You are on page 1of 36

Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo

ảo luận

Câu 1: Phân tích nội dung, khái niệm, quá trình hình thành và phát
triển Tư tưởng Hồ Chí Minh? Liên hệ bản thân
1. Khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
2. Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh
Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tư tưởng về giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phòng con người. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
bao gồm một hệ thống các quan điểm cơ bản về chính trị, các quan điểm về kinh
tế, văn hóa, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và phương pháp cách mạng
Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nền tảng lý luận và định hướng cho Đảng ta
xây dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và dẫn dắt nhân dân
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình của cách mạng
nước ta.
Đảng ta chỉ rõ cùng với chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi
cho công cuộc đổi mới ở nước ta sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây
dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập –Tự Do –Hạnh phúc.
3. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực tự cường để dựng
nước và giữ nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử; Trải qua hàng nghìn
năm hun đúc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị tinh thần cao nhất của dân
tộc ta, nhưng có đặc điểm sâu sắc là nó mang trong mình một giá trị kép: Yêu
nước-Thương dân, Thương dân-Yêu nước. Vấn đề dân tộc vì thế gắn liền với
vấn đề con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người.
Là tinh thần cộng đồng, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái; tinh
thần lạc quan yêu đời, ý thức dân chủ, tất cả được nuôi dưỡng trong quá trình
dựng nước, giữ nước và trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Những giá trị này được biểu hiện trong kinh tế nhưng trong chế độ ruộng đất
công điền; về xã hội là vấn đề dân chủ và tự chủ trong tổ chức làng xã, xây dựng
hương ước; trong văn hóa là sự tôn vinh các giá trị anh hùng, thờ phụng những
người có công dựng nước, giữ nước, xây dựng làng xã, nghề nghiệp và trọng
người hiền tài. Con người cá nhân trong lịch sử Việt Nam quan hệ chặt chẽ với
cộng đồng, làng xã và dân tộc.
Là truyền thống Dũng cảm, cần cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo của
dân tộc Việt Nam trong lao động, trong chiến đấu, đồng thời luôn mở rộng đón
nhận những giá trị văn minh của nhân loại để bảo tồn dân tộc và phát triển đất
nước. Thu nhận cái hay để tồn tại, phát triển là tư duy mở, mềm dẻo của con
người Việt Nam. Một dân tộc sau hàng ngàn năm là nô lệ, bị cưỡng bức đồng
hóa về thể chất và tinh thần nhưng vẫn không chịu khuất phục, kiên nhẫn chịu
đựng và nuôi dưỡng ý thức độc lập dân tộc rồi lại đứng lên dành lấy độc lập dân
tộc, xây dựng một quốc gia là sự thật lịch sử dân tộc Việt Nam. Sức mạnh ấy là
những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Trong những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, Chủ nghĩa yêu nước-nhân
văn Việt Nam là cội nguồn, là giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, là điểm xuất
phát, là động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để Hồ Chí
Minh lựa chọn, tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao của nó là chủ
nghĩa Mác-Lê nin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Lúc đầu, chính chủ nghĩa
yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lê nin và Quốc tế
thứ Ba.
Thứ hai: Tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có nguồn gốc từ tư tưởng và văn hóa nhân
loại bao gồm văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Đặc biệt là văn hóa
phương Đông qua những giá trị tích cực của nho giáo, Phật giáo… Về văn hóa
phương Tây Người đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp khảo sát mọi mặt của
những nơi khởi nguồn của ba cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư
tưởng cách mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ đến
Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn
trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân tộc, quyền con người và tư
tưởng dân chủ mà nội dung của nó là Tự do- Bình đẳng-Bác ái. Đây là những
điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ
đến suy nghĩ, hành động và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba: Chủ nghĩa Mác-Lênin- chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất.
2
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Đây là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đây chính là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, nguồn gốc quan
trọng nhất để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự khác biệt của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lê nin, Hồ Chí Minh từ một
người yêu nước trở thành một người cộng sản, người đã trở thành người tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Với thế giới quan và phương pháp luận Mác-
xít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất nhận thức cách mạng của mình để
có thể tiếp thu và chuyển hóa những giá trị tích cực và tiến bộ của nhân loại,
giúp cho người hình thành được một hệ thống những quan điểm cơ bản về cách
mạng Việt Nam, từ bước hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin chính là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu để
hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính
là sự vận dụng sáng tạo, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác-lê nin trong
thời đại mới.
Thứ tư: trí tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Đó là trí tuệ thông minh, luôn tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê
phán tinh tường, sáng suốt. Đó là sự khổ công học tập, là nghị lực phi thường
nhằm chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh phong phú
của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân thế giới để có thể
đến với chủ nghĩa Mác-Lê nin và vận dụng phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ nhiệt
thành cách mạng mà suốt đời “Hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách
mạng, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân” và hết lòng thương yêu những
người cùng khổ, nhân loại bị áp bức. Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và
được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa
của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác- Lê nin thông qua hoạt động trí tuệ
và thực tiễn của con người.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh
cao là chủ nghĩa Mác-Lê nin thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiển của Người.
4. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Từ năm 1890-1911: Tiếp nhận chủ nghĩa yêu nước và hình thành ý chí
cứu nước
Đây là giai đoạn Nguyễn Sinh Cung tiếp nhận các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam từ gia đình, quê
3
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

