You are on page 1of 107

Nhóm 1

Câu 1 Anh (chị) hãy nêu khái quát các cơ sở lý luận và phân tích tác động
của chủ nghĩa Mác Lênin đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dựa trên 3 cơ sở lý luận: Giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hoá nhân loại và chủ
nghĩa Mác - Lênin. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Đất nước Việt Nam ta nổi tiếng với những giá trị truyền thống tốt đẹp được
truyền từ đời này sang đời khác, nhưng nổi bật nhất vẫn là chủ nghĩa yêu nước.
+ Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam.
+ Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi
khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển.
+ Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động
lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa
Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu dân.
-> Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất
khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn
vẹn lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Dẫn chứng: Trong Tuyên ngôn
Độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và
của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Không có gì quý hơn độc lập tự
do - chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh khẳng định, đồng thời cũng
chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ hai, tinh hoa văn hoá nhân loại.


Tinh hoa văn hoá nhân loại ở đây là sự kết hợp thấm nhuần giữa văn hoá
phương Đông và phương Tây.
Trước hết, với văn hoá phương Đông, kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở
phương Đông, và ở Việt Nam trước đây.
+ Về Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị,
đức trị để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc
xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí,
dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa
bình, không có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác.
+ Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị
tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề
cao quyền bình đẳng của con người và chân lý; khuyên con người sống hòa
đồng, gắn bó với đất nước của Đạo Phật.
+ Đối với Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão
Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên
nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống.
Dẫn chứng: Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức "Tết trồng
cây" để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ Chí
Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh
lợi trong Lão giáo.
Dẫn chứng: Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất;
thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành động theo đạo lý với ý
nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Với tinh hoa văn hoá phương Tây
+ Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã sống, hoạt
động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân
loại tại những trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc trên
thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, v.v. bằng chính ngôn ngữ của
các nước đó.
+ Người trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp
quyền của các nhà khai sáng phương Tây như Vônte, Rutxô, Môngtétxkiơ, tìm
hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Trung Quốc; v.v..; thích đọc sách
văn học của Shakespeare bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa, Hugo,
Zola bằng tiếng Pháp; hai nhà văn Anatole France và Léon Tolstoi “có thể nói
là những người đỡ đầu văn học” cho Hồ Chí Minh.

Thứ ba, chủ nghĩa Mác-Lênin.


+ Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản
với tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin mong muốn.
+ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. (Trong các vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức, v.v.
Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin.)
->Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam.

Phân tích sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đến sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh:
+ Cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước
cùng thời. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người
lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
->Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp
luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Trên cơ sở lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế
thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và
thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách
mạng Việt Nam.
+ Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Chủ
tịch Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời, đặt “hòn đá tảng” những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường
quan điểm, về tinh thần xử lý mọi việc. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
->Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó có được
trước hết do Người đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư
tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật.
(Theo Hồ Chí Minh, mục đích học chủ nghĩa Mác - Lênin là để phụng sự lợi
ích chung, chứ không có gì cao xa, nếu không hết lòng, hết sức phụng sự nhân
dân, tự kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin.)
=>Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học
và cách mạng. Vì thế, không thể tách rời mối quan hệ vốn có giữa tư tưởng Hồ
Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để
thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và ngược lại. Cũng không thể đề cao hoặc
tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như bằng cách này hay cách khác lại
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Câu 2 Anh (chị) hãy nêu các các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến năm 1989 và phân tích thời kỳ hình thành cơ
bản tư tưởng về con đường Cách mạng Việt Nam (1921 - 1930)

Các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh: 5 giai đoạn
Giai đoạn 1, trước ngày 05/06/1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và có chí
hướng tìm con đường cứu nước mới.
Giai đoạn 2, 1911 - 1920: Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc.
Giai đoạn 3, 1921 - 2930: Hình thành cơ bản về con đường Cách mạng Việt
Nam
Giai đoạn 4, 1931 - 1940: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương
pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
Giai đoạn 5, từ đầu năm 1941 đến tháng 9-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp
tục phát triển, hoàn thiện, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta
Phân tích thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường Cách mạng
Việt Nam (1921 - 1930):
Trong giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc hoạt động rất phong phú, tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác- Lênin về nước, chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hoạt động thực tiễn và lý luận phong phú trên địa bàn Pháp như: tích cực hoạt
động trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, các bài báo tố cáo
chủ nghĩa thực dân trong Người cùng khổ tờ Báo “Hội Hợp tác Người Cùng
Khổ” nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923); Tại
Liên-Xô, dự đại hội Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản (1923-
1924); Trung Quốc: Người về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh niên cách
mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ. Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925); “Đường Kách Mệnh” (1927); “Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt” (1930) và nhiều bài viết
khác của Người trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư
tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc. Chỉ ra bản chất của CNTB là “ăn
cướp”, “giết người”; là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ
khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng
dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính
quốc.
Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “Dân tộc cách mạng”. Cách mạng là
sự nghiệp quần chúng nhân dân. Ở các nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là
lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, cần xây dựng khối công nông liên minh
làm động lực cách mạng.
Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Tháng
2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt của Đảng”. Ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh trở thành nhà tư tưởng theo đúng ý
nghĩa cao cả của từ này.

Câu 3 Anh (chị) hãy trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể hiện trên 2 vấn đề là:
Vấn đề độc lập dân tộc và Cách mạng giải phóng dân tộc.
Về vấn đề độc lập dân tộc:
Thứ nhất, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn
liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói
lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn có được một nền
độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần
thiêng liêng, bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy.
Năm 1919, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An
Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các
quyền tự do, dân chủ. Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận nhưng qua
sự kiện trên cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các
dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền bình đẳng và tự do đã hình thành.
Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền con người - “những quyền
mà không ai có thể xâm phạm được” đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc
lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Cách mạng Pháp năm 1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị
thiêng liêng, bất biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân
đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do
và độc lập ấy”
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh khó khăn,
chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên
ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới “Không
có gì quý hơn độc lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân
Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc
chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
Thứ hai, độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc
của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân
tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu của đấu tranh của cách
mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập…dân chúng được tự do…
thủ tiêu hết các thứ quốc trái…thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm
của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo…thi hành
luật ngày làm 8 giờ”. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, nước
nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải gắn
với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân
dân đói rét, mù chữ… , Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải….
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành”
->Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh,
Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân

Thứ ba, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để.
Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài
mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập
tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che
đậy bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có
quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính
riêng…. , thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn
cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là
nạn thù trong giặc ngoài bao vây tứ phía, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới
giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp
định Sơ bộ ngày 6-3-1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình,
Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”.
Thứ tư, Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm
mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia
đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám,
miền Bắc nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam thì
thực dân Pháp xâm lược và sau khi độc chiếm hoàn toàn Việt Nam. Trong hoàn
cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Hồ Chí Minh khẳng
định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. + sự tin tưởng của HCM vào
thắng lợi
->Có thể khẳng định rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Câu 4 Anh (Chị) hãy trình bày khái quát các quan điểm của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc và phân tích một quan điểm trong đó.

Trước sự thất bại của những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp
vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vấn đề cấp bách đặt ra cho cách mạng
Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con
đường nào, ai lãnh đạo, lực lượng và phương pháp cách mạng ra sao…? Hồ Chí
Minh đã có lời giải đáp và đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến thành công.
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị nước ta,
vấn đề sống còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh để giải phóng dân tộc
khỏi ách thực dân đế quốc. Hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra
nhưng không thành công, sự thất bại của những phong trào yêu nước trong thời
kỳ này đã nói lên sự khủng hoảng, bế tắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cách
mạng. Vượt qua tầm nhìn của các bậc tiền bối lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh có chí
hướng là muốn tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở phương
Tây, như Người đã nói: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các
nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào
chúng ta” . Nhưng qua tìm hiểu thực tế sau đó, Người quyết định không chọn
con đường cách mạng tư sản vì cho rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức
thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức” .
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc
tới Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Người cho rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam…Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc
Tư và Lênin” .
Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản, như sau này
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản” . Đây là con đường cách mạng triệt để
nhất phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời
đại. Trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người kể lại: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” . Học thuyết cách
mạng vô sản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin được Người vận dụng một cách sáng
tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân
tộc là trước hết, trên hết. Theo Mác và Ăngghen, con đường cách mạng vô sản
ở châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội -
giải phóng con người. Còn theo Hồ Chí Minh, thì ở Việt Nam và các nước
thuộc địa do hoàn cảnh lịch sử - chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải
phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương hướng chiến lược
cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản. Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách
quan, cụ thể mà cách mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX.
Trong văn kiện Đại hội VI Quốc tế cộng sản, khái niệm“cách mạng tư
sản dân quyền” không bao hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa. Còn trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh nêu rõ:
Cách mạng tư sản dân quyền trước hết là phải đánh đổ đế quốc và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập…Cũng theo Quốc tế cộng sản,
thì hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến phải được thực hiện đồng thời,
khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau, nhưng xuất phát từ một nước thuộc
địa, Hồ Chí Minh không coi hai nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang
nhau, mà đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, còn
nhiệm vụ chống phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân thì sẽ từng bước
thực hiện. Cho nên trong Chánh cương vắn tắt , Người chỉ nêu “thâu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo” mà chưa nêu
ra chủ trương “người cày có ruộng”. Đấy là nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí
Minh.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do đảng cộng sản lãnh đạo
Về tầm quan trọng của tổ chức Đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác-
Lênin chỉ rõ: Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng,
đảng đó phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện
quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin và rất chú trọng đến việc thành lập đảng cộng sản,
khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản.
Trong hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa - phong kiến, theo Hồ
Chí Minh, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là
đội tiên phong của nhân dân lao động kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc.
->Đây là một luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ
sung, phát triển lý luận mácxít về đảng cộng sản.
c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn
dân tộc, lấy liên minh công - nông làm nền tảng
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử.
Kế thừa tư tưởng các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh quan niệm: có
dân là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng dân, được lòng dân thì được tất
cả, mất lòng dân thì mất tất cả.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí
Minh thiết tha kêu gọi mọi người không phân biệt giai, tầng, dân tộc, tôn giáo,
đảng phái …đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý
rằng, không được quên “công nông là chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh” .
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: giai cấp công nhân và
nông dân là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì
thế ….
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Quán triệt tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách
mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, từ rất
sớm Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa
cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc - mối quan hệ bình
đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.
Là một người dân thuộc địa, là người cộng sản và là người nghiên cứu rất
kỹ về chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước.
Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách
mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm
trên của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng
Dựa trên cơ sở quan điểm về bạo lực cách mạng của các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Hồ Chí
Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu
tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền” . Tất yếu là vậy, vì ngay như hành động mang quân đi xâm lược của
thực dân đế quốc đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, thì như Người vạch
rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu rồi” .
Và sau khi xâm chiếm các nước thuộc địa, bọn thực dân đế quốc đã thực
hiện chế độ cai trị vô cùng tàn bạo: dùng bạo lực để đàn áp dã man các phong
trào yêu nước, thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ cơ bản của nhân dân, bóc lột
và đẩy người dân thuộc địa vào bước đường cùng…Vậy nên, muốn đánh đổ
thực dân - phong kiến giành độc lập dân tộc thì tất yếu phải sử dụng phương
pháp bạo lực cách mạng, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản
cách mạng của kẻ thù.
Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở
đây là bạo lực của quần chúng được với hai lực lượng chính trị và quân sự, hai
hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu
tranh chính trị của quần chúng là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng
vũ trang và đấu tranh vũ trang; đấu tranh vũ trang có ý nghĩa quyết định đối với
việc tiêu diệt lực lượng quân sự và âm mưu thôn tính của thực dân đế quốc, đi
đến kết thúc chiến tranh. Việc xác định hình thức đấu tranh phải căn cứ vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà áp dụng cho thích hợp, như Người đã chỉ rõ: “Tuỳ
tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp,
sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng” . Trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân trong cả
nước, chủ yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang, nhân
dân ta đã thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.

