You are on page 1of 48

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP 119-QTL45A


MÔN: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

NHÓM 1

ĐỀ TÀI: SỰ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NHỮNG NGƯỜI


YẾU THẾ TRONG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC

Giảng viên: ThS. Lê Thị Thu Thảo


DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT Họ và tên MSSV Ghi chú


1 Nguyễn Hoài An 2053401020001
2 Lê Thị Ngọc Anh 2053401020006
3 Nguyễn Quỳnh Anh 2053401020010
4 Nguyễn Thị Tú Anh 2053401020013
5 Trần Thị Ngọc Bích 2053401020020
6 Nguyễn Huỳnh Bảo Châu 2053401020023
7 Lý Thái Thu Ngân 2053401020133 Nhóm trưởng
8 Hồng Thục Nghi 2053401020138
9 Đỗ Bảo Ngọc 2053401020142
10 Trương Thị Khánh Vy 2053401020277
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG .............................................................................................................. 2
I. Giới thiệu tổng quan về Bộ luật Hồng Đức........................................................... 2
1. Diễn biến xã hội thời Lê sơ ................................................................................ 2
2. Khái quát hoạt động xây dựng pháp luật thời Lê Sơ ......................................... 9
3. Quá trình xây dựng và ban hành Bộ luật Hồng Đức........................................ 12
4. Nhận xét về Bộ luật Hồng Đức ........................................................................ 13
II. Bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế trong các quy định của Bộ luật Hồng
Đức ............................................................................................................................. 14
1. Nhóm yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức ........................................................... 14
2. Tư tưởng và sự thể hiện các tư tưởng về bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu
thế trong Bộ luật Hồng Đức.................................................................................... 16
3. Những quy định về bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật
Hồng Đức ................................................................................................................ 19
4. Nhận xét những quy định bảo vệ nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức
................................................................................................................................ 41
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 44
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc phát triển văn minh nhân loại, việc bảo vệ quyền lợi của những
người yếu thế luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng, là thước đo tinh thần xã hội vượt
bậc. Để bảo vệ tốt nhất những quyền lợi của nhóm yếu thế, công cụ hữu hiệu mà một
quốc gia có thể thực hiện đó là thông qua những quy định pháp luật, nơi mà sự công
bằng và bình đẳng phải được đảm bảo cho mọi công dân. Các quy định về nhóm yếu thế
và bảo vệ nhóm này đã có từ thời phong kiến Việt Nam, cụ thể tại Bộ luật Hồng Đức
(hay còn gọi là Lê Triều hình luật, Quốc triều hình luật). Thông qua đề tài “Sự bảo vệ
quyền lợi của những người yếu thế trong các quy định của Bộ luật Hồng Đức”, đây
là cơ sở để hiểu rõ hơn về những chế định bảo vệ quyền lợi của nhóm yếu thế này.
Bộ luật Hồng Đức không chỉ là một tài liệu lịch sử quan trọng mà còn là biểu tượng
của sự thay đổi và tiến bộ trong pháp luật Việt Nam thời bấy giờ. Khi xem xét những
quy định về nhóm yếu thế và việc bảo vệ nhóm yếu thế trong Quốc triều hình luật, nhóm
thực hiện đề tài mong muốn truyền đạt những kiến thức mình biết và có được thông qua
quá trình học tập, nghiên cứu, tìm kiếm để cố gắng làm rõ đề tài này trong khả năng của
mình.

1
B. NỘI DUNG
I. Giới thiệu tổng quan về Bộ luật Hồng Đức:
1. Diễn biến xã hội thời Lê sơ:
Dưới ách đô hộ của nhà Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt đã
bùng nổ. Trong đó, lớn mạnh nhất là khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Sau 10
năm gian khổ (1418 - 1428), khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng đất nước.
Mở ra một triều đại mới - triều Hậu Lê với hai giai đoạn phát triển là thời Lê sơ và Lê
trung hưng (Lê mạt). Thời Lê sơ trải qua 10 đời vua, khởi đầu là vua Lê Thái Tổ (1428
- 1433) đến đời vua Lê Cung Hoàng (1522 - 1527). Như vậy, thời Lê sơ kéo dài 100
năm, là thời kỳ các vua Lê nắm được trọn vẹn quyền hành đồng thời cũng là thời kỳ
hoàng kim, phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam.
1.1 Về tình hình chính trị - xã hội:
Sự phát triển của thời Lê sơ có thể chia thành hai giai đoạn:
❖ Giai đoạn thứ nhất (1428 - 1459):
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua đánh dấu việc chấm dứt giai đoạn chiến tranh và
chuyển sang thời kì hòa bình lâu dài của dân tộc. Kinh nghiệm, tri thức thời kì chiến
tranh rất lớn nhưng cũng chưa thực sự đủ để đưa đất nước vào con đường thái bình,
thịnh trị. Thực tế cho thấy các tướng lĩnh của thời kỳ Lam Sơn tụ nghĩa là những võ
tướng anh dũng trên chiến trường và sau khi chiến tranh kết thúc, hầu hết những người
này đều tham gia vào bộ máy chính quyền các cấp. Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn
được hình thành từ trong quá trình tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, vừa kháng
chiến vừa xây dựng chính quyền, quản lý các vùng giải phóng, đã từng bước vươn lên
đảm nhiệm chức năng của Nhà nước độc lập, tự chủ. Đó là đội ngũ dạn dày kinh nghiệm
chiến tranh, quen thử thách ác liệt của trận mạc, đã hiến dâng tuổi xuân, sức lực và tiền
của của bản thân họ cho kháng chiến cứu nước. So với các Nhà nước tự chủ trước đó,
khó có triều đình nào lại có đội ngũ công thần khai quốc nhiều chiến công, chiến tích
và đông đảo như triều Lê sơ. Ngay từ thời vua Lê Thái Tổ, tình trạng quan lại cậy thế
công thần để kết bè kéo đảng để trục lợi riêng và lấn át nhà vua đã là hiện tượng phổ
biến. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu vua Lê Thái Tổ với uy tín của vị lãnh tụ kháng chiến
vẫn khống chế được đội ngũ công thần và điều hành tốt công việc triều chính. Nhưng
ngay sau đó chính nhà vua cũng mắc phải nhiều sai lầm khiến các mâu thuẫn cung đình
ngày càng căng thẳng, đồng thời gây ra sự bất bình lớn từ phía dân chúng. Hành vi giết

2
hại một số công thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo và hạ gục cả Nguyễn Trãi
đã đẩy nhà vua đến chỗ phải đối diện với sự bất hợp tác của quần thần cũng như quần
chúng. Những nhân tố tiêu cực trên đây cứ âm ỉ cháy trong cung đình nhà Lê và đến khi
Thái Tổ từ trần nó có dịp bộc phát gây nên nhiều sóng gió cho các triều vua kế tiếp
khiến cho triều đình Lê sơ nhiều phen chao đảo.
Triều vua Lê Thái Tông (1433-1442) bắt đầu khi ông mới lên 10 tuổi. Các quan
đại thần là Tư đồ Lê Sát, Tư khấu Lê Ngân, Đô đốc Phạm Văn Vấn làm phụ chính. Đây
là những tướng soái tài ba của quân đội Lam Sơn, đã từng có công lớn trong sự nghiệp
bình Ngô nhưng họ chỉ là những võ quan có tài trận mạc mà không phải là những người
có tài văn trị nên tỏ ra lúng túng trong cách điều hành đất nước thời hòa bình. Hơn nữa,
xuất phát từ quyền lợi vị kỷ của cá nhân, họ thường tỏ ra đa nghi, ghen ghét, kết vây
cánh, thao túng triều chính và cô lập những người có tài năng. Họ đã giết Nguyễn Trãi,
Lưu Nhân Chú, truất quyền Trịnh Khả, ép vua Thái Tông bãi chức Bùi Ư Đài... là những
người không thuộc phe cánh và có quan điểm canh tân đất nước gây nguy hại đến đặc
quyền, đặc lợi của họ. Khoảng 15 tuổi, Thái Tông bắt đầu nắm giữ triều chính, trực tiếp
điều hành công việc của đất nước. Vua lập Hoàng tử Nghi Dân làm thái tử, nhưng lại
phế (1441) để lập Hoàng tử Bang Cơ mới sinh là con của Thần phi Nguyễn Thị Anh.
Việc phế lập này đã tạo cơ hội cho bọn quyền thần có mưu đồ riêng ngấm ngầm gây
dựng thế lực bất chính nhằm gây hoạ cho triều đình nhà Lê sơ về sau.
Vua Lê Nhân Tông (1443-1459) nắm quyền điều hành chính sự khi lên 12 tuổi,
đang cùng với các triều thần ra sức chấn chỉnh kỷ cương và chăm lo phát triển kinh tế,
văn hoá thì cuối năm 1459 lại xảy ra vụ chính biến do Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân
cầm đầu. Cuộc chính biến cung đình này đã gây ra tâm lý hoang mang cho toàn thể
quần thần cũng như dân chúng. Tuy nhiên, triều đại của Nghi Dân chỉ tồn tại 8 tháng.
Đến tháng 6 năm Canh Thân 1460, nhóm đại thần khai quốc đã xướng nghĩa trừ khử
nghịch đảng, phế Nghi Dân làm Lệ Đức Hầu rồi đưa hoàng tử Tư Thành lên ngôi Hoàng
đế, trở thành vua Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử dân tộc.1
❖ Giai đoạn thứ hai (1460 - 1527):
Lê Thánh Tông (1460 – 1497) được lịch sử nhắc đến như là một vị minh quân nổi
tiếng, ông là một vị vua quyết đoán, tài năng cũng là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn.
Được sinh ra, lớn lên và lên ngôi giữa những biến cố lớn về tranh giành quyền lực trong

1
Lương Văn Tuấn (2008), Những giá trị đương đại của Bộ luật Hồng Đức, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.1.

3
triều đình nên ngay từ khi mới lên ngôi ông đã liên tục tiến hành hàng loạt công việc
cải tổ thực hiện thành công nhiều biện pháp, chính sách quan trọng để củng cố bộ máy
hành chính quốc gia, chấn chỉnh hoạt động của triều đình, và đội ngũ quan lại. Đặc biệt
ông đã xây dựng thành công một thiết chế quân chủ tập quyền mạnh hoàn thiện bộ máy
quyền lực nhà nước với quyền lực tối cao nằm trong tay nhà vua, hạn chế sự tham dự
vào triều chính của tầng lớp quý tộc, trong dụng được nhân tài, phát huy cao vai trò của
hệ thống quan lại từ trung ương tới địa phương nhưng cũng kiểm soát được ở một mức
độ nào đó quyền lực của họ để tránh xảy ra tình trạng lạm dụng quyền hành, tham nhũng,
hối lộ, tùy tiện, lười biếng, trốn tránh trách nhiệm... Trong suốt thời gian chấp chính, Lê
Thánh Tông đã đề ra và thực hiện thành công nhiều biện pháp, chính sách quan trọng
nhằm mục tiêu củng cố chế độ quân chủ tập quyền quan liêu, giữ vững độc lập dân tộc,
tăng cường nền quốc phòng và thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nước. Với 38 năm
trị vì dưới hai niên hiệu là Quang Thuận, Hồng Đức ông đã thực hiện được rất nhiều
những công việc quan trọng được tiến hành được ghi dấu vào lịch sử. Đặc biệt là việc
xây dựng và ban hành bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) với kỹ thuật lập pháp
cao, chặt chẽ nhiều nội dung tiến bộ, nhân bản, có tính vượt trước thời đại.2 Trong Việt
Nam sử lược (trang 98) của nhà nghiên cứu lịch sử Trần Trọng Kim nhận xét về vua Lê
Thánh Tông: “Thánh Tông là ông vua thông minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đã
lấy lòng thành, ngài trị vì 38 năm, sửa sang nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành,
chỉnh đốn các việc vũ bị, mở mang bờ cõi, khiến cho nước Nam ta văn minh thêm ra và
lẫy lừng một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy”. Giai đoạn
trị vì của Lê Thánh Tông được xem là thời kỳ thịnh trị nhất không chỉ ở thời Lê sơ mà
còn trong lịch sử các vương triều phong kiến của Việt Nam. Giai đoạn sau khi vua Lê
Thánh Tông mất, bắt đầu từ năm 1504, triều đình Lê sơ bắt đầu suy yếu. Các thời vua
sau hầu hết đều theo pháp tắc cũ ở việc chính sự. Đất nước rơi vào hỗn loạn, kinh tế
đình đốn, các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra. Gần ¼ thế kỷ lâm vào tình trạng
tranh giành quyền lợi giữa các phe cánh. Đến năm 1527, Mạc Đăng Dung phế bỏ Lê
Cung Hoàng, lập nên nhà Mạc, triều Lê sơ chính thức chấm dứt.

2
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá
trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.11.

4
1.2 Về tình hình kinh tế:
❖ Chính sách ruộng đất:
Đại Việt là nước nông nghiệp, ruộng đất là phương tiện sinh sống chủ yếu của
người dân và là ngành kinh tế chính, nguồn thu ngân sách của nhà nước. Vì vậy, chính
sách ruộng đất là chính sách kinh tế quan trọng nhất của triều đình. Triều Lê sơ rất quan
tâm đến việc bảo vệ, phát triển ruộng đất và nông nghiệp của nước nhà.
Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng. Để đảm bảo sản xuất, các vua
Lê đã cho thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”, cho quân đội thay phiên về làm ruộng,
theo tinh thần “tĩnh vi nông, động vi binh”. Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò để
bảo vệ sức kéo. Năm 1428, sau khi quân Minh về nước, Lê Thái Tổ lệnh cho con em
các tướng và các đầu mục về quê nhận ruộng đất cày cấy. Năm 1429, ông lại ra lệnh:
vườn của các quan ở kinh thành đều phải trồng hoa hoặc rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị
thu hồi. Vua thứ tư là Lê Thánh Tông cũng tiếp thu tư tưởng của Lê Thái Tổ, quy định
trong Luật Hồng Đức: “nếu ruộng đất công có chỗ bỏ hoang thì quan trông coi phải tâu
lên để chia cho người cày ruộng khai khẩn, nếu không sẽ bị xử tội”. Khi huy động công
việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.
Chế độ ruộng đất về cơ bản có 2 loại lộc điền và quân điền. Chế độ lộc điền được
thực hiện từ thời Lê Thái Tổ, là loại ruộng được cấp cho hoàng thân quốc thích, các vị
công thần và các quan lại hàm tứ phẩm trở lên. Còn quân điền là ruộng đất công của
làng xã, tạm thời và định kỳ 6 năm một lần cấp cho quan lại và nhân dân trong xã. Có
sự điều chỉnh và phân bổ lại với những xã lân cận để tránh chuyện bỏ ruộng hoang trong
khi nơi khác có người thì lại không có ruộng cày cấy. Đây là biện pháp rất khôn khéo,
hiệu quả để hạn chế việc bỏ ruộng hoang, người dân vừa có thêm ruộng mà nhà nước
cũng thu được thuế. Hơn thế nữa ruộng này không phải cho hắn, vẫn thuộc sở hữu của
nhà vua, người được cấp ruộng chỉ được cày cấy theo kỳ hạn dài hay ngắn, là cách tổ
chức ít tốn kém, có lợi cho cả đôi bên mà lại rất hiệu quả.
Bên cạnh ruộng lộc điền và quân điền còn có ruộng tư thuộc sở hữu của các cá
nhân, hộ gia đình. Nền văn minh nông nghiệp đạt đến trình độ tổ chức cao, ruộng được
chia làm nhiều loại, có loại ruộng thực tế nhưng cũng có khi chỉ là ruộng hoa lợi, thậm
chí có loại ruộng trong các làng xã chỉ chuyên được dùng để lấy hoa lợi sử dụng vào
các mục đích khuyến học, từ thiện, giúp cô nhi quả phụ hay lấy gạo thổi xôi, nuôi lợn,

5
nuôi gà, hương nến ... dùng trong tế tự. Từ người nghèo đến người không có tài sản gì
ai cũng đều có phần ruộng để làm ăn sinh sống và lo trách nhiệm đóng thuế. 3
❖ Chính sách thương mại:
Giống với các triều đại trước, chính sách “trọng nông ức thương" vẫn được thực
hiện. Nhà nước không khuyến khích thương mại vì vậy thương mại không được phát
triển mạnh mẽ nhất là ngoại thương. Việc giao thương buôn bán với người nước ngoài
bị hạn chế, quan lại và dẫn chúng không được mua bản vụng trộm hàng hóa nước ngoài.
Trên các cửa ải dọc biên giới miền duyên hải, triều đình lập cơ quan kiểm soát ngoại
thương rất khắt khe. Những nhà buôn ngoại quốc người Hoa, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân
Lạp ... đến Đại Việt buôn bán phải vào những nơi quy định như Vân Đồn, Căn Hải, Hội
Thống Hội Triều, Thông Lãnh, Phủ Lương Tam Kỳ, Trúc Hoa, mà không được tự ý vào
các trấn. Nhân dân và quan lại vùng duyên hải tự ý mua hàng hoá của người nước ngoài
hoặc đón tiếp các thuyền buôn thì sẽ bị nghiêm trị, phạt tiền rất nặng, thậm chí cả đối
với các quan đi sứ sang nước ngoài khi về cũng không được mang theo hàng hóa nước
ngoài về để buôn bán hoặc tiêu dùng. Sự ngăn cấm và những biện pháp kìm hãm thương
nghiệp đó làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển chậm chạp. Nền kinh tế chủ yếu dựa
vào nông nghiệp mà chủ yếu là sản xuất nhỏ dựa vào kinh nghiệm truyền đời là chính.4
❖ Chế độ thuế khóa:
Năm đầu niên hiệu Thuận Thiên (1428) vua Lê Thái Tổ xuống chiếu tha tô thuế
các loại cho nhân dân trong 2 năm. Những người già cả từ 70 tuổi trở lên được miễn sai
dịch. Năm thứ hai niên hiệu Đại Bảo (1441) vua Lê Thái Tông định ngạch thuế. Ai
không có ruộng mà là quân lính thì cho 5 sào ruộng dâu để làm của riêng không phải
đóng thuế. Nếu không có ruộng mà là dân thì cho 4 sào ruộng dâu, cũng không phải
đóng thuế. Những người góa vợ góa chồng thì cho 3 sào, cũng miễn thuế.
Đối với thuế đinh, năm đầu niên hiệu Hồng Đức vua định lệ thuế đinh, mỗi người 8
tiền, thấp hơn nhiều so với thời Trần, Hồ trước đó và cả thời Lê trung hưng, thời Nguyễn
sau này.
Qua những nhận định trên có thể thấy trong thời Lê sơ, đặc biệt là dưới thời vua
Lê Thánh Tông, đời sống người dân tương đối nhẹ nhàng thoải mái, kinh tế phát triển,
thuế khóa không nặng nề. Những trường hợp có khó khăn cũng được nhà nước quan

3
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá
trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà nội, tr.14.
4
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá
trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.16.

