You are on page 1of 20

Câu hỏi

thảo luận

Làm rõ ảnh hưởng của tinh


hoa văn hóa nhân loại tới


sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh”

DATE \@ "MMMM d" \* MERGEFORMAT


December 19
Giới thiệu
Giảng viên: Đặng Anh Dũng
- Teamwork Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Number group: 9 Sđt: 0989347922

1
_________________________________________________
Nhóm 9
STT Name Student ID
1 Lê Nam Thắng 23100354
2 Nguyễn Hữu Nguyên Phúc 23100329
3 Nguyễn Thị Kiểu Trang 23100367
4 Lê Thu Uyên 23100379
5 Kiều Cẩm Tú 23100376
6 Phạm Huy Minh 21300302
7 Nguyễn Quang Trường 23100375
8 Trần Phúc 23100330

2
Mục lục

I – Qúa trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh
1 Qúa trình ảnh hưởng của văn hóa phương đông đối với Hồ Chí Minh.
1.1 Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh
1.2 Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Tam Dân
2 Qúa trình ảnh hưởng của văn hóa phương tây đối với Hồ Chí Minh.
2.1 Thời kì tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác Lê-nin, trở
thành người cộng sản.
2.2 Thời kì tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản ( 1920-1930).
II – Vai trò của văn hóa phương Đông thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
1. Nho giáo.
2. Phật giáo.
3. Chủ nghĩa Tam dân – Tôn Trung Sơn.
III – Vai trò của văn hóa phương Tây thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
1. Thiên chúa giáo.
2. Triết học Khai sáng Pháp.
3. Các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn.
IV – Sự kết hợp văn hóa phương Đông và Tây trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
V – Kết luận.

3
I – Qúa trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Hồ Chí Minh.
1. Qúa trình ảnh hưởng của văn hóa phương đông đối với Hồ Chí
Minh.
Nhắc đến thuật ngữ phương Đông, cho đến nay vẫn là một đề tài gây tranh cãi.
“Phương Đông” xuất phát từ quan niệm lúc đầu của người phương Tây và hoàn toàn
mang tính chất về địa lý để chỉ khu vực Châu Á nằm ở phía đông của phương Tây. Khó
có thể phủ nhận rằng phạm vi phương Đông có tầm ảnh hướng lớn đến Việt Nam là 2
vùng Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Chính vì vậy mà khi nói đến ảnh hửng của văn hóa
Phương Đông, người ta hay bàn đến ảnh hưởng văn hóa của 2 vùng nói trên. Quá trình
ảnh hưởng của văn hóa Phương Đông đã bắt đầu xảy ra từ rất lâu và ảnh hưởng đến
nhiều khía cạnh khác nhau. Xong, nó cũng ảnh hướng lớn tới sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong đó phải đặc biệt kể tới sự ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo và Chủ
nghĩa Tôn Trung Sơn.

1.1 Nho giáo, gia đình và thời niên thiếu của Hồ Chí Minh.
Nho giáo , còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đứ, triết lý và tôn
giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở
các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triểu Tiên và sớm du nhập vào Việt Nam.
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị
kiểu mẫu- người lý tưởng này gọi là quân tử. Hồ Chí Minh đã lựa chọn những yếu tố
tích cực của Nho giáo đưa vào đó nội dung và ý nghĩa cho phù hợp với cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới.

Nho giáo đã từng bén duyên với Nguyễn Ái Quốc từ thời niên thiếu và theo mãi
Hồ Chí Minh cho tới trọn đời. Sinh ra trong một gia đình Nho giáo, được đào tạo về
Nho giáo từ rất sớm, nên ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh là lẽ đương
nhiên. Vì thế không khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo lí này đến việc hình
thành nên tư tưởng của Người.Thân là con một vị đại Nho: cụ Phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc, sinh ra và lớn lên tại một vùng văn hóa mà dù đã có cảnh Hán học suy tàn:
“Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lưởng nhấp nhổm ngồi”
(Tú Xương)

4
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước:tấm lòng ái quốc của cha,
tình cảm nhân ái, vị tha của mẹ, đức thương người, yêu nước, gan dạ từ các thành viên
trong gia đình được truyền dạy đến Chủ tịch Hồ Chí Minh qua tình yêu thương, sự dạy
dỗ của đấng sinh thành. Tất cả đã góp phần to lớn trong việc hình thành nên nhân cách
và tư duy, tư tưởng của Người. lớn lên trong gia đình mẫu mực, cội nguồn tư tưởng,
nhân cách cao đẹp, chí hướng cứu nước và cứ dân cao cả của người đã được bắt nguồn
cả từ nhân tố gia đình. Cha là người thầy đầu tiên, dạy và giáo dục, nuôi dưỡng tinh thần
yêu nước trong Người. mẹ là người rèn và xây dựng nên một nền tảng đạo đức nhân ái
từ sự nuôi dưỡng. Có thể thấy, tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh như tờ giấy trắng và
gia đình chính là những người đã viết những dòng đầu tiên, ảnh hướng to lớn và
sâu sắc tới tư tưởng của người tới mãi sau này.