Câu 5 Anh (Chị) hãy trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động
lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

a. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ. Chế
độ dân chủ trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh
khẳng định và giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm
chủ” , “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” .
Khi khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng
định quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân. Người chỉ rõ:
Tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của dân, công cuộc đổi mới là
trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công việc của
dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân .
Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao
gắn bó mật thiết với mục tiêu về chính trị.
Khái quát mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh xác định: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến” , là “một nền kinh
tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” . Mục tiêu này
phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị vì “Chế độ kinh tế và xã hội của
chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế
xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển” . Theo Người, kinh tế quốc doanh lãnh
đạo nền kinh tế quốc dân và kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động nên Nhà nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh tế quốc doanh
phát triển và phải đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã .
Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân
tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế
là mối quan hệ biện chứng. Chế độ chính trị và kinh tế của xã hội là nền tảng và
quyết định tính chất của văn hóa; còn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của
chính trị và kinh tế. Người đã từng nói: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy” ;
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao
không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực
được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước” .
Về vai trò của văn hóa, Người khẳng định: Trình độ văn hóa của nhân
dân được nâng cao sẽ góp phần phát triển dân chủ, góp phần xây dựng nước ta
thành một nước hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh ; nền văn
hóa phát triển là điều kiện cho nhân dân tiến bộ . Theo Người, “để phục vụ sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội
dung và dân tộc về hình thức” , “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và
ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền
thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ
thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng” .
Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn
minh.
Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm
chủ”, “dân là chủ” nên theo Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất
nước, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trong đó mọi người đều có quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền
học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập
hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào; có quyền bầu cử, ứng cử. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi
dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân
dân .
Những tư tưởng trên biểu hiện xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét
những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi
người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng
và sở trường riêng của mình trong sự hài hòa với đời sống chung, lợi ích chung
của tập thể.
b. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho
rằng, phải nhận thức, vận dụng và phát huy tối ưu các động lực. Trong tư tưởng
của Người, hệ thống động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
rất phong phú, bao hàm những động lực cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai;
cả về vật chất và tinh thần, nội lực và ngoại lực, v.v. ở tất cả các lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, v.v. Tất cả các động lực đều rất
quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau nhưng giữ vai trò quyết định
là nội lực dân tộc, là nhân dân nên để thức đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải đảm bảo lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn
dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là những động lực hàng đầu của chủ
nghĩa xã hội.
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng
người và lợi ích của những con người cụ thể vì Người cho rằng đây là một trong
những điểm khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội với những chế độ xã hội
trước nó. Người nhận thấy trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người giữ một vị
trí nhất định, đóng góp một phần công lao nhất định vì nhân dân lao động đã
thoát khỏi bần cùng, có công ăn việc làm, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mỗi
người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở
trường riêng của mình , nên ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ xã hội
mới, Người đã dạy: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân phải hết sức tránh”, “phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết” .
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội là dân
chủ của nhân dân, là của quý báu nhất của nhân dân . Có dân chủ lợi ích mới vì
dân; có dân chủ quyền hành và lực lượng mới ở nơi dân, công việc đổi mới và
xây dựng mới là công việc của dân, là trách nhiệm của dân . Với tư cách là
những động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợiích của dân
và dân chủ của dân không thể tách rời nhau.
Về sức mạnh đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng
mạnh nhất trong tất cả các lực lượng và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng
được với sự giác ngộ đầy đủ của nhân dân về quyền lợi và quyền hạn, trách
nhiệm và địa vị dân chủ của mình; với sự lao động sáng tạo của hàng chục triệu
quần chúng nhân dân . Chính vì vậy, ngay trong buổi ra mắt Đảng Lao động
Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc” .
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đoàn kết
toàn dân gắn bó hữu cơ với nhau, là cơ sơ, là tiền đề của nhau, tạo nên những
động lực mạnh mẽ nhất trong hệ thống những động lực của chủ nghĩa xã hội.
Song, những yếu tố trên chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình thông qua
hoạt động của những cộng đồng người và những con người Việt Nam cụ thể.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước
và các tổ chức chính trị-xã hội khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
giữ vai trò quyết định. Theo Hồ Chí Minh, Đảng như người cầm lái, người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy . Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là tổ
chức đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, thực hiện chức năng quản lý
xã hội để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực . Các tổ chức
chính trị-xã hội với tư cách là các tổ chức quần chúng tuy có những nội dung và
phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều nhất quán về chính trị và tư tưởng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; hoạt động vì lợi ích của các
thành viên của mình trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc. Với những
cộng đồng này, Người cũng luôn nhắc nhở phải không ngừng nêu cao cảnh
giác, phải chống cả kẻ địch bên ngoài tìm cách phá hoại thành quả của cách
mạng và phải chống cả kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân; chống tư tưởng
“làm quan cách mạng” .
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” . Đấy là những con
người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa . Trong
bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc
do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 21 tháng
3 năm 1961, Hồ Chí Minh giải thích rất chi tiết, cụ thể về tư tưởng, tác phong
xã hội chủ nghĩa; cuối cùng Người khái quát: Những tư tưởng và tác phong mới
mà mỗi người cần bồi dưỡng cho mình là: Có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh
thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì
mình”; có quan điểm “tất cả phục vụ sản xuất”; có ý thức cần kiệm xây dựng
nước nhà; có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội và phải chống lại những tư tưởng, tác phong xấu là: Chủ nghĩa cá nhân;
quan liêu, mệnh lệnh; tham ô, lãng phí; bảo thủ, rụt rè .
Như vậy, cùng với việc xác định và định hướng phát huy sức mạnh những động
lực của chủ nghĩa xã hội, đối với các cộng đồng người và với những con người
Việt Nam cụ thể, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải ngăn chặn, loại trừ những
lực cản của những động lực này. Nhìn chung, trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, quan điểm “xây” đi đôi với “chống” cũng là một trong những quan điểm
xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trong những nét đặc sắc của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Câu 6: Anh (Chị) hãy nêu quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời,
phát triển của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
(chương IV)

Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định:
Cách mạng trước hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi.
Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy” .
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan
điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh đạo của Đảng cũng là một
tất yếu – điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Thực tế
quá trình cách mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã
nói lên rằng, sự bảo đảm, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt tiến trình phát triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội
là một nguyên tắc vận hành của xã hội Việt Nam từ khi có Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một
đảng chính trị tồn tại và phát triển theo những quan điểm của V.I.Lênin về đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh là người trung thành với học thuyết Mác - Lênin, trong đó
có lý luận của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, đồng thời vận
dụng sáng tạo và phát triển lý luận đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên
thế giới, nói chung, sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Còn đối với Việt Nam, Hồ
Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Như vậy, so với học thuyết Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào
yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào yêu nước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội
thuộc địa và phong kiến như Việt Nam, khi mọi giai cấp, tầng lớp, trừ tư sản
mại bản và đại địa chủ, còn đều có mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với các thế lực đế quốc và tay sai. Trong thực
tế, những phong trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp được rất nhuần
nhuyễn với phong trào yêu nước. Một số người Việt Nam yêu nước lúc đầu đi
theo xu hướng dân chủ tư sản, nhưng qua thực tế được sự tác động của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đã dần dần tiến theo xu hướng cộng sản, rõ nhất là từ năm
1925 trở đi. Hàng loạt tổ chức yêu nước ra đời, trong đó nổi rõ nhất là tổ chức
Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ Chí Minh lập ra. Đấu tranh giai
cấp quyện chặt với đấu tranh dân tộc. Thật khó mà tách bạch mục tiêu cơ bản
giữa các phong trào đó, tuy lực lượng, phương thức, khẩu hiệu đấu tranh có
khác nhau, nhưng mục tiêu chung là: Giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu của
xã hội Việt Nam từ đầu năm 1930 trở đi. Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ
mệnh lãnh đạo đất nước trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa
xã hội.

CÂU 7 : Anh (Chị) hãy trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. (phần I chương IV)

Nhà nước của nhân dân


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất
cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người
khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của chúng ta, tất cả
mọi quyền lực đều là của nhân dân”[1]. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”.
Nguyên lý “dân là chủ” khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là
nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ
trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của
quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh luôn coi trọng hình
thức dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời tạo
mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức
dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là
hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua
các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà
nước không có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do.
Do vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ của nó đều là
“công bộc” của nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ không
phải để đè đầu dân”[2]. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan
hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ
mọi quyền lực. Theo Hồ Chí Minh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ
trưởng, uỷ viên này uỷ viên khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân
dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”[3]; “Nước ta là nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà,
nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân”[4]. Hồ
Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, từ chỗ
là công bộc của dân đã trở thành “quan cách mạng”, đứng trên nhân dân, coi
khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc
cho dân”.
- Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết
chế quyền lực mà họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ
Chí Minh nhằm đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước,
luôn nằm trong tay dân chúng. Một nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí
Minh, luôn “mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm
trọn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tuỵ của nhân dân”[5];
trong Nhà nước đó, “nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”[6], thậm chí, “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ”[7].
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với
luật pháp của các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện
và bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ
thực thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà
nước.
Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do
nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà
nước dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân
chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết, v.v..
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. Người khẳng định rõ:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”[8]. Nếu
“dân là chủ” xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân
làm chủ” nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người
chủ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”[9].
Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật
lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây
dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công
cộng, bảo vệ Tổ quốc, v.v..
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân
dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng
dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người yêu cầu
cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân
cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của
mình. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà.
Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ” [10]. Không chỉ tuyên bố
quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc
nhà nước, mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm
chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói
về nhà nước do nhân dân.
Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí
Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán
bộ nhà nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: "Các công việc của
Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc
cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi
dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì
phải tránh”[11]. Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được
lòng dân. Hồ Chí Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được
lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu,
muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết
thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư” [12]. Trong Nhà nước vì dân, cán bộ
vừa là đầy tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi
này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở người
cán bộ nhà nước vì dân. Là đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì
phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi
nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải
gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh. Phải như thế thì mới có thể
“chẳng những làm những việc trực tiếp có lợi cho dân, mà cũng có khi làm
những việc mới xem qua như là hại đến dân” [13], nhưng thực chất là vì lợi ích
toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.

Câu 8 (nhóm 1): Anh (Chị) hãy nêu quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên
tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất. (phần I chương
V)

Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất cần được xây dựng
và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc:
Một là: Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân -
trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất là nhằm
tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt trận là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc
của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự
quy tụ được cả dân tộc, kết thành một khối vững chắc trong Mặt trận. Người
viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên
minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ
rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp
sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị
áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ
hơn của mọi tầng lớp khác”. Người căn dặn, không nên chỉ nhấn mạnh vai trò
của công nông, mà còn phải thấy vai trò và sự cần thiết phải liên minh với các
giai cấp khác, nhất là với đội ngũ trí thức.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng
không có lợi ích riêng, mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng
lãnh đạo đối với mặt trận thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra
quy luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương pháp
cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là đấu
tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội
Hai là: Phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân.
Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí Minh xác định cụ thể, phù hợp với
từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào
khối đại đoàn kết. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước,
vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu. Người cho rằng, nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, đoàn kết phải lấy lợi
ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu
phấn đấu, đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số
chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong
Mặt trận.
Ba là: Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với
nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên
tắc hiệp thương dân chủ, Mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất
cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi
sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với
lợi ích chung của đất nước, của dân tộc cần được tôn trọng, những gì riêng biệt,
không phù hợp sẽ dần được giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự
nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ mới quy tụ được được các tầng lớp, giai cấp,
đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bốn là: Phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận, các
thành viên có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt,
nên cần có sự bàn bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm
“cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; đồng thời
Người nêu rõ: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường
cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân” để tạo nên sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ, lâu dài
tạo tiền đề mở rộng khối đại đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất.