hương. Tiếp nhận văn hóa phương Đông Việt Nam qua nền giáo dục Nho giáo
Việt Nam và bắt đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Nguyễn Tất Thành quyết
định đi theo con đường mới, tìm mẫu hình mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
và con người Việt Nam.
b. Từ năm 1911-1920: Đi tìm đường cứu nước
Đây là giai đoạn Nguyễn Tất Thành đi sang phương Tây, đến các châu lục
khảo sát, tìm hiểu một cách toàn diện đời sống của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại và nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên
thế giới, đặc biệt là cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Nguyễn Ái Quốc đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin sau khi Người tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, tìm ra con đường của cách mạng Việt Nam chỉ có thể là
con đường cách mạng vô sản. Người đã biểu quyết tán thành Quốc tế III, tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
c. Từ năm 1920-1930: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành
Đây là giai đoạn Người tham gia và trưởng thành qua thực tiễn trong
phong trào Cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thế giới, bắt đầu tiến hành
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin. Thông qua các tác phẩm như Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927), Chính cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt
(1930) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những luận điểm cơ bản về
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng Việt Nam.
d. Từ năm 1930-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện và phát
triển ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh gặp khó khăn thử thách (1930-1940)
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng vô sản qua
các văn kiện đầu tiên là Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của
Đảng, Chương trình vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt (1930) của Đảng là sự
sáng tạo của Hồ Chí Minh khi vận dụng nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam.
Do tình hình thực tiễn lúc bấy giờ và bị chi phối bởi các quan điểm tả
khuynh của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (10-1930) đã chỉ trích, phê bình xung quanh các vấn đề về mối quan
hệ dân tộc - giai cấp, vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất, tên Đảng và ra nghị
quyết thủ tiêu các văn kiện này, đồng thời quyết định đổi tên Đảng Cộng sản
Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên trì
quan điểm của mình. Chỉ sau khi Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (7-1935) phê
4
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

phán khuynh hướng tả khuynh, biệt phái trong phong trào cộng sản quốc tế và từ
thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng ta từng bước điều chỉnh và đề ra những chủ
trương theo quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện đúng đắn ở Việt Nam
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 8. Tại Hội nghị này, những quan điểm của Hồ Chí Minh về đường
lối cách mạng Việt Nam, chủ yếu là giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp,
đặt quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, đoàn kết toàn dân trong xây
dựng lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận đoàn kết dân tộc và phương pháp
cách mạng Hồ Chí Minh được khẳng định. Với những quan điểm đúng đắn đó,
Mặt trận Việt Minh được Đảng ta tổ chức đã phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc trên cả nước, đồng thời tạo ra cơ sở chính trị vững
chắc cho sự ra đời của lực lượng vũ trang Nhân dân. Đó là những nhân tố căn
bản đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển trong điều kiện mới
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nước ta bước vào kỷ nguyên
độc lập và chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh được phát triển đáp ứng tình
hình, nhiệm vụ cách mạng mới. Quan điểm của Người về xây dựng nhà nước
dân chủ mới ở nước ta; về những vấn đề chính trị, đối nội, đối ngoại; về xây
dựng nền kinh tế, văn hóa, con người mới .v.v. để bảo vệ thành quả của Cách
mạng Tháng Tám.
Quan điểm về vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, thực hiện toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951) là sự phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng Đảng ta qua Cương lĩnh, Điều lệ, tên mới của Đảng là
Đảng Lao động Việt Nam và về đường lối cách mạng Việt Nam từ cách mạng
dân tộc dân chủ Nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền, tư
tưởng Hồ Chí Minh được phát triển đáp ứng tình hình, nhiệm vụ mới. Hồ Chí
Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng, chỉ rõ sự tất
thắng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; tổng kết những bài học của cách
mạng Việt Nam; chỉ ra những phương hướng lớn để xây dựng đất nước sau
chiến tranh.
5. Liên hệ bản thân
Qua nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí
Minh, bản thân tôi rút ra một số điểm tâm đắc như sau:
5
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