Trước sự tấn công của văn hóa phưởng Tây trong tình trạng “Á- Âu xáo lộn”,
trong tình trạng “mưa Âu gió Mĩ” xem ra đang một ngày một dồn dập, nhưng với riêng
vùng đất văn hóa này (tức vùng Nghệ- Tĩnh) thì ảnh hưởng của Nho giáo vẫn đang được
cố thủ, chưa hẳn đã lép vế so với Tây Học

Bác còn lớn lên ở cái xứ Huế, kinh đô của triểu Nguyễn, dù Tây học đã tràn đến
trong chiều thắng thế dần, nhưng Nho học đâu đã chịu quy hàng hoàn toàn. Chế độ Nam
triêu còn đó với hệ thống quan lại hầu hết xuất than khoa bảng, ít nhiều đóng vai trò căn
cứ địa của Nho giáo. Những điều kiện khách quan trên đây cho phép nói đến ảnh hưởng
của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh như là một điều tất yếu đầu tiên.

Chính lúc thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán trong đó có Nho giáo.
Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài viết của
Người tính từ năm 1921 đến sau này mà có người đã tính được là hơn 100 trường hợp,
trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử chiếm nhiều nhất.

Như vậy là thái độ của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với Khổng Tử và Nho
giáo có sự phát triển qua các chặng thời gian nhưng rõ rang nhất quán một quan điểm
lịch sử đúng đắn, khẳng định đúng mức với lòng tôn kính những giá trị chân chính mà
người xưa đã đạt được. Đương nhiên là trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã triệt để phê phán bác bỏ ý thức Nho giáo phong kiến
phản tiến hóa.

2.3 Chủ nghĩa Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Tam Dân.

5
Tôn Trung Sơn (Tôn Văn, Tôn Dật Tiên, 1866 - 1925) là nhà yêu nước vĩ đại, nhà
cách mạng dân chủ lỗi lạc của Trung Quốc. Tên tuổi của Tôn Trung Sơn gắn liền với
chủ nghĩa Tam dân và cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc. Chủ nghĩa Tam
dân (với 3 nội dung chủ yếu là dân tộc, dân quyền, dân sinh) đã thể hiện khá hoàn chỉnh
tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc thời kỳ cận đại. Trên nền tảng lý luận của chủ
nghĩa Tam dân, Trung Quốc Đồng minh hội - (chính đảng của giai cấp tư sản Trung
Quốc) ra đời và lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành thành công cuộc cách mạng
Tân Hợi. Cuộc cách mạng đã lật đổ nền thống trị gần 300 năm của vương triều Mãn
Thanh, kết thúc chế độ chuyên chế phong kiến hơn 2000 năm, lập nên nước Trung Hoa
dân quốc, thúc đẩy cuộc cách mạng dân chủ ở Trung Quốc lên một giai đoạn mới. Đó là
cống hiến to lớn của Tôn Trung Sơn đối với lịch sử Trung Quốc. Cũng từ đó mà ảnh
hưởng của ông đã lan rộng khắp các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ở Châu Á.

Nói đến ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Tam dân đối với Hồ Chí
Minh, trước hết phải kể đến lòng tôn kính, sự khâm phục, trân trọng của Hồ Chí Minh
đối với Tôn Trung Sơn. Người đã có những đánh giá đúng đắn về Tôn Trung Sơn, về
Quốc dân đảng cách mạng (tổ chức do Tôn Trung Sơn sáng lập) thời kỳ đầu ở Quảng
Châu và về chủ nghĩa Tam dân mới của ông. Trong bài Các nước đế quốc chủ nghĩa và
Trung Quốc đăng trên Tạp chí Thư tín quốc tế số 57 (năm 1924), Nguyễn Ái Quốc đã
viết: “Tôn Dật Tiên, “người cha của cách mạng Trung Quốc”, người đứng đầu Chính
phủ Quảng Châu, thì luôn luôn trung thành với những nguyên lý của mình, ngay cả
trong những lúc khó khăn nhất. Cương lĩnh của đảng ông - Quốc dân đảng - là một
cương lĩnh cải cách. Cương lĩnh đó gồm những điều khoản chống đế quốc và chống
quân phiệt một cách rõ rệt. Đảng đó lớn tiếng tuyên bố đoàn kết với các dân tộc bị áp
bức ở các nước thuộc địa và với giai cấp vô sản quốc tế. Đảng đó đồng tình với Cách
mạng Nga”. Nhận định này của Hồ Chí Minh hoàn toàn phù hợp với quan điểm của
Quốc tế cộng sản về Tôn Trung Sơn trong Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân và nhân
dân lao động Trung Quốc khi ông qua đời (tháng 3 năm 1925): “Tên tuổi của Tôn Dật
Tiên, người đã một đời đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thế giới để giải phóng quần
chúng nhân dân Trung Quốc, thật vô cùng cao quý đối với giai cấp vô sản thế giới, đối
với các dân tộc bị áp bức ở Phương Đông đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thế
giới”