Câu 9 Anh (Chị) hãy nêu quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. (phần I chương VI)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
văn hóa nhân loại.
Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; là thành quả của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và
giao lưu của con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là
lòng yêu nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... Về hình
thức, cốt cách văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ
hội, truyền thống, cách cảm và nghĩ…
Có nhiều giá trị truyền thống của dân tộc được Hồ Chí Minh đề cập và phân
tích, trong đó nổi bật là các giá trị :
Thứ nhất, yêu nước, bất khuất, anh hùng trong dựng nước và giữ nước. Trong
suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã hun đúc
lên truyền thống yêu nước. Coi đó là giá trị truyền thống nổi bật nhất, là dòng
chủ lưu trong nền văn hóa Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cao nhất trong
thang bậc giá trị đạo đức của con người Việt Nam. Người có tinh thần yêu nước
thì đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; luôn chăm lo
xây dựng và bảo vệ đất nước; có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc;
luôn tự hào về dân tộc. Yêu nước là tình cảm, ý chí mãnh liệt của con người
Việt Nam đối với Tổ quốc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân Việt Nam có
truyền thống yêu nước nồng nàn. Lịch sử ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã
ghi những trang oanh liệt của nhân dân đấu tranh để xây dựng nước nhà và bảo
vệ nền độc lập của Tổ quốc mình”; “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khỉ Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước”, Hai Bà Trưng để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống
vẻ vang, là dũng cảm kháng chiến; “truyền thống Diên Hồng vĩ đại, các cụ phụ
lão cũng không vì tuổi cao tóc bạc mà hưởng thụ thanh nhàn”... Lịch sử ta đã có
nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta.
Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.
Thứ hai, hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng dụng hiền tài. Để xây dựng đất nước,
từ xa xưa ông cha ta luôn coi trọng vai trò của tri thức, từ đó hình thành nên
truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng dụng hiền tài. Sự trân trọng và đề
cao ấy được thể hiện thông qua những kỳ thi để tìm kiếm, lựa chọn nhân tài
nhằm quản lý xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhân sĩ Thân Nhân Trung
đã viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi nhận về trí
thức: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh
và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống cấp”. Trong
xã hội, người thầy luôn được trân trọng, đề cao và suy tôn “mồng 1 tết cha,
mùng 2 tết mẹ, mùng 3 tết thầy”. Vì vậy, vị thế của người thầy được đặt ngang
hàng với vị trí của cha mẹ. Người có học mà thi đậu thì được đón rước long
trọng về làng, không những tự bản thân được vinh dự, mà còn đem vinh dự về
cho ông bà, cha mẹ, và cả cho họ hàng, làng, nước. Về truyền thống này, Hồ
Chí Minh viết: “Có con học giỏi là một vinh hạnh cho cha mẹ. Cho nên, dù có
nghèo đói đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm cách cho con cái được học hành. Vì vậy,
“Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình ham
muốn có học thức của dân tộc An Nam”; “Người An Nam rất hiếu học. Trong
các tầng lớp xã hội, người sĩ phu chiếm địa vị hàng đầu”.
Thứ ba, uống nước nhớ nguồn, đoàn kết, nhân hậu, cần cù, lao động sáng tạo.
Từ xa xưa, trong sâu thẳm đời sống tâm linh người Việt luôn tôn trọng, thành
kính và biết ơn các thế hệ đi trước. Các thành viên “trong gia đình trên kính
dưới nhường, thờ phụng tổ tiên”; “Thờ phụng những người đã quá cố” đã trở
thành “một việc rất thiêng liêng và thiết tha của người An Nam”, thể hiện lòng
hiếu thảo, biết ơn những người đã sinh thành, dưỡng dục mình. Trong lịch sử
hàng ngàn năm, cha ông ta đã có tinh thần cố kết cộng đồng để đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Có được những thành quả đó là do biết bao nhiêu mồ hôi và
xương máu của các thế hệ, của những người anh hùng dân tộc đã đổ xuống như:
“Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan
Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám”. Hồ Chí Minh cho rằng, chính tinh thần đoàn
kết là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của cả dân tộc, quyết định đến sự
tồn vong của đất nước. Người chỉ rõ: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào
dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào
dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Tiếp thu, giáo dục và phát
huy truyền thống “ăn quả nhớ người trồng cây”, Người căn dặn: “Chúng ta phải
ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một
dân tộc anh hùng”.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa khắc nghiệt, để tồn tại và phát triển,
nhân dân ta đã tích cực chinh phục, cải tạo tự nhiên, tiến hành lao động sản
xuất. Vì thế, “Nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt đẹp là lao động cần cù, sinh
hoạt giản dị". Trong cuộc sống dù vất vả, khó khăn đến đâu, nhưng nhân dân ta
vẫn luôn động viên, tương trợ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau về cả vật chất và tinh
thần để vượt qua hoạn nạn với phương châm “lá lành đùm lá rách”. Trong sinh
hoạt ứng xử cộng đồng, gia đình, nhân dân ta luôn thể hiện tính nhân văn, kính
trọng người già, thương yêu con trẻ, thờ cúng tổ tiên. Bởi: “Nhân dân ta từ lâu
đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế”.
Thứ tư, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình. “Nhân dân ta yêu chuộng hòa bình”,
truyền thống này có từ ngàn xưa đến nay. Trong cách ứng xử, nhân dân ta luôn
''lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo'', sống hòa hiếu
với láng giềng, với bạn bè. Theo Hồ Chí Minh: “Nhân dân Việt Nam yêu hòa
bình nhưng quyết không bao giờ lùi bước trước bất kỳ một sự đe dọa nào của
bọn đế quốc”. Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải nhiều lần chống sự xâm
lược, thống trị và nô dịch của các nước lớn. Có rất nhiều giai đoạn nước Việt
Nam phải xưng thần, phải triều cống, phải nhận sắc phong của các thế lực
phong kiến phương Bắc. Nhưng, đó không phải là sự mất tự chủ, mà là một
phương cách ngoại giao khéo léo, linh hoạt, uyển chuyển với tinh thần hòa hiếu
trong việc bang giao. Trong các giai đoạn đó, người Việt Nam vẫn làm chủ
được đất nước, chứ không phải mất độc lập. Mỗi lần chiến thắng, dân tộc Việt
Nam đều nêu cao chủ nghĩa nhân đạo, giữ quan hệ hòa hiếu, thân thiện với
những quốc gia đã từng xâm lược thống trị mình. Giá trị truyền thống đó được
Hồ Chí Minh ca ngợi: “Chúng ta là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, công lý,
nhân đạo”, “Chúng ta phải tỏ cho họ biết rằng dân ta yêu tự do, độc lập, trọng
hòa bình, tín nghĩa”.
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc
tính dân tộc. Nó là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh nói
rằng, âm nhạc dân tộc ta rất độc đáo, phải khai thác và phát triển lên; rằng,
những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ điển, có nhiều dòng suối tiến
bộ chảy từ những ngọn nguồn cổ điển đó; vì vậy, trách nhiệm của con người
Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị
của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn
lịch sử. Theo Người, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”; “càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin càng phải coi trọng những
truyền thống tốt đẹp của cha ông”. “Mỗi dân tộc cần phải chăm lo đặc tính dân
tộc mình trong nghệ thuật”. Chăm lo cốt cách dân tộc, đồng thời cần triệt để tẩy
trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, tôn trọng
phong tục tập quán, văn hóa của các dân tộc ít người.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tiếp biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) là một quy luật của văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, “văn hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông
phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì
tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt
của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh
thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”.
Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Trao đổi với một
nhà văn Liên Xô, Người nhấn mạnh rằng “các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng
chúng tôi cần dứt bỏ văn hóa nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi
muốn nói điều khác. Nói đến việc mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế
giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xôviết - chúng tôi thiếu - nhưng đồng thời
tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước... Văn hóa của các dân tộc khác cần phải
được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được nhiều
hơn cho văn hóa của chính mình”. Nhận diện về hiện tượng văn hóa Hồ Chí
Minh, một nhà báo Mỹ viết: “Cụ Hồ không phải là một người dân tộc chủ nghĩa
hẹp hòi, mà cụ là một người yêu mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân
Pháp, một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi
Mỹ phá hoại đất nước cụ”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn
hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung
tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh.
Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ
gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa
dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.

CÂU 10 Anh (Chị) hãy nêu quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo
đức cách mạng và phân tích một chuẩn mực trong đó. (Mục 2 phần II
chương VI)

Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng


a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và
chi phối các phẩm chất khác.
Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo
đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và
cũng là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất
này được Hồ Chí Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với
nước, hiếu với dân”, đã tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo
đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên
trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên
trời”. Đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua,
hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với
nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”.
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh không những kế
thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế
của truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân… Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”. Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân
để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo
lộn so với trước; rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy, điều này càng
làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Thư gửi thanh
niên (1965), Người viết: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với
nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Luận điểm đó của Hồ Chí Minh vừa là lời
kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt
Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước đây, hôm nay, mà còn lâu
dài về sau nữa.
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với
nước, là phải yêu nước,tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,suốt đời phấn đấu cho
Đảng, cho cách mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh”. Hiếu với dân,là
phải thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân,
lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân.
Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên
mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai”.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi
người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên
nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách mệnh đến bản Di chúc cuối đời.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền
lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. Với ý nghĩa như vậy,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể của phẩm
chất “trung với nước, hiếu với dân”.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo
đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù
hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. “Muốn cho chữ Cần có
nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động
cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động
với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè
chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một
đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào,
cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế
mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ”.“Cần với kiệm, phải đi đôi với
nhau, như hai chân của con người”. Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây
dựng nước nhà”.
Liêm “là trong sạch, không tham lam”; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng giữ
gìn của công, của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài.
Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham
làm, ham tiến bộ”. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm
phải đi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, thẳng thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “Đối
với mình - Chớ tự kiêu, tự đại”. “Đối với người:… Chớ nịnh hót người trên.
Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn,… Phải thực
hành chữ Bác – Ái”. “Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc
tư, việc nhà”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh”.
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ
với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực
hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công
chức, những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu
không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt
của dân.
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công
bằng, không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của
nhân dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân.
Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”; “khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,… khi hưởng thụ thì mình nên đi
sau”.
Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Người giải
thích: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành
chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.
Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần,
kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua
yêu nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố
cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính
cơ bản của con người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất; “Thiếu
một đức, thì không thành người”.
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng
với việc thể nghiệm chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã xác định tình thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách
mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người
mà Hồ Chí Minh Sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập
cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho con người.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành
cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp
bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có
tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói
đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng
lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh,đã được thể hiện ở sự ham muốn tột
bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn của
Người.
Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập
trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với
bạn bè, đồng chí, anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó
đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và
giàu lòng vị tha đối với người khác; phải có thái độ tôn trọng những quyền của
con người, tạo điều kiện cho con người phát huy tài năng; nâng con người lên,
kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ “dĩ hòa vi quý”,
không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Bằng hành động và
ứng xử của mình, Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là
phải biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh,
“hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác - Lênin được”. Trong Di chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với
con người,… Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc.
Hồ Chí Minh là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản.Nội dung chủ nghĩa quốc tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc.Đó là sự tôn trọng, hiểu
biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với các dân tộc bị
áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ
trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa
bành trướng bá quyền. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, nhưng luôn luôn kêu gọi phải tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế,
đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết
quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng:
“Quan sơn muôn dặm một nhà,
Bốn phương vô sản đều là anh em!”
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp
tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã
tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo
một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại; đó là di sản thời đại vô giá của Người
Về hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển giữa các dân tộc.
Nhóm 2

Câu 1 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc


+ Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân
dân
+ Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
+ Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã
hội không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó
con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa
thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau
b. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu,
tuân theo những quy luật khách quan (trước hết là những quy luật trong sản
xuất vật chất); song, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia sẽ diễn ra một cách khác nhau
+ Những nước đã qua giai đoạn phát triển TBCN
-> “đi thẳng” lên chủ nghĩa xã hội.
+ Những nước chưa qua giai đoạn phát triển này
->có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã “đánh đổ đế quốc và phong kiến”
dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và được tư tưởng Mác-Lênin dẫn đường
c. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
+ Về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.
+ Về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu.
+ Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có
trình độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý
trong các quan hệ xã hội.
+ Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập
thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
=> Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên CNXH đồng thời CNXH là
điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
a. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định
Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy
luật, phù hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn
của Hồ Chí Minh và sự khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam.
=>Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở, nền tảng
cho phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực.
+ CNXH sẽ có khả năng làm cho đất nước phát triển mạnh mẽ, sẽ tạo nền
tảng vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và hơn thế nữa, sẽ là một tấm
gương cho các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia mới giành được độc
lập dân tộc đang định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ CNXH hiện thực cũng sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi
nghĩa, bảo vệ được nền hoà bình trên thế giới, độc lập dân tộc sẽ được giữ
vững.
b. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy sức mạnh
bản chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa; là bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; là dân chủ phải được thực hiện đây đủ,
nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống để nhân dân tham gia vào tất
cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc
sống của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”.
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường
pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân và đạo đức xã hội, phê phán những
biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức và xử lý nghiêm minh những
hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng
như tất cả những hành vi vi phạm quyền dân và quyền làm chủ của nhân dân
c. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ
hệ thống chính trị
Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam là tính nhất nguyên và
tính thống nhất: Nhất nguyên về chính trị, về tổ chức, về tư tưởng; thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thống nhất về mục tiêu
chính trị.
=>Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động khác nhau nhưng gắn bó mật
thiết với nhau tạo nên một thể thống nhất, phát huy sức mạnh để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện
d. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Người đã đề cập đến nhiều “căn bệnh” biểu hiện của... và đã cảnh báo về tác
hại của những “căn bệnh” này.
=>Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ là những hành động cụ thể, đặt trong bối cảnh cụ thể mà Đảng tiếp tục thực
hiện tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng xứng đáng là Đảng cầm quyền, thực hiện
được nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh để giữ vững nền độc
lập dân tộc trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Câu 2 Anh (Chị) hãy các định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam


*Vai trò lãnh đạo của ĐCS VN
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền chính
trị là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
=>Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu (điều đó
xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.)

