You are on page 1of 34

Kể từ khi Đoan quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm đất Thuận

Hóa năm 1558 thì Phật giáo Đại Việt đã có hơn 250 năm hiện diện
và phát triển trên mảnh đất này. Với nhãn quan nhạy bén và sự
thành tâm, ngay từ buổi đầu, Tiên chúa Nguyễn Hoàng cũng như
các đời chúa Nguyễn về sau đã nhận thức rõ Phật giáo chính là nền
tảng tinh thần của bao lớp lưu dân Đại Việt xứ Đàng Trong, là sợi
dây kết nối hữu cơ đối với cư dân tiền trú trên phương diện văn
hóa - tín ngưỡng. Từ đó, họ đã giương cao ngọn cờ Phật giáo để
cố kết lòng người, mở mang bờ cõi, xây dựng cơ nghiệp, mưu cầu
hạnh phúc cho bá tánh.
. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với các chúa Nguyễn Nếu chúa Tiên Nguyễn Hoàng ủng hộ
Phật giáo xuất phát từ mục đích chính trị, nhằm vỗ về dân chúng, thu phục nhân tâm, thì qua
các đời chúa tiếp theo và đặc biệt là chúa Nguyễn Phúc Chu, sự hộ trì Phật pháp không chỉ là
yêu cầu chính trị, mà còn xuất phát từ tư tưởng và tâm hồn của một phật tử mộ đạo. Phật giáo
lúc này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng và qua đó đến đường lối, chính sách chính
trị của các chúa. Sử sách còn ghi chép lại mối lương duyên giữa chúa Nguyễn Phúc Chu và
Hòa thượng Thạch Liêm. Chúa Nguyễn đối với Hòa thượng Thạch Liêm rất đỗi kính trọng,
tôn kính và dốc lòng học hỏi, còn về phía Hòa thượng cũng luôn có lòng thành và kính nể
chúa. Giữa hai người thường xuyên có những cuộc đàm đạo không chỉ về Phật pháp, về tăng
đoàn, mà còn những vấn đề liên quan đến việc trị nước. Những lời trong bài Tựa cho Hải
ngoại ký sự của chúa Nguyễn Phúc Chu: "Ngoài chuyện ngày đêm giảng dạy đạo lý, còn chỉ
bảo cương kỷ luân thường. Từ chuyện to đến chuyện nhỏ đều vạch lối chỉ đường, phân tích rõ
ràng mạch lạc, khác nào dẫn dắt người từ nơi tối tăm ra nơi ánh sáng, giúp ích cho ta trong
công việc chính cương trị nước biết chừng nào" [6, tr. 10], cho thấy ảnh hưởng của lão Hòa
thượng đến chúa như thế nào. Qua những lần đàm đạo đó, Hòa thượng Thạch Liêm đã đưa ra
những chỉ vẽ, đề nghị liên quan đến những việc trị quốc. Và điều thật sự có ý nghĩa là chúa
Nguyễn đã thực hiện theo những lời khuyên đó. Về tư tưởng của Hòa thượng Thạch Liêm, tác
giả Nguyễn Lang tóm tắt: "Tư tưởng thiền học của Thạch Liêm có thể diễn tả bằng ba công
thức: thiền tịnh song tu; Nho Phật nhất trí và Lâm Tào tổng hợp" [2, tr. 232]. Các chúa
Nguyễn khi hộ trì Phật giáo, dựa vào Phật giáo để an dân, thì điều đó cũng không có nghĩa là
xem nhẹ, phủ nhận Nho giáo. Trái lại, các chúa Nguyễn đều hiểu rất rõ vai trò của Nho giáo
trong việc tổ chức chính quyền phong kiến chuyên chế và xây dựng bộ máy quan lại. Vì thế,
dưới thời các chúa Nguyễn vẫn thường xuyên tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn quan lại, quan
tâm đến việc đào tạo nhân tài. Có lẽ chúa Nguyễn Phúc Chu đã tìm thấy sự tương đồng giữa
tư tưởng thiền của Hòa thượng Thạch Liêm với chủ trương kết hợp Nho - Phật của các tiên
vương chúa Nguyễn để hình thành nên tư tưởng “cư Nho mộ Thích” của mình. Trên bia chùa
Thiên Mụ lập năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu có đoạn: Phật giáo ở Huế dưới thời chúa
Nguyễn 102 “Sống theo đạo Nho, chuộng đạo Phật vì chính trị không thể chẳng làm nhân, tin
đạo kính thầy, lấy nhân quả là nghĩ gieo điều phước. Nhờ vậy, biên giới được thanh bình,
thâm tâm an ổn” [8, tr. 78]. Tư tưởng này rất giống với tư tưởng "cư trần lạc đạo" của Phật
Hoàng Trần Nhân Tông. Điều đó cho thấy, trong quá trình độ trì, phát triển Phật giáo ở Đàng
Trong, dù có sự hoằng dương Phật pháp của những dòng Thiền mới có nguồn gốc từ Trung
Quốc (như phái Lâm Tế của Tổ Nguyên Thiều, phái Tào Động của Hòa thượng Thạch Liêm),
các chúa Nguyễn vẫn tiếp nối mạch nguồn của Phật giáo dân tộc có từ thời Lý-Trần. Đó là xu
hướng dấn thân nhập thế tích cực. Phật giáo đồng hành với sự phát triển của dân tộc, gắn liền
với hạnh phúc của người dân và lợi ích của dân tộc. Thật thú vị khi thấy sự tương đồng giữa
thời đại của Phật Hoàng Trần Nhân Tông với thời đại của chúa Nguyễn Phúc Chu: sự ra đời
của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và thiền phái Liễu Quán - hai thiền phái do chính người Việt
Nam sáng lập, mang đậm nét sắc thái Việt, trên cơ sở thâu hóa và sáng tạo nhiều dòng thiền từ
bên ngoài. Sự tương đồng này còn thể hiện trong công cuộc mở mang bờ cõi về phương Nam
của dân tộc ta. Dưới thời vua Trần Nhân Tông đất nước có thêm 2 châu: Châu Ô và Châu Lý
bằng con đường hòa bình, hữu hảo, với tư cách là quà sính lễ qua cuộc hôn nhân giữa công
chúa Huyền Trân và vua Chăm Chế Mân. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, công cuộc Nam
tiến của các chúa Nguyễn cũng đạt được những thành tựu to lớn. Nếu từ thời chúa Tiên
Nguyễn Hoàng đến chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn, Đàng Trong có thêm vùng đất từ đèo Cù
Mông đến sông Phan Rang (giữa Ninh Thuận ngày nay), thì trong khoảng thời gian 34 năm
cầm quyền, chúa Nguyễn Phúc Chu đã mở rộng lãnh thổ đến Bình Thuận (1693), sau đó là
tiến tới miền Đông Nam bộ (thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai ngày nay) (1698) và trấn
Hà Tiên do Mạc Cửu tự dâng, xin sáp nhập vào Đàng Trong (1708). Điều đáng nói ở đây,
công cuộc mở mang một vùng đất rộng lớn như vậy, nhưng chúa Nguyễn lại ít sử dụng bạo
lực,"chủ yếu dùng biện pháp di dân khai hoang lập ấp và các hoạt động ngoại giao mà không
phải tiến hành cuộc chiến tranh quy mô quân sự nên hầu như không có những cuộc tàn sát,
đốt phá đối với người dân bản địa" [4, tr 415]. Trên vùng đất này, những người Việt di cư từ
phía Bắc chung sống hiền hòa với những cộng đồng dân cư bản địa và cộng đồng người Hoa
do biến động thời cuộc triều Minh - Thanh sang lánh nạn. Phải chăng chính tư tưởng bao
dung, độ lượng của Phật giáo trong chính sách cai trị của chúa Nguyễn Phúc Chu đã tạo ra
khả năng dung nạp văn hóa rộng mở và tự nhiên đến như vậy? 3. KẾT LUẬN Với ý đồ xây
dựng một cơ nghiệp riêng cho dòng họ Nguyễn trên vùng đất mới, chúa Tiên Nguyễn Hoàng
đã chọn Phật giáo làm nền tảng tinh thần cho xã hội Đàng Trong. Các chúa Nguyễn sau này
đã tiếp tục chính sách tôn giáo đó với cả cả tinh thần mộ đạo Phật của mình. Để hộ trì, phát
triển Phật giáo, các chúa đã tích cực thực hiện rất nhiều biện pháp: trùng tu, xây dựng chùa
chiền; thỉnh mời các cao tăng Trung Quốc hoằng dương Phật pháp, tổ chức nhiều TẠP CHÍ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 3, Số 2 (2015) 103 giới
đàn và thọ giới cho nhiều tăng sư; thỉnh pháp khí và mua nhiều kinh sách; thanh lọc và phát
triển tăng đoàn. Dưới sự ủng hộ của các chúa, Phật giáo Đàng Trong đã có bước phát triển
mạnh mẽ và đã có tác động tích cực trở lại đối với chính sách cai trị của các chúa. Phật giáo
trở thành một trong những tiền đề quan trọng để các chúa Nguyễn an dân, trị quốc, xây dựng
một xã hội Đàng Trong ổn định, kinh tế phát triển và thực hiện thành công công cuộc mở
mang bờ cõi về phía Nam. Dưới thời các chúa Nguyễn, Huế trở thành trung tâm của Phật giáo
Đàng Trong. Sự phát triển của Phật giáo ở Huế một mặt là sự thâu hóa tinh hoa của nhiều tư
tưởng thiền Trung Quốc, mặt khác là sự tiếp nối mạch nguồn tư tưởng Phật giáo của dân tộc
để sáng tạo nên sắc thái Việt riêng của mình. Điều này đã tạo cho Phật giáo ở Huế có được
những cơ sở thờ tự, chùa chiền tốt, cùng sự tồn tại của nhiều thiền phái, với tăng đoàn có trình
độ cao, cư sĩ tín đồ đông đảo. Công lao đó một phần quan trọng thuộc về các chúa Nguyễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Christophoro Boris (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Hồng
Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. [2].
Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, Nguyễn Nghị dịch, Nhà xuất bản Trẻ. [3]. Nguyễn Lang
(1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. [4]. Nguyễn Hữu
Nguyên (2011), Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong công cuộc mở đất phương Nam thời
chúa Nguyễn Phúc Chu, Kỷ yếu Hội thảo Chúa-Bồ tát Nguyễn Phúc Chu và sự nghiệp mở
mang bờ cõi, phát triển đất nước, tr 412-416. [5]. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [6]. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại ký
sự, Viện Đại học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam xuất bản, Huế. [7]. Nguyễn Khắc
Thuần (2001), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập II, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
[8]. Thích Giới Hương (1994) (dịch), Văn bia chùa Huế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tóm lại, chính sách phát triển Phật giáo để trị quốc an dân từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho
đến các đời chúa sau này, đặc biệt đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu, bao gồm: - Trùng tu, sửa
sang, xây dựng hàng loạt chùa chiền khắp các tỉnh thuộc Đàng Trong. Như nhận xét của giáo
sĩ phương Tây Christophoro Boris: “Xứ Đàng Trong có rất nhiều chùa đẹp với tháp cao và lầu
chuông. Mỗi địa điểm dù nhỏ đến đâu cũng có đền chùa thờ cúng Phật” [1, tr. 118]. - Thỉnh
mời các cao tăng Trung Quốc sang Đàng Trong hoằng pháp; thỉnh tượng Phật, pháp khí và
mua nhiều kinh sách từ Trung Quốc để phục vụ cho việc thờ cúng, truyền bá Phật TẠP CHÍ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 3, Số 2 (2015) 101
pháp. Điều này tạo điều kiện cho sự du nhập nhiều tông phái Phật giáo mới như Lâm Tế, Tào
Động và sự ra đời của thiền phái mang đậm nét bản sắc Việt - phái Liễu Quán. - Coi trọng
tăng sư, đồng thời quan tâm chấn chỉnh Phật giáo. Đây là một trong những chính sách ưu ái
của các chúa Nguyễn đối với Phật giáo. Các chúa thậm chí còn vời các vị cao tăng tài cao đức
trọng để tham vấn về chính sự. Chú trọng đến hoạt động hoằng pháp, như mở giới đàn, qua đó
chấn hưng Phật giáo, lọc bỏ những phần tử trụy lạc. Có thể nói, dưới thời các chúa Nguyễn
Phật giáo Đàng Trong đã phát triển một cách nhanh chóng và rộng khắp. Huế trở thành một
trung tâm Phật giáo lớn với nhiều thiền phái còn lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Hòa thượng Thích Thiện Siêu viết trong sách Lịch sử Phật giáo và nhân vật Phật giáo:
thiền sư Liễu Quán quê ở làng Bạch Mã, H.Đồng Xuân, phủ Phú Yên. Ngài họ Lê,
pháp danh Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán. Tu học từ thuở nhỏ, ngài tỏ ra thông minh khí
tiết hơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu, theo ý nguyện của ngài, thân phụ ngài
đã gửi đến chùa Hội Tôn thụ giáo với Tế Viên hòa thượng. Bảy năm sau Tế Viên hòa
thượng tịch, ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùa Bảo Quốc ngày nay) thụ học
với Giác Phong lão tổ. Năm Tân Mùi (1691), sau khi xuống tóc được một năm, ngài
được gọi về làng cũ để giúp đỡ phụ thân trong lúc già yếu. Nhà nghèo ngài phải đi hái
củi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau phụ thân qua đời, ngài lại trở ra Huế
chính thức thụ giới Sa-di với Thạch Liêm Đại Sán hòa thượng. Năm Đinh Sửu (1697)
ngài tiếp tục thụ giới với Từ Lâm lão hòa thượng. Năm Kỷ Mão (1699), ngài đi khắp
Tòng Lâm thăm viếng nhiều chùa để học hỏi đạo lý và quyết định hiến thân cho đời
sống đạo, chẳng quản đạm bạc gian lao.
Năm Nhâm Ngọ (1702) ngài đến Long Sơn đầu sư với Tử Dung hòa thượng (người
sáng lập Ấn Tôn Từ Đàm hiện nay), một vị hòa thượng có tiếng thông thái khéo dạy
người niệm Phật tham thiền đương thời. Trước khi chấp nhận ngài làm học trò, hòa
thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngài giải đáp công án: “Muôn pháp quy về
một, một về đâu?”. Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải đáp và đã thất vọng.
Một hôm nhân đọc Truyền Đăng Lục, ngài gặp câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội
xứ” (Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc không hiểu được), bỗng nhiên ngài
thấy đã tìm ra câu giải đáp mà thầy mình đặt ra, nhưng vì đường sá xa xôi cách trở,
không thể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.
Năm Mậu Tý (1708) ngài đến Long Sơn (Huế) để đệ trình kết quả công án với Tử
Dung hòa thượng. Sau nhiều vấn đáp, đến khi ngài đọc hai câu: “Sớm biết đèn là lửa,
cơm chín đã lâu rồi”, hòa thượng mới tán thán.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), ngài lại dự lễ giới đàn ở chùa Viên Thông. Cuối
mùa thu năm ấy, ngài có chút bệnh, gọi môn đồ đến dạy rằng: “Nhân duyên ta đã hết,
ta sắp đi đây”. Môn đồ kêu khóc ầm lên. Ngài lại bảo: “Các ngươi kêu khóc mà làm
gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết bàn; nay ta đi lại rõ ràng, về ắt có chỗ, các ngươi
không nên khóc lóc và đừng buồn thảm lắm”. Cuối tháng hai năm Quý Hợi (1743),
trước mấy ngày tịch, ngài còn ngồi dậy vững vàng, tự cầm bút viết bài kệ từ biệt.
Trước khi ngài viên tịch, ngài phú pháp cho hàng đệ tử và truyền kệ như sau:

Thiệt tế đại đạo,

Tánh hải thanh trừng,

Tâm nguyên quảng nhuận,

Đức bổn từ phong,

Giới định phước tuệ,

Thể dụng viên thông,

Vĩnh siêu trí quả,

Mật khế thành công,

Truyền trì diệu lý,

Diễn xướng chánh tông,

Hành giải tương ưng,

Đạt ngộ chơn không.

Cùng với vương triều nhà Nguyễn đóng đô ở phía bắc sông Hương, ở phía nam sông
Hương lại có dòng thiền Lâm Tế, phát xuất từ thiền sư Liễu Quán với pháp kệ truyền
thừa phát triển thiền môn. Hai dòng chảy song hành này đã làm nên vận mệnh văn hóa
đặc thù của xứ Huế.
Tổ sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và linh động. Trước khi Tổ
Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung Quốc. Chính Tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất
cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ,...