Tuy nhiên, trên thực tế, phải đến giữa tháng 11 năm 1924, khi từ Mátxcơva đến
Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh mới có điều kiện tìm hiểu tư tưởng của Tôn
Trung Sơn một cách trực tiếp và sâu sắc. Hồ Chí Minh hoạt động ở Quảng Châu vào
6
thời điểm Tôn Trung Sơn đã công bố chủ nghĩa Tam dân mới: dân tộc có nghĩa là chống
đế quốc, thiết lập sự bình đẳng hoàn toàn giữa các dân tộc trong nước; dân sinh là giao
ruộng đất cho nông dân, tiết chế đại tư sản trong nông nghiệp; cùng với đó là 3 chính
sách lớn “liên Nga, liên cộng, ủng hộ công nông”. Do đó, Hồ Chí Minh đã hướng đến
chủ nghĩa Tam dân với niềm hứng khởi vô hạn: “Đọc quảng cáo trên tờ Quảng Châu
nhật báo, ông tìm đến làm phiên dịch cho ông Bôrôđin, cố vấn chính trị của bác sĩ Tôn
Dật Tiên và của Chính phủ Quảng Châu. Ông dịch những tờ báo Trung Quốc ra tiếng
Anh. Ông để hết tâm lực nghiên cứu chính trị Trung Quốc. Đây là cái mà Việt Nam cần.
Đây là cái mà dân tộc Việt Nam đòi hỏi. Đây là cái mà Nguyễn Ái Quốc tìm kiếm. Từ
đó về sau, Nguyễn Ái Quốc có lòng kính trọng sâu sắc đối với lãnh tụ vĩ đại này của
nhân dân Trung Quốc và trở thành người học trò trung thực của ông ta (Tôn Trung
Sơn)”

Một chi tiết cần chú ý là, cũng như đối với Lênin, Hồ Chí Minh chưa có may mắn
được gặp gỡ và tiếp xúc trực tiếp với Tôn Trung Sơn. Năm 1924, khi Hồ Chí Minh từ
Mátxcơva đến Quảng Châu thì cũng thời gian đó Tôn Trung Sơn rời Quảng Châu đến
Thượng Hải và sau đó là sang Nhật Bản. Sau ít ngày lưu lại Tôkyô, tháng 12 năm 1924
Tôn Trung Sơn đi tiếp đến Bắc Kinh và qua đời ở đó ( tháng 3 năm 1925). Trong khi Hồ
Chí Minh ở lại Quảng Châu đến tận tháng 4 năm 1927. Như vậy, Hồ Chí Minh chỉ
nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân chủ yếu thông qua tiếp xúc với sách vở, tài liệu và học
trò của Tôn Trung Sơn. Điều này càng cho thấy rõ hơn trí tuệ vĩ đại của Hồ Chí Minh
trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn hoá nhân loại (cụ thể là chủ
nghĩa Tam dân).

2- Qúa trình ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh tiếp cận văn hóa phương Tây khá sớm và trên hành trình tìm đường
giải phóng dân tộc, Người đã tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ của văn minh
phương Tây.

Sau này, Người kể rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba
chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”.

Người lên đường ra đi ngày 5-6-1911 trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin. Trong
hành trình tìm đường cứu nước, Người vượt qua ba đại dương, bốn châu lục (Á, Âu,
7
Phi, Mỹ), đến hầu hết những nơi được coi là trung tâm văn minh đương thời, hoạt động
lâu nhất ở Pháp - nơi tụ hợp nhiều trào lưu văn hóa, tư tưởng của phương Tây và thế
giới.

2.1 Thời kì tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác Lê-nin,trở thành
người cộng sản
Mặc dù rất khâm phục lòng yêu nước và đánh giá cao những cống hiến của các
bậc cách mạng tiền bối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng bằng dự cảm chính trị
thiên tài, Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) đã nhận thấy những hạn
chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời
nên khó đi đến thành công. Người quyết định đi tìm con đường cứu nước mới.

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin(Amiral Latouche
Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn), người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình
lịch sử đi tìm đường cứu nước.