6
tâm chăm lo đời sống, được cấp ruộng để làm ăn được xem xét để giảm thuế. Điều kiện
kinh tế đó là cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ, rực rỡ của nền văn hóa, tư tưởng thời Lê
sơ.5
1.3 Về văn hóa - tư tưởng:
Các vua Lê từ Lê Thái Tổ trở đi rất sùng đạo Nho, dùng đường lối này làm tư
tưởng chính thống để cai trị quốc gia. Để tỏ sự tôn sùng Nho học, năm 1435, Lê Thái
Tông sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng chọn ngày làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn Miếu. Khoa
thi tiến sĩ năm Nhâm tuất (1442) được xem là mốc quan trọng xác lập vị trí độc tôn của
Nho học ở Việt Nam.
Đề cao Nho giáo, các vua thời Lê sơ đã hạn chế, kiểm soát Phật giáo và Đạo giáo.
Lê Thái Tổ quy định sư tăng phải trên 50 tuổi, phải qua kỳ thi khảo hạch, ai đỗ cho làm
tăng đạo, ai không đỗ phải hoàn tục, cấm quý tộc quan lại xây chùa mới, hạn chế việc
đi lại của sư tăng, đạo sĩ cấm quan lại trong triều kết giao với tăng, đạo. Tuy không
được Nhà nước khuyến khích nhưng Phật giáo, Đạo giáo thời Lê sơ vẫn tồn tại trong xã
hội, được mọi giới thừa nhận nhất là trong quần chúng nhân dân. Chùa chiền vẫn được
sửa sang, xây mới, nhân dân vẫn tin tưởng đi theo giáo lý nhà Phật.
Sang thời Lê Thánh Tông, Nho giáo đạt tới đỉnh cao thịnh vượng. Như vậy, dù
Nho giáo được nhà nước thừa nhận khuyến khích có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn
hóa nhưng trên thực tế, chính sách "Độc tôn Nho giáo" của nhà nước Lê sơ đã không
được thi hành một cách có hiệu quả. Trong đời sống dân gian cho đến cung đình các
yếu tố văn hóa khác biệt nhau như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, văn hóa chính thống
và văn hóa dân gian vẫn cùng tồn tại, dung hòa lẫn nhau và chung sống hòa bình. Tuy
nhiên, Nho giáo cũng đã phát huy được ưu thế của mình. Nhiều luận điểm của Nho giáo
được vận dụng và khai thác như: cách thức tổ chức triều đình, vai trò và trách nhiệm
của quan lại, giáo dục đào tạo... đặc biệt là nó đã tạo ra được một đội ngũ quan lại có
trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của công việc.
1.4 Về giáo dục đào tạo:
Trong lĩnh vực giáo dục - khoa cử thời kỳ Lê sơ, Nho giáo là học thuyết chiếm vị
thế gần như tuyệt đối cả về nội dung lẫn hình thức và quy mô của nó. Nhà nước thông
qua hệ thống giáo dục - khoa cử để truyền bá hệ tư tưởng mà học thuyết Tống Nho được
coi là “hệ tư tưởng chính thống của Nhà nước, là bệ đỡ tư tưởng cho chế độ quân chủ

5
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.16

7
quan liêu và duy trì địa vị, quyền uy tối thượng của nhà vua”. Ngay từ khi lên nắm chính
quyền, việc đầu tiên vua Lê Lợi quan tâm là phát huy vai trò độc tôn của Nho giáo. Đến
triều vua Lê Thánh Tông - một vị vua uyên thâm Nho học, thì tư tưởng “sùng Nho trọng
Đạo” được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực giáo dục - khoa cử, giáo hóa đạo đức. Giai
đoạn này, Nho giáo đã phát triển đến đỉnh cao, ảnh hưởng và chi phối toàn bộ nền giáo
dục - khoa cử từ mục đích, nội dung đến phương pháp giáo dục. Sự độc tôn Nho giáo
và phát triển Nho học thời kỳ này vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nền giáo dục
- khoa cử.
Mục đích của nền giáo dục phong kiến thời Lê sơ là đào tạo là nguồn nhân lực
xuất thân từ Nho học để mỗi người, tùy theo địa vị, chức phận của mình giúp vua trong
việc trị quốc an dân, bình thiên hạ. Họ còn là hạt nhân tiên phong trong việc truyền bá
hệ tư tưởng Nho giáo sâu rộng trong nhân dân, còn phải hiểu ý nghĩa của những kinh,
sách đó và biết vận dụng những điều đã học, đã biết vào trong thực tiễn, theo phương
châm mà sách Đại học đã vạch rõ: “Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”.
Nếu như dưới thời Lý - Trần việc tuyển dụng nhân tài và bổ dụng quan chủ yếu
bằng nhiệm cử và tiến cử, thì đến thế kỷ XV, dưới các triều đại Lê sơ, việc tuyển dụng
quan lại vào bộ máy chính quyền các cấp chủ yếu bằng con đường khoa cử Nho học.
Đội ngũ Nho sĩ ngày càng đông đảo, địa vị của họ ngày càng được đề cao. Thời kỳ này,
tầng lớp Nho sĩ trở thành đẳng cấp chính của xã hội và là rường cột của Nhà nước phong
kiến, là nguồn bổ sung chủ yếu của bộ máy nhà nước phong kiến quan liêu. Những ông
quan Nho học đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc định ra và triển khai hoạt
động của bộ máy nhà nước, của triều đại trong việc kiến lập ra các chiếu, chế, biểu, dụ,
các bộ luật, các văn bản hành chính và pháp luật khác - những công cụ và phương tiện
cần thiết cho nhà vua, Nhà nước phong kiến thực hiện việc quản lý xã hội ngày càng có
quy mô, nề nếp, có hiệu quả hơn. Có thể khẳng định rằng, dưới các triều đại Lê sơ, bộ
máy nhà nước của chế độ phong kiến quan liêu đã đem lại sự ổn định, kỷ cương, thịnh
trị cho xã hội Đại Việt.
Tóm lại, hệ thống giáo dục - khoa cử Nho học Việt Nam dưới các triều đại Lê sơ
có vai trò vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng Nho giáo, đưa nó lên địa vị
độc tôn, toàn trị trong xã hội, đặc biệt là trong việc đào tạo nhân tài, củng cố và phát
triển bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Việc khuyến khích tinh thần
hiếu học, xây dựng xã hội học tập, cũng như trong việc giáo hóa, xây dựng và hoàn
thiện đạo đức con người, đạo đức xã hội thời kỳ này, suy cho cùng, đều nhằm mục đích

8
phổ biến học thuyết chính trị- xã hội của Nho giáo, thông qua đó để thắt chặt sự lệ thuộc
của con người vào bộ máy trung ương tập quyền.6
Hệ thống quản lý nhà nước hoạt động một cách hiệu quả và được tổ chức một
cách kỹ lưỡng từ cấp trung ương đến địa phương. Với chủ trương lựa chọn những người
có tài và phẩm hạnh qua hệ thống thi cử, và quản lý và kiểm soát tốt hoạt động của các
quan chức, đã tạo ra một hệ thống quan lại với sự đáng tin cậy, đáp ứng tốt cho nhu cầu
của bộ máy nhà nước. Hệ thống pháp luật được thiết kế chặt chẽ và hoàn thiện, đảm bảo
tính công bằng và tuân thủ quy định. Chế độ phong kiến đạt đến đỉnh cao của sự thịnh
trị, ổn định, và hoàn thiện trong lịch sử các nhà nước phong kiến Việt Nam. Những
thành tựu này cũng dẫn đến sự xuất hiện của bộ Quốc triều hình luật, một ví dụ tiêu
biểu cho hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam, đóng góp một phần quan trọng vào
di sản pháp luật của dân tộc.
2. Khái quát hoạt động xây dựng pháp luật thời Lê Sơ:
2.1 Tập quán pháp:
Xã hội phong kiến phát triển rất chậm, dẫn đến tình trạng kinh tế phân tán và
đất nước bị chia thành nhiều vùng với đặc điểm về dân cư, văn hóa, kinh tế và chính trị
khác nhau. Do đó, pháp luật phong kiến cũng phân tán. Hình thức pháp luật phổ biến
nhất là tập quán pháp, với mỗi vùng có riêng một loạt luật riêng tồn tại song song với
luật của vua. Vua, chúa thường ban hành pháp luật chủ yếu dưới dạng lệnh, chiếu chỉ
… cũng có khi chỉ là khẩu lệnh. Tuy vậy, nhiều nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền đã có những bộ luật chung cho cả nước được biên soạn khá công phu. Như là:
Nhà nước phong kiến Việt Nam đã ban hành Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) vào
năm 1483 và Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long) vào năm 1815.
Trong xã hội phong kiến, ngoài pháp luật của nhà nước (pháp vua), mỗi địa
phương còn có quy định riêng dưới dạng "lệ làng" (hương ước)… Đối với nông dân ở
nhiều địa phương, lệ làng (hương ước) đôi khi còn quan trọng hơn cả pháp luật của nhà
nước, như dân gian có câu "phép vua thua lệ làng".
Nếu xem xét từ góc độ khác, lệ làng và hương ước đôi khi yêu cầu người dân tuân
theo nhiều thủ tục phức tạp và nhiều quy tắc nặng nề, thậm chí trái với những quy định
tiến bộ của pháp luật phong kiến. Có thể nói rằng, trong xã hội phong kiến, người nông

6
Phạm Thị Quỳnh (2012), Quan điểm của giáo dục - khoa cử, giáo hóa đạo đức ở thời lê sơ và vai trò
của nó trong xã hội đương thời, Tạp chí Khoa học Việt Nam, from
https://vjol.info.vn/index.php/khxhvn/article/view/31306/26562. (Truy cập ngày 22/10/2023)

9
dân không được công nhận với tư cách là cá nhân, mà họ bị hòa tan trong cộng đồng
của làng xã, dẫn đến việc họ phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt của cộng đồng.
2.2 Văn bản pháp luật:
- Các văn bản đơn hành không những nhiều về số lượng mà còn phong phú về
hình thức như chiếu, sắc, dụ, lệnh, lệ, cáo…
- Những nhà làm luật rất chú trọng trong việc tập hợp hóa pháp luật. Trong lịch sử
pháp luật phong kiến, không có thời kỳ nào nhiều tập luật lệ như thời kỳ này.
Sau đây là một số tập luật lệ ở triều Lê:
+ Lê triều hội điển không rõ thời gian biên soạn. Sách gồm một số luật lệ,
cũng được sắp xếp theo thẩm quyền của lục bộ.
+ Thiên Nam dư hạ tập gồm có 100 quyển, được biên soạn ở thời Hồng Đức.
Ngày nay, bộ sách chỉ còn một số quyển chép một số bài thơ của Lê Thánh
Tôn, ghi về công việc đánh Chiêm Thành, đặc biệt có quyển ghi một số lệnh,
lệ với niên hiệu Quang Thuận và Hồng Đức.
+ Lê triều quan chế (ban hành thời vua Lê Thánh Tông) quy định về những
chế độ liên quan đến đội ngũ quan lại như:lương bổng, ngạch bậc, phẩm trật,
chức năng, vai trò của các cơ quan, chức quan trong bộ máy nhà nước...
+ Quốc triều thư khế thể thức: Không rõ được biên soạn trong thời gian nào.
Sách này chép một số mẫu văn tự, như chúc thư, văn khế cầm cố ruộng đất,
văn khế thuê ruộng, văn khế nuôi con nuôi, trong các mẫu văn tự này đều ghi
niên hiệu Thông Nguyên (niên hiệu của vua lê cung hoàng 1522 - 1527).
+ Quốc triều Chiến lệnh thiện chính: Được biên soạn ở đời Lê Dụ Tông
(1706 - 1729). Sách này gồm một số luật lệ, cũng được sắp xếp theo thẩm
quyền của lục bộ.
+ Quốc triều khám tụng điều lệ: (không rõ năm ban hành) quy định về trình
tự thủ tục giải quyết các vụ án về hình sự và dân sự. Lần đầu tiên trong tiến
trình lập pháp của đất nước ta, quy một văn bản luật về thủ tục (hình thức)
được tách ra khỏi văn bản luật về nội dung và chỉ để quy định các giai đoạn,
quy trình áp dụng luật nội dung. Sự ra đời của văn bản này không chỉ là mốc
son chói lọi trong tiến trình lập pháp của nước Đại Việt xưa mà còn là sản
phẩm tiêu biểu cho trình độ lập pháp của vùng Á Đông thời trung đại. Bởi
ngay như đất nước Trung Quốc - cái nôi của nền văn minh nhân loại, đất
nước có bề dày về lập pháp cũng chưa có được sự tiến bộ này.

10
+ Quốc triều hình luật: Quốc triều hình luật là bộ luật xưa nhất còn lưu giữ
được đầy đủ cho tới ngày nay. Gồm 16 chương, được ghi chép trong 6 quyển
với 722 điều.
● Quyển 1: gồm 2 chương với 96 điều. Chương Danh lệ, gồm 49 điều, quy
định những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều
khác, ví dụ quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị (tám điều được nghị
xét giảm tội) việc chuộc tội bằng tiền…
● Quyển 2: gồm 2 chương với 187 điều, Chương Chức chế (Vi chế), gồm
144 điều, chủ yếu quy định về quan chế (công chức, công vụ) và các hành
vi phạm tội liên quan. Chương Quân chính gồm 43 điều, quy định về quân
sự và các tội phạm về quân sự.
● Quyển 3: gồm 6 chương với 127 điều. Chương Hộ hôn, có 58 điều, chủ
yếu quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân gia đình và các tội phạm trong
các lĩnh vực đó. Chương Điền sản, gồm 32 điều, ở cuối chương này có
thêm các phần “Điền sản mới tăng thêm” (14 điều), “Bổ sung thêm về
luật hương hỏa” (4 điều) và “Châm chước bổ sung về luật hương hỏa” (9
điều). Ba phần này được bổ sung ở những đời vua Lê tiếp đó. Như vậy,
tổng cộng chương này có 59 điều chủ yếu quy định về ruộng đất thừa kế,
ruộng đất hương hỏa và những tội phạm trong các lĩnh vực đó. Chương
Thông gian, có 10 điều, quy định một số tội phạm tình dục.
● Quyển 4: gồm 2 chương. Chương Đạo tặc (trộm cướp) có 54 điều. Trong
chế độ phong kiến, những kẻ phản nước hại vua cũng thường bị gọi là đạo
tặc. Bởi vậy, chương đạo tặc không chỉ quy định những tội trộm cướp
thông thường, mà còn quy định cả một số trọng tội chính trị như tội phản
nước hại vua. Ngoài ra, trương này còn quy định cả nhóm tội giết người.
Chương Đấu tụng (đánh nhau kiện cáo), có 50 điều, quy định nhóm tội
đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ.
● Quyển 5: gồm 2 chương. Chương Trá nguỵ (gian dối), có 38 điều, quy
định các tội giả mạo, lừa dối. Chương Tạp luật, có 92 điều, quy định
những tội mà không thể xếp vào các chương khác.
● Quyển 6: gồm 2 chương. Chương Bộ vong, có 13 điều, quy định về việc
bắt tội phạm chạy trốn và các tội phạm thuộc lĩnh vực này. Chương Đoán
ngục, có 65 điều, quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và những
tội phạm trong lĩnh vực này.