Ngài có 4 vị đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. Các ngài này đã tạo lập 4 trung tâm
hoằng dương Chánh pháp lớn khắp đó đây ở Đàng Trong. Và, từ thế kỷ thứ 18 trở về sau này nghiễm nhiên
với danh xưng Thiền phái Liễu Quán.

Nhà Nguyễn ra đời sau khi chúa Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn năm 1802.
Triều đại nhà Nguyễn là vương triều phong kiến đầu tiên cai trị trên lãnh thổ
rộng lớn chưa từng có, suốt từ Bắc chí Nam. Người đông hơn, đất rộng hơn
nhưng khó khăn còn đó không phải là nhỏ. Chính trong lúc này, người đứng
đầu vương triều là vua Gia Long phải chọn một hệ tư tưởng là Nho giáo để
nhất kết nhân tâm, phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển triều đại nhà
Nguyễn. Song, bên cạnh Nho giáo, nhân dân đã quen thuộc với một hệ tư
tưởng khác từ nghìn xưa là Phật giáo. Dù cố gắng đề cao Nho giáo như hệ tư
tưởng chủ đạo, nhà Nguyễn vẫn không thể xem nhẹ những khía cạnh liên
quan đến Phật giáo như là tôn giáo gắn bó hữu cơ với nhân dân từ Nam chí
Bắc.
1. CHÍNH SÁCH VỀ PHẬT GIÁO CỦA CÁC VUA ĐẦU TRIỀU
NGUYỄN

Về đại thể, có thể nói chính sách ban đầu của triều Nguyễn là hạn chế sự phát
triển của Phật giáo. Triều đình tăng cường quản lý số lượng Tăng, Ni, bắt họ
tham gia những công việc xã hội và chủ trương thu hẹp ảnh hưởng của nhà
chùa trong nhân dân, cố ý đề ra những quy định ngặt nghèo nhằm giảm bớt
việc xây chùa, tô tượng, đúc chuông và số người theo Đạo Phật.

Vua Gia Long sai các đình thần xét hết các chùa trong hạt, từ Hòa thượng cho
đến đạo đồng phải ghi hết số người vào sổ để dâng, rồi sai Lại bộ truyền bảo
rằng: Phàm Tăng độ tuổi từ 50 trở lên thì vẫn miễn lao dịch, chưa đến 50 thì
phải chịu lao dịch như dân. Kẻ nào dám trốn tránh thì bắt tội [1]. Vua còn hạn
xây chùa mới, tô tượng, đúc chuông, hạn chế lập đàn chay: “…từ nay về sau,
chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, còn làm chùa mới và tô tượng, đúc
chuông, đàn chay, hội chùa, hết thảy đều cấm. Sư sãi có kẻ chân tu thì lý
trưởng sở tại phải khai rõ tính danh, quán chỉ đem nộp ở quan trấn để biết rõ
số” [2].

Đến đời vua Tự Đức, triều đình vẫn tiếp tục hạn chế việc xây chùa, đúc
tượng. Vua ra lệnh tách hoạt động của nhà chùa ra khỏi hoạt động của triều
đình. “Tỉnh hạt Bình Định không mưa. Tỉnh thần là Vương Hữu Quang đón
sư đọc kinh tại tỉnh lỵ, được mưa tâu lên. Vua nói: […] Từ nay về sau có cầu
đảo, hoặc làm chay tụng kinh, phải làm ở đền đài, không được xuất lược làm
ở nơi công thực như thế” [3].

Son song với việc ban hành chính sách hạn chế Phật giáo, nhà Nguyễn còn
tiến hành phê phán giáo lý của Đạo Phật. Luận điểm của sự bài xích Phật giáo
thời kỳ này không mới và cũng đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập,
chúng tôi không trích lại trong bài viết này. Hệ quả của việc bài bác Phật giáo
từ phía triều đình là lớn lao, khiến cho Đạo Phật bị suy yếu lần hồi, chư Tăng
Ni không được coi trọng như giai đoạn trước đó. Thế nhưng khách quan mà
nói, Phật giáo hãy còn vững vàng trong lòng dân tộc. Sự hạn chế của triều
đình tuy gây hệ quả song không thể ngăn chặn được lòng mến mộ của nhân
dân đối với Phật giáo. Sử liệu không còn lưu giữ những phản biện của chư
Tăng Ni thời bấy giờ đối với những chính sách hạn chế của triều đình nhà
Nguyễn, chỉ biết giáo lý nhà Phật vẫn lặng lẽ thâm nhập vào các tầng lớp
trong xã hội, chi phối đời sống tinh thần nhiều người.

2. SỨC SỐNG MÃNH LIỆT CỦA PHẬT GIÁO


Trong nhân dân, những quy định khắt khe của nhà Nguyễn về xây chùa, tô
tượng, xuất gia… chỉ có tác dụng tạm thời và trong phạm vi hạn hẹp. Vốn dĩ
“phép vua thua lệ làng”, cũng như tính phân tán và sự diễn biến chậm rãi của
xã hội cổ truyền đã khiến cho sắc lệnh của triều đình không phát huy hết tác
dụng như mong đợi. Như các triều đại trước, người dân vẫn hướng về Phật
giáo, vẫn đến chùa vào ngày sóc ngày vọng, kính trọng Tăng đoàn và tìm sự
bình an ở chốn thiền môn. Trong lòng họ, niềm tin theo giáo lý Đạo Phật là
một nhu cầu tâm linh không gì có thể bài bác được.

Ngay cả dưới đời vua Gia Long, vua vẫn phải đặt đàn chay lớn ở chùa Thiên Mụ. Điều đó cho
thấy sức sống và uy tín của Phật giáo vẫn tỏa sáng ngay cả khi gặp vận hạn chế của triều đình
nhà Nguyễn.
Sẵn lòng tin ở sức mạnh của thần Phật, người dân xem việc đóng góp cho nhà
chùa là một nhiệm vụ thiêng liêng. Nhà chùa cũng rất trân trọng công sức
đóng góp của người dân và khắc ghi vào bia, phổ hệ, sắm hương hóa tụng
kinh cho họ phút lâm chung. Tấm lòng từ bi công đức của người dân vì thế
mà ngày càng tăng lên. Chùa chiền vì thế vẫn là một hệ thống gồm nhiều quy
mô: Lớn đi liền với nhỏ, mới đi liền với cũ, chùa nhà đi liền với chùa làng và
chùa nước. Đặc biệt, ở kinh đô Huế, nơi tập trung nhân lực và tài lực của cả
nước, chùa tháp được tu sửa và xây dựng mới uy nghi. Các chùa như: Thiên
Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên… là minh chứng đó. Ở Nam bộ,
chùa tháp mọc lên hàng loạt, người dân dựng chùa để cầu an, gần gũi, giúp đỡ
nhau trong làm ăn, sinh sống [4].

Cũng cần nhắc đến sự bất nhất trong chính sách bài bác Phật giáo của các vua
đầu triều Nguyễn. Vua Minh Mệnh và Thiệu Trị vừa duy trì chính sách của
Nguyễn Thế Tổ, vừa tiến gần đến Phật giáo. Những thành kiến về Phật giáo
như không đề cao quyền lực thiên tử, không nhắc đến tam cương ngũ thường,
dần dà được vượt qua. Do đó, chúng ta thấy sự thay đổi dần dần trong lời lẽ
của hai vị vua này đối với Phật giáo. Từ chỗ cho tu sửa chùa tháp, đặt đàn
chay tế lễ ở chùa là “nối chí người trước”, là để “cho tròn quả phúc”, để “cầu
phúc lâu dài”, đến chỗ nhắc lại rằng: “Nho và Phật đều dạy cho người ta làm
điều thiện”, “không nên nhất khái cho Phật giáo là dị đoan” [5].

Vua Minh Mệnh đối với Phật giáo hãy còn ngập ngừng, đôi lúc phải thanh
minh với triều thần về việc làm của mình, như khi đến thăm chùa Thánh
Duyên và đề thơ đã nói: “Trẫm đối với Đạo Phật, cái ý không khen không
chê, đã có thể biểu hiện ở một bài thơ này vậy” [6]. Đến đời vua Thiệu Trị,
ông đã xem việc chi cấp cho nhà chùa, xây chùa, tô tượng, đúc chuông, lập
đàn chay… là việc tất yếu. Vua còn làm thơ ca tụng cảnh chùa. Quan lại triều
đình cũng tin vào Phật giáo theo nhiều mức độ khác nhau. Có người là đại
thần trong triều, cũng tự xưng mình là người tu tại gia, chăm sóc việc chùa,
tạc bia, khắc kinh. Trong giới tông thất, các vị thái hậu, chính cung, công
chúa, phi tần… là những người sùng mộ Đạo Phật. Họ theo Phật, thờ Phật để
mong tạo được công đức, hay lâm chung được vãng sanh Tịnh độ. Hòa
thượng Phúc Điền đã ghi lại: Các vương công xây chùa trong gia thất [7]. Các
bà cũng yêu sách phu quân, hoặc nhà vua tổ chức lễ đàn chay và ngày hội
chùa. Ngay cả dưới đời vua Gia Long, vua vẫn phải đặt đàn chay lớn ở chùa
Thiên Mụ. Điều đó cho thấy sức sống và uy tín của Phật giáo vẫn tỏa sáng
ngay cả khi gặp vận hạn chế của triều đình nhà Nguyễn.

3. PHẬT GIÁO NHƯ MỘT TỔNG THỂ TÔN GIÁO VẪN PHÁT
TRIỂN RỘNG KHẮP

Những điều trên cho thấy Phật giáo đầu triều Nguyễn đã trở thành một giai
đoạn riêng, có nhiều nét khác so với trước, mà đặc điểm chính trị – xã hội
đương thời đã tạo ra. Một mặt, chính sách của triều đình cố ghép Phật giáo
vào khuôn khổ quan niệm của mình. Mặt khác, với tính chất là thế giới quan,
là tín ngưỡng truyền thống, có sức mạnh của truyền thống, Phật giáo đã nỗ
lực vượt ra ngoài vòng cương tỏa của triều đình phong kiến, tìm lấy cho mình
con đường phát triển độc lập và đã chi phối trở lại cách nhìn nhận cũng như
thái độ của triều đình. Có thể kể đến những nét lớn của sự vận động Phật giáo
giai đoạn này như sau:

Về Tăng đoàn, đây vẫn là lực lượng Tu sĩ đông đảo dưới thời Nguyễn. Chùa
lớn thì số Tăng chúng đến ba mươi người. Chùa nhỏ cũng dăm bảy người.
Mỗi ngày, các vị tụng kinh ba hoặc bốn lần vào các buổi: sáng, trưa, chiều và
tối. Họ thường tụng chư kinh Nhật tụng, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô
Lượng Thọ, kinh A Di Đà, kinh Diệu Pháp Liên Hoa… Triều Nguyễn nhiều
lần tổ chức thi Sư Tăng, kiểm tra giáo lý, sự tu trì và đức độ, có nhiều đợt ban
phát giới đạo, độ điệp và văn bằng Tăng cương. Trong thời vua Minh Mệnh,
có năm sai bộ Lễ sát hạch, chọn 50 người thông thạo giáo lý cấp cho giới đao,
độ điệp, có năm chọn người quyết chí tu hành, tinh tiến giữ giới, cũng có năm
chọn những người đức hạnh thanh cao, đạo pháp linh diệu cấp cho văn bằng
Tăng cương. Việc làm này của triều đình trước hết nhằm giảm số lượng tu sĩ
Phật giáo, loại trừ những kẻ trốn tránh lao dịch, lợi dụng cửa Thiền trục lợi.
Nhưng về phương diện khách quan, lại là việc sắp xếp lại sự tổ chức Phật
giáo.

Gắn liền với trú xứ của chư Tăng Ni là các chùa. Một hệ thống chùa tháp hiện
hữu vẫn còn và nhóm chùa tháp được trùng tu, xây mới xuất hiện. Ở ngoài
Bắc, các chùa như: Chùa Dâu, Bút Tháp, Phật Tích, Vĩnh Nghiêm, Keo, Sài
Sơn, Tây Phương… đều được tu bổ, sửa chữa. Ở miền Trung, đặc biệt là tại
kinh đô Huế, hàng loạt chùa tháp được xây dựng rất khang trang, mang sắc
thái vừa của người Việt vừa tích hợp một phần yếu tố văn hóa Chăm, tạo nên
những kiến trúc mới mẻ. Ở miền Nam thì chùa tháp tiếp thu nét kiến trúc của
các nước Đông Nam Á. Đối với kinh sách Phật giáo, một hệ thống kinh sách
đã ra đời và được khắc in. Có những người có ý thức chuyên làm việc này, có
những ngôi chùa chuyên phụ trách việc khắc in và tàng trữ các ván in (chùa
Bổ Đà, Từ Quang, Liên Tôn…). Các bộ kinh như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa,
Dược Sư, Địa Tạng, Tam Thiên Phật Danh,… và các bộ ngữ lục được in ấn
với số lượng lớn, phục vụ nhu cầu tu học, tìm hiểu của chư tăng ni và nhân
dân

Tóm lại, chính sách của nhà Nguyễn trước hết là hạn chế sự phát triển của
Đạo Phật nhưng Phật giáo không vì thế mà thui chột. Đạo Phật vẫn tìm được
vị thế rất riêng, rất cao trọng trong tâm khảm của người dân nước ta.

Hưng Trung

Chú thích:

[1] Đại Nam Thực lục, tập 2, Nxb. Sử học, 1963, tr.289.

[2] Đại Nam Thực lục, tập 3, Nxb. Sử học, 1963, tr.167.

[3] Đại Nam Thực lục, tập 27, Nxb. KHXH, 1973, tr.376.

[4] Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, 2006, Nxb. Văn Hóa Sài
Gòn.

[5] Đại Nam Thực lục, tập 17, Nxb. KHXH, 1966, tr.54.

[6] Đại Nam Thực lục, tập 13, Nxb. KHXH, 1966, tr.156.

[7] HT. Phúc Điền, Thiền uyển kế đăng lược lục, Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm,
tr.45a.