a) Về quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Đối với tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc, sự kiện Bác Hồ quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước là một dấu son mở đầu trang sử mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ
chủ nghĩa yêu nước, Người đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn ra con
đường cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con
đường cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của lịch sử nước ta,
đưa cách mạng nước ta đến thành công…
Cuộc hành trình của Hồ Chí Minh là một bước ngoặt lớn của cách mạng,
làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, mà sau này là biểu tượng
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong cuộc tái
thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Cuộc hành
trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã tạo nên những bước ngoặc lớn
trongcách mạng Việt Nam, đã làm thay đổi hướng phát triển của lịch sử và thay
đổi số phận của cả dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20.
Thông qua quá trình đó của cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc,
chủng tộc ở các châu lục, đặc biệt là trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng ở
nhiều nước đã nâng cao trí tuệ, làm giàu văn hóa và mở rộng thế giới quan cho
Người - từ tầm mức dân tộc đến nhân loại.
Đó là cơ sở tạo ra sự khác biệt giúp cho Người thấu hiểu được sự tương
đồng và khác biệt giữa triết lý phương Đông và phương Tây; đã nhận thấy
nguồn gốc trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc địa và những người
lao động, không phân biệt chủng tộc, màu da, trên hành tinh này và đi tới khẳng
định: vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là nhu cầu của
dân tộc và con người Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần
lao trên thế giới.
b) Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ở giai đoạn thứ nhất
cho tôi thấy nhiều ý nghĩa:
Bằng trực tiếp khảo sát tại quê hương của các cuộc cách mạng tư sản điển
hình (Pháp, Anh và Mỹ), với trí tuệ thiên tài của mình, Nguyễn Tất Thành đã
phát hiện và tiếp nhận “những lời bất hủ” mang giá trị chung của nhân loại về
quyền dân tộc và quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Đồng thời, Người
cũng thấy rõ hạn chế giữa lí thuyết và thực tế mà nổi bật là tính chất “không đến
nơi” của các cuộc cách mạng này. Những kết luận trên đây không phải chỉ là kết
quả của sự trải nghiệm.

6
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Chỉ với tầm trí tuệ không ngừng được nâng cao, trên cơ sở được làm giàu
về các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và với một tầm nhìn thế giới trong
phân tích lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành mới có thể đúc
rút thành những kết luận khoa học đúng đắn có giá trị quan trọng như vậy. Do
đó, Người không chỉ dừng lại ở phân tích lý luận và thực tiễn để chọn lọc và
thâu thái các giá trị văn hóa - văn minh nhân loại, mà còn trên cơ sở các kết luận
đó, tìm lời giải đáp những vấn đề đang được đặt ra trong lịch sử tiến hóa của loài
người.
Với những biến cố lịch sử trong một thế kỉ qua, từ sự bế tắc trong đường
lối cứu nước hồi đầu thế kỉ XX, với sự hy sinh của biết bao bậc tiên liệt cho
nhiệm vụ mở lối, tìm đường cho dân tộc, đến thực tiễn của những thắng lợi đã
đạt được trong trong cuộc tranh đấu giành và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản cũng
như trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo con đường mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh lựa chọn, chúng ta càng thấu hiểu thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của
sự kiện đi ra thế giới (với với phương hướng và pháp mới) để thâu thái những
giá trị văn hóa-văn minh nhân loại mưu tìm con đường cho sinh tồn và phát triển
của dân tộc mà Người đã thực hiện.
c) Về nguồn gốc hình thành:
Đi từ Dân tộc đến Nhân loại, tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin là quá trình
từ nhận thức cảm tính đến khoa học. Với thế giới quan khoa học và cách mạng,
Bác đã phát hiện và nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong
tiến trình đi lên của loài người và đi tới khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.”
d) Một số bài học rút ra cho bản thân:
- Không nề hà khó khăn dám dấn thân, bất chấp hoàn cảnh khó khăn.
Không ngừng tìm tòi con đường mới, cách làm mới trong công tác, trong chuyên
môn, trong hoạt động đoàn thể. Tại cơ quan Sở Tư pháp, trong thời gian sinh
hoạt Chi đoàn tôi nhận thấy: Chi đoàn cần tăng cường giao lưu giữa các đoàn
viên với nhau, với các đoàn viên trong Đoàn Sở và các chi đoàn bạn để không
ngừng học hỏi, học tập mở mang kiến thức từ phong cách kỹ năng làm việc,
quan điểm về nghề nghiệp, đặc thù công việc, những cách làm hay, mô hình hay
của bạn để từ đó rút ra cho chính bản thân mình những bài học riêng qua đó tự
hoàn thiện bản thân trong cách làm việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc
cũng như đóng góp cho chi đoàn, cho cơ quan những sáng kiến, ý kiến cải tiến
công tác