11
Như vậy, bộ Quốc triều hình luật là bộ luật tổng hợp, bao gồm nhiều quy phạm
pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng phải
được hôn nhân gia đình, luật hành chính…
3. Quá trình xây dựng và ban hành Bộ luật Hồng Đức:
Bản Quốc triều hình luật mang ký hiệu A.341 là bản in ván khắc hoàn chỉnh hơn
cả và được coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ luật trong sách này gồm 6 quyển, in ván
khắc trên giấy bản, tổng cộng gồm 129 tờ đóng chung thành một cuốn. Sách không ghi
tên tác giả, không có dấu hiệu niên đại soạn thảo hay niên đại in ấn và cũng không có
lời tựa hoặc các chú dẫn khác. Cho nên, dựa vào nội dung bên trong mà có 2 quan điểm
về thời gian soạn thảo của bộ luật này.
Quan điểm đầu tiên: nhiều nhà khoa học cho rằng năm 1483 là năm ban hành
của Bộ luật Hồng Đức. Tuy nhiên, dựa vào biên niên sử nhà Lê thì năm 1483, nhóm
văn thần thừa lệnh vua đã “soạn làm các sách là Thiên nam dư hạ tập và Thân chinh ký
sự” mà không thấy đề cập đến việc soạn Bộ luật Hồng Đức. Điều này tương đối vô lý
vì việc ban hành một VBPL đồ sộ như Bộ luật Hồng Đức không thể không được ghi
chép lại trong biên niên sử khi mà hai tập Hội điển nói trên được đề cập khá chi tiết
trong cùng một thời điểm. Vì vậy, năm 1483 cũng không thể nào là thời điểm ban hành
của Bộ luật Hồng Đức.
Quan điểm thứ hai: Một số tác giả thuộc Viện Sử học Việt Nam cho rằng Bộ luật
Hồng đức được khởi thảo từ thời vua Lê Thái Tổ vì dựa vào những ghi chép của chính
sử về các sự kiện lập pháp của nhà Lê Sơ, về một số điều khoản trong Bộ luật Hồng đức
có quy định cụ thể về cấp hành chính lộ và các chức quan đã tồn tại trước thời Hồng
Đức và việc so sánh nội dung một số điều khoản trong bộ luật với thực tiễn áp dụng
pháp luật được ghi lại trong chính sử.
Đến thời Thái Tông, Quốc triều hình luật tiếp tục được bổ sung một số điều khoản.
Sách Hồng Đức thiện chính thư là quyển sách sưu tập các luật lệ thời Hậu Lê, trong các
điều từ 126 đến 163 được ghi dưới niên hiệu Thiệu Bình (1434-1439) có 5 điều khoản
(310, 502, 507, 513, 527) được Thái Tông bổ sung. Ông còn đưa thêm vào Bộ luật điều
672, nội dung điều khoản này hoàn toàn phù hợp với một lệnh chỉ năm 1434 của ông
quy định về trình tự và thẩm quyền xét xử của các cấp chính quyền trong đó có đề cập
đến các chức danh xã quan, lộ quan. Ngoài ra, điều 683 cũng được coi là của Thái Tông
đưa thêm vào Bộ luật vì nội dung điều khoản này hoàn toàn phù hợp với một chỉ dụ của
ông năm 1437 quy định về việc xét xử các quan đại thần, hình quan phải căn cứ vào
điều luật chính để buộc tội và quyết định hình phạt. Thời vua Nhân Tông, do việc thi

12
hành những chính sách ruộng đất tích cực nên nền kinh tế nông nghiệp đã phát triển
nhanh chóng với sự mở rộng của các hình thức sở hữu vừa và nhỏ nên việc mua bán,
chuyển nhượng ruộng đất diễn ra rất phổ biến. Để hạn chế những tranh chấp phát sinh,
đảm bảo ổn định sản xuất nông nghiệp, Nhân Tông đã bổ sung vào Bộ luật chương Điền
sản gồm 14 điều.
Đến vua Thánh Tông, Quốc triều Hình luật về cơ bản đã được hoàn thiện. Phần
lớn các luật lệ ban hành dưới triều vua Thánh Tông được tập hợp trong 2 bộ Hội điển
là Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức thiện chính thư. Theo sử biên niên nhà Lê thì
Thiên Nam dư hạ tập là bộ sách được biên soạn vào năm 1483 gồm 100 quyển nhưng
“hiện nay chỉ còn 5 quyển”, trong đó có quyển IX còn lưu giữ tại Thư viện Hán Nôm
“ghi lại 39 điều gọi là “lệnh” và “lệ” ban hành đời Quang Thuận (1460 - 1469) và 63
điều đời Hồng Đức (1469 - 1497)”. So sánh đối chiếu Thiên Nam dư hạ tập với Quốc
triều Hình luật cho thấy có 41 điều khoản do Thánh Tông đã bổ sung. Tiếp tục so sánh
Quốc triều Hình luật với Hồng Đức thiện chính thư cho thấy có 42 điều khoản đã được
Thánh Tông đưa thêm vào Bộ luật Hồng đức. Tổng cộng có 83 điều luật được bổ sung
dưới triều Thánh Tông.
4. Nhận xét về Bộ luật Hồng Đức:
4.1 Ưu điểm:
- Bộ luật Hồng Đức được ban hành là bộ luật hoàn chỉnh, đầy đủ, tiến bộ nhất
trong các bộ luật thời phong kiến ở Việt Nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung
tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng
thời, có những điểm tiếp cận gần với kỹ thuật pháp lý hiện đại.
- Cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đây là một bước đi
quan trọng trong lịch sử về quyền bình đẳng giới. Vai trò của người phụ nữ đã
được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Cho thấy
người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình khi chồng chết và họ có quyền
thừa kế như nam giới.
- Hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam.
- Thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật cho thấy được sự nghiêm
minh khi trừng phạt rất nặng các tội như phá hoại, chặt phá cây cối và lúa mì của
người khác, tự tiện giết trâu ngựa. Những điều luật trong Quốc Triều Hình Luật
đã xác định một cách có hệ thống từ cấp cao đến thấp, chỉ rõ trách nhiệm của
nhà nước thông qua trách nhiệm của hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống
tối thiểu của người nghèo khổ trong xã hội.

13
- Thể hiện tính chất nhân đạo, bảo vệ dân thường.
- Tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc. Có thể thấy rằng bộ luật không chỉ có bước đổi mới về
địa vị, mà còn chú trọng đến vấn đề tôn giáo, nội thị tộc.
4.2 Nhược điểm:
- Về kỹ thuật lập pháp: Chưa có sự phân hóa ngành như pháp luật hiện đại nên có
khuynh hướng hình sự hóa những quan hệ xã hội trong đời sống dân sự, hôn
nhân - gia đình,…
- Hệ thống hình phạt thể hiện tính dã man tàn bạo, không chỉ đày đọa về thể xác
mà cả tinh thần.
- Nhiều quy định chưa có mang tính khái quát, đồng bộ. Bộ luật không nêu ra khái
niệm về tội phạm cũng như các dấu hiệu chung nhất của một hành vi phạm tội
mà có xu hướng mô tả cụ thể, chi tiết từng hành vi phạm tội nên hệ thống pháp
luật chưa đảm bảo tính đồng bộ, tính toàn diện.
4.3 Kết luận:
Ra đời vào giữa thế kỷ XV, nhưng bộ “Quốc triều hình luật” đã đạt được giá trị
và thành tựu nổi bật, có những đặc điểm tiến bộ và ưu thế hơn hẳn các bộ luật trước và
cả sau nó. Thậm chí, nhiều yếu tố còn có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và hoàn chỉnh
hệ thống luật của nước ta hiện nay. Mặc dù còn tồn tại những hạn chế nhất định nhưng
đây được coi là bộ luật hoàn chỉnh nhất còn giữ lại được đến ngày nay trong lịch sử luật
pháp phong kiến nước ta. Nó là một thành tựu đặc sắc trong lịch sử Nhà nước và pháp
quyền Việt Nam. Mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng “Quốc triều hình luật” đã
thể hiện được sự kết hợp hài hài quyền lợi của giai cấp gắn với lợi ích dân tộc, thể hiện
được sự điều hoà giai cấp tài tình trong xã hội Việt Nam thời kỳ Hậu Lê trong thời thịnh
trị.
II. Bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế trong các quy định của Bộ luật
Hồng Đức:
1. Nhóm yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức:
Theo định nghĩa của UNESCO, nhóm yếu thế bao gồm: những người ăn xin, nạn
nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, nhóm
giáo dục đặc biệt, người cao tuổi, người nghèo, tù nhân, gái mại dâm, người thất nghiệp,
người lang thang cơ nhỡ, người tị nạn, người xin tị nạn, người bị xã hội loại trừ, người
nghèo, người thất nghiệp, … Trong một số nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay còn tính cả

14
đến nạn nhân chiến tranh, đặc biệt là nạn nhân chất độc da cam, nạn nhân bị bạo lực gia
đình, nạn nhân bị quấy rối vầ lam dụng tình dục, nạn nhân buôn bán người, các đối
tượng mắc bệnh xã hội, trẻ em bị ảnh hưởng của HIV/AIDS…7
Trong thời kỳ phong kiến của lịch sử Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức, một bộ luật
được ban hành dưới triều đại nhà Lê, ghi dấu với danh tiếng không chỉ về khả năng lập
pháp chuyên nghiệp và phạm vi điều chỉnh toàn diện mà còn về sự tiên phong trong nội
dung. Bộ luật này không chỉ là một tài liệu pháp lý thông thường; nó chứa đựng các quy
định thể hiện một sự ưu tiên đáng kể đối với một số tầng lớp xã hội cụ thể. Mặc dù
không có một định nghĩa chung hoặc giải thích cụ thể về những tầng lớp được ưu tiên
này, tuy nhiên, từ các điều khoản cụ thể, ta có thể nhận ra rằng tiêu chí ưu tiên bao gồm
tuổi tác, sức khỏe, giới tính và tình hình tài chính. Cụ thể, người già, trẻ em, người
khuyết tật, phụ nữ mang thai, và người nghèo đều được đảm bảo quyền lợi của họ trong
một số trường hợp cụ thể. Bất kể trong quá trình thiết lập quan hệ pháp lý với các tầng
lớp khác (như quan lại và gia đình thế chấp), trong việc áp dụng luật pháp, hoặc trong
việc bảo vệ lợi ích của họ, những tầng lớp này đều nhận được sự ưu tiên. Bộ luật Hồng
Đức đã đặt ra một tiêu chuẩn tiến bộ và nhân văn, thể hiện rõ trong cách xác định những
tầng lớp cần được bảo vệ và trong việc thiết lập cơ chế chống lại bất kỳ sự xâm phạm
nào, và điều này đã làm cho nó trở nên nổi bật trong bối cảnh xã hội phong kiến.
Bộ Luật Hồng Đức của triều đại nhà Lê ban hành quy định pháp luật để bảo vệ
nhóm người yếu thế để phản ánh một tinh thần nhân đạo và tư tưởng xã hội phong kiến
trong lịch sử Việt Nam. Phong kiến Việt Nam coi trọng gia đình và cộng đồng, và việc
bảo vệ những người yếu thế trong xã hội được coi là một phần quan trọng của tạo dựng
và duy trì sự ổn định và sự hài lòng của xã hội. Điều này có thể bao gồm bảo vệ người
già, trẻ em, và những người khuyết tật vì họ thường phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ gia đình
và cộng đồng. Bộ luật Hồng Đức có thể coi như một phản ánh của các giá trị đạo đức
và luân lý trong xã hội phong kiến. Nó thể hiện tinh thần xã hội của việc bảo vệ những
người yếu thế và đảm bảo rằng họ không bị áp đặt hoặc bị lợi dụng bởi những tầng lớp
mạnh mẽ. Việc bảo vệ nhóm người yếu thế giúp duy trì sự ổn định xã hội. Nếu những
người yếu thế không được bảo vệ, có thể xảy ra xung đột xã hội, biểu đồng, hoặc sự bất
bình đẳng, dẫn đến mất ổn định và không an toàn trong xã hội. Ngoài ra, còn thiết lập
một cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ nhóm người yếu thế, đặc biệt là trong các tình huống
mà họ có thể đối mặt với bất kỳ hành vi xâm phạm hoặc thiệt hại nào. Điều này giúp

7
Nguyễn Văn Quyết & Phạm Anh Tuấn (2012), Nhà nước Việt Nam với công tác hỗ trợ nhóm yếu
thế, Kỷ yếu hội thảo ngày công tác xã hội thế giới năm

15
xác định quyền và trách nhiệm của các bên liên quan, đảm bảo tính công bằng và sự
bảo vệ. Như vậy, Bộ luật Hồng Đức không chỉ thể hiện quan điểm về pháp lý mà còn
thể hiện triết lý và giá trị xã hội trong xã hội phong kiến Việt Nam tại thời điểm đó, đặc
biệt với việc bảo vệ những người yếu thế và thiết lập một nền tảng pháp lý cho sự bình
đẳng và công bằng.
2. Tư tưởng và sự thể hiện các tư tưởng về bảo vệ quyền lợi các nhóm
xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức:
2.1 Tư tưởng của Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông về quyền lợi của các
nhóm yếu thế trong xã hội:
a. Tư tưởng của Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng, một người học rộng, tài cao, có ảnh hưởng
dưới thời Lê sơ và cũng là công thần khai quốc của thời Hậu Lê. Tư tưởng của Nguyễn
Trãi không được trình bày dưới dạng một học thuyết hoàn chỉnh mà tư tưởng nhân nghĩa
này lại được thể hiện thông qua những tác phẩm của ông như Ức trai thi tập, Bình Ngô
đại cáo, … Các tác phẩm của ông đều hướng đến giải quyết những vấn đề bức xúc đang
được đặt ra với đất nước như đường lối trị nước, đạo làm người, nguyên nhân hưng
vong của các triều đại và giải pháp giải quyết các vấn đề đặt ra.8
Với Nguyễn Trãi, ông quan niệm rằng: “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, phải đảm
bảo đời sống vật chất của nhân dân thì trật tự xã hội mới được giữ gìn, nếu đi ngược lại
thì sẽ ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của quốc gia. Ông cũng quan niệm rằng, quan lại
thì phải trung thành với vua, trong khi đó vua phải là người minh quân, có trách nhiệm
với dân, phải lo cho cuộc sống của nhân dân để từ đó giúp ổn định và củng cố được
triều đại của mình. Những quan niệm này của Nguyễn Trãi được xem là còn khá mới
mẻ nhưng lại mang tính dân chủ cao so với thời phong kiến lúc bấy giờ. Do vậy, tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi dù chưa đề cập nhiều đến nhóm yếu thế trong xã hội
như người phạm tội, phụ nữ, người già, trẻ em, … nhưng ông đã có ý thức rất rõ ràng
về vai trò của nhân dân đối với lịch sử cũng như trách nhiệm của vua và quan lại đối
với nhân dân. Những tư tưởng của Nguyễn Trãi đã tạo nên sức ảnh hưởng và lan tỏa rất
lớn trong thời Lê sơ, được thể hiện qua những quy định mang tính nhân đạo, khoan
hồng trong Bộ luật Hồng Đức.

8
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá
trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.28.