4.2. Phật giáo góp phần củng cố quyền lực nhà nước và khẳng định tính hợp pháp của chính
quyền chúa Nguyễn Theo lý thuyết Tính Hợp pháp (Legitimacy), các thể chế chính trị sẽ phải
trải qua một quá trình hợp pháp hóa (Justification) để khẳng định được tính hợp pháp của nó.
Có hai loại quyền lực thường được nhà nước sử dụng, đó là: quyền lực cứng, gồm hệ thống
các quy định luật lệ, luật pháp (rules and law) và quyền lực mềm, gồm hệ thống các luân lý
(moral), kể cả tôn giáo (religion). Quá trình hợp pháp hóa thành công khi thể chế chính trị
khẳng định được tính hợp pháp của nó, một trong những biểu hiệu quan trọng của tính hợp
pháp đó là sự ủng hộ của dân chúng33. Với chúa Nguyễn, trong bối cảnh lịch sử thế kỷ 16 -
18, chính quyền dựa trên cơ sở một lực lượng quân sự nhỏ thuộc chính quyền phong kiến
Đàng Ngoài đã từng bước cát cứ và lập lên chính quyền phong kiến Đàng Trong. Đối với các
chúa Nguyễn, việc khẳng định tính hợp pháp của chính quyền, đặc biệt là để có được sự ủng
hộ của quần chúng nhân dân trở thành một nhu cầu quan trọng và bức thiết. Nhận thức được
vai trò sức mạnh của Phật giáo trong việc tập hợp quần chúng, các chúa Nguyễn đã chủ
trương dựa vào Phật giáo để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng, củng cố sức mạnh chính trị
và khẳng định tính hợp pháp của chính quyền. Phật giáo có nhiều ưu điểm với tính hướng
thiện và sự gần gũi về văn hóa - tôn giáo… Phật giáo do đó dễ dàng có được chỗ đứng vững
chắc trong tâm thức tôn giáo cũng như sự ủng hộ của dân chúng. Thời Trương Thúy Trinh.
Chính quyền chúa Nguyễn với Phật giáo… 27 27 kỳ này, chúa Nguyễn cho thi hành chính
sách phát triển Phật giáo, sử dụng Phật giáo như một công cụ tập hợp và đoàn kết dân chúng.
Như đã phân tích ở trên về chức năng, vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội: Phật giáo
góp phần vào việc quy tụ nhân tâm; củng cố đoàn kết xã hội trên cơ sở cùng chia sẻ các giá trị
luân lý, đạo đức Phật giáo; là nhân tố trung gian góp phần hóa giải những khác biệt giữa các
cộng đồng tôn giáo… Với những kết quả này, Phật giáo đã làm tốt chức năng tập hợp quần
chúng. Nhờ có Phật giáo, chính quyền chúa Nguyễn đã có được sự ủng hộ của hầu hết các
cộng đồng cư dân, nó góp phần khẳng định vai trò lãnh đạo và tính hợp pháp của nhà nước
phong kiến Đàng Trong. Ngoài ra, trong điều kiện chính quyền mới được thiết lập, hệ thống
luật pháp (quyền lực cứng) đang trong quá trình hoàn thiện, để thực hiện chức năng quản trị
xã hội thay vì sử dụng hệ thống luật pháp, chúa Nguyễn chủ yếu dựa vào quyền lực mềm, đó
là những luân lý, đạo đức Phật giáo. Một cộng đồng xã hội Phật giáo, vận hành chủ yếu trên
cơ sở các luân lý đạo đức Phật giáo. Đây là một sự lựa chọn phù hợp để các chúa Nguyễn
khẳng định quyền lực chính trị và tính hợp pháp khi thể chế nhà nước đang trong quá trình
củng cố và hoàn thiện. Thay lời kết Thoát thai từ một lực lượng quân sự nhỏ, từng bước cát cứ
dựng lên thể chế nhà nước ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn sớm lựa chọn chính sách phát
triển Phật giáo. Nó dường như để đối trọng với chính sách đề cao Nho giáo của chính quyền
Đàng Ngoài. Một số ý kiến cho rằng, các chúa Nguyễn không lựa chọn Nho giáo bởi vì Nho
giáo đề cao tư tưởng Trung - Hiếu, trái ngược với con đường chính trị mà các chúa Nguyễn
khi dựng lên chính quyền cát cứ nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Tuy
nhiên, những phân tích trên đây đã góp phần lý giải nguyên nhân vì sao chính quyền chúa
Nguyễn thực thi chính sách ưu tiên phát triển Phật giáo. Thời kỳ này, Phật giáo trở thành bệ
đỡ tư tưởng cho chính quyền chúa Nguyễn, là nhân tố hóa giải sự khác biệt trong môi trường
đa dạng dân tộc và tôn giáo, nhờ đó vấn đề dân tộc - tôn giáo đã được giải quyết khá tốt. Phật
giáo cũng tỏ rõ vai trò, chức năng trong việc quy tụ nhân tâm, tập hợp quần chúng 28 Nghiên
cứu Tôn giá
và củng cố đoàn kết xã hội, nó đồng nghĩa với việc củng cố quyền lực nhà nước góp phần
khẳng định tính hợp pháp của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong giai đoạn 1558-1777.
Ở góc độ chính sách tôn giáo, từ kinh nghiệm của các chúa Nguyễn đối với Phật giáo, chúng
tôi cho rằng chính quyền chúa Nguyễn đã giải quyết tương đối tốt vấn đề đa dạng dân tộc và
tôn giáo. Trong đó, thái độ tôn trọng sự khác biệt và có biện pháp ứng xử linh hoạt đối với
từng nhóm cộng đồng tôn giáo khác nhau là một kinh nghiệm hay. Tôn trọng sự khác biệt để
xây dựng một môi trường tôn giáo đa dạng trong hài hòa chính là giải pháp hóa giải những
khác biệt và các mối mâu thuẫn tiềm ẩn trong môi trường đa dạng tôn giáo, góp phần củng cố
mối quan hệ giữa tôn giáo với tôn giáo và mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo. /. CHÚ
THÍCH: 1 Xem: Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên) (2007), Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo
tín ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội. 2 Theo cách gọi trong sử liệu thời Nguyễn. 3 Quốc sử Quán Triều Nguyễn
(2004), Đại Nam Thực Lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 42-43. 4 Sau cuộc nổi loạn do
người Hoa lãnh đạo (1692) dưới thời Chúa Minh, Thiền sư Nguyên Thiều về ẩn tu ở chùa Hà
Trung. 5 Thích Đại Sán (2015), Hải Ngoại Kỷ Sự, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, tái
bản theo bản in năm 1963, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 81-82. 6 Đại Nam Thực Lục,
Sđd, tr. 124, 145, 161. 7 Hải Ngoại Kỷ Sự, Sđd, tr. 161-162, 171-172. 8 Đại Nam Thực Lục,
Sđd, tr. 35. 9 Đại Nam Thực Lục, Sđd, tr. 130. 10 Hải Ngoại Kỷ Sự, Sđd, tr. 96-111, 123. 11
Trong Phật giáo Nam tông Khmer, Sadi là thụ giới cho người dưới 20 tuổi, Tỳ Kheo thụ giới
cho người trên 20 tuổi. 12 Hải Ngoại Kỷ Sự, Sđd, tr. 147-149. 13 Cristophoro Borri (2014),
Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr. 127-128. 14 Hải Ngoại Kỷ Sự, Sđd, tr.
81-82. 15 Tuổi đi phu lính từ 16 đến 60. 16 Hải Ngoại Kỷ Sự, Sđd, tr. 69-70. 17 Đại Nam
Thực Lục, tập 1, Sđd, tr. 166. 18 Đại Nam Thực Lục, tập 1, Sđd, tr. 130. Trương Thúy Trinh.
Chính quyền chúa Nguyễn với Phật giáo… 29 29 19 Đại Nam Thực Lục, Sđd, tr. 171-172. 20
Trần Nghĩa (2010), “Quá trình hội nhập Nho - Phật - Đạo hay sự hình thành tư tưởng Tam
giáo đồng nguyên ở Việt Nam”, Triết học, số 1 (224), tr. 23-30. 21 Trích theo Leopold Cadiére
(2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế,
tr. 44-45. 22 Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3, Nxb. Thuận Hóa,
Huế, tr. 118. 23 Đại Nam Thực Lục, Sđd, tr. 63. 24 Xem: A. Rhodes (1994), Hành trình và
truyền giáo, UBĐK Công giáo, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 25 Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 1,
Sđd, tr. 84-85. 26 Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3, Sđd, tr. 50. 27 Đại Nam Nhất Thống Chí,
tập 3, Sđd, tr. 442. 28 Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 3, Sđd, tr. 443. 29 Hải Ngoại Kỷ Sự,
Sđd, tr. 96-111, 123. 30 Trần Hồng Liên (2000), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam
Bộ - Việt Nam (từ thế kỷ XVII đến 1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 10. 31 Phan
Khoang (2016), Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 115. 32
Hải Ngoại Kỷ Sự, Sđd, tr. 81-82. 33 Xem: A. John Simmons (2001), Justification and
Legitimacy, Cambridge University Spress, Cambridge. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu
tiếng Việt: 1. Thích Hải Ẩn, Hà Xuân Liêm (2001), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh. 2. A. Rhodes (1994), Hành trình truyền giáo, UBĐK Công giáo, Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh. 3. Leopold Caddiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, tập
1, 2, 3, Đỗ Trinh Huệ dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 4. Cristophoro Borri (2003), Xứ Đàng
Trong năm 1621, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 5. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Nam
tông Khơ Me: Một số vấn đề nhìn lại, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 6. Ngô Văn Doanh (2002), Văn
hóa cổ Chămpa, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 7. Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên) (2007),
Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo tín ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh
Thuận hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Phan Khoang (2016), Việt sử xứ Đàng
Trong 1558 - 1777, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Nguyễn Đức Hiền (1995), “Lịch sử
Phật giáo Đàng Trong”, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 10. Trần Hồng Liên (2000), Phật giáo trong
cộng đồng người Việt ở Nam Bộ - Việt Nam (từ thế kỷ XVII đến 1975), Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội. 11. Quốc sử Quán triều Nguyễn (1977), Đại Nam Nhất Thống Chí, Tập 1-5, Nxb.
Thuận Hóa, Huế. 30 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2018 12. Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại
Nam Thực Lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004. 13. Chân Đạt Quang (1973), Chân Lạp
phong thổ ký, Sài Gòn. 14. Thích Đại Sán, Hải Ngoại Kỷ Sự, Viện Đại học Huế và Ủy ban
Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 1969. 15. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần và người đất Việt,
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 16. Viện Khoa học xã hội Tp. Hồ Chí Minh (1982), Một số
vấn đề Khoa học xã hội về Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 17.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2014), Phật giáo Hậu Lê, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. Tài
liệu tiếng Anh
Tóm tắt: Thiền phái Lâm Tế Trung Quốc du nhập vào Đàng Trong Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XVII qua bước chân hoằng hóa của chư Tổ sư người Hán. Kế thừa truyền
thống chư Tổ thiền phái Trúc Lâm Việt Nam; Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) sau khi
đắc pháp với Đại sư Minh Hoằng Tử Dung, đã mở ra một dòng thiền mới mang sắc
thái riêng của người Việt, mà về sau chúng ta thường gọi với tên thiền phái Liễu
Quán. Ngày nay, thiền phái Lâm tế Liễu Quán có mặt khắp các miền đất nước. Với
một thiền phái có sự truyền thừa rất phong phú và đặc biệt, đây là vấn đề mà các nhà
nghiên cứu phật học tìm hiểu để biết về quá trình truyền thừa như đóng góp của thiền
phái Lâm Tế Liễu Quán trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Từ khóa: Thiền sư Liễu Quán, Thiền phái Liễu Quán, Phật giáo Huế, Lâm Tế Liễu
Quán…

2. Đôi nét về Thiền sư Liễu Quán


Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) là một vị thiền sư nổi tiếng ở thế kỷ XVIII. Ngài họ
Lê, pháp danh là Thực Diệu, tự là Liễu Quán, người làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân,
phủ Phú Yên, nay là thôn Trường Xuân thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh
Phú Yên. Ngài sinh vào giờ Thìn, ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667), mất vào
giờ Mùi, ngày 22 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1742). Liễu Quán vào chùa năm 12 tuổi
xin xuất gia tu phật, đảnh lễ học đạo với hòa thượng Tế Viên, một thiền sư người
Trung Quốc thuộc thiền phái Lâm Tế, là vị tổ khai sơn chùa Hội Tôn, một ngôi chùa
cổ ở Phú Yên.

Qua bảy năm tu tập, sau khi bản sư viên tịch, Ngài Liễu Quán một mình tìm ra xứ
Thuận Hoá đỉnh lễ thụ giáo với Hòa thượng Giác Phong, cũng là một thiền sư từ
Trung Quốc và là tổ khai sơn chùa Thiên Thọ tức là chùa Báo Quốc ở Huế hiện nay.
Đến đây vừa tròn một năm tu học, năm Tân Mùi (1691), Ngài Liễu Quán phải quay về
quê để chăm sóc thân phụ. Bốn năm sau khi thân phụ qua đời, tức năm Ất Hợi (1695),
Ngài Liễu Quán trở lại Thuận Hóa đỉnh lễ học đạo với hòa thượng Thạch Liêm. Năm
Đinh Sửu (1697), Ngài Liễu Quán đến xin thụ cụ túc giới với hoà thượng Từ Lâm. Từ
năm Kỷ Mão (1699), Ngài Liễu Quán đi tham kiến nhiều nơi trong chốn thiền lâm, khi
nghe nhiều người nói rằng đại lão hoà thượng Tử Dung là người giỏi hướng dẫn tham
thiền niệm Phật, nên năm Nhâm Ngọ (1702) Liễu Quán đến xin học đạo với hòa
thượng Tử Dung ở núi Long Sơn. Sau khi nhận được công án của bản sư, Ngài Liễu
Quán chăm lo nghiên cứu, tu tập. Đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Ngài Liễu Quán
trở lại Long Sơn để xin hoà thượng chứng minh cho công phu và kết quả tham cứu của
mình. Sau khi được chứng ngộ, Liễu Quán mở nhiều giới đàn, truyền đạo cho nhiều
người, nhiều thế hệ và được các đời chúa Nguyễn rất kính trọng. Khi mất được Võ
vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – l765) sắc tứ làm văn bia để tưởng niệm và ban
thụy là Chính Giác Viên Ngộ hòa thượng.

Sau khi được truyền tâm ấn, Thiền sư thường ra vào Huế – Phú Yên để hoá duyên
không nề khó nhọc. Năm 1708, Thiền sư khai sơn chùa Thiền Tôn ở Huế. Từ đó chùa
này đã trở thành tổ đình của phái Liễu Quán. Năm 1742, cuối mùa thu, Thiền sư thụ
bệnh và viên tịch. Trước khi thị tịch, thiền sư đã để lại cho đệ tử bài kệ, dịch nghĩa như
sau:

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới


Không không, sắc sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ
Hà phải ân cần hỏi Tổ tông.
Thiền sư Liễu Quán là thủy tổ của phái thiền Liễu Quán, Ngài tiếp nối đời thứ 35 dòng
thiền Lâm Tế Trung Quốc; còn ở Việt Nam là vị sơ tổ của phái thiền Lâm Tế Liễu
Quán. Thiền sư là mắt xích quan trọng trong việc tiếp nối mạch thiền từ Trung Hoa
sang Việt Nam.

Thiền sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một tông phái đặc thù và
linh động, có một nền móng vững chắc ở Đàng Trong (tức là từ Thanh Hóa trở vào).
Trước khi tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền phái Lâm Tế chịu ảnh hưởng của Trung Quốc
rất lớn (vì công cuộc hoằng hoá phần lớn là do các thiền sư Trung Quốc như: Nguyên
Thiều, Thạch Liêm, Tử Dung,…). Chính tổ Liễu Quán đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế
từ văn hóa, kiến trúc đến nghi lễ và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa
số phật tử Đàng Trong. Thiền sư có bốn vị đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân
và Từ Chiếu. Bốn vị này đã tạo lập bốn trung tâm hoằng dương chính pháp lớn và
hàng chục tổ đình ở khắp vùng Đàng Trong. Những năm đầu chấn hưng Phật giáo ở
thế kỷ 20 qua các thập niên ba mươi, bốn mươi và cận đại, thiền phái Liễu Quán đã
đóng một vai trò trọng yếu trong Giáo hội.

Ngoài công phu tu tập, đạo phong cao tuấn, thiền sư Liễu Quán đã góp phần quan
trọng vào công cuộc chấn hưng Phật giáo thời bấy giờ như lời hòa thượng Thiện Kế
viết trong văn bia tháp Liễu Quán: “Cuộc thế ngày nay đang lúc đạo pháp suy đồi,
người có thể đảm đương việc lớn như hòa thượng Liễu Quán quả là rất hiếm”[1]. Uy
vọng và đạo hạnh của sư Liễu Quán ngày càng lớn, càng rộng không chỉ trong giáo
hữu mà ngay đến Chúa thượng rất chuộng đạo pháp, ân cần và hâm mộ đạo hạnh của
sư, xuống chiếu mời sư vào cung, nhưng đời sư cao thượng, chí để nơi lâm tuyền tĩnh
mịch nên chỉ tạ ơn mà từ chối[2].
Theo nội dung trên văn bia tháp, Thiền sư Liễu Quán có 49 vị đệ tử. Riêng tại Phú
Yên, dựa theo thông tin sách Lược sử chư tôn Phú Yên trong và ngoài tỉnh của nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Chúc, Nam độ Bảo Đàn kinh ( 南土寶壇經), Thích song tổ
ấn tập (释窻祖印集) của Hòa thượng Trừng Diệu Tịnh Hạnh, cùng một số tư liệu thu
thập được trong quá trình khảo sát điền dã, biết được có 11 vị đệ tử. Hòa thượng Trừng
Diệu Tịnh Hạnh là người Phú Yên, nối dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 8 kệ phái
Liễu Quán. Năm Duy Tân thứ năm Tân Hợi (1911) khai sơn chùa Thiền Lâm thuộc
thôn Phú Lâm, tổng Đức Thắng (nay thuộc Phường Đức Long TP. Phan Thiết). Các vị
đệ tử của Thiền sư Liễu Quán là các Ngài: Tế Hẩu Khánh Liên (kế thế trú trì chùa Bảo
Tịnh, Tuy Hòa), Tế Căn Từ Chiếu (khai sơn chùa Hồ Sơn, Tuy Hòa), Tế Duyên Quảng
Giác (khai sơn chùa Kim Cang, Tuy Hòa), Tế Đài Khánh Thùy (trú trì chùa Kim Long,
Tuy Hòa), Tế Dũng (khai sơn chùa Bình Long, Tuy Hòa), Tế Hoảng Trừng Hưng
(khai sơn chùa Dương Long, Tuy Hòa), Tế Ngạn Thanh Tùng (khai sơn chùa Long
Sơn – Bầu Đục, Tuy Hòa), Tế Ý Hoằng Tuân (khai sơn chùa Long Sơn, An Mỹ, Tuy
An), Tế Tín Pháp Vị, Tế Thường An Dưỡng (khai sơn chùa Vĩnh Xương – Tuy Hòa,
chùa Vĩnh Phước, chùa Vĩnh Long – Tuy An). Hiện tại Phú Yên truyền thừa dòng
Liễu Quán chủ yếu xoay quanh theo ba nhánh chính là nhánh Tổ sư Tế Căn Từ Chiếu,
nhánh tổ Tế Nhơn Hữu Phỉ, nhánh tổ Tế Hiển Bửu Dương.