7
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

- Luôn tích cực chủ động: Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, với các giá trị trên đây, sự kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước càng có ý nghĩa thực thực tiễn. Với đường lối đổi mới của
Đảng, trên thực tế, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng là tiếp tục quá trình
dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
để thâu nhận các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển
của loài người nhằm vận dụng và tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tạo ra các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các
nội dung của tiêu chí Độc lập-Tự Do-Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.

Câu 2: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội? Làm rõ trong giai đoạn hiện nay độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là con đường duy nhất, đúng đắn. Liên hệ bản
thân đồng chí
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu của độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội
Đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Thực dân
Pháp xâm lược nước ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Trong quá trình
tìm kiếm thuộc địa, thực dân pháp đã nhòm ngó Việt Nam từ thế kỷ XVII, cho
đến thế kỷ XIX, tiến hành xâm lược Việt Nam.
Phong trào yêu nước chống thực dân pháp, đòi độc lập dân tộc của nhân
dân ta cuối TK XIX đầu TK XX. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong
trào kháng chiến chống thực dân pháp của nhân dân ta đã nổ ra mạnh mẽ, trong
đó tiêu biểu là phong trào Cần Vương và các cuộc khởi nghĩa khác đều diễn ra.
Tuy nhiên chưa có một đường lối cách mạng đúng đắn cho nên đã dẫn đến thất
bại nặng nề.
Đòi hỏi mới về con đường cứu nước của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trước
tình hình của đất nước như vậy. Với lòng yêu nước nồng nàn Nguyễn Tất Thành
8
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ,
nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp, đặc biệt là nghiên cứu Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 và đã khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Từ nghiên cứu kinh nghiệm cách
mạng trên thế giới, nhất là Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc nhận
thấy, Việt Nam muốn giành độc lập, tự do phải đi theo con đường cách mạng vô
sản…
Chủ nghĩa Mác-Lê nin soi đường cho cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Đến với Chủ nghĩa Mác-Lê
nin là bước ngoặt trọng đại trong quá trình khảo sát, nghiên cứu lí luận cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc. Để đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt
Nam đặt ran gay từ thế kỷ XX, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các cuộc
cách mạng trên thế giới và đi đến lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê
nin, Nguyễn Ái Quốc xác lập con đường cách mạng Việt Nam phải đi theo quỹ
đạo của cách mạng vô sản. Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự. Hồ Chí Minh khẳng định
nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh cho độc lập-thống nhất-chủ quyền-toàn
vẹn lãnh thổ. Theo người, một dân tộc độc lập thực sự, tức là các quyền dân tộc
cơ bản phải được đảm bảo; dân tộc đó phải có quyền tự quyết trên tất cả các lĩnh
vực đối nội và đối ngoại
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng
định, mỗi dân tộc trên thế giới đều được hưởng quyền độc lập, tự do. Mỗi công
dân của một nước có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng
của dân tộc.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có độc
lập dân tộc thực sự mới có một nền hòa bình chân chính; và chỉ có hòa bình
chân chính, mới có độc lập dân tộc hoàn toàn.
Độc lập dân tộc phải đi tới tự do hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh
đặt vấn đề, nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lí gì…
9
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