16
b. Tư tưởng của Lê Thánh Tông:
Lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn - sự mâu thuẫn nội bộ gay
gắt, sự áp bức bóc lột người dân nặng nề của bọn tham quan và cùng với giặc ngoại
xâm, Lê Thánh Tông được xem là một nhân vật kiệt xuất của Việt Nam. Trong bối cảnh
đó, ông đã thực hiện nhiều cuộc cải cách trên nhiều lĩnh vực như hành chính, quân sự,
pháp luật, … và đã dẫn dắt được Đại Việt trở thành một quốc gia cường thịnh trong khu
vực, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho dân tộc ta.
Dù sinh ra và trưởng thành trong điều kiện khó khăn, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi
hệ tư tưởng Nho giáo nhưng bản thân ông cũng là một nhân tài xuất sắc trong nhiều lĩnh
vực, là nhà thơ, nhà văn hóa lớn với tri thức uyên bác, hiểu biết sâu rộng. Lê Thánh
Tông là người sống lưu lạc cùng mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao (người được xem là có
tính nhân nghĩa) trong những người dân nghèo khổ từ nhỏ và chịu ảnh hưởng mạnh
đường lối nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và mẹ. Do đó, ông rất gần gũi và quan tâm đến
đời sống của người dân. Ông quan niệm, vua phải có “nhân”. Cái “nhân” của ông được
thể hiện thông qua việc giảm tô thuế cho người dân, thẳng tay trừng trị, trừ khử những
bọn tham quan, những kẻ tàn bạo hà hiếp dân lành. Vì vậy, những quy định trong Bộ
luật Hồng Đức được xây dựng dưới thời Lê Thánh Tông được xem là tiến bộ hơn, tích
cực hơn so với những Bộ luật của những triều đại khác.
Vua Lê Thánh Tông đã trị quốc bằng cả pháp trị và đức trị. “Kính thiên, ái dân”
và quan niệm thương yêu dân là trách nhiệm của quan lại, luôn cố gắng để mọi người
giàu đủ, yên vui tiến tới thịnh trị, dân có của thừa, không còn đói rét, lưu vong, … là
hai thành tố ảnh hưởng đến những sắc chỉ, đạo luật do ông ban hành có nhiều quy định
về quyền lợi của người dân, đặc biệt là với nhóm xã hội yếu thế như nô tỳ, phụ nữ, trẻ
em, người dân tộc thiểu số, dân đinh, …
Ông nhận thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong việc trị nước nên với ông,
pháp luật trước cả pháp luật của vua, quan lại và dân chúng đều cùng phải tuân theo,
không phân biệt địa vị xã hội. Vua Lê Thánh Tông cho rằng, pháp luật chính là công cụ
quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người dân, trong đó đặc biệt là những người yếu thế
còn tồn tại trong xã hội. Mặc dù còn nhiều điểm hạn chế do hoàn cảnh và điều kiện kinh
tế - xã hội nhưng không thể phủ nhận rằng những tư tưởng của ông về bảo vệ quyền lợi

17
của phụ nữ đã thể hiện rõ sự tiến bộ, nhân văn vượt trước thời đại, phù hợp với xu hướng
phát triển của lịch sử.9
2.2 Sự thể hiện tư tưởng bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong
Bộ luật Hồng Đức:
Mặc dù được đánh giá là một nước tương đối cường thịnh trong khu vực nhưng
Việt Nam vẫn được xem là nước có nền nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp,
công cụ lao động thô sơ và kinh nghiệm truyền đời là chính. Sự ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc sau hơn 1000 năm Bắc thuộc cùng với hệ tư tưởng Nho giáo đã ít nhiều
ảnh hưởng đến văn hóa và pháp luật nước ta. Tuy nhiên, việc Bộ luật Hồng Đức quy
định những nội dung mang tư tưởng nhân đạo, tiến bộ về bảo vệ quyền con người, quyền
của nhóm yếu thế trở đã làm cho Lê triều hình luật trở nên đặc sắc và tiến bộ vượt bậc
so với những quốc gia khác trong thời kỳ này và được thể hiện qua nhiều khía cạnh
khác nhau.
Thứ nhất, tư tưởng tôn trọng và bảo vệ nữ quyền: Mặc dù chịu sự ảnh hưởng của
Nho giáo nhưng những quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong Quốc triều
hình luật lại được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực như hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, … Những quy định này mang tính tiến bộ vượt trội mà nhiều bộ luật của các quốc
gia phương Đông và các nước tại thời kỳ này không có. Những quy định này sẽ được
phân tích cụ thể hơn tại phần sau.
Thứ hai, tư tưởng áp dụng pháp luật dựa trên nguyên tắc nhân đạo: Điều này có
nghĩa là có sự ưu tiên cho nhóm yếu thế xã hội như phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người
tàn tật, … trên tất cả các lĩnh vực. Sự ưu tiên này được thể hiện qua việc ưu đãi, giảm
nhẹ hình phạt, miễn hay giảm tội, hoãn thi hành án.
Thứ ba, tư tưởng về trách nhiệm của chủ thể áp dụng pháp luật đối với việc bảo
vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế: Đây được xem là điểm đặc sắc của Bộ luật Hồng
Đức bởi Lê Thánh Tông lúc này đã thể hiện sự coi trọng việc gắn trách nhiệm của quan
lại với công việc họ làm.10 Khi này, quan lại có trách nhiệm phải bảo đảm quyền lợi của
dân chúng và nếu không thực hiện đúng như những gì luật định thì sẽ bị áp dụng những
biện pháp chế tài rất nghiêm khắc. Lê triều hình luật còn đề cao đạo đức của quan lại
trong cả công việc và lối sống, quan hệ bản thân, giúp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp,

9
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá
trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.32.
10
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.34.

18
thân phận của người bị áp dụng pháp luật. Chính cơ chế này đã tác động tích cực vào
hoạt động thực thi pháp luật, làm cho những quy định về bảo vệ nhóm yếu thế được
thực thi một cách nghiêm chỉnh trên thực tế.
Có thể thấy rằng, dù chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Trung Hoa nhưng Bộ luật Hồng
Đức vẫn thể hiện được những tư tưởng tiến bộ, nhân văn, nhân đạo đối với những người
yếu thế trong xã hội. Bởi chính lẽ đó, những tư tưởng vẫn còn giá trị nghiên cứu, kế
thừa và áp dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật ngày nay, đặc biệt là trong thời kỳ
Việt Nam đang ở giai đoạn hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân”.
3. Những quy định về bảo vệ quyền lợi các nhóm xã hội yếu thế trong
Bộ luật Hồng Đức:
3.1 Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ:
3.1.1. Trong lĩnh vực hình sự:
Thứ nhất, về việc áp dụng hình phạt "ngũ hình", ngay trong chương đầu tiên
(Danh lệ) và điều luật đầu tiên (Khoản III Điều 1) đã quy định không áp dụng hình phạt
"trượng" mà chỉ áp dụng hình phạt “roi”, thích chữ vào mặt, bắt phải làm việc nhưng
không phải đeo xiềng xích cho đàn bà và áp dụng riêng từng loại tội "đồ" cho đàn ông
và đàn bà. Như vậy, những hình phạt được ghi trong “ngũ hình”, trừ hình phạt “tử” thì
người phụ nữ luôn được ưu tiên, giảm nhẹ hơn so với người đàn ông, đây chính là điểm
nhân văn, tiến bộ khi nhà làm luật so sánh tình trạng thân thể của 2 nhóm đối tượng này
để từ đó có cơ chế phù hợp.
Thứ hai, về tội phạm xâm phạm đến nhân phẩm của người phụ nữ, chương
"Thông Gian" đã quy định những hình phạt rất nặng nề với như Điều 680 quy định:
“Đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai thì phải để sau 100 ngày mới đem
hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư, ngục lại
bị tội đồ làm bản cục đinh. Dù sinh rồi nhưng chưa đủ 100 ngày mà hành hình thì ngục
quan, ngục lại đều giảm hai bậc tội. Khi chưa sinh mà đem thi hành tội xuy thì ngục
quan bị phạt tiền 20 quan, ngục lại bị phạt 80 trượng. Nếu vì đánh roi để xảy ra trọng
thương hay chết thì ngục quan, ngục lại bị khép vào tội lầm lỡ giết người hoặc làm bị
thương. Sau khi sinh nở chưa đủ 100 ngày mà đem thi hành xuy hình thì chiếu theo tội
lúc chưa sinh mà giảm một bậc tội”. Việc cho phép hoãn thi hành hình phạt đối với
người phụ nữ trong trường hợp này đã hiện sự quan tâm của nhà làm luật đối với tình

19
trạng của phụ nữ trong quá trình thi hành án hình phạt. Điều quan trọng là việc giữ sự
nhân văn và quyền của phụ nữ, đặc biệt là những người có thai.
Thứ ba, tại Điều 22 của bộ luật cho phép “đàn bà phạm tội được chuộc tội bằng
tiền như đàn ông phạm tội". Có thể thấy rằng điều luật này hướng hướng đến bình đẳng
giới trong hệ thống xét xử pháp lý và việc áp dụng hình phạt tùy theo tình huống cụ thể.
Nó có thể giúp đảm bảo rằng phụ nữ và nam giới được xem xét theo cùng một cách
trong mắt pháp luật và không bị thiệt thòi do giới tính. Bằng cách cho phép cả nam và
nữ được xử lý một cách tương đương và có quyền chuộc tội bằng tiền, điều này có thể
đóng góp vào việc loại bỏ các đặc quyền dựa trên giới tính trong hệ thống pháp lý.
Thứ tư, theo quy định ở các Điều 429, 441, 446, 450, người phụ nữ phạm tội trộm
cắp, lấy trộm lợn, gà, lúa má được giảm nhẹ tội so với nam giới. Nếu người phạm tội là
phụ nữ thì được giảm nhẹ, như việc xử lý tội ăn trộm, ăn cướp: "Ăn trộm mà có cầm khí
giới thì phải khép vào tội ăn cướp; nếu giết người thì bị khép vào tội giết người. Đàn
bà được giảm tội" (Điều 429), điều này thể hiện sự nhận thức về tình huống đàn bà tham
gia vào việc trộm cắp và cầm khí để tự bảo vệ. Trong trường hợp này, việc xử lý tội ăn
cướp hoặc tội giết người được áp dụng, nhưng đàn bà được giảm tội. Trong trường hợp
“đầy tớ ăn trộm đồ của chủ thì xử nặng hơn tội ăn trộm thường ngày một bậc, đầy tớ
gái được giảm tội" (Điều 441), có thể thấy sự khác biệt giữa đầy tớ nam và nữ trong
việc trộm cắp đồ của chủ. Trong trường hợp đầy tớ gái, tội phạm được giảm tội, chứng
tỏ tôn trọng đối với người phụ nữ và khuyến khích họ tham gia vào sự cải thiện trong
tình hình của họ. Còn trong trường hợp “bắt trộm gà, lợn,... tùy theo tội nặng nhẹ, và
bồi thường gấp đôi; đàn bà con gái thì được giảm tội” (Điều 446) hoặc “kẻ lạ vào trong
vườn người ta, thì xử tội biếm; đàn bà thì được giảm một bậc” (Điều 450), có thể nhận
ra việc giảm tội cho phụ nữ thể hiện sự tôn trọng đối với tình thế của họ và cố gắng tạo
điều kiện để họ cải thiện tình hình và không phạm tội trong tương lai.
Thứ năm, Bộ luật Hồng Đức xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạm
thân thể người phụ nữ, Điều 403 có quy định: “Nếu làm người đàn bà bị thương thì bị
xử tội nặng hơn tội đánh người thường bị thương một bậc. Nếu làm người đàn bà chết
thì điền sản kẻ phạm tội phải trả cho nhà người bị chết.”, điều này thể hiện sự tôn trọng
và quan tâm đặc biệt đối với tình thế của phụ nữ, vì họ thường có khả năng tổn thương
lớn hơn so với nam giới. Cùng với đó, đảm bảo rằng gia đình của nạn nhân không “bị
thương” một lần nữa về mặt kinh tế sau khi mất đi người thân.
Cuối cùng, do ở thời kỳ này, vấn đề “trinh tiết” của người phụ nữ được xem là
một thước đo đạo đức, nhân cách của người con gái. Do đó, phụ nữ, nhất là trẻ em gái

20
còn trở thành đối tượng được bảo vệ đặc biệt trước những hành vi xâm phạm tình dục,
nhân phẩm, tiết hạnh11. Với những trường hợp làm ảnh hưởng đến những điều này của
người phụ nữ, như những tội gian dâm, thông gian với vợ người khác hay quyến rũ con
gái chưa chồng đều bị xử rất nặng (có thể đến tội tử). Điểm tiến bộ của Bộ luật Hồng
Đức so với hệ thống pháp luật cùng thời kỳ còn thể hiện qua việc có quy định về việc
bảo vệ với trẻ em gái, ví dụ như quy định tại Điều 404. Trong trường hợp người phụ nữ
có việc kiện tụng thì nhà làm luật cũng có cơ chế bảo vệ họ, quy định nghiêm ngặt tránh
để xảy ra việc ngục lại, ngục tốt lợi dụng tình thế bất lợi, khó khăn của người phụ nữ
mà quan hệ bất chính với họ, Điều 409.
Như vậy, trong lĩnh vực này, nhà làm luật cũng có những quy định rất ưu đãi,
khoan hồng và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Những ưu đãi, khoan hồng này hay
sự bảo vệ phẩm hạnh của họ là điều tiến bộ vượt trội so với những triều đại trước, những
quốc gia khu vực hay hệ thống pháp luật Tây Âu thời bấy giờ.
3.1.2. Trong lĩnh vực dân sự, tài sản và thừa kế:
Thứ nhất, về tài sản, các điều Điều 374, 375 và 376 tài sản của vợ chồng được
hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của
người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình
hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi
ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.
Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do cha mẹ dành cho được chia
làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để lo việc tế lễ. Một
phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời.12 Các quy định trên không chỉ đơn
thuần là luật lệ pháp lý mà còn thể hiện những giá trị quan trọng trong hôn nhân và gia
đình trong thời kỳ này. Chúng đề cao sự tôn trọng và công bằng trong mối quan hệ hôn
nhân, thể hiện sự quan tâm đối với quản lý tài sản và sự đồng tình giữa vợ và chồng
trong việc xây dựng gia đình. Đặc biệt, việc không phân biệt giới tính trong việc thừa
kế tài sản từ cha mẹ là một điểm đặc biệt đáng chú ý. Nó thể hiện tính công bằng và
sáng tạo trong quy định luật pháp thời kỳ lúc bấy giờ cũng như bảo vệ quyền của cả con
trai và con gái trong việc thừa kế tài sản gia đình.

11
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.39.
12
Dương Văn Chăm (2012), Luật Hồng Đức với vấn đề bình đẳng giới. TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH BẾN TRE.
http://truongchinhtribentre.edu.vn/noi-dung/lua-t-ho-ng-du-c-vo-i-va-n-de-binh-da-ng-gio-i (truy cập
ngày 22/10/2023)

21
Thứ hai, về luật hương hỏa, tại Điều 388 đã bổ sung quy định: “Cha mẹ mất
cả, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy 1/20 số ruộng đất
làm phần hương hỏa, giao cho người con trưởng giữ, còn thì chia nhau” cùng với đó,
tại Điều 391 quy định rằng: “Người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai
trưởng, không có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng”, có thể thấy, cả hai điều luật
này đều thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đối với các nghi lễ gia đình và tài sản gia
đình trong tình huống cha mẹ qua đời. Việc giữ hương hỏa của tổ tiên là một quyền lợi
và nghĩa vụ thiêng liêng trong gia đình truyền thống của người dân Việt Nam, mặc dù
đương nhiên và được ưu tiên bao giờ cũng là con trai trưởng hoặc cháu nội nhưng đối
với một số trường hợp người con gái hay cháu nội cũng được giữ hương hỏa và thờ
cúng tổ tiên13. Nó đảm bảo rằng cả con trai và con gái đều có vai trò quan trọng trong
việc quản lý và thực hiện các nghi lễ gia đình, không phân biệt giới tính, và đảm bảo
rằng tất cả thành viên trong gia đình được đối xử công bằng và tôn trọng.
Các quy định từ trên trong Bộ luật Hồng Đức mang trong mình một tầm quan trọng
trong việc thể hiện và bảo vệ quyền lợi của người vợ trong mối quan hệ hôn nhân và
gia đình. Điều này thể hiện tính tôn trọng và sự công bằng, nhấn mạnh sự quan trọng
của vai trò của phụ nữ trong xã hội và trong gia đình người Việt.
Các quy định này không chỉ thừa nhận rằng người vợ có quyền sở hữu tài sản riêng
của mình, mà còn định rõ quyền sở hữu chung với chồng trong khối tài sản chung trong
suốt thời gian hôn nhân. Điều này đảm bảo rằng người vợ không bị bất kỳ sự thiệt hại
nào trong việc quản lý tài sản và khối tài sản chung, cũng như trong việc thừa kế tài sản
sau này. Ngoài ra, một điều đặc biệt là trong quyền thừa kế tài sản của pháp luật nhà Lê
khi không phân biệt con trai - con gái.
Những quy định này không chỉ mang tính chất pháp lý mà còn phản ánh những giá
trị văn hóa và truyền thống tốt đẹp của người Việt. Bằng cách tiếp thu và kế thừa những
giá trị này, Bộ luật Hồng Đức không chỉ có hiệu lực trong thời kỳ của nó mà còn để lại
tầm ảnh hưởng lâu dài. Đó là tầm quan trọng của việc kết hợp giữa các quy định pháp
lý và yếu tố truyền thống trong việc định hình xã hội và gia đình người Việt.
3.1.3. Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình:
Thứ nhất, Theo Điều 322 quy định: “Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn
nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho phép người con

13
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.43.