3. Phẩm kệ truyền thừa của thiền phái Liễu Quán


Phật giáo Liễu Quán là sự kết hợp giữa thiền Lâm Tế với thiền Tào Động của Trung
Quốc và với tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam tạo nên cái riêng của thiền phái Liễu
Quán.

Nếu nói Phật giáo Liễu Quán là Phật giáo Lâm Tế thì đây là Lâm Tế của riêng Huế.
Bởi ở Hội An, Thiền sư Minh Hải, Lâm Tế đời 35, là đệ tử của thiền sư Nguyên Thiều
đã có một bài kệ truyền thừa khác. Liễu Quán cũng là Lâm Tế đời 35, nhưng là đệ tử
của thiền sư Minh Hoằng Tử Dung tại Huế. Ở Nam kỳ trước đây và miền Nam ngày
nay, phái Lâm Tế cũng còn hai bài kệ truyền thừa khác: một của Đạo Mân, Lâm Tế
đời 31 người Trung Quốc; một của Trí Thắng Bích Dung, Lâm Tế đời 41[3].
Phái Liễu Quán của Huế có kệ truyền thừa riêng:

Nguyên văn:

實際代道, 性海清澄,
心原廣閏, 德本慈風.
戒定福慧, 體用圓通,
永超智果, 密契成功.
傳持妙理, 演暢正宗,
行解將應, 達悟真空.
Dịch nghĩa:

“Thực Tế Đại Đạo Tính Hải Thanh Trừng


Tâm Nguyên Quảng Nhuận Đức Bản Từ Phong
Giới Định Phúc Tuệ Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý Xiển Dương Chính Tông
Hành Giải Tương Ưng Đạt Ngộ Chân Không”.
Từ bài kệ này mà dễ thấy ở Huế các chùa Thuyền Tôn, Ấn Tông thời chúa Minh
Vương; Chùa Đông thuyền, Quốc Ân thời chúa Ninh Vương; Chùa Viên Thông thời
chúa Minh Vương; chùa Viên Giác, chùa Thuyền Tôn thời chúa Định Vương; chùa
Thuyền Tôn, chùa Từ Lâm thời chúa Trịnh Chiếm; chùa Viên Thông, Viên Giác thời
Tây Sơn; Chùa Thuyền Tôn, Ấn Tông (Từ Đàm), Kỳ Viên thời Gia Long đều thuộc
phái Liễu Quán.

Khi Ngài Liễu Quán đến Huế tu học, Huế (1558-1682) đã là một trung tâm để thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử tồn tại, phục hưng[4]. Ngài Liễu Quán là người đã Việt hoá
Lâm Tế và Tào Động trên nền tảng tinh hoa văn hóa dân tộc thành thiền phái Liễu
Quán hoằng dương đạo pháp từ thế kỷ XVIII ở Đàng Trong. Sự chấn hưng của Phật
giáo thế kỷ XX ở miền Nam nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng là dựa trên môn
phái Liễu Quán.

Thiền phái Lâm Tế Liễu Quán tuy ra đời muộn so với các thiền phái khác tại Huế
nhưng đã nhanh chóng trở thành thiền phái lớn mạnh nhờ sự hộ trì của các vua chúa,
hoàng tộc cùng quan lại đương thời. Trải qua gần 300 năm hình thành và phát triển,
Huế ngày này được xem là thủ phủ của thiền phái Liễu Quán với hệ thống nhiều ngôi
tổ đình lớn như Thuyền Tôn, Báo Quốc, Tây Thiên, Từ Hiếu, Tường Vân…

Tháp mộ Tổ sư Liễu Quán ở chân núi Thiên Thai, Huế

4. Những đóng góp của thiền phái Liễu Quán đối với Phật giáo
Việt Nam
Thiền sư Liễu Quán là nhân vật quan trọng cho phong trào phục hưng Phật giáo ở
đàng Trong. Liễu Quán là thiền phái Phật giáo của người Việt do chính người Việt
sáng lập nhờ gạn đục khơi trong, hoà quyện chắt lọc những tinh hoa của hai dòng thiền
Trung Quốc với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Thiền Liễu Quán là một
tông phái đặc thù Việt Nam và linh động, có một nền móng vững chắc ở Đàng Trong
trước đây và miền Nam ngày nay.
“Trong những biến động lịch sử của thời chúa Nguyễn Phúc Chu, các thiền sư ở trong
phái thiền Lâm Tế, có thể đã bị Chúa nghi ngờ, nên Chúa phải nhọc công tìm kiếm
một phái thiền khác để ủng hộ mình, ấy là phái thiền Tào Động mà Thạch Liêm Hòa
Thượng là tiêu biểu… Nên, bài kệ thị tịch của Tổ sư Liễu Quán vừa có tính tác dụng
giác tỉnh nội quán, để thể chứng pháp thân thường trú hay thể tính không, bất sinh,
bất diệt, nơi tự tâm và vạn hữu, đồng thời cảnh báo cho học trò và những thế hệ tiếp
sau, đừng dong ruổi tìm cầu thầy Tổ bên ngoài, mà luống uổng công phu tu tập và
đồng thời cũng cảnh báo cho những người lãnh đạo xã hội đương thời, không nên
biến Tổ tông trở thành một công cụ sắc thanh, danh tướng để phục vụ cho thời đại, mà
cụ thể là danh tướng cho bản ngã của chính mình”[5].
Ngộ chứng của thiền thì siêu thoát như thế, nhưng không phải vì thế mà buông lung
phóng túng đối với lục căn, lục trần… Do vậy, trong bài kệ truyền pháp Thiền sư Liễu
Quán đã dạy: “Giới định phước huệ, thể dụng viên thông.” Tu tập cả Giới, Định và
Tuệ để thể nhập vào chỗ viên thông vô ngại của thể và dụng. Đây là chỗ đặc thù của
thiền học của Tổ sư Liễu Quán… Siêu thoát tự tại cũng chính là thể tính tối hậu của
giới và định. Thể dụng của Giới là siêu thoát tự tại, của Định là thanh tịnh tịch lặng,
của Tuệ là linh minh chiếu kiến. Chính vì vậy, còn thấy giới luật và thiền định là
những quy ước ràng buộc thì thật sự chưa thể nhập vào chỗ viên thông của chúng…
Liễu giải của thiền là diệu dụng của giác ngộ, là sự chiếu kiến tận cùng vào thực thể
của con người và vạn hữu. Trong ý nghĩa này, kiến giải của thiền không thể tách rời sự
chứng nghiệm hay công hạnh tu tập. Giải chính là Hạnh. Cho nên Tổ Liễu Quán nói
trong bài kệ truyền pháp rằng: “Hạnh Giải tương ưng, đạt ngộ Chơn Không”. Hạnh và
giải xứng hợp nhau, tương tức nhau, từ đó đạt ngộ đến Chơn Không. Chơn Không
cũng chính là Chơn Như, Thực tại, Niết bàn, Chơn Tâm. Thiền sư Liễu Quán tu học
trong bối cảnh lịch sử bất an và phân hóa của đất nước ta vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn
phân tranh… Các chúa Trịnh và Nguyễn… đã không ngần ngại tranh bá đồ vương với
nhau qua nhiều cuộc chinh chiến, khiến cho dân chúng lầm than, sơn hà điêu đứng…
Trước vận nước điêu linh và tâm thức con người thời đại đảo điên, Tổ sư Liễu Quán
đã chọn cho ngài một đạo lộ để vừa tự giải thoát mình, vừa giải thoát quần sinh. Đạo
lộ ấy chính là pháp môn thiền thuần túy Việt Nam có công năng chuyển hóa tận gốc vô
minh, phiền não, bất an và tăm tối cho con người và xã hội… Đây chính là lý do tại
sao các chúa Nguyễn đã nhiều lần triệu thỉnh Tổ vào cung để đàm đạo nhưng ngài nhất
quyết không vào. Không vào không phải vì sợ uy quyền thế tục, mà vì không muốn
làm mất thì giờ cho những việc làm hữu ích khác đối với hàng vạn dân lành đang khốn
khó, khổ đau. Suốt mấy mươi năm còn lại của đời người, Tổ đã vân du khắp nơi từ
Phú Yên ra Thuận Hóa để hoằng hóa độ sanh. Ngài đã kiên trì và tận tụy khơi dậy
từng ánh lửa trong tâm thức con người thời đại với niềm tin sắt đá rằng chính những
ánh lửa này sẽ góp lại thành mặt trời soi sáng nhân gian”.

Nối tiếp truyền thống Trúc Lâm ở Yên tử, thiền phái Liễu Quán do thiền sư Thực Diệu
Liễu Quán sáng lập và phát triển ở đầu thế kỷ XVIII là sự dung hòa giữa Lâm Tế với
Tào Động, với các yếu tố yêu thiên nhiên, yêu nước, vì dân tộc. Thiền sư Liễu Quán
đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số
Phật tử Ðàng Trong. Kiến trúc lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và từ từ
mang lấy màu sắc dân tộc thông qua những bài tán lễ như “Cực lạc Từ Hàng”. Bốn vị
đệ tử lớn của Ngài là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu đã tạo lập bốn trung
tâm hoằng đạo lớn và hàng chục tổ đình được tạo dựng khắp vùng Nam Bộ trong thế
kỷ XVIII đã thuộc về môn phái Liễu Quán. Phong trào Phật giáo phục hưng ở thế kỷ
thứ XX đã dựa trên cơ sở của môn phái mang tên của Tổ[6].
Thiền phái Liễu Quán là phái thiền thuần Việt, do người Việt sáng lập, thoát khỏi mọi
ràng buộc của văn hóa nước ngoài. “Niềm tin của Tổ đã hiện thực, vì sau khi Ngài
viên tịch, dòng thiền Liễu Quán của Ngài đã phổ cập khắp nơi, rồi cùng đi theo với
bước chân của dòng thiền ấy là vô số những ánh lửa bùng lên thắp sáng cả một miền
Nam đất Việt suốt trên hai thế kỷ nay. Trong đó có biết bao người nhờ ánh sáng này
mà tái dựng lại cuộc đời hướng mục tiêu của đời người đến cứu cánh giác ngộ!”. Từ
khi Tổ Thực Diệu – Liễu Quán viên tịch đến nay, đã trải dài hơn 270 năm. Đạo mạch
do Tổ quật khai, không những đã tỏa rộng khắp mọi miền đất nước mà còn tỏa rạng
đến nhiều châu lục trên thế giới. Đúng như lời Tổ dạy, trước khi viên tịch: “Kìa trời
biếc lắng trong, trăng thu vằng vặc, toàn thân hiển lộ nơi sa giới đại thiên!”.
Nhìn lại lịch sử nước nhà, trong suốt quãng thời gian dài này là thời kỳ đất nước ta bị
thực dân đế quốc xâm lược đô hộ và toàn dân tộc đã dấy lên các phong trào thi đua yêu
nước, tích cực tham gia vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, điều đáng ghi
nhận là trong đó có sự đóng góp trí tuệ công sức đáng kể của các tổ chức của chư Tôn
đức Kệ phái, công cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc và phát triển đạo
pháp nước nhà như: HT. Trừng Thông – Tịnh Khiết, Trừng Thủy – Giác Nhiên, Trừng
Nguyên – Đôn Hậu, Tâm Lợi – Thiện Hòa, Tâm Như – Trí Thủ,… (Phật giáo Việt
Nam Thống nhất); HT. Trừng Kim – Minh Nguyệt, … (Hội Phật giáo Cứu quốc Nam
bộ); HT. Trừng Thanh – Thiện Hào, Trừng Hinh – Pháp Dõng,… (Phật giáo Cổ truyền
Việt Nam); HT. Quảng Liên, Quảng Minh, Tâm Lợi – Thiện Hòa … (Hội Phật học
Nam Việt, Giáo hội Tăng già Nam Việt );… Đó là chư Tôn đức Kệ phái hàng chữ
Trừng (hệ thứ 7), Tâm (hệ thứ 8), Nguyên (hệ thứ 9), Quảng (hệ thứ 10)…đã và đang
nối tiếp làm rạng danh cho Phật giáo Việt Nam nói chung cũng như cho Thiền phái
Lâm Tế Liễu Quán nói riêng.

5. Kết luận
Thiền sư Liễu Quán là người có công lớn trong việc chấn hưng dòng thiền Lâm
Tế Việt Nam nói riêng và với Phật giáo Việt Nam nói chung ở thế kỷ 18, đến nay vẫn
còn ảnh hưởng lớn trong phạm vi cả nước. Khi còn tại thế, tên tuổi của Ngài đã gắn
liền với tên của dòng thiền Lâm Tế Trung Hoa để trở thành một tên gọi chỉ dòng thiền
do người Việt Nam tách mạch và thành lập: dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán. Trên cơ sở
nghiên cứu và phân tích nội dung có thể thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và
Thiền phái Liễu Quán vô cùng sâu rộng. Tác động trực tiếp vào tinh thần, tư tưởng của
mọi người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếp nối hạt giống yêu thương, trung kiên,
yêu nước, hòa đồng, thân thiện,… Hiện tại, mạch truyền thừa của thiền phái chứng tỏ
sự phát triển của dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán vẫn còn kế thừa sự nghiệp của chư tổ
một cách liên tục và quang rạng. Tuy vậy, cũng cần nhìn nhận một thực tế rằng, càng
truyền về sau thì khoảng cách giữa các thế hệ hôm nay càng xa rời cội nguồn của chư
tổ. Những tư tưởng mà quý ngài truyền trao lại ngày càng mai một, tinh thần lợi sinh
càng ngày càng mất đi. Vì vậy, là kẻ hậu bối kế thừa tông chỉ của Thiền sư Liễu Quán
cũng như lịch đại tổ sư truyền thừa, muốn cho Phật pháp ngày một sáng thêm, chúng
ta cần phải khắc cốt ghi tâm, phải có trách nhiệm với bản thân và đạo pháp, không
ngừng nỗ lực tu tập, sống đời phạm hạnh, nhằm tái hiện lại những giá trị chân thật của
chư tổ, ngỏ hầu dìu dắt cho những thế hệ tiếp theo ghi nhớ và thực hành.
Hòa thượng, TS. Thích Gia Quang
Phó Chủ tịch HĐTS Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội
***

Tài liệu tham khảo


Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm (2006), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb. Thuận Hóa,
Huế.
Thích Hải Ấn (2022), “Tôn danh của Hòa thượng Tế Nhơn là Hữu Phỉ hay Hữu Bùi”,
Tạp chí Liễu Quán, số 25.
Thích Thiện Chánh (2014), “Phả hệ truyền thừa của Thiền phái Liễu Quán”, Tạp chí
Liễu Quán, số 01.
Đoàn Trung Còn (1995). Các tông phái đạo Phật, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Nguyễn Lang (1994). Việt Nam Phật giáo sử luận – Tập 2, Nhà xuất bản Văn học Hà
Nội.
Tuệ Sỹ (Dịch 1973 PL2517). Các tông phái của đạo Phật, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Vân Thanh (1974 PL2518). Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn.
Trần Đại Vinh (Cùng các tác giả 1993). Danh lam xứ Huế, Nxb Hội nhà văn thành phố
Hồ Chí Minh.
Hoàng Ngọc Vĩnh (1998). Nét riêng Phật giáo Huế, Tạp chí Triết học, 1998(2).
Chú thích:
[1] Nghiên cứu Huế, Văn bia tháp thiền sư Liễu Quán ở núi Thiên Thai chùa Thuyền
Tôn Huế, Phan Đăng dịch & chú giải, tập 6, 2008, tr. 215-223.
[2] Chúa thượng ở đây là Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ, tức Ninh vương (1725-1738)
[3] Hoàng Ngọc Vĩnh (1998), “Nét riêng Phật giáo Huế”, Tạp chí Triết học, 1998(2),
tr. 41-43. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận – Tập2, Nhà xuất bản Văn
học Hà Nội, tr 155, 156.
[4] Vân Thanh (1974 PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 40-77
[5] Pháp bảo Đàn Kinh, Đại Chính 48, tr 349a.
[6] Nguyễn Hiền Đức (1993), Phật giáo Đàng Trong, NXB Tp.HCM.
Nối tiếp truyền thống Trúc Lâm ở Yên tử, thiền phái Liễu Quán do thiền sư Thiệt
Diệu Liễu Quán sáng lập và phát triển ở đầu thế kỷ XVIII là sự dung hòa giữa Lâm
Tế với Tào Động, với các yếu tố yêu thiên nhiên, yêu nước, vì dân tộc. Thiền phái
Liễu Quán là phái thiền thuần Việt, do người Việt sáng lập, thoát khỏi mọi ràng
buộc của văn hóa nước ngoài. Từ khi Tổ Thiệt Diệu – Liễu Quán viên tịch đến nay,
đã trải dài hơn 270 năm. Đạo mạch do Tổ quật khai, không những đã tỏa rộng
khắp mọi miền đất nước Việt Nam, mà còn tỏa rạng đến nhiều châu lục trên thế
giới.