3.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội


Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động.
a) Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
- Về chế độ chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ.
- Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và
nông nghiệp hiện đại…
- Về văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã
hội…
- Về quan hệ xã hội: Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người…
b) Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc:
- Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ chế độ người bóc lột người.
- Tạo ra cơ sở cơ bản này, chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con
người, phát triển lực lượng sản xuất…
c) Những điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam:
- Phải xác lập, củng cố, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Xây dựng khối lien minh công-nông-trí thức vững chắc làm nền tảng
xây dựng mối đoàn kết toàn dân tộc.
- Thường xuyên gắn bó cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
3.3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội:
- Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết.
- Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội…
- Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc:
+ Cách mạng tháng Mười Nga mở ra thời đại mới, cả nước đấu tranh dành
độc lập dân tộc thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội…
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để dân
tộc khỏi thân phận nô lệ, bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp…
4. Trong giai đoạn hiện nay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là con đường duy nhất, đúng đắn.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm
quốc tế, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm
thuê trở thành người làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi
10
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

lên chủ nghĩa xã hội. Mọi con đường khác đều không được nhân dân ta chấp
nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu,
lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự đúng đắn đó bằng
những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
dân tộc, giải phóng đất nước trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Vì vậy, cần khẳng định, độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH là sự lựa chọn của lịch sử, của toàn dân tộc Việt Nam, là sự phù hợp quy
luật của tiến trình lịch sử nước ta.
Giành được độc lập dân tộc mà không gắn với CNXH thì chẳng những
không giữ được độc lập dân mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. CNXH bảo đảm quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chọn con đường
và mô hình phát triển đất nước; bảo đảm quyền và phát huy năng lực làm chủ
của nhân dân, xóa bỏ triệt để tình trạng áp bức, bóc lột.
CNXH tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế
giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của tội ác, của tàn bạo và bất
công, bảo đảm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc.
Độc lập dân tộc mà không gắn với CNXH thì nhân dân ta sẽ không được
hưởng một nền dân chủ thực sự và một xã hội ổn định. Dân chủ tư sản phục vụ
cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành
trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ cho số ít, chuyên chính
cho số đông và là căn nguyên mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội tư bản không
được hưởng một nền dân chủ thực sự. Trái lại, dân chủ XHCN, với tư cách là
chế độ nhà nước được sáng tạo bởi nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, cho nên, luôn đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân
dân. Nhà nước XHCN là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công
nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của mình. Điều đó cho thấy, dân chủ
XHCN vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc.
Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và
đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.Sự
lựa chọn này dựa trên cơ sở: Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới
triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng

11
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động.
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người,
xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho
nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát
triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập
dân tộc.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, chúng ta cũng
còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm. Đảng ta đã sớm nhận thức
ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm trước nhân dân, đã sửa
chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân dân với Đảng.
Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ
nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của
nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 17 năm qua đã thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới là
đúng đắn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Chủ nghĩa
xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát
vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát
triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội".
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong sự nghiệp đổi mới của nước ta.
+ Bài học đầu tiên sau gần 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục khẳng định là “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội-ngọn
cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các
thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa
xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
chặt chẽ với nhau”

12
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn là ngọn cờ
dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi lên trong sự nghiệp đổi mới.
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải
nắm vững bối cảnh mới của thế giới có nhiều yếu tố tác động tới quá trình thực
hiện mục tiêu này.
+ Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng chiến tranh dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và
nạn khủng bố diễn ra ở nhiều nơi. Đấu tranh dân tộc, giai cấp diễn ra phức tạp
và gay gắt. Nguy cơ chiến tranh cục bộ vẫn còn… Trong bối cảnh như vậy, kiên
định đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hết sức quan trọng.
- Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với CNXH hiện nay.
+ Một là, muốn xây dựng đất nước, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, trước hết phải phát huy
mọi tiềm năng, sức mạnh của nguồn nội lực, đồng thời phải biết tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài, tận dụng thời cơ, điều kiện quốc tế thuận lợi, làm tăng sức
mạnh dân tộc.
+ Hai là, xác định rõ bước đi và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, trên nguyên tắc đặt lợi ích đất nước,
lợi ích dân tộc lên trên hết.
+ Ba là, độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội, phải được
thể hiện trong suốt quá trình đổi mới, trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng
bảo vệ Tổ quốc.
+ Bốn là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới.
Đây là con đường duy nhất đúng đắn cả trên bình diện lí luận và thực tiển, phù
hợp thời đại. Đồng thời tiếp tục làm rõ mục tiêu, đặc trưng và động lực của chủ
nghĩa xã hội trong đổi mới.
5. Liên hệ bản thân
a) Có thể khẳng định, hiện nay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội vẫn là con đường duy nhất, đúng đắn, tuy nhiên hiện nay không ít Đảng
viên, cán bộ, công chức và người dân còn chưa nắm vững quan điểm này và rơi
vào hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phủ nhận về con đường đi lên
xã hội chủ nghĩa và mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
- Về tư tưởng chính trị: Nhiều người chưa có thông tin, tỉnh táo để phân
biệt cái đúng cái sai, đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà các thông tin
không chính thống, thông tin trái chiều được đưa lên và truyền tải với tốc độ rất
nhanh trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua mạng internet, mạng
xã hội, dễ dẫn đến phát ngôn thiếu thận trọng, cảm tính, đặc biệt là thông qua
13
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