Trong khoảng 10 năm (1911 - 1920), Người đã đi qua hàng chục quốc gia, từ các
nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Người vừa
phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập, tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội của
nước sở tại và các nước tư bản chủ nghĩa khác và tham gia hoạt động yêu nước ở nước
ngoài.

Trong những năm ở nước Mỹ và nước Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu
về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn
Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và dân
quyền”. Người đã kiên quyết không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo
Người, đó là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì nó không hề đề
cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất
công.

Tháng 6 năm 1919, khi các nước đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất họp Hội nghị ở Véc-xây (Versailles) nước Pháp để mục đích phân chia lại thế
giới, Người đã chớp lấy cơ hội đó để cùng với một số nhà yêu nước khác tại Pháp, gửi
tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 tám điểm, tố cáo chính sách
của thực dân Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và
8
quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Qua sự kiện đó càng khẳng định sự nhạy cảm
về chính trị, tính chủ động, khôn khéo, sắc bén trong đấu tranh cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tầm nhìn của các nhà chí sĩ yêu nước đương thời; đồng
thời, đánh dấu sự tiếp cận gầnhơn chủ nghĩa Mác - Lênin của Người.

Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và thành lập
Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở thành
phố Tua (Tours), tháng 12/1920. Người đã trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Từ đó, chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây đã có một phương hướng
mới. Người đã rút ra một luận điểm hết sức khoa học và cách mạng triệt để: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.

Con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đường giải quyết cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản
vào nửa cuối năm 1929 và Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.

2.2 Thời kì tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-


1930)
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa,
nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.

Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh )
đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của
Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng.

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu,
tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác
ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)... Người đã vận dụng và phát

9
triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và
thời đại mới.

Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh
đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình
độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

II – Vai trò của văn hóa phương Đông thể hiện trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
1. Nho giáo.
Nho Giáo: hay còn gọi là Khổng Giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn
giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Trong Nho Giáo có nhiều
yếu tố duy tâm, cổ hủ. Tuy nhiên, Nho giáo cũng có những điểm tích cực đó là: triết lý
nhân sinh thẻ hiện ở tư tưởng từ bậc thiên tử tới thứ dân phải lấy việc tu thân làm gốc;
lý tưởng về một xã hội đại đồng có vua sáng tôi hiền, cha từ, con thảo… Hồ Chí Minh
đã lựa chọn những yếu tố tích cực của Nho giáo để đưa vào đó nội dung và ý nghĩa cho
phù hợp với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Hồ Chí Minh đã kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã
hội, đặc biệt phát triển tinh thần trong đạo đức của Nho giáo.

Người đã kế thừa và phát triển quan niệm về việc xây dựng một xã hội lí tưởng,
công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một
thế giới hòa bình, không có chiến tranh, hữu nghị hợp tác.

2. Phật giáo.

10
Hồ Chí Minh chủ ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêuthương con
người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác;đề cao quyền bình đẳng của con
người và chân lý, khuyên conngười sống hoà đồng, gắn bó với đất nước của Đạo Phật.

Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của Đạo Phật được Hồ ChíMinh vận
dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Lòng yêu nước thương dân và triết lí từ bi thấm nhuần từ đạo Phậtcủa Cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có ảnh hưởng nhất định tới chủ tịch Hồ Chí Minh trên bước
đường cứu nước.Chúng ta thấy, những ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về tư tưởng giáo lý
nhà Phật rất rõ nét. Người đã gạn lọc, kế thừa, cách mạnghóa những hạt nhân hợp lý
trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương
bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa
hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào
theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước. Đó là lòng yêu thương con người,quên
mình vì mọi người, mình vì người khác...Trong giáo lý nhà Phật, "từ bi" là ước vọng
mãnh liệt để giải thoát con người thoát khỏi đau khổ. “Bác ái" là lòng thương yêu của
mọi người. "Vị tha",sống vì người khác", "kết tinh bằng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh,hướng
dẫn chúng sinh đạt tới mục đich giác ngộ và giải thoát,chuyển cõi Ta bà này thành cõi
Tịnh độ và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống cực lạc".