Do vậy, sẽ là một thiếu sót nếu nghiên cứu lịch sử và lịch sử tư tưởng Việt Nam
mà không nghiên cứu lịch sử Phật giáo và lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
Bài viết này góp phần nghiên cứu về những nét tương đồng giữa thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử và thiền phái Liễu Quán trên một số phương diện.

Tiền đề về lịch sử, văn hóa và ảnh hưởng của Phật giáo Huế
2.1.1. Tiền đề lịch sử, văn hóa
Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, Huế là trung tâm chính trị, trung tâm
kinh tế của Đàng Trong và là kinh đô của triều đại phong kiến trung ương tập
quyền nhà Nguyễn. Thời kỳ này do có giao lưu buôn bán với nước ngoài (Nhật,
Trung, Anh, Pháp, Bồ, Tây Ban Nha…) mà ở thế kỷ XVIII Huế được coi là nơi “phồn
hoa đô hội” kinh tế, văn hóa đều rất phát triển. Từ cuối thế kỷ XVIII trở đi Huế có
nhiều biến động lịch sử buộc con người phải đứng trước những vấn đề hết sức
lớn lao thuộc về vận mệnh của mình và xã hội. Chính trong những biến động đó
mà Huế đã khẳng định mình, khẳng định cuộc sống và con người Huế trên nhiều
mặt: Tiếng Huế, Hò Huế, Pháp lam Huế, Kinh thành Huế, Ca Huế, Lăng tẩm Huế,
đền chùa Huế, Ẩm thực Huế, Y phục Huế, Nhà vườn Huế…

Trong tính phổ quát của cả nước và của miền Trung, Thừa Thiên Huế đã biết
chọn lọc, tôn kính bảo lưu, phát huy những giá trị nhân văn của các vị thần địa
phương gắn bó với núi sông cảnh sắc con người Huế. Thông qua hành vi thờ
phụng thần linh, cư dân Huế sớm hình thành niềm tin, sự khát khao mong mỏi
về một cuộc sống hài hòa với tự nhiên, phát triển về nhiều mặt trong một xã hội
thuận hòa, nhân ái, no đủ, hạnh phúc dưới sự che chở đùm bọc của cái tốt, cái
đẹp, cái thiện đã hóa thành thần.

Gần 400 năm (1558-1945), Huế là thủ phủ của các Chúa và là kinh đô của Nhà
nước phong kiến Trung ương tập quyền Nhà Nguyễn, vì thế tư tưởng Nho giáo để
lại khá nhiều dấu ấn trong đời sống văn hóa tinh thần con người Huế cả trên hai
phương diện tích cực và tiêu cực. Huế có khu di tích văn hóa Nho giáo Văn
Thánh, Bia tiến sỹ Ngọ Môn, điều này tạo ra ở Huế những lớp người hiếu học,
chăm học, học giỏi có tiếng ở nhiều thời đại.

Lão giáo không cung cấp cho người Huế một nhân sinh quan, một con đường
tu tập hay xử thế nhưng những biện pháp cầu cúng tôn giáo của nó lại ảnh
hưởng phổ biến rộng khắp dân gian Huế. Tuy nhiên, việc cầu cúng cũng mang
tính hai mặt.

Cùng với các tín ngưỡng dân gian Huế, từ thế kỷ XVII, Công giáo cũng đã để lại
những dấu ấn trong đời sống văn hóa tinh thần con người Huế như đạo đức sống
thiện, nhân từ; kiến trúc Tây phương, cách ứng xử Tây phương,.. Ngày nay đạo
Công giáo cũng là yếu tố góp phần tạo nên văn hóa Huế.

Huế từ lâu đã là một trong các trung tâm Phật giáo lớn của cả nước. Người
Huế xưa đến với Phật giáo trong thế tam giáo đồng nguyên: họ vừa thờ Phật vừa
thờ Quan Thánh và Thánh Mẫu Thiên Yana. Những người tu tại gia cho dù có
thuộc lòng phương châm quy y tam bảo của Phật giáo, thì họ vẫn hướng về
những lực lượng siêu nhiên nhằm nguyện cầu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ được
siêu thoát ở thế giới bên kia và nguyện cầu cho con người phàm tục khỏi ốm đau,
bệnh tật, cho đất nước được an bình không loạn lạc .1

Với hoàn cảnh địa lý – lịch sử, di sản tín ngưỡng bản địa, sự di dân, sự du nhập
các tôn giáo nước ngoài với các triều đại mà văn hóa Huế, văn hóa tinh thần con
người Huế không ngừng giao lưu, lan tỏa, củng cố, phát triển tạo nên nền văn
hóa Huế có màu sắc dung hợp, phong phú, đa dạng nhưng vẫn rất Huế.

2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo Huế

Do ảnh hưởng của tự nhiên và tính cách người Huế mà mỗi chùa Huế đều là
những nhà vườn làm mê hồn khách. Huế nhà vườn, chùa Huế nhà vườn khó
phân biệt được cái nào đã ảnh hưởng đến cái nào, mà từ lâu nó đã hòa quyện
vào nhau một cách tự nhiên, hài hòa, đẹp đến ngây ngất.

Huế đất Thần Kinh, đa thần với nhiều tôn giáo, tín ngưỡng được nhiều tín đồ
tin theo. Người Huế tin ở cái tâm của mình: Trọng nghĩa, vẹn tình, không làm điều
ác, sống đời bình yên. Người Huế thực hành tập quán trong không gian thờ cúng
nơi trang trọng nhất để thờ Phật, sau đó mới là bàn thờ tổ tiên, là theo đạo đức
Phật giáo đem lòng từ bi – hỷ xả đối đãi với mọi chúng sinh, vì tâm tức Phật. Tâm
Phật vừa là thế giới quan vừa là nhân sinh quan của thực tiễn hầu hết các cư dân
trên lãnh thổ Thừa Thiên Huế.

Trong cái chung nhân ái; yêu nước; lao động cần cù; anh dũng, bất khuất
chống giặc ngoại xâm; đoàn kết gắn bó vì độc lập dân tộc; trọn nghĩa vẹn tình của
người Việt Nam, tính cách con người Huế là bình tĩnh, kín đáo, dịu dàng, thủy
chung, giữ trọn chữ tín và cũng rất hiện đại. Và Phật giáo Huế luôn biết chọn cho
mình cách riêng góp phần quan trọng trong động lực ấy. Tín ngưỡng Phật giáo và
sinh hoạt theo nghi lễ Phật giáo đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa tinh thần
quan trọng của con người Huế.

Từ 1305–1558, Phật giáo Huế với tư cách là tín ngưỡng truyền thống của người
Việt, với những ngôi chùa đơn sơ bằng tranh, tre, lán lá đã là nơi che chở ôm ấp
cho tâm hồn người Việt Nam vào định cư ở Thuận-Hóa. Tuy dưới thời thuộc
Pháp, Phật giáo Huế cũng như cả nước luôn luôn bị thực dân Pháp chèn ép,
nhưng nhìn chung từ 1558-1945, Phật giáo Huế luôn là phương tiện cứu cánh
cho các chúa, các vua giữ vững sự thống trị của mình, cho dù trong tư tưởng của
họ Phật giáo chưa bao giờ được đưa lên địa vị độc tôn . Nhưng với việc các chúa
2

thậm chí phải đích thân sang Trung Quốc mời các thiền sư Trung Quốc sang
truyền bá Phật giáo ở Huế và Đàng Trong, đồng thời cử các thiền sư Trung Quốc
làm quốc sư cho thấy hạn chế của các Chúa do quy định của tư tưởng cát cứ
(Đàng Trong, Đàng Ngoài).
Thừa Thiên Huế là vùng lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam. Văn hóa
Huế chỉ là
sản phẩm chung của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và sự tác động của cải tạo thế giới
của con người Huế trên vùng đất Thừa Thiên Huế trong lịch sử của Việt Nam. Văn
hóa Huế nói chung, thiền phái Liễu Quán nói riêng là sản phẩm của quá trình lao
động cần cù, đấu tranh trung dũng kiên cường với các lực lượng tự nhiên khắc
nghiệt, các lực lượng xã hội phản tiến bộ ít nhất cũng từ 1306 đến nay của nhân
dân Thừa Thiên Huế tạo nên.
2.2. Tiền đề tư tưởng của thiền phái Liễu Quán
2.2.1. Nhìn từ góc độ giáo lý truyền thống, Phật giáo Liễu Quán là sự kết hợp
giữa thiền Lâm Tế với thiền Tào Động của Trung Quốc và với tinh hoa văn hóa
dân tộc Việt Nam tạo nên cái riêng của thiền phái Liễu Quán.

Nếu nói Phật giáo Liễu Quán là Phật giáo Lâm Tế thì đây là Lâm Tế của riêng
Huế. Bởi ở Hội An, Thiền sư Minh Hải, Lâm Tế đời 35, là đệ tử của thiền sư
Nguyên Thiều đã có một bài kệ truyền thừa khác. Liễu Quán cũng là Lâm Tế đời
35, nhưng là đệ tử của thiền sư Minh Hoằng Tử Dung tại Huế. Ở Nam kỳ trước
đây và miền Nam ngày nay, phái Lâm Tế cũng còn hai bài kệ truyền thừa khác:
một của Đạo Mân, Lâm Tế đời 31 người Trung Quốc; một của Trí Thắng Bích
Dung, Lâm Tế đời 41 .
3

Phái Liễu Quán của Huế có kệ truyền thừa riêng: “Thật tế đại đạo tánh hải
thanh trừng,/ Tâm nguyên quảng nhuận đức bổn từ phong./ Giới định phước
huệ, thể dụng viên thông,/ Vĩnh siêu trí quả mật khế thành công./ Truyền trì diệu
lý, diễn xướng chánh tông,/ Hạnh giải tương ứng đạt ngộ chân không”. Từ bài kệ
này mà dễ thấy ở Huế các chùa Thuyền Tôn, Ấn Tông thời chúa Minh Vương;
Chùa Đông thuyền, Quốc Ân thời chúa Ninh Vương; Chùa Viên Thông thời chúa
Minh Vương; chùa Viên Giác, chùa Thuyền Tôn thời chúa Định Vương; chùa
Thuyền Tôn, chùa Từ Lâm thời chúa Trịnh chiếm; chùa Viên Thông, Viên Giác thời
Tây Sơn; Chùa Thuyền Tôn, Ấn Tông (Từ Đàm), Kỳ Viên thời Gia Long đều thuộc
phái Liễu Quán.

Khi Ngài Liễu Quán (1670-1742) đến Huế tu học, Huế (1558-1682) đã là một
trung tâm để thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tồn tại, phục hưng . Ngài tên thật là
4

Thiệt Diệu, quê ở Bạc Mã, Đồng Xuân, Phú Yên. Ông mồ côi mẹ từ năm lên sáu,
xuất gia tu hành với thiền sư Tế Viên tại chùa Hội Tôn từ năm lên 12 và rất được
thiền sư yêu mến. Năm 1690, sau một năm tang lễ của thầy, ông ra Thuận Hoá
đến chùa Thiên Thọ cầu đạo với thiền sư Giác Phong. Năm 21 tuổi, do bố ốm
nặng ông quay về Phú Yên để chăm sóc cha. Năm 1695, sau khi ma chay cho bố
xong ông ra Huế thọ giới sa di với thiền sư Thạch Liêm (phái Tào Động). Năm
1697, ông lại thọ giới tỳ kheo với thiền sư Từ Lâm (phái Tào Động tại chùa Từ Lâm
– Huế). Năm 1702, ông đến chùa Long Sơn – Huế cầu ấn chứng với thiền sư Minh
Hoằng Tử Dung (phái Lâm Tế) nhưng chưa phá được công án do Tử Dung nêu ra
“Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ”. Năm 1708, khi ông trở lại Long Sơn trình
bày công phu của mình thì được Tử Dung hết sức khen ngợi và đến năm 1712, tại
lễ Toàn viện tại Quảng Nam ông đã được Tử Dung trao ấn chứng.
Ngài Liễu Quán là người đã Việt hoá Lâm Tế và Tào Động trên nền tảng tinh
hoa văn hóa dân tộc thành thiền phái Liễu Quán hoằng dương đạo pháp từ thế
kỷ XVIII ở Đàng Trong. Sự chấn hưng của Phật giáo thế kỷ XX ở miền Nam nói
chung, Thừa Thiên Huế nói riêng là dựa trên môn phái Liễu Quán . 5

2.2.2. Nhìn từ góc độ sinh hoạt tôn giáo, Phật giáo Liễu Quán là sự dung hợp
giữa thiền tông và tịnh độ tông nhưng nặng về tịnh độ tông. Đây là đặc điểm nổi
bật của Phật giáo Huế – Phật giáo Liễu Quán – so với Phật giáo ở những miền quê
khác trên lãnh thổ Việt Nam, nó là điểm xuất phát và căn cứ để có thể lý giải thấu
đáo những gì liên quan đến Phật giáo Huế. Ở một số các vị xuất gia tu hành thì có
thể nặng về thiền, nhưng trong dân gian, những người dân lao động bình thường
thì lại nặng về tịnh độ.