* Đảng phải trong sạch, vững mạnh


a. Đảng là đạo đức, là văn minh
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng, về
ý nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng
văn minh, hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân
chính”.
b. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động.
- Tập trung dân chủ.
- Tự phê bình và phê bình.
- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
- Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn.
- Đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là điều kiện
để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân.
- Đoàn kết quốc tế.

c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên


Hồ Chí Minh lưu ý phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức
vừa có tài, trong sạch, vững mạnh.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng và
xây dựng Nhà nước
a. Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh
Phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Sai một ly thì đi một dặm,
đó là tầm quan trọng của đường lối, chủ trương của Đảng. Đường lối, chủ
trương này phải dựa trên nền tảng lý luận Mác – Lênin, sáng tạo và tư
tưởng Hồ Chí Minh; phải phù hợp với hoàn cảnh của đất nước từng giai
đoạn, thời kỳ.
Phải tổ chức thực hiện thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Phải
thể chế hóa và phải biến thành hành động tích cực nhất của tất cả các tổ chức
của hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt quan trọng là thực thi và phát huy đầy
đủ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với đội ngũ
cán bộ chiến lược, đặc biệt quan trọng nữa là người đứng đầu phải nêu cao trách
nhiệm làm gương tốt để mọi người noi theo.
Phải chú trọng hơn nữa công tác chỉnh đốn Đảng. Sự nghiệp cách
mạng nói chung và sự nghiệp đổi mới đất nước có thành công hay không hoàn
toàn phụ thuộc vào chất lượng, trong đó có sự trong sạch của bản thân Đảng.
Thường xuyên chỉnh đốn nội bộ để Đảng xứng đáng là người cầm quyền, để
đảng viên luôn xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân. Phải làm cho Đảng luôn là “Đảng là đạo đức, là văn
minh” như Hồ Chí Minh đã nêu. Phải quán triệt sâu sắc hơn nữa trong Đảng tư
tưởng và hành động của Hồ Chí Minh về thống nhất giữa nói và làm. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát để Đảng sử dụng và phát huy tốt quyền lực
do dân giao phó nhằm phục vụ sự phát triển của dân tộc, đưa đất nước tiến
những bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cho đất nước hùng cường,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như tiêu đề mà Hồ Chí Minh đã
viết trong các văn bản hành chính.
Những sinh viên đang là đảng viên của Đảng cần chú trọng thực hiện
thật tốt đường lối, quan điểm, chủ trương, điều lệ Đảng, phải là công dân gương
mẫu và là sinh viên tốt. Những sinh viên chưa là đảng viên cần nghiên cứu, học
tập thật tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu trở thành đảng viên hoặc người tích
cực ủng hộ Đảng, góp phần đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm
châu, như Hồ Chí Minh đã viết trong Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9-1945.
b. Xây dựng Nhà nước
Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần đẩy
mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà
nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát
quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây
dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân
chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức,
mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp
để thực thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực
thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo
hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà
nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục
nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính
sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ
phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất
lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng
và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ pháp luật. Bản chất, tính chất của Nhà
nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt
Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là
yếu tố quyết định cho sự thành công của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Câu 3 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ vào công tác cán bộ của ĐCS VN hiện nay

*Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đã trở thành kim chỉ nam cho
Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng ở mỗi giai đoạn và thời kỳ cách mạng.
“Cán bộ là gốc của mọi công việc”, mọi quyết sách của Đảng đều phụ thuộc
vào yếu tố con người, việc thành hay bại là ở cán bộ. Trong công tác cán bộ, Hồ
Chí Minh yêu cầu:
● Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ

● Phải chú trọng huấn luyện cán bộ, huấn luyện 1 cách thiết thực, có
hiệu quả
● Phải đề bạt đúng cán bộ

● Phải sắp xếp, sử dụng cán bộ cho đúng

● Phải kiên quyết chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ

● Phải thường xuyên kiểm tra, giúp đỡ cán bộ

*Vận dụng vào công tác cán bộ của ĐCS VN hiện nay
Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
trong sạch, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách
mạng nước ta trong thời kỳ mới, cần
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ,
công chức, viên chức về đạo đức cách mạng, về đạo đức công vụ; tiếp tục quán
triệt, triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh.
+ Thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2021-2030, cải cách chế độ công vụ, công chức; loại bỏ những thủ tục
hành chính gây phiền hà khi giải quyết công việc của người dân và doanh
nghiệp.
+ Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội, của người dân trong việc nâng cao đạo đức công vụ. Tiếp tục
bổ sung, hoàn thiện hệ thống các chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc, hành vi trong
hoạt động công vụ... Từng bước đổi mới quản lý cán bộ, công chức, từ tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng, đến việc giải quyết các chế
độ, chính sách theo quy định.
+ Nêu cao tinh thần tiên phong, gương mâu của đội ngũ cán bộ, công chức trong
thực thi công vụ; thông qua học tập, rèn luyện và thực tiễn để tự bồi dưỡng, tự
rèn luyện nâng cao đạo đức công vụ.
+ Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy vai trò của người dân
trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức,
viên chức. Có cơ chế phù hợp để người dân giám sát nhằm hạn chế tình trạng
cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ. Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra thường xuyên và định kỳ các hoạt động công vụ.
(Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập
trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế,
chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy
định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong
sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực thi đầy đủ trách nhiệm
công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp
bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển
chức danh cán bộ quản lý. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm
trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.)
Câu 4 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân vào xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước dân chủ, của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; có nền dân chủ lập hiến, quản lý đất nước
bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một hoàn thiện trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá
trong tư duy về xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta trên nền
tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở
chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền
và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương
thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
=>Trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
- Trước hết phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần
đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để
Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám
sát quyền lực nhà nước.
- Thứ hai, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Nội dung này có ý
nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài
“dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc
chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta.
=> Phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân
dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
- Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
- Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh
đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo
tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp
luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành
chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu
tuân thủ pháp luật.
=> Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay,
trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa
tư tưởng của Người để xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân là điều vô cùng cần thiết và đúng đắn.

Câu 5 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân vào xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở nước ta hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước dân chủ, của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; có nền dân chủ lập hiến, quản lý đất nước
bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một hoàn thiện trong
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ.

Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
+ Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp
luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là
công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm
tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời
coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
+ Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà
nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước
là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng
thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các
quyền ở các cấp chính quyền.
+ Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập
trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế,
chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy
định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong
sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực thi đầy đủ trách nhiệm
công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp
bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển
chức danh cán bộ quản lý. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm
trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục
nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính
sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ
phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất
lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng
và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ pháp luật.
=>Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của
Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là
sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho sự thành công
của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 6 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước
ta hiện nay

*TTHCM về đại đoàn kết dân tộc


Vai trò của đại đoàn kết dân tộc:
+ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cuộc CM
+ là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của CMVN
*Vận dụng
Một là, làm tốt công tác vận động quần chúng (Dân vận)
Hồ Chí Minh coi đoàn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng.
Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần chúng. Vận
động quần chúng là để đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển kinh
tế - xã hội và văn hoá. Theo Người, để phát huy đầy đủ vai trò, trí tuệ, khả
năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc,
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ,
đảng viên phải biết làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp
đỡ và vận động quần chúng nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước (phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ,
sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với
Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc -> họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu
và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải
phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng thời phải xuất phát
từ thực tế trình độ dân trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao
gồm cả phong tục, tập quán và cụ thể đối với từng địa phương, từng đối tượng
của nhân dân.
Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng
để tập hợp quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, để tập quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả, cần phải
tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng.
Đây là những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn luyện quần chúng cho phù hợp
từng giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng miền... như các tổ chức:
Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ... Các đoàn thể, tổ
chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực
của các tầng lớp nhân dân, đồng thời tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận
động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh bảo vệ
quyền và lợi ích của mình.
=> Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, xây dựng và bảo vệ đất
nước, các tổ chức, đoàn thể không ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động
ngày càng có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt
nhân của khối đại đoàn kết toàn dân.
Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận
dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ,
thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền
vững bấy nhiêu. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống
nhất là sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân. Như vậy, bản chất của đoàn thể nhân
dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân, do đó vai trò của Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các
tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Công tác vận động
quần chúng phải dựa trên chiến lược: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành
công, thành công, đại thành công!". Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn
thể, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn
kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ
giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống
hòa thuận ấm no.

Câu 7 Anh (chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay

*TTHCM về đoàn kết quốc tế


+ Thực hiện đkqt nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức
mạnh tổng hợp cho CM
+ Thực hiện đkqt nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu CM của thời đại

*Vận dụng
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường
lối đối ngoại hiện nay. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế là quá trình thực hành các quan điểm có chọn lọc và sáng tạo. Theo đó,
công tác hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay cần chọn lọc những
nội dung phù hợp với yêu cầu thực tiễn để thực hành một cách sáng tạo, trên cơ
sở kết hợp những chỉ dẫn, nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh với điều
kiện, đặc điểm và môi trường vận dụng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết,
hợp tác quốc tế cùng các quan điểm về đối ngoại có giá trị lịch sử sâu sắc, mang
ý nghĩa thời đại, nhưng không phải là bất biến, cố định, mà cần phải được bổ
sung những yếu tố phù hợp với sự vận động, phát triển không ngừng của thực
tiễn. Có như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh mới có sức sống mạnh mẽ, dẫn dắt, soi
đường cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Để vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp
tác quốc tế đạt kết quả, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân cần nhận thức rõ thế nào
là “vận dụng”, thế nào là “phát triển”; đồng thời, cần nắm vững đối tượng để
“vận dụng” và “phát triển”. Vấn đề đặt ra đối với sự “vận dụng” là phải đúng
đắn, sáng tạo; “phát triển” cần bảo đảm tính kế thừa, đúng hướng. Phát triển là
cập nhật nội dung mới, nâng tầm nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao giá trị của tư tưởng, lý luận. Bên cạnh
đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về nội dung, giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đa dạng hóa hình thức tuyên
truyền và làm phong phú các nội dung nhằm mang lại hiệu quả thiết thực trên
không gian rộng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, cần chú ý đến
hiệu quả, tránh chạy theo số lượng, hình thức; nội dung tuyên truyền cần phù
hợp với từng đối tượng trong xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến thế hệ trẻ, như
thanh, thiếu niên, sinh viên.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết, hợp tác quốc tế ở nước ta hiện nay phải thống nhất hai mặt của mối
quan hệ biện chứng: vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm
về đối tác, đối tượng; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến
lược giữa nước ta với các nước, để ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập,
phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm
vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng của đất nước phù hợp với luật pháp
quốc tế. Một trong những yêu cầu then chốt nhằm bảo đảm môi trường hòa
bình là phải luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt, khôn khéo, xử lý đúng đắn các
mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Cần chú trọng
đề cao việc xây dựng và giữ gìn đoàn kết và đồng thuận trong nước. Với mục
tiêu lớn nhất, cao nhất là phải kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, “tất cả
mọi người đều phải vì nước, vì dân”. Có như vậy, trong triển khai công tác đối
ngoại mới có thể vận dụng và sáng tạo một cách hiệu quả nhất tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại”; thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Điểm mấu chốt là
giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử trí các thách
thức đối ngoại, tranh thủ điểm “tương đồng” về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và
phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc
tế.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong
các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với
các nước trên thế giới. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định:
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”, từ một nền kinh tế lạc hậu, xếp hạng cuối trong số các quốc gia
Đông Nam Á, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở
mức hơn 340 tỷ USD (năm 2020). Giá trị thương hiệu quốc gia hiện đứng ở vị
trí thứ 33 trong top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới, chỉ số ảnh
hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 ở khu vực châu Á và đứng thứ hai trong khu
vực Đông Nam Á. Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại,
nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an
ninh với các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với
quốc phòng, an ninh; giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại
nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”;
chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc đẩy đối
thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật. Tiếp
tục duy trì các mối quan hệ với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng và
các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ
đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực,
đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu
nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”.
Câu 8 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
*Quan niệm của HCM về văn hóa
+ Theo nghĩa rộng: tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của cng
+ Theo nghĩa hẹp: là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng
+Theo nghĩa hẹp hơn: bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn mù
chữ, bt đọc bt viết
+Theo phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt
*Quan điểm của HCM về vai trò của VH
+ VH là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
+ VH là một mặt trận
+ VH phục vụ quần chúng nhân dân