Từ triết lý, giáo lý của nhà Phật, Hồ Chí Minh đã tích lũy và hình thành cho mình
tư tưởng mang giá trị triết lý nhân văn sâu sắc và chính Người luôn luôn hướng đến Phật
pháp.Từ rất sớm (năm 1921), Hồ Chí Minh cảnh tỉnh loài người khi tìm cách xoá bỏ
đẳng cấp, tôn giáo và các thành phần giai cấp: "Thảm họa của đất nước đã xoá bỏ sự
phân biệt đẳng cấp và tôn giáo.Người giàu người nghèo, quý tộc và nông dân, Hồi giáo

11
và Phậtgiáo, đều hợp súc đoàn kế". Hồ Chí Minh thành tâm gợi niềm tin mãnh liệt: "Rồi
đây, bốn bể một nhà...". Từ những suy nghĩ đó, Hồ Chí Minh quan niệm: "Trong bầu
trời không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân dân, việc gì có lợi cho
nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Nghiên cứu tư
tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người: “Đã gạn lọc, kế
thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao
nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại,chống điều
ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc chotruyền thống yêu nước, nhân ái
của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước",
đó là Lòng yêu thương con người, quên mình vì mọi người, luôn tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất, đạo đức của con người, luôn gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, tư
tưởng về đại đoàn kết toàn dân.Tựu trung lại, vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc và tôn
giáo chiếm giữ một vị trí quan trọng trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó luôn được
Người quan tâm, xem xét và giải quyết một cách biện chứng.

Vì vậy, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủtịch Hồ Chí Minh về vần
đề này là một trong những cơ sở bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều
này càng trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay,
một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đang rơi vào tình trạng bất ổn xung đột gay gắt do
không giải quyết thoả đáng, đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.

3. Chủ nghĩa Tam dân - Tôn Trung Sơn.

Chủ nghĩa Tam Dân có những tác động tích cực đến phong trào cách mạng Việt
Nam ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thời điểm đang khủng hoảng về đường lối cứu
nước, một số sỹ phu yêu nước đã coi đây là nền tảng lý luận quan trọng cho việc hình

12
thành tư tưởng cứu nước. Trong đó, Hồ Chí Minh là người chịu ảnh hưởng lớn đến sự
hình thành tư tưởng của mình.
Sinh thời, Nguyễn Tất Thành cũng đã từng được nghe những từ “dân sinh”, “dân
quyền”, “dân quốc” do các nhà Nho yêu nước nói đến trong khi đàm luận với cụ
Nguyễn Sinh Sắc… với lòng tôn kính, khâm phục và trân trọng. Trong Tạp chí Thư tín
quốc tế số 57 (năm 1924), Nguyễn Ái Quốc đã viết: Tôn Dật Tiên - người cha của cách
mạng Trung Quốc, người đã một đời đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thếgiới để giải
phóng quần chúng nhân dân. Nhưng phải sau khi về tới Quảng Châu (1924), Nguyễn Ái
Quốc mới có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn
qua sách vở và học trò của Tôn Văn, nghiên cứu và đánh giá rất cao chủ nghĩa ấy và
thấy có những tư tưởng tiến bộ, tích cực có nhiều điểm thích hợp với điều kiện nước ta.
Cách lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn cũng được Người quan tâm và học
tập, đặc biệt là vận dụng đạo đức Nho giáo để tuyên truyền và giáo dục tinh thần cách
mạng cho quần chúng. Coi những người lãnh đạo, nhân viên phải trung với nước, là đầy
tớ của quần chúng nhân dân. Chính tư tưởng trên đã được Hồ Chí Minh vận dụng thành
những lời nhắc nhở, giáo dục cho cán bộ, đảng viên chúng ta: “cán bộ là đầy tớ của
nhân dân”, cán bộ phải “trung với nước, hiếu với dân”, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”, “phải khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” ...
Cũng như Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã lấy “dân tộc độc lập” làm lý tưởng
cho hành động của Người. Với lý tưởng ấy, Người đã vượt qua mọi khó khăn thử thách,
bôn ba khắp bốn phương trời để tìm đường cho dân tộc theo đi.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là
học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình độc lập, tự do của Việt Nam, đồng
thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, “Độc lập
cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Vì vậy, Người không chỉ
được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được công nhận

