You are on page 1of 18

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI - TRƯỜNG ĐẠI HỌC

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI : CỤC DIỆN NAM-BẮC TRIỀU VIỆT NAM

Học phần : Lịch sử Việt Nam đại cương


Lớp học phần : HIS1100 1
Giảng viên hướng dẫn : ThS Bùi Thị Bích Ngọc
Tên nhóm : Nhóm 8
Họ và tên thành viên : Vũ Thuỳ Dương - 23030161
Lại Mỹ Trang - 23030210
Nguyễn Thị Giang - 23030162
Tô Quốc Hưng - 21032002
Trần Thị Chi - 23031949
Hoàng Thị Yến Vy - 23032000
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ Nam - Bắc triều, nhà Mạc kiểm soát Thăng Long, được gọi là
Bắc Triều, trong khi nhà Hậu Lê bắt đầu trung hưng và mở rộng vùng lãnh thổ
từ Thanh Hóa về phía Nam, được biết đến là Nam Triều. Bắc Triều và Nam
Triều đối mặt với sự xung đột và cạnh tranh trong thời gian từ năm 1533, khi
Nguyễn Kim lãnh đạo Nam Triều chiếm đóng Tây Giai (Thanh Hóa), đến năm
1593 khi nhà Mạc mất.
Trong suốt thời kỳ này, hai phe phái cạnh tranh với nhau để kiểm soát và
thống nhất đất nước, tạo ra một cục diện phân chia sâu sắc trong lịch sử Việt
Nam. Sự đối đầu giữa Nam và Bắc Triều đã góp phần tạo ra nhiều biến động
trong chính trị và xã hội, ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của nhân dân cũng
như sự phát triển của đất nước.

MỤC LỤC :
I. SỰ SUY YẾU CỦA NHÀ LÊ VÀ TÌNH HÌNH PHÂN CHIA ĐẤT
NƯỚC
II. ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA CẮT 2 MIỀN NAM-BẮC TRIỀU
III. CHIẾN TRANH NAM-BẮC TRIỀU
IV. HẬU QUẢ CỦA CHIẾN TRANH NAM-BẮC TRIỀU
V. KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA CUỘC CHIẾN TRANH NAM-
BẮC TRIỀU
VI. NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
I . SỰ SUY YẾU CỦA NHÀ LÊ VÀ TÌNH HÌNH PHÂN CHIA ĐẤT NƯỚC
Vào đầu thế kỷ XVI, đặc biệt sau sự ra đi của Lê Hiển Tông, xã hội Đại Việt không
còn duy trì được sự thịnh vượng trước đó. Kinh tế đi xuống, người dân sống trong
cảnh khó khăn, và mâu thuẫn giữa các lực lượng phong kiến bắt đầu giai đoạn mới
của chế độ phong kiến tại Việt Nam.

1. Cuộc Khủng Hoảng Chính Trị


Năm 1504, Lê Hiến Tông qua đời sớm do "quá mê mẩn nữ sắc", và Lê Uy Mục đã lơ
là công việc triều chính, thích tiệc tùng và hành hạ người say rượu, thậm chí giết chết
các quan thần và những người trong hoàng tộc không ủng hộ mình. Lê Tương Dực,
người kế nhiệm, cũng sống sa đọa không kém, yêu thích hưởng lạc và khiến dân
chúng phải thực hiện các công trình xây dựng lớn, khiến dân chúng cảm thấy bất bình
và khổ sở. Quý tộc và quan lại lợi dụng tình trạng này để củng cố quyền lực, gây ra sự
bất bình trong dân chúng.
Khi chính quyền trung ương yếu kém, các lực lượng phong kiến ở địa phương trở nên
mạnh mẽ hơn. Sự không hài lòng với Lê Uy Mục dẫn đến việc Nguyễn Vân Lang và
các thành viên khác của dòng họ Lê ở Thanh Hóa nổi dậy, mở đầu cho chuỗi sự kiện
đấu tranh quyền lực và bất ổn. Những cuộc nổi dậy của dân chúng và các tướng lãnh
nhằm giành quyền lực tiếp tục diễn ra, dẫn đến sự suy yếu của dòng họ Lê và chính
quyền của họ.

2. Cuộc đấu tranh của nông dân


Cuộc đấu tranh của nông dân thời Lê sơ chứng kiến nhiều biến động và là một trong
những dấu hiệu của sự suy yếu của nhà Lê. Nền kinh tế nông nghiệp gặp khó khăn
nghiêm trọng do chính sách đất đai phi lý và việc quản lý yếu kém từ triều đình, kết
hợp với thiên tai như hạn hán và đại hạn, đã làm sâu sắc thêm cảnh ngộ khốn đốn của
nhân dân. Tình trạng đói kém và bất công đã thúc đẩy nông dân và các tộc người thiểu
số nổi dậy chống lại sự áp bức và bất công, từ đó tạo nên các phong trào nghĩa quân
liên tiếp nổ ra khắp nơi.
Những cuộc nổi dậy này không chỉ là phản ứng tức thời trước áp bức và bất công mà
còn phản ánh sự bất ổn và mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội đương thời. Các nghĩa quân
như của Thân Duy Nhạc, Ngô Vân Tổng, Trần Tuân, Nguyễn Nghiêm, Phùng
Chương, Trần Công Ninh và đặc biệt là Trần Cảo, đã tạo nên những thách thức lớn
đối với quyền lực trung ương của nhà Lê. Dù cuối cùng các cuộc khởi nghĩa này đều
bị dập tắt, chúng đã làm lộ rõ những vấn đề sâu xa trong xã hội và chính trị thời bấy
giờ, đồng thời góp phần vào cuộc khủng hoảng chính trị rộng lớn hơn, làm lung lay
nền tảng của nhà Lê.
Cuộc đấu tranh của nông dân và các tộc người thiểu số không chỉ là biểu hiện của sự
bất bình và khao khát tự do, công bằng mà còn là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ
chống lại sự bất công và áp bức, thúc đẩy sự thay đổi trong cơ cấu quản lý xã hội và
chính sách đất đai của triều đình thời bấy giờ.

3. Nhà Mạc
Từ năm 1522, thể lực của nhà Lê suy yếu dần . Mạc Đăng Dung, một người xuất thân
từ làng Cổ Trai, đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh bại các cuộc khởi nghĩa
của nông dân và chống lại các thế lực đối địch. Nhờ sự ủng hộ của một số quan tướng
và thái phó Nhân quốc công, ông đã phế bỏ vua Chiêu Tông của nhà Lê và lập ra nhà
Mạc vào năm 1527. Mạc Đăng Dung, từ một người làm nghề đánh cá khi còn nhỏ, đã
được tín nhiệm và thăng chức lên vị trí Thái phó, tước quốc công. Sau khi ổn định
triều chính, ông nhường ngôi cho con trai và tự xưng là Thượng hoàng.
Nhà Mạc, dù đối diện với sự chống đối từ các cựu thần nhà Lê, vẫn cố gắng củng cố
mô hình tổ chức chính quyền từ trung ương đến địa phương. Để tạo ra một lớp người
trung thành và có học thức với nhà Mạc, Mạc Đăng Dung mở khoa thi Hội vào năm
1529. Trong số các quan lại của nhà Mạc, có những người giỏi và yêu nước như
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Lại Mần và nhiều người khác.
Năm 1528, Mạc Đăng Dung cũng đã tăng cường quân số và bảo vệ kinh thành và nhà
vua. Đối với dân làng, ông ra lệnh cấm mang vũ khí khi đi đường, giúp giảm tội phạm
và tạo ra một môi trường an ninh. Tuy nhiên, trong ngoại giao, nhà Mạc phải đối mặt
với thách thức từ nhà Minh. Trong bối cảnh này, ông đã phải đầu hàng nhà Minh vào
năm 1540, khiến nhà Mạc rơi vào tình trạng cô lập.

