gặp
tai nạn, bệnh tật qua đời. Suốt ba năm liền dân làng lo lắng, Ban
hội tề không có người đứng đầu. Sau nhiều lần bàn bạc, các vị
bô lão nhất trí cử Ông ba cụt vào chức Hương cả; dựng một miếu
thờ Ông Hổ sau Miếu thành hoàng rồi làm lễ tấn phong Ông Hổ
lên chức Hương cả. Từ đó trong nhiều năm liền mưa thuận gió
hòa cuộc sống này càng khắm khá. Uy danh Ông Cả Hổ mỗi ngày
mỗi linh thiêng.
Câu Chuyện ở Châu Thành: nhiều năm rồi, cứ ai làm Hương
cả cũng đều bị bệnh rồi chết, nên suốt nhiều năm không ai dám
nhận. Có 5 có người đứng ra nhận thì suýt bị cọp vồ chết. Mọi
người bàn nhau bầu cọp làm Hương cả. Làng làm lễ cử Hương
cả cọp, viết tờ cử, cuộn tròn để trong ống tre, cúng đầu heo quay
đặt ở hốc đá nơi trước đây cọp đã vồ Ông cả. Hàng năm theo
thông lệ cứ vào dịp đó, năm nào cọp cũng về ăn đầu heo và đổi
tờ cử cũ lấy tờ cử mới. Về sau, 6,7 năm liền không thấy cọp về,
một người trong làng mới dám nhận chức Hương cả trở lại.
Ở huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre có hai ông Cả: ấp Giồng Chuối
có Cả Vằn và ấp Đông Phèn có Cả Bạch. Hai Ông đánh nhau 3
ngày đêm, chết, con người mới dám làm Hương cả).

mão nhọn, tay cầm gậy, hai chân khuỳnh ra. “Chằn” nghĩa xấu: là thế lực xấu gây hại và phá hủy; nghĩa
tốt: bảo vệ những thành quả tốt đẹp, đánh đuổi thế lực thù địch xấu xa, là biểu tượng của thử thách, sự giằng
xé giữa thiện và ác, sự đấu tranh trong nội tâm. Chằn thường được đặt trước các cổng chùa, xung quanh
hàng rào hoặc nơi chính điện nhằm mục đích bảo vệ ngôi chùa. Chằn xuất phát từ văn hóa Bà La Môn.
Trong truyền thuyết chằn không thuộc giống loài nào, không phải là thần, không phải là thú, cũng không
phải là quỷ. Trong thần thoại Ấn Độ có một loại chằn cái rất hung dữ, tên là Yakesi, tiếng Việt hay gọi là
bà chằn, bà chằn lửa.
104
Có nơi còn làm Lễ bầu Ông, tôn Cọp làm chức Đại Hương cả.
Tục cúng Hương cả Cọp ngày nay còn vẫn còn một số nơi, mang
tính chất cầu an cho dân làng.
Dân gian có câu “Tránh ông Cả gặp phải ông Ba mươi” → tâm
thức tôn trọng luật lệ giang hồ - “Rừng nào cọp nấy”
c/ Phong thần cho Cọp và thờ cúng Cọp:
- Cầu mong Cọp phù hộ độ trì cho dân làng và giúp họ chống lại
mọi loại tà ma.
- Cọp được tôn làm Sơn Quân Chi Thần, Chúa xứ Sơn Lâm, Thần
Hổ.
- Thờ Cọp - Thần Hổ tại nơi cọp từng hiển linh, từng bắt người
hoặc nơi cọp từng bị người giết.
- Phối thờ Thần Hổ tại các đình làng hoặc các nơi thờ tự khác
(thờ tượng, thờ sọ (Châu thành Bến Tre), thờ bộ da nhồi trấu (Cần
Thơ), xây bức bình phong cọp to vằn vện.
- Xây đình thờ Cọp. (Đình Ông Hổ ở xóm Cửa Lấp, Phú Quốc,
Đình Ông Cọp ở xã Tân Thành, Cà Mau).
d/ Tục lệ mùng 3 tết:
Người Nam bộ gọi mùng 3 Tết Nguyên Đán là Tết nhà. Sau
khi cúng các vị thần chủ cai quản nhà cửa, vườn tược, súc vật và
cây cối, người Tây Nam Bộ thường dán trước cửa nhà một mảnh
giấy hồng điều có vẽ hình cọp với dòng chữ Hán “Sơn Lâm Đại
Tướng Quân” với mong muốn là Thần Hổ sẽ trấn giữ không cho
tà ma vào nhà (Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa).
Ở một số vùng trước khi dán hình cọp lên cửa người ta còn
làm lễ điểm nhãn bằng cách miệng khấn cầu Thần Hổ, tay cầm
nhang đang cháy rồi dụi vào mắt và miệng hổ. Ý muốn cọp có
mắt thần để canh giữ nhà cửa, miệng to gầm lên làm kinh sợ tà
ma. Nhưng tai thì không cho nghe thấy những mưu tính làm ăn
của chủ.
Vì cho rằng hình dán trước cửa nhà ngày mùng 3 Tết có tính
thiêng nên người dân ở Tây Nam bộ có kinh nghiệm là nếu trẻ
con hay khóc đêm thì người mẹ lén ăn trộm hình vẽ Chúa sơn

105
lâm dán trước cửa nhà người khác đem giấu trong gối ngủ của
đứa bé2.
3 3.1.2 Tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên
Sau khi ổn định cuộc sống thì tín ngưỡng quan trọng nhất
trong nhà là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là tín
ngưỡng chung của cư dân Đông Á, được thể hiện nhiều cách khác
nhau theo truyền thống của từng dân tộc.
Xuất phát từ quan niệm về sự tồn tại của hồn, vía, một người
mất đi, cơ thể không hoạt động, nhưng hồn thì vẫn thường xuyên
đi về cõi trần để giúp đỡ người thân, tất cả mọi người Việt Nam,
dù theo tôn giáo nào thì trong tâm thức vẫn có sự tôn thờ, kính
nhớ Tổ tiên.
Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Tôn giáo (năm
1995-1998), ở Hà Nội có 94,7% người được hỏi có thực hiện việc
thờ cúng Tổ tiên, ở Huế là 98,3% và ở TPHCM là 97,8%. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam phổ biến đến mức người ta
gọi đó là “Đạo Ông Bà” [VSH 2016].
Tương tự như các vùng miền khác ở Việt Nam, ở Nam bộ dù
giàu hay nghèo, người ta đều lập nơi thờ tổ tiên. Thờ đơn sơ hoặc
có bàn thờ, phòng thờ, thậm chí nhà thờ riêng.
* Gian thờ:
Trong phân bố mặt bằng sinh hoạt của ngôi nhà người
Việt, dù nhà đất hay nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất, cách phân bố
bài trí sắp xếp mặt bằng trong nhà gần như định hình theo một
trật tự, một quan niệm nhằm đáp ứng chức năng vừa là nơi thờ
cúng tổ tiên vừa là nơi cư trú.
Bất cứ loại hình nhà nào cũng phải thể hiện rõ hai khái niệm
nhà trên nhà dưới. Nhà trên luôn chiếm vị trí và diện tích ưu tiên
nhất, đó là nơi phân bố gian tiếp khách và gian thờ. Nhà người

2
(Ngay tại Việt Nam, trong các phong tục sinh nở, cả 3 loại hình phát triển nhận thức: ma thuật - tôn giáo
- khoa học vẫn song hành trong đời sống xã hội hiện đại.Các phong tục tránh ma quỷ được người miền
Nam thực hiện nhiều hơn người miền Bắc, miền Trung. Chẳng hạn, tục mang theo nhánh cây dâu tằm
khi đưa em bé ra đường, có 64,7% người miền Nam thực hiện, người miền Bắc là 37,0% và miền Trung là
45,4%. Tục cho trẻ đeo móng cọp để tránh tà ma có 48,0% người miền Nam áp dụng, miền Bắc là
20,0% và miền Trung là 41,5%,…) [VSH 2016].

106
Việt thường có 3 gian: gian giữa thờ Phật, thờ Thần; 2 gian 2 bên
thờ Ông bà cha mẹ.
Nếu chủ nhà là Tộc trưởng thì gian nhà giữa sẽ làm Từ đường,
ở đó đặt bàn thờ gia tiên.
Nếu chủ nhà thờ cả ông bà cha mẹ hai họ thì bàn thờ họ Nội
bên trái, họ Ngoại bên phải, (từ trong nhà nhìn ra) vì Nội là gốc
đặt ở cái gốc của cây đòn dông, Ngoại là ngọn nên bàn thờ đặt
phía ngọn.
Nếu cha mẹ đã qua đời chủ nhà lập bàn thờ cha mẹ ở bên trái
(bên gốc), bàn thờ ông bà ở bên phải là bên (ngọn). Theo quan
niệm người Nam bộ ông bà dù ngôi thứ lớn nhưng vẫn không
thân thiết gần gũi bằng cha mẹ.
Phía trước bàn thờ có tấm màn vải to để sinh hoạt thường nhật
trong gia đình không phạm đến tính trang nghiêm của gian thờ
phía sau.
Ở gian thờ trong ngôi nhà Tây Nam bộ truyền thống, trên
tường phía sau thường treo một bộ tranh kiếng với những chữ
Phúc Lộc Thọ hoặc phong cảnh thể hiện ước vọng của con cháu,
mong cho người chết ở thế giới bên kia có cuộc sống sung túc ấm
no. Bên trên là một bức hoành phi, hai bên là hai câu đối với nội
dung ca tụng công đức tổ tiên hoặc thể hiện lòng biết ơn của con
cháu.
* Giường thờ:
“Ở miền quê quen gọi “cái giường thờ”,..., lấy cái giường
ngủ của người quá cố đem ra thờ (như khi còn sống). Phía trước
giường thờ đặt cái tủ thờ” (Sơn Nam).
Sau giường thờ là chiếc ghế cơm/ghế tợ để bày thức ăn.
Phía trước hoặc bên cạnh bàn thờ là bàn nghi, (ghế nghi) trưng
bày bộ lư chân đèn. Lúc cúng giỗ thức ăn dọn trên giường thờ,
còn trên bàn nghi thì thắp nhang.
Thờ người chết qua biểu tượng cái giường là phong tục từ
miền Trung miền Bắc. Ở Huế vẫn còn những chiếc Long sàng
vua chúa đã qua sử dụng được đặt thờ trong các khu lăng tẩm. Ở
miền Bắc vẫn còn những gia đình lấy chiếc giường ông bà đã
nằm kê cao lên để làm bàn thờ. Ở Tây Nam bộ, có nhà còn đặt
giường thờ trên một cái rầm cao khoảng 40 cm cho trang trọng.
* Tủ thờ:
107
Đầu thế kỷ XX, người Việt vùng Tây Nam bộ mô phỏng kiểu
tủ Pháp thời vua Louis XVI để thiết kế ra tủ thờ, thay cho giường
thờ, bàn thờ. (Loại tủ này không có cửa trước, chỉ mở cửa 2 bên
hông để giữ ý tứ và tỏ lòng tôn kính tổ tiên).
Từ năm 1930, xuất hiện loại tủ thờ do thợ Gò Công đóng, trở
thành tủ Gò Công danh tiếng khắp vùng Tây Nam bộ. Nhà khá
giả thường đặt tủ thờ bằng các loại gỗ quý và trang trí cẩn xà cừ
theo các điển tích Nhị Thập Tứ Hiếu, Tam Quốc Chí, Phong
Thần.
“Chết ba năm hồn bướm dật dờ
Đặng coi người nghĩa ở lại phụng thờ làm sao
Tủ thờ tôi đóng ghế cao
Bình phong cẩn ốc hai bộ bài cào hai bên”
4 3.1.3. Tín ngưỡng thờ trời đất
Thờ trời thờ đất là tín ngưỡng chung của cư dân Văn hóa nông
nghiệp Việt Nam, nhưng ở Nam bộ, đặc biệt là Tây Nam bộ, khi
sống quá gần với thiên nhiên, tín ngưỡng thờ trời đất dường như
được thể hiện đậm nét hơn.
a/ Thờ trời:
Nhà nào cũng có bàn thờ Thiên, hay còn gọi là bàn thông
thiên, bàn thờ ông Thiên. Đúng truyền thống là bàn vuông đặt
trên cột tròn, thể hiện tư tưởng âm dương vuông tròn, cầu mong
mọi việc hoàn hảo tốt đẹp.
Mỗi ngày, chủ nhà thay bông trong bình (hái từ vườn nhà),
thay ly nước mưa, và khấn vái, cầu trời ban cho bình yên.
Nghi thức thờ trời qua bàn thờ Thiên mang đậm chất dân dã,
mộc mạc của người phương Nam. Ảnh hưởng văn hóa Khmer,
nhiều bàn thờ Thiên ở Tây Nam bộ còn kết hợp thờ thêm Ông Tà
bên cạnh, có khi là một góc nhỏ thờ đá dưới chân bàn thờ Thiên,
có khi chỉ là một hòn đá đặt cạnh lư hương.
b/ Thờ đất:
Thờ ông Công, Thổ công, Ông Táo, một Bà 2 Ông, là tín
ngưỡng phổ biến của người Việt Bắc bộ và Trung bộ. Nhưng vào
tới Nam bộ, Thổ công được thay bằng Ông Địa.
Ông Địa ở Nam bộ có những đặc điểm rất độc đáo:

108
- Chân co chân xếp là tư thế ngồi thoải mái của người bình dân.
- Cây quạt phe phẩy thể hiện phong cách nhàn nhã, là vật bất ly
thân của người xứ nóng. Cây quạt cộng với chiếc áo phanh ngực
không cài nút của Ông Địa đã hình thành một thành ngữ rất Nam
bộ là Mát trời Ông Địa.
- Bộ ngực lớn và cái bụng to của người sắp đẻ cho thấy mối liên
hệ giữa nguyên lí phồn thực sinh sôi nảy nở và tính trọng nữ trong
văn hóa người Việt ở Tây Nam bộ.
- Khăn đầu diều là trang phục điển hình của nông dân Nam bộ.
- Điếu thuốc và ly cà phê dâng cúng là tính mở của người Nam
bộ sớm tiếp nhận văn minh phương Tây.
- Con cọp theo hộ tống là dấu hiệu của thời kỳ người Nam bộ đã
chinh phục được tự nhiên hoang dã.
Ông Địa được thờ cúng cùng với Thần Tài: ông Địa làm vị
thần bảo hộ cây trái hoa màu - dấu ấn của nền kinh tế nông
nghiệp; Thần Tài là vị thần trông coi tiền bạc - sản phẩm của thời
kỳ kinh tế thương nghiệp. Nam bộ là nơi có thương nghiệp phát
triển với nền kinh tế hàng hóa hoàn thiện sớm nhất nước ta nên
tín ngưỡng thờ Thần Tài rất phổ biến. Hình ảnh của Thần tài: đội
mũ cánh chuồn, tay cầm túi vải đựng tiền, tay cầm bó lúa, xâu
tiền hoặc thoi vàng.
Nhiều nơi đồng nhất Ông Địa với Thần Tài, thờ một vị thần
với cả hai chức năng, theo triết lý mọi của cải đều từ đất mà ra.
Trang thờ luôn đặt gần cửa, ở vị trí có thể bao quát hết mọi
khách ra vào và để nghênh tiếp tài lộc và luôn đặt sát mặt đất thể
hiện mối quan hệ mật thiết với cội nguồn, thần đất phải trở về với
đất đai.
5 3.1.4. Tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng bổn cảnh
a/ Đình làng:
Dẫu rằng quan hệ cấp làng ở Nam bộ lỏng lẻo hơn so với miền
Bắc, miền Trung, không có hương ước, nhưng người Nam bộ
cũng có Đình làng và thờ Thành Hoàng.
Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng hành chánh
trong làng xã, là biểu tượng của tính cộng đồng trong việc kết
nối các thành viên trong làng và kết nối con người với thế giới
siêu nhiên.

109
Vì tính cộng đồng thôn ấp ở Nam bộ thấp hơn tính cộng đồng
làng xã Trung bộ và Bắc bộ nên người Nam bộ lại càng có nhu
cầu dựng Đình để củng cố tính cộng đồng yếu ớt đó.
“Xây dựng Đình làng là nhu cầu tinh thần, có Đình mới tạo
được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và Càn Khôn vũ
trụ, bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc,
một dạng “lưu dân tập thể”, mặc dầu làng lắm gạo nhiều tiền”
(Sơn Nam).
Đình ở Nam bộ thường ở vị trí khu đất cao ráo nơi có phong
cảnh đẹp và thường ở ngã ba sông để dân làng thuận tiện lui tới;
thường hướng theo dòng chảy của các con kênh rạch (không quay
về hướng Nam như Đình Bắc bộ) và coi trọng việc tránh hướng
của gió lùa và tránh mưa tạt hắt vào bên trong.
Khi bước vào cổng đình Nam bộ:
- Trước tiên giữa sân là một bể gạch gọi là Đàn Xã Tắc - bia
Ông Hổ. Hai bên hông là hai ngôi miếu nhỏ hình vuông thờ Bạch
Hổ và Ngũ Hành Nương Nương. Cũng có thể một số miếu nhỏ
khác thờ các vị thần như Cửu Thiên Huyền Nữ, Bà Chúa Xứ, Thổ
thần, ông Tà.
- Sau bức bình phong là Nhà võ ca, là nơi tập hợp người và
Nghi trượng phục vụ tế lễ, cũng là nơi diễn tuồng hát bội trong
các dịp lễ hội. Nối liền với Nhà võ ca đôi khi còn có một căn nhà
hẹp gọi là Nhà chầu, là nơi dành riêng cho người cầm chầu khi
có biểu diễn Hát bội. Nhà võ ca và Nhà chầu là những kiến trúc
đặc thù chỉ có riêng ở các đình làng Nam bộ, xuất phát từ tập tục
có từ thời tả quân Lê Văn Duyệt là mỗi khi làng cúng Kỳ Yên thì
ở Đình luôn tổ chức Hát bội, trước là để cúng thần, sau cho dân
làng cùng xem.
- Sau Nhà võ ca thì đến Chánh điện hay Chánh tổng là nơi
thờ thần Thành Hoàng. Chính điện chỉ mở cửa vào những ngày
lễ chính còn thường thì đóng cửa quanh năm, Ông thủ từ hàng
ngày vào thắp hương thì đi bằng cửa không mở hé.
- Trong đình còn có Nhà túc hay Túc yến là nơi chuẩn bị lễ
vật và sửa soạn y phục trước khi vào tế lễ. Ngoài ra còn có Đông
lang (bên phải), Tây lang (bên trái), là hai dãy nhà khách dành
cho nữ giới và nam giới, theo nguyên tắc Nam tả Nữ hữu, Nhà
trù là nhà bếp, Nhà cối là kho. Nếu Đình có quy mô nhỏ thì các

110
chức năng nêu trên sẽ được giản lược. Nhưng chức năng diễn
xướng thường không bỏ.
- Gian Võ ca thường được đặt ngay trong khu vực chính điện
của Đình. Nếu như ở miền Bắc hoạt động diễn xướng chỉ có thể
diễn ra ở sân đình, cách ly khu vực chính điện, thì ở Nam bộ,
người dân múa hát ngay trước khu vực thờ cúng để cho các thần
xem.
Trong một năm Đình thực hiện ba loại lễ cúng lớn:
1. Lễ Tam ngươn (lễ tam nguyên): rằm tháng 1, 7, 10 ÂL.
2. Lễ Hạ điền và Thượng điền: đầu mùa mưa, cuối mùa mưa,
kết thúc việc nhà nông, khai trương,…
3. Lễ Kỳ yên: là lễ hội lớn nhất trong năm.
Chủ lễ của mọi hoạt động ở Đình làng Nam bộ là dân làng,
là những người sống ở chính nơi đó. Người cúng đình dù đỗ đạt
cao hay làm quan to cũng chỉ là khách quý, không được đứng làm
chủ lễ.
b/ Thần Thành Hoàng:
“Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, cảnh thổ nào phải có
thành hoàng ấy”.
Chức năng chính của Đình Nam bộ là thờ thần Thành Hoàng
để thần phù hộ cho dân. Ở miền Bắc thì Đình làng là nơi làm việc
làng và thờ cúng.
Thần Thành hoàng ở miền Bắc và Trung có lai lịch danh tánh
rõ ràng, phân thành hai loại Phúc thần và Tà thần, và thường được
đúc thành tượng để thờ. Nam bộ vì là vùng đất mới, nên các thần
Thành Hoàng không có lai lịch danh tánh cụ thể. Trong Chánh
điện, trên bàn thờ chỉ có một chữ “thần” chung chung, gọi là
Thành Hoàng Bổn Cảnh, nghĩa là Thành hoàng của vùng đất này.
Theo sách Minh Mạng chính yếu quyển thứ 12, vua Minh
Mạng đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ, lệnh cho các địa phương lập
thêm thần vị Bổn Cảnh. “Đây là dạng viên chức trừu tượng được
vua ủy quyền, thần thường không phải là con người bằng xương
bằng thịt mà chỉ có mỹ hiệu chung chung là Quảng hậu, Chính
trực, Đôn ngưng (rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ)” (Sơn Nam)
Việc Vua đứng ra ban sắc phong thần cho các làng chính là
một biện pháp văn hóa để khẳng định quyền lực của chính quyền
Trung ương, đánh dấu ranh giới lãnh thổ, củng cố mối quan hệ
111
gắn bó giữa Làng và Nước, Trung ương và địa phương. Trong
mối quan hệ ấy dân chúng cảm thấy yên tâm là có nhà nước đứng
phía sau làm chỗ dựa, nhà nước thì yên tâm là có một lực lượng
dân chúng tự nguyện đứng ra bảo vệ lãnh thổ quốc gia nơi biên
viễn. Vì vậy, vào đầu triều Nguyễn, dưới thời các vua Gia Long,
Minh Mạng, Tự Đức, nhà nước cứ 3 năm lại tổ chức xét ban sắc
phong thần một lần. Đến năm 1852, đứng trước nguy cơ xâm
lược ngày càng tăng của thực dân Pháp, Vua Tự Đức đã sai cấp
đồng loạt 13.069 sắc phong thần cho cả nước, trong đó Nam bộ
là nhiều nhất.
Vì các thần thành hoàng ở Nam bộ đều do Vua sắc phong nên
ở Nam bộ tuyệt nhiên không có Tà thần. Tất cả các thần Thành
Hoàng bổn cảnh đều là Phúc thần, đều có sắc phong do Vua ban.
Các sắc phong này được các vị chức sắc trong làng giữ gìn rất kỹ
lưỡng ở Đình. Mỗi năm một lần tờ sắc được rước ra phơi để tránh
ẩm mốc, mối mọt, cũng là dịp cho dân làng được thấy tờ sắc
phong.
Với những người dân vùng ngũ Quảng và Nam Trung bộ vào
Nam khai khẩn, bơ vơ nơi vùng đất mới, Thần Thành Hoàng Bổn
Cảnh trở thành chỗ dựa tinh thần, một biểu tượng linh thiêng giúp
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống ngày thêm
ổn định và thịnh vượng.
c/ Các vị thần khác:
Ngoài thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, các đình làng Nam bộ
còn thờ nhiều vị thần khác. Sát hai bên bàn thờ có Tả ban và Hữu
ban là hai bàn thờ của các vị Thần hộ vệ cho Thành Hoàng Bổn
Cảnh. Bên cạnh còn có thể có thêm từ 4 đến 8 bàn thờ phụ để thờ
các vị Tiền hiền, Hậu hiền, và những người có công xây dựng và
phát triển làng được dân tôn làm Phúc thần (các vị thần này ở
Trung bộ và Bắc bộ không có).
6 3.1.5. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ
Bước vào không gian vùng Nam bộ, đặc biệt là Tây Nam bộ
ta sẽ gặp tín ngưỡng phổ biến là tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ.
Tây Nam bộ là nơi độ cao trung bình ở mức thấp nhất nước,
vì vậy dãy Thất Sơn ở An Giang và dãy Hàm Ninh ở Kiên Giang
là hai khu vực cao nhất, và ngay từ thời khẩn hoang, Thoại Ngọc
Hầu đã ca ngợi đó là nơi rất tươi đẹp. Tâm lý con người, những
đỉnh núi cao có phong cảnh tuyệt đẹp như vậy đều là những nơi
linh thiêng. Trên núi Sam có miếu Bà Chúa Xứ, chùa Tây An,
112
chùa Hang, lăng Thoại Ngọc Hầu. Miếu Bà Chúa Xứ và Lễ hội
Bà Chúa Xứ luôn là tâm điểm.
Nhân dân trong vùng đã truyền nhau về sự linh thiêng của Bà
Chúa Xứ. Mỗi truyền thuyết là một câu chuyện kỳ bí thu hút
khách thập phương và các nhà nghiên cứu.
Nhà khảo cổ học người Pháp Malleret nghiên cứu năm 1941
cho rằng pho tượng cao 1,25m được đúc liền với một thớt đá son
này là tượng nam thần, dáng một người đàn ông ngồi nghỉ ngơi
một cách vương giả. Đây là loại tượng thần Vishnu thường hay
có ở Ấn Độ, Myanmar, Lào. Tượng được tạc vào cuối thế kỷ thứ
VI và rất có thể là một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc
Eo còn sót lại, được phát hiện vào khoảng những năm 1820-1825,
sau khi lưu dân người Việt đến lập nghiệp. Người Việt đã mang
tượng thần xuống chân núi, sửa sang tô điểm thành tượng Bà và
lập miếu thờ.
Miếu Bà Chúa Xứ ở vị trí hiện nay do vợ của Thoại Ngọc Hầu
là bà Châu Thị Tế xây dựng. Dưới thời vua Minh Mạng, ông
Nguyễn Văn Thoại, được phong chức hầu nên gọi là Thoại Ngọc
Hầu, được giao trọng trách trấn giữ biên cương Tây Nam, nhiều
lần phải đem quân đi đánh giặc. Rồi công trình đào kênh Vĩnh Tế
do ông tổ chức thi công, dưới sự chỉ đạo của tổng Trần Lê Văn
Duyệt cũng vô cùng vất vả. Thương chồng, bà hay lên tượng đá
trên núi khấn nguyện. Một lần bà kể cho chồng nghe chuyện này
và có ý xin ông cho dời bức tượng xuống núi để lập miếu thờ…
Nguồn gốc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ, có nhiều ý kiến khác
nhau:
- Tín ngưỡng này xuất phát từ tục thờ vợ của Thần Shiva
trong Bàlamôn giáo, với 2 hóa thân đối lập là nữ thần Uma và
nữ thần Kali với thân thể màu đen. Người Khmer trước khi theo
Phật giáo Nam Tông đã từng chịu ảnh hưởng của Bàlamôn giáo
nên đã thờ nữ thần Kali với tên gọi là tín ngưỡng Bà Đen.
- Nguồn gốc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là từ tục thờ Bà mẹ
Xứ sở Ponaga của người Chăm.
- Người Việt gốc ở Bắc Bộ sống bằng nghề nông trồng lúa
nước có truyền thống trọng nữ, vốn từ lâu đã mạnh về thời Nữ
thần, tiêu biểu là Đạo Mẫu với hệ thống thần thánh, nghi lễ Tam
Phủ, Tứ phủ thờ Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu
Thoải, Mẫu Liễu Hạnh. Vào Trung Bộ, người Việt đã phối hợp
tín ngưỡng thờ Nữ Thần với tín ngưỡng thờ Bà mẹ Xứ sở của
113
người Chăm thành tín ngưỡng thờ Thiên Ya- na thánh mẫu. Từ
miền Trung vào Nam Bộ, người Việt đã phối hợp tín ngưỡng thờ
Nữ thần với tín ngưỡng Bà Đen bản địa của người Khmer ở
Đông Nam Bộ thành tín ngưỡng thờ Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi
Bà Đen Tây Ninh và Bà Chúa Xứ ở An Giang.
Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ với gốc là tục thờ Mẫu đã đáp ứng
được nhu cầu tâm linh của người Việt và cả người Khmer, Chăm,
Hoa trong vùng. Bà Chúa Xứ trở thành hình ảnh một bà mẹ nhân
từ, phúc hậu đầy quyền uy.
Ảnh hưởng của Bà Chúa Xứ trong tâm thức cư dân Tây Nam
Bộ rất sâu đậm, đến mức khi thấy công việc làm ăn thuận lợi,
người Nam bộ cho đó là Bà độ; may mắn bất ngờ: Bà dắt; khổ
sở: Bà hành; thề thốt: “Nếu nói sai thì cho bà bắn/vặn họng/xé
xác/bẻ cổ”
Bà Chúa Xứ không chỉ được thờ ở miếu Bà tại An Giang mà
còn được thờ ở tất cả các địa phương toàn Nam bộ. Riêng tại Tiền
Giang, trong số 292 ngôi miếu hiện nay, đã có tới 110 miếu thờ
Bà Chúa Xứ, chiếm 38%.
Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ đã trở thành hạt nhân của Lễ hội Bà
Chúa Xứ - lễ hội dân gian lớn nhất Tây Nam bộ.

114
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 3 VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CHÚ

CƯ DÂN NAM BỘ
CHỦ ĐỀ 3.2. TÔN GIÁO
1 Mục tiêu học tập chủ đề
Học xong chủ đề này, sinh viên nắm được các đặc điểm cơ bản
trong tôn giáo của người Việt ở Nam bộ cũng như tôn giáo/ tín ngưỡng
của các dân tộc khác ở Nam bộ.
Mô tả vắn tắt nội dung
3.2.1. Tôn giáo của người Việt ở Nam bộ
3.2.2. Tôn giáo/tín ngưỡng của các dân tộc khác ở Nam bộ
2 3.2.1. Tôn giáo của người Việt ở Nam bộ
Tôn giáo của người Việt ở Nam bộ có 3 đặc điểm lớn:
1/ Khai sinh nhiều tôn giáo mới
2/ Hiện tượng Ông Ðạo
3 / Nam bộ - đặc biệt Tây Nam bộ - là vùng đất sùng mộ Phật giáo
1/ Khai sinh nhiều tôn giáo mới
Nam bộ là nơi duy nhất trong cả nước khai sinh nhiều tôn giáo bản
địa, chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX, vì các lý do sau:
Không gian: Nam bộ là vùng đất mới, đến cuối thế kỷ thứ XIX môi
trường sống ở đây vẫn đầy bí ẩn. Nam bộ cũng là nơi không bị chi phối
nhiều bởi các văn hóa và tôn giáo truyền thống, dễ dàng chấp nhận cái
mới, tự do trong việc sáng tạo cái mới.
Địa văn hóa:
Tây Nam bộ có dãy núi Thất Sơn sừng sững giữa vùng đầm lầy
ngập nước là nơi linh địa. 3 con sông Tiền Giang, Hậu Giang, Vàm
Nao cùng với Thất Sơn tạo nên địa thế “Tiền tam giang, hậu thất lĩnh”
rất phù hợp cho sự tồn tại và sáng tạo các tôn giáo mới.
Chủ thể: Người Nam bộ là dân tứ xứ, nhiều tầng lớp, thành phần đa
dạng phức tạp, ít gắn kết. Khi gặp khó khăn cần một sự hỗ trợ mang
tính siêu nhiên. Họ cũng ít bị chi phối bởi nhà cầm quyền nên thân phận
tự do hơn so với đồng bằng Trung bộ, Bắc bộ; dương tính hướng ngoại
hơn nên có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sáng tạo cái mới.