*Thực tế
Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất
định trong việc xây dựng văn hóa, đạo đức, con người. Nền văn hóa mà chúng
ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất mà
đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa
là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng
Tuy nhiên, việc xây dựng văn hóa, đạo đức, con người còn nhiều khuyết điểm.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và
trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi
còn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng
sâu, vùng xa với đô thị trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi
trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái
với thuần phong, mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng
gia tăng.
=> Do đó, phải chú trọng hơn nữa việc xây dựng văn hóa, đạo đức, con
người để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn
hiện nay.
Một là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa,
trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh
tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát
triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện đại là sự nghiệp
của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng
tạo. Tại Đại hội XIII, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, lần đầu
tiên Đảng ta nêu yêu cầu: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con
người Việt Nam”. Truyền thống văn hóa của dân tộc không những phải được
giữ gìn mà còn phải được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa, xây dựng con người hiện đại, con người mới xã hội chủ nghĩa. Coi trọng
công tác giáo dục truyền thống lịch sử dân tộc cho mọi thế hệ con người Việt
Nam. Quyết tâm thực hiện yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải phát huy
hết cốt cách dân tộc, lấy tinh thần dân tộc để cổ vũ toàn dân, giáo dục các thế
hệ, từng bước hoàn thiện nhân cách con người cho thế hệ tương lai. Trong điều
kiện hiện nay, để thực hiện xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện đại
càng phải vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
truyền thống và hiện đại. Giữ gìn và phát huy vốn văn hóa quý báu của dân tộc,
kế thừa những truyền thống tốt đẹp, đồng thời vận động Nhân dân xóa bỏ các
tập tục lạc hậu. Bên cạnh đó, cần có biện pháp hạn chế việc du nhập văn hóa
một cách quá đà, thiếu chọn lọc dẫn đến tình trạng “sùng ngoại” không còn thiết
tha với văn hóa truyền thống trong nước. Với quan điểm dân tộc và hiện đại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức;
con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hóa nghệ thuật xã hội
chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.
Hai là, phát triển văn hóa gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
là một bộ phận của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với tư cách là hệ giá trị định hướng điều chỉnh nhận thức tư duy, hành vi cho
mỗi cá nhân và cả xã hội, văn hóa phải được gắn chặt với quá trình phát triển
kinh tế, xã hội; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và
chính trị. Một mặt, văn hóa chịu sự chi phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt
khác, văn hóa có tác động trở lại to lớn đến kinh tế và chính trị. Chính vì thế,
mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội; mỗi bước của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một bước để củng cố, giữ gìn, phát huy và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện đại, phù hợp với xu thế chung của
thời đại. Mặt khác, văn hóa là một bộ phận của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nên cần xác định rõ “Xây dựng văn hóa
trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp hóa văn hóa đi đôi với xây
dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, làm cho
văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng văn hóa, con
người Việt Nam hiện đại vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa
sâu rộng hiện nay, việc quan tâm chú trọng phát triển nguồn lực văn hóa, con
người, phát huy tối đa tiềm năng “sức mạnh mềm” của đất nước là một trong
những động lực quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, đồng thời
nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam, lan tỏa các giá trị văn hóa, con người
Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền
tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị
truyền thống và giá trị hiện đại” là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững. Để xây dựng môi trường văn hóa trong
sạch, lành mạnh, Đảng ta xác định cần có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây
dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện
hưởng thụ văn hóa của Nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; chú trọng
phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội tạo sức mạnh tổng hợp để xây
dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, thực sự là “định hướng giá trị” để:
“Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ
khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và
lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời
sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế.
Câu 9 Anh (Chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức vào xây dựng đạo đức cách mạng hiện nay.
*Quan điểm của HCM về đạo đức
+ Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xh, của người CM
+ Những chuẩn mực đạo đức CM: Trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm
liêm chính chí công vô tư; thương yêu con người sống có tình nghĩa, tinh thần
quốc tế trong sang
+Những nguyên tắc xây dựng đạo đức CM: Nói đi đôi với làm, noi gương về
đạo đức; xây đi đôi với chống; tu dưỡng đạo đức suốt đời
Xuất phát từ bản chất con người luôn có khát vọng hướng tới chân, thiện, mỹ
nhằm hoàn thiện bản thân, để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người phải
tự tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân
cách tạo nên giá trị con người, vì vậy ai cũng phải tu dưỡng hoàn thiện mình về
đạo đức. => Hồ Chí Minh thường xuyên chú trọng quan tâm giáo dục đạo đức,
chăm lo rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Người hằng mong muốn: “Thanh niên
phải có đức, có tài”.
*Vận dụng
Trong sự nghiệp đổi mới, đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, tác động của kinh tế tri thức, cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, … một nền đạo đức mới đang hình thành, là nguồn
động lực quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước. Nhờ đó, con người Việt
Nam, trong đó có phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống
nhân hậu, tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo
trong học tập, nghiên cứu khoa học, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động,
nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm,
không ỷ lại; sống có bản lĩnh, luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân
tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Bên cạnh đó, đất nước còn có những biểu hiện tiêu cực: suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm
trọng. Một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng
phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, thiếu
trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào hàng loạt tiêu cực. Do đó, cần
phải tiếp tục đẩy mạnh việc học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. (đòi hỏi của
sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế):
+ Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là phải trung với nước, hiếu với
dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Học tập đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh là học phẩm chất con người trọn đời vì nước vì dân, là học
tập khí phách anh hùng, ý chí độc lập tự cường, kiên trì mục tiêu lý tưởng, sáng
tạo và quyết thắng, không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù. (Dc: Hồ Chí Minh
đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ
quốc, giải phóng giai cấp công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác anh em và hòa bình giữa các dân tộc.)
+ Học tập đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là phải tu dưỡng, rèn luyện
theo tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đức khiêm tốn,
trung thực. Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên, đoàn viên và thanh
niên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ít lòng ham muốn vật chất, đó
là tư cách người cán bộ cách mạng. Khiêm tốn: phải chân thành, khiêm tốn,
không được tự mãn, chớ kiêu ngạo, luôn luôn cầu tiến bộ. Trung thực: trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mang nội dung đạo đức cao quý của người cộng
sản, những người đã công khai nói về sự tự nguyện hy sinh, cống hiến cả cuộc
sống của mình cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong công
việc, trung thực phải luôn luôn gắn bó với trách nhiệm. Hồ Chí Minh coi
trách nhiệm là bổn phận của mỗi người, việc phải làm, phải gánh vác, không thể
thoái thác. Ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân là sự tự ý thức về các công việc
phải làm. Sinh viên phải có sự vun đắp tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm
với Tổ quốc thân yêu. Với cán bộ, đảng viên và mỗi một người cần nhận thức
rõ: Trung thực, trách nhiệm, trước hết là trách nhiệm với Tổ quốc, với Đảng,
với nhân dân, sau đó là trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương.
+ Học tập đạo đức Hồ Chí Minh là phải có đức tin tuyệt đối vào sức mạnh
của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân;
luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. Hồ Chí Minh
luôn dạy cán bộ, đảng viên việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng phải hết sức tránh; phải gần dân, hiểu
dân, phải học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Người phê phán quyết liệt đầu óc “quan cách mạng” và tự mình thường xuyên
đi xuống cơ sở để tìm hiểu “lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của
những người không quan trọng”.
DC: Tháng 7 năm 1969, khi trả lời nữ phóng viên báo Granma (Cuba),
Người nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi…; Mỗi người, mỗi gia đình đều
có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người,
mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” . Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công cũng là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, Hồ
Chí Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để
góp gạo cứu đói và Người cũng đóng góp lon gạo của mình như mọi người dân.
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa
của dân tộc, nên có sức mạnh và cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo
lương tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn, sâu sắc.
+ Học tập đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh còn là học tập và làm theo
tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi
thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. Hồ Chí Minh đã cống
hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế
giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng
cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Học tập tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh là học tập đức tính bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua
thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lý
+ Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn là phải học tấm gương về chủ
nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Hồ Chí
Minh chẳng những là một nhà yêu nước vĩ đại, mà còn là một chiến sĩ kiên
cường của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trong
thế kỷ XX. Hồ Chí Minh thường dạy chúng ta phải chăm lo bảo vệ sự đoàn kết
quốc tế, vì sự nghiệp của cách mạng Việt Nam, vì nghĩa vụ cao cả đối với
cách mạng thế giới.
=> Thanh niên, sinh viên phải ra sức trau dồi đạo đức trở thành những con
người làm chủ đất nước, đoàn kết thành một khối, quyết làm tròn nghĩa vụ cao
cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Sinh viên Việt Nam quyết tâm học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách của Hồ Chí Minh, thi đua học tập, rèn luyện, vì ngày mai lập
nghiệp, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường
quốc năm châu như Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Câu 10 Anh (chị) hãy xác định phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người vào xây dựng con người Việt Nam hiện nay.

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người


*Quan niệm của HCM về con người
Theo HCM, cng là 1 chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, đa dạng
bởi mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội (giai cấp, gia đình, dân tộc…) và các
mqh xã hội (chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo)
*Quan điểm HCM về vai trò của cng
+Cng là mục tiêu của CM
+Cng là động lực của CM
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng,
vừa cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một
trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối
quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nội dung xây dựng con người Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con
người toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người có mục
đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người
của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và
năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện với những khía cạnh chủ yếu
sau: (4)
- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
- Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
- Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào xây dựng con người
Việt Nam hiện nay.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (7-1998) nêu
nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với những hệ giá trị trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đó là con người có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Có ý thức tập thể,
đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm
nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia
đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ
chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân”.
Đại hội XII nêu nhiệm vụ cụ thể:
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là mục tiêu của chiến
lược phát triển. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Đấu tranh phê phán đẩy lùi cái xấu, cái ác,
thấp hèn, lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu
đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người
Việc thực hiện tốt các vấn đề trên sẽ góp phần vào việc xây dựng, phát
triển con người Việt Nam, trong đó, mỗi người kế thừa tinh hoa trong nhân
cách văn hóa Việt Nam từ ngàn đời để xây dựng nhân cách con người Việt Nam
với các giá trị văn minh mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
Nhóm 3

Câu 1 Anh (chị) hãy nêu quan điểm của mình về ý nghĩa của việc học
tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Theo cảm nhận của em, đối với sinh viên, đội ngũ trí thức tương lai của
nước nhà, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa. hiện đại hóa đất nước, gắn liền
với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập vào đời sống toàn cầu. Nâng cao năng
lực tư duy Lý luận và phương pháp công tác
- Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên
con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Thông qua việc làm rõ và truyền thụ nội dung hệ thống quan điểm
của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cho
sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đời
sống cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
- Thông qua học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng,
củng cố cho sinh viên, thanh niên lập trường, quan điểm cách mạng trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán
những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; biết vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh góp phần giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng,
biết sống ở đời và làm người hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái ác, cái
xấu; nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng sản Việt Nam, tự nguyện
“sống, chiến đấu, lao động, học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại”.-> Trên cơ
sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng, rèn
luyện bản thân, hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp thiết thực và hiệu
quả cho sự nghiệp cách mạng, con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã lựa chọn. Đối với sinh viên, giáo dục tư tưởng, văn hóa, đạo đức Hồ Chí
Minh là giáo dục lý luận sống, đạo làm người, hoàn thiện nhân cách cá nhân,
trang bị cho học trí tuệ và phương pháp tư duy biện chứng để họ trở thành
những chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng một nước Việt
Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong muốn và khát vọng của Hồ Chí
Minh.

Câu 2 Anh (Chị) hãy làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc.