II, ĐẤT NƯỚC BỊ CHIA CẮT 2 MIỀN NAM-BẮC TRIỀU

1,Hình thành
Từ 1522, thế lực của nhà Lê ngày càng tàn tà . Dựa vào công lao của mình trong việc
đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân và đánh bại các thế lực chống đối, dựa vào
sự ủng hộ của một số quan tướng, thái phó Nhân quốc công Mạc Đăng Dung tự quyền
phế vua Chiêu Tông, lập Lê Xuân( Cung Hoàng ) lên làm vua, sau đó, năm 1527,
nhận thấy sự bất lực của nhà Lê và “ thần dân trong nước đã theo mình”, ông buộc vua
Lê phải nhường ngôi, lập ra nhà Mạc.
Mạc Đăng Dung lợi dụng mâu thuẫn và tranh chấp giữa các đại thần của nhà Lê, Mạc
Đăng Dung đem quân đánh bại dần các thế lực phong kiến mạnh, được vua Lê tín
nhiệm thăng lên chức thái phó, tước quốc công.Tiếp đó, với tước An Hưng vương,
Mạc Đăng Dung đã phế bỏ nhà lê.
Lực lượng ủng hộ nhà Lê vẫn còn tồn tại sau những nỗ lực không thành của Trịnh
Ngung và Trịnh Ngang nhờ sự giúp đỡ của nhà Minh, cũng như sự nổi dậy không
thành công của hoàng thân Lê Ý vào năm 1531. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Kim, với
tước hiệu An Thanh hầu và chức Hữu vệ điện tiền tướng quân, đã không ngừng tổ
chức lại lực lượng để chống lại triều đình Mạc.Vào năm 1529, trước áp lực từ nhà
Mạc, Nguyễn Kim đã phải rời bỏ địa bàn và lẩn trốn tới vùng núi của Thanh Hóa rồi
qua Ai Lao (Lào). Đến năm 1533, ông đã tìm và đưa Lê Ninh, một hậu duệ của nhà
Lê, lên ngôi vua ở đất Sầm Châu (Lào), tức Lê Trang Tông, và được phong làm Thái
sư Hưng quốc công, người chịu trách nhiệm chính về việc quản lý đất nước
Dưới triều đại của Trang Tông, số lượng quân sĩ và tướng lĩnh ngày càng tăng, họ tập
trung quanh Nguyễn Kim nhằm mục đích chống lại sự cai trị của nhà Mạc.
Sau một số nỗ lực tấn công vào Đại Việt không thành công, cuối cùng vào năm 1539,
Nguyễn Kim đã thành công trong việc chiếm giữ huyện Lôi Dương thuộc Thanh Hóa;
và tiếp tục mở rộng chiến thắng sang Nghệ An vào năm tiếp theo. Đến thời điểm đó,
nhà Hậu Lê dần dần khôi phục lại vị thế và sự hiện diện của mình trên bản đồ Đại Việt

2,Tình hình 2 miền Nam-Bắc triều


*Về chính trị , nhà Mạc nắm giữ Bắc triều , cai trị từ thành Thăng Long trở ra . Nhà
Hậu Lê nắm giữ Nam triều , cầm quyền cai trị từ Thanh Hóa trở vào.
*Về kinh tế, Mạc Thái Tổ đã đưa ra một số quy chế về ruộng đất bao gồm: binh điền,
lộc điền, quân điền, dựa trên các quy chế đã có từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông)
hay việc cho đúc tiền Thông Bảo.
Thời kỳ Mạc Thái Tông trị vì có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà
Lê chưa trung hưng, toàn cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị được các sử gia nhà
Lê - triều đại đối địch với nhà Mạc - soạn Đại Việt sử ký toàn thư, phải ghi nhận:
"đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi".
Nhưng từ khi Nguyễn Kim nổi dậy, chiến tranh nổ ra, đất nước bị tàn phá, kinh tế bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Chiến tranh liên miên đã làm cho đời sống của người dân trở
nên đói nghèo hơn. Ví dụ năm 1572, sau khi nhiều phen bị nạn binh đao thì tại Nghệ
An lại phát dịch. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có viết rằng: Các huyện,
đồng ruộng bỏ hoang nhân dân đói khổ. Dịch lệ lại phát sinh, người chết đến quá
nửa. Nhân dân xiêu giạt, hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ An đìu hiu
vắng tanh.
Nhìn tổng thể, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế tiến bộ của thủ
công nghiệp, thương mại và kinh tế hàng hóa; điều đó khác hẳn với chính sách bảo thủ
của nhà Lê. Nhà Mạc cai trị trong 65 năm đã đưa vùng đông bắc giàu mạnh lên, về
ngoại thương đã vươn tới thị trường các nước châu Á. Tuy nhiên, kinh tế vẫn chủ yếu
dựa vào nông nghiệp theo phương thức tiểu nông, tàn dư của phương thức sản xuất Á
Đông cùng chế độ gia trưởng với nền kinh tế manh mún, khiến mầm mống tư bản chủ
nghĩa chớm nảy sinh đã không phát triển được.
Ngoài ra, nhà Mạc cũng có một cách tiếp cận khác biệt đối với thợ thủ công. Họ được
tôn trọng và coi trọng trong xã hội, và do đó, họ có vị trí quan trọng và được ưu ái hơn
so với thời kỳ nhà Hậu Lê. Dù chiến tranh Nam - Bắc triều đang diễn ra, các chợ chạm
khắc đá vẫn hoạt động trên nhiều vùng đất do nhà Mạc quản lý, cho thấy một sự ổn
định và sự phát triển của các nghề thủ công trong thời kỳ này.
Trong lĩnh vực thương mại, nhà Mạc không thực hiện các biện pháp "ức thương" hoặc
"bế quan tỏa cảng" như nhà Hậu Lê. Thương mại ngoại vi của Bắc Triều phát triển
tích cực, với các sản phẩm thủ công nghiệp được xuất khẩu sang các quốc gia châu Á.
Sự mở cửa và thúc đẩy thương mại quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế và xã hội trong triều đại nhà Mạc.
Tổng thể, tư duy kinh tế cởi mở và những biện pháp linh hoạt của nhà Mạc đã
giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội trong thời kỳ này, đồng thời tạo ra một
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp và thương mại.