115
Thời gian: giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là lúc tình hình
chính trị Việt Nam lâm vào cảnh đen tối: triều đình nhà Nguyễn đang
trên đường suy vong không còn được lòng dân, thực dân Pháp thì đã
công khai xâm lược và bộc lộ dã tâm áp đặt ách thống trị trên toàn cõi
Việt Nam, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và các sĩ phu yêu nước lãnh
đạo đều bị thất bại. Các chùa chiền, hang động, am cốc quan vùng Thất
Sơn lại là nơi dừng chân lý tưởng cho các sĩ phu bất phục triều đình và
những lãnh tụ nghĩa quân bại trận. (Khi Pháp xâm lược ba tỉnh Đông
Nam bộ năm 1861, nhiều nơi ở Tây Nam bộ vẫn còn hoang dã).
Không khí lúc đó rất cần tôn giáo để dung dưỡng tinh thần và củng
cố lòng tin. Vậy mà lúc đó, Nho giáo và Đạo giáo đang bước vào thời
kỳ suy thoái, Phật giáo thì sau giai đoạn suy vi dưới sức ép của Nho
giáo chưa đủ sức mạnh trở lại, Kitô giáo đi theo gót quân xâm lược thì
đang bị cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhìn chung người Nam bộ đang rơi
vào tình trạng bơ vơ không có một hệ tư tưởng chủ đạo dẫn dắt.
Trong bối cảnh Không gian, Thời gian, Chủ thể đó, Tây Nam bộ đã
trở thành mảnh đất màu mỡ cho việc khai sinh ra hàng loạt tôn giáo
mới như đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo
Hòa Hảo, Phật Khất sĩ Việt Nam, … Các tôn giáo này được người Nam
bộ gọi là “những tôn giáo cứu thế”. Vùng Đông Nam bộ thì khai sinh
tôn giáo Cao Đài và là nơi có một nhánh của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
phát triển (Long Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu).
3 a/ Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
Bửu Sơn là núi báu, là sự rạng rỡ của non sông, Kỳ Hương là hương
thơm kỳ lạ. Núi báu có hương thơm lạ là dấu hiệu hoan hỉ của ngày hội
Long Hoa tận thế trong đạo Phật.
Giáo chủ: Đoàn Minh Huyên (1807-1856)
Ông là người quê ở tỉnh Đồng Tháp (ngày xưa gọi là Sa Đéc).
Trong các năm 1849-1850, Tây Nam bộ xảy ra nạn mất mùa và đại
dịch kéo dài, làm cho nhân dân lâm vào cảnh đau ốm và chết chóc. Ông
Đoàn Minh Huyên đã đến vùng chợ Mới An Giang trổ tài trị bệnh cho
dân. Từ chỗ chữa trị bệnh có kết quả, được nhiều người tin theo những
lời khuyên dạy của mình, ngay trong năm 1849, ông đã lập ra đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương với tôn chỉ và phương pháp hành đạo rất đơn giản. Các
quan của tỉnh An Giang lúc bấy giờ nghi ngờ ông hoạt động chính trị
nên bắt giam. Sau không có bằng chứng nên phải trả tự do, buộc ông
quy y theo đạo Phật và tu tại chùa Tây An dưới chân núi Sam thuộc
Châu Đốc An Giang.
Từ đó ông được người dân tin tưởng gọi là Phật Thầy Tây An.

116
Mặc dù bị chỉ định cư trú ông vẫn đi lại miền Sông Hậu để phổ biến
giáo lý, vận động dân nghèo khai hoang, lập nên 4 dinh điền lớn là
Đồng Tháp Mười, Thới Sơn, Láng Linh và Cái Dầu, đều thuộc Châu
Phú An Giang. Ông viên tịch năm 1856, thọ 49 tuổi, chôn cất sau chùa
Tây An.
Giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ bao gồm hai yếu tố căn bản là đền
đáp tứ đại trọng ân và học Phật tu nhân.
Tứ đại trọng ân, hay gọi ngắn gọn là tứ ân: ơn tổ tiên cha mẹ; ơn đất
nước; ơn Tam Bảo1; ơn đồng bào nhân loại.
Đạo lý đạo Phật làm gốc nhưng không chủ trương xây chùa cao, thờ
tượng Phật lớn mà chỉ dùng tấm Trần điều (vải trần màu đỏ) làm biểu
tượng thờ cúng, cùng với lễ vật đơn giản là nhành hoa và nước lạnh.
Tín đồ không cần xuất gia, không cần ăn chay, để tóc để râu, khi quy y
được phát một tấm “lòng phái” (mảnh giấy màu vàng ghi bốn chữ Bửu
Sơn Kỳ Hương màu đỏ) và truyền dạy giáo lý học Phật tu nhân. Tín đồ
không cần đi chùa, niệm Phật tại gia, tin vào luật nhân quả, tâm niệm
làm lành tránh dữ và luôn nghĩ đến bổn phận đền đáp tứ ân.
Giáo lý và cách tu hành này vừa phù hợp với quần chúng nghèo khổ,
ít học, chân chất, lại vừa thích nghi với lối sống của xã hội nông nghiệp.
Vì vậy chỉ trong vòng 7 năm từ lúc khai Đạo đến lúc ông Đoàn Minh
Huyên tạ thế, Bửu Sơn Kỳ Hương đã thu nhận được một lực lượng tín
đồ đáng kể ở Hậu Giang.
Ngày nay di sản của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn còn ảnh hưởng lớn
đến văn hóa tâm linh của đồng bào vùng Tây Nam bộ. Những huyền
thoại về đức Phật thầy Tây An vẫn còn lưu truyền trong dân gian và
giáo lý của ông chính là nền tảng cho việc hình thành những hệ phái
Phật giáo Nam bộ ở giai đoạn sau như Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo
Hòa Hảo.
4 b/ Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Do Ông Ngô Lợi sáng lập năm 1869. Khi lập đạo, ông xưng là Đức
bổn sư và rao giảng giáo lý của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Người đời cho
rằng ông là hậu thân của đức Phật thầy Tây An.
Giáo lý của Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng là học Phật tu nhân, lấy tứ ân làm
trọng.

1
Tam bảo là "Ba ngôi báu", ba cơ sở chính của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng.
[https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_b%E1%BA%A3o]

117
Cách tu hành thể hiện sự dung hòa văn hóa: truy niệm theo Thiền
Tông, xử sự theo Nho giáo, luyện tinh khí thần theo Đạo giáo, ấn quyết
theo Mật giáo.
Tín đồ tu hành không cần ly gia cắt ái, không cần trường chay.
Trước nhà có bàn Thiên 2 tầng thờ Thiên la Thần và Thổ trạch long
thần. Tôn giáo này thể hiện tinh thần bảo lưu văn hóa dân tộc. Trong
nghi thức thờ cúng, Tứ Ân Hiếu Nghĩa vẫn dùng tấm trần điều của Bửu
Sơn Kỳ Hương làm biểu tượng, ngoài ra tín đồ còn thờ Phật, thờ Sơn
Thần, Trăm quan cựu thần và các Anh hùng liệt sĩ.
Đức bổn sư Ngô Lợi chia bổn đạo thành 24 nhóm gọi là Gánh, mỗi
Gánh do một Gánh trưởng/ ông gánh quản lý. Trong vòng 14 năm, ông
lập ra bốn thôn, và biến những nơi này thành làng chống Pháp. Tín đồ
của ông liên hệ với nghĩa quân khắp vùng Nam Bộ và Campuchia. Từ
năm 1876 đến năm 1888, quân Pháp đã 7 lần đàn áp, bắt bớ tù đày
nhiều lãnh tụ và tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa, vì vậy giai đoạn này được
gọi là thời kỳ “đạo nạn”.
Đức bổn sư mất vì bệnh tại chùa Tam Bửu, huyện Tri Tôn tỉnh An
Giang lúc 59 tuổi. Sau khi ông mất, phong trào kháng Pháp tan dần,
nhưng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa thì vẫn còn ở lại.
Từ đó đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát triển theo hai hệ thống, một hệ
thống ở các thôn ấp vùng Thất Sơn, An Giang, vẫn duy trì gần như
nguyên vẹn đạo lý nghi thức và cơ cấu tổ chức như thời Đức bổn sư
còn sống, số lượng tín đồ gia tăng đáng kể.
Hệ thống thứ hai hình thành và phát triển với nhiều biến thái ở các
nơi mà các ông Gánh đến truyền đạo. Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa gọi họ
là những ông Đạo đi cứu đời chữa bệnh phương xa. Người đi xa nhất
là ông Lê Văn Mưu được Đức bổn sư giao trọng trách đi mở Đạo ở
Đông Nam bộ vào năm 1887, khi khu thánh địa ở Thất Sơn bị thực dân
Pháp triệt phá.
Ông Lê Văn Mưu cùng gia đình đã chọn cù lao núi Nứa ở Long
Sơn ngoài khơi Vũng Tàu làm nơi tập hợp dân chúng để khai khẩn và
truyền đạo. Tại đây ông được biết đến với tên gọi là ông Đạo Trần vì
suốt ngày ông chỉ ở trần không mặc áo. Ông được dân trong vùng kín
phục vì tài chữa bệnh. Trong quá trình truyền đạo, lễ tục của đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa vẫn được bảo tồn như ở vùng Thất Sơn, các quan niệm về
giáo lý và cơ cấu tổ chức để được biến đổi đáng kể cho phù hợp.
Các nhánh khác đi truyền đạo các địa phương ngay trong An Giang
như An Phú, cù lao Ông chưởng hay đi về các tỉnh Tây Nam bộ như
Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, Minh Hải, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang… Quá trình truyền đạo diễn ra từ thời
118
Đức bổn sư còn sống và tiếp tục sau khi ông mất. Tại các nơi này
nguyên lý và cách thức hành lễ hầu như không thay đổi. Tín đồ chủ yếu
thực hiện nghi lễ cúng tại gia. Việc xây chùa lập miếu chỉ thực hiện ở
những xã có đông tín đồ như ở Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre. Song
hằng năm vào ngày vía của Đức bổn sư, tín đồ từ các địa phương vẫn
hành hương về Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang đến hàng nghìn người.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được chính quyền tỉnh An Giang chính thức
công nhận là tổ chức tôn giáo vào ngày 16/6/2010.
5 c/ Đạo Phật giáo Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) sáng lập
vào ngày 18/5/1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc
(tỉnh An Giang ngày nay).
Vì là con thứ tư trong gia đình nên người địa phương thường gọi
thầy là Thầy tư Hoà Hảo, còn tín đồ thì gọi ông là Đức Phật thầy, Đức
thầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Thuở nhỏ Huỳnh Phú Sổ được gia đình cho học hết bậc sơ học Pháp
Việt tại một trường huyện. Sau do hay đau ốm nên ông phải lên núi
Cấm Thất Sơn tìm thầy chữa bệnh. Tại đây ông đã theo Bửu Sơn Kỳ
Hương do Phật thầy Đoàn Minh Huyên sáng lập. Từ đó ông nhận mình
là đệ tử của đức Phật, có sứ mệnh xuống hạ giới truyền bá tư tưởng
Bửu Sơn Kỳ Hương cho dân chúng để “Chấn Hưng Phật giáo cứu độ
chúng sinh”. Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc dân gian
đã học được, đồng thời qua đó truyền dạy giáo lý bằng những bài Sấm
giảng do ông tự soạn.
Chỉ trong vòng 2 năm 1937 đến 1939, số người tin theo đã khá
đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng. Huỳnh Phú Sổ đã khai đạo
tại nhà khi ông chưa tròn 20 tuổi. Ông đã lấy tên làng quê để đặt tên
cho tôn giáo mới là Đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Từ đó ông
làm nhiều bài thơ ca có nội dung gần gũi với tư tưởng thần bí và tín
ngưỡng dân gian Tây Nam Bộ lúc bấy giờ. Ông đã mất tích đêm
16/4/1947 tại Đồng Tháp Mười trên đường đến dự một cuộc họp để
giải quyết những bất đồng cho Hòa Hảo và Việt Minh. Theo Hồi ký của
Trần Văn Giàu thì sau ngày 2/9/1945, lực lượng Hòa Hảo đã đưa yêu
sách đòi Việt Minh giao lại chín tỉnh Tây Nam Bộ và kéo hàng vạn tín
đồ vào Cần Thơ toan giành chính quyền bằng vũ lực nên đã bị giải tán.
Huỳnh Phú Sổ đã bị bắt tại Sài Gòn vì tội chủ trương bạo loạn nhưng
sau đó được tha. Sự kiện ông bị mất tích đã gây một làn sóng dữ dội
trong khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.
Biểu tượng của Đạo là huy hiệu hình tròn màu dà viền vàng, trên
có bông sen trắng và 4 chữ viết tắt PGHH màu vàng.

119
Tiếp nối truyền thống của Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
Phật Giáo Hòa Hảo là đạo Phật của giới nông dân Tây Nam Bộ. Tín
đồ Hòa Hảo đều thuộc lòng câu ca dao “Ta là cư sĩ canh điền/ Lo nghề
cày cuốc cũng chuyên tu hành”.
Giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo được soạn theo thể văn vần dễ đọc
dễ hiểu, tập hợp thành quyển Sấm giảng thi văn toàn bộ, nội dung
hướng dẫn cách tu sửa con người, để vừa làm tròn bổn phận công dân
trong cõi đời đang sống, vừa dọn cho Tâm trong sáng để được siêu
thăng vào cõi tịnh độ cực lạc, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Phật Giáo Hòa Hảo chủ trương tu tại gia, không xây dựng chùa
chiền, không thờ tượng ảnh, trong nhà chỉ thờ một tấm Trần Dà (màu
nâu) cung kính đặt trên trang thờ ở gian chính giữa, bàn thờ ông bà tổ
tiên ở gian bên cạnh, trước nhà lập một bàn thiên. Lễ vật thờ cúng chỉ
có hương, hoa, nước lạnh. Ban đêm đốt đèn ở bàn thờ trong nhà và bàn
thờ Thông Thiên.
Nhờ có giáo lý được xây dựng trên cơ sở Phật giáo tịnh độ tông,
được cải biên và đơn giản hóa, Phật Giáo Hòa Hảo rất phù hợp với
trình độ nhận thức, đặc điểm văn hóa và tâm lý chất phác của nông dân
Tây Nam bộ.
Số tín đồ Hòa Hảo trước 1975 là hơn hai triệu người, chiếm 38%
dân số vùng Hậu Giang, 10% tổng dân số Việt Nam Cộng hòa lúc bấy
giờ. Tại những tỉnh Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, số tín đồ Phật Giáo
Hòa Hảo chiếm 90% dân số. Theo số liệu thống kê của tổng điều tra
dân số năm 2015 thì trong cả nước có 1.433.252 tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo.
Là tôn giáo có số tín đồ đông thứ 3 Việt Nam. An Giang có 44%
dân số toàn tỉnh là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, có số lượng tín đồ đông
nhất nước, sau đó là Cần Thơ và Đồng Tháp. Tín đồ Hòa Hảo di cư ra
nước ngoài đã mở rộng phạm vi hoạt động của Đạo ngoài biên giới
quốc gia.
Hiện nay các tài liệu sách báo về Phật Giáo Hòa Hảo được lưu trữ
trong thư viện của hơn 30 nước trên thế giới.
Ban tôn giáo chính phủ của nhà nước Việt Nam ra quyết định công
nhận là một trong các tôn giáo chính thức của Việt Nam vào tháng
6/1999.
6 d/ Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam
Tây Nam bộ là nơi tiếp nhận cả hai hệ phái Phật giáo Bắc tông từ
Trung Hoa tới phổ biến trong cộng đồng người Việt, Hoa; và Phật giáo
Nam tông từ Ấn Độ, Srilanka ảnh hưởng đến cộng đồng Khmer. Vốn

120
là vùng đất có truyền thống dung hợp văn hóa, tại Tây Nam bộ đã hình
thành một tông phái Phật giáo thuần Việt gọi là đạo Phật Khất Sĩ Việt
Nam.
Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam do tổ sư Minh Đăng Quang (1923-
1954) sáng lập năm 1944 tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện
Tân Phước, tỉnh Tiền Giang). Tổ sư tên thật là Nguyễn Thành Đạt, Tự
Lý Hườn, quê ở Vĩnh Long; thuở nhỏ đã tìm tòi học hỏi rất tường tận
tam giáo Nho Đạo Phật. 15 tuổi ông sang Nam Vang tu học theo hệ
phái Phật giáo Nam Tông. Cuối năm 1941, ông trở về Nam bộ. Năm
1942, vâng lời cha mẹ lập gia đình. Năm 1943, vợ và đứa con thơ lần
lượt bị bệnh qua đời, ông xin phép cha mẹ lên vùng núi Thất Sơn ẩn
thân tu đạo và nghiên cứu đường lối của hai hệ phái Phật giáo Nam
tông và Bắc tông. Một năm sau, ở tuổi 20, ông ngộ ra được cách dung
hòa kết hợp những truyền thống cao đẹp của hai hệ phái Bắc tông và
Nam tông để lập nên phái Khất Sĩ.
Năm 1954, trên đường đi hành đạo từ Sa Đéc đến Cần Thơ ông bị
mất tích ở tuổi 31. Đêm đó ông đã biết trước và báo cho các đệ tử rằng
mình sẽ đi vào lửa nạn.
Tổ sư Minh Đăng Quang đã soạn ra bộ Chơn Lý gồm 69 quyển và
tập Bồ tát giáo, dưới dạng các sáng tác văn vần dễ hiểu, dễ nhớ và hấp
dẫn với dân chúng Tây Nam bộ.
Về phương thức tu tập, Đạo Khất Sĩ Việt Nam chủ trương nối
truyền chánh pháp Thích Ca, giữ gìn y bát chân truyền, thực hiện Du
tăng khất thực, ngày ngày ôm bát hóa duyên, không nấu nướng tại nơi
thờ tự để dành thời gian tham Thiền học Phật, không cất giữ tài sản.
“Trên xin giáo pháp Phật Đà
Dưới xin cơm áo để mà nuôi thân”.
Y phục của tăng ni là kiểu y vấn màu vàng. Giới luật quy định mỗi
người không được ở một nơi cố định, chỉ thờ duy nhất tượng Phật Thích
Ca trong tịnh xá hay trong đạo tràng. Đây là ảnh hưởng của văn hóa
Phật giáo Nam tông.
Giáo luật của đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam quy định tăng ni phải
trường chay nhưng tín đồ thì không bắt buộc. Tín đồ có thể ăn chay hay
ăn mặn là tùy theo hạnh nguyện của mình. Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam
giữ vững niềm tin vào Thuyết phổ độ chúng sinh của Bồ Tát, đây chính
là yếu tố ảnh hưởng từ văn hóa Phật giáo Bắc Tông.
Đạo Tràng Tịnh xá của đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam được xây cất
bằng những vật liệu đơn giản theo hình bát giác hoặc kiến trúc nhà sàn
của Khmer Nam bộ. Chánh điện mở cửa theo nhiều hướng để đón gió

121
và tiện cho tín đồ đi vào hành lễ. Đây là đặc trưng văn hóa bản địa Tây
Nam bộ.
Ngày nay đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam có khoảng 2.500 tăng ni,
hàng chục ngàn tín đồ và là một trong chín hệ phái của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam.
7 e/ Đạo Cao Đài
Ở Nam bộ đặc biệt có hình thức cầu cơ và thuật chiêu hồn, là nguồn
gốc ra đời của một tôn giáo mới, tên gọi đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ hay Đạo Cao Đài.
Cầu cơ: mong tiếp xúc với đơn siêu linh nhằm bàn luận thời cuộc,
đàm đạo thơ văn, xin thuốc chữa bệnh, xin tiên đoán vận mệnh đất nước
trong tương lai là phong trào tôn giáo tâm linh được ưa thích của nhiều
người Nam Bộ. Giới trí thức yêu nước cũng dựa vào hình thức cầu cơ
để quy tụ lực lượng và che mắt chính quyền thuộc địa trong hoạt động
chính trị. Đầu thế kỷ XX, phong trào cầu cơ bước phát triển mạnh mẽ
trong các cơ sở tôn giáo ở Nam bộ.
Thuật chiêu hồn - xây bàn: ở Việt Nam, đặc biệt ở Nam bộ, phong
trào thần linh học được truyền bá vào giới trí thức bằng con đường báo
chí và sách vở. Từ hình thức xây bàn này, về sau, Phạm Công Tắc, Cao
Quỳnh cư, Cao Hoài Sang cùng với những người say mê thuật đầu cơ
Như Ngô Văn Chiêu, Vương quan Kỳ, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quý…
đã sáng lập nên đạo Cao Đài.
Năm 1926, lễ khai đạo tại chùa Từ Lâm, Tây Ninh chính thức đánh
dấu sự ra đời của tôn giáo Cao Đài và hợp thức hóa đạo Cao Đài với
chính quyền thuộc địa. Từ đó Tây Ninh trở thành thủ đô của Đạo Cao
Đài với tòa Thánh khang trang cùng hàng loạt công trình được xây
dựng từ năm 1933-1947 tại khu đất rộng 10 hecta.
Về niềm tin tôn giáo, đạo Cao Đài tin tưởng vào một thế giới siêu
thực, tồn tại bởi các siêu linh, nơi đó có sự tồn tại của các vị Thần
Thánh Tiên Phật và vong hồn của những người quá vãng. Các nhân vật
như Diêu Trì Kim Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, Ngọc Hoàng Thượng Đế,
Lữ Đồng Tân, Bạch Hạc Đồng Tử, là những nhân vật tưởng như không
thật, chỉ có trong các truyện thần tiên của Trung Quốc thì nay lại xuất
hiện, trò chuyện với các vị thành lập đạo Cao Đài thông qua thuật xây
bàn hoặc cầu cơ.
Về lễ nghi tôn giáo: đấng siêu linh được tôn thờ là Cao Đài Tiên
Ông. Biểu tượng tôn giáo được sử dụng để chiêm bái cho lễ nghi tôn
giáo là hình tượng Thiên nhãn, mắt trời.

122
Về triết lý tôn giáo: Đạo Cao Đài lấy tư tưởng Hiệp Nhất Ngũ Chi
để làm tư tưởng giải thoát. Đó là sự hợp nhất của năm nhánh đạo: Nhơn
đạo, (do Khổng Tử chủ trương), Thần đạo (Khương Tử Nha lập ra),
Thánh đạo (đạo Công giáo), Thiên đạo (đạo của Lão Tử), Phật đạo
(Phật Thích Ca).
Đạo Cao Đài giải thích rằng từ khi có loài người, Thượng đế đã hai
lần cứu rỗi, phổ độ chúng sinh. Thời đó, do năm châu còn sống lẻ loi,
nên ngài đã xuất hiện ở các vùng khác nhau, lập nên các tôn giáo khác
nhau phù hợp với phong tục tập quán từng vùng. Các tôn giáo này tuy
cùng xuất phát từ một gốc là Thượng đế và cùng một mục đích là cứu
rỗi chúng sinh nhưng vì tồn tại riêng rẽ nên dần dần sinh ra mâu thuẫn,
tranh giành, xung đột lẫn nhau. Nay điều kiện giao lưu để dễ dàng,
“năm châu chung chợ, bốn phương chung nhà”, Đức Ngọc Hoàng
quyết định lập ra tôn giáo mới để phổ độ chúng sinh lần thứ 3.
Đạo Cao Đài không chỉ dung hợp tam giáo mà còn hướng tới sự
dung hợp hết thảy vạn giáo, dung hợp tâm linh con người với tâm linh
vũ trụ. Tôn chỉ của đạo Cao Đài là: thiên nhân hợp nhất, vạn giáo nhất
lý.
Các triết lý bình dân dễ hiểu như trên đã thuyết phục được người
dân Nam Bộ. Kinh sách được viết với dạng văn vần theo thể thơ lục
bát, song thất lục bát nên dễ đọc, dễ hiểu, dễ thuộc làm cho người dân
cảm thấy không khó khăn để trở thành tín đồ của đạo.
Về thực hành tôn giáo: các hoạt động tôn giáo của đạo được thực
hành trong cộng đồng thường chú trọng đến các nghi lễ trong gia đình,
liên quan đến các phong tục truyền thống của người Việt ở Nam Bộ
như cưới hỏi, cầu siêu, đặc biệt là tang ma.
Tại Hội tôn giáo quốc tế họp tại Luân Đôn năm 1936, đạo Cao Đài
được nhìn nhận là một “tôn giáo khoan dung nhất thế giới”.
Đạo Cao Đài đã được xây dựng trên tinh thần tổng hợp, dung hợp
các tôn giáo và các truyền thống văn hóa dân tộc (cầu Tiên giáng bút, tư
duy bằng con số biểu trưng, hài hòa âm dương: bên cạnh Tòa thánh thờ
ông còn có Điện thờ bà, phân bố hài hòa hai ngày lễ lớn nhất trong năm
là ngày lễ Đức chí tôn 9/1 và ngày lễ Đức Bà 15/8).
Theo thống kê, tín đồ đạo Cao Đài hiện nay sinh sống trên 37 tỉnh
thành của cả nước, trong đó các tỉnh thành thuộc khu vực Tây Nam Bộ
có số lượng tín đồ đông nhất.
8 Đặc điểm chung của các tôn giáo mới

123
1. Mang đậm dấu ấn của tư tưởng tam giáo. Đặc biệt khi đạo Cao
Đài ra đời, tư tưởng tam giáo càng được thể hiện rõ trong giáo lý và lối
hành đạo.
Các tôn giáo đã có những biến đổi, phát sinh những yếu tố mới
nhằm bổ trợ sự khiếm khuyết của nhau. Nhờ đó hệ thống tôn giáo của
các cư dân Nam Bộ có những điểm chung, mang tính hòa đồng tôn giáo
rất đặc sắc.
2. Xu hướng nhập thế của các tôn giáo được thể hiện rất rõ. Chẳng
hạn hoat động khai hoang do Đoàn Minh Huyên - Đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương chủ xướng. Phật Thầy Tây An đã đưa Phật giáo vào đời sống
bằng cách khai hoang lập ấp tạo cuộc sống an cư lạc nghiệp cho những
người nông dân nghèo.
Ngô Lợi với Tứ Ân Hiếu Nghĩa, tứ đại trọng ân khơi gợi lòng yêu
nước của người dân trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Dưới ngọn
cờ tôn giáo, Ngô Lợi đã tập hợp lực lượng và nhận được sự hưởng ứng
của nhiều người khác, hình thành căn cứ kháng Pháp. Sau khi thực dân
Pháp đàn áp các phong trào chống Pháp, những người sáng lập vẫn tiếp
tục tinh thần chống ngoại xâm, thể hiện tinh thần nhập thế rất tích cực.
Tôn giáo Hòa Hảo: từ khi mới thành lập đã gắn liền với hoạt động
khai hoang và với việc chống Pháp. Ngày nay đạo Hòa Hảo đang có
các hoạt động từ thiện rất đa dạng, thiết thực.
9 2/ Hiện tượng Ông Đạo
Ông Đạo là một hiện tượng tôn giáo đặc biệt ở Nam bộ.
Đạo là cách gọi quen thuộc của người Nam bộ về một tôn giáo như
đạo Phật, đạo Chúa. Đạo còn có nhiều nghĩa khác như đạo đức, lương
thiện. Người sống tốt được gọi là người sống có đạo, sống phải đạo. Vì
vậy từ “ông Đạo” ở Nam bộ có nhiều nghĩa.
Ông Đạo là “những con người lệch lạc tâm thần…, những con
người khác lạ, nếu không gọi là điên khùng, đi rêu rao hù dọa một thời
tận thế mới” (Tạ Chí Đại Trường); Ông Đạo là danh xưng “để chỉ
những người có khả năng đặc biệt như khả năng chữa bệnh, khả năng
tập hợp quần chúng, khả năng huyền linh, dẫn dắt mọi người theo một
chủ thuyết nào đó. Tóm lại là người có khả năng làm những điều mà
người bình thường không làm được và mang màu sắc thần bí” (Phạm
Bích Hợp).
Ví dụ:
Ông Đạo Trần (Lê Văn Mưu, tín đồ của Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bà Rịa
Vũng Tàu…),

124
Ông Đạo khùng Đoàn Minh Huyên (đạo Bửu Sơn Kỳ Hương),
Ông Đạo khùng Huỳnh Phú Sổ (Phật giáo Hòa Hảo),
Ông Đạo khùng ở Cao Lãnh (xuất hiện khoảng năm 1912, “lang
thang từ làng nọ sang làng kia, lượm rác bỏ vào bao đệm mang sau
lưng,…Ông làm thinh, không quấy phá ai, ngủ đầu đường xó chợ, trong
chùa miễu, dưới các hiên nhà. Nhà nào có người bị bệnh ngặt thì ổng
tới, nhìn mặt rồi bỏ chạy, hoặc cười xòa ở lại cho thuốc. Thuốc là mớ
cùi thơm, vỏ mãng cầu nằm trong bao của ông …”),
Ông Đạo Cao (cao trên 2 thước, đi đến đâu, trẻ em bu lại ngó đến
đó),
Ông Đạo Nằm (nằm suốt ngày, ăn uống tiếp khách đều nằm),
Ông Đạo Câm,
Ông Đạo Ớt,
Ông Đạo Rắn,
Ông Đạo Chó,
Ông Đạo Đọt,
Ông Đạo Chợ,
Ông Đạo Dừa (ở Bến Tre, khoảng những năm 1960 1970. Là một
trí thức Tây học, tên thật là Nguyễn Thành Nam, xuất thân là công tử
miệt vườn trong một gia đình giàu có và có thế lực, được đi du học ở
Pháp. Năm 1935, ông về nước với bằng kỹ sư hóa học. Năm 1945, ông
quy y tại chùa An Sơn ở Bảy Núi, ngồi tại bệ đá trước cổng chùa để tu
khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn rau và hoa quả một lần vào giờ Ngọ, uống
nước dừa xiêm, duy trì chế độ ăn này trong 25 năm. Sau ông về quê
nhà, mua một chiếc xà lan nhỏ neo đậu bên bờ sông Ba lai, cất nhà cho
một số đệ tử ở phục vụ, cũng là chỗ cho khách vãng lai có thể trú ngụ,
dựng Đài bát quái, đêm đêm lên ngồi đó hành đạo. Thời gian này ông
tu theo lối tịnh khẩu, cần giao tiếp thì viết ra giấy, thức ăn chủ yếu là
dừa, mọi người gọi là ông Đạo Dừa, mỗi năm chỉ tắm một lần vào ngày
Phật đản. Số tín đồ theo ông đến hàng vạn người. Năm 1963, ông dời
về Cồn Phụng, xây dựng chùa Nam quốc Phật, xây dựng Đàn bát quái
lộ thiên để cầu Phật Tiên Thánh ban cho dân được mưa thuận gió hòa,
sống yên vui, đất nước thái bình.
Đạo Dừa thực ra là Đạo Vừa - vừa phải trung dung. Nguyễn Thành
Nam khởi xướng một loại tôn giáo hòa đồng, pha màu tôn giáo với
chính trị, chủ trương mang lại hòa bình bằng cách hòa đồng mội tôn
giáo, tổng hợp tinh hoa của Phật giáo, Nho giáo, Kitô giáo. Ông lấy
tình thương để khuyến dụ và cảm hóa mọi người, khuyến khích người

125
đời sống tôn trọng lễ nghĩa và yêu thương nhau, cư xử hòa mực với
nhau. Ông nuôi chuột và mèo trong một lồng để chứng minh rằng hai
kẻ đối nghịch vẫn có thể chung sống hòa bình với nhau. Năm 1771,
ông nộp đơn và vận động ra tranh cử Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
với tư cách là một Giáo chủ và kêu gọi chính quyền Sài Gòn, Chính
phủ Cách mạng đến gặp nhau để đàm phán ở Ba Tri thay vì ở Paris.
Ông qua đời năm 1990, 81 tuổi).
Các Ông Đạo chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn rồi chìm đi vì
giáo lý của họ thường quá đơn giản. Họ được mọi người lắng nghe và
khâm phục chỉ vì có tài nói năng úp mở, hiểu sao cũng được.
10 3/ Nam bộ - đặc biệt Tây Nam bộ - là vùng đất sùng mộ Phật giáo
Theo thống kê chính thức đến năm 2007, cả nước có 14.321 ngôi
chùa, tịnh xá, thiền viện Phật giáo. Trong khi đó riêng ở Nam bộ năm
1963 đã có 4.769 ngôi chùa.
Trong số 11 trường Ni trên toàn Nam bộ đầu thế kỷ XX thì có đến
8 trường, chiếm 73%, được mở trên địa bàn vùng Tây Nam bộ.
* Phật giáo đã bén rễ rất nhanh chóng và rất sâu vào vùng Tây
Nam bộ dù Phật giáo du nhập vào Tây Nam bộ muộn hơn vùng Đông
Nam bộ: Các ngôi chùa cổ nhất ở Nam bộ đều ở vùng Đông Nam bộ,
như chùa Bửu Phong, Long Thiền, Đại Giác ở Đồng Nai xây dựng thế
kỷ XVII; chùa Từ Ân, Khải Tường, Kim Chương, Tập Phước, Giác
Lâm ở Gia Định xây dựng giữa thế kỷ XVII. Những ngôi chùa lớn nhất
ở vùng Tây Nam bộ phải đến khoảng cuối thế kỷ thứ XVIII mới được
hình thành. Nhưng trước thập niên 1960, vùng Tây Nam bộ đã có 1.925
ngôi chùa, nhiều gấp 3 lần so với số chùa ở Đông Nam bộ, 687 chùa.
* Nhiều vị danh tăng có nhiều anh chị em trong gia đình cùng
xuất gia thậm chí trở thành những vị Tăng có uy tín. Nhiều bố mẹ trực
tiếp dẫn con tới chùa làm lễ quy y. Nhiều vị danh tăng xuất gia khi từ
nhỏ; nhiều vị đã kết hôn, lập nghiệp vẫn quyết lòng theo Phật sau khi
thu xếp gia đình…
* Phật tử cũng như đông đảo quần chúng rất nhiệt tình kiến thiết
tu bổ chùa chiền. Ở miền Bắc chùa chiền do nhà nước, làng xã xây
dựng, miền Nam nhiều chùa do tư nhân xây. Rất nhiều người đã hiến
đất để xây chùa cung hiến cho các vị danh tăng.
* Tinh thần Phật giáo thấm đẫm trong cách cư xử, cách sống
của người Nam bộ. Với cộng đồng xã hội thì từ bi, nhân ái ““Dù xây
chín bậc phù đồ/ Không bằng làm Phúc cứu cho một người”; với gia
đình thì đặc biệt xem trọng chữ hiếu “Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ cha
kính mẹ bằng ba tu chùa”.