việc tham gia vào các diễn đàn trên các mạng xã hội; còn có cán bộ, đảng viên
hạn chế về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, bế tắc về
nhận thức, không lý giải được một cách thấu đáo những vấn đề thực tiễn đặt ra
nên hoài nghi, hoang mang, dao động, thiếu niềm tin và quan điểm, đường lối,
lý tưởng của Đảng.
- Về ứng xử, giao tiếp: Hiện tượng phát ngôn thiếu thận trọng, cảm tính;
có quan điểm phiến diện, chỉ đánh giá, phê phán thực tế còn khó khăn và những
hạn chế, khuyết điểm trong tổ chức thực hiện mà không đánh giá, không thừa
nhận thành tựu, tiến bộ; phê phán, chỉ trích những khó khăn của đất nước, của
thành phố với thái độ bàng quan, thờ ơ, không nhận thấy trách nhiệm của bản
thân đối với tổ chức, cơ quan, đơn vị.
- Vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên chưa làm tròn trách nhiệm,
nhiệm vụ được giao; chưa gương mẫu, tiên phong trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ, thực hiện nội quy, quy chế, dễ trở thành tấm gương không tốt cho
quần chúng.
- Về lối sống đạo đức: Một trong những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” là trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức lối sống: biểu hiện ở việc
sùng bái, chạy theo văn hóa, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức
truyền thống dân tộc, các giá trị XHCN; xuyên tạc lịch sử, thương mại hóa các
hoạt động văn hóa một cách thái quá; đề cao chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức
giả, vị kỷ, xa hoa, trụy lạc…
Biểu hiện rõ nhất của suy thoái đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên chính là sa vào chủ nghĩa cá nhân, lạm dụng chức quyền, vụ lợi, sống
xa hoa, hưởng lạc, tham nhũng, lãnh phí tài sản công, cơ hội, thực dụng, hám
danh, hối lộ, quan liêu, cửa quyền, xa dân; nói không đi đôi với làm; thiếu trách
nhiệm trong việc; ngại khó, ngại phấn đấu, rèn luyện; đề cao cái tôi, không
muốn người khác phê bình khuyết điểm; tư lợi tư quyền….
b) Giải pháp:
- Đối với từng cán bộ, đảng viên:
+ Tăng cường bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn bằng việc
tăng cường học tập, nghiên cứu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, học tập, nghiên
cứu đường lối đổi mới của Đảng, cập nhật, nghiên cứu những quy định mới liên
quan đến lĩnh vực chuyên môn, công việc được giao;
+ Tích cực rèn luyện phong cách, tác phong công tác, làm việc khoa học,
làm việc có chương trình, kế hoạch, sâu sát, hiệu quả, không quan liêu, hình
thức, nâng cao tinh thần trách nhiệm. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự gương
14
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