*Về văn hoá chia làm 2 bộ phận:


● Những tác giả theo nhà Mạc và bộ phận văn học này đóng vai trò chủ đạo[7].
● Những tác giả trung thành với nhà Lê, theo Lê chống Mạc hoặc chán thế sự
và sống ẩn dật.
Có một bộ phận sĩ phu biểu hiện sự trăn trở giữa con đường theo phe nào trong cuộc
nội chiến Lê Mạc, hoặc ẩn dật an nhàn. Những tác giả lớn thời kỳ này có Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Dữ, Dương Văn An. Tác phẩm "Bạch Vân thi tập"
của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tác phẩm chữ Hán quán xuyến từ đầu đến cuối tư
tưởng an nhàn của nhà Nho trước vấn đề thời cuộc[8].
Trong số các tác giả thời kỳ này, vĩ đại nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được coi là
“cây đại thụ thế kỷ 16” ". Ông đã viết hàng ngàn bài thơ và hơn 100 bài thơ còn tồn tại
cho đến ngày nay. Thơ Nôm của ông là cột mốc đánh dấu sự phát triển không ngừng
của tiếng Việt (2). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đa dạng về nội dung, phản ánh nhiều mặt
của đời sống xã hội, phê phán chiến tranh, thói xấu trong cuộc sống.
Thể loại thơ thời Mạc khá phát triển với những chủ đề mới. Đến thời Lê Thánh Tông,
thay vì thể loại tán tỉnh cung đình phổ biến lại có lĩnh vực thơ ca, tách biệt với thế giới
thiên nhiên. Xu hướng này thể hiện qua cảnh quan trù phú Nguyên Hàng, Đại Đồng;
Hoàng Sĩ Khai, Nguyễn Giản Thành…

Thể loại truyện kí Việt Nam ra đời khá muộn; Trước thời nhà Mạc, đã có những tác
phẩm như "Bóng Ma Việt Điền" của Lý Tế Xuyên và " Lĩnh Nam Chính Quái" của
Trần Thế Pháp. Tuy nhiên, thời kỳ này không phải là thời kỳ phát triển sôi động của
thể loại này.Trong giai đoạn này, hai tác phẩm quan trọng là "Ô Châu cận lục" của
Dương Văn An và "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ nổi bật lên. "Truyền kỳ mạn
lục" của Nguyễn Dữ, do Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ biên, cũng gây ra sự chú ý lớn và có
ảnh hưởng đến đời sống văn học hiện đại. Tác phẩm này được khen ngợi về khả năng
viết văn phi thường của tác giả.

Trong giáo dục khoa cử, nhà Mạc cũng như nhà Hậu Lê, vẫn dùng Nho giáo làm tư
tưởng chính thống trong việc thể chế hoá các chính sách cai trị và xây dựng bộ máy
triều đình. Mặc dù chiến tranh xảy ra liên miên, Bắc triều vẫn duy trì việc thi cử đều
đặn 3 năm một lần. Từ năm 1529 thời Mạc Thái Tổ đến năm 1592 thời Mạc Mậu
Hợp, nhà Mạc đã tổ chức 22 khoa thi, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng
nguyên[9]. Thậm chí kỳ thi cuối cùng của nhà Mạc năm 1592 diễn ra bên bờ bắc sông
Hồng trong hoàn cảnh Thăng Long bị quân Nam triều uy hiếp dữ dội.
Trong khi đó, nhà Lê từ khi trung hưng mãi tới năm 1554 mới mở Chế khoa (do các
khoa thi từ năm 1580 về trước có ban học vị như định lệ nhưng chưa thi Đình nên gọi
là Chế khoa). Từ thời Lê Thế Tông, việc thi cử mới bắt đầu đi vào quy củ và tới năm
1580 các kỳ thi Hội mới được khôi phục theo lệ 3 năm một lần. Từ năm 1554 tới năm
1592 nhà Lê chỉ có 7 kỳ thi, lấy đỗ 5 tiến sĩ.

*Về tôn giáo, tín ngưỡng : Không chỉ cởi mở về mặt kinh tế, nhà Mạc có sự cởi mở cả
về mặt tư tưởng. Khác với sự độc tôn Nho giáo của nhà Hậu Lê, nhà Mạc tuy dùng
Nho giáo làm tư tưởng cai trị nhưng không hạn chế Phật giáo và Đạo giáo. Nhiều chùa
được Bắc triều xây cất và tu bổ.
Trong thời Bắc và Nam triều, đạo Thiên chúa đã cố gắng truyền bá tôn giáo của mình
ở Đại Việt nhưng không thành công. Các nhà truyền giáo phương Tây bắt đầu bí mật
liên lạc với Đại Việt để thực hiện công việc truyền giáo vào năm 1533 tại Giao Thủy
(Nam Định) của triều đại phương Bắc và năm 1580 tại Quảng Nam của triều đại
phương Nam. Tới năm 1583 dù được Mạc Mậu Hợp cho phép truyền giáo nhưng công
việc của các giáo sĩ không đạt kết quả do bất đồng ngôn ngữ .
Về cơ bản, vương triều Mạc vẫn giữ nguyên pháp độ của nhà Lê từ hệ tư tưởng đến
cấu trúc của nhà nước, lấy Tống nho làm nền tảng tư tưởng cai trị chính . Tuy xuất
thân từ môi trường nghề chài lưới và buôn bán ở vùng ven biển, nhưng nhà Mạc
không hạn chế các tôn giáo không phải là Nho. Do đó, các tôn giáo và tín ngưỡng bị
hạn chế trong thời kỳ nhà Lê Sơ như đạo Phật và đạo Lão có cơ hội phục hồi và phát
triển trong thời kỳ của nhà Mạc.
Đầu thời kỳ nhà Mạc, Phật giáo không nhận được sự chú trọng đặc biệt; tuy nhiên, từ
sau khi Mạc Thái Tổ qua đời, Phật giáo đã có sự phát triển hơn so với trước đó . Các
quan lại và những người trong hoàng tộc nhà Mạc đã thực hiện nhiều nghi lễ cúng tiến
đất đai cho các nhà chùa, cũng như xây dựng và tu bổ nhiều chùa trong thời kỳ này.
Tín ngưỡng tại làng xã của nhân dân vẫn tiếp tục truyền thống thờ thần Thành hoàng.
Trong các ngôi đình thời nhà Mạc, Thành hoàng được tôn thờ dưới nhiều hình thức
khác nhau, như Tản Viên sơn thánh, thần Cao Sơn, các tướng của Hùng Vương... Từ
thời nhà Mạc trở đi, Thành hoàng trở thành vị vua tinh thần ở các làng xã, và tín
ngưỡng thờ cúng Thành hoàng trở nên phong phú hơn thông qua các lễ hội đình đám
ở mỗi địa phương.
III, Chiến tranh Nam- Bắc triều
1,Khái quát :
Kể từ khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, những xung đột giữa các quan lại đã bùng nổ từ
năm 1530, đặc biệt ở Thanh Hóa khi Lê Ý và nhiều bộ tướng khác nổi lên chống lại
chính quyền nhà Mạc. Cuộc đối đầu giữa hai phe trở nên dữ dội, kéo dài cho đến đầu
năm sau khi Lê Ý bị bắt và thiệt mạng. Tiếp theo, một cựu thần khác là Lê Công Uyên
tiếp tục sự nghiệp của Lê Ý tại Thanh Hóa vào năm 1532, với sự hỗ trợ của An Thành
hầu Nguyễn Kim và việc tuyên bố một người được gọi là Chiếu Tông với tên là Ninh
lên làm vua. Nhiều nhân vật của nhà Lê đã ủng hộ ông này. Điều này dẫn đến việc
hình thành một triều đình mới được gọi là Nam Triều, phân biệt với Bắc Triều của nhà
Mạc.
Trong thời gian này, cuộc chiến giữa Nam Triều và Bắc Triều tiếp tục leo thang. Năm
1851, trong cuộc loạn của Phạm Tử Nghi ở Bắc Triều, Trịnh Kiểm đã sai quân ra tấn
công Thăng Long, sau đó, cho đến năm 1569, quân của Nam Triều liên tiếp tiến công
Bắc Triều nhưng không thể thay đổi được tình hình. Năm 1670, sau khi Trịnh Kiểm
qua đời, anh em Trịnh Cốc và Trịnh Tùng đã đấu nhau và Lê cung giành lại quyền
lực. Nhà Mạc trong thời gian này đã tiến công vào các khu vực Thanh và Nghệ. Trong
hơn 10 năm từ 1570 đến 1583, nhà Mạc đã tiến công 13 lần, biến khu vực từ Thanh
Hóa đến Thuận Hóa thành trận chiến, gây ra nhiều thiệt hại nặng nề.
Vào cuối năm 1583, sau khi thu hồi được lực lượng, Trịnh Tùng quyết định tấn công
Bắc Triều. Trận đánh lớn nhất diễn ra vào năm 1592, khi quân Mạc thất bại lớn, Trịnh
Tùng dẫn quân chiếm Thăng Long và kết thúc cuộc chiến tranh. Cuộc chiến không chỉ
gây ra hàng loạt thương vong, mà còn làm hại môi trường và gây ra hàng loạt tai hại.