126
* Phật giáo đến gần nhất với đông đảo quần chúng qua các kinh
sách phần nhiều đều chuyển sang chữ Quốc ngữ, thể hiện bằng hình
thức thơ ca. Đặc biệt “nhiều đoạn trong Sấm giảng đã thực sự trở
thành ca dao khiến cho “ca dao miền Nam đã mang sắc thái đặc biệt
hồi đầu thế kỷ; ai cũng thuộc vài chục, vài trăm câu, gặp những trường
hợp khó khăn về sinh kế, về thiên tai thì đem ra mà dẫn chứng, để lấy
lòng tin” (Sơn Nam).
* Phật giáo rất gần với cuộc sống: tăng ni hiểu biết sâu rộng cả tri
thức Phật học lẫn kiến thức xã hội, nhiều người học nghề thuốc cứu
người, chữa được bệnh nan y … ; các tổ chức Phật giáo gắn liền với
các hoạt động kinh tế sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thêm thu
nhập cho cộng đồng dân cư xung quanh.

11
3.2.2. Tôn giáo/tín ngưỡng của các dân tộc khác ở Nam bộ
3.2.2.1. Các dân tộc ở Đông Nam bộ
a/ Dân tộc Chơro
Đồng bào Chơro theo đa thần, tin vạn vật hữu linh. Tất cả các vị
thần linh của vạn vật được gọi chung là Giàng. Mỗi khi làm việc gì
quan trọng như bắt đầu gieo trồng mùa vụ, làm nhà ở, phát rừng làm
rẫy… người Chơro đều phải cúng Giàng (Jang): Jang va - thần lúa,
Jang bri - thần rừng, Jang dal - thần suối, Jang mơ - thần ruộng.
Người nối thế giới thần linh với đời sống con người là thầy cúng,
thường là phụ nữ, gọi là bà bóng. Mỗi dòng tộc thường có 2 bà bóng.
Bà bóng không phải do cộng đồng hay dòng tộc lựa chọn mà do cá tính
và những năng lực đặc biệt bẩm sinh của các bà.
Ngày nay một số người dân tộc Chơro theo các tôn giáo hiện đại
Thiên chúa, Tin lành nhưng không nhiều.
b/ Dân tộc Stiêng
Đồng bào Stiêng tin vào tôn giáo đa thần, vạn vật hữu linh.
Họ tin rằng không chỉ sinh vật mà vật vô tri vô giác như hòn đá, các
vật dụng trong gia đình cũng có linh hồn. Các linh hồn đó là những lực
lượng siêu nhiên có thể khống chế sự phát triển của cây trồng vật nuôi,
có thể làm hại người, vì vậy phải tôn thời chúng.
Đồng bào thờ Thần sấm sét, thờ trời, đất, thờ mặt trăng, mặt trời,
thờ núi, thờ sông.

127
Trời có liên quan đến các lễ nghi nông nghiệp, thần Mặt trời là thần
phồn thực, mang đến cho con người sự sinh sôi vui tươi no đủ. Tính
chất thiêng liêng và quyền uy của thần được quy ước bằng vật hiến sinh
màu trắng: gà trắng, lợn trắng, trâu trắng.
Hệ thống tín ngưỡng đa thần xuất hiện trên cơ sở kinh tế tự túc đã
bén rễ sâu nặng trong đời sống tinh thần của người Stiêng, đẩy lùi sự
xâm nhập của Thiên Chúa giáo.
12 3.2.2.2. Các dân tộc ở Tây Nam bộ
Các tôn giáo mới đã ra đời trong xã hội người Việt ở Tây Nam Bộ
mà không lan tỏa, ảnh hưởng đến các tộc người sống xung quanh như
Hoa, Chăm, Khmer là do các tổ chức tộc người - tôn giáo của các tộc
người này đã được định hình và phát triển lâu dài, tạo thành lớp vỏ rắn
chắc, ngăn chặn những ảnh hưởng từ bên ngoài. Dù có xảy ra quá trình
giao lưu văn hóa thường xuyên với các mức độ khác nhau nhưng các
tôn giáo mới chưa đủ sức phá vỡ nền tảng của các tôn giáo đã có vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội của các tộc người Hoa, Chăm, Khmer.
a/ Dân tộc Chăm:
Người Chăm Islam là một bộ phận của người Chăm Ninh Thuận
Bình Thuận, vì nhiều nguyên nhân khác nhau đã di cư sang Campuchia
vào thế kỉ XVIII và định cư ở Châu Đốc An Giang vào thế kỉ XIX.
Người Chăm cư trú trong các palay, điều hành và quản lý xã hội là
Hội đồng bô lão với hai chức năng: một là duy trì tập quán Chăm cổ
truyền, hai là khuyến khích và giúp đỡ các giáo sĩ Islam phát triển tôn
giáo trong cộng đồng Chăm.
Mọi vấn đề trong đời sống hàng ngày của người Chăm ở An Giang
đều do tổ chức Islam của những nhà thờ Islam quyết định.
Islam và sinh hoạt Islam đã trở thành nếp sống của cộng đồng
Chăm, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt phong tục tập quán.
Đó là cơ sở vững vàng cho cơ chế quản lý của nhà thờ và tổ chức
“chức việc”- là cơ quan đại diện của người Chăm về mọi mặt với chính
quyền bên ngoài.
Cơ chế quản lý xã hội như vậy đã hạn chế sự hòa nhập của cộng
đồng Islam với các cộng đồng dân cư khác.
b/ Dân tộc Khmer
Khmer là cư dân bản địa sống lâu đời ở Đồng bằng sông Cửu Long
trước khi có các đợt di cư của người Việt, người Hoa, người Chăm. Khi
các đoàn di dân đến cùng cộng cư, người Khmer đã đạt đến một trình
độ phát triển cao. Hình thái cư trú của người Khmer là phum, soc với

128
tính chất khép kín, bị chi phối bởi tôn giáo là Phật giáo tiểu thừa, vốn
từ lâu đã có vị trí quan trọng trong mọi sinh hoạt của người Khmer.
Phật giáo tiểu thừa không chỉ ảnh hưởng đến văn hóa, tâm lý, tập
quán mà còn chi phối cơ cấu quản lý xã hội truyền thống của người
Khmer.
Ở mỗi sóc đều có chùa Khmer được xây cất nơi cao ráo.
Chùa là quần thể kiến trúc quan trọng nhất trong khu vực cư trú
của người Khmer, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, văn hóa xã hội và là
nơi bảo lưu, truyền dẫn những giá trị văn hóa truyền thống từ thế hệ
này đến thế hệ khác.
Người nông dân Khmer vừa là thành viên của phum, sóc vừa là
những tín đồ Phật giáo, không phân biệt thần quyền và pháp quyền.
Tôn giáo đã tạo nên những sức mạnh tiềm ẩn ngăn chặn những yếu
tố văn hóa ngoại nhập.
c/ Dân tộc Hoa:
Gắn liền với cộng đồng người Hoa là các Hội quán, ban đầu được
xây dựng để hội họp,bàn việc làm ăn; sinh hoạt tín ngưỡng chỉ là một
phần. Qua thời gian, chúng biến thành chùa và từ đó trở thành nơi tín
ngưỡng thuần túy, là tiền đề cho việc phát triển Phật giáo Hoa tông.
Hệ thống thần linh trong chùa của người Hoa vừa là các đối tượng
thờ tự tôn giáo vừa là các thần linh dân gian.
Trong nhiều vị thần, người Hoa thường thờ ba vị:
 Thiên Hậu Thánh Mẫu: còn gọi là A Phò, Đại Mẫu, Má
Tổ. Người Hoa ở Nam Bộ có khi đã đồng nhất Quan Âm Nam Hải với
Thiên Hậu Thánh Mẫu.
 Quan Thánh Đế Quân: còn gọi là Quan Công, Quan đế, Quan
Lão gia, Tu Mỹ Công. Thần là biểu tượng của trung nghĩa, cương trực,
mưu lược, trí dũng và sự tín nghĩa, một đức tính cần thiết của người
mua bán.
 Phước Đức Chánh Thần: là biểu tượng cho đất: Thần Thổ Địa,
thần Tài lộc, Phúc thần địa phương.
Ở các đền miếu của người Hoa còn phối tự Ngọc Hoàng Thượng
Đế, Huyền Thiên Thượng Đế, Quan Âm Bồ Tát, Kim Huê Thánh Mẫu,
Thủy mẫu nương nương, Bà Chúa Thai Sanh,...
Gần đây nhiều đền miếu của người Hoa ở miền Tây còn thờ Neak
ta Khamau (Bà Đen), Ngũ Hổ Long Thần (Thần đất đai sở tại) thường
cúng bằng cá nướng trui.

129
Người Hoa đã có mặt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau năm
1679, ban đầu họ mong được tá túc, xây dựng lực lượng để về chống
lại nhà Thanh, khôi phục nhà Minh, nhưng do cơ hội phục hồi nhà Minh
không còn nên hầu hết những người Hoa di tản đã lần lượt lấy vợ lấy
chồng người địa phương. Những đoàn người Hoa sau này không di dân
xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhiều như trước đây mà chủ
yếu dừng lại ở địa bàn Biên Hòa, Mỹ Tho, Sài Gòn, Chợ Lớn. Như vậy
ở đồng bằng sông Cửu Long cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi các
tôn giáo mới xuất hiện trong xã hội người Việt thì cộng đồng người
Hoa đã ở các vùng ngoại biên. Hơn thế nữa người Hoa di dân đến các
vùng đất mới thường quần cư theo các mối quan hệ thân tộc hay quan
hệ đồng hương nên có cơ hội và điều kiện để bảo lưu các giá trị văn
hóa truyền thống của họ.

130
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 3 GHI
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN NAM BỘ CHÚ

CHỦ ĐỀ 3.3. PHONG TỤC


1 Mục tiêu học tập chủ đề
Học xong chủ đề này, sinh viên có cái nhìn hệ thống về phong tục cưới
hỏi, tang ma, lễ tết và lễ hội của người Việt và các dân tộc khác ở Nam
bộ.
Mô tả vắn tắt nội dung
3.3.1. Phong tục của người Việt
3.3.2. Phong tục của các dân tộc khác ở Nam bộ
2 3.3.1. Phong tục của người Việt
3.3.1.1. Phong tục hôn nhân
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phong tục, nhưng chúng tôi chọn
cách hiểu ngắn gọn nhất, rằng Phong tục “là những thói quen đã ăn sâu
vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo” [Hoàng Phê
1997: 756].
Bộ sử lớn nhất, kỳ công nhất về phong tục Việt Nam chính là các câu
tục ngữ, thành ngữ, ca dao, phong dao, đồng dao,... được dân gian giữ gìn
và truyền tụng cho đến tận ngày nay.
Trong phong tục có các phong tục sinh nở và nuôi dưỡng, phong tục
cưới hỏi, tang ma, phong tục tế tự (Lễ cúng giỗ, Lễ Kỳ yên); Lễ Tết và Lễ
hội. Trong phạm vi bài học này, chúng ta chỉ đề cập đến Phong tục Hôn
nhân, Tang ma, Lễ tết, Lễ hội.
3.3.1. Phong tục Hôn nhân
Tương đồng với phong tục miền Bắc miền Trung: “Tậu trâu, cưới vợ, làm
nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó thay”
Lễ cưới tối thiểu gồm có 3 lễ: Lễ chạm ngõ (Lễ dạm), Lễ ăn hỏi, Lễ cưới
(gồm lễ xuất giá, lễ vu quy, lễ rước dâu, lễ cưới, tiệc cưới).
Khác biệt với hai miền Bắc, Trung:
* Đôi bông cưới:
Gió đưa gió đẩy bông trang
Bông búp về nàng, bông nở về anh
* Lễ lên đèn:

131
Trong văn hóa của người khẩn hoang, nơi nào có ngọn lửa thắp lên thì
nơi đó có sự có mặt của con người.
Lễ lên đèn luôn được nhấn mạnh, đóng vai trò hợp thức hóa và thiêng
liêng hóa giá trị cuộc sống chung của đôi nam nữ, điều này chưa hề có
trong phong tục hôn nhân Trung bộ và Bắc bộ.
* Không có tục nộp cheo:
“Giúp em quan tám tiền cheo/Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau”.
Tiền cheo vốn là món tiền dùng để xây cất các công trình công cộng, khép
kín mọi quan hệ trong làng, hạn chế lấy vợ lấy chồng ngoài làng. Món
tiền này không còn cần thiết trong lễ cưới của những người dân tứ xứ.
* Hôn nhân do sắp đặt bị phai nhạt, không đặt nặng môn đăng hộ đối:
Do tính cộng đồng lỏng lẽo ngay từ đầu khai phá và hình thành thôn
ấp nên người Nam phần nào đã xem nhẹ vai trò của dư luận và dám sống
theo suy nghĩ của mình.
“Cúc Mai trồng lộn một bồn
Hai đứa mình chồng vợ, ai đồn mặc ai”.
* Hiện tượng “chế” trong tổ chức hôn lễ:
“Có tiền thì đầu heo nọng thịt
Không tiền thì cặp vịt đôi bông”.
Chế đến mức trốn tránh mọi nghi thức:
“Họ giàu họ nghinh hôn giá thú
Hai đứa mình nghèo dụ dỗ nhau đi”.
* Hiện tượng lấy chồng nước ngoài, đặc biệt rầm rộ ở khu vực Tây Nam
bộ:
2007-2009: Hậu Giang có 4000 cô gái lấy chồng Đài Loan, Vĩnh Long
có 1.526 vụ, ly hôn là 223 vụ. Ở Cần Thơ mỗi năm có hàng nghìn cô,
phường Tân Lộc (Thốt Nốt, Cần Thơ) một gia đình có 3, 4 chàng rể Đài
Loan, Hàn Quốc.
Nguyên nhân không phải vì nghèo, tổng sản phẩm quốc nội của Tây
Nam bộ đứng 3/8 toàn quốc (chỉ sau Đông Nam bộ và đồng bằng Bắc bộ);
không phải vì dân trí thấp, tỷ lệ người biết chữ đứng thứ 6/8. Tây Bắc và
Tây Nguyên nghèo nhất và trình độ thấp nhất nước nhưng không có hiện
tượng này.
Nguyên nhân là đặc điểm văn hóa vùng.

132
Hôn nhân Việt-Đài bắt đầu phát triển năm 1995, từ năm 2005-2010
dịu xuống; nhường cho hôn nhân Việt-Hàn. Từ lẻ tẻ thành làn sóng, từ
không tổ chức đến có tổ chức.
Chức năng của hôn nhân xuyên quốc gia là đáp ứng nhu cầu của đàn
ông Đài Loan, Hàn Quốc và phụ nữ Tây Nam bộ.
Với người chồng: Hành trình trong không gian sang Việt Nam lấy vợ
là hành trình ngược thời gian, tìm lại hình ảnh chồng chúa vợ tôi của thời
trung cổ.
Với người vợ: hành trình trong không gian sang các nước phát triển
hơn là hành trình trong thời gian, tìm hình ảnh người chồng của xã hội
hiện đại mà Việt Nam chưa đạt được.
Tại sao phụ nữ miền Bắc không lấy chồng ngoại như phụ nữ miền
Tây?
1. Miền Bắc: “Ruộng đầu chợ, vợ giữa làng”,
“Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng mang cho
Có con mà gả chồng xa
Một là mất giỗ hai là mất con”
Người miền Nam không sợ xa xứ, con gái Tây Nam bộ bản lĩnh, cá
tính. (Đội quân tóc dài);
Miền Nam đa văn hóa hơn, giao lưu văn hóa quốc tế lâu đời. Trong
khi miền Bắc đa số là gốc Việt.
2. Quan niệm về chữ Hiếu của miền Nam khác miền Bắc.
Tây Nam bộ là vùng văn hóa trẻ nhất Việt Nam, Nho giáo du nhập vào
đây muộn nhất1, nhưng lại tàn lụi sớm nhất (Ảnh hưởng giáo dục của
phương Tây, chế độ Khoa cử chấm dứt ở miền Nam năm 1867, sớm hơn
nửa thế kỷ so với miền Bắc, 1915 và miền Trung, 1919).
Chữ Hán và Nho học có vai trò trong học thuật và hành chính ở Nam
Bộ chỉ khoảng một thế kỷ rưỡi, thời gian tồn tại rất ngắn ngủi, lại là giai
đoạn cuối cùng trên con đường suy tàn của phong kiến Việt Nam nên Nho
giáo ở đây bén rễ chưa đủ vững bền sâu sắc.

1
Văn Miếu ở Thăng Long xuất hiện từ năm 1070, đến 700 năm sau Văn Miếu đầu tiên ở Nam bộ mới được
xây dựng. (Văn miếu Trấn Biên, ở Biên Hòa, xây dựng năm 1715; Văn miếu Gia Định 1824; 50 năm sau,
Văn Miếu ở Tây Nam bộ mới xuất hiện: Văn Miếu Vĩnh Long 1864, Văn Miếu Cao Lãnh Đồng Tháp
1857).

133
Nho giáo du nhập vào Nam bộ theo bước chân của những lưu dân vốn
là nông dân nghèo, các tội nhân lưu đày, là những đối tượng nhạt chất
Nho nhất.
Như vậy Nho giáo ở Nam bộ nhẹ nhõm phóng khoáng hơn miền Bắc,
miền Trung2.
Nho giáo rất coi trọng chữ Hiếu. Nhưng người Việt bằng trái tim một
cách bản năng đã chấp nhận tình cảm hiếu thảo với cha mẹ trước khi chịu
ảnh hưởng nghĩa lý của nho giáo Trung Hoa.
Đến Nam bộ nơi ý thức dòng tộc không phát triển mạnh mẽ, Hiếu là
một tình cảm tự nhiên chứ không nhiều trói buộc với lễ giáo.
Nho giáo đặt nặng trách nhiệm nuôi dưỡng cha mẹ lúc sống, thờ cúng
cha mẹ lúc chết vào người con trai trưởng, người được thừa kế nhiều nhất.
Ở Nam bộ không phân biệt rạch ròi trưởng, thứ, trai, gái vì cha mẹ ở với
con út, chia gia tài nhiều hơn cho con út.
Con gái trong gia đình Nam bộ không phải là con người ta, và luôn
đau đáu trả Hiếu cho cha mẹ.
Ba má sinh tôi ra
Má tôi nhai cơm lừa đá, nhai cá lừa xương
Anh ơi em chưa lo đền, nghĩa em chưa trọn
Anh biểu em kết nghĩa tào khương sao đành
Con gái cũng lo cho cha mẹ
Nam làm chi, nữ làm chi
Sống cho có nghĩa có nghì còn hơn
3. Văn hóa thôn ấp Tây Nam bộ lỏng lẻo, không tạo áp lực dư luận.
Phân tích theo Thuyết Duy vật luận: Kinh tế hàng hóa, buôn bán sớm
phát triển nên người Nam bộ thực tế hơn.

2
Tuy nhiên, Nho giáo Nam bộ có giai đoạn mang tính “về nguồn” rất tha thiết do nỗ lực giữ gìn những giá
trị văn hóa truyền thống, mượn Nho giáo như một sức mạnh để quy tụ cộng đồng, làm vũ khí chống giặc
ngoại xâm. Vì hoàn cảnh đặc biệt của vùng đất mới, nơi cộng cư của nhiều cư dân đa dạng về chủng tộc,
chưa thống nhất về tôn giáo tín ngưỡng, nên các triều đại phong kiến trước sau đều tận dụng Nho giáo làm
nền tảng cho việc thiết lập trật tự chính trị và ổn định xã hội ở Nam bộ. Sau khi Nguyễn Hữu Cảnh vào cai
quản Đông phố, 17 năm sau chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho lập văn miếu Trấn Biên. Nhà Nguyễn ngay sau
khi thống nhất đất nước trên phạm vi lãnh thổ rộng lớn cũng đã chú trọng phát triển Nho giáo ở Nam bộ.
“Nho giáo đã phát huy vai trò xóa bỏ những khoảng cách giữa các nhóm dân tộc, quy tụ tất cả và một cộng
đồng Việt Nam thống nhất chung”.

134
“Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo, hàng xóm láng giềng cười chê”
Tây Nam bộ vốn là vùng “Gạo trắng nước trong”, giàu có, nay các khu
công nghiệp đều tập trung ở Đông Nam Bộ; thanh niên Tây Nam bộ ngày
nay hiếm người lập nghiệp khấm khá tại địa phương. Vì vậy, phụ nữ Nam
bộ muốn lấy chồng ở xứ giàu có hơn.
Ảnh hưởng của văn hóa đại chúng: phim lãng mạn và phim thần tượng.
Phim Hàn Quốc và phim Đài Loan chiếu trên các Đài truyền hình Nam
bộ nhiều hơn các Đài truyền hình miền Bắc, miền Trung.
3 3.3.1.2. Phong tục Tang ma
Tương đồng với phong tục Tang ma miền Bắc, miền Trung: Chuẩn bị
trước “cỗ hậu”, sinh phần (miền bắc), hòm dưỡng già, kim tỉnh (miền
Nam)
Khác biệt trong Tang lễ ở miền Nam so với miền Bắc, miền Trung:
- Đặt nải chuối sứ trên bụng người mới mất - ảnh hưởng văn hóa tang
lễ của người Khmer (để hút hết những hơi độc bốc ra từ thi thể). Ở miền
Bắc, khi mới mất, đặt nằm xuống nền đất, hy vọng tiếp thêm nguồn sống
của đất mẹ mà hồi sinh trở lại.
- Lược bỏ những tập tục rườm rà mang tính đối phó hoặc phô trương
hình thức như các tục chống gậy, lăn đường, thổi kèn, khóc mướn….
Thậm chí có kèn, trống, nhạc, thuê cả đội kèn tây ăn mặc lịch sự, chơi cả
những bài nhạc vui.
- Khăn vải trắng được dùng chung cho tất cả mọi người chịu tang
không phân biệt hàng con (vải xô) cháu (vải trắng) như miền Bắc, Trung.
- Nghi lễ tang ma phần lớn đều theo một tôn giáo nhất định, khác với
Bắc, Trung bộ sau mấy chục năm bao cấp với đường lối vô thần, tang lễ
đều do dân chúng tự tổ chức theo truyền thống và kinh nghiệm.
- Nhờ cơ sở dịch vụ mai táng lo trọn gói, sớm chịu ảnh hưởng của
phương Tây với tư duy phân tích, bỏ được thói quen ôm đồm, chấp nhận
chuyên môn hóa trong mọi việc. Người miền Bắc thường phải lập một
Tang chủ là người có trách nhiệm chính trong lễ tang, một người hộ tang,
một người chấp hiệu, giúp thực hiện các hiệu lệnh khi động quan, di quan
và hạ huyệt.
Đưa tang:
- Dù tang cha hay tang mẹ, người con trai cũng thường đi lùi trước
linh cữu. Ở miền Bắc thì “cha đưa, mẹ đón”.

135
- Bưng khay vong, cháu ngoại trai vẫn có thể thay thế cho con trai
hoặc cháu nội trai.
- Khi chuyển cữu có tục đập vỡ chiếc nồi đất úp dưới quan tài với ý
nghĩa giải phóng cho linh hồn nhanh chóng siêu thoát; tổ chức Lễ đánh
phá quàn, với ý nghĩa diệt yêu quái để bảo vệ cho vong linh người đã
khuất và giúp đám tang diễn ra suôn sẻ. Có khi còn có màn múa lân tiễn
biệt.
Sau khi chôn cất:
Phong tục mở cửa mả là phong tục ảnh hưởng từ tục khai mộ của
người Hoa, kết hợp với truyền thống con cái báo hiếu của văn hóa Nam
bộ.
Ngoài Bắc là tục 3 ngày, con cháu đắp sửa lại mộ hoặc làm nhà mồ,
mời thầy phù thủy đến ếm bùa trừ ma quỷ.
Ở Nam bộ là tục mở cửa mả, con cái mang theo cái thang làm bằng bẹ
chuối, (nam 7 bậc, nữ 9 bậc) , 3 ống trúc đựng gạo muối nước, 5 loại đậu,
một con gà ác buộc chân vào cây mía lau để cả ngọn,... Cây mía tượng
trưng công lao như chín tầng mây của cha mẹ nuôi con. Cha mẹ ra đi, con
cái như đàn gà con mất mẹ. Gạo muối nước là những thứ Cha mẹ đã nuôi
con khôn lớn. Tất cả đậu giống trong nhà rải ra mộ là để cho mẹ được mát
mẻ đỡ phải đội nắng dầm mưa…
Cúng thất thứ nhất (sau 7 ngày), cúng thất thứ ba (21 ngày), cúng thất
thứ 7 (49 ngày), cúng 100 ngày, cúng hết năm, cúng mãn tang (tròn ba
năm sau ngày mất). Người Nam bộ tin rằng phải tròn ba năm thì vong hồn
người mất mới kịp trải qua hết 10 cửa ngục để các vị Diêm Vương xét xử.
Người Nam bộ rất thoáng trong các nghi thức tang ma:
Xả tang trước thời hạn, ngay trong ngày mở cửa mả đối với những con
cháu phải đi làm việc xa nhà.
Phường Bát âm dùng trong tang lễ ở Bắc bộ, Trung bộ đã dần biến đổi
thành dàn nhạc Ngũ âm đơn giản hơn, linh hoạt hơn và thực tiễn hơn.
4 3.3.1.3. Lễ tết và Lễ hội
Với nghề nông nghiệp lúa nước, công việc đồng án mang tính thời vụ
nghiêm ngặt, vì vậy vào thời gian rảnh rỗi trước hoặc sau mỗi mùa vụ,
người Việt thường tổ chức các Lễ tết và Lễ hội để bày tỏ lòng biết ơn và
cầu mong tổ tiên, các thế lực siêu nhiên giúp đỡ. Đồng thời đó cũng là dịp
chơi bù ăn bù cho những ngày phải làm lụng vất vả.
Lễ tết diễn ra đồng ra cùng một thời điểm ở một địa phương và thiên
về vật chất (ăn Tết). Lễ tết mang tính đóng, giới hạn trong mỗi gia đình,
mục đích là duy trì quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.

136
Lễ hội diễn ra ở từng địa phương, vào những khoảng thời gian khác
nhau, thiên về tinh thần (chơi hội), mang tính mở, lôi cuốn mọi người tìm
đến, duy trì quan hệ dân chủ bình đẳng giữa các thành viên trong làng xã.
A. Lễ tết:
Đặc trưng Tết miền Nam:
- Tết bắt đầu từ sau ngày cúng ông Táo, sửa mồ mả ông bà, dọn dẹp
bàn thờ, tắm cho ông Địa, ông Thần Tài.
- Ngày tết nhất định phải có:
Mai vàng,
Chậu tắc
Hoa vạn thọ
Hoa đồng tiền,
Mâm ngũ quả
Bánh tét
Canh khổ qua dồn thịt
Thịt kho hột vịt
Mỗi thứ đều có ý nghĩa, cầu mong mọi điều tốt lành cho năm mới.
5 B. Lễ hội
Gồm có 3 nhóm:
1. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ môi trường tự nhiên:
Gồm các Lễ hội nghề nghiệp, sử dụng tài nguyên thiên nhiên
2. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã
hội: gồm các Lễ hội liên quan đến các nhân vật lịch sử
3. Lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng: các Lễ hội tôn giáo tín
ngưỡng
B1/ Các lễ hội nghề nghiệp
Nhóm lễ hội này không phong phú lắm, nổi bật chỉ gồm có Lễ hội giỗ
tổ Nghề kim hoàn và Lễ hội Thờ cúng cá voi.
Các nghề nghiệp quan hệ với môi trường tự nhiên như làm ruộng, làm
vườn, làm rừng, đóng ghe xuồng thì tất cả đều rất thuận lợi do môi trường
tự nhiên quá ưu đãi hào phóng, vì vậy chỉ cần dùng đến kỹ thuật, không
cần cầu viện đến yếu tố linh thiêng. Thiếu thần linh thì không thể thành lễ
hội.