Đất nước và thế giới có nhiều đổi thay so với thời Hồ Chí Minh, nhưng
công cuộc đổi mới muốn thắng lợi vẫn phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
tiến hành dưới ánh sáng cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sải bước cùng thế giới và thời đại, hướng tới vì
mục tiêu của Việt Nam và phù hợp mục tiêu thời đại
Năm 1911, trước cảnh nước mất độc lập, dân nô lệ lầm than, Hồ Chí
Minh quyết chí ra đi tìm đường giải phóng dân tộc. Với lòng yêu nước và
thương dân sâu sắc, Hồ Chí Minh có quyết định sáng tạo đầu tiên là không
“Đông du” theo con đường và lời mời của các bậc cha chú mà “Tây du”
theo sự mách bảo của trí tuệ, một tư duy khoa học kết hợp với khát vọng,
hoài bão giải phóng đồng bào. Từ đó trở đi, quan tâm lớn nhất của Hồ Chí
Minh là bằng mọi cách để có thể thực hiện được mục đích của mình. Người làm
việc như một công nhân thực sự; viết đơn xin học Trường Thuộc địa với ý định
đã có từ lúc trạc 13 tuổi là “muốn làm quen với văn minh Pháp, muốn tìm xem
những gì ẩn đằng sau những chữ Tự do, Bình đẳng, Bác ái rồi trở về giúp ích
cho đồng bào”, giúp họ hưởng thụ được những lợi ích của học thức. Ý định này
bộc lộ một tầm nhìn xa, trông rộng, sáng tạo và bản lĩnh của Hồ Chí Minh trong
việc khám phá, khai thác văn minh nhân loại. khoa học công nghệ của thế giới
tư bản, của những nước có kẻ đi xâm lược đồng bào mình để phục vụ cho đồng
bào mình.
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh coi đó là cái cẩm nang thần
kỳ, là kim chỉ nam, là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối
cùng. Tuy nhiên, trăn trở lớn nhất của Hồ Chí Minh là vấn đề thuộc địa lại
không có sẵn trong học thuyết của các ông, có chăng chỉ là những quan điểm
vạch thời đại, đại loại như cách mạng thuộc địa rất quan trọng; cách mạng ở
phương Tây muốn thắng lợi thì phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng
chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa; vận mệnh của giai cấp vô sản ở
các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa. Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đem
lại cho Hồ Chí Minh lời giải đáp là Quốc tế thứ ba đoàn kết với các dân tộc bị
chủ nghĩa thực dân áp bức.
Sự quan tâm của Hồ Chí Minh đối với vấn đề thuộc địa là sáng tạo có
tính đột phá để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nếu như Lênin mới
nêu ra những khía cạnh có tính nguyên lý thì Hồ Chí Minh đã đi sâu khám phá
bản chất của chủ nghĩa thực dân, mổ xẻ thực trạng thuộc địa.
Về bản chất của chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chủ
nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc
và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ
cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật
vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Lênin nói về tầm quan
trọng của thuộc địa ở tầm khái quát, còn Hồ Chí Minh đi sâu khai thác cấu
trúc chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa ở thuộc địa. Bằng sự quan sát tinh
tường nhiều thuộc địa của các đế quốc khác nhau, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng các
thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; cung cấp binh lính cho quân
đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản
cách mạng. Tóm lại, “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Trên diễn đàn Đại hội của
Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh lưu ý Quốc tế Cộng sản không chỉ là tương lai
của thuộc địa mà còn là nguy cơ của thuộc địa và nhắc nhở rằng không được
khinh thường thuộc địa. Người mạnh dạn tuyên bố: “Nếu các đồng chí không
lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc
thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”.
Tố cáo tội ác thực dân, bênh vực các dân tộc thuộc địa, kêu gọi đoàn
kết và quyết tâm đấu tranh giải phóng thuộc địa là sáng tạo và cống hiến
mở đầu của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam.
Vấn đề dân tộc Hồ Chí Minh quan tâm không phải là dân tộc nói chung,
dân tộc ở các nước tư bản mà là dân tộc thuộc địa. Quan trọng nhất của vấn đề
dân tộc thuộc địa là quyền của các dân tộc. Trăn trở lớn nhất của Hồ Chí Minh
là quyền độc lập của các dân tộc với ý nghĩa là quyền “trời cho”, thiêng liêng,
bất khả xâm phạm. Quyền đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, không chỉ là
chính trị, kinh tế, văn hóa mà cả chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đó là một nền
độc lập dân tộc thật sự, hoàn toàn, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, thoát ly
hẳn quan hệ thực dân với Pháp nhưng lại quan hệ hợp tác hữu nghị, sẵn sàng
làm bạn với tất cả các dân tộc. Độc lập dân tộc phải đi tới hạnh phúc, tự do, tức
là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bởi vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại
cho các dân tộc dân chủ, ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự. Nhận thức vấn đề dân
tộc thuộc địa mở đường cho Hồ Chí Minh thực hiện cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam, góp phần quan trọng vào giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Thời Mác, vấn đề thuộc địa hầu như chưa xuất hiện. Khi chủ nghĩa tư bản
bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã mở ra thời đại mới cho các
dân tộc thuộc địa. Sau khi Lênin từ trần, sứ mệnh lịch sử thế giới đặt lên vai
những người kế tục ông trong việc tổ chức các dân tộc thuộc địa vùng lên thực
hiện sự nghiệp giải phóng. Một trong số ít các học trò xuất sắc của Lênin là Hồ
Chí Minh.
Để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, dưới ánh sáng chủ
nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh phải xây dựng một hệ thống luận điểm, trước
hết để thành lập một đảng chân chính chính cách mạng ở Việt Nam. Hệ thống
luận điểm đó được chi phối bởi nhận thức phải giành cho kỳ được độc lập dân
tộc nhưng không phải theo con đường phong kiến, tư sản mà theo con đường
cách mạng vô sản. Sáng tạo của Hồ Chí Minh ở đây là không phải làm cách
mạng vô sản kiểu Nga mà đi theo con đường cách mạng vô sản kiểu Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917. Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là “một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản”, không xa rời cách mạng vô sản, ngược lại có quan
hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở “chính quốc” song không bị động, phụ
thuộc cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà có khả năng chủ động giành thắng
lợi trước bằng cách đem sức ta, trí ta mà tự giải phóng cho ta. Sự thắng lợi đó
tác động tích cực trở lại cách mạng vô sản ở “chính quốc”, giúp giai cấp vô sản
ở các nước đi xâm lược điều kiện giải phóng.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản tức là
độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết,
là tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có
gì hết. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân
dân, chuẩn bị tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chủ nghĩa
xã hội là hạnh phúc, tự do. Vì vậy phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như là sự
phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra một
chất mới, một bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến
trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của Lênin về hai
giai đoạn cách mạng- cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải do Đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc lãnh đạo. Đó là một Đảng đạo
đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác-Lênin; có cách lãnh đạo khoa
học, thuận lòng dân; có đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong
sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam, kịp bước tiến của thời đại, bản lĩnh chính trị vững vàng. Đảng đó
phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu
dài, chân thành, đoàn kết trong đó lực lượng của cả dân tộc, mọi con dân nước
Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và
tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục
tiêu chung của nhân loại tiến bộ là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Nghiên cứu kỹ hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam có thể nhận ra cả một lộ trình giải phóng và phát triển,
thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa dân tộc và giai cấp, tức độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Lõi cốt của vấn đề dân tộc là độc lập dân tộc; lõi cốt của vấn đề
giai cấp là chủ nghĩa xã hội. Song trong điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh tài
tình giải quyết biện chứng mối quan hệ đó. Giải quyết vấn đề dân tộc trong đó
có cả quyền lợi giai cấp, vì không giải phóng được dân tộc thì quyền lợi giai
cấp, bộ phận đến vạn năm cũng không đòi lại được. Giải quyết quyền lợi giai
cấp thì cả dân tộc đều ấm no, hạnh phúc, vì chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Như vậy, ĐỘC LẬP- TỰ DO- HẠNH
PHÚC là triết lý Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam, một cống hiến lớn
của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam, làm phát triển học thuyết Mác-
Lênin về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng
con người.
Sáng tạo lý luận là cần nhưng chưa đủ. Lý luận như cái tên, thực tiễn như
cái đích, tên không bắn, hoặc bắn không trúng đích thì cũng vô nghĩa.
Sáng tạo của Hồ Chí Minh không chỉ là người xây dựng cơ sở lý luận cho
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc Việt Nam mà còn là người tổ chức và
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Lý luận của Người
vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn là nhờ đi vào thực tiễn, được
làm phong phú bởi thực tiễn. Chính thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh
giành độc lập và kháng chiến chống các cuộc chiến tranh xâm lược, đã làm
phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và chiến tranh giải phóng.
Hơn nữa với Hồ Chí Minh, tư tưởng, phương pháp, phong cách, tổ chức thực
tiễn hòa quyện với nhau, cái này làm nổi bật cái kia và ngược lại. Ở Hồ Chí
Minh, không có một quan điểm lý luận nào nằm trên giấy mà bao giờ cũng soi
sáng thực tiễn, được kiểm nghiệm bằng thực tiễn và chính thực tiễn đó một lần
nữa lại làm phong phú lý luận của Người. Thực tiễn nói tới ở đây hết sức phong
phú và đa dạng, Việt Nam và thế giới, chiến tranh và xây dựng... Đó là cả một
khoa học, đòi hỏi trí sáng tạo, bản lĩnh, sự khôn ngoan của người lãnh đạo. Với
Hồ Chí Minh, lãnh đạo đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc là cả một nghệ
thuật.
Nếu sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh được thể hiện dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác- Lênin thì thực tiễn lãnh đạo, tổ chức sự nghiệp giải phóng dân
tộc hoàn toàn mang sắc thái Hồ Chí Minh, sắc thái Việt Nam.
Người tổ chức ra một đảng mácxít lêninnít rất Việt Nam, không chỉ kết
nạp công nhân mà toàn dân tộc; không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà
vì cả dân tộc; không chỉ có trong trái tim của những người cộng sản và giai cấp
công nhân mà “gần gũi tận trong mỗi đồng bào ta”. Hồ Chí Minh dày công rèn
luyện xây dựng Đảng ta thành một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, “là
đạo đức là văn minh”. Đảng của Hồ Chí Minh lãnh đạo đúng đắn, là nhân tố
hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi.
Người đã lãnh đạo toàn dân thực hiện quyết tâm “dù có phải đốt cháy cả
dãy Trường sơn cũng phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc”. Khi nền độc lập
dân tộc bị uy hiếp và kẻ thù buộc ta cầm súng thì Người phát động chiến tranh
nhân dân đúng lúc, đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa
vào sức mình là chính với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ
chức vừa kháng chiến vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với
kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh.
Người xác định kháng chiến trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng
nhất định thắng lợi.
Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, với phương pháp
“dĩ bất biến ứng vạn biến”, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế,
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chú trọng thời - thế - lực; thiên thời-
địa lợi- nhân hòa, vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo trong việc sử dụng bạo lực cách
mạng của quần chúng nhân dân. Người kết hợp nhuần nhuyễn “sức mạnh cứng”
với “sức mạnh mềm” trong kháng chiến chống kẻ thù to. Bởi vì với Việt Nam,
Hồ Chí Minh là người hiểu rõ hơn ai hết bao giờ cũng phải lấy nhỏ đánh lớn,
lấy ít địch nhiều nhưng phải là mạnh thắng, yếu thua. Hồ Chí Minh đã huy động
được sức mạnh tổng hợp cả quá khứ, hiện tại và tương lai; cả vật chất và tinh
thần; cả trong nước và ngoài nước; cả cách mạng và tiến bộ; sức mạnh của cả
dân tộc, của các giai tầng, các tổ chức, của từng cá nhân... Đó là cả một sức
mạnh văn hóa kết hợp các tố chất lý và tình, tổng quát và đơn lẻ, giáo dục,
thuyết phục, cảm hóa, dùng cả súng, cuốc, thuổng, gậy gộc, cả văn thơ... với
một niềm tin khoa học, cách mạng và nhân văn là cái thiện thắng cái ác, chính
nghĩa thắng phi nghĩa, văn minh thắng bạo tàn. Thực tiễn đã chứng minh hùng
hồn, sau 45 năm (1930-1975), đất nước sạch bóng quân xâm lược, Tổ quốc
thống nhất, non sông thu về một mối.
Chiến tranh đã lùi xa 35 năm (1975-2010), nhưng sáng tạo lý luận và
phương pháp Hồ Chí Minh vẫn là bài học không bao giờ cũ. Đất nước và thế
giới có nhiều đổi thay so với thời Hồ Chí Minh, nhưng công cuộc đổi mới muốn
thắng lợi vẫn phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tiến hành dưới ánh sáng
cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, sải bước cùng thế giới và thời đại, hướng tới vì mục tiêu của Việt Nam và
phù hợp mục tiêu thời đại.

Câu 3 Anh (chị) hãy làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội.