2, Một số chiến sự giằng co


Chiến sự 1551
Có lực lượng của Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến, nhà Lê tổ chức tấn công ra bắc. Tháng
6 năm 1551, Trịnh Kiểm làm tổng chỉ huy , sai Lê Bá Ly và Vũ Văn Mật ra quân tấn
công Thăng Long .
Trịnh Kiểm qua đò sông Thao đến An Lạc, cùng Vũ Văn Mật tấn công núi Hy, đánh
thắng Mạc Kính Điển vài trận rồi tiến tới Xuân Canh, Lâm Hạ. Lê Bá Ly, Nguyễn
Khải Khang và Vũ Văn Mật chia 3 đường tiến đánh. Mạc Tuyên Tông bèn chạy đi
Kim Thành, ủy thác cho chú Mạc Kính Điển làm Đồ tổng súy, ở lại cầm quân ở Bồ
Đề bảo vệ kinh đô.
Từ Bồ Đề về phía bắc, Mạc Kính Điển đắp lũy đất, đặt thuyền chiến, quân thủy và
quân bộ xen kẽ nhau, phòng thủ rất nghiêm ngặt. Quân Lê tiến vào dải tây nam gồm
Thường Tín, Ứng Thiên, Quốc Oai và Quảng Oai. Các tướng Lê định rước vua Lê ra
Thăng Long, nhưng Trịnh Kiểm cho rằng lực lượng nhà Mạc còn nhiều nên cùng Lê
Bá Ly rút về Thanh Hóa, Vũ Văn Mật cũng trở về Tuyên Quang.
Quân Lê rút lui, Mạc Kính Điển chia quân đi chiếm lại những vùng bị mất, bộ binh
đóng tại Yên Mô (Ninh Bình), thủy binh đóng ở cửa Thần Phù.
Chiến sự 1555

Sau khi ổn định tình hình, Mạc Kính Điển bắt đầu tổ chức tiến công vào Thanh Hóa.
Tháng 8 năm đó, Mạc Kính Điển sai Thọ quận công đem hơn 100 chiếc thuyền làm
tiên phong, tiến đến cửa biển Thần Phù đóng dinh. Hôm sau, Kính Điển đem quân đến
hội ở sông Đại Lại, sai Thọ quận công đốc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi
Kim Sơn.
Trịnh Kiểm sai Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng
mai phục sẵn ở phía nam sông, còn Trịnh Kiểm đích thân đốc suất đại quân mai phục
ở phía bắc sông, chọn 50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn; sai Phạm Đốc đem thủy
quân cùng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm cứ mạn thượng lưu
từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi.
Trưa hôm sau, thuyền quân Mạc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung. Trịnh Kiểm lệnh
các đạo quân mai phục đổ ra đánh. Quân Mạc thua chạy. Thọ quận công nhảy xuống
sông trốn, bị tướng Lê là Vũ Sư Thước bắt sống và sau đó bị chém. Quân Mạc bị bắt
rất nhiều, quân Lê thu được nhiều khí giới. Mạc Kính Điển rút quân quay về kinh
thành.
Chiến sự 1559-1562