137
Các nghề nghiệp quan hệ với môi trường tự nhiên như làm ruộng, làm
vườn, làm rừng, đóng ghe xuồng thì tất cả đều rất thuận lợi do môi trường
tự nhiên quá ưu đãi hào phóng, vì vậy chỉ cần dùng đến kỹ thuật, không
cần cầu viện đến yếu tố linh thiêng. Thiếu thần linh thì không thể thành lễ
hội.
B1.1. Lễ hội giỗ tổ nghề Kim hoàn
Thời Pháp có câu ca dao trở thành câu hát ru nổi tiếng ở vùng Nam
bộ:
Thông ngôn Ký lục lương chục đâu màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay
Từ năm 1892-1894 đền thờ Tổ sư ngành Kim hoàn ở Nam bộ với sự
góp vốn của thợ kim hoàn Sài Gòn-Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông miền
Tây dưới sự chủ trì của một số nghệ nhân người Việt tại địa phương hoặc
từ Huế vào và những nghệ nhân người Hoa, đã được xây dựng tại khu vực
Chợ Lớn (586 Trần Hưng Đạo B phường 14 quận 5), gọi là Lệ Châu Hội
Quán.
Từ ngày 6 đến 9/2 Âm lịch hàng năm, các nghệ nhân thợ kim hoàn tề
tựu và đền thờ để tổ chức ngày Lễ hội Cúng vía Thánh tổ Kim hoàn.
Đó là ba vị tổ sư họ Trần, tước hiệu “Kim Hoàn Mỹ Nghệ Khai Sáng
Trần Công Tam Vị Tổ Sư Tôn Thần”.
Nội dung lễ hội gồm có:
Ngày 6/2 ÂL: chuẩn bị lễ hội, đọc kinh cầu an do các nhà sư Phật giáo
thực hiện, buổi tối họp mặt liên hoan và hát bội hoặc ca cải lương.
11g ngày 8/2 ÂL: Lễ Chấp Minh (ra mắt ban tế lễ và thỉnh tổ về dự lễ)
23g ngày 8/2 ÂL: Lễ Chánh tế (tạ ơn Tổ)
16g ngày 9/2 ÂL: Lễ Tế Nghĩa Từ (tưởng niệm các thế hệ nghệ nhân
Kim hoàn đã qua đời).
Ba lễ nói trên tương tự như lễ Túc yết, Đoàn cả và tế Tiền hiền, Hậu
hiền trong lễ hội Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ.
Cùng lúc hoặc sau lễ giỗ tổ chung tại đền Lệ Châu, các nơi thờ tổ kim
hoàn ở các địa phương, các gia đình nghệ nhân cũng tiến hành cúng tổ
nhưng quy mô đơn giản hơn.
B1.2. Lễ hội giỗ Tổ ngành Hát bội, Cải lương:
Dựa trên nhiều truyền thuyết người ta thấy sân khấu truyền thống Việt
Nam có nhiều Ông tổ. Có những nhân vật lịch sử lai lịch rõ ràng như Từ
Đạo Hạnh, Đào Duy Từ, có những người tiểu sử mơ hồ như Phạm Thị

138
Trân, Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Lý Nguyên Cát, hoặc có người có
gốc nước ngoài như Đông Phương Sóc, Cang Cung Hầu (Càn Cương
Hầu)…
Ở Nam Bộ, các nghệ sĩ, nghệ nhân thờ các vị tổ gần gũi hơn, vốn là
các nhân vật lịch sử có công trạng lớn trong việc xây dựng ngành
nghề như Đào Tấn, Cao Văn Lầu,... đồng thời thờ một số tổ mang tính
chất truyền thuyết như ba ông hoàng tử tên Càn, Chơn, Chất vì ham mê
nghệ thuật sân khấu mà từ giã cung son, trốn tránh chiều đình và cuối
cùng bị chết trên cây vông nem (vì vậy cốt tượng cũng như ngai thờ tổ sư
được làm bằng cây vông nem và người ta kiêng mang guốc vông); như
hai vị hoàng tử mê hát từ nhỏ, quên ăn quên ngủ, thường xuyên trốn vào
góc buồng hát để coi trò. Một năm, vào ngày 12/8 Âm lịch, khi họ kiệt
sức qua đời, các nghệ sĩ cảm động trước sự say mê của người tri kỷ đã lập
bàn thờ trong hậu trường, coi là ông Tổ và lấy biểu trưng bằng bức tượng
2 em bé. Ông Tổ của các nghệ sĩ Nam bộ còn là 12 vị tổ nghề, gọi tên là
Thập nhị công nghệ, là bậc thầy của những nghề nghiệp phổ biến trong
xã hội như bốc thuốc, mộc, thợ rèn, đi buôn... Chính họ là những người
đã truyền bá kĩ năng nghề nghiệp cho nghệ sĩ, nghệ sĩ nhập vai và hóa
thân thành những thành phần xã hội khác nhau trên sân khấu.
Theo truyền thống chung của cả nước, ở Nam bộ, ngày 11/8 ÂL hàng
năm, kể từ năm 1950, Lễ giỗ Tổ chung toàn ngành được tổ chức định kỳ
thường xuyên tại trụ sở Hội Ái hữu Nghệ sĩ, từ năm 1981 được gọi là nhà
truyền thống sân khấu (Số 133, đường Cô Bắc, Quận 1, TPHCM). Ngày
12/8 ÂL Lễ giỗ được tổ chức tại các Rạp, các Đoàn nghệ thuật.
Trước ngày giỗ, có các suất diễn gọi là “Diễn cúng Tổ”.
Tối 10/8 ÂL: quét dọn bàn thờ tổ, tắm và thay trang phục mới cho cốt
tượng Tổ sư.
Sáng 11/8 ÂL: sân khấu được thiết kế thành nơi làm lễ với bàn thờ tổ
trang trọng, gồm hệ thống ngai thờ, hương án, bài vị theo thứ tự: Tổ sư -
Tiên sư, Thập nhị công nghệ, Tiền Hiền, Hậu Hiền - xuống dưới nữa: Bên
trái là Bạch Hổ (đầu cọp, Tổ của kép võ), bên phải là Linh Quan Thổ địa
(mặt ông địa - Tổ của kép hề); dưới cùng là bàn thờ Ông Ngỗ Nghịch (thần
yểm trị sự quấy phá, gây rối nội bộ).
Ngoài cửa rạp, dưới gốc cây nào đó có bàn thờ Ông Bà Chủ Quán,
biểu tượng của các mạnh thường quân.
Tối 11/8 ÂL: Lễ cúng Ông lễ vật chay.
Sáng 12/8 ÂL: Lễ cúng Ông cúng mặn.
Sau Ba hồi trống thỉnh Tổ, chủ tế là một nghệ sĩ cao niên làm Lễ Niệm
hương trước bàn thờ Tổ sư. Sau đó là nghi thức Đại Bội (như trong lễ Kỳ

139
yên), lần lượt là phần dâng hương lạy Tổ của các nghệ sĩ theo thứ tự tuổi
đời và tuổi nghề. Cuối cùng là chương trình hát hầu Tổ của các nghệ sĩ
với những bài bản tâm đắc nhất của mình. Không khí lúc này vừa thiêng
liêng trang trọng và ấm áp. Kết thúc là phần liên hoan và biểu diễn nghệ
thuật.
B1.3. Lễ hội thờ cúng cá voi
Thờ cá voi là một tín ngưỡng và tập tục lâu đời của người Chăm cư
trú ven biển miền Trung nước ta. Thần thoại Chăm kể rằng, cá voi là hóa
thân của vị thần Cha Aih Va và người Chăm đã đồng hóa vị thần đó với
thần Sóng biển Pô Riyak, một thế lực linh thiêng có thể phù trợ cho người
đi biển. Trong quá trình giao tiếp văn hóa Việt-Chăm tín ngưỡng và tập
tục này đã được Việt hóa.
Cá voi lớn được gọi là Ông, cá voi nhỏ được gọi là Ông cậu.
Khi cá voi lụy người ta làm lễ an táng, chịu tang 3 năm, và sau 3 năm
phải làm Lễ thỉnh Ngọc cốt một cách nghiêm túc.
Nếu không làm được nơi thờ tự riêng gọi là Lăng hoặc Dinh Vạn thì
cũng đưa Ông vào đình, đền, miếu để thờ phụng.
Bài vị thờ cá voi thường được ghi các mỹ hiệu: Ông Thủy Tướng, Nam
Hải Tướng Quân.
Ở những nơi thờ tự cá voi người ta còn phối tự thờ Thủy Long Thần
Nữ hoặc Bà Ngũ Hành và Tiền hiền, Hậu hiền của cộng đồng địa phương.
Lễ hội thờ cúng cá voi thường diễn ra vào ngày trăng tròn trong các
tháng cuối năm âm lịch, mùa biển động, thần biển có thể giận dữ bất
thường và cá voi hay bị nạn trôi dạt vào bờ.
Mỗi địa phương có lịch giỗ Ông và hình thức tổ chức khác nhau, xoay
quanh ba nội dung chính là lễ Nghinh Ông, Lễ Chánh tế, Lễ cúng Tiền
hiền, Hậu hiền.
Ngoài ra còn có các phần sinh hoạt hội hè, chủ yếu là hát bội, trò chơi
dân gian, liên hoan ăn uống…
Lễ hội Nghinh Ông có quy mô tổ chức lớn và tiêu biểu cho ngư dân
miền biển Nam bộ là Lễ Hội Nghinh Ông ở huyện Cần Giờ (TPHCM), ở
Vũng Tàu và ở Vàm Láng (Gò Công Đông, Tiền Giang).
(Vùng Tây Nam bộ tuy có đường ven biển tương đối dài từ phía đông
của Gò Công, Tiền Giang đến Cà Mau và phía Tây từ Mũi Cà Mau đến
Hà Tiên nhưng nhìn chung đều là vùng biển nông nên không phải là những
khu vực có văn hóa biển mạnh).
* Lễ hội cầu ngư nghề cá đồng Đồng Tháp Mười.

140
Trong nội đồng, người ta thường tổ chức lễ cúng Ngư thần vào khoảng
tháng 2 tháng 3 âm lịch, là mùa khô, mùa tát đìa bắt cá. Ở vùng ven sông
lớn thường tổ chức vào cuối mùa nước nổi, tháng 9 tháng 10, lúc cá từ
trong đồng rút ra sông.
6 B.2. Các lễ hội liên quan đến các nhân vật lịch sử
Là các lễ hội thể hiện mối quan hệ giữa con người với môi trường xã
hội, ghi nhớ công ơn các nhân vật có công đánh đuổi giặc ngoại xâm.
B2.1. Lễ hội Lăng Ông Bà Chiểu
Đối tượng cử lễ chính là tả quân Lê Văn Duyệt, vị khai quốc công thần
triều Nguyễn có nhiều công trạng lớn trong việc khai phá giữ gìn vùng
đất Nam bộ, nhưng khi chết bị nhiều oan ức.
Trong tâm thức người dân Ông là người chết oan nên linh hiển, uy linh
của ông bao trùm khắp xứ Gia Định Sài Gòn. Ông là thần Thành Hoàng
của các thần thành hoàng ở Sài Gòn-Gia Định.
“Khi Tả quân mất, ở vùng Chợ Đũi mọi người đều ngạc nhiên thấy
một khối lửa đỏ xẹt thẳng lên trời cao, báo hiệu “khí thiêng” đã “về thần”
(Sơn Nam)
Hàng năm lễ giỗ chính được tiến hành vào ngày 1/8 Âm lịch theo nghi
thức cúng tế Kỳ yên của đình làng. Trong lễ giỗ luôn luôn có Hát bội.
Trong việc xây dựng trùng tu lăng Miếu và tham gia các hoạt động lễ
hội, người Hoa ở Sài Gòn đã góp công góp của rất nhiều.
Ngoài Lễ giỗ Tả quân Lê Văn Duyệt tại Lăng Ông Bà Chiểu, tại
TPHCM còn có các ngày lễ Húy kỵ Hai Bà Trưng (tổ chức ngày 6/2 ÂL)
tại đền thờ Hai Bà Trưng, Lễ vía Trần Hưng Đạo (tổ chức ngày 20/8 ÂL)
tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
B2.2. Lễ hội Nguyễn Trung Trực
Tiêu biểu nhất ở Tây Nam bộ là lễ hội Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá
(Kiên Giang).
Nguyễn Trung Trực (1839-1868) là anh hùng chống Pháp, với chiến
công lừng lẫy chỉ huy nghĩa quân đốt cháy chiến hạm Hi vọng của Pháp
trên sông Nhật Tảo (tỉnh Long An) ngày 10/12/1861, và đánh úp đồn Kiên
Giang ngày 16/6/1868; bị Pháp bắt đưa về Kiên Giang xử chém tại chợ
Rạch Giá ngày 27/10/1868, khi ông mới 31 tuổi.
“Lửa bừng Nhật Tảo rền trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần” (Huỳnh Mẫn Đạt).

141
Ông đã đi vào lịch sử với câu nói nổi tiếng thể hiện khí phách hiên
ngang bất khuất của người Nam bộ: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước
Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Nguyễn Trung Trực được dân chúng Tây Nam bộ tôn kính gọi là Ông
Nguyễn và lập đền thờ ở nhiều nơi trong tỉnh Kiên Giang, An Giang, Sóc
Trăng, Bạc Liêu.
Lễ hội Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá diễn ra hàng năm trong ba
ngày từ 27 đến 29/8 Âm lịch.
“Dù ai buôn bán gần xa
Ngày giỗ cụ Nguyễn thì ta nhớ về”.
Từ hơn 100 năm nay, cứ vào hạ tuần tháng 8 Âm lịch là từng đoàn
khách các tỉnh vùng Tây Nam bộ tấp nập đổ về Rạch Giá bằng đủ loại
phương tiện ghe xuồng, xe cộ để dự lễ giỗ Nguyễn Trung Trực, bà con
gọi tôn kính là đi Cúng đình.
Sau phần lễ là phần hội với màn trình diễn tái hiện hai chiến công nổi
bật của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt tàu Pháp trên sông Nhật Tảo
và đánh đồn Rạch Giá và các tiết mục giao lưu văn nghệ quần chúng của
ba dân tộc Việt, Hoa, Khmer. Khắp nơi trong thành phố diễn ra các trò
chơi dân gian, trình diễn đàn ca tài tử, biểu diễn lân sư rồng, biểu diễn võ
thuật, trình diễn nghề truyền thống, thi nấu ăn, thi cổ hoa dân gian, thi
múa lân, thả hoa đăng trên sông, hội chợ, chợ phiên v.v…
7 B3. Các lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng
Là lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng. Ở Nam bộ, tiêu biểu hơn
cả là lễ hội Kỳ yên (cúng đình), lễ hội Bà Chúa Xứ (tín ngưỡng thờ Nữ
Thần) và lễ hội Hòa Hảo (tôn giáo).
B3.1. Lễ cúng Thần thành hoàng - Lễ vía Thành hoàng - Cúng đình
Lễ hội Kỳ yên:
Kỳ yên có nghĩa là cầu an, dân gian gọi đơn giản là Lễ vía Thành
hoàng hoặc là Giỗ Ông, thường diễn ra trong suốt 2 ngày 3 đêm. Thường
là các ngày có trăng trong tháng, dân chơi suốt đêm, đi về thuận tiện.
Lễ Kỳ yên diễn ra ở khắp các địa phương và không xảy ra cùng một
thời điểm nên số người tham dự rất đông.
Một số nghi thức quan trọng của lễ hội Kỳ yên:
Sau 3 hồi chiêng trống nhạc lễ
Lễ thượng kỳ (cờ biểu tượng của lễ hội)
Ngày thứ nhất làm Lễ thỉnh sắc:

142
Ngày thứ hai là Lễ Túc Yến đại diện cho các Hương chức tập hợp lại
để nghênh tiếp và ra mắt thần. Vì vậy thường bắt đầu lúc nước lớn lên cao
nhất để thuận tiện cho việc đi lại.
Ngày thứ ba có 2 lễ chính:
Lễ Đoàn cả (Đàn cả/Chánh tế): cảm tạ Thành Hoàng bổn cảnh đã phù
hộ cho dân làng được phong điều vũ thuận, quốc thái dân an.
Lễ Tế Tiền hiền, Hậu hiền, các anh hùng liệt sĩ địa phương.
Mỗi lễ đều có bài văn tế riêng.
Tại lễ hội Kỳ yên ở các đình làng Nam bộ còn có nghi lễ cúng Miếu.
Trong khuôn viên của đình làng Nam Bộ thường có một loạt Miếu
hoặc Miễu, thờ các vị thần trong tín ngưỡng dân gian truyền thống của
địa phương hoặc do giao lưu văn hóa đưa vào, như miếu thờ Ngũ Hành
Nương Nương, Bà Chúa Xứ, Bà Cửu Thiên Huyền Nữ, Thần Nông, Thần
Hổ, Bà Thiên Hậu, ông Tà,...
Một nội dung không thể thiếu được trong lễ Kỳ yên là Hát Chầu do
các đoàn hát bội phụ trách.
Trước khi thỉnh sắc thần về đình, người ta thường tiến hành nghi lễ
rước tổ Hát bội rất long trọng.
Khác với Hát bội thông thường, Hát chầu không chỉ mang tính giải trí
mua vui mà chủ yếu là mang tính nghi lễ trang nghiêm với 5 nghi thức
chính:
Cử các cô Đào ca theo điệu chúc khi dâng hương (thài);
Cử lính hầu Ông;
Cử hành Lễ xây chầu - Đại bội;
Diễn tuồng Hát bội;
Cử hành lễ Tôn Vương;
Hồi chầu
Sau cùng là Lễ hồi sắc.
Tâm trạng của người dân Nam bộ trong những ngày lễ hội Kỳ yên:
“Nghe tiếng trống chiến, chết điếng trong lòng
Nghe tiếng trống chầu, cái đầu láng mướt”
B3.2. Lễ hội Bà Đen
Diễn ra tại núi Bà Đen, Tây Ninh, là ngọn núi cao nhất Nam bộ, gần
900m, (núi Sam chỉ cao hơn 200m).

143
Từ chân núi lên đỉnh là một hệ thống quần thể công trình kiến trúc
gồm điện chùa miếu tháp và hang động với nội dung thờ phụng phần lớn
liên quan tín ngưỡng Phật giáo. Trung tâm là Bà Đen - Linh Sơn Thánh
Mẫu với điện bà ở vị trí lưng chừng núi.
Theo truyền thuyết, Bà Đen tên thật là Mê Đeng con gái của quan tri
huyện Trảng Bàng. Năm 13 tuổi theo học đạo với một nhà sư người Hoa.
Sau bà bị cọp vồ, một phần thi thể của bà được mai táng trên núi vào ngày
5/5 âm lịch, sau này bà được lập miếu thờ vì bà trở nên rất linh thiêng.
Một truyền thuyết khác kể rằng bà tên thật là Lý Thị Thiên Hương, quê
tại Trảng Bàng, có nước da ngăm đen và rất có duyên, mộ đạo Phật,
thường lên lễ chùa tại Núi Một (tên của núi Bà Đen lúc đó), bị con trai Tri
huyện ức hiếp bà đã quyên sinh…
Khi bị quân Tây Sơn truy kích từ Gia Định phải chạy ngược sông Vàm
Cỏ qua Tây Ninh, Nguyễn Ánh đã ghé núi Bà Đen tá túc và xin Bà phù
hộ cho tai qua nạn khỏi. Sau này khi đã lên ngôi, vua Gia Long đã sắc
phong cho bà đen thành Linh Sơn Thánh Mẫu và truyền lệnh đúc tượng
đồng cho Bà, xây điện khang trang hơn.
Hàng năm ngày vía Bà là ngày 5-6/5 Âm lịch, là lễ hội lớn nhất ở núi Bà
Đen.
0 giờ đêm ngày 4/5 ÂL: Lễ tắm Bà
6 giờ sáng ngày 5/5 ÂL: Lễ trình thập cúng
Tối ngày 5/5 ÂL là chương trình hát múa Bóng rỗi3 (Múa mâm vàng,
mâm bạc,..) hát Chặp địa nàng.
Ngày 6/5 ÂL: chương trình theo nghi lễ Phật giáo.
Trước đây còn có chương trình Hát bội vào ngày 7-8/5 ÂL.
Bà Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu là một Mẫu mang nhiều nét khá đặc
biệt trong tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt ở Nam Bộ, từ một Mẫu
nhân thần địa phương trở thành một Mẫu nhiên thần của cả vùng Nam bộ
(Linh Sơn Thánh Mẫu nghĩa là bà mẹ linh thiêng của ngọn núi cao nhất
Nam bộ), từ bóng dáng một bà mẹ Khmer giữ chùa (Mẫu Khmaur) trở
thành một nữ thần Việt với tính chất vừa là Phật Bà, vừa là Tiên nữ, vừa
là Thánh mẫu, là điểm tựa chủ yếu cho sự hội tụ của cả một hệ thống Phật
Tiên Thánh dày đặc trên núi Bà Đen.

3
Múa Bóng rỗi là một bộ phận của nghi lễ cúng Bà vì bao gồm nghi thức hát rỗi mời chào, ca ngợi công
đức của bà, dâng mâm vàng cúng bà, lại vừa là một hình thức nghệ thuật tổng hợp phối hợp hát múa với
trình diễn các trò tập kỹ tinh xảo như múa dâng hoa, múa lộc bình, muá lu, múa dao, múa gậy.

144
B3.3. Lễ hội Dinh Cô Long Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu)
Dinh Cô trước kia còn gọi là miếu thờ Bà Cô, được xây dựng và trùng
tu nhiều lần bắt đầu từ khoảng năm 1930, tại bãi biển Long Hải, Hải Sơn,
thị trấn Long Hải, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay.
Theo lời truyền tụng Cô là một nhân vật có thật tên là Lê Thị Hồng,
quê ở Phan Rang, theo cha đi buôn hàng thủ công bằng thuyền và bị tai
nạn chết tại Vũng Mù u, nay là mũi Thùy Vân Vũng Tàu, nhưng xác trôi
tấp vào địa điểm Dinh Cô hiện tại. Sau khi được chôn cất, Cô trở nên linh
thiêng qua những buổi lên đồng và thường xuyên giúp việc đi biển đánh
cá của ngư dân địa phương. Từ đó Cô được người ta tích cực giữ miếu và
thành tâm hương khói phụng thờ. Cứ như thế uy linh của Bà Cô ngày càng
lan xa và lễ hội Dinh Cô ngày càng thu hút đông đảo khách thập phương
gần như khắp cả vùng Nam bộ.
Bên cạnh Bà Cô, ở Dinh Cô còn thờ các vị thần thánh khác như Diêu
Trì Phật Mẫu, Nhị vị Công tử (Cậu Tài cậu quý con của bà chúa ngọc),
Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp vân, pháp vũ,
pháp lôi, pháp điện), Ông Địa và Thần Tài. Xung quanh còn có các hương
án hoặc miếu nhỏ thờ các vị Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ngọc Nương
Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Quan Thế Âm Bồ Tát, Hỏa Tinh Thánh
Mẫu, Quan Thánh Đế Quân… Đó là một hệ thống thần thánh đông đảo
có thể đại diện cho rất nhiều dòng văn hóa tín ngưỡng tôn giáo gồm Phật,
Khổng, Lão, của các dân tộc khác nhau: người Việt Bắc Trung Nam,
người Hoa, người Chăm. Trong đó trên hết là tín ngưỡng thờ Mẫu.
Hàng năm tại Dinh Cô có nhiều ngày lễ lớn như Nguyên Đán, Thượng
Nguyên, Đoan Ngọ, Trung Nguyên (Vu Lan), Hạ Nguyên … nhưng lớn
nhất là ngày giỗ Cô, Lễ hội Bà Cô Vào ngày 10, 11, 12 tháng 2 Âm lịch.
Nội dung chủ yếu:
7g sáng ngày 10/2 ÂL: Lễ Nghinh Bà lớn (Thủy Long thần nữ) và
ông Nam Hải (cá voi) từ Dinh Ông Nam Hải về Dinh Cô.
Tối 11/2 ÂL: lễ tụng kinh cầu an do
Ngày 12/2 ÂL: ngày Giỗ Cô chính thức:
 7g: Lễ Nghinh Cô
 8-10g: Lễ Tế chính thức theo các nghi thức cổ truyền Nam bộ
 10 giờ đến chiều: sinh hoạt Hát bóng rỗi
 18 giờ đến 21 giờ: chương trình diễn xướng dân gian gồm hát Chặp
Địa nàng, múa bóng
 21g: hát bội

145
Lễ hội Dinh Cô Long Hải thực chất là Ngày hội cầu ngư của ngư dân
địa phương kết hợp với tục thờ cúng Thần biển (cá voi, Bà Thủy long) và
tín ngưỡng Thờ mẫu.
B3.4. Lễ hội Bà Chúa Xứ/ Lễ vía Bà
Là lễ hội tiêu biểu cho tất cả các lễ hội dân gian truyền thống ở Tây
Nam bộ. Diễn ra tại núi Sam, Châu Đốc, An Giang, từ nửa đêm 23/4 ÂL
đến 27/4 ÂL.
22g ngày 23/4 ÂL: Lễ dâng lễ vật
24g ngày 23/4 ÂL: Lễ Mộc dục (tắm tượng)
Chiều ngày 25/4 ÂL: Lễ thỉnh sắc (thỉnh 4 bài vị từ lăng Thoại Ngọc
Hầu (gồm bài vị ông Thoại Ngọc Hầu, hai Bà vợ, bài vị Hội đồng thờ
chung các quan quân dưới quyền đã cùng vào sinh ra tử với ông).
Đêm ngày 25/4 ÂL: Lễ Túc yến
Lễ Xây chầu Đại bội
Chương trình Hát bội được trình diễn trong nhiều buổi tiếp theo.
Trong thời gian này đồng thời cũng diễn ra lễ cúng tế các vị thần khác
được phối thờ trong miếu, trong đó có lễ tưởng niệm Thoại Ngọc Hầu
cùng vợ của ông, người có công lập miếu thờ bà.
Trong Lễ hội vía Bà không thể thiếu múa Bóng rỗi, thường diễn ra
giữa lễ Túc yến và lễ Chánh tế.
Lễ Chánh tế (4g sáng ngày 27/4 ÂL) được cử hành và lễ nghi giống
như Lễ đoàn cả trong lễ Kỳ Yên.
Lễ hồi sắc (4g chiều cùng ngày) các bài vị đã thỉnh về lăng Thoại Ngọc
Hầu, Lễ hội kết thúc.
Từ năm 2002, chương trình Lễ hội vía Bà còn được bổ sung thêm Lễ
rước tượng Bà từ trên đỉnh núi xuống vị trí miếu thờ hiện nay.
Lễ rước tượng được tổ chức vào 15 giờ chiều ngày 22/4 ÂL, 99 cô gái
chia thành 10 tốp tiếp tay nhau khiêng Kiệu theo một chặng đường khoảng
2 cây số.
Nguồn gốc sâu xa của lễ hội Bà Chúa Xứ là lễ hội nông nghiệp, giống
lễ Kỳ yên. Tháng Tư là thời điểm bắt đầu mùa mưa, mùa xuống đồng của
người nông dân Tây Nam bộ. Khi người Khmer, người Thái Tổ chức Tết
năm mới thì người Tây Nam bộ tổ chức lễ Vía Bà để cầu mưa thuận gió
hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no sung túc.
Về tính chất: Từ một lễ hội mang tính tôn giáo thuần túy, Lễ hội Bà
Chúa Xứ đã trở thành một lễ hội văn hóa theo nghĩa rộng.

146
Về quy mô chủ thể: đây là lễ hội chung của tất cả các tộc người vùng
cư trú. Thoại Ngọc Hầu được sùng bái và ngưỡng mộ là một vị thánh,
nhưng thánh là thánh của một tộc người, còn thần là thần của chung tất cả
mọi tộc người nên người dân rước Thánh về dự lễ với thần, chứ không
phải là ngược lại.
Về quy mô không gian: Lễ Hội Bà Chúa Xứ là lễ hội chung của toàn
miền Nam và rộng hơn nữa. Người dân ở Trung Bộ, Hà Nội, Hải Phòng,
kiều bào nước ngoài cũng về tham dự.
Châu Đốc nổi tiếng nhà bè
Núi Sam nổi tiếng hội hè quanh năm.
Dù ai lặn lội phương xa
Chớ quên Lễ vía chùa Bà núi Sam.
Năm 2011 đón 3 triệu lượt khách thập phương, số tiền dân cúng Bà 30
tỷ đồng, được Bà cho phép sử dụng để xây trường học, làm đường sá, xây
nhà cho người nghèo, cứu trợ thiên tai bão lụt trên nhiều vùng trong cả
nước.
B3.5. Lễ hội Hoà Hảo
Là lễ hội tôn giáo tổ chức tại làng Hòa Hảo, An Giang vào ngày 18/5
Âm lịch hàng năm, kỷ niệm ngày Phật giáo Hòa Hảo ra đời.
Đây là ngày hội lớn của các tín đồ Hòa Hảo. Hàng năm vào dịp này
hàng triệu tín đồ từ khắp các địa phương hành hương về thánh địa.
Dưới sông hàng trăm ghe thuyền của các tín đồ về đậu san sát, trên bờ
dân làng mở các quán cơm miễn phí đón tiếp khách thập phương. Ban
đêm tổ chức các đoàn rước đèn lồng, các điểm diễn xướng, trò chơi dân
gian…, trên các bè ở dưới sông có kết đèn biểu diễn Cải lương, Hát bội

Nhìn chung, lễ hội vùng Nam bộ tuy không được phong phú bằng
đồng bằng Bắc Bộ, vùng đất tổ của người Việt và của văn hóa Việt Nam
nhưng lễ hội của vùng Nam bộ lại có nhiều nét đặc thù mà không vùng
nào ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và duyên hải Nam Trung bộ có được:
Tập hợp nhiều tôn giáo, tín ngưỡng, nhiều dân tộc, nhiều hình thức
biểu diễn, nhiều hoạt động vui chơi dân gian, nhiều phương tiện, nhiều vị
trí - trên bến dưới thuyền. Là những ngày vui thật sự của những người xa
xứ.
Vì nhiều dân tộc, nhiều tín ngưỡng và nhiều tôn giáo cùng tồn tại ở
Nam bộ nên lịch lễ hội dày đặc gần như quanh năm. Tôn giáo và tín
ngưỡng chi phối lớn đến đời sống của người dân Nam bộ.

147
8 3.3.2. Phong tục của các dân tộc khác ở Nam Bộ
3.3.1.2. Phong tục Cưới hỏi, Tang ma
a/ Phong tục cưới hỏi, tang ma của người Chơro
* Cưới hỏi:
Người Chơro thực hiện nghiêm chế độ ngoại hôn dòng tộc, một vợ
một chồng, sau hôn nhân cư trú bên vợ.
Trước đây, đến tuổi trưởng thành, nam nữ thanh niên ưng nhau sẽ rủ
nhau “ngủ mèo” – vôq sai ni. Cô gái sẽ hẹn chàng trai đến “chọc sàn”.
Dụng cụ chọc sàn là chiếc roi mây, để luồn qua khe sàn. Nó cũng là vũ
khí để chàng trai xua đuổi thú dữ trên đường qua nhà cô gái.
Việc “ngủ mèo” được chấp nhận nhiều nhất là 3 đêm, sau đêm thứ 3
chàng trai phải chủ động đến trình diện bố mẹ cô gái và xin phép được
cưới.
Nếu chàng trai không tự trình diện thì phải để lại một vật làm tin. Bố
mẹ cô gái cầm vật làm tin báo với trưởng tộc và sang thưa chuyện cùng
nhà trai: “Hồi tối không biết con trâu nhà ai bị lạc qua chuồng nhà tôi để
lại vật này. Ông bà xem thử có phải vật của con trâu nhà ông bà không?”
Theo phong tục, ba mẹ chàng trai hiểu ý, chuẩn bị lễ vật gà rượu sang nhà
đàng gái đáp lời “Con trâu nhà tôi bị sổng chuồng lạc qua đây, gia đình
tôi chịu phạt, chúng tôi giao con trâu này cho ông bà luôn, nhờ ông bà
chăm sóc giúp cho gia đình chúng tôi”; rồi hai gia đình bàn bạc các thủ
tục cho đôi trai gái cưới nhau.
Tộc trưởng là chủ hôn.
* Tang ma:
Theo quan niệm vạn vật hữu linh, người Chơro cũng quan niệm con
người có xác và hồn. Vì vậy, sau khi chôn xác, trong 3 ngày đầu, cứ đến
bữa ăn, người ta mang thức ăn ra mộ, gọi hồn người chết lên ăn rồi đổ ít
cơm, canh xuống đầu mộ.
Sau 3 ngày thì làm lễ mở cửa mả; rồi cúng 100 ngày cho linh hồn
người chết.
Người Chơro theo tập quán thổ tang, phần mộ đắp cao, hình bán cầu.
9 b/ Phong tục cưới hỏi, tang ma của người Stiêng
* Cưới hỏi:
Nội hôn bị cấm nghiêm ngặt, nếu vi phạm bị phạt rất nặng, bị dư luận,
cộng đồng coi khinh.
Hôn nhân một vợ một chồng bền vững, hầu như không có li dị.