Sáng tạo trong cách tiếp cận về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Nghiên cứu lịch sử nhân loại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã khẳng định, dù quanh co, phức tạp song cuối cùng nhân loại sẽ tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan bởi sự phát
triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đến mức không thể tương dung
với quan hệ sản xuất hiện tồn. Sớm hay muộn, quan hệ sản xuất đó sẽ bị thay
thế bởi một quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, với hoàn cảnh Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì HCM cho rằng, Việt Nam sẽ tiến lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là những gì bình dị nhất song cũng cấp thiết
nhất mà cuộc sống đang đặt ra cho dân tộc, cho mỗi người dân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội trước hết là độc lập cho dân tộc, tự
do cho đồng bào. Ngay từ những năm 1920, Người đã bộc bạch, “tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là
tất cả những điều tôi hiểu”. Mục tiêu ấy, khát vọng ấy là thường trực, cháy bỏng
trong tư tưởng, tình cảm, xuyên thấm trong lời nói, hành động của Người. Tuy
nhiên, theo Hồ Chí Minh, nước độc lập mà dân không được tự do, hạnh phúc thì
độc lập ấy cũng chẳng để làm gì. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội còn là một chế độ xã
hội “làm cho dân khỏi đói, khỏi rét, làm cho dân được học hành”. Chúng ta có
thể xem đó là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngoài nhận thức về đặc trưng chung của chủ nghĩa xã hội như trên, trên
từng lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cũng có những quan
điểm rất độc đáo, sát thực, thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Trong các
quan điểm đó, khía cạnh văn hóa, con người rất được chú trọng.
Người nhận thức rằng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là lâu dài,
khó khăn, gian khổ, vì vậy cần có những con người có phẩm chất tương ứng.
Người nói, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa”... Để có con người xã hội chủ nghĩa, Đảng cần kiên trì tiến
hành một sự nghiệp trồng người một cách có kế hoạch và thật sự khoa học bởi
“vì lợi ích 10 năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Trong
Bản Di chúc lịch sử, Người cũng không quên căn dặn Đảng ta “Bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất quan trọng và rất cần thiết”...
Trong sự nghiệp vĩ đại đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm giáo dục con
người một cách toàn diện, cả hai mặt Hồng và Chuyên, trong đó Người khẳng
định, Đức là gốc. Vì vậy, đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đặc biệt quan
tâm chống chủ nghĩa cá nhân.
Người cho rằng, “chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách
rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”, song “không có chế
độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và
bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”. Do đó, trong
quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang bản chất nhân văn và văn
hóa. Chủ nghĩa xã hội là một công trình văn hóa.
Sáng tạo trong xác định mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau.
Theo Người, đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là độc
lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội còn là những gì rất cụ thể, thiết thực.
Theo Người, “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và
dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động”, hay “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không
ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”; cách diễn giải thành các tiêu chí cụ
thể: “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ,
những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội
ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa
xã hội”.
Để đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải phát huy
hiệu quả các động lực xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, động
lực cơ bản của sự phát triển lịch sử là hoạt động thực tiễn của con người phù
hợp quy luật khách quan. Vì vậy, suy cho cùng, con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của xã hội thông qua hoạt động cải biến tự nhiên, xã hội và chính
bản thân con người.
Vận dụng quan điểm đó, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải phát hiện những
động lực và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức
mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực
bên trong, nguồn nội lực của chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định, động lực
quan trọng và quyết định nhất là con người. Người nhận thấy nhân dân là nguồn
động lực vĩ đại mà nòng cốt là công - nông - trí thức. Người nói, “vấn đề con
người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng cần có thêm, có sớm, nhưng cần
hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả là do con người”.
Vì lẽ đó, trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn phấn đấu cho con người,
vì con người.
Không chỉ tìm mọi cách để phát huy vai trò nhân tố con người, nét sáng
tạo mới của Hồ Chí Minh là ở chỗ, bên cạnh việc chỉ ra các nguồn lực phát triển
của chủ nghĩa xã hội, Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm
hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội
trở nên trì trệ, xơ cứng, không hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu,v.v..
Chính vì thế, Người phê phán chủ nghĩa cá nhân, đề cao tinh thần độc lập, tự
chủ, tự lực cánh sinh là chính, đồng thời chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra sức mạnh
tổng hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đảm các quyền dân
tộc cơ bản.
Sáng tạo trong lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đề cập đến quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản, C.Mác cho rằng,
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Trên cơ sở phân tích
đặc điểm của nhân loại giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định, “với
sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến
tới chế độ xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, không phải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Điều này
cho thấy, có hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội: trực tiếp và gián tiếp.
Với Hồ Chí Minh, chu trình vận động của lịch sử xã hội loài người được
phác họa như sau: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ
phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì
loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà
các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ
nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ
mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung
Quốc, Việt Nam ta”. Như vậy, Hồ Chí Minh thừa nhận, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp.
Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm lớn mà quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải quan tâm và đặc điểm lớn
nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thể hiện trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài.
Người chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi
khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn
mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt
để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn
năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây
dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải
dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp”. Tuy nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi
mà chờ” là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng,
phấn khởi thi đua xây dựng, thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
Theo đó, Hồ Chí Minh khẳng định, phải tạo ra những điều kiện cần và đủ
về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ
mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Phát triển lực lượng sản
xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ
cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Đặc biệt là
phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân -
trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm không ngừng tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sáng tạo trong phương thức và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, vấn đề có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt là, phải tìm tòi phương thức, biện pháp với bước đi, cách làm phù hợp
với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, đồng thời phù hợp với đặc điểm và xu
thế của thời đại. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ
nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào
loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ
khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của chủ nghĩa
xã hội”.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhận định, “trong
tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng
biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra
chính sách của mỗi đảng cộng sản và mỗi đảng công nhân”. Hồ Chí Minh đặt
vấn đề, “chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ
nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội?... Phải dùng lập trường, quan điểm,
phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng
ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng
ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam,
định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã
hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. Người cũng lưu ý rằng, cần
phải quan tâm những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử - văn hóa của dân
tộc, địa lý, tài nguyên, đất đai, con người Việt Nam với những đặc điểm và thể
chất, tinh thần, v.v.. để làm căn cứ, định ra phương châm, biện pháp phù hợp
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về phương châm, theo Người, cần phải quán triệt nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh
nghiệm của các nước anh em, nhưng không sao chép, máy móc, giáo điều.
Đồng thời xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất
phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của
nhân dân.
Về biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo,
chống giáo điều, rập khuôn, phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp
với thực tiễn Việt Nam. Trong từng bước đi và cách làm để xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, phải thực hiện kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, khẩu hiệu
“vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội”, có thể coi là một sáng tạo của Việt Nam.
Trong điều kiện chúng ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, Hồ Chí Minh chủ trương phải kết
hợp cải tạo với xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựng là chủ chốt và
lâu dài; xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, vì vậy
cách làm là đem tài của dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân; đồng thời
Người nhấn mạnh vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực hiện. Chỉ tiêu
một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi,... có như thế kế hoạch mới hoàn
thành tốt được.
Thấm nhuần lý luận Mác - Lênin về vai trò quần chúng nhân dân, Hồ Chí
Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại
lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là
tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động triệt để các nguồn
lực của dân, vì lợi ích của quần chúng nhân dân. Đây cũng chính là nét sáng tạo
trong phương thức và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Câu 4 Anh (chị) hãy làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng
sản của chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu
mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ, phải đoàn
kết thống nhất, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ
luật nghiêm minh
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là
sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Vận dụng sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình
vận động thành lập Đảng. Người trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin về quy luật ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào
quy luật ấy với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là phong trào yêu nước. Hồ
Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt
Nam để chỉ ra quy luật này.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất”, cần phải được truyền bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở thành hành động
cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật
ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông
đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiền phong
là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng
Việt Nam.
Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu của cách mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập”[4]. Đây là đường lối đúng đắn của cách mạng Việt
Nam với hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem lại độc lập cho dân tộc được đặt
lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa, cộng
sản chủ nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đem lại ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con người được phát triển toàn diện. Đây là
hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn liền với
nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều
kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải
phóng con người sẽ bảo đảm cho độc lập dân tộc được vững chắc, “độc lập dân
tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành
cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân là động lực của cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan
điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
Công nông là chủ cách mệnh, bên cạnh đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà
buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mệnh của công nông. Đây chính là chủ
trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh thần yêu nước,
tinh thần cách mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, là sáng tạo độc đáo của Hồ Chí
Minh trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh đến tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính
tiên phong của Đảng, theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn.
Các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư
gửi Trung ương Đảng và Quốc tế Cộng sản trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh đã khẳng định tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc
tổ chức, tập hợp, đoàn kết dân tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và của
giai cấp.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ
trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản
chung cho ba dân tộc Đông Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã phát huy sáng tạo và có hiệu quả chủ nghĩa ML về dân
tộc để đưa ra ý kiến riêng về vấn đề này -> Hội nghị nhất trí với cách giải thích
của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của Người
tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
có tính đến yếu tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh
của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra sự tin cậy về chính trị để đoàn kết,
giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam ở một nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự
cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Trải
qua gần 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, luôn gắn bó
mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện
của Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ
vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư tưởng của Người vẫn còn
nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Câu 5 Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam, anh (chị) hãy đề xuất giải pháp thực hiện công tác phòng, chống
tham nhũng của Đảng ta hiện nay.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam


*Vai trò lãnh đạo của ĐCS VN
Khẳng định đảng cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền chính
trị là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong suốt cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
=>Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu (điều đó
xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.)

* Đảng phải trong sạch, vững mạnh


a. Đảng là đạo đức, là văn minh
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng, về
ý nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng
văn minh, hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân
chính”.

b. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng


- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động.
- Tập trung dân chủ.
- Tự phê bình và phê bình.
- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
- Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn.
- Đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là điều kiện
để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân.
- Đoàn kết quốc tế.
c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Hồ Chí Minh lưu ý phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức
vừa có tài, trong sạch, vững mạnh.
2. Đề xuất giải pháp
Có thể khẳng định, phòng chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN) là một
lĩnh vực công tác luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của xã hội, thể hiện sự
tin tưởng của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Để công cuộc đấu tranh
PCTN hiệu quả, các cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
địa phương của tỉnh cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ, đồng
bộ với quyết tâm cao, trong đó tập trung vào các nội dung cơ bản:
Một là, cần chú trọng công tác tuyên truyền về PCTN gắn với thực
hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương ‘Về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng’; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Gắn công
tác PCTN với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, gắn PCTN với xây dựng và
chỉnh đốn Đảng; chấn chỉnh, đấu tranh, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh
PCTN của một số cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Hai là, xây dựng và ban hành bộ quy tắc ứng xử của cán bộ, đảng
viên trong công việc và trách nhiệm giải trình trước cơ quan có trách
nhiệm về những vấn đề liên quan theo quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ
được giao. Có cơ chế phù hợp khen thưởng, bảo vệ người tố cáo tham nhũng,
lãng phí đúng. Tạo điều kiện, cơ chế đãi ngộ xứng đáng cho đội ngũ chuyên
trách làm công tác PCTN. Nâng cao mức sống cho đội ngũ cán bộ, công chức
thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao, từ đó chấp hành tốt "bốn
không"(không muốn tham nhũng, không thể tham nhũng, không dám tham
nhũng và không cần tham nhũng) trong PCTN.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng; quản lý
chặt chẽ cán bộ, đảng viên, công chức; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng và bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ này phải được tiến hành thường xuyên,
toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ. Kiểm tra toàn diện công tác
cán bộ, chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ có biểu hiện tham nhũng, dư luận xã
hội phản ánh, tố cáo; cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đặc biệt, cần phát huy
hiệu quả hơn nữa vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành
viên và báo chí trong đấu tranh PCTN.
Bốn là, thực hiện cải cách hành chính quyết liệt hơn, chú trọng rà soát,
đơn giản hóa, công khai thủ tục hành chính, mở rộng các lĩnh vực cung cấp dịch
vụ công trực tuyến; công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho người dân, doanh
nghiệp tiếp cận thông tin và giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ, công
chức, viên chức; xây dựng kế hoạch và thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác
hàng năm, điều chuyển vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức
không hoàn thành nhiệm vụ, mức độ hài lòng của người dân không cao, uy tín
giảm sút. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ việc kiểm soát tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn và PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực
ngoài Nhà nước theo đúng quy định của Luật PCTN năm 2018.
Năm là, đưa nội dung PCTN và kiểm tra, rà soát các cuộc thanh tra
kinh tế - xã hội, việc thực hiện các kiến nghị của cơ quan Thanh tra, Kiểm
toán Nhà nước vào chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm của cấp ủy.
Trong đó, đặc biệt tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra các lĩnh vực quản lý,
cho thuê đất công, mua bán, chuyển nhượng tài sản công, quản lý trật tự xây
dựng, xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng tài chính, công tác tổ chức, cán bộ.
Chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức, cán
bộ; kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên có biểu hiện tham nhũng, nhiều đơn thư
phản ánh, tố cáo tham nhũng; cán bộ có dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; kiểm tra, thanh
tra việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo; kịp thời phát
hiện, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ
cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước.
Sáu là, phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án liên quan
đến tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Tập
trung lực lượng, phối hợp chặt chẽ để giải quyết các vụ việc phát sinh mới với
nguyên tắc: "Tích cực, khẩn trương, làm rõ đến đâu xử lý đến đó", "Không có
vùng cấm", "Không có ngoại lệ". Kiên quyết xử lý nghiêm những người bao
che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc xử lý hành vi
tham nhũng. Ngăn chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây
phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, nhất là "tham nhũng vặt" trong giải
quyết công việc.
Bảy là, các cơ quan chức năng tập trung nâng cao chất lượng công
tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; chấp
hành nghiêm quy định của pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, bảo đảm các hành vi phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời. Phối
hợp chặt chẽ trong giải quyết các vụ việc, vụ án kinh tế, tham nhũng; nâng cao
hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ việc,
vụ án kinh tế, tham nhũng. Chú trọng công tác điều tra, mở rộng án, thu hồi tài
sản, không để các đối tượng đối phó, tiêu hủy tài liệu, bỏ trốn, tẩu tán tài sản;
không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Tám là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các quy định của pháp luật về công vụ, công chức, nhất là việc thực thi
công vụ, những vị trí trực tiếp giải quyết yêu cầu của công dân, tổ chức,
doanh nghiệp. Đồng thời, công bố công khai các kết luận và kết quả kiểm tra,
thanh tra có liên quan đến tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, công chức.
Cụ thể hóa và tăng cường kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm các quy
định của Luật PCTN về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ
chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và trong các lĩnh vực, nhất là việc thực
hiện các chính sách an sinh xã hội. Xử lý nghiêm đối với cán bộ, công chức có
hành vi tham nhũng, tiêu cực, sai phạm về chuyên môn.