Năm 1558, Trịnh Kiểm mang đại quân lại ra Sơn Nam đánh úp quân Mạc, bắt sống
tướng Mạc là Anh Nhuệ hầu đưa về Yên Trường và chém.
Tháng 9 năm đó, Trịnh Kiểm lại ra quân đánh Sơn Nam chiếm đất rồi để Nguyễn
Khải Khang ở lại trấn thủ để chiêu tập nhân dân. Nhà Mạc sai thổ dân ở Mỹ Lương trá
hàng Khải Khang để dụ, rồi lừa bắt Khải Khang mang về. Mạc Tuyên Tông sai dùng
hình xé xác Khải Khang.
Tháng 9 năm 1559, Trịnh Kiểm để Trịnh Quang, Lê Chủng, Vũ Sư Thước, Lại Thế
Khanh cùng đem tinh binh trấn giữ cửa biển để phòng quân Mạc, còn mình chỉ huy
hơn 6 vạn đại quân đi đánh Mạc. Quân Lê từ Thiên Quan ra Sơn Tây, nhiều người ra
hàng phục.
Khi đến Tuyên Quang, Hưng Hoá thì Vũ Văn Mật đem quân đến hội. Hai bên hợp
binh vượt sông đánh vào Thái Nguyên, Lạng Sơn, Kinh Bắc. Sau một thời gian hai
bên cầm cự, Trịnh Kiểm lên đóng ở núi Tiên Du. Cuối năm 1559 sang đầu năm 1560,
Trịnh Kiểm chia quân đi đánh phá các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, các huyện Siêu
Loại, Văn Giang, Nam Sách, Tiên Hưng đều giành thắng lợi.
Tháng 2 âm lịch năm 1560, Mạc Tuyên Tông sai tướng đem quân giữ thành Thăng
Long. Quân Mạc đóng đồn một dải san sát với nhau từ dọc sông Nhị Hà về phía tây,
trên từ Bạch Hạc, dưới đến Nam Xang, dinh trại thuyền ghe liền nhau liên tiếp, ban
ngày thì phất cờ gióng trống báo nhau cho nhau, ban đêm thì đốt lửa làm hiệu cho
nhau để liều chết chống giữ với quân Lê Trịnh.
Trịnh Kiểm không thể đánh hạ nổi bèn chia quân cho các tướng đi đánh các huyện
phía đông bắc là Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, An Dương, đều lấy được. Mạc
Tuyên Tông phải chạy ra ở huyện Thanh Đàm.
Nam triều đã làm chủ hầu hết đất đai bờ bắc sông Hồng. Tháng 3 năm 1560, Trịnh
Kiểm sai Hoàng Đình Ái đem quân trấn giữ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận trấn giữ Thái
Nguyên, Vũ Văn Mật trấn giữ Tuyên Quang, Đặng Định trấn giữ Hưng Hoá, chiêu tập
dân cư 10 châu An Tây. Sang tháng 4, Trịnh Kiểm lại chia quân đi đánh phá các vùng
Thanh Miện, Gia Phúc, Hồng Châu, Khoái Châu. Các huyện ở Hải Dương của nhà
Mạc chấn động. Quân Mạc cầm cự qua năm sau, quân Lê vẫn không hạ được Thăng
Long và Hải Dương.
Nhân lúc quân chủ lực Nam triều tập trung ngoài bắc, tháng 3 năm 1561, Mạc Kính
Điển tập trung binh thuyền tấn công Thanh Hóa. Quân Lê bại trận, Vũ Sư Thước và
Lại Thế Khanh đều bỏ dinh trại chạy về; Lê Chủng thì quân vỡ, tháo chạy, đem quân
chạy vào Vạn Lại, Yên Trường.
Tháng 9 năm 1561, quân Mạc đánh vào cửa Yên Trường, đến Vạn Lại chuẩn bị chiếm
kho nhà Lê. Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh hợp sức cố đánh, tung quân mai phục đánh
thắng liền mấy trận, chém được hơn trăm thủ cấp quân Mạc. Quân Mạc tan vỡ tháo
chạy. Quân Nam triều thừa thắng đuổi theo. Mạc Kính Điển phải rút quân về Thăng
Long. Cùng lúc đó, Trịnh Kiểm nghe tin Thanh Hóa bị tấn công phải triệt thoái hết
các cánh quân ở Bắc Bộ về. Quân Mạc tuy phải rút nhưng vùng Bắc Bộ của nhà Mạc
và kinh thành Thăng Long được giải vây.
Đầu năm 1562, nhân lúc đại quân Lê đã về căn cứ, Mạc Tuyên Tông sai Nguyễn Phú
Xuân và Giáp Trưng mang quân đánh Lạng Sơn vẫn còn trong tay nhà Lê. Tướng Lê
là Hoàng Đình Ái không chống nổi, phải bỏ thành rút chạy. Lạng Sơn lại về tay nhà
Mạc.
Chiến sự 1570

Từ năm 1566, chiến sự giữa hai bên chỉ có vài trận nhỏ. Trịnh Kiểm tuổi cao sức yếu,
không thực hiện những chiến dịch lớn, còn Mạc Kính Điển cũng tập trung củng cố nội
bộ.
Cuối năm 1569, Trịnh Kiểm ốm nặng, giao lại binh quyền cho con cả là Trịnh Cối.
Tháng 3 năm 1570, Trịnh Kiểm chết, Trịnh Cối lên thay. Con thứ Kiểm là Trịnh Tùng
tranh quyền với Cối. Hai bên dàn quân đánh nhau.
Nhân cơ hội đó, tháng 8 năm 1570, Mạc Kính Điển đem hơn 10 vạn quân, 700 chiếc
thuyền chiến vào đánh Thanh Hóa. Ông chia quân sai em là Mạc Đôn Nhượng cùng
Mạc Đình Khoa và phó tướng là Mậu quận công đem quân giữ cửa biển Thần Phù.
Mạc Kính Điển chia quân làm 6 mũi cùng tiến vào các cửa biển Linh Trường, Chi
Long, Hội Triều, hội quân ở Bút Cương. Đến Hà Trung, quân Mạc đóng dinh ven
sông.
Trịnh Cối bị kẹp giữa quân Mạc và Trịnh Tùng, tự liệu không chống nổi, liền đem các
tướng Lại Thế Mỹ, Vũ Sư Doãn, Trương Quốc Hoa và vợ con đón hàng nhà Mạc.
Mạc Kính Điển tiếp nhận, phong cho Trịnh Cối tước Trung Lương hầu và phong chức
cho các tướng Lê về hàng, rồi sai các hàng tướng dẫn quân bản bộ tiếp tục tiến.
Trong số các tướng dưới quyền Trịnh Cối chỉ có Vũ Sư Thước định bỏ doanh trại vào
cửa quan Yên Trường theo nhà Lê, nhưng quân lính muốn hàng nhà Mạc, không chịu
theo. Sư Thước buộc phải về theo nhà Mạc, được phong tước Thủy quận công.
Vua Lê Anh Tông thấy Trịnh Cối hàng Mạc bèn trao binh quyền cho Trịnh Tùng làm
Tiết chế các dinh thủy bộ. Trước thế mạnh của quân Mạc, Trịnh Tùng chủ trương
phòng thủ chia quân chiếm giữ cửa luỹ các xứ, đào hào đắp luỹ, đặt phục binh giữ nơi
hiểm yếu để phòng.
Ngày 25 tháng 8 âm lịch, Mạc Kính Điển mang quân cùng tiến, dọc sông Mã và sông
Lam. Nhân dân Thanh Hóa bỏ chạy, nhà Mạc mang nhiều người và của cải lấy được ở
Thanh Hóa ra bắc.
Quân Mạc ngày đêm tiến đánh luỹ Yên Trường. Quân Lê thế yếu, chỉ đắp luỹ cao, đào
hào sâu, giữ chỗ hiểm để chờ thời. Tướng Lê là Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ dùng mẹo
sai quân lính ban đêm dựng luỹ tầng ngoài kéo dài đến hơn 10 dặm, lấy nhiều vách
nhà để che chắn, dùng bùn trát bên ngoài, trên thả chông tre, chỉ một đêm mà thành
giả làm xong.
Hôm sau, Mạc Kính Điển trông thấy, cho là thành thật, kinh ngạc không dám đến gần
và đốc suất tướng sĩ ngày đêm đánh gấp. Hai bên giao chiến ác liệt, bên trái sông từ
Da Châu, Tàm Châu, bên phải sông từ đầu nguồn hai huyện Lôi Dương, Nông Cống
đều là chiến trường, quân Mạc lần lượt đánh chiếm. Tướng Nam triều là Hà Khê hầu
đem quân ra giữ luỹ Ai ở huyện Cẩm Thủy đầu hàng nhà Mạc.
Tháng 10 âm lịch năm 1570, hai bên giao chiến ở sông Bảo Lạc, Long Sùng. Quân Lê
dùng chiến thuật ban ngày thì cố thủ, ban đêm thì đánh cướp doanh trại, quấy rối quân
Mạc. Mạc Kính Điển thấy đánh mãi không được, liền lui giữ dinh Hà Trung.
Vũ Sư Thước đã hàng Mạc, lại muốn trở về hàng Lê. Nhờ Sư Thước làm nội ứng,
quân Lê chia ra đánh chiếm lại các huyện Tống Sơn, Đông Sơn, Quảng Xương. Sư
Thước đem 500 quân bản bộ nửa đêm bỏ trốn về hàng Lê. Mạc Kính Điển tiến đánh
không được, lui về giữ dinh sông Bút Cương rồi đến tháng chạp thì rút đại quân về
bắc.
Chiến sự 1572