148
Sau khi cưới, cô dâu về nhà chồng, nhưng nếu chú rể chưa lo đủ đồ
dẫn cưới (ché qúy, chiêng, cồng, trâu,…) thì ở rể vài năm. Riêng ở vùng
Bình Long, Bình Phước chàng rể luôn phải ở nhà vợ.
* Tang ma:
Nếu chết thường, chôn người chết trong áo quan làm từ 1 thân cây to
và chôn xa nhà. Kiêng kỵ không khiêng quan tài sang làng khác. Chia của
cho người chết. Sau khi chôn không thăm mộ nữa.
Nếu “chết thiêng”: gia đình phải làm lễ cúng to, kiêng cữ nhiều hơn;
mọi nghi lễ tang ma đều phải thực hiện ngoài làng; chôn ngay tại địa điểm
chết, không được đưa về nghĩa địa của làng.
Trong làng có người chết không được gõ cồng, chiêng, trống vui nhộn
trong 10 ngày để bày tỏ lòng thương tiếc.
10 c/ Phong tục cưới hỏi, tang ma của người Chăm
* Cưới hỏi
Người Chăm ở ĐBSCL được phép theo chế độ đa thê của luật Hồi
giáo. Tuy nhiên một vợ một chồng là cấu trúc gia đình phổ biến.
Con cái không có quyền tự do lấy nhau.
Đám cưới chỉ được tiến hành khi có đủ 4 điều kiện: Đôi trai gái không
có quan hệ dòng tộc; được sự đồng thuận của bố mẹ hai bên; có người bảo
hộ (cha hay anh em trai) của cô gái đứng ra gả; có hai nhân chứng hiểu
biết rõ về gia đình cô gái (2 người đàn ông hoặc 4 người đàn bà).
Lễ cưới được tổ chức trong 3 ngày:
Ngày vác chông ton khà ghề (nhà chú rể mang giường, nệm, đọc kinh
cầu nguyện trên giường; trang trí phòng cưới);
Ngày nhóm họ hagây thừng Pgúc (hai gia đình đãi bà con, buổi tối
nam,nữ đãi nhau, chúc nhau);
Ngày đưa rể hep nghênh la kay (đoàn đưa rể mangtheo mâm trầu cau,
ô bánh, ô gạo; chú rể vào phòng cưới nghe lời cầu nguyện. Trong tiệc cưới
cô dâu chú rể ăn riêng trong phòng).
Tục ở rể 3 năm vẫn còn duy trì. Nhưng ở TPHCM tục này chỉ còn
tượng trưng 3 ngày. Trong gia đình, người chồng giữ vai trò quyết định,
nhất là trong các vấn đề xã hội.
* Tang ma:
Người Chăm Islam theo tục thổ táng. Trước khi đem chôn phải làm lễ
ở thánh đường. (Nhà thờ phủ lớp khăn xanh lên người chết, miếng vải là

149
phương tiện đưa linh hồn lên trời gặp thánh Ala). Xác không cho vào quan
tài, chôn trong hầm hàm ếch, mặt quay về phía Mecca.
Lễ Dam kakdhong: tiễn đưa linh hồn người chết lên thiên đàng, không
về quấy quá người sống và xóa mọi tội lỗi trên trần gian.
11 d/ Phong tục cưới hỏi tang ma của người Khmer
* Cưới hỏi:
Người Khmer thực hiện hôn nhân một vợ một chồng bền vững.
Theo tinh thần dân chủ Phật giáo, hôn nhân không bị cha mẹ hay quy
định của lễ tộc ràng buộc.
Anh em ruột không được lấy nhau, nhưng khuyến khích người cùng
dòng họ kết hôn với nhau để sống gần gũi và của cải không bị san sẻ ra
ngoài. Sau khi cưới, vợ chồng trẻ cư trú bên nhà chồng.
Mùa cưới tháng 10 - 4 al, mùa khô. Không được tổ chức cưới trong
mùa mưa, mùa nhập hạ của các sư sãi.
Các nghi lễ chính thức gồm:
- Lễ Sisla dak: ăn trầu cau, dạm ngõ
- Lễ Sisla kân sèng: gói trầu cau ăn hỏi
- Lễ Sisla banh cheapeak: lễ xin cưới
Theo phong tục, dù giàu hay nghèo, cũng phải thực hiện đủ 3 lễ trên
và đám cưới phải diễn ra trong 3 ngày, dù to hay nhỏ.
- Ngày nhập gia (ông mai Maha “múa mở rào”)
- Ngày cưới (lễ cúng ông bà, tổ tiên và ăn trầu kâm nất – trầu đính
ước; trình diện chàng trai với Neakta - thần bảo hộ của phum sóc để được
công nhận là thành viên mới; mời sư sãi đến tụng kinh, cầu phước và
khoản đãi khách khứa. 12g đêm, 2 ông maha của 2 gia đình hướng dẫn
gói bánh cúng Phật và dâng mẹ cô gái; làm lễ nhuộm rang đen cho cô gái;
cắt hoa cau cho maha làm lễ rắc hoa cau).
- Ngày lạy ông bà họ hàng (Maha làm lễ rắc hoa cau và lễ rút gươm
ra khỏi bao, lễ buộc chỉ cổ tay, lễ nhập phòng, lễ quét chiếu, lễ chung
mùng).
Sau khi cưới: hai vợ chồng đem buồng cau tới chùa làm lễ ra mắt sư
sãi và xin ban phước lành; cô dâu chú rể đi thăm bà con hai họ.
Người con trai có đi tu, hoàn tục mới là người có giáo dục, có cơ
nghiệp riêng, đạt chuẩn lấy vợ.
* Tang ma:

150
Chịu ảnh hưởng quan niệm về cái sống và cái chết của Phật giáo, người
Khmer chuẩn bị đám tang rất chu đáo, chuẩn bị nhiều lễ vật để người chết
mang theo tiếp tục sống với thế giới thần linh.
Tập quán hỏa táng, người chết vì bệnh dịch mới đem chôn.
Vai trò của thầy cúng AchaYuki rất lớn, hướng dẫn tổ chức tang lễ.
Trên bụng có nải chuối còn xanh vỏ, đầu quan tài là lá cờ hình cá sấu “cờ
hiệu của linh hồn”.
12 e/ Phong tục cưới hỏi tang ma của người Hoa
* Cưới hỏi:
Có nhiều nghi lễ phức tạp, nhuốm màu tư tưởng Đạo giáo.
Có các đặc trưng: đối chiếu số mệnh đôi trai gái trước khi trở thành vợ
chồng; cô dâu che mặt bằng vải đỏ trước khi bước vào nhà chồng; mẹ
chồng lánh mặt khi cô dâu vào.
* Tang ma:
Đưa hồn người chết về với tổ tiên bằng lễ cầu siêu. Người Hoa ở
TPHCM có nghĩa địa của từng bang. Chôn cất theo nghĩa địa bang.
13 3.3.1.2. Lễ, tết
a/ Lễ hội của người Chơro
Hai lễ hội quan trọng được tổ chức hàng năm của người Chơro là lễ
cúng thần Lúa ốp jang va và cúng thần Rừng ốp jang br.
Lễ cúng thần Lúa: người Chơro sống bằng nghề nông, lúa gạo là nguồn
sống chính của đồng bào. Lễ cúng thần lúa là để cảm ơn thần Lúa và cầu
mong thần tiếp tục phù hộ cho mùa màng năm sau được thuận lợi, bội thu;
được tổ chức ngay sau khi vụ mùa thu hoạch xong, là lúc “lúa đã bò lên
nhà ngủ, tay chân đã hết đất”.
Lễ hội cúng thần Lúa được tổ chức trong từng gia đình, từ ngày 15/3
đến đầu tháng 4 Âm lịch hàng năm. Gia đình nào tổ chức lễ hội thì mời
bà con trong dòng tộc đến dự đông vui. Người đến dự lễ mang theo quà
như rượu, hiện vật để tặng cho gia đình lấy may mắn.
Lễ cúng thần Rừng: tổ chức trước mùa mưa, không ấn định thời gian
cụ thể. Tổ chức tại cộng đồng ngoài trời, trên khoảng đất rộng dưới gốc
cây cổ thụ linh thiêng của làng, diễn ra nhiều ngày, người tham dự đông,
rất tốn kém tiền của và thì giờ. Chủ trì lễ hội là một già làng. Phải cúng
thịt sống, dê lợn để nguyên con.

14 b/ Lễ hội của người Stiêng

151
Một số lễ hội của đồng bào Stiêng là:
Lễ chuẩn bị làm rẫy: Pêl-nong: thực hiện tháng giêng hàng năm,
khẳng định quyền tiếp tục sử dụng rẫy của người chủ.
Lễ cầu mưa-broh ba: gửi gắm niềm tin và hy vọng vào cây lúa. Hàng
năm đồng bào tổ chức lễ cầu mưa, cầu cho mưa thuận gió hòa, ngũ cốc
bội thu.
Lễ cơm mới: tổ chức ngay sau khi gặt được gùi lúa đầu tiên của vụ
mùa.
Lễ đâm trâu cúng Giàng: thường kết hợp với những sự kiện mang tính
quan trọng trong làng.Theo quan niệm của đồng bào mỗi sự kiện quan
trọng đều có sự quan tâm giúp đỡ của thần linh, vì vậy mỗi lần trong làng
có sự kiện quan trọng đều phải cúng thần bằng trâu để thể hiện sự trân
trọng cao. Vật hiến sinh phải có màu trắng, gà trắng, lợn trắng, trâu trắng.
Lễ đâm trâu thường được tổ chức trong ba ngày, trên bãi đất rộng
trước nhà rông. Cột đâm trâu được dựng bằng cây mứt, thớt gỗ trắng, tiện
vẽ hoa, trên cột treo nhiều hoa lá đẹp. Một con trâu được buộc vào cột
đâm trâu, nam nữ múa theo nhịp giã cối, đi vòng tròn quanh cột theo chiều
ngược kim đồng hồ. Người già uống rượu thổi khèn đệm cho dàn nhạc
chiêng.
15 c/ Lễ hội của người Chăm Islam
Lễ Ramadan: diễn ra trong thời gian 1 tháng, bắt đầu từ ngày 1 đến
ngày 9 Hồi lịch.
Nhân dịp lễ hội này người Chăm đi tảo mộ, mời tổ tiên về dự Tết, bà
con họ tộc tụ tập chúc phúc lẫn nhau, cầu tổ tiên phù hộ, làm ăn phát đạt.
Trong dịp này người Chăm chỉ ăn trước khi mặt trời mọc và sau khi mặt
trời lặn, học Kinh Thánh Allah. Kết thúc lễ, người ta thi đọc thuộc lòng
kinh Thánh Allah.
Lễ Tết Haji:
Là Tết tiễn những người học giỏi có đức hạnh, có khả năng tài chính
hành hương về đất thánh Mecca. Trong đời tín đồ, ai cũng muốn được
một lần hành hương về Mecca. Sau khi hành hương đến Mecca, tín đồ đó
được mang tên Haji trước họ tên mình. Tín đồ không được đi Mecca thì
tổ chức Haji tại thánh đường. Tín đồ và các chức sắc ăn mặc đúng trang
phục của Đạo Hồi. Phần nghi lễ mang tính giáo dục đạo đức Tôn giáo rất
cao. Trong buổi lễ các tín đồ dùng bữa cơm tại thánh đường, ănbốc. Sau
bữa cơm các cô gái đính hôn thì thăm nhà chồng tương lai, chưa đính hôn
thì đi thăm người thân hoặc tiếp bạn bè. Các bà có con trai thì đây là dịp
xem mặt cô dâu.

152
16 d/ Lễ tết của người Khmer
Trong phạm vi gia đình: Lễ cắt tóc trả ơn Mụ, Lễ giáp tuổi, Lễ lên nhà
mới, Lễ cúng ông Tà, Lễ cúng sân lúa, Lễ cúng tổ, Lễ chúc thọ, Lễ cầu an,
Lễ dâng Phước, Lễ giỗ, Lễ dâng bông,…
Trong phạm vi cộng đồng:
Tết đón năm mới (Chol Chnam Thmay): là lễ hội lớn nhất của người
Khmer Nam bộ được tổ chức từ ngày 12 đến 14/4 dương lịch, tại chùa và
các gia đình. Ý nghĩa tiễn mùa nắng hạn bước sang mùa mưa. Tục té nước.
Lễ cúng ông bà (Sen Dolta): tưởng nhớ công ơn cha mẹ, họ hàng, cầu
phước cho những người đã khuất và tri ân tổ tiên phù hộ cho xóm làng an
vui.
Cùng dịp lễ này là Lễ hội đua bò ở vùng Bảy Núi An Giang: cám ơn
thiên nhiên vật nuôi trong canh tác nông nghiệp, góp phần tạo nên sức
sống phát triển đời sống.
Lễ Dolta trùng vào dịp xuống giống vụ lúa ruộng (cuối tháng 7
âl) những người nông dân, các tín đồ trong các phum sóc, nhân dịp này
đã bừa ruộng của chùa, làm công quả và có tính cạnh tranh nhau. Muốn
làm tốt phải có sức khỏe và có đôi bò kéo khỏe.
Lễ cúng trăng (Ok Om Bok) Đút cốm dẹp: lễ cúng trăng được tổ chức
vào ngày 15/10 Âm lịch để tạ ơn thần mặt trăng đã cho mùa màng tươi
tốt, sông rạch nhiều tôm cá, nhà nhà no đủ.
Trong lễ có tổ chức đua ghe Ngo rất hào hứng vui vẻ. Đây là hoạt động
rước nước, nếu không tham gia thì phum, sóc sẽ không được thuận lợi
trong gieo trồng. Hai nghi lễ rất đặc sắc là thả đèn gió và thả đèn nước.
17 e/ Lễ tết của người Hoa ở Nam bộ
Người Hoa tổ chức nhiều lễ hội trong năm. Đó là:
- Tết năm mới - Tết Nguyên đán: là tết mở đầu cho vụ sản xuất nông
nghiệp, cũng là Tết truyền thống. Nét văn hóa hội rất đặc trưng là múa
rồng và múa sư tử. Nhìn vào đội hình múa sư tử và múa rồng, người ta
đánh giá sức sống và vai trò của phần lễ trong đời sống của người dân địa
phương.
Chiều 30 tết chủ nhà làm lễ rước các vị Bồ Tát Táo Quân Thổ địa thần
tài và tổ tiên về ăn tết. Mâm cúng đặc biệt và có con gà luộc với nhiều
hành. Gà là kê, hành là thông, thông kê gần âm với thông cát nghĩa là tốt
đẹp từ đầu năm đến cuối năm.
Trong ngày Tết có tục chọn người thành đạt, con cháu đông đúc đến
xông nhà và tục lì xì.

153
Sau tết từ mùng 6 đến mùng 9, chủ nhà chọn ngày đại cát làm lễ khai
trương trở lại công việc làm ăn.
- Lễ Nguyên Tiêu và vía Thiên Quan Đại Đế: “Lễ quanh năm không
bằng ngày rằm tháng giêng” Lễ Nguyên tiêu là ngày hội hoa đăng, người
Hoa thường đến chùa hoặc đền miếu. Trong gia đình, người ta phải chưng
hoa đốt đèn dâng lễ vật cúng kiến tất cả các bàn thờ lễ vật chay và đặc
biệt phải có bánh quy tượng trưng cho sự Trường Thọ.
- Lễ thanh minh - Tết ngày 3 tháng 3: là lễ tảo mộ tổ tiên ông bà. Con
cháu trong gia đình ra phần mộ của tổ tiên phát quang cây cỏ, đắp lại mộ,
Cha Mẹ kể cho con cháu nghe về quan hệ của người nằm dưới mộ với gia
đình họ hàng. Vật cúng đặc thù của tết này là xôi nhiều màu và dùng rất
nhiều giấy vàng bạc
- Tết Đoan Ngọ - Tết mùng 5 tháng 5: là tháng giữa mùa hạ, lúc khí
dương đang lên mạnh, các loài động thực vật sau mùa đông giá lạnh, nay
mùa hè tới khi trời ấm áp có cơ hội phát triển. Vào dịp này người Hoa
thường tổ chức ăn chua, ăn rượu ngọt để diệt sâu bọ trong người, hái các
loại cây thuốc và phơi khô dùng trong cả năm. (Mua nắm lá thuốc để trưa
treo ngay trước cửa đề phòng sau này trong nhà có người có ghẻ ngứa thì
lấy lá thuốc ấy nấu tắm). Người ta tin rằng nếu giờ trưa của ngày đoan
ngọ ra sân nhìn sẽ không có bệnh đau mắt. Nếu trời mưa lấy nước mưa
tắm không bị ngứa.
- Tết cô hồn - Lễ Trung Nguyên: Tết 15/7 ÂL - Tết xá tội vong nhân,
Vu Lan, Tết cho vong hồn người chết.
Theo dân gian, nếu người chết không đúng số mạng thì thành cô hồn.
Nếu người chết không có người cúng kiếng thì thành ma đói ở cõi Âm ty.
Nếu bị tội thì vong hồn bị giam vào địa ngục. May thay hàng năm vào
ngày rằm tháng 7, các vị Minh Vương mở cửa cho người chết được lên
dương tìm thăm chốn cũ. Bởi vậy người Hoa có tết Rằm tháng 7, Lễ Vu
Lan cầu siêu cho Cha Mẹ 7 đời.
Cuối tháng 7 thì thiết lập Lễ hội địa tạng cầu siêu và cúng vong hồn
cho những vong hồn bơ vơ đói khát.
- Tết Trung Thu: rằm tháng 8 Âm lịch.
Nghi thức chính là cúng trong lúc trăng bắt đầu ló dạng, sau đó cúng
Trời Phật, Thánh, Thần, Tổ tiên. Lễ vật cúng trăng là bánh trung thu, khoai
môn luộc, đậu phộng luộc phơi khô và bưởi.
Đêm trung thu trẻ em thường xách lồng đèn hình con cá chép dạo
chơi, có múa lân và múa sư tử. Tục làm lồng đèn trung thu có từ đời
Tống, phổ biến vào đời Minh.

154
- Lễ Hạ Nguyên: ngày rằm tháng 10 là ngày vía của Thủy quan đại
đế. Người Hoa cũng tập trung ở chùa chiền đền miếu, nhưng không tấp
nập như ngày rằm tháng Giêng.
- Lễ Đông Chí: tổ chức vào đầu tiết đông chí tức khoảng cuối tháng 10
Âm lịch, là lễ cảm tạ Trời Phật Thánh Thần và Tổ tiên. Lễ vật có thể chay
hoặc mặn, cúng tổ tiên phải có quít và cam.
Ngày Đông chí còn là ngày giỗ hội của từng dòng họ nên bà con người
Hoa đều tập trung tại các Từ đường.

155
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 3 VĂN HÓA TINH THẦN CHÚ

CỦA CƯ DÂN NAM BỘ


CHỦ ĐỀ 3.4. NGHỆ THUẬT
1 Mục tiêu học tập chủ đề
Giúp sinh viên nắm được các nội dung về nghệ thuật sử dụng ngôn từ
(trong giao tiếp, trong văn học), nghệ thuật ca múa nhạc, nghệ thuật vẽ
tranh dân gian, nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền thống của người Việt
tại Nam bộ. Trong khuôn khổ của môn học, chúng tôi không trình bày
về các bộ môn Nghệ thuật của các dân tộc khác tại Nam bộ vì đó là
mảng nội dung sâu rộng cần có một chuyên đề riêng để trình bày thấu
đáo.
Mô tả vắn tắt nội dung
3.4.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của người Việt ở Nam bộ
3.4.1.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong giao tiếp
3.4.1.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong văn học
3.4.2. Nghệ thuật thanh sắc của người Việt ở Nam bộ
3.4.2.1. Dân ca
3.4.2.2. Hát bội
3.4.2.3. Đờn ca tài tử
3.4.2.4. Cải lương
3.4.2.5. Kịch nói
3.4.3. Nghệ thuật hình khối của người Việt Nam bộ
3.4.3.1. Nghệ thuật vẽ Tranh kiếng
3.4.3.2. Nghệ thuật vẽ Tranh sơn mài
3.4.3.3. Nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền thống
2 3.4.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của người Việt ở Nam bộ
a/ Nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong giao tiếp
Tiếng Việt là một ngôn ngữ quốc gia, có tính thống nhất cao, nhưng do
gián đoạn về không gian, thời gian cộng với quá trình tiếp xúc ngôn ngữ
trong lịch sử phát triển nên tiếng Việt đã có nhiều khác biệt trong ngữ
âm, từ vựng, tạo ra các phương ngữ khác nhau.

156
Tiếng Việt Nam bộ có những nét rất khác biệt so với tiếng Việt miền
Bắc và miền Trung.
Tiếng Việt Nam bộ có các đặc điểm sau:
- Về mặt ngữ âm:
• Thanh điệu chỉ có 5 thanh.
• Có sự biến đổi của một số phụ âm đầu, âm đệm, nguyên âm, vần
nên người Nam phát âm khác người Bắc, Trung:
- Phân biệt rõ 3 cặp phụ âm r/d/gi; tr - ch; s -x.
Tuy nhiên ở những vùng tiếp biến với tiếng Hoa, phụ âm r biến thành
g, j, phụ âm ngoặt lưỡi s thành x, tr biến thành ch.
VD: “Bắt con cá gô bỏ dô gổ, kêu gột gột”,
“Cả bó jau jầy mà chả có 5 chăm đồng bạc, làm xao mà bán”.
- Phụ âm v, d/gi, ch thay bằng j, ch. VD: Jiệt nam, đi jề.
- Âm đệm hòa vào 4 phụ âm đầu k, ng, h. VD: qua-wa; ngoại -
wai, hoãn - wan, oa - wa.
- Không có âm đệm u/o, bị rơi rụng. VD: buyt - bit, chuyên - chiên;
toan - tang, toong, truyền - triềng, thoang- thoong, xoa - xo.
- Số lượng vần ít hơn phương ngữ Bắc bộ. VD: iêm - im; iêu- iu,
ươu - ưu, ươi - ưi, uôi - ui…
Về mặt từ vựng:
• Phản ánh môi trường đồng bằng sông nước.
• Bảo lưu nhiều từ ngữ gốc môn Khơme, gốc Chăm, Hoa, Khmer,
Pháp, Mỹ. VD:
- Giao lưu với tiếng Chăm: palao - cù lao, kruăk - cá rô, karah -
cà rá, lôi - lội; plu - cái lu; kamay -gà mái; likay - lại cái; băng -
bận.
- Giao lưu tiếng Pháp, Mỹ: (B-N) pê dan - líp, lùi xe - de xe, ổ bi,
vòng bi – bạc đạn; sân bay – phi trường/ phi cảng, táo – bôm;
phanh, hãm – thắng; xe lăn đường, xe lu – xe hủ lô,…
• Hiện tượng “hiếu cổ”.
- Bảo lưu cách phát âm cổ: tháy máy/táy máy; dồn thịt/nhồi thịt;
xùng xình/ thùng thình; phát sùng/ phát khùng; xa xuôi/ xa xôi;
buôi/ bơi.

157
- Dùng các từ mà người Bắc chỉ dùng trong từ ghép: mánh, lẹ, dọa,
bể, ình, nạt.
- Có cách sử dụng đại từ “ấy” rất đặc biệt. VD: trỏng, trển, ảnh,
ổng,…
- Có các phó từ chỉ mức độ đi cùng các tính từ rất đặc biệt: dữ, ghê,
hà, quá trời, quá xá. Dài thòn, cụt ngủn, dở ẹc, giàng trời….
- Có thán từ đặc biệt: cha chả, chèn đéc ơi, chết mẹ, chết mồ, trời
đất quỷ thần ơi, thấy bà, thấy cha, trời ơi là trời….
- Có quán ngữ rất đặc biệt: bá chấy bù chét, hổng dám đâu, tan nát
đời cô Lựu, rành sáu câu, oải chè đậu, …
3 * Cách sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp của người Nam bộ:
Dân chủ, bình đẳng, gần gũi, thân mật:
- Tôi – tui: quy luật biến đổi ngữ âm thu hẹp độ mở của nguyên âm
chính (thối – thúi, hót – hốt, cơm nếp – cơm níp) - nghĩa trung tính
giảm nhẹ, thu hẹp, quan hệ giao tiếp thân mật, ngang hàng.
- Xưng mày - tao: gần gũi, thật.
- Xưng con: gần gũi hơn “cháu”
- Gọi con: như người trong gia đình (Con Năm Chủ tịch, thằng Năm
bí thơ,…)
Có sự giao lưu ngôn ngữ:
Triều Châu trước đây là cộng đồng Hoa kiều đông nhất ở An Giang,
Kiên Giang → Ảnh hưởng từ tiếng Triều Châu:
- Ngã = tôi, phát âm /wá/ → qua
- Phụ = vợ, phát âm là /pấu, bô/ → bậu.
- Tiá = người đứng đầu gia đình, ông
- Chế = chị gái
- Hia = anh hai
4 b/ Nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong văn chương
b1/ Văn chương truyền miệng/ Văn chương dân gian
Sinh hoạt văn học sơ khai không phải là văn học chữ viết. Muốn diễn
đạt, bày tỏ cảm xúc, nói về sự vật, hiện tượng hay một sự kiện gì đó
người ta dùng tục ngữ, thành ngữ, ca dao, câu đố, truyện kể, câu hát,
câu hò…
* Tục ngữ

158
Trước 1945, ở miền Nam ít dùng từ “tục ngữ” mà gọi là “tục” hoặc “câu
ví”. Trong buổi hoang sơ, tục ngữ được dùng thay cho các câu nói Nho
ý vị.
Có những câu được du nhập từ Đàng ngoài và giữ nguyên văn.
Có những câu được biến, trại, sửa đổi một chút:
Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp - Một miếng thịt làng bằng
một sàng thịt chợ.
Gió chiều nào che chiều ấy - Nắng bề nào che bề ấy
Nát giỏ còn vành tre – Nát dỏ còn bè tre.
Tục ngữ có sức sống khỏe và rất vững bền nhờ nó được xây dựng dựa
trên 2 yếu tố: giàu chất nhạc và nhiều ý vị, dẫu có khi có vần, có khi
không.
* Câu đố
Được gói ghém bằng những lời ngắn gọn, ngầm khơi gợi sự tìm tòi cho
người được đố.
Câu đố có nguồn gốc từ câu thai, cũng gọi là ra thai, nói thai, thai đố.
“Chưn em đo đỏ/ Mình em vàng vàng/ Khắp xóm cùng làng/ Ai cũng
kính dưng” (Cây nhang)
“Bốn bên thành quách đắp cao/ Giặc nội đánh vào thiếp ở trong cung”
(Cái mùng)
“Mép mòn thân mỏng vì ai/ Hết ngay cùng Chúa ra bài bất trung?”
(Cái phảng)
* Truyện cổ
Bao gồm các truyện kể dân gian bằng văn xuôi, gồm có thần thoại, cổ
tích, tiếu lâm (khôi hài/ trào phúng), ngụ ngôn, truyền thuyết. Người
miền Nam hay gọi là “nói chuyện đời xưa”.
Số lượng các Truyện cổ ở Nam bộ không nhiều, nội dung cũng như
miền Bắc, Trung: quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, anh em, dì ghẻ con
chồng, phê phán người giàu tham lam, kẻ quyền lực ức hiếp dân lành,..,
thiên nhiên cây cỏ (Sự tích con trâu). Tiêu biểu là các câu chuyện lý giải
các hiện tượng tự nhiên của đồng bằng Nam bộ, sự gần gũi giữa các dân
tộc Khmer, Việt và nguồn gốc hai dân tộc, truyền thuyết về các nhân
vật lịch sử như Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Thiên Hộ
Dương…
* Ca dao

159
Ca dao là câu, là bài hát ngắn, là những câu hát trơn; hát rơi và hát lẻ
được truyền miệng từ người này sang người kia từ thế hệ này sang thế
hệ khác bằng những lời văn giản dị hồn nhiên.
“Nước rằm chảy thấu Nam Vang/ Mù u chín rụng sao chàng biệt tăm”
“Tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát,/ Xuồng câu tôm đậu sát mé nga/
Thấy em có một mẹ già/ Muốn vô hoạn dưỡng biết là đặng không”
* Vè
Vè là thể văn vần theo phương pháp kể chuyện bình dân, bằng ngôn ngữ
bình dân, nội dung nhằm phê phán hay biểu dương một người hay một
việc nào đó trong cuộc sống. Tính chất riêng của vè là thời sự, thông
tin, châm biếm.
Ở trong vè là chuyện có thật, người có thật, gây chú ý tức tốc trong nhân
dân. Bởi vậy cứ hễ có một bài vè tung ra là xôn xao dư luận.
Lối thơ của vè rất phóng túng, có tính biến hóa vượt hẳn các lối thơ dân
gian
Vè học chữ: Thiên trời/ Địa đất/ Thất mất/ Tồn còn
Vè vãn ba: Tập tầm vông/ Chị lấy chồng/ Em ở vá/ Chị ăn cá/ Em mút
xương
Vè vãn tư: Tháng tư năm tỵ/ Khai thị Gò Công/ Thiên hạ rất đông/ Các
làng đều đủ/ Có mời huyện phủ/ Lại với Tổng làng/….
Vè có chủ yếu ở Tây Nam bộ. Vè nói dóc, nói ngược không thấy ở Đông
Nam bộ và hiếm thấy ở các nơi khác
* Thơ:
Thơ đây là loại truyện làm bằng thơ vần, trường thiên. Người Lục tỉnh
không gọi là truyện mà gọi là Thơ: Thơ Lục Vân Tiên, Lâm Sanh Xuân
Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lý Thông, Con Tấm Con
Cám.
Khi Đoạn trường Tân Thanh gây tiếng vang lớn trên thi đàn thì tại miền
Nam, người bình dân say mê thơ Dương Ngọc, thơ Lang Châu, thơ
Chàng Lía, thơ Thầy Thông Chánh.
Lấy nhân vật của thơ làm ca dao:
Chiều chiều én liệng truông mây
Cám thương chú Lía bị vây trong thành.
* Nói thơ:
Thơ ban sơ ra đời bằng cách tác giả ứng khẩu thành từng đoạn rồi tự
mình nói thơ hoặc đưa cho ai nói để bà con chòm xóm nghe. Nếu được
160
bà con tán thưởng thì làm tiếp… Có khi thơ được viết trên giấy bằng
chữ Nôm rồi dạy cho người có giọng tốt ngâm nga, truyền khẩu.
Nói thơ là hình thức diễn xướng theo dạng hát kể, xuất hiện ở Tây Nam
bộ cuối thế kỷ XIX và nhanh chóng lan rộng.
Phổ biến nhất là nói thơ Lục Vân Tiên, nói thơ thầy Thông chánh, nói
thơ Sáu Trọng, nói thơ Hai Miêng. Hình tượng các nhân vật Sáu Trọng,
Thầy Thông Chánh, Cậu Hai Miêng đã trở thành những thần tượng
trong lòng người bình dân, lan truyền khắp Nam kỳ lục tỉnh.
Nói thơ không hướng đến mục tiêu giải trí và coi trọng tính nghệ thuật
mà nhằm kể chuyện, thông tin, nên người nghệ sĩ phải phát âm tròn
vành rõ chữ, ít sử dụng các tiếng đệm đưa đẩy, chú ý nói diễn cảm theo
nội dung, lúc lên lúc xuống, đẹp cuốn hút người nghe theo dõi nội dung
câu chuyện.
Phong trào in thơ chữ Quốc ngữ phát triển rầm rộ từ những năm 1900 -
1940, nhưng các bản in “bổn cũ soạn lại” này và các bổn hậu đã cải biên
rất nhiều… , là một nguyên nhân làm cho phong trào nói thơ bị đi xuống.
Khi phong trào Ca nhạc tài tử ra đời, rồi đến sân khấu Cải lương trở
thành thời thượng thì nói thơ Vân tiên cũng phai nhạt dần. Tuy vậy,
trong các thôn ấp ở Bến Tre ngày nay vẫn còn những cụ già lắc lư theo
nhịp võng, thong thả ngâm truyện Lục Vân Tiên theo điệu nói thơ.
* Thơ rơi:
Tại miền Nam xưa, Thơ rơi là thể văn truyền khẩu phổ biến, dùng để
mô tả những oan tình, những uất hận dồn chứa trong lòng mà người ta
không thể gặp trực tiếp đối phương để phân trần hay thuyết phục.
Thơ rơi Ngăn gả vợ:
Thơ rơi một bổn
Tỏ với mụ gia
Cùng thấu tai đến bực chị đàng xa,
Với người ngọc cùng vầy duyên tơ tóc
Thơ rơi nhắn tin con và rể:
Ôi thôi thôi! Đoạn sầu này chi kể!
Rơi thơ nhàn thăm rể cùng con!
Thơ Nguyễn Đình Chiểu viết gửi em ruột là Nguyễn Đình Tự khi nghe
tin em sắp lấy một tiểu thiếp:
Thương tình bào đệ

161
Gửi bức tâm thơ.
Nghe em lăm toan việc tóc tơ,
Nên anh mới nhả lời vàng ngọc.
Thơ rơi được ngâm nga như nói thơ, nói vè. Tuy nội dung là chuyện
riêng của một người nhưng đã góp phần bêu trếu cái xấu bằng những
lời lẽ mạnh mẽ.
Khi chữ Quốc ngữ phát triển mạnh, thơ, vè, truyện, vãn không còn đắc
dụng, việc mượn thơ rơi làm thư tín cũng không còn. Người ta chuyển
sang cách viết sáng sủa, gọn ghẽ của văn xuôi.
5 b2/ Văn chương chữ viết/ Văn chương bác học
* Văn chương Hán Nôm
Hán học và Khổng học không hề vắng bóng ở đất Nam kỳ. Tuy nhiên,
nền văn học ở Đàng ngoài có 10 thế kỷ văn học thành văn thì ở Đàng
Trong chỉ có khoảng 3 thế kỷ.
- Các sáng tác của Đào Duy Từ trong thế kỷ 17 có thể xem là những
sáng tác đầu tiên của văn chương chữ viết miền Nam. (Ngọa Long
cương vãn, bài thơ Đào Duy Từ hay ngâm lúc chưa làm quan để ví mình
như Gia Cát Lượng; Hổ trướng khu cơ, cuốn binh pháp do Đào Duy Từ
soạn ra để dạy các tướng sĩ của xứ Đàng Trong – một tác phẩm viết về
nghệ thuật quân sự của Việt Nam còn nguyên vẹn và được lưu truyền
cho đến ngày nay; Tư Dung Vãn (ca ngợi cửa biển Tư Hiền ở Thừa
Thiên), viết bằng chữ Nôm theo thể văn vần, được các nhà nghiên cứu
xếp hàng đầu trong những tác phẩm văn học viết của nền văn học Đàng
Trong).
- Tiêu biểu cho văn chương Hán Nôm ở Nam bộ là hiện tượng Mạc
Thiên Tứ và Tao Đàn Chiêu Anh Cát (1736) tại Hà tiên.
Thơ văn Chiêu Anh Các hầu hết là thơ đề vịnh thiên nhiên. “Tao đàn
Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tích chủ xướng đã xuất bản tới 7 tập sách
chữ Hán và một tập thơ chữ Nôm 10 bài họa 10 cảnh Hà Tiên xen những
khúc ngâm song thất lục bát dài 422 câu rất điêu luyện. Hoạt động văn
chương như thế ngang tầm với một đô thị lớn hiện nay”. (Nhà thơ Ngô
Minh)
- Nửa đầu thế kỷ 19, phong trào sáng tác văn học viết tại miền Nam có
phần khởi sắc nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học dân gian,
các chủ đề thường được đề cập là tình yêu, sự đấu tranh chống lại các
thế lực phong kiến,... (Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu)
- Nửa sau thế kỉ 19, văn chương miền Nam nở rộ, nhà văn cũng là chiến
sĩ. Văn học chữ Nôm mới mẻ nhưng gần với cuộc kháng chiến chống