22
gái kêu quan mà trả lại đồ lễ. Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải
trả lại đồ lễ, trái luật bị phạt 80 trượng”, có thể thấy điều luật này chia thành hai trường
hợp cụ thể:
Trường hợp 1: Nếu người con trai bị ác tật hoặc phạm tội hoặc phá tán gia sản:
Trong trường hợp này, con gái có quyền kêu quan (cơ quan chức năng hoặc người có
thẩm quyền) và yêu cầu trả lại đồ lễ mà gia đình của người con trai đã đưa cho gia đình
con gái trong quá trình hứa gả. Điều này ngụ ý rằng gia đình người con gái có quyền
yêu cầu trả lại đồ lễ nếu người con trai không thỏa mãn các điều kiện quy định (ác tật,
phạm tội, hoặc phá tán gia sản). Điều này có thể coi là một biện pháp bảo vệ quyền lợi
của gia đình con gái và đảm bảo tính công bằng trong hợp đồng hôn nhân.
Trường hợp 2: Nếu người con gái bị ác tật hoặc phạm tội: Trong trường hợp này,
con gái không phải trả lại đồ lễ. Điều này ngụ ý rằng nếu con gái có ác tật hoặc phạm
tội, thì quyền của gia đình người con trai về việc yêu cầu trả lại đồ lễ bị hủy bỏ. Con gái
không cần phải trả lại đồ lễ trong trường hợp này. Nếu người con gái không tuân thủ
điều luật này và mà trả lại đồ lễ khi cô bị ác tật hoặc phạm tội, thì theo quy định của
điều luật, cô sẽ bị phạt 80 trượng.
→ Tóm lại, Bộ luật Hồng Đức quy định rất chặt chẽ về vấn đề hôn nhân. Dưới
thời kỳ phong kiến, quan hệ hôn nhân diễn ra là do sự quyết định, sắp đặt của gia đình
hai bên, không phải dựa trên hôn nhân tự nguyện. Việc quy định nghiêm ngặt giúp đảm
bảo đời sống của người con gái cũng như thể hiện sự quan tâm, bảo vệ quyền lợi của
đối tượng yếu thế trong xã hội. Điều luật này thể hiện tư duy và quy định về hôn nhân
và hợp đồng hôn nhân trong thời kỳ Hồng Đức, nơi mà việc tuân theo điều kiện và trách
nhiệm trong hợp đồng hôn nhân là quan trọng và có tính công bằng. Việc quy định về
việc từ hôn của người con gái trong trường hợp này không được xem là bội ước là điểm
tiến bộ khi xem xét dưới góc độ đã cưới xong và thành gia đình nhưng có thể người con
trai lúc này không có đủ những điều kiện tối thiểu để đảm bảo hạnh phúc cho người con
gái cũng như đảm bảo cuộc sống gia đình tốt đẹp, hạnh phúc. Chính điều đó đã cho thấy
sự quan tâm và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ của nhà làm luật.
Thứ hai, Điều 308 quy định: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại
(vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu đã có con, thì cho
hạn một . Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn cản người
khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm”, đây là điều luật quy định về việc mất quyền làm vợ
của người phụ nữ trong trường hợp chồng bỏ lửng vợ trong một khoảng thời gian nhất
định. Khi chồng bỏ lửng vợ của mình trong vòng 5 tháng mà không có bất kỳ liên lạc

23
hoặc trở về. Trong trường hợp này được xem là "mất vợ". Để xác định rằng vợ đã mất
quyền làm vợ do chồng bỏ lửng, vợ cần phải trình báo với quan sở tại và xã quan (các
quan chức hoặc cơ quan có thẩm quyền tại thời điểm đó) và có sự làm chứng của họ.
Nếu trong quá trình chồng bỏ lửng, cặp vợ chồng đã có con, thì quy định bổ sung là vợ
sẽ được cho thêm một thời hạn (một năm). Điều này có thể có nghĩa là vợ vẫn được coi
là vợ của chồng trong khoảng thời gian bổ sung để có thể lo cho con cái. Việc này có
thể coi là biện pháp bảo vệ quyền lợi của con cái và cung cấp thời gian cho vợ và chồng
để tìm cách giải quyết, khắc phục tình hình. Điều luật cũng quy định rằng nếu chồng đã
bỏ vợ mà sau đó ngăn cản người khác lấy vợ cũ của mình, thì hành vi này sẽ bị coi là
tội biếm. Thông qua việc quy định như vậy, giúp đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người
chồng đối với vợ, con cái để có thể xây dựng mối quan hệ gia đình tốt đẹp hơn.
Thứ ba, theo Điều 309 “Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt; vì quá say
đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm (phải có vợ thưa thì mới bắt tội)” hoặc
tại Điều 365 có quy định nếu chồng thích chữ lên mặt vợ thì bị xử tội, đồng thời phải
trả 50 quan tiền cho cha mẹ vợ. Điều luật này nhấn mạnh sự tôn trọng và công bằng
trong việc đối xử với vợ và không cho phép chồng bỏ vợ của mình để lấy nàng hầu mà
không chịu trách nhiệm. Thể hiện sự bảo vệ quyền lợi và đạo đức trong hôn nhân và gia
đình. Nó tạo ra một khung pháp lý để đảm bảo sự tôn trọng và công bằng giữa vợ và
chồng trong hôn nhân và ngăn chặn các hành vi không tôn trọng và bất công.
Cuối cùng, theo Điều 333 “Nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ
vợ, đem việc thưa quan sẽ cho ly dị”, điều luật quy định rằng nếu con rể lấy chuyện phi
lý để mắng nhiếc cha mẹ vợ, tức là lăng mạ hoặc chê bai bố mẹ vợ một cách không hợp
lý hoặc không tôn trọng, thì điều này có thể coi là một hành vi không thích hợp và không
tôn trọng gia đình vợ. Và khi con rể tiến hành các hành vi trên, việc thưa quan (báo cáo
cho quan sở tại hoặc cơ quan có thẩm quyền) có thể được thực hiện. Việc này là một
biện pháp pháp lý để báo cáo về hành vi không đứng đắn hoặc xung đột gia đình. Nếu
việc thưa quan được xem xét và xác minh, thì nó có thể dẫn đến quyết định ly dị. Điều
này có nghĩa rằng hôn nhân sẽ chấm dứt. Điều luật này thể hiện tư duy và quy định về
quan hệ gia đình và hôn nhân trong thời kỳ này, nơi tôn trọng gia đình và giữ gìn hòa
bình trong gia đình được xem là quan trọng. Việc ly dị là một biện pháp cuối cùng và
có thể được áp dụng trong trường hợp mâu thuẫn và xung đột gia đình không thể giải
quyết một cách hòa bình. Tuy nhiên, nếu vợ chồng lựa cách các tự hòa giải với nhau,
nhẫn nhịn nhau thì pháp luật không xử lý, chỉ can thiệp khi có án mạng xảy ra hay có
người tố cáo lên, điều này thể hiện sự tôn trọng của pháp luật để tự bản thân người trong
gia đình tự định đoạt. Mặc dù vậy, nhà làm luật cũng còn quy định về nguyên cớ người

24
chồng bỏ vợ với 7 trường hợp được quy định tại Điều 310. Các trường hợp chồng được
bỏ vợ đã được giảm so với trước, điều này cũng góp phần bảo vệ cho người phụ nữ
trong quan hệ hôn nhân.
Sự tiến bộ ngay từ thời Lê sơ còn thể hiện qua việc quy định về độ tuổi kết hôn,
con trai từ 18 tuổi và con gái 16 tuổi. Mặc dù dưới thời phong kiến, quan hệ hôn nhân
của con cái là do cha mẹ sắp đặt, định đoạt và việc người phụ nữ thực hiện quyền lợi
này là hiếm hoi và thường ít có khả năng. Tuy nhiên, những quy định như vậy đã có ý
nghĩa lớn hơn. Chúng củng cố quyền lợi của phụ nữ trong xã hội và gia đình, thậm chí
khi thực tế thường không tạo điều kiện cho điều đó xảy ra. Ngoài ra, những quy định
này đã tạo ra một cơ sở để đặt ra tiêu chuẩn đạo đức và xã hội, áp đặt trách nhiệm chồng
phải đối xử tốt với vợ và gia đình. Có thể thấy, dù đang ở giai đoạn mà hệ tư tưởng
thống trị là Nho giáo với nền tảng cốt lõi là sự phân biệt địa vị, đẳng cấp, coi rẻ người
phụ nữ thì những quan điểm tiến bộ, nhân văn, nhân đạo mà nhà làm luật dành cho
người phụ nữ về quan hệ hôn nhân gia đình đã có sự cởi mở hơn.
3.2 Bảo vệ người già, trẻ em:
3.2.1. Bảo vệ quyền lợi của người già, trẻ em trong lĩnh vực pháp luật
hình sự
Luật Hồng Đức trị tội con cái không phụng dưỡng ông bà, cha mẹ già: Điều 506:
“Con cháu trái lời dạy bảo, và không phụng dưỡng bề trên, mà bị ông bà cha mẹ trình
lên quan, thì xử tội đồ làm khảo đình; con nuôi, con kế tự mà thất hiếu với cha nuôi,
cha kế, thì xử giảm tội trên một bậc, và mất những tài sản đã được chia.”

Nếu tội nặng hơn như Điều 475: “Lăng mạ ông bà cha mẹ chồng thì xử tội lưu
châu ngoài; đánh thì xử lưu đi châu xa; đánh bị thương thì xử tội giảo; vì lầm lỡ mà
làm chết, thì xử tội lưu châu ngoài; bị thương thì xử tội đồ làm chủng điều binh. Đánh
ông bà ngoại thì giảm tội một bậc. Nếu con cháu trái phạm lời dạy dỗ, mà ông bà cha
mẹ đánh chết, thì xử tội đồ làm khao đinh; đánh chết bằng đồ có mũi nhọn, thì xử tội
đồ làm tượng phường binh; cố ý giết thì phải tội thêm một bậc. Nếu ông bà ngoại, mẹ
đích, mẹ kế, mẹ nuôi mà đánh chết con cháu, thì xử tội nặng thêm một bậc. Ngộ sát thì
đều không phải tội.”
Đặc biệt điều 38 bộ luật Hồng Đức khuyến khích con, cháu hết lòng phụng dưỡng
cha mẹ, ông bà nhiều tuổi, nếu chẳng may gây ra tội bị phạt thì con cháu chịu tội thay
và được giảm nhẹ: “Con cháu thay thế cha mẹ, Ông bà chịu tội đánh roi hoặc đánh
trượng thì đều được giảm một bậc”.

25
Luật Hồng Đức cũng chiếu cố người có tuổi, trẻ em khi phạm tội: Ở góc độ sinh
học, người già, trẻ em đều là những chủ thể có thể chất không ngang bằng với người ở
độ tuổi trưởng thành. Pháp luật phong kiến lại là kiểu pháp luật hình sự hoá hầu hết mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt tính chất công – tư. Vì vậy, Bộ luật Hồng
Đức đã phân biệt theo độ tuổi để xác định người già và trẻ em, áp dụng những quy định
mang tính ưu tiên nhằm giảm bớt sự tác động của các hình phạt vốn rất khắc nghiệt thời
phong kiến đối với họ. Những quy định này chủ yếu nằm ở chương Danh lệ, Đoán ngục.
Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Điều 16, mà theo đó, những người
phạm tội từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si, câm,
cơ thể què quặt, gãy tay chân) phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền; 80 tuổi
trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật như điên cuồng, tay
chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tử thì trong
trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm tội trộm, đánh
người bị thương thì cũng cho chuộc tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tử tội
cũng không áp dụng hình phạt14.
Về xử lý tội phạm, Điều 17 quy định áp dụng nguyên tắc hồi tố “Khi phạm tội
chưa già cả tàn tật, đến khi già cả tàn tật việc mới phát giác, thì xử tội theo luật già cả
tàn tật. Khi ở nơi bị đó mà già cả tàn tật, thì cũng thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội, đến khi
lớn mới phát giác, thì xử tội theo luật khi còn nhỏ”, tức là những người khi phạm tội
chưa giả mà đến khi phát giác thì đã già thì xử theo luật khi già cả, khi còn nhỏ phạm
tội, đến khi lớn mới bị phát hiện thì xử theo luật khi còn nhỏ.15 Điều này lưu ý đến thời
điểm phạm tội sao cho được xử tội theo hướng có lợi nhất. Điều đó thể hiện tính nhân
đạo, khoan hồng của pháp luật và phù hợp với truyền thống đạo lý kinh già, yêu trẻ của
dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối
tượng và vấn đề liên quan đến người làm chứng, tại Điều 665, quy định: “Những người
đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì
không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội. Nếu trái
luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho

14
Phạm Thị Hồng Đào. (2019), Tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức với sự hoàn thiện Bộ luật hình
sự năm 2015, Tạp chí điện tử Kiểm sát, tr.43. Được trích lục từ:
https://kiemsat.vn/tinh-nhan-dao-cua-bo-luat-hong-duc-voi-su-hoan-thien-bo-luat-hinh-su-nam-2015-
46745.html?fbclid=IwAR3B6vPwOVc7MnOH0gfClk-txBTgWjUab-KW-
mRuFrem3C6eOhAHNl4oxoQ (truy cập ngày 24/10/2023)
15
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.50.

26
nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không được
buộc họ làm chứng”.
Không chỉ giảm nhẹ ở phương diện áp dụng hình phạt, trong các trường hợp trẻ
em là nạn nhân, luật quy định chế tài nghiêm minh đối với người thực hiện hành vi vi
phạm. Theo Điều 604, “Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng
chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền)”. Tất cả các
khoản mà người bị thiệt hại nhận từ người gây thiệt hại cũng như khoản tiền cấp dưỡng
kể trên thuộc quyền sở hữu của người bị thiệt hại và của người trông nuôi đứa trẻ.16 hay
như Điều 404, “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn
xử như tội hiếp dâm”. Có thể thấy dù trẻ em gái dưới 12 tuổi có thuận tình mà nghe
theo sự dụ dỗ của kẻ phạm tội, thì kẻ phạm tội vẫn bị khép vào tội gian dâm và xử với
mức án của tội hiếp dâm, tức là sẽ bị xử tội thấp nhất ở mức “tội lưu” (lưu đày đi nơi
xa) cho đến mức án cao nhất là xử “tội chết” (Theo Điều 3 của Chương Thông gian).
Trường hợp kẻ nào làm chuyện ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành hạ)
để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho cha mẹ
đứa trẻ chết (Điều 605)
3.2.2. Bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong lĩnh vực pháp luật dân sự
Chế định trách nhiệm dân sự là nét đặc sắc, độc đáo đáng quan tâm trong Luật
Hồng Đức. Mặc dù về tính chất, đây là bộ luật hình sự (Quốc triều hình luật), nhưng
Luật Hồng Đức chứa đựng trong đó những yếu tố khá tiến bộ trong việc điều chỉnh quan
hệ dân sự. Quy định trên được cụ thể hóa tại Điều 435: “Những kẻ thừa cơ lúc có trộm,
cướp, cháy, lụt … lột lấy quần áo và đồ vật của trẻ con, người điên, người say thì phải
tội đồ và phải bồi thường gấp đôi”. Với nội dung nhân lúc có lụt cháy trộm cướp mà
trộm cướp tài sản hoặc ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của trẻ em gây ra tổn thất cho họ
đã khẳng định có sự tổn thất vật chất.
Điều 313 quy định: “Con cái và những trẻ nhỏ mồ côi, tự bán mình mà không
có ai bảo lĩnh thì người mua cùng người viết văn khế, người làm chứng thủy đều xử tội
xuy, trượng như luật (đàn bà đánh 60 roi, đàn ông đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho
người mua và hủy bỏ văn khế. Nếu những người cô độc cùng khốn từ 16 tuổi trở lên,
tình nguyện bán mình thì cho phép”. Có thể thấy độ tuổi một người được coi là trưởng
thành, có quyền thực hiện các giao dịch dân sự là 15 tuổi. Trước 15 tuổi thì người đó

16
Nguyễn Phương Lan (2003), Giá trị của Quốc triều hình luật qua các quy định điều chỉnh quan hệ
hôn nhân và gia đình. Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý, tr216.