Từ năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại
như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại
giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam.
Năm 1572, Mạc Kính Điển lại mang quân vào đánh Thanh Hóa và Nghệ An, đồng
thời sai Mạc Lập Bạo mang 70 chiến thuyền vào đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng
dùng kế giết được Mạc Lập Bạo. Từ đó nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm
soát Bắc Bộ.
Quân Mạc lại đánh phá Nghệ An, quân Lê không chống nổi. Thái phó Vi quận công
nhà Lê là Lê Khắc Thận, vượt lũy về hàng nhà Mạc. Trịnh Tùng bèn bắt các con của
Khắc Thận là Tuân, Khoái, Thầm mang giết hết.
Tháng 10 năm 1572, Lại Thế Khanh, Trịnh Mô, Phan Công Tích đem quân đi Nghệ
An. Khi quân Lê đến nơi thì quân Mạc rút lui.
Chiến sự 1573-1574
Nội bộ nhà Lê trung hưng xảy ra mâu thuẫn. Lo sợ Trịnh Tùng thao túng quyền bính,
Lê Anh Tông cùng Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ mưu giết Trịnh Tùng. Âm mưu bị bại lộ;
Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng hại chết. Anh Tông cùng 4 người con lớn trốn ra ngoài, chạy
vào Nghệ An. Trịnh Tùng lập con út của Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi, tức là Lê
Thế Tông. Sau đó Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đi đánh bắt được Lê Anh Tông và
giết chết. Từ đó quyền hành nhà Lê trung hưng hoàn toàn trong tay Trịnh Tùng.
Tháng 8 năm 1573, Mạc Kính Điển lại tiến đánh Thanh Hóa, đánh dinh Yên Trường.
Trịnh Tùng rút vào dinh cố thủ rồi bất ngờ chia quân ra đánh úp. Quân Mạc bị thua
phải rút về.
Tháng 7 năm 1574, Mạc Mậu Hợp lại sai Nguyễn Quyện vào đánh Nghệ An. Từ sông
Cả trở về Bắc lại theo nhà Mạc. Tướng nhà Lê là Hoàng quận công đánh nhau với
Nguyễn Quyện nhiều lần bị thua. Quân Lê nhiều người bỏ trốn, Hoàng quận công bèn
làm vòng sắt khóa chân quân lính vào thuyền. Quân Mạc đuổi đến, họ cũng không
chịu đánh. Hoành quận công bèn bỏ thuyền lên chạy bộ. Đến châu Bố Chính thì
Hoàng quận công bị Nguyễn Quyện bắt sống đem về Thăng Long giết chết.
Trịnh Tùng sai Phan Công Tích và Trịnh Mô đem quân cứu Nghệ An, chống nhau với
Nguyễn Quyện đến vài tháng. Sau một thời gian Nguyễn Quyện đem quân về kinh,
Công Tích cũng thu quân về Thanh Hoa.

Chiến sự 1578-1579

Tháng 8 năm 1578, Mạc Kính Điển đem quân vào lấn các huyện ven sông xứ Thanh
Hoa. Quân Mạc Tiến đến Giang Biểu, Trịnh Tùng sai Trịnh Bách đem quân vượt sông
phục sẵn ở núi Phụng Công, đánh nhau to với quân Mạc ở cầu Phụng Công. Quân Lê
tập trung súng bắn vào, quân Mạc chết rất nhiều. Mạc Kính Điển liền rút quân về
Thăng Long.
Tháng 11 năm đó, Mạc Ngọc Liễn được lệnh đem quân đánh chúa Bầu các châu
huyện ở Tuyên Quang và Hưng Hoá, đến châu Thu và châu Vật. Chúa Bầu Vũ Công
Kỷ tung quân đánh, quân Mạc thất bại rút về.
Tháng 8 năm 1579, Mạc Kính Điển lại đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp phá
vùng ven sông, đến sông Tống Sơn, phủ Hà Trung, đánh vào xã Chương Các. Trịnh
Tùng sai Đặng Huấn đốc quân chống quân Mạc ở Thái Đường và Trịnh Văn Hải làm
tiên phong đánh vào núi Kim Âu. Đặng Huấn thúc quân tiến ngầm đến địa phương
Tống Sơn, ra Mục Sơn ở sông Bình Hoà, chặn phía sau quân Mạc. Quân Mạc thua to
phải rút về.
Đây là lần nam tiến cuối cùng của Mạc Kính Điển.

Chiến sự 1580-1583

Tháng 8 năm 1580, Mạc Mậu Hợp sai Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn cùng Hoàng
quận công Mạc Đăng Lượng đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp lấy tiền của, súc
vật các huyện dọc sông rồi rút về.
Tháng 11 năm đó, Mạc Kính Điển qua đời. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi
nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. Quyền phụ chính giao cho em út
Kính Điển là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng.
Mùa thu năm 1581, Mạc Mậu Hợp sai Mạc Đôn Nhượng đi đánh các huyện ven sông
ở Thanh Hóa. Đôn Nhượng đem quân vượt biển vào đến huyện Quảng Xương, đóng
quân ở núi Đường Nang.
Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái thống lĩnh các tướng tiến quân chống giữ. Đình Ái
chia thành ba đạo, cùng Nguyễn Hữu Liêu, Trịnh Bính, Hà Thọ Lộc làm tả đội chống
quân Nguyễn Quyện, còn Trịnh Văn Hải chống quân Mạc Ngọc Liễn.
Hai bên đánh nhau to. Quân Lê chém hơn 600 quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là
Nguyễn Công và Phù Bang hầu. Quân Mạc đại bại, tan vỡ tháo chạy. Mạc Đôn
Nhượng và tướng sĩ thu nhặt tàn quân về Thăng Long.
Tháng 8 năm 1583, quân Mạc lại vào đánh Thanh Hóa, cướp phá các huyện ven sông.
Trịnh Tùng sai quân đánh lớn ở ngoài cửa biển, quân Mạc rút chạy về.
Đây là lần nam tiến cuối cùng của Bắc triều.
Nam triều thắng thế
Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không
chú trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển qua đời, việc trong ngoài đều trông
chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng các tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn. Uy thế
quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.