162
Pháp của dân tộc, sắc sảo hơn nhiều so với văn học chữ Hán. Có nhiều
tác giả xuất hiện, không chỉ tiêu biểu cho văn học Nam bộ mà còn tiêu
biểu cho văn học cả nước như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông,
Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huấn Nghiệp.
- Giai đoạn nửa cuối thế kỷ 19, toàn bộ chủ đề mới là chủ đề yêu nước
chống Pháp. Chưa có giai đoạn nào sự chuyển biến về chủ thể và đề
tài trong văn học lại nhanh chóng và theo sát các biến cố chính trị
như vậy. Sự chuyển biến này diễn ra sớm nhất ở Nam bộ vì cuộc chống
ngoại xâm diễn ra đầu tiên ở Nam bộ.
Chẳng hạn như Nguyễn Đình Chiểu, trước khi Pháp xâm lược Nam bộ
ông viết Lục Vân Tiên, một chuyện Thơ Nôm kiểu truyền thống. Sau
khi Pháp tấn công Gia Định và đánh ra các tỉnh khác ở miền Nam,
Nguyễn Đình Chiểu đã bỏ lối sáng tác để giáo dục đạo đức chung chung,
chuyển sang viết một loạt tác phẩm có tính chất thời sự, phản ánh cuộc
chiến đấu của dân tộc, tố cáo tội ác của giặc, kêu gọi nhân dân đứng lên
chống giặc cứu nước như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Mười hai bài thơ,
Văn tế Trương Định, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Hịch đánh
chuột, Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Ngư tiều y thuật vấn đáp.
* Văn chương chữ Quốc ngữ
- Chữ Quốc ngữ bắt đầu phát triển mạnh trong giai đoạn nửa cuối thế
kỷ 19.
- Chữ Quốc ngữ được dùng thay thế chữ Hán chữ Nôm ở Nam bộ trước
Trung và Bắc bộ, tạo điều kiện cho Nam bộ đi trước trong sự hình thành
và phát triển báo chí. (Gia Định báo, Nhật trình Nam kỳ, Thông loại
khóa trình, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn, Đông
pháp thời báo, Công luận báo, Sống,... )
- Báo chí miền Nam đã góp phần hiện đại hóa nền văn học Việt Nam và
đã đóng góp vào sự phát triển tiểu thuyết văn xuôi Quốc ngữ.
- Văn học dịch miền Nam cuối TK 19, đầu TK 20 đã tạo nên cái thú đọc
truyện Tàu của người Nam bộ. Trong truyện Tàu, người NB bắt gặp các
đức tính: trung hiếu, tiết nghĩa, trí dũng, tín lễ, cương trực, anh hùng.
“Truyện Tàu dạy tôi nhiều điều xử thế nên tôi gọi nó là nghệ thuật, chứ
chẳng chơi… Truyện Tàu là một vùng rừng thật lớn, một biển sâu và
rộng, khai thác không bao giờ hết và cạn cùng” (Vương Hồng Sển)
Truyện Tàu là một phần máu thịt trong đời sống văn hóa tinh thần của
người dân Nam bộ trong thời kỳ đó và đã tác động không nhỏ đến
khuynh hướng sáng tác của tiểu thuyết.
Sau thành công của Trương Vĩnh Ký trong việc dịch truyện Tàu, những
năm 1900, có một làn sóng dịch thuật các tiểu thuyết kinh điển của

163
Trung Hoa ra chữ Quốc ngữ. Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Tây
Hán, Đông Hán, Chung Vô Diệm, Ngũ Hổ Bình Tây, Mạnh Lệ Quân,
Nhạc Phi được đăng tràn lan trên các mặt báo, sau đó in thành sách.
- Các loại tiểu thuyết anh hùng, tiểu thuyết dã sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp
được dịch nhiều hơn bởi chúng phù hợp với thị hiếu độc giả bình dân.
Nó phản ánh xu hướng hướng ngoại, thích hành động hơn là hướng vào
nội tâm của con người Nam bộ.
- Vấn đề tình dục sớm được đưa vào văn học Nam bộ do đây là nơi đã
phương Tây hóa sớm nhất so với các vùng miền khác trên đất nước. (Lê
Hoằng Mưu với Hà Hương phong nguyệt, Hồ Thể ngọc với Người bán
ngọc,…)
6 b3/ Đặc điểm chung của nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong văn
chương Nam bộ:
*Tính hiếu cổ
Người Nam bộ mê truyện Lục Vân Tiên và mê truyện Tàu bởi không
khí cổ kính. Những năm 1960 tính hoài cổ thể hiện qua thú mê truyện
Tàu chuyển hóa thành phong trào đọc sách tiểu thuyết kiếm hiệp của
Kim Dung ở các thành thị, từ công chúng bình dân đến tầng lớp trí thức
(Cô Gái Đồ Long, Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ, Tuyết Sơn
Phi Hồ, Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Thiên Long Bát Bộ, Tiếu Ngạo Giang
Hồ….)
- Các tác phẩm Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958) bảo vệ những đạo lý
truyền thống như ở hiền gặp lành, cha hiền con thảo, trọng nghĩa khinh
tài.
*Tính biểu cảm mạnh
Do trọng nghĩa khí, người NB chuộng cách diễn tả tạo ấn tượng mạnh,
thể hiện qua:
Ngữ khí từ (chèng đéc ơi, hèn chi, nghen, hông, chứ bộ, há…)
Từ đệm (cười bể bụng, rẻ rề, đỏ hoét, tối hù, đẹp thấy ớn, hay hết ý…);
Phó từ chỉ mức độ mạnh (đẹp hung, nặng dữ, quá trời quá đất, thấy bà,
thấy mồ, thấy cha, thấy bà cố, quá xá,…); mức độ hết sức (hết biết luôn,
hết ga, hết mình, mệt nghỉ, tới số); chỉ khả năng lớn (dư ga, dư xăng, dư
sức,..); chỉ vị trí đứng đầu (số một, số dách, sếp sòng, một cây,..); ….
Tạo nhiều từ láy và dùng nhiều từ láy: cười rần rần, cứng ngắt cứng
còng, cà chớn cà cháo, té nghiêng té ngửa, ba trật ba vuột, búa lua xua,
xa lơ xa lắc, tiếng máy chạy xình xịch, …

164
Tính biểu cảm mạnh cũng thể hiện rõ trong văn chương dân gian Nam
bộ:
Anh thương em chết nửa thân mình/ Mà em ngơ ngẩn như mình thương
ai
Anh thương em năm bịch bảy bồ/ Sao em không thương lại, cái đồ bất
nhơn.
Anh về, em đứng dựa hàng rào/ Khăn lau nước mắt muốn nhào theo
anh.
Ba bốn nơi tới hỏi em chẳng màng/ Chờ nơi chết vợ sẵn sàng nhào vô
7 3.4.2. Nghệ thuật thanh sắc của người Việt ở Nam bộ
3.4.2.1 Dân ca
Dân ca Nam bộ có nét riêng nhưng rất gần gũi với dân ca miền Trung
về làn điệu.
a/ Lý:
Di lý nghĩa là làng quê.
Hát lý là lối hát làng quê, nghe chân quê thơ mộng, kiểu hát bắt nhịp
giọng cao giọng thấp lặp đi lặp lại. Tính chất làng quê của hát lý vẫn để
lại dấu ấn rõ nét trong những cái tên chỉ địa danh như Lý Cái Mơn (Chợ
Lách Bến Tre), Lý Ba Tri (Ba Tri Bến Tre), Lý Đất Giồng.
Lý có vần, có câu ngắn và bài hát cũng ngắn. Nội dung phù hợp với
hình thức, chứa đựng ý tứ trong sáng, tươi trẻ, dí dỏm.
Chủ đề của Lý phong phú và đa dạng đến mức có bất cứ cái gì trong
cuộc sống xung quanh từ thiên nhiên cho đến con người.
Về hiện tượng tự nhiên: Lý Bốn Mùa, Lý 12 Tháng, Lý Chiều Chiều, Lý
Năm Canh
Về chủng loại thực vật: Lý Bụi Chuối, Lý Cây Bần, Lý Cây Bông, Lý
Cây Cám, Lý Cây Chanh, Lý Cây Đa, Lý Cây Gòn, Lý Cây Khế, Lý Cây
Ổi, Lý Bông Súng, Lý Bông Trang, Lý Trái Cây, Lý Trái Bắp, Lý Trái
Mướp, Lý Trăm Hoa,…
Về chủng loại động vật: Lý Con Sáo, Lý Con Sáo Sang Sông, Lý Con
Cua, Lý Con Lươn, Lý Con Mèo, Lý Con Cá, Lý Con Cóc, Lý Con Ngựa,
Lý Ngựa Ô, Lý Con Ác, Lý Chim Quyên, Lý Chim Sắc, Lý Chim Xanh,
Lý Quạ Kêu, Lý Chuồn Chuồn,…
Về sự vật đồ vật: Lý Bánh Ít, Lý Bánh Canh, Lý Dầu Dừa, Lý Bánh Bò,
Lý Cái Kéo, Lý Vá Áo, Lý Vọng Phu, Lý Bình Vôi, Lý Cái Phảng, ….

165
(Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con Sam lấy chủ đề là đồ vật, động vật
nhưng nội dung ngầm mỉa mai châm biếm Lý trưởng cường hào)
Về hoạt động của con người: Lý Bắc Cầu, Lý Qua Cầu, Lý Qua Phà, Lý
Bắt Ốc, Lý Cắt Cỏ, Lý Đi Cấy, Lý Chẻ Tre,…
Chất liệu dân ca của các điệu lý Nam bộ đã được nhiều nhạc sĩ kế thừa
và khai thác hiệu quả.
b/Hò: là điệu hát đặc biệt xuất phát từ lao động, đi kèm với lao động,
hỗ trợ cho lao động.
Ở miền Trung, điều kiện sống khó khăn đã sản sinh ra nhiều điệu hò
mạnh mẽ dồn dập để nâng, kéo, đẩy, khiêng. Vào miền Nam, vai trò của
hò trong hỗ trợ lao động không cần nhiều, thay vào đó là tiếng hò của
lao động cấy hái trên cánh đồng hay hoạt động chèo đò trên sông nước.
Trời cao đất rộng thênh thang/ Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng
Tiếng hò giúp cho mọi người xa xứ dễ dàng liên kết hỗ trợ cho nhau
trong cuộc sống tinh thần.
Vô tình cất giọng hát hò/ Kiếm người cùng ngõ chuyện trò giải khuây
Hò trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi, ai ai cũng phải biết
hò.
Tới đây không hát thì hò/ Đâu phải con cò nhóm cổ mà nghe
Em tới đây xứ lạ quê người/ Rủ hò vui miệng chớ cười lời thơ
Ở Nam bộ có nhiều kiểu hò vô cùng phong phú và đa dạng.
Xét theo môi trường:
Hò trên cạn
Hò dưới nước (Hò Mái Cụt, Hò Mái Đoản, Hò Mái Dài (Mỏ Cày, Thốt
Nốt, Đức Hòa,..) Hò Mái Trường, Hò Mái Ba, Hò Mái Ố, Hò Ống, Hò
Chèo Ghe, ...
Theo mục đích thì có thể phân biệt:
Hò lao động (Hò Cấy (Sông Bé, Bến Tre, Cửu Long, Hậu Giang (riêng
ở Hậu Giang đã có hò cấy Mỹ Tú, Long Mỹ, Phụng Hiệp), Kiên Giang)
…, Hò Gặt, Hò Xay Lúa, Hò Thẻ Mực);
Hò giao duyên (hò huê tình),
Hò tôn giáo (hò đưa linh hát trong đám tang)
Theo số người tham gia:
Hò lẻ (Hò Môi, Hò Mép, Hò Ngẫu Hứng (Kiên Giang, Bến Tre);

166
Hò đối đáp (gồm 3 chặng: hò rao, hò dạo để thăm hỏi, chào mời; hò đối
đáp, hò kết bạn, hò xe duyên, hò đố (giai đoạn chính); Hò giã biệt, hò
tiễn bạn).
Xét theo tính chất:
Hò nhân đạo (nhẹ nhàng, không gai góc) và
Hò ngạnh trê (Là loại hò cho phép hai bên phát huy tối đa trí tuệ thông
minh, khả năng biến báo để đưa ra những nội dung bất ngờ, làm khó
nhau khiến đối phương tức tối như ngạnh cá trê đâm phải. Đây là kiểu
hò đặc biệt của Nam bộ thể hiện tối đa phẩm chất bộc trực và thẳng thắn
của người dân nơi đây)
“Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú/ Thấy em chèo cặp vú muốn hun”
“Anh muốn hun,... vậy thì cũng khó/ Anh về nhà bắt chó anh hun”
Nếu bị kẹt không nghĩ được câu trả lời thì đã có câu hò gỡ bí:
“Câu hò tôi đựng một thạp da bò/ Tôi quên đậy nắp nó bò sạch trơn”
“Câu hò tôi đựng một lu/ Lum khum nó rớt chổng khu mò hoài”
c/ Hát sắc bùa:
Hát sắc bùa là một hình thức sinh hoạt mang tính văn nghệ dân gian,
vừa mang tính lễ nghi nông nghiệp vừa pha trộn với ma thuật Đạo giáo,
chủ yếu diễn ra vào dịp Tết nguyên đán, các dịp cúng đình làng.
“Vào tối hăm tám tháng chạp, từng đoàn nậu sắc bùa kết hợp 15 người,
đánh trống gõ phách. Họ coi nhà nào giàu có, kéo vào dán bùa ở các
cửa, niệm chú, rồi đồng loạt cất giọng ca hát lên những bài hát chúc
mừng. Chủ nhà dọn cỗ bàn trà rượu thết đãi và thưởng tiền. Cứ xong
nhà này lại kéo sang nhà khác, cũng diễn lại in vậy. Mãi cho đến hết
đêm trừ tịch mới thôi. Mục đích là để tống khứ tà ma, bỏ cũ đón mới”.
(Trịnh Hoài Đức, Gia định thành thông chí)
Phong tục này có từ lâu đời, phổ biến nhiều nơi như Hòa Bình, Nghệ
Tĩnh, Bình Trị Thiên và NamTrung Bộ. Ở Nam bộ, nổi tiếng nhất là Hát
sắc bùa Phú Lễ (Ba Tri - Bến tre).
Mỗi nhóm hát sắc bùa thường có 4 đến 6 người còn các đôi trai gái,
nam mang trống cơm, nữ mang sên tiền, đôi khi có cả đờn cò.
Về hình thức: hát sắc bùa nằm giữa diễn xướng dân gian và diễn xướng
chuyên nghiệp. Dân gian là bởi nghệ sĩ là nông dân, chuyên nghiệp là
vì có tổ chức chặt chẽ, có xướng có xô, có nhạc cụ phụ họa và nhịp
phách rõ ràng.

167
Về nội dung: lời hát là những câu thơ dân gian ca ngợi mùa xuân, ca
ngợi chủ nhà và chúc năm mới an khang thịnh vượng.
d/ Hát chặp:
Cũng là loại dân ca được dân Lục tỉnh ưa thích.
Là một loại ca hát có ra bộ, tiền thân của hát bội, có tuồng tích đơn sơ,
do các diễn viên dân gian biểu diễn. Những người giỏi thơ vè trong các
làng ấp có thể đặt ra các bổn hát chặp. Về sau người ta có thể lẩy từng
câu đó đây trong các vở tuồng truyện để hát cương.
Hát chặp là trò vui khi nhà có giỗ, có cưới hay tiệc tùng, nhưng không
được dai như hát bội mà trình bày từng chặp. Hát chặp không cần sân
khấu, không hóa trang, bà con xúm lại xem cầu vui, không phải đóng
góp tiền.
Nhiều khúc hát chặp có giá trị tả thực, châm biếm và tố cáo xâm lược.
e/ Thài:
Là loại dân ca về lễ nghi tôn giáo.
Người thài là các cô gái đồng trinh gọi là Đồng nhi.
Thài có một giọng điệu đặc biệt, rập ràng trầm bổng và nhịp nhàng với
bước đi bộ đứng. Đoàn đào nhi vừa diễu hành vừa hát những bài chúc
tụng.
“Mỗi bên ba bốn con hát, áo mũ rực rỡ, mỗi ả cầm vài nén hương vừa
đi vừa đọc câu chúc… Mà cách đi rất kì ngộ: người nào mắt cũng nhưng
nhưng, nháo nháo, nghiêng đầu nghiêng cổ, chân bên nọ đá chân bên
kia, làm cho ai lạ mắt cũng phì cười, mà họ thì cho thế mới là đi vào
kiểu” (Phan Kế Bính – Việt Nam phong tục)
f/ Hát dưng bông/ Hát múa bông/ Múa bóng/ Múa bóng rỗi/ Hát ăn
tạ tran
Là một hình thức diễn xướng vừa mang tính nghi lễ tôn giáo vừa mang
tính sinh hoạt dân gian, bao gồm múa bóng và hát rỗi. Là bộ phận
không thể thiếu được của tín ngưỡng Thờ Bà và Lễ hội Bà Chúa Xứ ở
núi Sam, trong các lễ hội Kỳ yên.
Là hình thức tổng hợp và nâng cao từ tín ngưỡng hầu đồng của người
Việt ở Bắc bộ, kết hợp với vai trò của bà bóng Pajao của người Chăm ở
Trung bộ và tính cách tự do phóng khoáng của người Việt ở Nam Bộ.
Là bộ môn do các nghệ nhân khổ công tập luyện biểu diễn, chỉ có các
gia đình có điều kiện họ mới lập tran thờ các bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc
hoặc bà Cửu Thiên.

168
Các nghệ nhân thường là người “lại cái” nên được gọi là bà bóng – múa
bóng.
Đạo cụ là mâm bông hoa bằng hoa tươi hoa hoặc hoa giấy xếp thành
các lâu đài – múa bông, múa dưng bông. (Mâm bông luôn vững đầu
hoặc trên 1 ngón tay).
Phần mang tính tôn giáo của múa bóng rỗi là một bộ phận của nghi thức
cúng bà, cúng thần, gồm nghi thức hát rỗi mời chào, ca ngợi công đức
của các bà các thần và múa bông dâng mâm vàng.
Nổi bằng ba (a) truyền bằng lịnh (a)
Áo mão vào chầu (a) trời phật (bằng mà) chứng minh (a)
Ở đây nên cửa nên nhà (à)
Bói ra (ơ mà) khoa thấy (mà)
(mà) mắc bà Thiên Cửu Thiên
(là bà) Thiên Cửu … Thiên (a)
Vui bớ lịnh bà vui….
Đến năm 1945 điệu hát dâng bông vẫn còn thịnh hành.
Phần mang tính sinh hoạt dân gian gọi là màn múa đồ chơi là hình thức
nghệ thuật tổng hợp bao gồm trình diễn tích, diễn tạp kỹ (có khi dùng
chai ngay trên đầu que, trên chai để cái trứng gà, đèn, đĩa trên đầu que,
ngậm cái chân bàn, hai tay chắp nách, múa lu, múa khạp, múa độc bình,
múa xe đạp …) và chặp Địa Nàng mang ý nghĩa giúp vui cho bà.
Chặp Địa Nàng là chặp diễn dài nhất và cũng thu hút đông đảo người
xem nhất trong lễ cúng, là hình thức diễn xướng mang tính hài hước kết
hợp giữa bóng rỗi với hát bội. Cuộc hát xướng chỉ có hai nhân vật, tiên
nữ Hằng Nga thừa lệnh Tây Vương Mẫu xuống trần hái lộc cầu an cho
dân, vì không biết đường nên phải nhờ Ông Địa dẫn đường. Lợi dụng
cơ hội này Ông Địa vòi vĩnh, đùa giỡn với tiên nữ, làm khó tiên nữ đủ
điều. Các trích đoạn Địa đòi ăn, Địa đau đẻ mang đến cho mọi người
nhiều tiếng cười sảng khoái.
g/ Hát nhưng quan/ Hò đưa linh
Góp phần vào nghi lễ đám tang.
Hò Đưa Linh: diễn tả tình cảm người ở lại;
Hát Nhưng Quan: hỗ trợ lao động cho các Nhưng Quan và Đạo Tùy
đường xa khiêng nặng. (Nhưng quan và Đạo tùy là những người dân
làng được tuyển chọn)

169
Dân chúng xưa đi từ làng này qua tổng nọ để xem các độ tế, nhất là
được coi hát, coi hò lúc động quan. Các điệu hát tuy không mới lạ với
người xem nhưng vẫn có một ma lực quyến rũ.
8 3.4.2.2. Hát bội
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Hát bội.
- “Là hát có nhiều vai tuồng, có nhiều người, cả bọn hiệp nhau lại chứ
chẳng phải một người hát mà nên đám đâu. Bội là nhiều, là bè bội”
(Trương Vĩnh Ký).
- Bội do chữ “bài” của Trung Quốc nghĩa là hát tuồng cổ điển. Dựa trên
luật hoán chuyển của phát âm đọc từ ai ra ôi, ơi. (Đinh Bằng Phi 2005:
21)
- Bội còn có nghĩa là “gia tăng”. Do đặc điểm có tính biểu trưng cao nên
trong Hát bội từ ngữ điệu bộ cho đến ngôn ngữ, hóa trang tất cả đều
được cường điệu lên. (Trần Ngọc Thêm)
Miền Bắc gọi Hát bội là Tuồng, có mặt bên cạnh bộ môn Chèo.
Khi Cải lương ra đời, người Nam bộ đã gọi Hát bội là hát bộ để phân
biệt vì trong Cải lương thiên về tả chân, còn trong Hát bội thì thiên về
điệu bộ.
Về nguồn gốc của Hát bội, cũng có nhiều giả thuyết khác nhau:
- Vào thế kỷ thứ 11, thời nhà Lý có một người Tàu đã sang dạy cho dân
ca các điệu hát múa.
- Thời nhà Trần 1285, quân Nam toàn thắng quân Nguyên, bắt được
một tên giặc tên là Lý Nguyên Cát vốn là một diễn viên hí kịch của
Trung Nguyên, vua Trần Nhân Tông cho giữ lại để dạy cho cung nhân
nghề hát.
Vào thời nhà Lê, Hát bội bị hạn chế cấm đoán trong cung đình, do quan
niệm rằng những nét tự do phóng khoáng châm biếm trong tuồng đồ ở
chốn dân gian sẽ có hại đến việc giáo hóa. Nhưng nhờ có Đào Duy Từ
mà Hát bội đã thịnh hành ở khu vực Đàng Trong1.

1
Đào Duy Từ vốn là con nhà ca xướng nên không được thi cử, bất mãn vua Lê đã theo phò Chúa Nguyễn
và lập nhiều công trạng lớn lao: khuyên chúa Sãi lập tiểu giang san tại miền Nam, ban hành nhiều cải cách
như đổi cách ăn mặc để cho khác người Đàng ngoài,...
Ông đã lập tại Bình Định quê hương thứ hai của ông một ban Hát bội, bắt hát giọng Bình Định, hát một hơi
dài chứ không ngắt câu với tiếng vĩ ưư như lối hát ngoài Bắc, cho khác hẳn lối hát của vùng đất vua Lê
chúa Trịnh.

170
Từ miền Trung, Hát bội đã theo chân những người dân di cư vào Nam
bộ, tiếp thu thêm nghệ thuật hát Tiều, hát Quảng của người Hoa, nhạt
bớt chất Chăm u buồn, tạo “hơi khách” vui tươi trong sáng.
Người miền Nam mê Hát bội, sống và hành xử theo các nhân vật trong
Hát bội, tập hát và diễn cho nhau xem; làm sàn diễn trên mặt nước,..,
làm hàng rào ngăn cá sấu và cọp để coi Hát bội.
Má ơi đừng đánh con đau/ Để con hát bội làm đào má coi
Hát bội hành tội người ta/ Bỏ cửa bỏ nhà cũng vì Hát bội.
Các vở diễn nổi tiếng là San Hậu, Tam Nữ Đồ Vương, Diễn Võ Đình,
Ngoại Tổ Dâng Đầu, Phụng Nghi Đình, Phàn Lê Huê, Lã Bố Hí Điêu
Thuyền, Thoại Ba Công Chúa, Hạng Võ Biệt Ngu Cơ,..
Đặc trưng nghệ thuật Hát bội là một loại bi hùng kịch có hậu. Khác với
Chèo, nội dung Hát bội không khai thác những vấn đề trong sinh hoạt
hàng ngày mà lấy từ các sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại, ảnh
hưởng đến số phận của đất nước, nhân dân.
Ngôn ngữ trong các tuồng Hát bội tiêu biểu cho ngôn ngữ văn học chữ
Nôm của Đàng Trong.
Hát bội là bộ môn sân khấu:
Linh động: từ đầu đến cuối buổi diễn, khán giả bị lôi cuốn, cốt chuyện
tưởng như cảnh thật ngoài đời.
Hấp dẫn: từ người lớn đến trẻ con, xem từ đầu hôm đến, từ đêm này
qua đêm khác mà không biết chán.
Thuần túy chất Việt: mặc dù chịu ảnh hưởng Trung Quốc nhưng từ câu
văn đến điệu bộ, từ âm nhạc đến y trang đều theo luật mẹo thơ Việt,
khuôn khổ vũ khúc Việt, kiểu vẽ mặt Việt, bài bản âm nhạc Việt, màu
sắc dân tộc Việt.
Đượm nhuần luân lý: tuồng nào cũng đề cao trung hiếu tiết Nghĩa, phô
bày rõ ràng dữ lành nhân quả, hướng dẫn làm diều ngay lẽ phải, hết dạ
với gia đình, trọn lòng với tổ quốc.
Nghệ thuật tinh vi: từ văn đến võ, lão đỏ lão đen, vai trung vai nịnh, từ
cười đến khóc, lúc lên ngựa khi gò cương, bưng chén trà, nóc bầu rượu,
ra cửa lên xe,… tất cả đều theo quy tắc riêng không làm khác được.
Hát bội suy thoái về hình thức nhưng không khí cổ kính trong tác phẩm
vẫn được sống và phát triển trong Cải lương. Hình tượng tính cách các
nhân vật đã ăn sâu vào tâm lý khán giả, đi vào đời sống: Đẹp như Điêu
Thuyền, Chính trực như Quan Công, Võ nghệ cao cường như Võ Tòng,

171
Đa nghi, quỷ quyệt như Tào Tháo, Thâm độc như Tần cối, Lụy tình như
Phàn Lê Huê.
Đã từ lâu người Nam bộ quen với các cách nói: Nóng như Trương Phi,
Khóc như Lưu Bị, Kể như Tào Tháo, Nói như mắc thằng Bố (Lữ Bố
trong tuồng Phụng Nghi Đình, tính hiếu thắng, ăn nói không khiêm tốn,
nói nhiều); Công tử bột, Trống đánh xuôi kèn thổi ngược, Quân sư quạt
mo; nói vòng vo không đi thẳng vào đề: rao Nam; nói lạc đề: nói đâm
ban; không thật: làm bộ, làm tuồng; Làm trò hề,…
9 3.4.2.3. Đờn ca tài tử
Sang thế kỷ 19, công việc khẩn hoang cơ bản hoàn thành, thời gian rảnh
rỗi nhiều hơn, cư dân đông đúc hơn, nhu cầu giải trí cao hơn.
Trước đây sự kết hợp giữa âm nhạc và lời ca trong sinh hoạt diễn xướng
ở Nam bộ còn yếu. Chỉ có ở đờn ca tài tử thì âm nhạc và lời hát, đàn và
ca mới đứng ở vị trí ngang nhau.
* Phong trào đờn cây:
Trong số các loại nhạc cụ, cây đàn là năng động nhất, dễ mang theo, dễ
sử dụng vì vậy đã được người nông dân Nam bộ chọn làm công cụ giải
trí phổ biến vào những lúc nông nhàn.
Đầu thế kỷ XIX, những người chơi đàn nghiệp dư cùng với các nhạc
công hoạt động trong các lĩnh vực hát bội và nhạc lễ đã tạo nên một
phong trào đờn cây phổ biến khắp cả miền Nam, khởi xướng là ông
Nguyễn Quang Đại. Ông là một nhạc quan của triều đình Huế, phiêu bạt
đến vùng Cần Đước Long An, mở lớp dạy đờn ca, dân chúng gọi là
Thầy Ba Đợi.
* Dòng nhạc tài tử:
Với trình độ và kiến thức âm nhạc của mình ông Ba Đợi đã phối hợp
nhạc Nam bộ dân dã với nhạc Huế cung đình, cải biên và thay đổi tiết
tấu để sáng tác ra những bản nhạc mới, hợp với lối chơi đàn cây đang
phổ biến ở Nam bộ lúc bấy giờ, đồng thời cũng phù hợp với con người
và vùng đất Phương Nam, tạo nên dòng nhạc tài tử được người dân
Nam Bộ hưởng ứng rất mạnh mẽ,
* Phong trào đờn ca tài tử:
Sau đó bằng tài năng và uy tín của mình ông Nguyễn Quang Đại tập
hợp và thống nhất được những ban nhạc, nhóm đờn của cả hai vùng
Đông và Tây Nam bộ. Từ Cần Đước dòng nhạc tài tử đã được khơi
nguồn và nhanh chóng phát triển tạo thành phong trào quần chúng rộng
rãi khắp miền Nam gọi là đờn ca tài tử.

172
Tài tử tức là nghiệp dư, không phải chuyên nghiệp như nhạc Lễ, Hát
Bội.
Các nhạc sư cùng góp phần sáng tác phổ biến đờn ca tài tử khắp Nam
Bộ là: nhạc sư Trần Quang Quờn (1875 – 1946), ông Trần Quang Diệm,
Năm Diệm, là ông nội của giáo sư Trần Văn Khê; ông Lê Bình An ở
Bạc Liêu.
Như vậy từ phong trào đờn cây, đờn ca tài tử đã được hình thành; vừa
có chất dân gian phóng khoáng Tây Nam bộ vừa có chất bác học của
âm nhạc cung đình Huế.
Chất bác học:
-Tuân thủ chặt chẽ nguyên lý âm dương ngũ hành.
Theo cấu trúc ngũ hành, cổ nhạc miền Nam được xây dựng trên thang
Ngũ Âm truyền thống (Hò Xự Xang Xê Cống), khác với thang Ngũ
cung của Trung Quốc (Cung Thương Giốc Chủy Vũ) và ngũ cung của
Bắc Bộ (Chủy Vũ Cung Thương Giốc)
- Để chơi được đờn ca tài tử người chơi phải bỏ nhiều công phu học
cách nhập sư trong thời gian khá dài để thông thạo được 20 bản đờn cổ
cùng các kỹ thuật chơi đàn như rung, nhấn, mổ, chầy, hưởng, bịt, day,
chớp, búng, phi, rải… cùng với các biến thể của chúng cho các loại
đờn. Vì công phu như vậy nên đờn ca tài tử không bị nghiệp dư hóa.
Nhờ chất hàn lâm bác học mà đờn ca tài tử đã nâng tầm thưởng thức
của công chúng.
Chất dân gian phóng khoáng:
- Nhạc sĩ phương tây khi chơi đàn phải tuân thủ tuyệt đối các nốt nhạc
các khoảng dừng, các khoảng lặng, truyền đạt tư tưởng tình cảm của tác
giả bản nhạc. Còn người nghệ sĩ đờn ca tài tử có thể và phải sáng tạo
một cách ngẫu hứng, đồng sáng tác ngay trong lúc trình diễn, gửi gắm
tâm tư cảm xúc của chính mình. Nhờ tính linh hoạt này mà chỉ hơn một
thế kỷ đờn ca tài tử đã có bài bản phong phú nhất trên 300 bài bản lớn
nhỏ. (Trong đó có 20 bản nhạc tiêu biểu gọi là 20 bản tổ mà người chơi
ai cũng phải thuộc nằm lòng.)
- Khác với nhạc phương Tây các đoạn ngừng nghỉ đều được ấn định
trước theo nhịp theo thì, trong đờn ca tài tử, nhạc sĩ chỉ cần canh để
xuống nhịp cho đúng, còn trong một nhịp có thể tùy hứng thêm bớt âm,
biến hóa tiết tấu, thay đổi cường độ, tạo chữ nhưng nghĩ theo cách riêng
của mình, miễn sao vẫn đảm bảo tuân thủ những gì được quy định bởi
lòng bản.