“Đối với sinh hoạt Thiền ở nước ta, việc trao truyền và tham cứu công án, nếu
có thì chỉ diễn ra một cách âm thầm kín đáo, ít khi được ứng dụng trong cách dạy
đạo hằng ngày giữa thầy và trò. Cho nên, tại các chốn thiền môn Việt Nam không
có cái không khí vừa lắng đọng tịch tĩnh, vừa nóng bỏng sôi trào của cách thức tu
tập công án. Trường hợp thầy trò của ngài Liễu Quán là một biệt lệ đáng chú ý và
nổi bật trong sinh hoạt thiền ở nước ta. Có thể nói rằng thiền sư Liễu Quán đã
làm sống dậy cái không khí tham cứu công án đầy hứng khởi của sinh hoạt thiền
bắt nguồn từ Trung Hoa” . 6

Người tịnh độ tông chuộng cái tâm hơn sự học. Học thuyết của họ là thành
tâm mà niệm Adiđà Phật thì khi thác sẽ được về nơi cực lạc. Người tịnh độ tông
không phân biệt xuất gia tu hành hay tu tại gia, không phân biệt kẻ tu hành với
người trần thế,, không phân biệt kẻ dữ với người hiền, cũng không phân biệt
người thông kinh sử với kẻ chẳng ăn học gì, tất cả đều bình đẳng trước Phật. Dốc
niệm đến Phật thì đều được giải thoát về với Phật. Người theo tịnh độ tông nhấn
mạnh đức tin tuyệt đối nơi Phật Adiđà mà không cần phải tự cầu khổ tu chứng.
Tín tâm là phương tiện duy nhất để giải thoát. Cốt lõi của tín tâm đó thể hiện rõ ở
ba lời nguyện 18, 19, 20 trong 48 lời nguyện của kinh Adiđà là Tín – Hạnh –
Nguyện .7

2.3. Thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán, người sáng lập thiền phái Liễu Quán
Theo đánh giá, kết luận của Cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu: “Tìm được một
người chấp nhận hy sinh cho đạo pháp, nhất là lúc Phật giáo đang suy đồi như
Hòa thượng Liễu Quán của chúng ta thật là điều hy hữu… Ngài là người có trí
thông minh phi thường, chí nguyện siêu việt… Đương thời Hiếu Minh vương
Nguyễn Phúc Chu cảm phục đạo đức và danh tiếng của ngài, triệu ngài vào cung,
nhưng ngài muốn giữ sự tự tại ở chốn lâm tuyền nên đã từ tạ lời thỉnh mà không
đến… Khi Ngài viên tịch (1742), Chúa Minh vương Nguyễn Phúc Chu ban thụy
hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng để khắc bia… Xin thú nhận rằng, nhân
duyên nhập đạo, sự nghiệp truyền đăng của ngài quá đặc biệt lớn lao, tôi không
sao rõ hết được, nên nơi đây chỉ thuật lại được đôi phần, như kẻ mù rờ voi vậy ”. 8

“Tổ Liễu Quán có 49 đệ tử xuất gia danh tiếng và rất nhiều đệ tử tại gia. Ở Huế có
9 vị, tỉnh Phú Yên có khoảng 10 vị kế thừa Tổ Liễu Quán” .
9

Quan niệm truyền tâm ấn của phái Liễu Quán là “Thạch chuẩn trừu điều
trường nhất trượng, quy mao phất phủ trọng tam cân” . Trong truyền đạo, khi
10

gặp cảnh “Cao cao sơn


thượng hành thuyền, thâm thâm hải để tẩu mã” , thì vẫn kiên trì, lâm cơ ứng
11

biến, hoà như nước với sữa “Chiếc giác nê ngưu triệt dạ hống, một thuyền cầm tử
tận nhựt đờn” . Mục đích cuối cùng của phái Liễu Quán vẫn là “vô thường”, “vô
12

ngã”, là “giải thoát” và giữ tâm thanh tịnh, thanh thản trước khi thị tịch: “Thất thập
dư niên thế giới trung/ Không không sắc sắc diệc dung thông./ Kim triêu mãn
nguyện hoàn gia lý/ Hà tất bôn mang vấn tổ tông”.
Tổ Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái đặc thù
Việt Nam, linh động, có một nền móng vững chắc ở Đàng Trong. Chính tổ Liễu
Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ, v.v của Lâm Tế và Tào
Động thành văn hóa Phật giáo Việt Nam. Từ thế kỷ thứ XVIII trở về sau nghiễm
nhiên với danh xưng thiền phái Liễu Quán cứ phát triển và lớn dần lên mãi.
Trong các thời kỳ chấn hưng Phật giáo, thiền phái Liễu Quán đã đóng một vai trò
trọng yếu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

2.4. Đóng góp của thiền phái Liễu Quán đối với Phật giáo Việt Nam
Tổ Liễu Quán là nhân vật quan trọng cho phong trào phục hưng Phật giáo ở
đàng Trong. Liễu Quán là thiền phái Phật giáo của người Việt do chính người Việt
sáng lập nhờ gạn đục khơi trong, hoà quyện chắt lọc những tinh hoa của hai
dòng thiền Trung Quốc với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Thiền Liễu
Quán là một tông phái đặc thù Việt Nam và linh động, có một nền móng vững
chắc ở Đàng Trong trước đây và miền Nam ngày nay.

“Trong những biến động lịch sử của thời chúa Nguyễn Phúc Chu, các thiền sư
ở trong phái thiền Lâm Tế, có thể đã bị Chúa nghi ngờ, nên Chúa phải nhọc công
tìm kiếm một phái thiền khác để ủng hộ mình, ấy là phái thiền Tào Động mà
Thạch Liêm Hòa Thượng là tiêu biểu… Nên, bài kệ thị tịch của Tổ sư Liễu Quán
vừa có tính tác dụng giác tỉnh nội quán, để thể chứng pháp thân thường trú hay
thể tính không, bất sinh, bất diệt, nơi tự tâm và vạn hữu, đồng thời cảnh báo cho
học trò và những thế hệ tiếp sau, đừng dong ruổi tìm cầu thầy Tổ bên ngoài, mà
luống uổng công phu tu tập và đồng thời cũng cảnh báo cho những người lãnh
đạo xã hội đương thời, không nên biến Tổ tông trở thành một công cụ sắc thanh,
danh tướng để phục vụ cho thời đại, mà cụ thể là danh tướng cho bản ngã của
chính mình” .
13

“Thực tại từ bổn lai vẫn như vậy, không sinh không diệt, không đoạn không
thường, không đến không đi, không một không hai… Càng mang tâm vọng động
đi tìm thực tại thì càng đi càng lạc lối. Nếu biết dừng lại thì bến bờ chính là đây…
Thật ra đèn là lửa không hai không khác. Quán trọ cũng là quê nhà. Vậy tại sao
còn phải hỏi đi về đâu? “Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý/ Hà tất bôn man vấn
tổ tông.”

Ngộ chứng của thiền thì siêu thoát như thế, nhưng không phải vì thế mà
buông lung phóng túng đối với lục căn, lục trần… Do vậy, cho nên, trong bài kệ
truyền pháp Tổ đã dạy: “Giới định phước huệ, thể dụng viên thông.” Tu tập cả
Giới, Định và Tuệ để thể nhập vào chỗ viên thông vô ngại của thể và dụng. Đây là
chỗ đặc thù của thiền học của Tổ sư Liễu Quán… Siêu thoát tự tại cũng chính là
thể tính tối hậu của giới và định. Thể dụng của Giới là siêu thoát tự tại, của Định
là thanh tịnh tịch lặng, của Tuệ là linh minh chiếu kiến. Chính vì vậy, còn thấy giới
luật và thiền định là những quy ước ràng buộc thì thật sự chưa thể nhập vào chỗ
viên thông của chúng…
Liễu giải của thiền là diệu dụng của giác ngộ, là sự chiếu kiến tận cùng vào
thực thể của con người và vạn hữu. Trong ý nghĩa này, kiến giải của thiền không
thể tách rời sự chứng nghiệm hay công hạnh tu tập. Giải chính là Hạnh. Cho nên
Tổ Liễu Quán nói trong bài kệ truyền pháp rằng: “Hạnh Giải tương ưng, đạt ngộ
Chơn Không”. Hạnh và giải xứng hợp nhau, tương tức nhau, từ đó đạt ngộ đến
Chơn Không. Chơn Không cũng chính là Chơn Như, Thực tại, Niết bàn, Chơn Tâm.

Tổ sư Liễu Quán ra đời và trưởng thành trong bối cảnh lịch sử bất an và phân
hóa của đất nước ta vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh… Các chúa Trịnh và
Nguyễn… đã không ngần ngại tranh bá đồ vương với nhau qua nhiều cuộc chinh
chiến, khiến cho dân chúng lầm than, sơn hà điêu đứng…

Trước vận nước điêu linh và tâm thức con người thời đại đảo điên, Tổ sư Liễu
Quán đã chọn cho ngài một đạo lộ để vừa tự giải thoát mình, vừa giải thoát quần
sanh. Đạo lộ ấy chính là pháp môn thiền thuần túy Việt Nam có công năng
chuyển hóa tận gốc vô minh, phiền não, bất an và tăm tối cho con người và xã
hội… Đây chính là lý do tại sao các chúa Nguyễn đã nhiều lần triệu thỉnh Tổ vào
cung để đàm đạo nhưng ngài nhất quyết không vào. Không vào không phải vì sợ
uy quyền thế tục,.. mà vì không muốn làm mất thì giờ cho những việc làm hữu
ích khác đối với hàng vạn dân lành đang khốn khó, khổ đau. Suốt mấy mươi năm
còn lại của đời người, Tổ đã vân du khắp nơi từ Phú Yên ra Thuận Hóa để hoằng
hóa độ sanh. Ngài đã kiên trì và tận tụy khơi dậy từng ánh lửa trong tâm thức con
người thời đại với niềm tin sắt đá rằng chính những ánh lửa này sẽ góp lại thành
mặt trời soi sáng nhân gian” .
14

Nối tiếp truyền thống Trúc Lâm ở Yên tử, thiền phái Liễu Quán do thiền sư
Thiệt Diệu Liễu Quán sáng lập và phát triển ở đầu thế kỷ XVIII là sự dung hòa giữa
Lâm Tế với Tào Động, với các yếu tố yêu thiên nhiên, yêu nước, vì dân tộc. Thiền
phái Liễu Quán là phái thiền thuần Việt, do người Việt sáng lập, thoát khỏi mọi
ràng buộc của văn hóa nước ngoài. “Niềm tin của Tổ đã hiện thực, vì sau khi Ngài
viên tịch, dòng thiền Liễu Quán của Ngài đã phổ cập khắp nơi, rồi cùng đi theo
với bước chân của dòng thiền ấy là vô số những ánh lửa bùng lên thắp sáng cả
một miền Nam đất Việt suốt trên hai thế kỷ nay. Trong đó có biết bao người nhờ
ánh sáng này mà tái dựng lại cuộc đời hướng mục tiêu của đời người đến cứu
cánh giác ngộ!” . “Từ khi Tổ Thiệt Diệu – Liễu Quán viên tịch đến nay, đã trải dài
15

hơn 270 năm. Đạo mạch do Tổ quật khai,.. không những đã tỏa rộng khắp mọi
miền đất nước mà còn tỏa rạng đến nhiều châu lục trên thế giới. Đúng như lời Tổ
dạy, trước khi viên tịch: “Kìa trời biếc lắng trong, trăng thu vằng vặc, toàn thân
hiển lộ nơi sa giới đại thiên!” .
16

__________
1
. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr 56.
2
. Từ 1558-1682, thiền phái Trúc Lâm ở Yên Tử có sự chấn hưng tại Thừa Thiên
Huế bởi công lao của thiền sư Minh Châu Hương Hải (Vân Thanh (1974
PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 40-77). Từ 1683-1694, Huế là
trung tâm của thiền phái Lâm tế ở Đàng Trong với sự hoằng pháp của thiền sư
Hoán Bích Tạ Nguyên Thiều (Vân Thanh, sđd, tr 126-147). Từ 1695-1712, Huế là
trung tâm của thiền phái Tào Động ở Đàng Trong với sự hoằng pháp của các
thiền sư Khắc Huyền, Quả Hoằng, Thạch Liêm Đại Sán (Vân Thanh, sđd, tr 166-
184). Từ 1712 trở đi, Huế dần trở thành trung tâm của Phật giáo Liễu Quán ở
Đàng Trong (Vân Thanh, sđd, tr 290-309).
3
. Hoàng Ngọc Vĩnh (1998), “Nét riêng Phật giáo Huế”, Tạp chí Triết học, 1998(2), tr.
41-43. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận – Tập2, Nhà xuất bản Văn
học Hà Nội, tr 155, 156.
4
. Vân Thanh (1974 PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 40-77.
5
. Vân Thanh (1974 PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 201-
208.
6
. Pháp bảo Đàn Kinh, Đại Chính 48, tr 349a.
7
. Đoàn Trung Còn (1995), Các tông phái đạo Phật, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr 115-132.
Tuệ Sỹ (Dịch 1973 PL2517), Các tông phái của đạo Phật, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn,
tr 315-334.
8
. Xem http://tuvien.com/to_su_thien/show.php?get=1&id=thiensulieuquan
9
. Xem http://www.todinhbaotinh.org/index.php? -liu-quan&catid=45:phat-giao-
phu-yen&Itemid=82
10
. Vân Thanh (1974 PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 328.
11
. Vân Thanh (1974 PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 328.
12
. Vân Thanh (1974 PL2518), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, tr 328.
13
. Pháp bảo Đàn Kinh, Đại Chính 48, tr 349a.
14
. Xem http://daitangkinhvietnam.org/content/view/311/261/
15
. Xem http://daitangkinhvietnam.org/content/view/311/261/
16
. Xem http://giacngo.vn/thuvien/giaohoiphatgiaovietnam/2011/12/09/5E720B/
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đoàn Trung Còn (1995). Các tông phái đạo Phật, Nxb Thuận Hóa, Huế,
trang 87-104, 115-132.

[2]. Nguyễn Lang (1994). Việt Nam Phật giáo sử luận – Tập2, Nhà xuất bản Văn
học Hà Nội, trang 155, 156.

[3]. Tuệ Sỹ (Dịch 1973 PL2517). Các tông phái của đạo Phật, Đại học Vạn Hạnh,
Sài Gòn, trang 293- 334.

[4]. Vân Thanh (1974 PL2518). Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, Sài Gòn, trang
40-77, 126-147, 166- 184, 201-208, 290-309, 328.

[5]. Trần Đại Vinh (Cùng các tác giả 1993). Danh lam xứ Huế, Nxb Hội nhà văn
thành phố Hồ Chí Minh, trang 14-18, 23-38, 56.

[6]. Hoàng Ngọc Vĩnh (1998). Nét riêng Phật giáo Huế, Tạp chí Triết học,
1998(2), trang 41-43.

[7]. Pháp bảo Đàn Kinh, Đại Chính 48, tr 349a.

[8]. http://daitangkinhvietnam.org/content/view/311/261/
[9]. http://giacngo.vn/thuvien/giaohoiphatgiaovietnam/2011/12/09/5E720B/

[10].
http://www.todinhbaotinh.org/index.php?-liu-quan&catid=45:phat-giao-phu-
yen&Itemid=82

[11]. http://tuvien.com/to_su_thien/show.php?get=1&id=t

PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI NAM – BẮC PHÂN TRANH

Vào thời vua Lê Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung cướp ngôi. Trung thần nhà Lê
khởi nghĩa chống Mạc, lập nhà Lê ở Thanh Hoá và Nghệ An. Khi đó, nhà Lê
nhờ nhà Trịnh giành lại ngôi, cho nên nhà Trịnh nắm quyền điều hành vua
Lê. Nhà Nguyễn không phục tùng Trịnh nên đã lấy sông Gianh làm ranh giới
chia cắt đất nước thành hai đàng: Đàng Trong ở phía Nam (chúa Nguyễn) và
Đàng Ngoài ở phía Bắc (vua Lê – chúa Trịnh).

Đối với Đàng Ngoài, vào thời vua Lê Thế Tông (1573-1599), tông Tào Động
của Thiền sư Thuỷ Nguyệt [1] truyền bá tại Việt Nam phát triển. Trong đó, có
Thiền sư Hương Hải lúc đầu theo chúa Nguyễn Phúc Tần, nhưng sau vì sự
hiểu lầm nên Ngài cùng 50 đệ tử ra Đàng Ngoài vào thời chúa Trịnh Căn
(1633-1709) trị vì. Đời vua Lê Hy Tôn (1676-1705), xuất hiện phái Liên Tôn
do Thiền sư Lân Giác sáng lập. Đồng thời, Thiền sư Nguyệt Quang [2] cũng
lập phái Liên Tôn ở Kiến An. Từ năm 1719 đến năm 1737, các chúa Trịnh
trùng tu các ngôi chùa, thỉnh Đại tạng kinh ở Trung Hoa về. Bấy giờ, nhiều vị
cao Tăng truyền pháp tại Đàng Ngoài như: Thiền sư Chuyết Chuyết, Thiền sư
Minh Hành, Thiền sư Chân Nguyên,…

Đối với Đàng Trong, ngoài việc tổ chức Pháp hội thuyết pháp và bố thí, chúa
Nguyễn Hoàng (1558-1613) trùng tu nhiều danh lam Phật giáo và cho xây
dựng một số chùa như: Chùa Thiên Mụ (1601), chùa Sùng Hóa (1602), chùa
Bảo Châu (1607), chùa Kính Thiên (1609),… Đến năm 1665, chúa Nguyễn
Phúc Tần (1648-1687) trùng tu chùa Thiên Mụ, lập chùa Quốc Ân truyền bá
dòng thiền Lâm Tế. Bấy giờ, các vị Tăng từ Trung Hoa sang ở tại Việt Nam
như: Thiền sư Tế Viên, Thiền sư Giác Phong, Thiền sư Nguyên Thiều, Thiền
sư Liễu Quán,… đã phát triển Phật giáo miền Nam rực rỡ. Thời chúa Nguyễn
Phúc Thái (1649-1691), tông Tào Động và Lâm Tế du nhập và phát triển. Các
chúa quy y phái Tào Động: Pháp danh của chúa Nguyễn Phúc Chú là Vân
Tuyền, của chúa Nguyễn Phúc Khoát là Từ Tế, chúa Nguyễn Phúc Chu là
Hưng Long,…

Thiền sư Nguyên Thiều phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Trăng sang Trung
Hoa thỉnh Thiền sư Thạch Liêm và các danh Tăng; đồng thời thỉnh nhiều
kinh điển, tượng Phật và pháp khí về để mở Đại giới đàn tại chùa Thiên Mụ.
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), trùng tu chùa Thuý Vân, chùa
Linh Mụ,… Năm 1695, chúa mời Thiền sư Thạch Liêm sang, đồng thời thỉnh
Đại tạng kinh, xây Tàng kinh lâu để bảo quản. Năm 1710, chúa Chu cho đúc
chuông nặng 3.285 cân, ăn chay, bố thí,… [3]. Từ năm 1738-1744, chúa
Nguyễn Phúc Hoạt cho trùng tu chùa Thiên Mụ, cho người sang Trung Hoa
thỉnh Đại tạng kinh. Chúa Nguyễn Phúc Khoát thường đến chùa Viên Thông
để thăm và hỏi đạo với Thiền sư Liễu Quán; đồng thời, chúa cũng tổ chức
bốn Đại giới đàn từ năm 1733-1735 tại Thừa Thiên Huế.