13
là Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ
XX.
Con đường sau giành độc lập dân tộc đã được Hồ Chí Minh định hướng rõ là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có như thế thì dân quyền mới tự do, dân sinh
mới hạnh phúc. Nếu như Tôn Trung Sơn với nguyên tắc “dân quyền tự do” thì Hồ Chí
Minh của chúng ta lại phấn đấu xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi
quyền lợi hạnh phúc đều thuộc về nhân dân. Người quan niệm nhà nước ấy mới thực
hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lâp dân tộc với tự do và
hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Độc lập mà dân không được hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Do đó, giành độc lập rồi phải tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “là làm sao cho dân giàu, nước
mạnh”, là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do. Sự phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
Qua đó, cho ta thấy tư tưởng của Bác đã toát lên ảnh hưởng của tư tưởng Tôn
Trung Sơn, về sau ta còn thấy tư tưởng của Bác đó là: dân tộc, dân quyền, dân sinh, dân
trí, nghĩa là phát triển từ chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Hơn nữa, chính sách
của Tôn Trung Sơn: thân Nga, liên Cộng, phù trợ Công nông cũng phù hợp với đường
lối cách mạng Việt Nam và chính sách ấy đã được Hồ Chí Minh kết hợp một cách thật
tài tình để giải phóng dân tộc Việt Nam, tạo ra một Việt Nam trong nhân loại, một tình
hữu ái vô sản toàn thế giới như Ăngghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính
trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn cơ bản vẫn là tư tưởng dân
chủ tư sản, nằm trong hệ tư tưởng tư sản nên có nhiều hạn chế. Hồ Chí Minh đã nhận
thấy những hạn chế ấy, cho nên khi cụ Phan Bội Châu định chuyển Việt Nam Quang
Phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng, theo cương lĩnh của Tôn Trung Sơn thì
Nguyễn Ái Quốc đã có những lời khuyên chân tình là không thể dừng lại ở những chủ
trương của Quốc dân đảng. Hơn nữa, khi vận dụng “chính sách” mà Người cho là thích

14
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam như khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”
rút ra từ chủ nghĩa Tam Dân và tư tưởng “Tự do - bình đẳng - bác ái” của cách mạng tư
sản Pháp thành tiêu ngữ của nước Việt Nam dânchủ cộng hoà, thì Người đã phát triển
khái niệm “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” lên một tầm cao mới, mang tính giai cấp, tính
nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để của cách mạng dân tộc dân chủ dưới
sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng.
III – Vai trò của văn hóa phương Tây thể hiện trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
1. Thiên chúa giáo
Với tư duy sắc bén, tinh thần đấu tranh vì chính nghĩa, tự do và hạnh phúc con
người, Hồ Chí Minh đã nhìn ra những quan điểm tốt đẹp, hướng thiện trong ĐạoThiên
chúa, chứ không coi đó chỉ là một công cụ xâm lược của thực dân Pháp.Đứng trên lập
trường duy vật và phương pháp luận biện chứng, Hồ Chí Minh dãchắt lọc những yếu tố
hợp lý, có giá trị lâu dài đối với đời sống “trần gian” thiết thực của con người nói chung,
của đạo hữu Thiên chúa giáo nói riêng trong nhữngtư tưởng cơ bản của đạo Thiên chúa
nêu trên để làm phong phú thêm tư tưởng củaNgười trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, góp phần lãnh đạo cách mạng ViệtNam tới thành công.

Mặt khác, sau khi cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công, có một điều
khác biệt rất rõ so với cách mạng Tháng 10 ở Nga: Chính phủ Cách mạng lâm thời
ViệtNam Dân chủ Cộng hòa không chủ trương phá hủy nhà thờ hay coi giáo dân là
đốitượng chống lại cách mạng. Hồ Chí Minh đã trả lời rất rõ trong bài báo “Ai pháđạo”
được đăng trên báo Nhân dân ngày 6/7/1955: “Tôi là cán bộ cách mạng, làngười cộng
sản. Nhưng mục đích của chúng tôi là lo cho dân có cơm ăn, áo mặc,được học hành,
sống sung sướng trong độc lập, tự do. Các cụ lo việc tín ngưỡngthờ Chúa, lo việc linh
hồn tín đồ. Nhưng tín đồ cũng cần ăn, mặc, ở, học hành, cầnđược tự do, hạnh phúc và
các giáo sĩ chắc chắn cũng quan tâm rất nhiều.Ngườicách mạng và người tôn giáo thống
nhất với nhau ở mục đích mưu cầu hạnh phúcở đời này cho nhân dân. Chúng ta phải lo
nhiệm vụ ấy. Còn đối với tín ngưỡng tôngiáo thì đã có chính sách rõ ràng. Chúng tôi tôn
trọng và đảm bảo tự do tín ngưỡngcủa tất cả các tôn giáo. Như thế kẻ nào đặt ra việc
công giáo không đội trời chungvới cộng sản là sai.”
15
Rõ ràng, góc nhìn đúng đắn về những giá trị tốt đẹp trong đạo Thiên chúa của
HồChí Minh đã góp phần xây dựng nên hệ thống tư tưởng của Người về vấn đề tự do
tôn giáo , đại đoàn kết dân tộc và vấn đề xây dựng nền văn hóa của đất nước xã hội chủ
nghĩa.