27
không có quyền tự minh tiến hành các giao dịch cũng như tự mình quản lý. Trường hợp
không có người bảo lãnh mà vẫn tiến hành mua bán thì người mua, người viết văn khế,
người làm chứng đều bị tội Xuy17 (Người phạm tội bị đánh bằng roi vào mông, số lượng
roi đánh phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tội phạm). Tuy nhiên, điều luật này có thể
hiểu là nếu những trẻ nhỏ mồ côi có người khác bảo lĩnh thì được tự bán mình và như
vậy cũng có nghĩa là nếu cha mẹ đứa trẻ đứng ra bán con mình thì giao dịch đó là hợp
pháp và có hiệu lực. Trong những trường hợp nhất định, việc cha mẹ bán con là bắt
buộc và có tính cấp thiết để giải quyết nạn đói, khi gia đình lâm vào cảnh nghèo đói do
mất mùa vì hạn hán hay lụt lội...18
Theo Điều 377, người chồng góa, vợ góa, chồng sau, vợ sau nếu có con (con
chung hay riêng) thì được quyền quản lý điền sản của các con mà không có quyền đem
bán nếu không có lý do chính đáng và không được họ hàng bằng lòng cho bán. Nếu có
sự đồng ý thì cũng phải trình quan, quan xem xét bao nhiêu thì bán bấy nhiêu19. Việc
quy định như vậy giúp bảo vệ quyền lợi của con. Ngoài ra, Điều 379 cũng không cho
phép người trưởng họ bán điền sản của con cháu được thừa kế từ cha mẹ chúng. Nếu
bán mà không có lí do chính đáng thì phạt 60 trượng, biếm hai tư (biếm: tuỳ theo mức
độ nặng nhẹ của tội phạm mà bị hạ tư cách, phẩm cách của con người trước pháp luật)
và giao dịch bị huỷ bỏ, không có hiệu lực. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của đứa
con khi chưa đến tuổi trưởng thành, phai song lệ thuộc vào người lớn mà người ấy lại
lợi dụng sự lệ thuộc đó để chiếm đoạt tài sản của đứa trẻ.
Đối với con nuôi: Pháp luật bảo vệ quyền về tài sản cho con nuôi. Tuy con nuôi
không có nhiều quyền lợi như con đẻ, về mặt thừa kế thì con nuôi không được hưởng
quyền thừa kế ngang bằng với con đẻ mà phải ít hơn. Phần tài sản con nuôi được hưởng
bằng một nửa của con đẻ. Khi người con nuôi được nuôi từ thơ ấu và người nuôi không
có con đẻ thì con nuôi được hưởng toàn bộ tài sản của cha mẹ nuôi; nếu thuở bé không
ở cùng thì con nuôi được hai phần, người thừa tự được một phần (Điều 380 QTHL)
nhưng nếu trong văn tự nhân nuôi con nuôi có ghi rằng sau này sẽ chia điền sản cho thì
được hưởng thừa kế từ bố mẹ.

17
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.52, 53.
18
Trần Thị Huệ (2003), Chế định sở hữu trong Quốc triều hình luật, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư
pháp Viện khoa học pháp lý, tr.247.
19
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.53.

28
Như vậy, thông qua các quy định nêu trên, có thể thấy, bộ Luật Hồng Đức với
những điều luật của mình không chỉ nhằm bảo vệ địa vị thống trị và quyền lợi của nhà
vua và giai cấp phong kiến, không chỉ duy trì và bảo vệ trật tự, kỷ cương của chế độ
phong kiến, mà còn kiến tạo và duy trì một xã hội tương đối rõ nét cùng tính nhân văn,
nhân đạo sâu sắc mà trong đó, người già và trẻ em được bảo vệ bằng pháp luật.
3.3 Bảo vệ nô tỳ:
Trong xã hội phong kiến, việc phân chia và thể hiện sự khác biệt về giai cấp,
đẳng cấp, cùng những đặc quyền và đặc lợi dành cho tầng lớp quý tộc đã trở nên tự
nhiên, phản ánh tinh thần của triết học Nho giáo, với tinh thần "Lễ không đến bậc thứ
dân, hình không đến kẻ trượng phu". Trong mối quan hệ giữa quan lại và thường dân,
đặc biệt với những người nghèo khó và nô tỳ, sự bất bình đẳng thể hiện rõ ràng và không
thể phủ nhận. Nhà nước cũng có những quy định để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
có địa vị thấp kém hoặc bị lệ thuộc vào người khác trong xã hội như nô tỳ đã được cấp
giấy cho về làm lương dân mà người chủ vẫn bắt ở lại làm tôi tớ thì sẽ bị xử phạt qua
Điều 291 “Những nô tỳ được thả về làm lương dân, đã có giấy cấp cho rồi, mà vẫn bắt
ở lại làm tôi tớ thì xử phạt 50 roi, biếm một tư. Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy
cấp”. Trước đây, nô lệ thường bị buộc làm công việc mà họ không được công nhận là
công dân và không được trả lương. Việc thả họ và cho họ trở thành lương dân là một
bước tiến trong việc công nhận quyền của họ. Qua đó, thấy được nô tỳ được Nhà nước
quan tâm hơn, và Nhà nước thiết lập hình phạt để bảo vệ sự công bằng cho họ. Và những
người chủ vẫn cố bắt nô tỳ ở lại làm tôi tớ trong khi họ đã có giấy cấp trở về làm lương
dân thì bị xử phạt thích đáng là 50 roi, biếm một tư, nhằm thể hiện sự răn đe, trừng phạt,
ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của họ. Hành vi thích tự ý chữ vào người khác để
bắt họ làm nô tỳ cũng bị xử phạt qua điều 363 “Mua nô tỳ mà không đem văn tự trình
quan xét hỏi mà lại tự ý xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”. Việc mua hoặc
sử dụng dịch vụ của một nô tỳ (người làm công việc nô lệ, ở đợ) nhưng không yêu cầu
họ cung cấp một văn bản xác nhận hoặc hỏi về tình hình hoặc quan điểm của họ mà tự
ý sử dụng hành động hoặc ngôn ngữ khiến cho nô tỳ cảm thấy bị xâm phạm hoặc bất
an. Điều này bao gồm việc sử dụng lời lẽ không phù hợp, lăng mạ hoặc đe dọa. "Phạt
10 quan tiền" là cách thức xử phạt mà Nhà nước ban hành nhằm trừng phạt những người
chủ vi phạm pháp luật đồng thời cũng như một biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích
của nô tỳ.
Điều 365 quy định “Người thích chữ vào vợ, con trai con gái người khác và nô tỳ
của người khác để bắt làm nô tỳ của mình, thì xử tội đồ; kẻ phạm lỗi trên không có quan
chức thì xử tội lưu và đều phải trả tiền 50 quan cho cha mẹ hay người chồng và trả

29
những người bị ép ấy cho nhà người ta. Người biết mà viết thay văn tự, và người chứng
kiến đều phải biếm hai tư. Thích chữ vào người ở đợ làm nô tỳ mình, thi cũng xử tội
như trên và phải trả tiễn tẩy chữ theo như luật định. Nếu đem bán đứt dân đinh làm nô
tỳ cho người thì phải biếm năm tư và phải đền gấp đôi số tiền bán, nộp vào kho một
nửa.
Còn nguyên tiền bán thì phải trả cho người mua, dân đinh lại trả về làm dân
thường. Nếu biết mà cứ mua thì phải biếm ba tư, tiền mua phải tịch thu sung công.
Người viết thay văn tự hay chứng kiến mà biết sự việc thì phải biếm hai tư”. Theo đó,
các hành vi vi phạm pháp luật như thích chữ vào người khác để làm nô tỳ mình và việc
mua bán dân đinh (nô lệ) thì những hành vi này bị coi là tội phạm. Kẻ phạm tội sẽ phải
chịu hình phạt tù tội, và mức hình phạt cụ thể không được nêu rõ. Thay vào đó, nó đề
cập đến việc "xử tội đồ" cho thấy việc xử lý tùy theo từng trường hợp cụ thể. Nếu kẻ
phạm lỗi không có quan chức, họ phải trả tiền đền bù cho cha mẹ, người chồng, và các
người bị ép để làm nô tỳ theo mức định. Mức đền bù là 50 quan, nhưng đề cập đến việc
trả tiền theo luật định cụ thể. Điều này cũng đặt ra trách nhiệm cho người biết vụ việc
và chứng kiến, yêu cầu họ phải biếm hai tư, có nghĩa là họ phải chịu hình phạt nếu
không tuân theo trách nhiệm này. Nếu ai đó mua dân đinh (nô lệ) hoặc tham gia vào
việc bán dân đinh, họ sẽ phải chịu hình phạt tù tội và mất tiền mua. Nếu họ là người
mua, họ phải trả tiền mua cho người bán. Điều này thể hiện tầm quan trọng của bảo vệ
quyền tự do và sự riêng tư của người dân, cũng như quản lý và kiểm soát việc mua bán
nô lệ
Điều 490 quy định về việc nô tỳ có tội lỗi và chủ không báo cáo với quan chức,
và nô tỳ này bị đánh chết, thì kẻ đánh chết nô tỳ sẽ bị xử biếm ba tư. Điều này đề cao
quyền của nô tỳ và yêu cầu xem xét kỹ lưỡng về việc đánh chết họ. Ngược lại, nếu nô
tỳ không có tội lỗi và bị đánh chết, người gây ra cái chết này sẽ bị xử tội đồ, nghĩa là
hình phạt nặng hơn. Điều này nhấn mạnh sự nghiêm khắc về việc vô tình hoặc cố ý gây
chết nô tỳ vô tội. Nếu ai đó đánh nô tỳ và gây thương tích, mức độ tội phạm sẽ xem xét
dựa trên mức độ thương tích. Nếu người bị thương không nặng lắm, người gây thương
tích sẽ không bị kết án. Tuy nhiên, nếu thương tích nặng hoặc gây chết người, hình phạt
sẽ tăng cấp từ ba bậc đến lưu đi châu xa và bồi thường tiền đền mạng. Điều 490 cho
biết rằng nếu ai đó gây thương tích hoặc gây chết nô tỳ vô tình (ngộ sát), họ không phải
là người phạm tội. Điều này làm lợi cho người gây thương tích vô tình và không cố ý
gây chết nô tỳ.

30
3.4 Bảo vệ người phạm tội:
Về việc xử lý tội phạm và quy định một loại miễn đi phục dịch đối với một nhóm
tù nhân cụ thể, đó là những tội nhân là cựu thần có công huân và từ ngũ phẩm trở lên.
Điều 10 áp dụng cho những tội nhân, tức là những người đã phạm tội và được xác định
là tội phạm, và họ cần phải thụ án hoặc bị kết án theo quy tắc của luật pháp. "Cựu thần"
ở đây có thể chỉ đến những người trước đây đã có vị trí đặc biệt hoặc làm việc trong các
cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thi hành luật pháp hoặc quản lý xã hội. "Công
huân" có thể liên quan đến việc tài trợ hoặc đóng góp cho xã hội, hoặc có công lao đối
với triều đại Hồng Đức và nước Việt Nam thời kỳ đó. “Miễn đi phục dịch” rằng những
tội nhân thuộc nhóm cựu thần có công huân từ ngũ phẩm trở lên sẽ được miễn khỏi việc
phải phục dịch hoặc thụ án. Ngũ phẩm có thể ám chỉ một cấp bậc xã hội hoặc vị trí đặc
biệt. Ngoài nhóm cựu thần có công huân từ ngũ phẩm trở lên, không có ai khác được
nhận miễn đi phục dịch. Điều này cho thấy sự chặt chẽ và công bằng trong việc áp dụng
luật pháp.
Các điều 14, 41 và 47 trong Bộ luật Hồng Đức đều liên quan đến việc xác định tội
phạm và quyết định mức độ tội phạm của người phạm tội. Không phải tất cả tội phạm
đều bị xử lý một cách cứng rắn mà cần xem xét các yếu tố như tội nặng hay tội nhẹ, cố
ý hay lầm lỡ. Việc này đề cao công bằng trong xét xử hình án bằng cách xem xét nhiều
yếu tố để quyết định tội nặng hay tội nhẹ, thể hiện sự linh hoạt trong hệ thống pháp luật.
Việc xử lý tội phạm của quan viên quân dân. Nó quy định rằng nếu những quan viên
quân dân phạm tội mà không có ý định cố ý, tức là do sơ xuất lầm lỗi, họ có thể được
miễn bỏ tiền chuộc. Tuy nhiên, nếu tội phạm nghiêm trọng hơn, họ có thể phải chịu
hình phạt nặng hơn. Điều này cho thấy sự linh hoạt trong việc xem xét tình huống và
mức độ tội phạm của từng người (Điều 14). Việc xác định mức độ tội phạm dựa trên
việc có sử dụng điều luật chính đáng hay không. Nó cho biết rằng nếu việc định tội
không có điều luật chính đáng như đáng giảm tội, thì ngay cả khi tội phạm là nặng, nó
có thể được xem xét là tội nhẹ (như trong trường hợp lầm lỡ). Ngược lại, nếu việc định
tội đáng thêm tội, thì thậm chí khi tội phạm nhẹ, nó có thể được xem xét là tội nặng.
Điều này đảm bảo việc xác định tội lỗi dựa trên các nguyên tắc công bằng và luật pháp
chính đáng (Điều 41). Việc phân biệt giữa tội lỗi do lầm lỡ và cố ý. Nó yêu cầu xem xét
mức độ tội phạm dựa trên ý định và mục tiêu của người phạm tội. Tội lỗi cố ý thường
bị xem xét nghiêm khắc hơn so với tội lỗi do lầm lỡ. Điều này giúp đảm bảo rằng xử lý
hình án sẽ dựa trên tính công bằng và yếu tố tâm lý của người phạm tội (Điều 47).
Trong góc độ sinh học, độ tuổi không phải là yếu tố đánh giá đồng đều cho mọi
người. Người già và trẻ em, bất kể tuổi tác, có sự khác biệt về khả năng thể chất so với

31
người ở độ tuổi trung niên. Pháp luật phong kiến lại là kiểu pháp luật hình sự hoá hầu
hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt tính chất công – tư. Vì vậy, Bộ
luật Hồng Đức đã đưa ra sự phân chia rõ ràng dựa trên độ tuổi để xác định người già và
trẻ em, áp dụng những quy định mang tính ưu tiên nhằm giảm bớt sự tác động của các
hình phạt vốn rất khắc nghiệt thời phong kiến đối với họ dù họ có bị nghi ngờ là phạm
nhân hay chính là phạm nhân. Những quy định này chủ yếu nằm ở chương Danh lệ,
Đoán ngục. Theo đó, những người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người
bị phế vật sẽ không bị tra khảo, phạm từ tội lưu trở xuống đều được chuộc tội bằng tiền,
người từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống sẽ không phải ra làm chứng, nếu bị kết tội tử
hình phải tâu lên vua, ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc, còn ngoài ra thì
không bắt tội. Riêng đối với người 90 tuổi trở lên và 7 tuổi trở xuống, phạm tội tử cũng
không áp dụng hình phạt hành hình (Điều 16,17).
Đối với người phạm tội hay làm việc có sai sót nhưng tự thú trước khi bị phát hiện
thì được tha tội, miễn tội. Thậm chí bị phát giác khi phạm tội nhẹ nhưng lại tự thú thêm
tội nặng hay những tội khác ngoài tội đang được xem xét thì được tha cả mọi tội. Chỉ
có tự mình thú nhận mới được tính còn trong trường hợp nhờ người thú thay thì không
được tha tội (Điều 20). Năm 1439, vua Lê Thái Tông ra quy định 1 quan = 10 tiền =
600 đồng. Hệ thống đơn vị này tồn tại trong suốt thời Lê sơ và đến tận khi chế độ phong
kiến ở Việt Nam chấm dứt (1945).20 Theo quy định của Bộ Luật Hồng Đức đối với việc
đền bù tiền chuộc cho các tội danh như đánh trượng, lăng mạ, và tước quyền của thứ
dân và nô tỳ thì mức phạt thường thấp hơn rất nhiều so với các đối tượng khác. Theo
Điều 21 và 22, số tiền chuộc cho tội đánh trượng của thứ dân chỉ là 1 đơn vị tiền, tức là
bằng 1/5 so với mức cao nhất áp dụng cho quan tam phẩm. Còn đối với tội “biếm”, mức
tiền chuộc cũng phụ thuộc vào thứ bậc và vị trí xã hội của người bị tước quyền. Thứ
dân và nô tỳ phải đền 10 quan, chỉ bằng 1/10 so với mức cao nhất áp dụng cho quan
nhất phẩm. Ngoài ra, tiền chuộc bị thích chữ vào mặt, vào cổ của thứ dân, mỗi chữ sẽ
bị định mức tiền chuộc là 5 tiền, tức là bằng 1/4 so với mức cao nhất áp dụng cho quan
tam phẩm. Các trường hợp tương tự cũng áp dụng cho việc tiền tẩy thích chữ lên thứ
dân. mỗi chữ 3 quan, trong khi nếu quan lại phạm pháp thì mỗi chữ sẽ phải đền 15 quan,
tức là cao gấp 5 lần so với trường hợp của thứ dân.
Ngoài việc quy định về người phạm tội, Bộ luật Hồng Đức còn có sự phân biệt
đối với người chủ mưu (người khởi xướng) và người đồng phạm (người a tòng). Cụ thể,

20
Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky (2009), Tiền cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.36.