173
(Lòng bản là những âm cơ bản của âm giai và tiết tấu được hình thành
từ 3 hơi chính: hơi Bắc, hơi Nam, hơi Oán).
- Đờn ca tài tử đã cải biến cây đàn guitar phương Tây, tạo ra cây đàn
guitar phím lõm, thế giới gọi là guitar Việt Nam.
Nhờ phóng khoáng linh hoạt mà đờn ca tài tử gần với giới bình dân,
người ta có thể trình diễn ở bất cứ lúc nào ở phạm vi nào trong bất kỳ
không gian nào.
Sự kết hợp giữa chất bác học cầu kỳ với chất bình dân phóng khoáng
đã tạo nên một phẩm chất độc đáo duy nhất chỉ có ở loại hình đờn ca
tài tử chính là rất phong lưu. Chất phong lưu này cũng là cái chất phong
lưu tài tử của những cậu Hai Miệt Vườn.
Đờn ca tài tử đạt đến giai đoạn phát triển cực thịnh trong nửa đầu thế
kỷ 20. Thời gian đầu mạnh nhất là ở Vĩnh Long ở Sa Đéc. Năm 1915,
lần đầu tiên một ban nhạc tài tử ở Mỹ Tho của Nguyễn Tấn Chiều được
gọi là Tư Chiều đã lên trình diễn sân khấu chuyên nghiệp Sài Gòn tại
nhà hàng Cửu Long Giang.
Nửa sau thế kỉ 20 phong trào đờn ca tài tử đi vào suy thoái, nhường
bước cho sân khấu cải lương. Gần đây khi cải lương không còn thịnh
do băng đĩa video có mặt rộng khắp, thì đờn ca tài tử có tính cơ động
cao, khả năng thích ứng nhanh nhạy, quan hệ gần gũi với cuộc sống
hàng ngày nên đã được khôi phục. Mỗi tỉnh miền Tây có hàng trăm
nhóm câu lạc bộ đờn ca tài tử. Trên khắp 21 tỉnh thành Nam Bộ hiện có
khoảng 2.000 nhóm đờn ca tài tử đang hoạt động.
10 3.4.2.4. Cải lương
* Ca ra bộ:
Khởi đầu các ban đờn ca tài tử chỉ chơi tài tử mà không có diễn trên sân
khấu, chỉ đàn hát mà không có điệu bộ, chỉ ngồi để hát mà không có
đứng lên đi đi lại lại.
Năm 1910 ban đờn ca tài tử của Nguyễn Tống Triều ở Mỹ Tho với ca
sĩ là cô Ba Đắc, đã được chọn đi trình diễn cổ nhạc Việt Nam tại hội
chợ đấu xảo Paris. Với kinh nghiệm trình diễn đàn ca trên sân khấu ở
Pháp, khi trở về ông Tư Chiều đã bắt đầu đưa đờn ca tài tử biểu diễn
trên sân khấu nhà hàng. Cô Ba Đắc đã ca trích đoạn truyện Lục Vân
Tiên theo điệu Tứ Đại Oán có đổi giọng để thể hiện nội dung đối thoại.
Kết quả là được công chúng hưởng ứng hoan nghênh nhiệt liệt. Mỹ Tho
lúc này là đầu mối xe lửa nối Tây Nam bộ với Sài Gòn nên mọi cái sự
đổi mới từ Mỹ Tho đã nhanh chóng được phổ biến và các tỉnh Tây Nam
bộ. Một nhóm tài tử khác ở Sóc Trăng xe buýt cũng đưa tài tử lên sân
khấu.

174
Năm 1915, ông Tống Hữu Định là người nổi tiếng ăn chơi bậc nhất đất
Vĩnh Long vào năm 1991 năm 1920, thường hay tổ chức đờn ca tiệc
tùng đá gà bài bạc... trong một lần tổ chức đờn ca tiệc tùng, ông đã phân
vai cho 3 người thủ vai Bùi ông, Bùi kiệm và Nguyệt Nga lên sân khấu
vừa ca theo kiểu đối thoại vừa trình diễn điệu bộ, đánh dấu bước chuyển
biến quan trọng mới của đờn ca tài tử, đánh dấu sự ra đời của Ca ra bộ.
Từ đó, các nhóm Ca ra bộ nối tiếp nhau ra đời khắp Nam bộ.
Tất cả các yếu tố đối thoại, “ra bộ”, nội dung dài, phân vai tuy mới với
đờn ca tài tử nhưng lại quen thuộc với người NB qua Hát bội. Như vậy,
Ca ra bộ đã là bước đệm để Đờn ca tài tử phát triển thành Cải lương,
mang tính sân khấu, phục vụ nhiều người.
Năm 1917, vở Lục Vân Tiên được xem là vở cải lương đầu tiên (của
Trương Duy Toản, nhà văn, nhà báo, nhà soạn tuồng kiêm nhà cách
mạng VN)
Năm 1920, tên gọi Cải lương xuất hiện lần đầu trên bảng hiệu của gánh
hát Tân Thịnh:
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh
“Theo tiến bộ, Sánh văn minh” tức là theo cùng, sánh cùng sân khấu
kịch nói phương Tây với cách biểu diễn dùng lời nói hàng ngày, nội
dung phân chia thành hồi cảnh, trang trí sân khấu phông màn hỗ trợ diễn
đạt nội dung, kỹ thuật ánh sáng tạo hiệu quả thị giác, kiến trúc sân khấu
tính toán kĩ, tạo hiệu quả âm thanh đang biểu diễn tại các rạp Tây ở Sài
Gòn.
Rạp hát đầu tiên của cải lương Việt Nam là rạp thầy Năm Tú ở Mỹ Tho.
Rạp được xây dựng và tổ chức theo tiêu chuẩn phương Tây.
Cải lương ra đời đã trở thành loại hình sân khấu thứ 3 của Việt Nam sau
Hát bội và Chèo.
Trong bộ môn Cải lương bên cạnh các điệu ca truyền thống của đờn ca
tài tử, có một điệu ca đặc thù làm nên cái hồn riêng của Cải lương là
bản vọng cổ.
Tiền thân của bản vọng cổ là Dạ Cổ Hoài Lang (Đêm khuya nghe tiếng
trống nhớ chồng) của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, sáng tác 1918.
Hơn 30 năm từ khi ra đời, bài Dạ Cổ Hoài Lang dần dần được trở thành
bản vọng cổ với 6 câu nhịp 32 nổi tiếng, chiếm lĩnh vị trí trước đây của
bản Oán, làm thay đổi diện mạo âm nhạc sân khấu Cải lương.
Từ đó, Cải lương và vọng cổ luôn đi liền với nhau. Đào kép Cải lương
được hoan nghênh nhiều nhất ở tài hát vọng cổ. Những nghệ sĩ giỏi ca
175
vọng cổ luôn là con cưng của đoàn Cải lương và được đoàn trả lương
cao nhất.
“Điệu nhạc vọng cổ quá thu hút mãnh liệt tâm hồn người dân miền
Nam, thậm chí một người Bắc như tôi cũng thấm thía cái sức thôi miên
có một đó. Nó như nắm lấy trái tim, xoắn chặt gan ruột. Có những lỗ
tai quê mùa không chấp nhận được một thứ âm nhạc nào, đã phải bịn
rịn chung quanh sáu câu vọng cổ… Đến như dân Hà Nội mà cũng mê
say vọng cổ thì thôi!” (Linh mục Vũ Văn Thiện).
Khác với mọi giai điệu khác, bản vọng cổ đứng một mình riêng lẻ cũng
có thể diễn đạt được mọi hoàn cảnh và tính cách hỉ nộ ái ố. Từ khi có
bài vọng cổ thì màu sắc âm nhạc cải lương trở nên phong phú hơn, sang
trọng hơn và thu hút công chúng hơn. Chưa có một làn điệu nào thay
thế được vị trí của bản vọng cổ trên sân khấu cải lương.
Các nghệ sĩ cải lương bậc thầy, thế hệ cải lương đầu tiên:
Cô Năm Phỉ (1906 - 1954), Cô Bảy Phùng Há (1911 - 2009), Cô Tư
Sạng (1911 - 1955), Năm Châu (1908 - 1978), Quái Kiệt Ba Vân (1908
-1988).
Nghệ sĩ các thế hệ sau: Út Trà Ôn, Thanh Nga, Hữu Phước, Thành
Được, Út Bạch Lan, Minh Phụng, Bạch Tuyết, Lệ Thủy, Mỹ Châu,
Thanh Sang, Diệp Lang,..
Nhiều thành ngữ ra đời từ Cải lương: “Thanh minh Thanh Nga”, “Mút
mùa Lệ Thủy”
11 3.4.2.5. Kịch nói
- Kịch nói là môn nghệ thuật trình diễn dùng ngôn ngữ để biểu đạt thay
vì dùng âm nhạc, động tác, hay vũ điệu, hoàn toàn khác với những bộ
môn trình diễn sân khấu truyền thống ở Việt Nam vốn dùng âm nhạc và
ca điệu làm cách diễn tả chính.
- Ban đầu, Kịch được biểu diễn ở trường học, do giáo viên và học sinh
đóng, bằng tiếng Pháp, để ôn tập các tác phẩm Kịch của Pháp, chủ yếu
là của Molier. Sau đó người ta dịch sang tiếng Việt trình diễn trên sân
khấu, dần dần lấy đề tài Việt Nam. Vở kịch đầu tiên ở Việt Nam là vở
Bệnh tưởng vốn là nguyên tác Malade imaginaire của văn sĩ người Pháp
Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt, diễn ngày 20/4/1920 ở
Nhà hát lớn, Hà Nội.
- Nguyên nhân sâu xa của việc các trường học phương Tây cho dạy các
tác phẩm Kịch là vì Kịch giúp mài sắt óc duy lý, óc phân tích, đầu óc
khoa học hơn bất kỳ một hình thức giáo dục nào.

176
- Kịch Việt Nam cũng đi theo con đường trí thức. Người viết Kịch, dịch
Kịch, người diễn người xem đều là trí thức. Diễn viên phải có đầu óc
phê phán các cách diễn xuất cũ, phân tích văn bản một cách duy lý để
tìm ra cách diễn xuất thích hợp, không thể đưa ra một mô hình có sẵn.
- Kịch nói ở Sài Gòn thuở ban đầu xuất phát từ sự tài trợ và ham mê
Kịch của viên chức người Pháp Claude Bourin. Ông tập hợp những
người Pháp dựng một số tác phẩm Kịch cổ điển Pháp, thoại bằng tiếng
Pháp. Rồi sau đó đứng ra tài trợ và chỉ dẫn cho một số nhóm Kịch tài tử
người Việt. Tất cả những hoạt động này mang tính chất không chuyên
và giới hạn trong phạm vi hẹp của thanh niên trí thức Tây học của Sài
Gòn lúc bấy giờ, không được phát triển và phổ biến rộng rãi như ở Hà
Nội và các tỉnh phía Bắc bởi lẽ ở Sài Gòn, sự quan tâm của số đông
công chúng vào thời điểm này dành cho cải lương.
- Dần dần, đến năm 1959, kịch nói ở Nam bộ phát triển hơn, số ban kịch
cộng tác với đài truyền hình lên tới 30 ban như: Kim Cương, Thẩm Thúy
Hằng, Vũ Đức Duy, Gió Nam, Sống, Trường Thủy, Bạch Tường, Đen
Trắng…
- Trong những năm 1970 -1975, mối quan tâm của công chúng Sài Gòn
lại bị san sẻ cho điện ảnh.
- Sau năm 1975, trong số hàng chục ban kịch hình thành và hoạt động
trước 1975, chỉ còn ban kịch Kim Cương đổi tên thành Đoàn kịch nói
Kim Cương và ban kịch Thẩm Thúy Hằng đổi tên thành Đoàn kịch nói
Bông Hồng tiếp tục trụ lại và góp phần quan trọng xây dựng nền sân
khấu kịch nói TP HCM.
- 1984 Câu lạc bộ sân khấu thể nghiệm được thành lập. Vở công diễn
đầu tiên là vở Dư luận quần chúng (Aurel Baranga). Thời gian này khán
giả thành phố bắt đầu dành nhiều quan tâm đến thể loại sân khấu Kịch
nói. Đó là sự chuyển đổi về nhu cầu thẩm mỹ của thế hệ khán giả thành
phố.
- Giữa những năm 1980 đến nửa đầu những năm 1990, cùng với sự
khủng hoảng về khán giả của sân khấu diễn ra trên cả nước. Nhiều tác
giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên dần dần bỏ nghề. Thời điểm đó, Nhà
hát kịch sân khấu nhỏ là nơi “giữ lửa” cho sân khấu Kịch nói ở miền
Nam, chủ yếu tập trung ở TP HCM . Tác phẩm Dạ cổ hoài lang (Thanh
Hoàng) đã tạo nên hiện tượng “sốt” vé và là tác phẩm có số suất diễn
kỷ lục của kịch nói Việt Nam cho đến nay.
- Năm 1997, Kịch nói ở miền Nam -TP HCM - có thêm một sân khấu
kịch hoạt động theo mô hình xã hội hóa nữa là Sân khấu kịch Idecaf.
- Tính đến năm 2013, TP HCM có tổng cộng 9 sân khấu Kịch nói. Đến
cuối năm 2015, có tổng cộng 11 đơn vị sân khấu Kịch nói.

177
Ngày nay, Kịch nói đang là bộ môn nghệ thuật đứng đầu trong đời sống
sân khấu của TPHCM.
12 3.4.3. Nghệ thuật hình khối của người Việt ở Nam bộ
Nghệ thuật thanh sắc phát triển ở Tây NB hơn Đông NB vì chỉ phụ thuộc
vào tâm hồn, không cần các phương tiện kỹ thuật, phù hợp với người
Tây NB ưa di chuyển, thích gọn nhẹ.
Lĩnh vực nghệ thuật hình khối thì phát triển ở Đông NB (TP HCM,
Đồng Nai, Bình Dương) hơn Tây NB vì:
ĐNB có điều kiện tiếp cận tri thức và kỹ thuật hơn TNB.
ĐNB có sự ổn định trong cư trú hơn TNB.
Người ĐNB cũng coi trọng vật chất hơn người TNB.
3.4.3.1. Nghệ thuật vẽ Tranh kiếng:
Là loại tranh vẽ trên chất liệu kính, một loại hình nghệ thuật rất độc đáo
của miền Nam.
Tranh kiếng theo chân những người Hoa đến miền Nam, ra đời tại Lái
Thiêu từ nửa thế kỷ 19 đến đầu TK 20, sau đó lan rộng đến Chợ Lớn,
Mỹ Tho, Gò Công, Cai Lậy Tiền Giang, …, trong cộng đồng người
Việt, Hoa và người Khmer. Vùng Chợ Mới An Giang là nơi phát triển
mạnh mẽ nghệ thuật vẽ tranh này cho đến tận ngày nay.
Độc đáo của tranh kiếng là nghệ nhân phải vẽ ngược hình (vì vẽ mặt sau
tấm kính) và vẽ liên tục, từ nét đầu tiên đến nét cuối cùng (vì sai không
thể sửa).
Tranh kiếng có 2 dòng: tranh thờ và tranh trang trí.
Tranh thờ gồm hình ảnh ông bà tổ tiên và các hoành phi, câu đối treo ở
gian chính của ngôi nhà. Nội dung là các câu ca tụng công đức tổ tiên,
cầu mong điều tốt đẹp cho gia đình hoặc dạy bảo con cháu. Hình ảnh
trang trí ngoài các chữ Hán hoặc chữ Quốc ngữ kiểu thư pháp còn có
các hình ảnh dây lá, trái đào, chậu bông, cây trúc, con dơi ngậm chữ
Thọ (Phúc thọ song toàn), rồng phượng, phong cảnh phong thủy núi đồi,
sông suối, nhà cửa theo kiểu tranh thủy mặc Trung Hoa và kiểu nhà theo
kiến trúc Pháp.
Dòng tranh thờ còn có loại vẽ các hình ảnh chứa đựng tín lý của đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo; tranh đề
tài Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Kito giáo; tranh vẽ các thần bản gia
phù hộ cho gia đình; các thần bản mệnh phù hộ cho từng cá nhân.
Tranh trang trí gồm nhóm tranh treo cửa buồng, đề tài “Loan phượng
hòa minh” và nhóm tranh treo trong phòng khách, đề tài phong cảnh, tứ

178
thời, hoa điểu, điển tích, tích truyện Vân Tiên Nguyệt Nga, Phạm Công
Cúc Hoa, Lã Vọng câu cá,….
Tranh kiếng tuy vẫn còn rất phổ biến trong từng ngôi nhà ở Nam bộ
nhưng thời hưng thịnh đã qua. Một nghệ thuật độc đáo của Nam bộ cần
được giữ gìn.
3.4.3.2. Nghệ thuật vẽ Tranh sơn mài:
Sơn mài (laque) là một kỹ thuật trước kia gọi là sơn ta nhưng đã biến
hoá hẳn do nghệ thuật mài sơn.
Trước năm 1931, sơn ta chỉ có công dụng trang trí, cũng như sơn Tàu ở
Tàu và sơn Nhật ở Nhật là phủ lên những vật dùng thường ngày, đồ thờ,
bát đĩa, câu đối, hoành phi, bình phong... cho chúng có vẻ đẹp lộng lẫy.
“Chưa một nước nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một
cách khác cổ truyền, phiêu lưu trong nghệ thuật sơn để tìm một con
đường nào tăng phẩm giá mỹ thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả
năng của nó.
Song, từ 1931 trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của một số họa sĩ có tài,
bỏ sơn dầu để chuyển hẳn về sơn mài, sơn ta đã vượt được ra ngoài nơi
cầm hãm, ngang nhiên trên đường bao la của hội họa, cứ phương trời
xa lạ mà tiến. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt lên bức họa lồng khung
quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẻ đồ vật, nó trở nên một
phương tiện độc đáo diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một phương
tiện lấn át cả sơn dầu. Quên dĩ vãng sơn ta đổi tên nhũn nhặn là sơn
mài" (Tô Ngọc Vân).
Làng sơn mài Tương Bình Hiệp (phường Tương Bình Hiệp, Tp. Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương) được coi là chiếc nôi của ngành sơn mài
mỹ thuật của cả vùng Nam Bộ, khởi thủy từ giữa thế kỷ 18, khi những
người thợ sơn mài từ vùng đất miền Trung trong quá trình di dân đã
mang theo nghề sơn vào xứ Đồng Nai, Gia Định. Ban đầu, làng nghề
mới chỉ có vài gia đình chuyên làm sơn son, thếp vàng và pha chế sơn
then. Về sau, làng nghề Tương Bình Hiệp dần phát triển, thợ sơn mài ở
đây trở nên nổi tiếng khắp vùng Nam kỳ lục tỉnh.
13 3.4.3.3. Nghệ thuật điêu khắc:
Điêu khắc miền Nam ngoài các chủ đề liên quan đến tôn giáo thông
thường, còn có các chủ đề trang trí kinh điển: tứ thời (mai lan cúc trúc),
tứ linh (long lân quy phụng); bát vật (long lân quy phụng ngư phúc hạc
hổ),… Đặc biệt là nhiều loại bông trái, động vật, sản vật địa phương
(sen, sung, sala, dừa, sầu riêng, mãng cầu…, cọp, cá sấu, cua, chuột) thể
hiện một cuộc sống rất gần gũi với thiên nhiên.

179
Điểm đặc biệt khác trong điêu khắc Nam bộ là các vị La hán cưỡi cọp,
cá sấu, ngựa, dê, heo, chó…chứ không phải là các linh thú quen thuộc
theo quy chuẩn Phật Giáo. Ý nghĩa: nếu đốc tâm tu hành thì mọi loại
vật dù tầm thường đều có thể thành chánh quả. Đây là xu hướng đơn
giản hóa tôn giáo và quan niệm “Phật tại tâm”.
Các bức tượng gỗ ở các ngôi đền chùa xưa được tạo từ gỗ cây nguyên
khối, đường nét sắc sảo, chứng tỏ tay nghề cao.
Tượng đất sét là dòng tượng mục đồng thô phác, hồn nhiên và chân thật,
một dòng tượng rất độc đáo của Nam bộ.
Đặc điểm chung của các tượng Phật Nam bộ xưa: khuôn mặt luôn hiền
từ, kể cả tượng Hộ pháp và tượng ông Ác. Phần lớn các pho tượng ở các
đình chùa thôn quê đều có kích thước nhỏ, thuận lợi khi chuyển cư.
Ngày nay nhiều đình chùa Nam bộ làm tượng bằng xi măng, sơn trang
phục màu sắc rực rỡ, giá trị thẩm mỹ không cao nhưng phù hợp với nhu
cầu thẩm mỹ đơn giản của quần chúng bình dân./.

180
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 4 CHÚ
TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
1 Mục tiêu học tập chương:
Thông qua việc tìm hiểu tính cách của chủ nhân nền văn hóa Nam
bộ, các bạn sẽ tìm được câu trả lời cho câu hỏi: Vì sao văn hóa Nam
bộ lại có các đặc điểm như đã học ở các chương trên.
Mô tả vắn tắt về nội dung:
4.1. Tính sông nước
4.2. Tính thoáng mở
4.3. Tính trọng nghĩa
4.4. Tính thiết thực
4.5. Tính bộc trực
4.6. Tính bao dung
2 Văn hóa là sản phẩm của con người, cụ thể là sản phẩm của cách
ứng xử của con người với thiên nhiên, với xã hội.
Bức tranh văn hóa Nam bộ - sản phẩm của con người Nam bộ - đã
được phác họa một cách tổng thể qua 3 bài học vừa qua với nhiều
nét rất riêng, khác với văn hóa các vùng miền khác. Những nét riêng
ấy được hình thành từ nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố là tính cách
của các vị chủ nhân.
Lý thuyết văn hóa Cấu trúc luận đã chứng minh rằng điều chúng ta
nghĩ quyết định cách chúng ta hành động. Vậy, người Nam bộ có
tính cách ra sao? Các tính cách ấy đã quyết định như thế nào đến
diện mạo của văn hóa Nam bộ?
Tính cách của người Nam bộ, điển hình là Tây Nam bộ bắt nguồn
từ các đặc điểm tự nhiên sau đây:
1/ Nam bộ là nơi gặp gỡ của những điều kiện tự nhiên thuận tiện:
mùa hè không quá nóng và ẩm như miền Bắc, không quá khô và
quanh năm không bao giờ bị bão lớn như ở miền Trung.
2/ Nam bộ là nơi gặp gỡ của các tuyến giao thông đường biển quốc
tế: Việt Nam với Đông Nam Á, Việt Nam với thế giới phương Tây,
ngã ba đường Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương.

181
3/ Nam bộ là nơi gặp gỡ của cư dân nhiều tộc người (Việt, Hoa
Chăm, Khmer, các tộc người từ miền núi phía Bắc), đến từ khắp mọi
miền đất nước và từ khắp mọi khu vực.
4/ Văn hóa Nam bộ là khâu cuối cùng trong quá trình phát triển 3
giai đoạn của văn hóa Việt Nam: từ lớp văn hóa bản địa đến lớp văn
hóa giao lưu với Trung Hoa và cuối cùng là lớp văn hóa giao lưu
với phương Tây.
3 4.1. Tính sông nước:
Sông nước ảnh hưởng lớn đến đời sống của người Nam bộ, đặc biệt
là Tây Nam bộ. Thể hiện trước nhất là trong Văn hóa vật chất: Ăn,
Ở, Đi lại và sau đó là Văn hóa tinh thần: tín ngưỡng; nghệ thuật sử
dụng ngôn từ …
Trong văn hóa Ăn: thủy sản là món ăn chính với cơ cấu bữa ăn
cơm- rau- cá - thịt, với 200 loại cá khác nhau và rất nhiều sản phẩm
từ cá và với rất nhiều đặc sản sông nước như ếch, rùa, rắn, lươn…
Trong văn hóa Ở: từ xa xưa, các đô thị đã chủ yếu nằm bên các
dòng sông, con suối; ngày nay, theo khảo sát, 119 đô thị ở Tây Nam
bộ đều nằm ven sông, ven biển. 1 Nhà cửa thì thường được phân bổ
theo hình xương cá; lấy sông làm mặt tiền, tận dụng tối đa vật liệu
từ môi trường sông nước để xây cất (lá dừa nước, cây tràm); và rất
nhiều ngôi nhà là những chiếc thuyền lênh đênh trên sông nước…
Trong văn hóa Đi lại: Ghe/xuồng/đò là phương tiện không thể thiếu
của mỗi gia đình vùng sông nước. Riêng tại Đồng bằng sông Cửu
Long, theo Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển, ở Nam
bộ có 29 loại ghe. Trong các từ điển tiếng Việt, thống kê có khoảng
40 loại ghe. Đây là phương tiện phù hợp nhất với Tây Nam bộ,
vùng đất có mạng lưới và mật độ sông ngòi, kênh rạch dày đặc nhất
cả nước.
Trong nghề nghiệp: hầu hết các công việc đều gắn với sông nước
như nghề trồng lúa nước, nghề làm vườn, đánh bắt hải sản, nuôi vịt,
len trâu, khai thác rừng ngập nước, ngập mặn, nghề làm ruộng dạo,
sản xuất các dụng cụ đánh bắt cá, đương đệm, làm cói,..
Trong sinh hoạt: mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt hàng ngày
đều tuân theo quy luật con nước. Kể cả cưới hỏi, giỗ quảy, cúng
đình cũng ấn định thời gian theo con nước…

1
Số liệu dẫn theo Trần Ngọc Thêm 2018: 655

182
Trong nghệ thuật ngôn từ: người miền Nam có rất nhiều từ chỉ các
khái niệm, sự vật liên quan tới sông nước mà các vùng miền khác
không có (kinh, rach, xẻo, láng…; nước ròng, nước rặc, nước chụp,
nước nổi,…; ghe, xuồng, tam bản, tắc ráng,…); có các thuật ngữ
chuyên sâu trong điều khiển ghe xuồng (lạu, liệc, móc, nạy,…); có
rất nhiều địa danh mang nghĩa sông nước (Vàm Cống, Cồn Phụng,
Giồng Trôm, Cù lao Dung, Bến Tre,…); có các cách nói ví von, ẩn
dụ mượn từ đời sống sông nước (thợ thuyền, nói như tép nhảy, …
khẳm, làm rề rề như lục bình trôi, chìm xuồng, quá giang,…)
Trong nghệ thuật thanh sắc: không thể kể hết những điệu hò, điệu
lý của vùng nhiều nước, nhiều sông và còn được biến tấu trong từng
khu vực nhỏ.

Người dân Nam bộ, nhất là Tây Nam bộ, là những người khai thác,
ứng phó và tận dụng giỏi nhất địa hình nhiều sông nước. Tính sông
nước – hòa hợp cao với thiên nhiên sông nước – là đặc tính tiêu
biểu của người dân nơi đây.

183
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 4 CHÚ
TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
4 4. 2. Tính thoáng, mở:
Thoáng mở là phẩm chất thể hiện thái độ: không bảo thủ và dễ tiếp
nhận, hòa nhập cái mới vào hệ thống của mình.
* Bối cảnh tự nhiên xã hội hình thành tính thoáng mở:
- Nam bộ là nơi có cộng đồng dân cư mang tính tứ xứ cao nhất nước.
- Không gian cư trú mở thoáng, mênh mông theo những dòng sông,
những cánh đồng, không khép kín, bó hẹp như miền Bắc, miền
Trung.
* Biểu hiện của tính thoáng mở:
- Dễ dàng tiếp nhận cái mới: trong ẩm thực, phong tục, tôn giáo tín
ngưỡng, trong kinh doanh.
- Dễ thay đổi, thích nghi: dễ thay đổi chỗ ở, thay đổi cách sống, nghề
nghiệp, thay đổi phong tục, thói quen.
- Dễ châm chước: không coi trọng các hình thức lễ nghi, tiết giảm
các thứ không cần thiết.
- Tiếp nhận nhiều nền văn hóa khác nhau một cách rất êm thắm.
- Vì thoáng, mở nên rất năng động: Cải tiến trang phục bà ba; Âu
hóa y phục sớm nhất nước với veston, sơ mi, thắt cà vạt, giày tây/
giày mõm ngóe; hút thuốc đầu lọc 3 số, uống cà phê điểm tâm; tiếp
thu nhiều món ăn mới,…
- Vì thoáng, mở nên rất sáng tạo: Thời Phù Nam một số tượng Phật
Di Lặc Quan Âm đã được địa phương hóa bằng cách cho mặc xà
rông; sáng tạo phảng phát cỏ, cải tiến cây nọc cấy; đào mương lên
liếp; có nhiều món ăn lạ; …
Những người con ưu tú của đất Nam bộ là những người thể hiện rõ
nhất sự năng động sáng tạo:
Nhà bác học Trương Vĩnh Ký - quê Bến Tre, đi đầu canh tân đất
nước về văn hóa, thông thạo 27 ngoại ngữ, đứng trong số 18 nhà bác
học hàng đầu thế giới thế kỷ 19, có trên 100 tác phẩm văn học, lịch
sử, địa lý, từ điển, dịch thuật.

181
Nhà khoa học Trần Đại Nghĩa - quê Vĩnh Long, canh tân đất nước
lĩnh vực KHKT. Tên thật Phạm Quang Lễ, học ở Pháp, bí mật cách
chế tạo vũ khí, cha đẻ của ngành Công nghiệp quốc phòng VN, có
nhiều công trình sáng tạo trở thành nỗi kinh hoàng đối phương, Viện
sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm KH Liên Xô.
Nhà nông học Lương Định Của - quê Sóc Trăng, người đặt nền
móng cho nền nông nghiệp VN hiện đại.
Giáo sư Võ Tòng Xuân - có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu
cây lúa cho cả nước và góp phần phát triển ngành giáo dục tại ĐB
SCL.
Các “kỹ sư Hai lúa”: Sáu Quý, Mười Chợ; vua cầu treo; Trần Văn
Dũng máy hút bùn; Huỳnh Văn Út, Nguyễn Văn Sang, Chín Nghĩa
máy gặt đập liên hợp; Năm Hiếu mai nở không rụng; Thần đèn Tư
Lũy
- Vì thoáng, mở nên dám nghĩ dám làm:
TK 19: Lê Văn Duyệt, Trương Định, Nguyễn Trung Trực,
Đầu TK 20: Trần Văn Giàu, Nguyễn Thị Thập, Ung Văn Khiêm,
Sau 1975: Võ Văn Kiệt, ông Sáu Hơn An Giang, Chín Cần Long An
Bà Ba Sương - nông trường Sông Hậu.
- Vì thoáng, mở nên dám làm ăn lớn: là nơi đầu tiên tiếp nhận kinh
tế thị trường. Phần lớn các chủ trương công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước đều xuất phát từ Nam bộ.
Nhưng cũng vì thoáng, mở nên người miền Nam có đặc tính vội
vàng, hấp tấp, đại khái, lơ mơ, cảm tính, thiếu cẩn trọng, thiếu
chuyên nghiệp.