Chiến sự 1592-1593
Chiến trận giáp Tết

Tháng chạp năm Tân Mão (đầu năm dương lịch 1592), Trịnh Tùng khởi đại quân ra
bắc. Quân chia làm 5 đạo:
1. Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh đem 1 vạn quân tinh nhuệ làm tiên
phong
2. Hoàng Đình Ái, Trịnh Đồng và voi ngựa cùng 1 vạn quân
3. Trịnh Đỗ và 1 vạn giáp binh, voi, ngựa
4. Trịnh Tùng đích thân đốc suất 2 vạn quân
5. Hà Thọ Lộc và Ngô Cảnh Hựu cùng đốc suất quân chở lương làm hậu
quân.
Ngoài ra, Trịnh Tùng sai Trịnh Văn Hải, Nguyễn Thất Lý đem quân thủy, bộ đi trấn
giữ những nơi hiểm yếu ở các cửa biển, Lê Hoà kiêm coi võ sĩ trong ngoài bốn vệ bảo
vệ vua Lê Thế Tông. Quân Nam triều từ Tây Đô đi ra theo đường tây bắc của huyện
Thạch Thành, qua phủ Thiên quan, đi gấp hơn 10 ngày, đến núi Mã Yên thuộc huyện
Quốc Oai thì đóng quân lại.
Quân Nam triều khí thế mạnh mẽ, trong 10 ngày tiến thẳng đến các huyện Yên Sơn,
Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong.
Ngày 21 tháng chạp, Mạc Mậu Hợp cử hết đại binh, tất cả hơn 10 vạn người, chia ra
các đạo:
1. Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo đi bên phải
2. Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo đi bên trái
3. Ngạn quận công, Thủy quận công chỉ huy binh mã Đông đạo
4. Đương quận công, Xuyên quận công chỉ huy binh mã Bắc đạo
5. Khuông quận công, Tân quận công chỉ huy binh mã 4 vệ đi tiên phong.
Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh. Ngày 27 tháng chạp, quân
Mạc chia đường cùng tiến. Đến địa phận xã Phấn Thượng, hai bên đối trận với nhau,
dàn bày binh mã. Mạc Mậu Hợp đích thân đốc chiến.
Quân hai bên đón đánh nhau giáp lá cà suốt từ sáng sớm giờ Mão đến giờ Tỵ gần trưa,
quân Nam triều chém được Khuông Định công và Tân quận công của Bắc triều tại
trận. Quân Mạc không địch nổi, tan vỡ bỏ chạy. Quân Nam triều đuổi đến Giang Cao,
chém được hơn 1 vạn quân Mạc, cướp được rất nhiều khí giới và ngựa. Mạc Mậu Hợp
xuống thuyền vượt sông bỏ chạy về Thăng Long.
Ngày 30 tết âm lịch, Trịnh Tùng tiến quân đến chợ Hoàng Xá, hạ lệnh cho quân các
dinh vượt sông Cù phá huỷ hào luỹ của quân Mạc, san thành đất bằng. Trịnh Tùng sai
Nguyễn Hữu Liêu đem 5000 quân tinh nhuệ và voi tiến đến đóng ở cầu Cao tại góc
tây bắc thành Thăng Long, thiêu đốt nhà cửa. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn.
Chiến trận sau Tết

Ngày mồng 5 tết, Trịnh Tùng đốc quân vượt sông, Mạc Mậu Hợp vượt sông Nhị Hà
đến bến Bồ Đề, ở tại Thổ Khối, để lại các đại tướng chia giữ các cửa trong thành.
Ngày mồng 6 tết, Trịnh Tùng đốc quân qua sông Tô Lịch đến cầu Nhân Mục, đóng
quân ở núi Xạ Đôi dàn binh bố trận.
Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía
tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa
Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, ngày đêm đóng cửa cố thủ
trong thành Đại La; Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu
quân các đạo. Mạc Mậu Hợp tự đốc suất thủy quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ
sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền
để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phòng bị.
Trịnh Tùng ra lệnh tiến đánh. Hai bên giao chiến từ sáng giờ Tỵ đến giờ Mùi (qua
trưa) chưa phân thắng bại. Sau đó Văn Khuê, Bách Niên tự liệu sức không chống nổi,
quân tự tan vỡ tháo chạy. Mạc Ngọc Liễn thấy các cánh quân bị thua cũng bỏ chạy
theo. Quân Nam triều đuổi tràn đến tận sông, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa
trong thành.
Sau đó Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cầu Dền. Quân Mạc tan
vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp nổi dậy, bị chết hết ở ngoài cửa Cầu
Dền. Nguyễn Quyện cùng kế, định chạy trốn, nhưng không còn đường nào, trong
ngoài đều bị vây và cửa luỹ lại bị lấp. Các con Nguyễn Quyện là Bảo Trung, Nghĩa
Trạch và thủ hạ cố sức đánh, đều bị tử trận. Nguyễn Quyện kiệt sức chạy về bản dinh,
bị quân Nam triều bắt sống.
Tổng số quân Mạc bị chết vài ngàn người, tướng Mạc bị chết đến mấy chục viên. Mạc
Mậu Hợp thu nhặt tàn quân giữ sông Cái để cố thủ. Trịnh Tùng đem quân đến bờ
sông, dừng lại đóng doanh trại.
Nguyễn Quyện bị bắt, trá hàng Trịnh Tùng, xui Tùng điều quân đi phá lũy đất mà
quân Bắc triều đã đắp thành Đại La năm trước để làm kế hoãn binh, kéo dài thời gian
cho vua Mạc chuẩn bị lực lượng phòng thủ bên kia sông. Trịnh Tùng làm theo, ngày
rằm tháng giêng sai quân Nam triều san luỹ đất, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào
rãnh.
Tháng 3 âm lịch năm 1592, Trịnh Tùng tiến quân đến huyện Chương Đức, chia quân
đi đánh các huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên, tự mình đốc quân đánh dẹp
các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, Phúc Lộc, Tiên Phong, Ma Nghĩa, Yên Sơn, Thạch
Thất.
Chiến trận tháng 10

Có sông Hồng ngăn trở, quân Nam triều chưa qua sông được. Mạc Mậu Hợp lại
không lo phòng giữ, sa vào tửu sắc. Vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên có
chị ruột là hoàng hậu của Mậu Hợp, thường ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị
Niên đẹp, liền ngầm mưu vụ giết Văn Khuê để cướp lấy vợ.
Bùi Văn Khuê biết chuyện, tháng 10 năm đó liền sai con là Bùi Văn Nguyên chạy đến
xin hàng Lê. Trịnh Tùng nghe sai Hoàng Đình Ái đi trước cứu Văn Khuê. Mạc Mậu
Hợp biết Văn Khuê đã đầu hàng, lại có quân đến cứu, liền lui về giữ sông Thiên Phái.
Ngày 28 tháng 10, Trịnh Tùng mang quân ra phủ Trường Yên. Mạc Mậu Hợp sai
Nghĩa quốc công ra đóng quân ở sông Thiên Phái, đắp lũy đất ở bờ sông chống cự, thả
chông tre hai bên bờ sông. Trịnh Tùng sai Bùi Văn Khuê ngầm kéo theo thuyền ra cửa
sông để đánh ở thượng lưu, sai bắn súng ở ven sông để đánh ở hạ lưu; sai voi ngựa,
quân lính qua sông đánh mạnh vào trung lưu để thu lấy thuyền quân Mạc trên sông.
Nghĩa quốc công trở tay không kịp, bỏ thuyền chạy trốn, quân lính tan vỡ tháo chạy.
Quân Nam triều thu được 70 chiếc thuyền. Nghĩa quốc công thu nhặt tàn quân trở về
Thăng Long. Tướng Mạc là Trần Bách Niên đem quân tới hàng Lê.