mẫu, nói đi đôi với làm, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc chung, tinh
thần vì tập thể, có như vậy mới thuyết phục được quần chúng, thể hiện được tính
tiên phong, là tấm gương để quần chúng noi theo;
+ Thường xuyên tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng để nâng cao
bản lĩnh chính trị trên cơ sở tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên, bền bỉ suốt đời
thông qua việc nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình;
+ Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ: muốn có bản lĩnh
chính trị thì trước hết phải có trình độ, năng lực chuyên môn để đáp ứng được
yêu cầu công việc;
+ Thận trọng trong phát ngôn, phải kiểm chứng nguồn của thông tin, tìm
hiểu những thông tin từ các nguồn chính thức để bảo đảm độ chính xác của
thông tin mà mình phát tán;
- Đối với Chi bộ:
+ Phải chuẩn bị và xây dựng tốt các nội dung sinh hoạt chuyên đề, gắn
với đặc thù công việc và nêu được các giải pháp cụ thể, biến thành nghị quyết
của Chi bộ; đồng thời thực hiện tốt việc theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện các
nghị quyết của Chi bộ;
+ Tăng cường nắm bắt, đánh giá, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng trong phạm vi quản lý của Chi bộ thông qua việc đánh giá kết
quả thực hiện công tác chuyên môn, chấp hành nội quy, quy chế, từ đó phát hiện
kịp thời những biểu hiện lệch lạc để có biện pháp uốn nắn phù hợp;
+ Trong sinh hoạt Chi bộ phải tăng cường tự phê bình và phê bình,
khuyến khích đảng viên phát biểu, đưa tiêu chí tham gia phát biểu xây dựng cơ
quan, đơn vị, xây dựng chi bộ, đảng bộ là một trong những tiêu chí đánh giá
đảng viên cuối năm;
+ Đảng viên được phân công giúp đỡ, bồi dưỡng công chức, quần chúng,
đảng viên mới phải thường xuyên nắm bắt, định hướng tư tưởng cho người được
phân công giúp đỡ, bồi dưỡng, kiên quyết chưa đưa vào tổ chức Đảng những
người có động cơ, mục đích không trong sáng, chưa đúng đắn. Gắn kết quả phân
tích chất lượng đảng viên với kết quả rèn luyện của quần chúng mà đảng viên
được phân công giúp đỡ.

Câu 3:Trình bày những nội dung cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh? Vận dụng tư tưởng này trong tình hình hiện nay. Liên hệ
bản thân đồng chí
1. Khái niệm
15
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân
dân ta. Đoàn kết là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam. Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì: đoàn kết tạo nên sức
mạnh, là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có
lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc vào một mối
thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi cómối quan hệ chặt chẽ, qui mô, mức độ
của thành công. Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách
mạng. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Và Người
khuyên dân ta rằng:“ Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh.
Tinh thần này thể hiện qua các nội dung sau:
2.1. Đại đoàn kết dân tộc
a. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
Bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các
lứa tuổi, các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, đồng báo các tôn giáo, các
đảng phái,… hợp thành khối đại đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc trong khối đại
đoàn kết rộng lớn, đông đảo và đa dạng đó, liên minh công – nông – trí thức là
nền tảng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng
cháu tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệtgià trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết dân
tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọingười dân vào một khối trong cuộc đấu tranh
chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và
độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa-đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng
16
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

với con người. Xác định khốiđại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin
vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyềnlợi của dân. Người cho rằng: liên minh
công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kếttoàn dân, nền tảng
được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
b. Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc
Theo Hồ Chí Minh là đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt
trận là một liên minh chính trị nhằm đoàn kết rộng rãi các tổ chức yêu nước vào
một khối thống nhất, đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt
trậndân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất Hồ Chí Minh yêu cầu:
- Mặt trận phải lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng. Liên
minh có vững, mặt trận mới bền vững, lâu dài được. Đây là yếu tố cần. Yếu tố
đủ là mặt trần phải đoàn kết với các tầng lớp yêu nước khác để mở rộng tổ chức,
mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết.
- Mặt trận do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt
trận bằng việc đề ra chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ,
từng giai đoạn của cuộc cách mạng; bằng phương pháp tuyên truyền, vận động,
giáo dục, thuyết phục.
c. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
Nguyên tắc thứ Nhất: Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống
nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng
trong xã hội. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích
tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con
người. Trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp,
giai cấpkhác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất
cả các lợi ích khácnhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc.
Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp cóthực hiện được hay không còn phụ
thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kếthay không và việc nhận
thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại
đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy nhữngyếu tố
tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và
Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào
sâu tách biệt, thựchiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau
về lợi ích.
17
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹnlãnh thổ, là
bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức
mạnhdân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng
là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những
phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc
của mình.
Nguyên tắc thứ Hai: Tin vào dân, dực vào dân, phấn đấu vì quyền lợi
của nhân dân: Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông
cha ta được Ngườikế thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ
nghĩa duy vật lịch sử: cáchmạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng
vững chắcvào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá
đúng vai trò của lựclượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc
to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không
xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
Nguyên tắc thứ Ba: Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh
đạo; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ. Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức
mạnh của cách mạng. Muốn đoànkết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để
trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoàithì liên minh với các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi.
Như vậy, để đoàn kếtvà lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải
có một Đảng cách mạng với tính cáchlà Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp
quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệvới bè bạn ở ngoài nước.
Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai
trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, phải được vũ trang
bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác –
Lênin:”
Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa
vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để
đoàn kết các tầng lớp kháctrong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng cố
được lực lượng cách mạng và đưacách mạng đến thắng lợi cuối cùng”. Đại đoàn
kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định
hướng, tổ chức và có lãnh đạo.