2.Triết học khai sáng Pháp

Thời Khai Sáng là thời đại trải dài phần lớn trên thế kỷ 18, từ 1715 đến 1789 là
năm đánh dấu Cách Mạng Pháp. Ánh sáng ở đây là một ẩn dụ được dùng để chỉ tri thức
và hoạt động của tinh thần. Nói cách khác chính là những thành tựu về khoahọc kĩ thuật
vượt bậc mà xã hội châu Âu đạt được trong khoảng thời gian này. Ngược lại, bóng tối
mông muội ở đây chỉ chế độ nhà nước phong kiến tàn lụi và đức tin mông muội vào
thánh thần, tôn giáo.Thời Khai Sáng xảy ra ở Châu Âu , đặc biệt ở Đức, Pháp, Anh và
Tây Ban Nha nhưng ảnh hưởng của trào lưu lan rộng khắp nơi.

Riêng ở Pháp, thời Khai Sáng là thời của tự do, thời của tiến bộ được các thiên tài
như: Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau thể hiện với nhiều tác phẩm lớnnhư:Từ
điển Triết học của Voltaire: phản bác thể chế chính trị đương thời của Pháp, nhà thờ
Công giáo, Kinh Thánh và thể hiện văn phong, tính cách riêng Voltaire. Qua đó ông
nhấn mạnh vai trò của tôn giáo lý tưởng là giáo dục đạo đức chứ không phải giáo
điều.Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau: Nói về Hiến pháp của một đất
nước,nguyên tắc lựa chọn người cầm quyền và trách nhiệm của người cầm quyền.
Chínhnhững ý tưởng này đã châm ngòi cho cả cuộc Cách mạng Pháp và Mỹ.Tinh thần
pháp luật của Montesquieu: bao quát các chủ đề về chính trị, luật, xã hộihọc, nhân loại
học. Trong luận thuyết chính trị của mình, ông đã bênh vực chủ nghĩa hợp hiến và
thuyết tam quyền phân lập, bãi bỏ nô lệ, bảo vệ quyền tự do công dân và nhà nước pháp
quyền, và ý tưởng rằng các thể chế luật pháp và chínhtrị phải phản ảnh đặc tính địa lý và
xã hội của từng cộng đồng riêng biệt.

3.Các cuộc cách mạng tại Pháp, Mỹ và các bản tuyên ngôn

a) Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ (1776)


Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Vương
Quốc Anh của 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ. Tuyên ngôn được đọc ngày 4/7/1776, nội

16
dung chính của bản tuyên ngôn dựa trên tư tưởng John Locke, một triết gia người Anh.
Theo ông, con người có ba quyền cơ bản không thể bị tước đoạt là quyền được sống,
được tự do và được sở hữu. Quyền sở hữu được Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đề
cập tới trong bản tuyên ngôn là “quyền được mưu cầu hạnhphúc”.

Bản Tuyên ngôn đã truyền cảm hứng cho nhiều bài phát biểu nổi tiếng khác nhưcủa nhà
hoạt động nhân quyền Martin Luther King Jr. Và Tổng thống AbrahamLincoln cũng
như bản Tuyên ngôn độc lập của một số nước như Việt Nam,Zimbabwe…
Câu trích dẫn nổi tiếng của bản tuyên ngôn là “Tất cả mọi người đều sinh ra cóquyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “.

b) Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng Pháp (1791)


Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp do hầu tước Marquis
Lafayette soạn thảo. Hầu tước Lafayette là một nhà cách mạng có công cho cả nước Mỹ
và nước Pháp. Năm 1777, ông đã đưa quân sang Mỹ để giúp nhân dân Mỹ chiến đấu
giành độc lập. Sau đó ông trở lại Pháp tham gia cuộc Cách mạng tưsản Pháp năm 1789
và trở thành Tư lệnh lực lượng vệ binh quốc gia. Ông chính là tác giả của bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp.

Trong bản tuyên ngôn này có tất cả 17 điều khoản, điều 1 và điều 2 là nổi tiếngnhất và
được trích dẫn nhiều nhất: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyềnlợi, và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự khác biệt xã hộichỉ có thể được thiết
lập trên cơ sở lợi ích chung” và “Mục đích của mọi tổ chứcchính trị là việc bảo toàn các
nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền conngười không thể bị tước bỏ. Các quyền
đó là tự do, tài sản sản, sự an toàn và quyền được chống lại mọi sự áp bức “.

c) Tuyên ngôn ngôn Đảng Cộng Sản của Đức (1848)


Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Những nguyên lý mà C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.Trải qua
nhiều thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đặt ra
nhiều vấn đề mới, nhiều đòi hỏi, thách thức của thời đại cần giải quyết nhưng chủ nghĩa
Mác và những nội dung được đưa ra trong bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản vẫn không
hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền móng tư tưởng, mang ý nghĩa
thiết thực cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng.
17
Được sự uỷ nhiệm của những người Cộng sản, ngày 24/2/1848, Tuyên ngôn
củaĐảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được công bố trên toàn thế giới
và nắm giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩaMác –
Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành cơ bản về lý luận của
chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ
nghĩa cộng sản khoa học.