182
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 4 CHÚ
TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
5 4.3. Tính trọng nghĩa
Đặc tính này bắt nguồn từ tính trọng tình trong truyền thống văn hóa
VN. Nghĩa là từ gốc Hán, là định liệu sự vật hợp với lẽ phải (Từ
điển Hán Việt của Thiều chửu), là việc theo đường lối phải, đạo
chính, việc nên làm, hào hiệp (Hán Việt từ điển – Đào Duy Anh)
Trong văn hóa tư tưởng Trung Hoa, Nghĩa là một phạm trù của Nho
giáo.
Thời Khổng Tử 5 lần nhắc đến Nghĩa (nhưng không đưa Nghĩa vào
danh sách các đức tính cần có, chỉ có “Nhân Trí Dũng”)
“Người quân tử hiểu rõ về nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu rõ về lợi”,
“Chuyên tâm làm việc nghĩa giúp người,..”,
“Người quân tử không nhất thiết phải thế này mới được, thế kia
không được, mà làm cốt sao cho hợp nghĩa là được”
Thời Mạnh tử mới có Nghĩa “Nhân Nghĩa Lễ Trí”. Người quân tử
khi cần thiết phải biết “xả sinh nhi thủ nghĩa” (bỏ tính mạng mà
chọn làm theo điều nghĩa)
Thời Hán: “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” - Ngũ thường.
Nghĩa dân tộc nào cũng có. Nhật Bản mổ bụng, phương Tây hiệp sĩ
nhưng VN văn hóa nông nghiệp trọng tình, mà trong các phạm trù
đạo đức Nho giáo, Tình gần với Nghĩa nhất.
Vào VN, Nghĩa gắn với Tình, bị tình cảm hóa: Tình nghĩa cha con,
thầy trò, vợ chồng, láng giềng, … Vì vậy, từ “Nghĩa” trong Tiếng
Việt có thêm một tầng ý nghĩa nữa: là “điều được coi là hợp lẽ phải,
làm khuôn phép cho cách xử thế của con người trong xã hội”, là
“quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan điểm đạo
đức nhất định” (Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt)
Vào đến Nam bộ, chất Nghĩa nổi trội. “Người đủ tính trung dung
khí tiết, trọng nghĩa khinh tài” (Trịnh Hoài Đức)
Đất mới khó khăn nên phải tương trợ nhau nhiều hơn, giúp đỡ nhau,
dù có là người lạ cũng giúp nhau để cùng xây dựng cuộc sống mới,
phải bảo vệ nhau. Đó là việc đúng cần làm - trọng nghĩa.

181
Nghĩa với người Nam bộ không phải chỉ là một đức mà là một đạo.
Đạo nghĩa - điệu nghệ (Đạo hạnh – điệu hạnh). Điệu nghệ sinh ra
kiểu người quân tử bình dân ở Nam bộ. Người Nam bộ khen ai “điệu
nghệ” là khen người đó biết cách sống. Ở Nam bộ có nhiều nhân vật
điệu nghệ.
Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 truyện Tàu phổ biến khắp Nam bộ
ảnh hưởng nhiều đến đời sống tinh thần của người dân. Tác phong
ứng xử của Đơn Hùng Tín, Quan công; phong cách hảo hán kiểu
anh hùng Lương Sơn Bạc của Võ Tòng, Tống Giang trở thành khuôn
mẫu ứng xử của người Nam bộ. Trên nhiều bàn thờ người Việt có
thờ Quan Công, chủ yếu là coi trọng chất nghĩa tình của ông.
Vì trọng nghĩa nên người Nam bộ:
- Chí cốt, chung thủy
- Coi nhẹ tiền tài khi đặt trong sự cân nhắc lựa chọn giữa tiền tài với
tình nghĩa
- Coi trọng lẽ công bằng, vì nghĩa quên mình
- Hào hiệp
- Hiếu khách

182
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 4 CHÚ
TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
6 4.4. Tính thiết thực
Thiết thực là rất thực tế trong cách nghĩ, cách ứng xử, hành động.
Những đòi hỏi của cuộc sống mới, môi trường mới cộng với tính
thực dụng mà người Nam bộ học được từ phương Tây đã hình thành
nên tính thiết thực, hay đầu óc thực tế, trong tính cách người Nam
bộ.
Biểu hiện của tính thiết thực:
- Sinh hoạt rất giản dị, từ ăn đến mặc, ở, đi lại.
- Tư tưởng rõ ràng trong chuyện học hành, yêu đương, cưới xin, …
- Làm cho tín ngưỡng và tôn giáo trở nên rất đời.
- Trọng võ hơn trọng văn.
- Nghệ thuật ngôn từ đơn giản.
- Thích mức độ vừa phải trong học hành, ăn mặc, kiếm tiền, trong
thưởng thức nghệ thuật, trong việc chọn vợ chọn chồng,…
Mặt tiêu cực của tính thiết thực là: tâm lý sống tạm bợ và tính thực
dụng.
Vì mọi thứ chỉ cần mức độ vừa phải nên người Nam bộ (nhất là Tây
Nam bộ) có tâm lý sống tạm bợ. Tâm lý này gây nhiều trở ngại cho
sự phát triển của Nam bộ.
Người Nam bộ hiểu rõ uy lực của đồng tiền; Nam bộ (nhất là Đông
Nam bộ) là khu vực mà người dân ham mê sổ xố, chơi số đề, cờ bạc
nhất cả nước.

181
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 4 CHÚ

TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ


7 4.5. Tính bộc trực
Bộc là phơi, phô ra, trực là thẳng, bộc trực là bày tỏ thẳng ra.
Bộc trực là phản ứng bằng lời nói và hành động một cách tức thì, có
phần quyết liệt, theo đúng suy nghĩ của mình, không chịu tác động
nào từ bên ngoài.
Do miền Tây thời tiết và thiên nhiên ưu đãi hơn miền Bắc, miền
Trung nên người miền Nam không cần phải lấy lòng người khác để
tranh thủ sự hỗ trợ của họ, không cần “lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”.
Biểu hiện của tính bộc trực:
- Thẳng thắn
- Phản ứng tức thời, trực tiếp, có phần quyết liệt
Những nhân vật tiêu biểu cho tính bộc trực của người Nam bộ:
Anh hùng Ngô Thất Sơn,
Ông già Ba Tri
Vợ Bùi Hữu Nghĩa
Phan Thanh Giản
Nguyễn Hữu Huân
Sương Nguyệt Anh
Nguyễn Ngọc Tư
Vì bộc trực, thẳng thắn nên người Nam bộ:
- Thật thà, chất phác.
- Dân dã hồn hậu
- Tính độc lập cá nhân cao trong các mối quan hệ
- Rạch ròi mọi việc
- Trọng chữ tín nên cũng bị cả tin
- Thiếu cẩn trọng, kém tế nhị
- Nóng nẩy, cực đoan

181
STT NỘI DUNG GHI
CHƯƠNG 4 CHÚ
TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
8 4. 6. Tính bao dung
Bao dung là dung nạp những gì khác mình, có lòng vị tha để bỏ qua
và châm chước các lỗi lầm của người khác, với cái nhìn thông
thoáng và tấm lòng rộng mở trong mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với xã hội, và con người với thế giới tự nhiên”.
[Trần Ngọc Thêm 2018: 738].
Người Nam bộ bao dung bởi họ đã mang theo mình tính tổng hợp,
tính trọng âm và tính ưa hài hòa của văn hóa người Việt. Cộng với
điều kiện tự nhiên vừa khắc nghiệt vừa giàu có, điều kiện xã hội
cộng cư với rất nhiều tộc người, người Nam bộ có nhiều lý do để
hình thành tính bao dung trong tính cách của mình.
Với đặc tính này, người Nam bộ sẵn lòng:
- Dung nạp sự đa dạng về xã hội, mọi tầng lớp, mọi thân phận, mọi
hoàn cảnh đều có thể trở thành huynh đệ của nhau;
- Dung nạp về sự đa dạng văn hóa, thể hiện trong sự đa dạng về tộc
người, về tôn giáo, về các đối tượng thờ cúng;
- Dung nạp những tính cách trái ngược nhau đẩy mọi cảm xúc
của người Nam bộ đến những thái cực cao nhất, cực vui cực buồn,
cực yêu, cực ghét…
Cũng với đặc tính này, người Nam bộ bao dung với loài vật
(thương con trâu, đỡ đẻ cho cọp, nuôi cọp làm con,…); với con
người thì sẵn sàng bỏ qua lỗi lầm của người khác, ứng xử có trước
có sau, cao thượng, quân tử, không cần thắng thua gì với thiên hạ,…
Vì có đặc tính bao dung, người Nam bộ dân chủ và bình đẳng trong
cách xưng hô, trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình và ngoài xã hội.
Tuy nhiên, bao dung quá mức dẫn đến sự xuề xòa, một đặc điểm mà
ta rất dễ dàng bắt gặp ở người Nam bộ, nhất là người miền Tây.

181
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 5 GHI
TỔNG KẾT VỀ VĂN HÓA NAM BỘ CHÚ
1 Mục tiêu học tập chương
Sau khi học chương này, sinh viên có thể:
- Nhìn lại toàn cảnh bức tranh văn hóa Nam Bộ, từ đó khẳng định
được điều mà chúng ta đã nói trong chương giới thiệu là đúng:
Nam Bộ là một vùng đất rất đặc biệt.
Mô tả vắn tắt nội dung
Chương tổng kết bao gồm các ý chính sau:
5.1. Nam Bộ là vùng đất ngã tư đường của các cư dân và của các
nền văn hóa, văn minh
5.2. Văn hóa Nam Bộ có nhiều điểm khác biệt với Văn hóa Bắc
bộ và Trung bộ
5.3. Văn hóa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ có nhiều điểm khác
nhau
2 5.1. Nam Bộ là vùng đất ngã tư đường của các cư dân và của
các nền văn hóa, văn minh
Là vùng đất cực Nam, hình thành chủ yếu trong giai đoạn tân
kiến tạo qua nhiều biến động địa chất, nhiều đợt biển tiến biển lùi
dữ dội, Nam Bộ đã được tự nhiên ưu đãi cho một vị trí rất thuận
lợi trong việc tiếp nhận nhiều điều mới mẻ từ bốn phương.
- Nam Bộ là một bán đảo lớn hình tam giác với hai mặt giáp
biển (biển Đông và vịnh Thái Lan), nằm vị trí trung tâm của khu
vực Đông Nam Á. Nam Bộ có nhiều thuận lợi trong giao thông,
liên lạc quốc tế về hàng hải vì nằm trên tuyến đường biển quốc
tế quan trọng, nhộn nhịp nhất thế giới, nối liền Thái Bình Dương
với Ấn Độ Dương.
Chỉ ví dụ ở vùng Tây Nam Bộ ta cũng sẽ thấy nếu không có con
sông Cửu Long nối Tây NB với Đông Nam Á lục địa; các cửa sông
Tiền, sông Hậu, cảng Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc nối Tây Nam
Bộ với Đông Nam Á hải đảo, Ấn Độ, Tây Nam Á và thế giới
phương Tây thì diện mạo văn hóa Nam Bộ có lẽ không còn màu
sắc của các nhóm di dân người Hoa, của văn hóa Ấn Độ và Đông
Nam Á.

189
- Nam Bộ có vị trí thuận tiện về đường hàng không vì Đông
Nam Bộ là điểm trung chuyển hàng không từ Bắc xuống Nam, từ
Đông sang Tây.
- Nam Bộ cũng thuận tiện cả đường bộ vì nằm trên đường
xuyên Á nối liền các nước Đông Nam Á lục địa.
- Nam Bộ là phần nhô ra nhiều nhất, làm cầu nối hoặc cửa ngõ
thuận tiện giao lưu, tiếp xúc với các nước trong khu vực và trên thế
giới, kể cả lục địa và hải đảo.
Trong các di chỉ khảo cổ tại Nam Bộ, các nhà nghiên cứu đã
phát hiện nhiều dấu vết của các nền VH thuộc nhiều khu vực khác
nhau trên thế giới; chứng tỏ từ xưa, Nam Bộ đã là vùng đất ngã tư
đường của các cư dân và các nền văn hóa, văn minh.

190
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 5 GHI
TỔNG KẾT VỀ VĂN HÓA NAM BỘ CHÚ
3 5.2. Văn hóa Nam Bộ có nhiều điểm khác biệt với Văn hóa
Bắc Bộ và Trung Bộ
5.2.1. Về điều kiện tự nhiên
Đặc điểm sinh thái của vùng Nam Bộ đặt trong mối quan hệ với
điều kiện tự nhiên của cả nước và khu vực, sẽ bao gồm các đặc
điểm của bản đồ địa lý - vật lý Việt Nam, tương đồng và khác biệt
với các vùng miền khác như sau:
- Đặc điểm 1: Địa hình Việt Nam không rộng, 329.000km2, hẹp
chiều ngang, kéo dài thành dải đất hình chữ S. Toàn bộ Việt Nam
nằm gọn trong vùng nội tuyến, dưới chí tuyến bắc nên khí hậu bao
trùm là nóng, đặc điểm chung là nóng ấm - là bệ đỡ của đời sống
văn hóa. Nam Bộ cũng là vùng nóng ấm và nóng ấm quanh năm,
không có mùa lạnh như miền Trung, miền Bắc. Nam Bộ nằm trong
những vĩ tuyến Bắc rất thấp nên nằm gọn gàng trong vùng đặc
trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và cận xích đạo: nhiệt độ cao,
độ ẩm cao, nắng dồi dào.
- Đặc điểm 2: là mưa và ẩm. Mưa nhiều nên ẩm, quá ẩm nên
lại hay mưa (Quá mù thành mưa). Lượng mưa trung bình hàng năm
là 1,5m-2m. Tuy nhiên, vì phần Bắc Việt Nam nằm gần chí tuyến
Bắc, băng ngang những sa mạc lớn châu Phi, châu Á; miền Nam
lại là nơi chịu ảnh hưởng của những cơn gió mùa châu Á (loại gió
đem mưa nhiều nhất thế giới) nên miền Bắc mưa nhiều nhưng
không có 2 mùa khô và mùa mưa đều đặn hàng năm như miền Nam
(mùa mưa ở Nam Bộ là từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80-90%
lượng mưa cả năm, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4).
Thiên nhiên ưu đãi như vậy, cộng thêm điểm may mắn là ít bị
thiên tai, bão, lũ nên Nam Bộ quanh năm cây trái xanh tươi. “Một
trong những tặng phẩm đáng giá nhất mà thiên nhiên dành cho
miền Nam đất nước ta là khí hậu. Tất cả những ai từ miền Bắc vào
ĐBSCL đều có ấn tượng sâu sắc về sức sống của cây cỏ ở đây”
[Phan Quang 2014: 112].
- Đặc điểm 3: Đất Việt Nam phân bố theo tỷ lệ “Tam sơn, tứ
hải, nhất phần điền”, núi chiếm 3 phần, biển 4 phần, đất chỉ 1
phần. Vì vậy, Việt Nam có 2.000 con sông dài hơn 10km với hàng
trăm cửa sông đổ ra biển đã chia cắt địa hình thành từng dải hẹp,
189
tạo ra chi chít sông lớn, sông nhỏ, kênh rạch, đặc biệt là ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long1. Tổng số kênh rạch tự nhiên ở Nam Bộ
là 2.500 km, kinh mương đào 2.500km; bờ biển dài 600km (từ
Vũng Tàu đến Kiên Giang).
““Văn minh kênh rạch” diễn tả yếu tố “nước” (tự nhiên và
nhân tạo) là đặc trưng của vùng Nam Bộ không đâu có”. (Lê Quốc
Sử )
Ngoài những yếu tố trên, Nam Bộ còn khác với Bắc Bộ và
Trung Bộ ở điểm nó chứa đựng trong mình quá nhiều sự trái
ngược nhau về điều kiện tự nhiên:
“Cây trồng, vật nuôi, đời sống con người luôn tồn tại và phát triển
trong trạng thái tương phản: giữa sông và biển, giữa mùa khô và
mùa mưa, gió mùa Tây Nam và mùa gió chướng, giữa lũ và hạn,
giữa rất thừa và rất thiếu của nước ngọt, giữa đất phù sa với đất
mặn đất phèn…” (Trần Ngọc Thêm)
Có thể nói rằng Nam Bộ, trong đó đặc biệt có Tây Nam Bộ “là một
vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển đặc biệt, con người
đặc biệt, vai trò và sự đóng góp cho sự phát triển của đất nước
cũng rất đặc biệt” (Trần Ngọc Thêm)
4 5.2.2. Về Dân số và Thành phần tộc người
Dân số Nam Bộ 34.085 triệu người, chiếm 36, 77 % dân số cả
nước. Điểm đáng chú ý là, Nam Bộ có TP HCM, là địa phương có
số dân đông nhất Nam Bộ và cũng là tỉnh thành có số dân đông
nhất cả nước (8.297.000 người). (Theo Niên giám Thống kê
2016).
Nam Bộ có số lượng dân số biến động rất mạnh, chủ yếu là
tăng cơ học, không có tỉnh thành nào trong cả nước có kiểu biến
động như vậy.
Ngày xưa, Nam Bộ đất rộng người thưa nên người Nam Bộ
phải mời gọi “Nhà Bè nước chảy chia hai/ Ai về Gia Định Đồng
Nai thì về” hoặc thách thức “Làm trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân
đã trải, Đồng Nai đã từng”. Nhưng từ 3 thế kỷ hình thành vừa
qua, số lượng dân cư đã thay đổi rất nhanh:

1
[Theo Huỳnh Quốc Thắng 2003: 16-22].

190
Năm 1698, cuối thế kỷ XVII, Gia Định có 200.000 người.
Năm 1867, sau hơn 2 thế kỷ, Nam Bộ có hơn 1 triệu người,
tăng 5 lần.
Năm 1989, sau 1 thế kỷ, Nam Bộ có 20 triệu người, tăng 20
lần.
Vì đất lành chim đậu nên cũng không có vùng miền nào lại có
các thành phần tộc người đa dạng như Nam Bộ:
Người Việt: chiếm khoảng 90% dân số toàn miền Nam, phân
bố rộng khắp mọi nơi (tập trung cao nhất là các lưu vực sông Đồng
Nai, sông Tiền, sông Hậu, các đô thị lớn).
Tỉ lệ khoảng 10% dân số còn lại là:
- Người Khmer: 260.640 người, đông nhất là Trà Vinh, Vĩnh
Long, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu…
- Người Hoa: 823.071 người, sống ở khắp các thị tứ Nam Bộ,
nhiều nhất là vùng Chợ Lớn.
- Người Chăm: 145.000 người, chủ yếu ở Bình Thuận, Phú
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh,
An Giang, TPHCM. Tại miền Nam là 26.700 người, ở Nam Bộ,
người Chăm chủ yếu sống ở An Giang, TPHCM, Tây Ninh.
- Người Stiêng: 85.436 người, chủ yếu ở Bình Phước, Đồng
Nai, Tây Ninh.
- Người Chơro: 26.855 người, sống ở Đồng Nai (15.174 người,
chiếm 56, 6%), Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương.
- Người Mnông: 102.741 người, sống nhiều tỉnh thành vùng
Đông Nam Bộ.
- Người Nùng: 968.800 người, sống ở nhiều tỉnh thành vùng
Đông Nam Bộ2.
* Ớ Đông Nam Bộ:
Thế kỷ XVII, ở Đông Nam Bộ (và Nam Tây Nguyên) đã tồn
tại một số nhà nước cổ sơ như Vương quốc Mạ của người Mạ,
Mnông hay Tiểu vương quốc Stiêng, nước Bà Lỵ của người Chơro

2
Theo Số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009

191
ở Bà Rịa. → Tổ tiên người Stiêng, Mnông, Mạ, Chơro là những
cộng đồng dân tộc đầu tiên cư trú vùng Đông Nam Bộ ngày nay.
Một điều rất độc đáo về thành phần dân tộc ở Đông Nam Bộ
là: cả nước có 54 dân tộc, riêng miền Đông Nam Bộ đã có 52 dân
tộc sinh sống! Không như vùng Tây Nguyên chỉ có người Gia Rai,
Ê đê, Bana, hay vùng rừng núi Đông Bắc, Tây Bắc có Hmông,
Dao, Ngái, Sán Chay, sán Dìu…., vùng ĐNB có tổng hợp các dân
tộc đó. Trong đó 50% là di dân tự do. Ngày nay khó tìm được một
thôn, ấp nào ở ĐNB có 1 thành phần dân tộc. Hiện tượng dân cư
đa tộc ngày càng phổ biến.
Ví dụ: Ấp Pa pếch (xã Tân Hưng, huyện Đồng Phú, Bình
Phước) có 9 thành phần tộc người: 3 thành phần tại chỗ là Stiêng,
Chơ ro, Khmer, và 6 thành phần dân tộc từ các tỉnh miền núi phía
Bắc nhập cư là Tày Nùng, Thái, Cao Lan, Sán Chỉ3.
* Ở Tây Nam Bộ:
Thời cổ đại có các cư dân văn hóa Óc Eo, sau đó nhiều thế kỷ
không có người sinh sống. Đến thế kỷ XIII, người Khmer di cư
đến. Đầu thế kỷ XVII là người Việt. Cuối thế kỷ XVII là người
Hoa. Đầu thế kỷ XVIII là người Chăm.
Tuyệt đại đa số các nhóm dân tộc đến định cư, sinh sống tại Nam
Bộ đều là những người nghèo, dựa vào thiên nhiên mà sống nên
dễ dàng thông cảm, hỗ trợ nhau.
5 5.2.3. Về cách thức tổ chức đời sống tập thể:
Do điều kiện tự nhiên khác biệt, miền Nam, đặc biệt là Tây Nam
Bộ, không có những ngôi làng khép kín sau những lũy tre xanh,
tính cộng đồng thôn ấp thấp hơn hẳn vùng Trung Bộ, Bắc Bộ,
không có những quy định, ràng buộc của hương ước, không có tục
nộp cheo…
Và chính vì tính cộng đồng làng xã thấp nên tính cá nhân, mức
độ độc lập của mỗi người cao hơn, tổ chức gia đình, gia tộc ở Nam
Bộ cao hơn so với hai miền kia.
Trong gia đình, vai trò của con gái, con dâu, con rể, mối tương
quan giữa con trưởng con út, bên nội bên ngoại cũng rất khác so

3
[Theo Huỳnh Quốc Thắng 2003: 40]

192
với hai miền Trung, Bắc. Đó là những mối quan hệ dân chủ, bình
đẳng và thân tình.
Về tổ chức đô thị, miền Nam là nơi tiếp xúc với phương Tây
trước tiên nên nơi đây cũng là nơi phát triển công nghiệp và đô thị
mạnh nhất nước, đặc biệt là ở Đông Nam Bộ. Đô thị Sài Gòn khi
xưa không có nơi nào ở Trung Bộ và Bắc Bộ có thể sánh bằng.
Ngay cả ở Tây Nam Bộ, vốn là nơi mạnh về nông nghiệp và nông
thôn nhưng cũng đã từng có những thời kỳ các đô thị Cần Thơ,
Mỹ Tho có vị trí ngang bằng, thậm chí là vượt trội.
6 5.2.4. Về cách thức ứng xử với môi trường xã hội:
Trong việc giao lưu và hội nhập với văn hóa Phật giáo, Nho
giáo, với văn hóa phương Tây, rõ ràng ta đã thấy Nam Bộ có cái
cách hoàn toàn khác biệt. Đó là do hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện
tự nhiên, do tính cách của chủ nhân văn hóa.
Không có vùng miền nào trong cả nước Phật giáo lại phát triển
mạnh và biến hóa như ở Nam Bộ, không có vùng nào có nhiều tôn
giáo mới như Nam Bộ.
Nam Bộ cũng ứng xử với Nho giáo rất khác miền Bắc, miền
Trung. Nho giáo ở Nam Bộ không đậm đặc, không nặng nề, bởi,
khác với Bắc Bộ và Trung Bộ đã ngàn năm tiếp xúc với văn hóa
Trung Hoa và là thủ phủ của các triều đại phong kiến tôn sùng tôn
giáo trong nhiều thế kỷ, Nam Bộ chỉ tiếp xúc gián tiếp, chỉ giao
lưu và ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa từ những người Hoa đã chọn
Nam Bộ làm quê hương.
Với văn hóa Phương Tây, sự cởi mở, nhanh nhạy và sớm thích
nghi với cái mới của những con người đi khai hoang đã giúp người
Nam Bộ tiếp thu văn hóa phương Tây nhanh nhất, sớm nhất so với
các vùng miền khác.
5.2.5. Về tính cách của người Việt ở Nam Bộ:
Người Việt Nam Bộ có 6 đặc tính mà ở người Việt miền Bắc miền
Trung, các đặc tính này không thể đậm màu bằng, thậm chí có
những tính cách mà người miền Bắc miền Trung không hề có,
chẳng hạn như:
Tính tạm bợ, một hệ quả của đặc tính thiết thực
Tính thẳng thắn, thích nói thẳng xuất phát từ đặc tính bộc trực,

193
Dễ châm chước, bỏ qua các lễ nghi bởi đặc tính thoáng mở,…
Chỉ có ở Nam Bộ với hai cực của môi trường sinh thái nên người
Nam Bộ mới có kiểu tính cách: làm thì chết thôi, chơi thì xả láng;
thương thì mút mùa, ghét thì mãn kiếp; khi không ưng thì cạy
miệng cũng không nói, thuận tình thì mở gan ruột cho xem; ăn lạt
thì thiệt là lạt (cua luộc, cá luộc, tôm luộc) hoặc mặn thì thiệt mặn
(mắm nguyên chất)…

194
STT NỘI DUNG CHƯƠNG 5 GHI
TỔNG KẾT VỀ VĂN HÓA NAM BỘ CHÚ

7 5.3. Văn hóa Đông NB và Tây NB có nhiều điểm khác nhau


5.3.1. Về địa lý sinh thái:
Hiện nay, đồng bằng (ĐB) Nam Bộ là ĐB châu thổ lớn của
Đông Nam Á và lớn nhất Việt Nam. 64.368,9 km2, chiếm 19, 43%
diện tích cả nước (Theo Niên giám Thống kê 2016). Đồng bằng
rộng lớn ấy bao gồm 2 tiểu vùng địa lý sinh thái khác nhau,
tương ứng với hai miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ:
- Vùng phù sa cổ miền Đông Nam Bộ 23.552,6 km2 (Đồng
Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tây Ninh,
TPHCM). Đó là vùng núi đồi thấp, địa hình bán sơn địa với các
thềm phù sa cổ - vùng Tây Nguyên. Sông Đa Nhim, Đa Dung hợp
lại thành sông lớn Đồng Nai, tiếp thêm nước sông La Ngà, vượt
qua Trị An gặp Sông Bé, sông Sài Gòn, đổ ra cửa biển Lòng Tàu.
- Vùng phù sa mới miền Tây Nam Bộ-ĐBSCL 40.816,3km2
(Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng
Tháp, TP. Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu,
Cà Mau). Đó là vùng đồng bằng châu thổ phẳng, độ dốc nhỏ, là
sản phẩm bồi tụ của sông Mekong, con sông dài nhất, nhiều nước
và nhiều phù sa nhất Đông Nam Á. Con sông bồi tụ phù sa hàng
năm cho các đồng ruộng (nhịp độ này dạo gần đây đã bất thường),
kéo dài dải rừng Sác mỗi năm lan ra phần chót bản đồ S. Đất thấp
và xốp, thủy triều cao, sông nhiều nước nên quá trình tiêu chảy
của sông trong vùng hạ lưu tạo nhiều chi lưu dày đặc như những
đường gân lá vì vậy mà ĐBSCL đất thường bị cắt vụn, có nhiều
cù lao vì sông nước bao vây (Nhà Bè, Bến Tre).

189
8 5.3.2. Về văn hóa tổ chức đời sống tập thể:
- Tỷ lệ đô thị hóa ở Đông Nam Bộ cao nhất nước, trên 51%, cao
hơn tỷ lệ đô thị hóa trung bình ở Việt Nam 26,2% và cao hơn tỷ lệ
đô thị hóa trung bình toàn thế giới 47%.
- Mặc dù vậy, Đông Nam Bộ gắn với miền Bắc và miền Trung
nhiều hơn cho nên tính cộng đồng làng xã, thôn ấp ở Đông Nam
Bộ cao hơn Tây Nam Bộ.
Vì vậy mà ở Đông Nam Bộ vẫn còn những ngôi làng khép kín,
còn những kiểu nhà truyền thống như miền Bắc miền Trung và
bức tranh lễ hội của Đông Nam Bộ phong phú hơn Tây Nam Bộ:
ở Đông Nam Bộ có lễ hội Bà Đen, lễ hội chùa Bà Thiên Hậu ở
Bình Dương, Lễ Vía Đức Chí Tôn và lễ hội Diêu Trì thánh mẫu
rằm tháng 8 của đạo Cao Đài Tây Ninh, Lễ hội lăng ông Lê Văn
Duyệt ở Gia Định, lễ hội Nghinh ông ở Vũng Tàu Bà Rịa Cần Giờ,
Lễ hội chùa Ông ở Biên Hòa Đồng Nai trong khi ở Tây Nam Bộ
chỉ có lễ hội Bà Chúa Xứ và Nguyễn Trung Trực.
9 5.3.3. Về văn hóa tổ chức đời sống cá nhân:
- Bức tranh tôn giáo tín ngưỡng ở Đông Nam Bộ không phong phú
bằng Tây Nam Bộ. Đông Nam Bộ chỉ có một tôn giáo nội sinh là
đạo Cao Đài. (Phải chăng vì mức độ phát triển ở Đông Nam Bộ
cao hơn, con người tiến gần đến khoa học hơn là gắn bó với ma
thuật, tôn giáo).
- Trong lĩnh vực nghệ thuật, Đông Nam Bộ phát triển hơn Tây
Nam Bộ về nghệ thuật hình khối: hội họa, điêu khắc, gốm sứ, tranh
kiếng, và yếu hơn Tây Nam Bộ và nghệ thuật thanh sắc (hát bội,
cải lương, đờn ca tài tử, hò, lý, nói thơ, hát sắc bùa, múa bóng rỗi).
Đông Nam Bộ dương tính hơn - thiên về biểu hiện vật chất, hữu
hình. Tây Nam Bộ âm tính, thiên về những biểu hiện cảm tính và
vô hình.

10 5.3.4. Về văn hóa tri thức:
Đông Nam Bộ có lực lượng lao động trí thức lành nghề đông
đảo; giá trị kinh tế tạo ra từ nguồn lực chất xám cao hơn vùng Tây
Nam Bộ.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Đông Nam Bộ cao nhất
nước 0,751, vùng Tây Nam Bộ chỉ đứng thứ tư.

190
Nhìn chung người Nam Bộ vốn coi trọng thực tế, vì trong tính
cách có tính thiết thực. Vì quá thiết thực nên người Nam Bộ xem
trọng làm ăn hơn là học hành. Trong học hành thì thích thực học
hơn hư học…
Ngoài lý do tính cách, còn những lý do khách quan khác nữa
khiến nền văn hóa tri thức giữa hai vùng Đông và Tây có nhiều
điểm khác nhau:
Ở Đông Nam Bộ, những tri thức văn hóa truyền thống giữa
người Đông Nam Bộ với người Trung Bộ, nhất là vùng Thuận,
Quảng vẫn có sự tương đồng, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp và ngư nghiệp. Hơn nữa, Đông Nam Bộ còn có Sài Gòn,
đô thị lớn nhất miền Nam nên việc giáo dục có điều kiện để phát
triển.
Còn Tây Nam Bộ là vùng đất biên viễn, điều kiện tự nhiên
không phù hợp với việc sống tập trung nên rất khó để phát triển
giáo dục. Vì vậy, nền văn hóa tri thức của vùng Tây Nam Bộ
không mạnh được như vùng Đông Nam Bộ; và chủ yếu là tri thức
kinh nghiệm trong cách thức ứng xử với môi trường tự nhiên và
xã hội chứ không phải là các tri thức bác học và khoa học của
thời hiện đại như ở Đông Nam Bộ.
11 Chúng ta vừa học xong các nội dung cơ bản của chuyên đề Văn
hóa Nam Bộ. Đây là phần nội dung mà chúng tôi đã chọn lọc, tổng
hợp và hệ thống từ rất nhiều tài liệu khác nhau về Nam Bộ. Tuy
vậy, vì thời lượng có hạn nên tất cả các nội dung này chỉ mang
tính gợi mở. Tự mỗi anh chị cần đọc thêm để đi vào chiều sâu của
mỗi vấn đề.
Chuyên đề hy vọng sẽ gợi ý nhiều ý tưởng, giúp ích cho các anh
chị và các bạn ít nhiều trong công việc và trong sự nghiệp.
Mến chúc các anh chị và các bạn thành công./.

191

You might also like