Đoạn kết của Bắc triều

Ngày 14 tháng 11, quân Nam triều ra cửa sông Hát tiến theo cả hai đường thủy, bộ.
Tướng Mạc là Mạc Ngọc Liễn dàn thuyền để chống cự, cắm cọc gỗ ở cửa sông Hát,
đắp lũy đất trên bờ sông làm thế hiểm vững. Quân Nam triều tiến đánh phá tan, Ngọc
Liễn cùng quân lính bỏ thuyền lên bộ chạy đến chân núi Tam Đảo. Quân Nam triều
đuổi đến tận cửa Nam thành Thăng Long, đóng quân ở bến Sa Thảo.
Đêm 14 tháng 11, Mạc Mậu Hợp cùng tông tộc trốn chạy về huyện Kim Thành, trấn
Hải Dương. Các tướng Mạc nhiều người đến hàng Nam triều.
Ngày 25 tháng 11, Trịnh Tùng tiến quân đến Hải Dương. Mạc Mậu Hợp bỏ thành
chạy trốn, các cánh quân không tiếp ứng được nhau, bỏ hết thuyền bè chạy trốn.
Mạc Mậu Hợp lập con là Mạc Toàn làm vua, tự mình làm tướng đốc quân.
Tháng chạp năm Nhâm Thìn (đầu năm 1593 dương lịch), Trịnh Tùng chia quân phá
được tông thất nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ ở xã Tân Mỹ, huyện Thanh Hà (Hải Dương).
Các cánh quân Mạc bị thua lớn, tan rã. Mạc Mậu Hợp bỏ thuyền đi bộ, đến một ngôi
chùa ở huyện Phượng Nhãn ẩn nấp, giả làm sư. Được 11 ngày, quân Nam triều truy
kích đến nơi, có người trong thôn dẫn đường đưa vào chùa bắt được Mạc Mậu Hợp.
Mậu Hợp bị đưa về dinh quân Trịnh Tùng, hành hình ở bến Bồ Đề.
Không lâu sau Vũ An Đế Mạc Toàn cũng bị quân Nam triều bắt và giết chết. Kể từ đó
Bắc triều chấm dứt.

IV, Hậu quả của chiến tranh Nam-Bắc triều


Các nhà nghiên cứu tổng kết: trong 60 năm chiến tranh (1533–1592) giữa Lê và Mạc
đã diễn ra 38 trận lớn nhỏ, cả hai bên đều huy động gần hết các lực lượng lao động
chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng những nhân tài, vật lực trong tay. Sau mỗi trận
đánh, lực lượng mới lại được huy động để bù đắp cho lực lượng tổn thất trên chiến
trường.
Chiến tranh kéo dài 60 năm đã gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, đặc
biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự quản lý lỏng lẻo của triều đình trong bối cảnh
chiến sự đã khiến diện tích đất công cộng ngày càng bị thu hẹp, và một lượng đáng kể
đất đai đã chuyển sang tay các chủ sở hữu tư nhân. Ở phía Nam, nền sản xuất nông
nghiệp của Nam Triều thường phải đối mặt với nhiều thảm họa thiên tai liên miên.
Chính quyền Lê-Trịnh mới chỉ có thể tạm thời áp dụng các biện pháp tình thế để
khuyến khích sự hồi phục của nghề nông, với mục tiêu phục vụ cho chiến tranh,
nhưng chưa có điều kiện thực hiện những chính sách quy mô lớn nhằm thúc đẩy phát
triển nông nghiệp một cách bền vững và lâu dài.

Nạn đói, dịch bệnh: Do chiến tranh và thiên tai, nhiều người chết vì đói và dịch bệnh.
Nạn bóc lột, áp bức của cường hào ác bá ngày càng tăng. Dân số suy giảm: Do chiến
tranh, dịch bệnh và đói kém, dân số Việt Nam giảm sút đáng kể. Thuế nặng đối với
nhân dân

Hệ thống giáo dục bị ảnh hưởng nghiêm trọng . Nhiều trường học bị phá hủy, ảnh
hưởng nặng nề đến sự phát triển của các thế hệ sau Đời sống văn hoá nhân dân cũng
bị ảnh hưởng một phần không hề nhỏ

Cuộc chiến đã tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân lao động. Sản xuất bị đình trệ,
ảnh hưởng đến đời sống kinh tế toàn quốc. Không những nông dân, những người thợ
thủ công cũng chịu mức thuế khóa nặng nề để cung ứng cho cuộc chiến.

Tại các khu vực chiến trận tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu
cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang. Dân gian còn lưu lại những câu ca dao nói về
sự khổ cực của nhân dân trong việc lao dịch, quân ngũ vì chiến sự ở Cao Bằng:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng

V, Kết quả và ý nghĩa của cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều
1, Kết quả
Cuộc chiến tranh Nam Bắc triều kéo dài suốt 60 năm, gây ra nhiều hậu quả nặng nề
cho đất nước. Năm 1592, quân đội nhà Lê do Nguyễn Hoàng chỉ huy đánh bại quân
Mạc, tiến vào Thăng Long. Vua Mạc Mậu Hợp chạy trốn, nhà Mạc sụp đổ. Kết thúc
cục diện Nam Bắc triều.
2, Ý nghĩa

Cục diện Nam Bắc triều là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của đất nước và định hình nên bức tranh chính trị, xã hội, văn hoá của Việt
Nam trong thời kỳ đó. Cuộc chiến tranh Nam Bắc triều đã gây ra nhiều hậu quả nặng
nề cho đất nước, nhưng cũng thể hiện tinh thần quật cường, ý chí thống nhất đất nước
của dân tộc Việt Nam.

VI, Nguồn tài liệu tham khảo

1. https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/14851/lat-lai-chien-tranh-nam-
bac-trieu.html
2. Đại cương lịch sử Việt Nam. Trương Hữu Quýnh. Nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam.
3. Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội
4. Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội
5. Chiến tranh Lê–Mạc - Wikipedia tiếng Việt Wikipedia
https://vi.wikipedia.org › wiki › Chiến_tranh_Lê–Mạc

You might also like