Tuyên ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi nổi tiếng: “ Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại! “

IV - Sự kết hợp văn hoá phương Đông và Tây trong tư tưởng Hồ


Chí Minh.
Hồ Chí Minh, một con người xuất thân từ gia đình nhà nho, đã tạo nên một hành
trình độc đáo, đánh dấu sự kết hợp tinh tế giữa văn hóa phương Đông và Tây trong tư
tưởng và hành động của mình. Không chỉ là một chiến lược, sự kết hợp văn hóa của ông
là một tác phẩm nghệ thuật, là một di sản văn hóa toàn cầu giữa sự đa dạng và đoàn kết.
Hồ Chí Minh, với nguồn gốc từ văn hóa phương Đông, đã thấu hiểu những nguyên tắc
truyền thống như "Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người”, “Cần,
kiệm, liêm, chính”, và "Nhân, chí, dũng, liêm, trung". Những giá trị này không chỉ là
nguồn cảm hứng mà còn là nền tảng vững chắc, giúp ông xây dựng tư tưởng và chiến
lược dựa trên sự ổn định và bền vững.

Tuy xuất thân từ một gia đình truyền thống, nhưng Hồ Chí Minh không hề bị hẹp
hòi trong khuôn khổ văn hóa một phương. Ngược lại, ông đã tận dụng sự đa dạng và đối
lập giữa văn hóa phương Đông và Tây để tạo ra một sức mạnh đặc biệt. Ông không chỉ
thấu hiểu văn hóa một cách sâu sắc mà còn tích hợp những giá trị khoa học và logic từ
phương Tây.

Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh không chỉ là người lãnh đạo có tầm nhìn
quốc gia mà còn là người có tầm nhìn nhân loại. Việc ông làm giàu trí tuệ của mình
bằng cách thấu hiểu từ cả Đông và Tây là một hành động thông minh và chiến lược.
Ông không ngần ngại học hỏi từ tư duy khoa học của phương Tây và đồng thời giữ
vững trực giác và lòng nhân ái của phương Đông.

18
Tư duy kết hợp Đông - Tây của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở mức độ triết
học mà còn đi sâu vào lĩnh vực đạo đức và lòng nhân ái. Ông không chỉ xây dựng chiến
lược mà còn làm nền tảng cho định hình chiến lược đối ngoại thông minh và tích cực.
Điều này không chỉ giúp bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn mở cửa cho hợp tác và hội
nhập quốc tế.

Những giá trị cơ bản của Thiên chúa giáo, như lòng nhân ái và đức hy sinh, đã trở
thành động lực cho Hồ Chí Minh trong cuộc sống và sự nghiệp cách mạng. Ông không
chỉ hiểu rõ giáo lý mà còn biến nó thành hành động, làm nền tảng cho sự đoàn kết và
tình yêu thương trong xã hội.

Trong tác phẩm "Đường cách mệnh," ông không chỉ xác định cách mạng Việt
Nam là một phần của cách mạng thế giới, mà còn thể hiện quan điểm rằng dân tộc Việt
Nam là một thành viên của cộng đồng nhân loại. Hành động này không chỉ là chủ nghĩa
quốc gia mà còn là chủ nghĩa nhân loại, chứng minh sự hội nhập và sẵn sàng học hỏi từ
thế giới để tự phát triển.

Sự kết hợp Đông - Tây của Hồ Chí Minh không chỉ giúp ông so sánh và phân tích
giữa các nền văn hóa và kết cấu xã hội, mà còn là chìa khóa mở ra cánh cửa của sự hội
nhập quốc tế. Ông nhận ra rằng sự giúp đỡ của thế giới mới có thể đóng góp vào thành
công của cách mạng Việt Nam. Mặc dù sức mạnh thực tế của Việt Nam là chính, nhưng
sự kết hợp văn hóa giúp ông xây dựng chiến lược ngoại giao thông minh và tích cực.
Như vậy, sự kết hợp văn hóa phương Đông và phương Tây trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh không chỉ là một biểu hiện của sự đa dạng mà còn là một chiến lược linh hoạt và
sáng tạo. Di sản văn hóa toàn cầu của ông không chỉ là của Việt Nam mà còn là của
nhân loại, làm nền tảng cho sự hiểu biết và học thuật trong thế kỷ XXI.

V - Kết luận.
Lê nin đã từng nói: “Chỉ những người cách mạng chân chính mới thu hái được
những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Trên hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có
chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất
nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn
góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới. Nhờ cách tiếp
thu sáng tạo những di sản này để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc và loài người và với

19
nhiều cống hiến khác trong giáo dục nghệ thuật, giao lưu quốc tế và giữ gìn bản sắc dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được UNESCO tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc
Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất..

20

You might also like