PHẬT GIÁO TRONG TIẾN TRÌNH KHẨN HOANG PHƯƠNG NAM

Nhà Lý sáp nhập ba châu là: Đại Lý, Ma Linh và Bố Chính, đồng thời thiền
phái Thảo Đường truyền vào và phát triển. Đến thời Trần, kinh tế và văn hoá
phát triển, Phật giáo nhập thế và mang bản sắc Đại Việt. Năm 1306, Thuận
Hoá [4] là vùng đất Chiêm Thành do vua Chế Mân dâng cho vua Trần Nhân
Tôn bằng con đường hòa bình và cưới Công chúa Huyền Trân. Đến năm
1470, vua Lê Thánh Tông cắm cột mốc phía Nam của Đại Việt trên núi Đá
Bia ở Phú Yên [5]. Đến triều Nguyễn (Đàng Trong), cuộc Nam tiến mở mang
bờ cõi của dân tộc mới hoàn thành.
Theo Đại Nam thực lục, chúa Nguyễn Hoàng là người có công rất lớn trong
việc tạo nên diện mạo mới cho vùng đất Thuận Hóa bằng chính sách nhân
văn, từ bi của Đạo Phật: “Chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân
dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp; thuyền
buôn các nước đến nhiều, trấn Thuận Hóa ngày càng trở thành một nơi đô hội
lớn” [6]. Chúa Nguyễn Hoàng đã chọn Thuận Hóa làm đất dựng nghiệp, các
chúa kế vị như: Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát
tiếp tục cuộc trường chinh tiến về phương Nam.

Các chúa mời các Thiền sư đến khai sơn và hoằng dương Phật pháp như: Tại
Thuận Hoá có Thiền sư Minh Hoẳng ở chùa Ấn Tôn, Thiền sư Thạch Liêm ở
chùa Thiền Lâm, ngài Giác Phong ở chùa Diên Thọ,…; tại Quảng Nam có
Thiền sư Pháp Bảo ở chùa Chúc Thánh, Quốc sư Hưng Liên ở chùa Tam
Thai; tại Quảng Ngãi có Thiền sư Pháp Hóa ở chùa Thiên Ấn; tại Phú Yên có
ngài Tế Viên ở chùa Hội Tông; tại Bình Định có chùa Thập Tháp. Nhìn
chung các Thiền sư khai sơn đều thuộc phái thiền Lâm Tế, chỉ trừ hai vị
Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc phái thiền Tào Ðộng.

Chúa Nguyễn Phúc Chu là một nhà lãnh đạo, một Phật tử, có vai trò quan
trọng đối với công cuộc Nam tiến của dân tộc, đối với sự phát triển của Phật
giáo Việt Nam. Năm 1698, chúa ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh thành lập
trấn Gia Định, chính thức mở rộng biên cương như hiện nay. Thời chúa
Nguyễn Phúc Chu, Phật giáo mới phát huy mạnh mẽ vai trò hộ quốc và an
dân. Các Thiền sư phát triển vùng đất mới bằng con đường hòa bình dựa trên
Phật pháp như: Chân Nguyên, Huệ Hồng, Như Sơn, Hương Hải, Thủy
Nguyệt, Tông Diễn, Như Hiện, Như Trừng, Tính Dược,… Về sau có các
Thiền sư như: Toàn Nhật, Tính Tĩnh, Tính Tuyền, Từ Phong, Kim Liên,
Chiếu Khoan, Phúc Điền, Phổ Tịnh, Thông Vinh, Nguyên Thiều, Liễu Quán,
… Trước ngài Liễu Quán, phần nhiều các Thiền sư ở Đàng trong là người
Trung Hoa. Phật giáo đã đồng hành cùng chúa Nguyễn trong tiến trình mở
rộng bờ cõi về phương Nam.

ẢNH HƯỞNG VĂN HÓA PHẬT GIÁO ĐÀNG TRONG VÀO THẾ KỶ
XVII – XVIII

UNESCO định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là tổng thể nói chung các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa
của sự phát triển”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá là tập hợp những
sáng tạo và phát minh ra các ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những vật dụng sinh hoạt và một số
phương thức sử dụng trong đời sống của con người từ xưa đến nay.

Văn hóa Phật giáo Việt Nam là sản phẩm của giao lưu tiếp biến văn hoá Việt
Nam, Trung Hoa và Ấn Độ. Ngay từ buổi đầu du nhập, nó đã tạo mối quan hệ
tương tác biện chứng giữa văn hoá và tôn giáo. Phật giáo từng bước gần gũi
và hoà hợp với tín ngưỡng dân gian và phong tục của người Việt Nam. Tôn
giáo Việt Nam nặng về tình cảm hơn là giáo lý. Chính vì thế, niềm tin tâm
linh Phật giáo và tín ngưỡng thờ Thần của người Việt có nhiều nét giống
nhau, song không phải là một.

Những tư tưởng Phật giáo thời các chúa Nguyễn khởi sắc nhất là ảnh hưởng
bởi dòng thiền Lâm Tế và Tào Động, Nguyên thuỷ Phật giáo và Phật giáo
Trúc Lâm hòa lẫn với nền văn hóa truyền thống tín ngưỡng của nhân dân
cùng với những cách tân, những tư tưởng mới mà các Thiền sư Việt Nam đã
sáng tạo ra cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội bấy giờ. Một số nét văn hoá
tiêu biểu của Phật giáo Đàng Trong ảnh hưởng đến các chúa Nguyễn trong
cuộc khai khẩn phương Nam như: 1/ Xây dựng và trùng tu nhiều ngôi chùa;
2/ Tham cầu tu học Phật pháp; 3/ Lập đàn truyền giới và làm lễ bố thí (từ
thiện); 4/ Thỉnh kinh điển, Tôn tượng và pháp khí; 5/ Tinh thần từ bi và trai
giới trong việc cai trị đất nước,…. Cụ thể với chúa Nguyễn Phúc Chu như
sau:

Thứ nhất là tham cầu học Phật, sau khi Thiền sư Nguyên Thiều viên tịch vào
năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu thỉnh Thiền sư Thạch Liêm từ Quảng
Đông (Trung Hoa) sang dạy đạo cho triều đình và nhân dân. Chúa đã được
ngài Thạch Liêm giải thích rõ ràng mối quan hệ giữa người trì chú và câu
thần chú, đồng thời nhận được bản điều trần mười tám điều về việc trị nước
theo tinh thần Phật giáo [7].

Tư tưởng Phật học của Thiền sư Thạch Liêm gồm Thiền – Tịnh song tu
“Niệm Phật cốt ở chỗ dứt bỏ được duyên lự, chỉ nhớ tới sáu chữ, tâm không
tán loạn, niệm phải tinh thành, sáng niệm, chiều niệm, niệm cho đến đến chỗ
bất niệm, niệm cho đến chỗ vô niệm, niệm niệm không ngừng,… Khắp cõi hư
không đều là Tịnh độ duy tâm, tận cùng pháp giới đều là Di Ðà tự tính. Thế
giới nhiều như vi trần. Lúc đó không còn cách nhau mảy may nào nữa, chỉ sợ
ta thiếu đức tin thôi” [8], Nho – Phật nhất trí, Lâm – Tào tổng hợp đã tác
động đến chúa Nguyễn Phúc Chu và Thái hậu Hưng Tín.
Thứ hai về tinh thần từ bi và trai giới trong việc trị quốc an dân, chúa được
ngài Thạch Liêm giải thích chữ “trai giới” đối với một bậc Quân vương như
sau: “Trai giới không phải chỉ để cho sạch miệng sạch mình và sạch tư tưởng
mà thôi đâu. Trai giới là làm cho quốc gia từ trên tới dưới được thanh lý
chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào
chẳng giải quyết thỏa đáng. Làm cho được như thế mới là sự trai giới viên
mãn của một ông vua” [9]. Qua đó, ngài Thạch Liêm đề nghị chúa trai giới
bằng cách trả tự do cho những người bị giam cầm oan ức, phóng thích bớt
những tù nhân trong ngục, chẩn cấp cho người khó khăn, bãi bỏ bớt những
luật lệ quá nghiêm khắc, dễ dãi cho người buôn thúng bán bưng và cho thợ
thuyền,… Trong đó, đặc biệt hình phạt “tượng hình” tức là bắt tù nhân để cho
voi quật đến chết, Thiền sư Thạch Liêm cũng khuyên chúa bỏ hình phạt này.
Chúa Chu vâng lời, ra lệnh bãi bỏ.

Thứ ba là xây chùa, mở Pháp hội và làm từ thiện, sau một năm lên ngôi, chúa
Nguyễn Phúc Chu cho trùng tu chùa Mỹ Am, vâng lời khuyên của Thiền sư
Thạch Liêm trong việc nâng đỡ các bậc cao Tăng ở các tỉnh và ban biển
ngạch sắc tứ cho nhiều chùa. Năm 1710, chúa cho đúc chuông chùa Linh Mụ
nặng 3.285 cân. Trên chuông có khắc những dòng sau đây: “Quốc chúa Ðại
Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Ðộng Chánh tông đời thứ ba mươi,
pháp danh Hưng Long, đúc hồng chung này nặng 3.285 cân, an trí ở chùa
Thiên Mụ Thiền Tựu để vĩnh viễn cung phụng Tam bảo. Cầu nguyện gió hòa
mưa thuận quốc thái dân an, chúng sinh trong pháp giới đều hoàn thành đại
viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ sáu, ngày Phật Đản tháng Tư Canh Dần”
[10]. Năm 1714, chúa trùng tu chùa Thiên Mụ. Sau khi trùng tu xong, chúa
mở Đại hội, ở lại chùa một tháng ăn chay, phát chẩn tiền và gạo cho người
nghèo. Phiên Vương Chiêm Thành là Kế Bà Tử cùng hoàng gia và triều thần
cũng có qua dự hội.

Thứ tư là thỉnh Đại tạng kinh, chúa đã thỉnh một bộ Ðại tạng kinh từ Trung
Hoa về và cất giữ ở Tàng kinh lâu. Những nét tinh túy của Phật giáo như:
Lòng từ bi, trai giới, dựng chùa, bố thí, thỉnh Đại tạng kinh,… được phát triển
trong nếp sống thiền môn nói riêng và mọi người nói chung. Văn hóa Phật
giáo thời chùa Nguyễn góp phần trong việc mở mang bờ cõi, phát triển đời
sống người dân và dựng lập vùng miền, văn hóa dân tộc.

Tóm lại, Phật giáo từ khi du nhập vào Việt Nam, đã phát triển từ Phật giáo
chức năng sang Phật giáo nhập thế, đã đồng hành cùng dân tộc trong việc
dựng nước, mở nước và giữ nước. Đến thời phân tranh Đàng Trong và Đàng
Ngoài, tư tưởng Phật giáo đã tác động đến các chúa Nguyễn như xây chùa,
tham vấn học Phật, trải tâm từ bi, trai giới, giới đàn, bố thí từ thiện,… trong
cuộc hành tiến mở rộng, xây dựng, phát triển đất nước. Sự đồng hành của
Phật giáo Việt Nam với dân tộc và chúa Nguyễn trong cuộc mở mang bờ cõi
vẫn giữ một niềm tin mạnh mẽ trong lòng dân tộc Việt Nam, vẫn rạng ngời
trong trang sử Phật giáo nói riêng và trang sử Việt Nam nói chung.

ĐĐ. Thích Thiện Mãn

Chú thích:

* Thích Thiện Mãn: Học viên Thạc sĩ khoá III, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.
Hồ Chí Minh.

[1] Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (1636-1704): Thuộc đời thứ 36 của tông Tào
Động tại Trung Hoa và là Sơ tổ của tông Tào Động Việt Nam ở Đàng Ngoài. Ngài
được Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo truyền pháp tại Trung Hoa, sau đó về Việt Nam sáng
lập tông Tào Động.

[2] Thiền sư Nguyệt Quang: Ngài cùng với Thiền sư Lân Giác đều là đệ tử của thiền
sư Chính Giác thuộc tông Lâm Tế Trung Hoa.

[3] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, Nxb. Văn Học, Hà Nội,
tr.240-241.
[4] Thuận Hoá: Bao gồm cả Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay.

[5] Viện Sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.17.

[6] Thích Trí Hải (2014), “Phật giáo Thuận Hoá dưới thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng”,
Giác Ngộ Online, đăng 07/02/2014, truy cập 04/01/2022. Nguồn: https://giacngo.vn.

[7] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr.630.

[8] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr.624.

[9] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr.630.

[10] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr.631

Từ đầu thế kỷ XVII đã có lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng của chúa Nguyễn đến Mô Xoài
(Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa) khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất
Nam Bộ.
Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương
Chân Lạp Chey Chettha II làm Hoàng hậu của vương triều Chân Lạp. Sự việc này cũng đã được
Christoforo Borri, một giáo sĩ người Italia sống tại thị trấn Nước Mặn (nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định) vào các năm 1618 -1622 ghi nhận (1). Dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu người Việt của vương
triều Chey Chettha II (1619 - 1627), cư dân Việt từ vùng Thuận - Quảng vào sinh sống làm ăn ở lưu vực
sông Đồng Nai ngày một đông thêm.
Năm 1623, chúa Nguyễn đã cho lập thương điếm ở vị trí tương ứng với Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh
ngày nay) để thu thuế (2).
Theo Đại Nam thực lục tiền biên, tháng 9 năm Mậu Tuất (năm 1658), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân
(Chan Ramathipati) xâm lấn đất đai của chúa Nguyễn ở vùng Mô Xoài (Bà Rịa), đã bị quan quân địa
phương bắt giải về Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Tần “tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm
phiến thần hằng năm nộp cống” (3).
Tư liệu trên xác nhận những hoạt động quan trọng đầu tiên của chúa Nguyễn trên con đường từng bước
hình thành và bảo vệ chủ quyền của mình đối với vùng đất miền Đông Nam Bộ trong những thập kỷ đầu và
giữa thế kỷ XVII.

(1) Christoíoro Borri: Cochin - China, London, 1633, Da Capo Press. Theatrem Orbis Ltd.
Amsterdam, New York, 1970, p. H.4. Tác giả còn cho biết rõ Quốc vương Chân Lạp, người kết
hôn với con gái chúa Nguyên đã xin chúa Nguyên viện trợ khí tài và quân đội để chống Xiêm.
(2) G.Mapéso: L’empire Khmer, Histoire et documents, phnom penh, 1904, p.61.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (bản dịch của Viện Sử học), Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2002, t 1, tr. 72. Nặc Ông Chân trong biên niên sử Khmer là Chan Ramathipati (1642 -1659)
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai.
Tại đây, ông tiến hành "chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ)
dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ),
dựng dinh Phiến Trấn (tức dinh Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và
các cơ đội thuyền thủy bộ tỉnh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ,
bèn chiêu mộ những người dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn,
phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy
người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiến Trấn lập làm xã Minh Hương. Từ
đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ [của ta]” (8)
Như vậy, chúa Nguyễn đã xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với các xứ Đồng Nai (huyện Phúc
Long) - Sài Gòn (huyện Tân Bình), sáp nhập hẳn vào lãnh thổ Đàng Trong, tổ chức các đơn vị hành chính
và bộ máy chính quyền từ cấp dinh, trấn cho đến tận các thôn, xã, thực thi quyền lực nhà nước trong việc
quản lý đất đai, hộ khẩu, thu thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiến và thu thuế qua việc trao đổi với
thương nhân nước ngoài. Đến đây, Sài Gòn - Gia Định đã trở thành trung tâm hành chính - chính trị và
đang từng bước hình thành một trung tâm kinh tế và văn hóa của vùng đất mới. Sự kiện năm 1698 là cột
mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ
(8) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t. 1, tr. 111

Việc vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong là sự kiện đánh dấu bước phát triển quan
trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất Nam Bộ. Đến đầu thế kỷ XVIII,
chủ quyền Việt Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên và mũi Cà Mau, bao gồm cả các đảo ngoài Biển Đông và
Vịnh Thái Lan. Lúc này, bên cạnh Đội Hoàng Sa trồng giữ các quần đảo giữa Biển Đông, chúa Nguyễn còn
đặt ra đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của Đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật, kiểm tra, kiểm
soát - thực thi chủ quyền của Việt Nam ở khu vực "các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên "
(10)
10) Lê Quý Đôn: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, t.1, tr. 120.

