Professional Documents
Culture Documents
Lớp: Địa 3
Xây dựng và củng cố quốc gia thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam hiện
đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo ven bờ cùng quần đảo trên biển Đông. Dưới
thời Nguyễn, khu vực biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập
từ bắc chí nam, tương đương với khu vực biển, đảo của chúng ta hiện nay, đó là
vùng biển từ Quảng Yên (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) với các đảo
ven bờ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa, Trường Sa. Triều Nguyễn là một
vương triều quân chủ tập quyền có những mặt hạn chế về chế độ chuyên chế, về
một số chính sách đối nội, đối ngoại, nhưng cũng đạt nhiều tiến bộ về mặt quản
lý quốc gia thống nhất, về cải cách hành chính, xây dựng thiết chế và cơ chế vận
hành của bộ máy Nhà nước tổ chức rất quy củ.
Thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn để lại một di sản văn hóa đồ sộ
bao gồm cả di sản vật thể và phi vật thể. Di sản này rải rộng trên cả nước từ Bắc
chí Nam, là kết quả lao động sáng tạo của nhân dân ta, của cộng động các thành
phần dân tộc Việt Nam, của các nhà văn hóa kiệt xuất tiêu biểu cho trí tuệ và
tâm hồn dân tộc. Di sản này được kết tinh trong một số di sản đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới nghĩa là hàm chứa những giá trị
mang ý nghĩa toàn cầu như Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình, phố cổ Hội An.
Cùng với việc ghi nhận và tôn vinh những công trạng sáng chói trong lịch
sử dân tộc Việt Nam thì Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn vẫn còn tồn tại
những hạn chế của thời kỳ lịch sử này như:
Thứ nhất, về trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước. Có
ý kiến cho rằng, các sử gia miền Bắc đã có những đánh giá vô cùng gay gắt, quy
trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nước rằng Nguyễn
Ánh đã “ cõng rắn cắn gà nhà” ( cầu viện Pháp) và Tự Đức “ bán rẻ đất nước”
cho thực dân. Ngay cả sử gia Pháp Gosselin cũng cho rằng các vua Nguyễn phải
chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước An Nam, đánh giá
triều Nguyễn là một chính quyền mù quáng. Tuy nhiên, cũng có những nhận
định mang tính công tâm hơn và cũng là xu thế đánh giá chủ đạo hiện nay.
Trong “ Việt Sử tân biên”, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam rơi vào tay thực
dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí của Việt Nam
quá thấp kém so với người Pháp.
Trong bối cảnh thế kỷ XIX, canh tân đất nước là một yêu cầu bức xúc
ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc. Trên bình diện thế giới, khi các nước
phương Tây đã bước vào thời đại phát triển tư bản chủ nghĩa và văn minh công
nghiệp thì tình trạng tiền tư bản và tiền công nghiệp của Việt Nam và phương
Đông nói chung đã bộc lộ sự chậm tiến, sự lạc hậu so với thời đại. Đây là mặt
hạn chế lớn của triều Nguyễn.
Không những không thực hiện canh tân đất nước theo xu hướng tiến bộ,
nhà Nguyễn còn có những chính sách sai lầm , đặc biệt là những vấn đề cấm
đạo và tàn sát người công giáo. Chính sách này chẳng những tạo cái cớ hợp lí để
Pháp nổ súng xâm lược mà còn phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Không những
thế, chính nội tại nhà Nguyễn đã không thể thông nhất phương hướng, chia
thành 2 phe chủ chiến và chủ hòa.
Với những đóng góp và hạn chế kể trên thì các chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn vừa là tác nhân vừa là một trong những sản phẩm của xã hội Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 1. PDF
2. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb KHXH, H. 1998, tr. 18.
3. Thơ văn Lý Trần, Toàn tập, Tập 1, Nxb KHXH, H. 1977, tr. 462.
4. Tiến trình Lịch sử Việt Nam
5. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb KHXH, H. 1998, tr. 49.