32
người đồng phạm được giảm một bậc so với người chủ mưu, theo quy định tại Điều 35.
Tuy nhiên, cũng tại quy định này, nếu người phạm tội là cùng một gia đình thì không
xét đến yếu tố yếu tố đồng phạm hay chủ mưu mà chỉ bắt người tôn trưởng. Quốc triều
hình luật còn có những quy định về việc giấu tội. Giấu tội là che giấu hành vi phạm tội,
khác với che giấu tội phạm được quy định trong luật này. Theo quy định tại Điều 39,
nếu “… ông bà ngoại, cháu ngoại, vợ cháu nội, anh em chồng, vợ anh em, cùng giấu
tội cho nhau, đày tớ trai gái giấu tội cho chủ nhà, đều không phải tội.” hay nô tỳ giấu
tội cho chủ cũng vậy. Việc quy định như vậy thể hiện nhà làm luật có sự đề cao tinh
thần đoàn kết nhau trong xã hội.
Quốc triều hình luật còn khuyến khích, đề cao sự hiếu thảo của con cháu dành cho
ông bà, cha mẹ. Điều này được thể hiện qua các điều luật như Điều 38: “Con cháu thay
thế cha mẹ hay ông bà chịu tội đánh roi hoặc tội đánh trượng, đều được giảm một bậc”
- con cháu được chịu tội thay, hay theo Điều 485: “Ông bà cha mẹ bị người ta đánh,
con cháu đánh lại mà không bị què gãy, bị thường, thì không phải tội; bị thường, thì
không phải tội; bị thương què thì tội kém tội đánh bị thương người thường ba bậc; đánh
chết thì tội nhẹ hơn luật thường một bậc”. Mặc dù quy định này đi ngược lại với pháp
luật thời hiện đại nhưng nó lại được xem là phù hợp và thể hiện lòng hiếu thảo của con
cháu ở thời phong kiến, khi mà Nho giáo còn ảnh hưởng nhiều đến văn hóa và pháp luật
của Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức còn có những quy định tiến bộ và nhân đạo khi nhắc
đến những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như
trong trường hợp tự vệ chính đáng (Điều 450); trong tình thế cấp thiết, thực hiện mệnh
lệnh (Điều 553); phạm tội do lầm lỡ; … Mặc dù những quy định này còn hạn chế do
tình hình kinh tế - xã hội, chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo, những quy định này
có phạm vi trừng trị tương đối rất rộng cũng như còn nhiều điểm chưa thật sự phù hợp
nhưng không thể phủ nhận rằng sự vượt trội của những giá trị tiến bộ, nhân đạo, tiêu
biểu trong Bộ luật khi bảo vệ nhóm xã hội yếu thế so với những hệ thống pháp luật cùng
thời đại. Chính điều này đã làm cho Quốc triều hình luật trở thành thành tựu tiêu biểu
cho lịch sử lập pháp Việt Nam.
Với những đối tượng phạm tội và những tội nhân ở trong ngục, Bộ luật Hồng Đức
cũng xem đây là nhóm xã hội yếu thế cần bảo vệ bởi sự tự do, tính mạng, … của họ lúc
này là nằm trong tay người có thẩm quyền. Về vấn đề bắt tội nhân, không được áp dụng
một cách tùy tiện, vô căn cứ và không cần thiết, trường hợp đã bắt được mà đánh chết
thì sẽ bị phạt (Điều 646). Về vấn đề xét hỏi, tra khảo tù nhân, họ không được tra khảo
quá ba mà không phân biệt đã qua bao nhiêu cấp xét xử và cũng không được vượt quá
số lần được quy định dùng trượng hay roi đánh phạm nhân trong quá trình tra khảo.

33
Ngoài ra, Điều 667 còn quy định: “Khi lấy khẩu cung người phạm tội, quan tra án phải
xem xét kỹ, tìm ra sự thực, để cho kẻ phạm tội phải nhận tội; không được hỏi quá rộng
cả đến người ngoài tìm chứng cớ bậy; nếu trái điều này thì xử tội phạt. Những nếu việc
xét hỏi việc đánh nhau, cần phải nhiều người làm chứng, thì được phép tâu lên xin đòi
ra để tự hỏi, nếu tự tiện sai bắt, thì cũng bị phạt.”, như vậy, quy định này đã tạo ra trách
nhiệm của quan lại khi xét hỏi tội phạm phải kỹ lưỡng, không được hỏi quá rộng để tìm
những chứng cứ không có thật và không được bắt oan người vô tội. Nội dung này cũng
mang nét tương đồng với quy định tại Điều 670 khi điều luật quy định quan án không
được tìm việc khác buộc tội người ngoài tờ cáo trạng. Để đảm bảo tính công bằng, minh
bạch, Quốc triều hình Luật cũng quy định phải xét xử công khai người trên công đường
(Điều 709) và nếu thấy chứng cứ chưa đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội thì
phải tạm dừng để điều tra, xét hỏi lại, không được sử dụng ý chí chủ quan để gán tội
cho người bị xét xử (Điều 720).
Như đã phân tích ở trong trường hợp phạm nhân là nữ hay thuộc nhóm là người
già trên 70 tuổi và trẻ em dưới 15 tuổi, Bộ luật Hồng Đức cũng có sự ưu ái với họ (Điều
680, Điều 665). Những điều luật này thể hiện sự nhân đạo, nhân văn trong Quốc triều
hình luật dù những đối tượng này là người có tội nhưng xét về thể chất, họ vẫn chưa
hoàn thiện hoặc có vấn đề nên cần sự khoan hồng từ pháp luật.
Thông qua những quy định về bảo vệ quyền lợi của người phạm tội, nhà làm luật
đã thể hiện rõ quan điểm nghiêm trị nhưng vẫn nhân đạo, khoan hồng. Việc xét đến
nhiều yếu tố khi xác định hành vi tội phạm hay quy định về trách nhiệm của người xử
án, … đã thể hiện được cái tâm và cái tầm của nhà làm luật so với thời phong kiến lúc
bấy giờ.
3.5 Bảo vệ người tàn tật, bệnh nặng; người nghèo và dân đinh:
Xử lý tội phạm, Điều 17 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Khi phạm tội chưa già cả
tàn tật, đến khi già cả tàn tật việc mới phát giác, thì xử tội theo luật giá cả tàn tật... Khi
còn bé nhỏ phạm tội, đến khi lớn mới phát giác, thì xử tội theo luật khi còn nhỏ” quy
định này lưu ý đến thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật.
Nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên quan đến
người làm chứng, tại Điều 665, quy định: “Những người đáng được nghị xét giảm tội
như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ
cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội. Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc
tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho nhau như người 80 tuổi trở lên,

34
10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”. Quy Định
thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho phạm nhân nhất có thể khi bị xử tội.21
Ở Điều 165: “Những quan cai quản quan nô tự tiện thích chữ vào dân đinh để vào
hạng nô ấy, thì xử phạt biếm ba tư. Viên quản giám kế sau biết việc này và im đi, thì xử
tội nhẹ hơn viên quản giám trước một bậc. Nếu người dân nào tự thích chữ thì xử phạt
50 roi, biếm một tư, và lại giao về bản ấp, truy bắt số tiền khóa dịch nộp vào công khố.
Kẻ nào thích chữ hộ, xử phạt biếm một tư”. Việc Quốc Triều Hình Luật đề ra những
luật lệ này để hạn chế sự lạm quyền, buộc các quan đại thần phải tuyệt đối trung thành
và tận tụy với nhà vua, điều khoản đó cũng nhằm hướng tới điều chỉnh những quan hệ
xã hội liên quan đến đời sống của nhân dân, trong đó luôn có sự kết hợp hài hoà giữa
luật tục, lễ nghi và tư tưởng Nho giáo. Đồng thời, qua đó cho chúng ta thấy tư duy cởi
mở của tập đoàn phong kiến Lê Sơ, không bị hạn chế bởi tư tưởng tự tôn cực đoan
thường thấy ở các triều đại phong kiến khác mà sẵn sàng tiếp thu và chủ động sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể nước ta thời kỳ đó.
Với những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược
với tù nhân, như trường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được tiến hành tra khảo,
cụ thể, Điều 669, quy định: “…Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo
thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan tiền,
nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư” hay "Tra khảo tù phạm không được quá ba lần; đánh
bằng trượng không được quá số 100; trái luật này thì bị phạt tiền 100 quan".
Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không có ai để nương tựa thì quan
chức địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ họ, Điều 294 quy định: “Ở những phường
hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng,
nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa, quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng
lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ
mặc họ rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất,
không được để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm
hay bị bãi chức…”. Ngoài ra, một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác theo Điều
295 là “những người góa vợ, góa chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ không
người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng
họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại
ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công”. Nó Được hiểu rằng không nên

21
Nguyễn Thị Kim Tiến (2002), Tính nhân đạo và tiến bộ luật Hồng Đức, Đề tài khoa học cấp
trường, Khoa Luật đại học Duy Tân, tr.4.

35
kì thị,bỏ rơi người bệnh tật cần phải quan tâm chăm sóc họ, tránh trường hợp để học
bệnh mà chết. Nhờ quy định này mà dưới thời Nhà Lê, điển hình là thời vua Lê Thánh
Tông thì số người cơ cực chết vì bệnh được giảm mạnh. Mặc dù mang bản chất giai cấp
phong kiến nhưng bộ luật vẫn chứa nhiều yếu tố tiến bộ hơn với những yếu tố tiến bộ
hơn đặc biệt là sự quan tâm đến địa vị của những người yếu thế trong xã.
Đối với các tội danh như trượng, biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích
chữ. Tuy nhiên các tội thập ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh
roi (có tính chất răn đe, giáo dục) không cho chuộc. Luật này có quy định rõ về từng
trường hợp mà phạm nhân phải chịu thụ hình một phần trong hình phạt và chỉ được
phép chuộc tội phần còn lại. Tuy nhiên, luật chỉ cho chuộc tiền với các "tội tạp phạm",
nghĩa là những tội vô ý hay bất hạnh xảy ra, hoặc do người khác gây ra mà can phạm
phải chịu tội lây, hoặc do các người già cả, trẻ con, phế tật, người xem thiên văn, các
người đàn bà có tài sản, hay vợ của quan chức gây nên. Các tội "thập ác", các tội dẫu
gặp ân xá cũng không được tha, các tội hối lộ, thông gian, ăn trộm, ăn cắp, giết người...
đều không được áp dụng chuộc tội bằng tiền. Ví dụ Điều 24: “Tiền chuộc bị thích chữ
vào mặt (vào cổ cũng vậy) mỗi chữ, tam phẩm chuộc 2 quan, tứ phẩm 1 quan 5 tiền,
ngũ phẩm một quan, lục phẩm 7 tiền, thất phẩm 6 tiền, bát cửu phẩm 5 tiền (thứ nhân
cũng thế)”.
Điều 32: “Tiền tẩy thích chữ - Mỗi chữ 3 quan, quan lại phạm pháp thì mỗi chữ
15 quan”. Đối với tội biếm thì cũng theo thứ bậc, thứ dân và nô tỳ là 10 quan, chỉ bằng
1/10 mức cao nhất đối với quan nhất phẩm. Tiền chuộc bị thích chữ vào mặt, vào cổ
của thứ dân mỗi chữ 5 tiền, bằng 1/4 mức cao nhất đối với quan tam phẩm. Tiền tẩy
thích chữ cũng vậy, mỗi chữ 3 quan, quan lại phạm pháp thì mỗi chữ 15 quan, cao gấp
5 lần thứ dân. Bộ luật Hồng Đức cũng đã có những quy định phân biệt về người phạm
tội với tư cách là chủ mưu và đồng phạm, theo đó đồng phạm (người a tòng) được giảm
một bậc so với người chủ mưu (người khởi xướng). Tuy nhiên nếu những người phạm
tội là người trong cùng một gia đình thì không tính đến người chủ mưu hay người đồng
phạm mà chỉ bắt tội người tôn trưởng. Người thân trong gia đình mà giấu tội cho nhau
thì pháp luật cũng không xử lý. Nô tỳ giấu tội cho chủ cũng vậy. Điều này đề cao tinh
thần đoàn kết và trách nhiệm của người tôn trưởng trong gia đình. Mối quan hệ giữa
Nho giáo với phong tục tập quán, pháp luật và đạo đức cũng được giải quyết hài hòa
như quy định việc con cháu có thể thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình bằng cách thay
ông bà cha mẹ chịu tội đánh roi và đánh trượng. Pháp luật cũng khuyến khích điều đó
bằng cách giảm nhẹ hình phạt cho những người chịu tội thay. Trong trường hợp ông bà,
cha, mẹ bị người khác đánh mà con cháu đánh lại nếu không gây thương tích nghiêm

36
trọng thì không bị bắt tội còn nếu gây thương tích như bị què, gãy thì tội được giảm nhẹ
ba bậc so với đánh nhau thông thường, còn nếu đánh chết thì tội được giảm nhẹ so với
thông thường một bậc.
Theo Điều 697: “Những tang vật bị tịch thu, để quá hạn không tịch thu (hạn là :
tang vật trị giá từ 1000 quan trở lên, thì hạn phải tịch thu là năm tháng; từ 500 quan
trở lên, hạn ba tháng; từ 100 quan trở lên, hạn một tháng rưỡi; từ 90 quan trở xuống,
hạn một tháng), thì thuộc lại coi việc bị xử phạt 80 trượng. Nếu quá hạn lâu thì phải tội
biếm một tư. Nếu tội nhân nghèo khó quá không sao nộp được, thì thuộc lại được
phép trình bản ty để tâu lên vua định đoạt. Các quan bị tội bãi chức hay cách chức,
phải thu bằng sắc, thì tùy theo đường sá xa gần mà thi hành, nếu để quá ba ngày mà
không thi hành, thì ngục quan bị phạt tiền 5 quan, ngục lại bị phạt 30 roi; để chậm nữa
thì cứ 5 ngày lại tăng tội một bậc, tội chỉ đến phạt tiền 20 quan, và phạt 80 trượng”,
trường hợp phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng với hoàn cảnh của tội nhân
nghèo khổ cùng cực không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu
lên vua định đoạt. Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ
quyền lợi thiết yếu của họ, Điều 707 quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến
bị thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của
tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà
tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố
giác thì cũng bị tội trên, nhưng được giảm một bậc”.22
Ở Điều 365: “Người thích chữ vào vợ, con trai con gái người khác và nô tỳ của
người khác để bắt làm nô tỳ của mình, thì xử tội đồ; kẻ phạm lỗi trên không có quan
chức thì xử tội lưu và đều phải trả tiền 50 quan cho cha mẹ hay người chồng và trả
những người bị ép ấy cho nhà người ta. Người biết mà viết thay văn tự, và người chứng
kiến đều phải biếm hai tư. Thích chữ vào người ở đợ làm nô tỳ mình, thì cũng xử tội
như trên và phải trả tiền tẩy chữ theo như luật định. Nếu đem bán đứt dân định làm nô
tỳ cho người thì phải biếm năm tư và phải đền gấp đôi số tiền bán, nộp vào kho một
nửa. Còn nguyên tiền bán thì phải trả cho người mua, dân đính lại trả về làm dân
thường. Nếu biết mà cứ mua thì phải biếm ba tư, tiền mua phải tịch thu sung công.
Người viết thay văn tự hay chứng kiến mà biết sự việc thì phải biếm hai tư”. Những đối
tượng này gồm có người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở đợ, người mất khả năng nhận
thức…Điều 363 có quy định: “Mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi mà

22
Nguyễn Quốc Hoàn (2004), Quốc triều hình luật những giá trị về lập pháp, Luận văn thạc sĩ Luật
học, NXB Khoa học Xã hội, tr.134.

37
lại tự ý xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”, trường hợp xâm chữ vào kẻ ở đợ
bắt làm nô tỳ cho mình thì bị xử lưu, phạt 50 quan tiền, ngoài ra còn phải trả tiền xóa
chữ theo luật định (Điều 365). Nếu “Những nô tỳ được cho về làm lương dân, cấp giấy
rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một tư. Người nô
tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (Điều 291).23
Mặc dù mang tên là “Quốc triều hình luật” nhưng trong bộ luật này lại có những
quy định rất cụ thể về trách nhiệm của quan lại địa phương đối với cuộc sống của người
dân. Và nếu viên quan sở tại nào để cho dân đói khổ thì đều bị khép vào tội hình để xét
xử, nặng thì bị cách chức. Người xưa vẫn thường hay nói rằng: Mọi sự rối loạn đều bắt
đầu từ sự rối loạn về trật tự, kỷ cương. Vì vậy, để giữ nghiêm được trật tự trong gia
đình, tập thể dù lớn hay nhỏ hoặc là xã hội thì đều phải bắt đầu từ việc giữ gìn kỷ cương
hằng ngày, mà cụ thể là từ những điều tưởng chừng như là nhỏ nhặt nhất. Kỷ cương
nhỏ nhặt nhất không giữ được thì làm sao giữ nổi kỷ cương phép nước? Và chính vì
quan điểm này mà triều đại nhà Lê đã xây dựng được bộ luật vừa cụ thể, chi tiết, nhân
văn, hiện đại và giàu tính nhân đạo.
3.6 Quy định về trách nhiệm, hình phạt khi có hành vi xâm phạm quyền
lợi, tính mạng, sức khỏe của nhóm yếu thế trong xã hội hay sự lạm
quyền của quan lại, người có uy quyền:
3.6.1. Trách nhiệm của người thực thi công vụ trong việc bảo vệ quyền
lợi của nhóm yếu thế trong xã hội
Lê Thánh Tông chủ trương "kính thiên ái dân". Đây là hai yếu tố luôn đi song
hành với nhau và luôn đạt nhà vua vào nghĩa vụ tự "tu thân, tề gia, trị quốc". Điều này
đã phần nào hạn chế được sự chuyên quyền, độc đoán, thúc đẩy ông đưa ra những chính
sách tích cực trong cai trị, đáp ứng yêu cầu chính đáng của dân chúng. Ông quan niệm
đế vương phải nuôi dưỡng bằng lòng dân, để đức trùm khắp tám phương, để dân sống
no đủ, không còn đói rét, lưu vong nữa. Thương yêu dân là trách nhiệm của quan lại,
mọi việc lợi nên làm cho dân, mọi mối hại nên bỏ. Với ý tưởng đó, sẽ không ngạc nhiên
khi thấy trong sắc chỉ của nhà vua và trong Bộ luật Hồng Đức có khá nhiều quy định về
quyền tự do của người dân, ngăn chặn việc nô tỳ hóa dân đinh, trách nhiệm của quan
lại trong việc chăm sóc đối với những người già cả, neo đơn, ốm đau; nương nhẹ trong
áp dụng hình phạt đối với những người trót lầm lỡ mà phạm tội, người già, trẻ em… Bộ

23
Nguyễn Thị Kim Tiến (2002), Tính nhân đạo và tiến bộ luật Hồng Đức, Đề tài khoa học cấp
trường, Khoa Luật đại học Duy Tân 2002, tr.4.