đến năm 1757, những phần đất còn lại ở miền Tây Nam Bộ mà trên thực tế đã thuộc quyền cai quản
của Chúa Nguyễn từ trước đó, chính thức thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sau này, dưới thời nhà Nguyễn
(1802 - 1945), tuy có một số địa điểm cụ thể vẫn còn được tiếp tục điều chỉnh, nhưng trên căn bản khu vực
biên giới Tây Nam Việt Nam đã được hoạch định từ năm 1757.
Trên vùng đất Nam Bộ, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối với việc
khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân.Trước làn
sóng tự động di dân vào Nam tìm đất sinh sống của đông đảo những người nông dân Thuận - Quảng, chúa
Nguyễn cho người đứng ra tổ chức các cuộc di cư này và lập thành các xã, thôn, phường, ấp của người
Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho địa chủ giàu có ở Thuận - Quảng đem tôi tớ và chiêu
mộ nông dân lưu vong vào đây khai hoang lập ấp. Chính sách này được thực thi lâu dài và nhất quán như
một phương thức khai hoang chủ yếu ở Nam Bộ. Lực lượng khai hoang chủ yếu là lưu dân người Việt và
một bộ phận những người dân gôc Chămpa, Chân Lạp. Ngoài ra, một số lính đồn trú, một số người Trung
Quốc, người dân tộc thiểu số khác cũng được sử dụng vào việc khai khẩn và canh tác.
Thế kỷ XVII - XVIII, trên vùng đất này hiện tượng tích tụ ruộng đất với quy mô lớn đã xuất hiện.
Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cho biết: "Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ,
Soài Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm. Họ Nguyễn chiêu mộ những người
dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn cho dời tới đây, phát chặt mở
mang hết thảy thành bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm trồng rau và làm nhà cửa...
Bảo vệ dân chúng khẩn hoang và xác lập chủ quyền là hai quá trình được các chúa Nguyễn tiến hành
song song đồng thời, trong đó xác lập chủ quyền là để bảo vệ tính hợp pháp của công cuộc khẩn hoang và
thành quả của công cuộc khẩn hoang chính là cơ sở để xác lập chủ quyền một cách thật sự. Chỉ sau hơn
một thế kỷ, tính từ đầu thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XVIII, toàn bộ khu vực Nam Bộ đã hoàn toàn
thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội năng
động. Đây là thành quả lao động cần cù và sáng tạo của tất cả các cộng đồng dân cư trong guồng máy phát
triển chung của đất nước, trong đó vai trò của các lớp cư dân người Việt, người Khmer và người Hoa là rất
nổi bật.
Các chúa Nguyễn cũng đã bố trí lực lượng quân sự, thiết lập các đồn thủ "nơi xung yếu" để chống
giặc, an dân, bảo vệ chủ quyền, đã đập tan nhiều cuộc xâm lược lãnh thổ Nam Bộ của quân Xiêm. Tiêu
biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền vùng đất Nam Bộ phải kể đến chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút của quân
Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy trước 5 vạn quân xâm lược Xiêm năm 1785. Chiến thắng này đã đập tan
âm mưu can thiệp và xâm lược Nam Bộ của quân Xiêm, thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của
chính quyền Tây Sơn. Đây là chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Các chúa Nguyễn đã có công mở rộng lãnh thổ về phía Nam đến tận đồng bằng
sông Cửu Long và xác lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới.

+ Tiếp tục thành tựu của phong trào Tây Sơn đã xóa bỏ tình trạng phân chia Đàng Trong-
Đàng Ngoài, đặt cơ sở cho sự khôi phục nền thống nhất, Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã
hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước trên lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài.

+ Xây dựng và củng cố quốc gia thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả
đất liền và hải đảo ven bờ cùng quần đảo trên biển Đông. Triều Nguyễn là một vương
triều quân chủ tập quyền có những mặt hạn chế về chế độ chuyên chế, về một số chính
sách đối nội, đối ngoại, nhưng cũng đạt nhiều tiến bộ về mặt quản lý quốc gia thống
nhất, về cải cách hành chính, xây dựng thiết chế và cơ chế vận hành của bộ máy Nhà
nước tổ chức rất qui củ.

+ Thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn để lại một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả
di sản vật thể và phi vật thể. Di sản này rải rộng trên cả nước từ Bắc chí Nam, là kết quả
lao động sáng tạo của nhân dân ta, của cộng động các thành phần dân tộc Việt Nam, của
các nhà văn hóa kiệt xuất tiêu biểu cho trí tuệ và tâm hồn dân tộc. Di sản này được kết
tinh trong một số di sản đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới nghĩa là
hàm chứa những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình, phố
cổ Hội An. Do thái độ phê phán trước đây về nhà Nguyễn nên một thời việc bảo tồn, phát
huy giá trị của di sản này có phần bị hạn chế

Việt Nam nói chung và Đàng Trong nói riêng đến thế kỷ XVII tồn tại 3 tôn giáo chính: Phật
giáo, Nho giáo và Đạo giáo, trong đó Nho giáo và Phật giáo giữ vai trò quan trọng nhất.

Xét về Nho giáo, nó có vị trí quan trọng đối với các triều đại phong kiến. Nho giáo với thuyết hình
nhi thượng học (quan niệm về Thiên đạo, Nhân đạo và Luận lý học) và hình nhi hạ học (Quân tử,
Tiểu nhân, Hiếu, Lễ Nhạc, Chính trị, Học vấn) được các nhà Nho triển khai qua nhiều thời luôn
dùng "văn chương để lấy kẻ sĩ", triều đình tổ chức lối học khoa cử theo Nho giáo.

Bên cạnh đó, Phật giáo xứ Đàng Trong cũng rất phát triển. Chùa chiền được các Chúa Nguyễn
chăm lo xây dựng, trùng tu. Nhiều Tăng sĩ Trung Hoa đến xứ Đàng Trong truyền đạo thành công
như Viên Cảnh, Viên Khoan, Hưng Liên, Giác Phong, Pháp Bảo, Tử Dung... Các thiền phái phát
triển mạnh lúc bấy giờ là phái thiền Trúc Lâm được phục hưng trở lại với sự có mặt của thiền sư
người Việt là Hương Hải, phái thiền này sau được Hương Hải truyền ra Đàng Ngoài và rất thịnh;
Hai thiền phái từ Trung Hoa là phái thiền Lâm Tế do Tổ sư Nguyên Thiều và phái thiền Tào Động
do Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) truyền sang; Đời Chúa Nguyễn Phúc Chu trở đi phát
triển chi phái thiền Liễu Quán của Tổ sư Liễu Quán. Trong đó, Nguyên Thiều là người có công
truyền đạo tại xứ Đàng Trong, thiền phái Lâm Tế đã ảnh hưởng lớn đến triều đình và dân chúng,
Ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu ban hiệu Hạnh Đoan thiền sư và khen ngợi rằng: Cao vút trí
tuệ. Phạm hạnh vun trồng. Giới đao một lưỡi, Hoằng pháp lợi người. Quán thân vốn không. Mây
từ che khắp trời tuệ chiếu cùng.

Chính vì lẽ ấy mà trong hoàng tộc Chúa Nguyễn luôn giữ lễ Cư Nho mộ Thích[7] xem Phật
giáo và Nho giáo là quốc giáo, trong giới Phật giáo lúc bấy giờ cũng có xu hướng dung hòa tam
giáo (Phật, Nho, Lão) để phát triển.

Trong thời kì này các tôn giáo của phương Tây như Công giáo cũng được chấp nhận với một
lượng tín đồ khá ít ỏi, nhưng đôi khi vì lý do chính trị mà bị cấm hoạt động ở Đàng Trong.

Chúa Nguyễn (chữ Nôm: 主阮; chữ Hán: 阮王 / Nguyễn vương) (1558-1777, 1780-1802) là tên
gọi dùng để chỉ dòng họ đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía
nam đèo Ngang hiện nay) trở vào miền Nam của Việt Nam, đối lập với xứ Đàng Ngoài của
các Chúa Trịnh trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh của lịch sử Việt Nam. Các chúa Nguyễn
cai trị từ đầu giai đoạn Lê Trung hưng của Nhà Hậu Lê, hay cuối thế kỷ XVI, cho đến khi bị Nhà
Tây Sơn tiêu diệt vào năm 1777, tuy nhiên Nguyễn Phúc Ánh (một hậu duệ của Chúa Nguyễn)
đã xưng vương và đến năm 1802 thì tiêu diệt Tây Sơn và lập ra triều đại mới thông qua việc
xưng đế. Các chúa Nguyễn chính là tổ tiên của các Hoàng đế Nhà Nguyễn (1802-1945).

Năm 1527, Mạc Đăng Dung soán ngôi Nhà Lê và lập ra Nhà Mạc. Nguyễn Kim (1468–1545), vốn
là một vị tướng giỏi của Nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại Nhà Mạc nên được
phong chức Thái sư Hưng Quốc công (sau này khi Nhà Nguyễn thành lập đã truy tôn ông
là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế). Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy Trịnh
Kiểm, người sau này trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài;
hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công. Sau
khi người con trai lớn là Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại
là Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để rời xa sự kiểm soát của
anh rể mà nhằm mưu đồ tạo dựng 1 cơ nghiệp riêng cho dòng họ Nguyễn, cụ thể từ năm 1600,
việc này dẫn đến sự chia cắt với Chúa Trịnh ở miền Bắc và hai miền chỉ được thống nhất khi cả
hai thế lực bị Nhà Tây Sơn tiêu diệt năm 1787. Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát tự xưng
tước vị "vương" để chứng tỏ quyền lực ngang hàng với Chúa Trịnh và chỉ đứng dưới Hoàng
đế Đại Việt (tức vua Nhà Lê Trung hưng).

Các Chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan lại của Nhà Lê Trung hưng. Họ vẫn nhận sắc phong và
dùng niên hiệu của vua Lê, vẫn tuyên bố mình là bề tôi trung thành của Nhà Lê, có nhiệm vụ giúp
vua Lê cai quản vùng lãnh thổ phía Nam của nước Đại Việt, dù trên thực tế họ cai trị lãnh
thổ Đàng Trong một cách tương đối độc lập, ít khi nhận mệnh lệnh từ vua Lê. Tổng cộng có 9
Chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ cho tới khi bị lật đổ vào năm 1777.
Tình trạng chia cắt Việt Nam thành Đàng Trong (của Chúa Nguyễn) với Đàng Ngoài (của
các Chúa Trịnh) kéo dài suốt khoảng thời gian đó. Đến khoảng cuối thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn
Phúc Khoát bỏ bê chính sự, triều chính rối ren khiến lòng dân chán ghét, việc này đã tạo ra điều
kiện cho nhà Tây Sơn nổi dậy, đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, kết thúc
tình trạng chia cắt Bắc - Nam của nước Đại Việt

Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, xây dựng các đơn vị hành
chính cho vùng đất Đông Nam Bộ, chính thức xác lập chủ quyền của chính quyền Đàng Trong. Năm 1708, Mạc
Cửu sau khi khai phá và xây dựng vùng đất Hà Tiên thành một vùng đất phát triển năng động đã quyết định dâng
đất này cho chúa Nguyễn. Và cho đến năm 1757, những vùng đất cuối cùng của Nam Bộ ngày nay cũng được
sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Sau khi đã hoàn thành xong việc xác lập hành chính ở
Nam Bộ, các chúa Nguyễn đẩy mạnh khai khẩn vùng đất mới với sự cần cù của người Việt, kết hợp với tài buôn
bán của người Hoa, chẳng bao lâu, Nam Bộ đã trở thành một vùng đất trù phú, màu mỡ.

Có thể nói, các chúa Nguyễn chính là những người đi tiên phong trong việc mở rộng ngoại thương, đặt quan hệ
giao thương quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sự cởi mở, thiện chí trong chính sách ngoại thương
đã có tác dụng thu hút hoạt động buôn bán của thương nhân nước ngoài vào Đàng Trong ngày càng mạnh mẽ
hơn, làm cho Nam Bộ trở thành điểm hội tụ sôi động của thế giới, nơi cuộc tiếp xúc Đông - Tây diễn ra đầy ấn
tượng vào thế kỷ XVII-XVIII. Đồng thời phát triển thương mại quốc tế là một chính sách quan trọng, phần nào
mang tính “sống còn” của chính quyền Đàng Trong, nhằm tăng cường nguồn lực phát triển và củng cố sức mạnh
tồn tại của vùng đất Đàng Trong trước áp lực rất lớn của chính quyền Đàng Ngoài. Như vậy, chủ trương “mở
cửa”, phát triển ngoại thương của chúa Nguyễn không những đáp ứng nhu cầu cấp thiết của xã hội Đàng Trong
mà còn phù hợp với xu thế phát triển thương mại quốc tế và khu vực lúc bấy giờ

những công trạng mà các nhà nghiên cứu, các học giả đã nhìn nhận và công nhận các
Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn đã làm được cho đất nước. Cụ thể, tôi tập trung
vào 4 đóng góp lớn của nhà Nguyễn trong việc củng cố và phát triển đất nước: Thống nhất và mở
rộng lãnh thổ – Xác lập chủ quyền tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Phát
triển nền văn hóa dân tộc với việc để lại những di sản văn hóa – Hình thành
những cảng thị có vai trò quan trọng

Vương triều Nguyễn chỉ mới được thành lập một cách chính thức vào đầu thế kỷ 19,
nhưng sự chuẩn bị để đi đến kết quả đó đã bắt đầu từ rất lâu, muộn lắm là cũng vào thế
kỷ 17. Theo bước thăng trầm của lịch sử mọi triều đại phong kiến, ngai vàng của các
chúa Nguyễn Đàng Trong đã bị lung lay ngay sau cái chết của chúa Nguyễn Phúc
Khoát vào năm 1765. Từ đó, Quốc phó Trương Phúc Loan, một con người vừa tham
quyền vừa tham tiền, đã khuấy động cả triều đình Phú Xuân.

Bằng mọi thủ đoạn gian ác, ông đã đưa hoàng tử thứ 16 của vị chúa thứ 8 Nguyễn
Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên nối ngôi để lợi dụng. Sự lộng
quyền của Trương Phúc Loan đã làm bộ máy cai trị của nhà chúa yếu kém dần và lâm
vào tình trạng “dột từ nóc dột xuống”.

Đó chính là lý do khiến ba anh em nhà Tây Sơn nổi dậy ở Quy Nhơn vào năm 1771.
Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh Gia Định, chúa tôi nhà
Nguyễn phải chạy xuống Định Tường, Cần Thơ rồi Long Xuyên. Quân Tây Sơn đuổi
theo, bắt được chúa và đoàn tùy tùng, họ đều bị giết, chỉ trừ Nguyễn Phúc Ánh kịp thời
rời đất liền ra trốn tránh ở đảo Thổ Châu.

Sau đó, ông trở về Long Xuyên tụ tập được một số người thân tín và tái khởi binh
đánh chiếm lại Sài Gòn. “Rồi từ đó, suốt 24 năm trời, từ năm 1778 - 1802, Nguyễn
(Phúc) Ánh liên tiếp chống lại kẻ thù họ Nguyễn. Cuối cùng ông gây dựng được cơ đồ
cũ, lên ngôi với đế hiệu Gia Long, cai trị trên một lĩnh thổ to rộng hơn bao giờ hết về
trước, và lĩnh thổ này chính ông đã đặt cho tên Việt Nam” (Nguyễn Phương, 82 năm
Việt sử, 1802-1884, Đại học Sư phạm Huế xuất bản, 1963).

Nếu nói công bằng thì sự thống nhất quốc gia vào đầu thế kỷ 19 không phải là
công riêng của ông vua đầu triều Nguyễn là Gia Long, mà nó đã được đặt sẵn nền tảng
trước đó trên dưới hai thập niên với việc xóa bỏ ranh giới sông Gianh khi quân Trịnh
mở cuộc Nam chinh vào đầu năm 1775, và nhất là lúc hoàng đế Quang Trung mở cuộc
Bắc phạt vào năm 1788. Việc thiết lập vương triều Nguyễn cũng dựa trên nền tảng của
một số triều đại tiền nhiệm trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, mà căn cơ và quan
trọng nhất của vương triều này vẫn là thời của các chúa Nguyễn

You might also like