Câu 6 Anh (chị) hãy làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh về Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

1. Sáng tạo trong việc lựa chọn mô hình nhà nước: Trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, với hành trang khi đi tìm đường cứu nước là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc đã được thấm nhuần, Hồ Chí Minh đã tính đến việc
ngay sau khi giành được độc lập cho dân tộc, phải thiết lập một chế độ mà ở đó
tính dân chủ phải được thực hiện một cách triệt để. Chính vì vậy Người luôn
quan tâm đến việc lựa chọn mô hình nhà nước. Trên hành trình tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát các mô hình nhà nước tư sản Mỹ, Anh, Pháp…
và thấy rằng, sau khi cách mạng thành công thì chính quyền vẫn ở trong tay một
số ít người. Người đã phát hiện ra rằng, sau những lời hoa mỹ về “quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của “Tuyên ngôn
độc lập 1776” của Hoa Kỳ là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng
tộc và biết bao sự tàn bạo, bất công khác, nhất là đối với những người da đen.
Sau khi đến Liên Xô, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu một mô hình nhà nước Xô viết,
nhà nước đó: “Phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền... ra
sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng . Mô hình nhà
nước đó là một gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt
Nam trong tương lai. Chính phủ ấy do quốc gia đại hội cử ra. Khi thời cơ giải
phóng dân tộc đã đến gần, trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc” (10/1944), Hồ
Chí Minh cũng nói rõ: trước hết cần có một chính phủ đại biểu cho sự chân
thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân, gồm tất cả các đảng
phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra.
2. Sáng tạo trong việc khẳng định tính thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước: Quan niệm Hồ
Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước Việt Nam kiểu mới là sự
vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và nhà nước
chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, sự xuất hiện của nhà
nước là một tất yếu kinh tế - chính trị. Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất kỳ ở đâu, hễ lúc nào
xuất hiện những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất
hiện. Ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng, những mâu thuẫn giai
cấp là không thể điều hòa được. Như vậy, về mặt nguyên tắc, đã là nhà nước thì
bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, là công cụ để phục vụ
cho lợi ích của giai cấp đó. Không có nhà nước phi giai cấp hoặc là nhà nước
siêu giai cấp. Nhưng có thể khẳng định: khi nói tính thống nhất giữa bản
chất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà
nước theo Hồ Chí Minh không có gì mâu thuẫn với nguyên tắc, bản chất của
nhà nước mà ở đây cho thấy tính sáng tạo, tính thực tiễn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Điều đó thể hiện: Trước hết, Hồ Chí Minh tuân thủ các vấn đề thuộc
về nguyên tắc của nhà nước
3. Sáng tạo trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân: Trong tư tưởng của mình, V.I. Lênin coi nhà nước là
một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, nhưng lại là vấn đề rất cơ
bản và rất mấu chốt mà giai cấp vô sản không thể không giải quyết trong cuộc
đấu tranh cách mạng nhằm thiết lập một chế độ xã hội mới về chất. Tiếp thu và
vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước;
đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị nhân loại và truyền thống dân
tộc về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những tư tưởng sâu sắc về
xây dựng nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
-Tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thể hiện ở cả mục đích, nguyên tắc tổ chức
lẫn phương thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước đó phải được tổ chức một
cách hợp hiến, hợp pháp; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã
hội bằng pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị… Nó phải thực
sự là công cụ quyền lực của nhân dân lao động; phản ánh, thực hiện và bảo vệ
lợi ích của nhân dân. Những tư tưởng này một mặt thể hiện sự đấu tranh của Hồ
Chí Minh vì quyền lợi của nhân dân lao động; mặt khác thể hiện những nhận
thức sâu sắc, ngay từ rất sớm của Người về vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng
của nhà nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội khi mà sự
nghiệp cách mạng còn chưa đi đến thành công.
Câu 7 : Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, anh (chị) hãy đề xuất giải pháp xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở nước ta hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước dân chủ, của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; có nền dân chủ lập hiến, quản lý đất nước bằng pháp
luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một hoàn thiện trong xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng qua các thời kỳ.

1. Gắn bó với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng có
vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự sống còn của Đảng,
của dân tộc và của chế độ. Đó là nguồn gốc sức mạnh, là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng ta.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Đảng ta là đạo đức, văn minh, là
lương tâm và trí tuệ của dân tộc. Điều đó yêu cầu toàn Đảng và từng tổ chức
đảng, mỗi đảng viên của Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải
tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và phong cách, về tổ
chức và cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh
đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau. Trong điều kiện Đảng
cầm quyền thì càng phải ý thức thật sự sâu sắc tinh thần, thái độ trách nhiệm
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm xây
dựng một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng
không có quyền lợi gì riêng của mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc.
Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng
dân, Đảng lấy dân làm gốc. Chính vì vậy, xây dựng Đảng không chỉ là công
việc của Đảng mà còn là công việc, trách nhiệm của nhân dân. Nhân dân là chỗ
dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh của Đảng; phục vụ nhân dân là
mục tiêu của Đảng, nhân dân có trọng trách to lớn là xây dựng Đảng của mình
trong sạch, vững mạnh. “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” luôn là nguyên
tắc xây dựng Đảng và được khẳng định trong cương lĩnh và các nghị quyết của
Đảng.

-> Nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân dân trong xây dựng Đảng,
trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để phát
huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

2. Tiếp tục quán triệt, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò
của nhân dân tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cần chú
trọng một số nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, yếu tố quan trọng hàng đầu để nhân dân có thể phát huy vai trò tham
gia xây dựng Đảng là phải thực hành dân chủ rộng rãi, để làm sao thật sự dân là
chủ, dân làm chủ, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
dân chủ từ trong Đảng đến dân chủ trong xã hội được thực hiện ở các cấp, các
địa bàn, các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Tiếp tục
thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng về phát huy quyền dân
chủ, về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”,
nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để nhân dân thực hiện tốt hơn
quyền dân chủ trực tiếp cùng với quyền dân chủ gián tiếp thông qua đại diện
của mình một cách thiết thực, hiệu quả.

Hai là, Đảng, Nhà nước cần đổi mới cơ chế và quy trình ra quyết định lãnh đạo,
quản lý theo hướng phát huy dân chủ, phát huy vai trò của nhân dân trong việc
tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất
cả các khâu của quá trình ra các quyết định liên quan đến quyền và lợi ích chính
đáng, thiết thân, hợp pháp của nhân dân, từ việc nêu sáng kiến đến tham gia góp
ý, thảo luận, tranh luận, phản biện, đến việc giám sát quá trình thực hiện, bảo
đảm nguyên tắc: Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều phải vì
lợi ích của nhân dân. Đồng thời, cần tập trung nghiên cứu, xây dựng để sớm ban
hành hoặc sửa đổi, bổ sung pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của
nhân dân, thực hành dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, thực chất, góp phần
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.

Bốn là, để nhân dân có thể giám sát, phản biện và góp ý thì việc cung cấp
thông tin chính thống từ phía cơ quan Đảng, Nhà nước hết sức cần thiết. Cần
thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin cho nhân dân và trách nhiệm
tiếp thu, trách nhiệm giải trình của cá nhân, tổ chức được giao nhiệm vụ trước
nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, giải
quyết yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tăng cường quy định về
dân chủ trong Đảng và chế độ trách nhiệm đối với nhân dân.

Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Chú trọng
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, thật sự
tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm
với dân, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ
luật. Cần tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về phục vụ
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
các quyết định của mình - như Hiến pháp đã khẳng định. Giải quyết kịp thời, có
hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân. Trong quá
trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, cần đẩy
mạnh việc thực hiện Quy chế công tác dân vận của cơ quan nhà nước, Quy chế
dân vận của hệ thống chính trị, làm cho nhân dân thật sự tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước.

Sáu là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, bảo đảm để Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội gần dân, sát dân, thật sự là cầu nối liền giữa Đảng với
nhân dân, đồng thời, đoàn kết trong Đảng chính là hạt nhân để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, thật sự là động lực và nguồn lực quan trọng trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; tập hợp vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Xây dựng thế trận lòng
dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước
để xây dựng, bảo vệ và phát triển nhanh, bền vững đất nước Việt Nam phồn
vinh, thịnh vượng và hạnh phúc.

Câu 8 (Nhóm 3): Anh (chị) hãy làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh
về đại đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và
tiến bộ, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách
mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Câu 9 Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế,
anh (chị) hãy đề xuất giải pháp thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế ở nước
ta hiện nay.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết trong
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và đoàn kết trong các nước xã hội chủ
nghĩa anh em. Đoàn kết quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội cũng như thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi
thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.

Muốn làm được như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng sản và
công nhân quốc tế phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết
đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa
dân tộc tư sản, chủ nghĩa sô vanh, giáo điều,…

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế cao đẹp được thể hiện
đậm nét ở tình đoàn kết với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Ngay trong những
năm đầu kháng chiến ác liệt, Người cùng với Trung ương Đảng tiến hành nhiều
hoạt động ngoại giao để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp
và nhân dân Pháp. Người cũng viết nhiều bức thư, gửi những lời nhắn nhủ đến
nhân dân Mỹ để làm rõ tính chất xâm lược của đội quân viễn chinh Mỹ, nêu bật
tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm
lược. Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu phục trái tim nhân dân
thế giới, đi vào lòng người, tạo nên sức mạnh tinh thần ủng hộ Việt Nam.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, ủng hộ quốc tế vào
giải quyết các vấn đề quốc tế hiện nay

Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức
đan xen lẫn nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế có những thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt
Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề quốc
tế:

Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào
sức mình là chính làm nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, phát triển bền vững và không làm phương hại
đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc

Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bình và hữu
nghị. Chiến tranh, xung đột cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố và những
hành vi tàn ác chà đạp quyền sống của con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép
nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã kéo theo các hành vi xâm phạm
độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác, bất chấp dư luận và luật
pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và tiếp tục gây
phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu
vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây
dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là
bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng
quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Đối với
các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều
Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì
nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn
trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều
phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.

Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận


quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải
đương đầu với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo
sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để
phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo về Chính sách ngoại giao do Hồ
Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối ngoại thân thiện và thành
thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền độc lập của Việt
Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên toàn
cầu thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ.

Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
của nước ta được hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo
Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất
cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai. Nhờ chính sách ngoại
giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt Nam đã phá được thế bị bao vây,
cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của chính quyền cách
mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh
thủ được sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần
tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.

Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra
môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng,
các nước trong khu vực, các nước lớn để tập trung mọi nguồn lực phát
triển đất nước

Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh
các dân tộc cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau
hơn, tin cậy nhau, cùng nhau giải quyết các xung đột.

Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong
quan hệ quốc tế là lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu,
hòa bình thay cho chiến tranh, luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp
tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ
và thách thức đan xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ
sở lý luận vững chắc, lâu dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế
giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả của Người, để
Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng tự hào với sự lớn mạnh
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng
bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” và cũng thực hiện sự
mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.

Câu 10 Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, anh
(chị) hãy nêu phương pháp rèn luyện đạo đức của bản thân.

Phương pháp rèn luyện đạo đức của bản thân từ việc nghiên cứu Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là:

Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với
mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung,
giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi
đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự
tin cậy của nhân dân.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham
gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội.
Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các
cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận
thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó
chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, "trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân,
học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân", thực hiện có hiệu quả phương
châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng",
làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động
"Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước", với quyết tâm
"sánh vai với các cường quốc" như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn là, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, theo phương châm cán bộ có chức vụ
càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong,
gương mẫu "trên trước, dưới sau", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí,
khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, đảng viên
tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn Đảng ta
sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là điều
kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
trong Đảng và xã hội.

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên
cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù
hợp với từng đối tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng
hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn,
phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
Tóm là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ
Chính trị về "Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật
Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực
chất. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực
hiện nêu gương

You might also like