38
luật Hồng Đức xác định trách nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm của hệ thống
quan lại nhằm đảm bảo đời sống tối thiểu của những người nghèo khổ trong xã hội.
Nhà vua đã quy định, trong địa bàn do mình quản lý, quan lại địa phương phải biết
làm việc lợi, trừ hại, không được để nhân dân đói khổ đến nỗi phải phiêu bạt đi nơi
khác, hộ khẩu hao hụt, trộm cướp tụ họp làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn của người
dân: “Các quan ty làm việc ở ngoài nếu không biết làm việc lợi, trừ việc hại, để dân
trăm họ phải phiêu bạt đi nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt và có trộm cướp tụ họp ở trong
hạt thì xử tội bãi chức hay tội đồ...” (Điều 284). Không những phải có trách nhiệm
chăm lo đời sống của những đối tượng lang thang, cơ nhỡ mà còn phải có trách nhiệm
xử lý đối với những trường hợp nhà, đầy tớ của người quyền thế lợi dụng chức vụ quyền
hạn của chủ mà có hành vi làm hại dân, đối với những trường hợp đó xã quan phải có
trách nhiệm trình báo lên cấp trên, các quan cấp huyện, tỉnh cũng có trách nhiệm tâu lên
để giải quyết Nếu dung túng, bao che đều sẽ bị xử tội biếm24.
Chẳng hạn: “Trong kinh thành hay phường, ngõ và làng xóm có kẻ đau ốm mà
không ai nuôi nấng, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng
lều lên mà giữ gìn, săn sóc và cho họ cơm cháo thuốc men, cốt sao cứu cho họ sống,
không được bỏ mặc cho họ rên rỉ khốn khổ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình
lên quan trên và chôn cất, không được để phơi lộ thi hài, nếu trái lệnh này thì quan
phường xã phải tội biếm hay bãi chức” (Điều 294). Hoặc những người góa vợ, góa
chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân thích để nương
tựa, không thể tự mình mưu sống được thì quan sở tại phải thu nuôi họ (Điều 295).25
Trong vấn đề đánh thuế, bắt sai dịch, quan lại cũng phải thực hiện theo quy định
về thứ tự giàu trước nghèo sau, gia đình đông người trước rồi mới đến gia đình ít người.
Việc đánh thuế phải đúng thủ tục, tránh nhầm lẫn để đảm bảo công bằng, tránh sự tuỳ
tiện. Ví dụ: “Nếu đánh thuế hay bắt sai dịch trái phép (nghĩa là trước phải chia bổ
những người giàu, người khỏe, sau mới đến những người nghèo, người yếu; trước chia
bổ những nhà nhiều người, sau mới đến những nhà ít người) hay không công bằng
(nghĩa là theo đúng điều kiện giàu, nghèo, khỏe, yếu, trước sau) thì xử tội biếm hay
phạt…” (Điều 325), “...Nếu khám biên sai sự thật để nhầm lẫn mà thu thuế hay cho
miễn thuế, thì phải bồi thường tiền thuế gấp hai lần...” (Điều 349).

24
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.64.
25
Đặng Thị Hải Hằng (2014), Luận văn Bộ Luật Hồng Đức - Nội dung cơ bản và giá trị đương đại,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr.56

39
Việc bảo vệ người dân trước những người có quyền thế, các quan lại có các hành
vi hà hiếp, bức hại để mua ruộng của người khác, tranh giành chiếm đoạt nhà, đất đai
của người dân cũng bộ luật được quy định: “Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa,
ao, đầm, ruộng đất của lương dân từ 1 mẫu trở lên thì xử tội phạt, từ 5 mẫu trở lên thì
xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tội tăng thêm hai bậc và phải bồi thường
như luật định. Đã tâu lên rồi thì xử khác.” (Điều 370).
Quan lại là những người sử dụng quyền lực, được sử dụng những phương tiện bạo
lực đi kèm quyền lực đó nên thường có nhiều khả năng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
mưu lợi riêng, ức hiếp nhân dân. Tuy nhiên, quyền lực mà họ được quyền sử dụng là
quyền lực công, phải dùng để phục vụ lợi ích công. Nên hành vi sách nhiễu quần dân,
lợi dụng việc công để trục lợi sẽ bị phạt26: “Các quan cai quản quân dân các hạt, vô cớ
mà đi đến những làng, xã trong hạt, hay là cho vợ cả vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc
mua bán làm cô, để quấy nhiễu quần dân, lấy của biếu xén, thì xử tội biếm hay bãi chức.
Người tố cáo đúng sự thực, thì được thưởng tùy theo việc nặng nhẹ.” (Điều 632).
3.6.2. Chế tài đối với người thực thi công vụ, người có quyền thế khi có
hành vi xâm phạm quyền lợi của nhóm người yếu thế trong xã hội
Trong Bộ luật Hồng Đức, với mỗi điều luật cụ thể, nhà làm luật đều quy định trách
nhiệm của quan lại. Nếu quan lại chậm trễ, làm trái, thi hành pháp luật không nghiêm
minh thì bị coi là phạm tội và sẽ bị xử phạt. Cũng như vậy, đối với các quy định mang
tính bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thể đều được gắn với trách nhiệm của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Không những quy định nghĩa vụ của cơ quan có thẩm
quyền trực tiếp giải quyết mà còn quy định cả hình thức xử lý nếu cơ quan đó không
thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình. Bằng cách đó, nhà nước đã đảm bảo
việc thực hiện trách nhiệm của quan lại và đảm bảo trên thực tế quyền lợi cho nhóm xã
hội yếu thế.
Có thể dẫn chứng các điều khoản quy định như sau: nếu quan sở tại không tổ chức
nuôi dưỡng người cô độc, tàn tật, nghèo khổ thì bị đánh 50 roi, biếm một tư (Điều 295),
quan xã không tố cáo kẻ tôi tớ nhà quyền thế làm hại dân thì biếm một tư (Điều 269)…
Đặc biệt, để tránh nguy cơ lạm quyền, lộng quyền từ quan lại, luật quy định chế
tài nghiêm khắc đối với hành vi của quan lại, các nhà quyền thế khi xâm phạm lợi ích
của những người thuộc nhóm yếu thế. Theo Điều 409: “Quan coi ngục, lại ngục, ngục

26
Bùi Thị Đào (2003), Quan chế triều Lê qua Quốc triều hình luật, Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư
pháp.

40
tốt gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với
tội gian dâm thông thường” hoặc Điều 707: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị
thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của tù
nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù
nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố giác
thì cũng bị tội trên, nhưng được giảm một bậc”. Việc bảo vệ người dân trước những
người có quyền thế, có các hành vi hà hiếp, bức hại để mua ruộng của người khác, tranh
giành chiếm đoạt nhà, đất đai của người dân cũng bộ luật được quy định: “Các nhà
quyền quý chiếm đoạt nhà cửa, ao, đầm, ruộng đất của lương dân từ 1 mẫu trở lên thì
xử tội phạt, từ 5 mẫu trở lên thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở xuống thì xử tội tăng
thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định. Đã tàu lên rồi thì xử khác.” (Điều 370)
hoặc cấm và trừng phạt những hành vi cậy quyền thế cưỡng ép, ức hiếp con gái lương
dân kết hôn: “Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân thì xử tội
phạt, biếm hay đồ” (Điều 338).
Ông xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền mạnh nhằm tập trung quyền lực
vào tay Hoàng đế, hạn chế sự tham chính của tầng lớp quý tộc hoàng gia, loại trừ khả
năng lộng quyền của các triều thần từ trung ương và tệ nạn lạm dụng quyền lực của các
quan lại địa phương.27 Ngoài việc quy định rõ trách nhiệm của các quan lại trong quá
trình giải quyết công vụ pháp luật còn quy định các chế tài một cách đa dạng đối với
những người thực thi nhiệm vụ nếu không tuân thủ các quy định đặt ra. Biện pháp xử
lý có thể là phạt đánh trượng, phạt tiền, biếm chức... tùy theo mức độ nghiêm trọng của
hành vi vi phạm. Bằng các quy định chặt chẽ đó Bộ luật Hồng Đức đã đảm bảo được
trên thực tế quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế28.
4. Nhận xét những quy định bảo vệ nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật
Hồng Đức:
4.1 Ưu điểm:
- Thể hiện những giá trị nhân đạo, tiến bộ và xã hội cao so với hệ thống pháp luật
cùng thời kỳ: Những quy định của Bộ luật Hồng Đức về bảo vệ nhóm xã hội yếu
thế được thực hiện trên nhiều lĩnh vực. Kỹ thuật lập pháp theo xây dựng quy
phạm pháp luật với ba bộ phận là giả định, quy định, chế tài và trọng tâm là xác

27
Nhâm Thúy Lan, Bảo vệ nhóm yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và một vài giá trị tham khảo, Tạp chí Tòa án.
https://www.tapchitoaan.vn/bao-ve-nhom-%C2%A0yeu-the-trong-bo-luat-hong-duc-va-mot-vai-gia-tri-tham-
khao8289.html (truy cập ngày 20/10/2023)
28
Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và
giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.63.

41
định hành vi nào là tội phạm và hình phạt. Ngoài ra, Bộ luật Hồng Đức còn bảo
vệ cho quyền lợi của trẻ em gái, điều mà pháp luật Trung Hoa chưa quan tâm
nhiều hay có những quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để buộc họ thực hiện đúng với chức vụ của mình. Việc quy định về bảo
vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế, điển hình như của người phụ nữ là họ có
quyền ly hôn, được giảm nhẹ tội, không phải chịu hình phạt tàn khốc, … đã thể
hiện những quan điểm thật sự tiến bộ so với các quốc gia trong khu vực hay quốc
gia ở Tây Âu (tận năm 1882, Nghị viện Anh mới thông qua Luật về tài sản của
phụ nữ có chồng) dù còn chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo.
- Củng cố quyền lực chính trị.
- Đời sống nhân dân được cải thiện, đây là điều kiện giúp kinh tế - xã hội phát
triển theo.
4.2 Nhược điểm:
- Có thể có hành vi lạm quyền xuất phát từ nhóm xã hội yếu thế.
- Có thể tạo nên làn sóng bất mãn đối với những người thuộc tầng lớp cai trị.
4.3 Kết luận:
Những quy định về bảo vệ nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội được nêu trong
Bộ luật Hồng Đức đã mang lại những giá trị tốt đẹp cho xã hội. Mặc dù tại thời điểm
này, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu và trình độ lực
lượng sản xuất còn thấp kém nhưng các nhà làm luật đã có sự kế thừa sáng tạo, tiếp thu
có chọn lọc từ hệ tư tưởng pháp luật Trung Hoa và vận dụng linh hoạt những giá trị văn
hóa, truyền thống tốt đẹp mà tạo nên Quốc triều hình luật. Tuy cũng còn có thể xuất
hiện một vài hạn chế khi quy định như vậy nhưng không thể phủ nhận rằng những giá
trị này thật sự nhân văn, nhân đạo và tiến bộ, vượt qua cả pháp luật Trung Hoa và Tây
Âu cùng thời kỳ.

42
C. KẾT LUẬN
Bộ luật Hồng Đức là một tiêu biểu của hệ thống pháp luật Việt Nam, thể hiện
không những đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp hài hòa, tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa pháp luật Trung Hoa, mà còn thể hiện tư duy tự chủ, độc lập, sáng tạo
của nhà làm luật thời Lê sơ, trong đó công lao lớn nhất chính là của vua Lê Thánh Tông.
Việc ra đời Bộ luật này đã giải quyết được những đòi hỏi cấp thiết của đất nước và tạo
ra một cơ sở lập pháp vượt trội so với những hệ thống pháp luật lúc bấy giờ.
Những nội dung được quy định trong Bộ luật đều rất nhân văn, khoan hồng
nhưng cũng không kém phần nghiêm minh, răn đe, giáo dục đối với những hành vi
phạm tội. Bảo vệ quyền lợi của nhóm yếu thế xã hội thông qua công cụ pháp luật không
chỉ là một tôn chỉ đạo đức mà còn là yếu tố quan trọng đối với tính công bằng, nhân
đạo. Thông qua Bộ luật Hồng Đức, đời sống nhân dân được cải thiện và tình hình kinh
tế, chính trị cũng dần ổn định hơn. Văn bản này không chỉ là công cụ của nhà nước
phong kiến trong cai trị, quản lý dân cư mà còn giúp đảm bảo sự công bằng xã hội,
không có sự phân biệt người với người. Bộ luật Hồng Đức đã đặt nền tảng đầu tiên,
mang những giá trị vượt trội, tiến bộ, nhân văn, nhân đạo khi quy định việc bảo vệ
quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế và những quy định này có ý nghĩa sâu sắc trong việc
kế thừa những quy định này trong những văn bản quy phạm pháp luật sau này.

43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Thị Ngọc Hà (2015), Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ
luật Hồng Đức và giá trị kế thừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2. Lương Văn Tuấn (2008), Những giá trị đương đại của bộ luật Hồng đức, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Phạm Thị Quỳnh (2012), Quan điểm của giáo dục - khoa cử, giáo hóa đạo đức
ở thời lê sơ và vai trò của nó trong xã hội đương thời, Tạp chí Khoa học Việt
Nam, (03), Tạp chí Khoa học Xã hội Việt. Được trích lục từ:
https://vjol.info.vn/index.php/khxhvn/article/view/31306/26562.
4. Nguyễn Văn Quyết & Phạm Anh Tuấn (2012), Nhà nước Việt Nam với công tác
hỗ trợ nhóm yếu thế, Kỷ yếu hội thảo ngày công tác xã hội thế giới năm.
5. Dương Văn Chăm (2012), Luật Hồng Đức với vấn đề bình đẳng giới, TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ TỈNH BẾN TRE. Được trích lục từ:
http://truongchinhtribentre.edu.vn/noi-dung/lua-t-ho-ng-du-c-vo-i-va-n-de-
binh-da-ng-gio-i
6. Phạm Thị Hồng Đào. (2019), Tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức với sự hoàn
thiện Bộ luật hình sự năm 2015. Được trích lục từ:
https://kiemsat.vn/tinh-nhan-dao-cua-bo-luat-hong-duc-voi-su-hoan-thien-bo-
luat-hinh-su-nam-2015-
46745.html?fbclid=IwAR3B6vPwOVc7MnOH0gfClk-txBTgWjUab-KW-
mRuFrem3C6eOhAHNl4oxoQ
7. Nguyễn Phương Lan (2003), Giá trị của Quốc triều hình luật qua các quy định
điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp
Viện khoa học pháp lý.
8. Trần Thị Huệ (2003), Chế định sở hữu trong Quốc triều hình luật, Đề tài khoa
học cấp bộ, Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý.
9. Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky (2009), Tiền cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Kim Tiến (2002), Tính nhân đạo và tiến bộ luật Hồng Đức, Đề tài
khoa học cấp trường, Khoa Luật đại học Duy Tân.
11. Nguyễn Quốc Hoàn (2004), Quốc triều hình luật những giá trị về lập pháp, Luận
văn thạc sĩ Luật học, NXB Khoa học Xã hội.
12. Đặng Thị Hải Hằng (2014), Luận văn Bộ Luật Hồng Đức - Nội dung cơ bản và
giá trị đương đại, Đại học Quốc gia Hà Nội.

44
13. Bùi Thị Đào (2003), Quan chế triều Lê qua Quốc triều hình luật, Đề tài khoa
học cấp bộ, Bộ Tư pháp.
14. Nhâm Thúy Lan (2023), Bảo vệ nhóm yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và một
vài giá trị tham khảo, Tạp chí Tòa án. Được trích lục từ:
https://www.tapchitoaan.vn/bao-ve-nhom-%C2%A0yeu-the-trong-bo-luat-hong-
duc-va-mot-vai-gia-tri-tham-khao8289.html

45

You might also like