18
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượngcủa các
nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và
trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng
vào cuộc đấutranh tự giải phóng mình theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác –
Lênin là mục tiêu nhất quáncủa Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc lập trường
vô sản, mà sức mạnh chủ yếu của nó làliên minh công nông.
Nguyên tắc thứ Tư: Đại đoàn kết phải chân thành thẳng thắn, nhân ái,
đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê bình.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồngcòn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường
đối thoại, bàn bạc để điđến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có
những tiêu cực cần phải khắc phục.
Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm
“cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh,
đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình
trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu cao tinhthần phê bình và tự phê bình để biểu
dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củngcố đoàn kết: “
Đoàn kết that sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải
nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những
cái tốt củanhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân
tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống
coi nhẹ việc tranh thủtất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời
chống khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại
đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải
tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thìtrước hết phải tự cải tạo bản
thân chúng ta”
d. Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
- Phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục
- Phương pháp tổ chức
- Phương phápxử lý giải quyết các mội quan hệ
2.2. Đại đoàn kết quốc tế
Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu
nước chânchính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
19
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

nhân. Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác định
con đườngcách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có
thể giành đượcthắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào
cách mạng thế giới.
Về sau, trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người về vấn đề đoàn
kết với cách mạng thế giớicàng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn: Đó là vấn
đề cách mạng trong nước phải gắnvới phong trào và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới.
Cụ thể hơn là với nhân dân Pháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa khác, với phongtrào đấu tranh vì hoà bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Tưtưởng Hồ Chí Minh đã định
hướng cho việc hình thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt
trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết vớiViệt
Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây
là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh về đại
đoàn kết.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực hiện
đoàn kết quốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là yếu tố hết sức
quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thắng lợi hoàn toàn và
đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
a. Lực lượng và hình thức
Hồ Chí Minh xác định lực lượng đoàn kết quốc tế bao gồm:phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào giải phong trào giải phóng dân tộc;
phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới
Để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, Hồ Chí Minh đã xây dựng
các hình thức mặt trận đoàn kết quốc tế phù hợp và đạt hiệu quả cao.
Đối với các nước láng giềng có cùng chung kẻ thù, chung nguyện vọng
độc lập dân tộc, tự do cho mỗi dân tộc, Hồ Chí Minh xây dựng liên minh chiến
đấu ba nước Đông Dương, lập Mặt tận Thống nhất các dân tộc Việt Nam – Miên
– Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Hồ Chí Minh xây dựng Liên
minh hữu nghị hợp tác và tương trợ với các nước.
Đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình, xây dựng mặt trần đoàn kết với
phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
b. Nguyên tắc và phương pháp
20
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Phương pháp: xây dựng tình đoàn kết hữu nghị hợp tác, cùng phát triển
với các dân tộc và giai cấp vô sản các nước trên nền tảng chủ ngĩa Mac Lê-nin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đề cao độc lập tự cường, đồng thời tranh thủ đến mức cao nhất sự đồng
tình và ủng hộ của nhân dân thế giới
3. Vận dụng tư tưởng này trong tình hình hiện nay
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua thể hiện sức sống kỳ diệu
và sức mạnh vĩ đại của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết. Từ chỗ là tư
tưởng của lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược Đại đoàn kết của toàn Đảng và
trở thành tình cảm, sức mạnh của cả dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc sâu xa
của thắng lợi trong cách mạng Tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống Pháp
(1945 - 1954), chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, trước đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, với việc phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thì việc thực hiện tư tưởng đại
đoàn kết của Người càng có ý nghĩa quan trọng, đó là một trong những nhân tố
bảo đảm cho quá trình đổi mới, phát triển. Quan điểm này đã được Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7, khóa IX cụ thể như sau:
Thứ nhất, Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Thứ hai, Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ,
thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai.
Thứ ba, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài
hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội, thực hiện dân chủ với
giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu tham nhũng, lãng phí, không ngừng bồi
dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc,
21
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

tinh thần tự lực, tự cường, xây dựng đất nước, xem đó là những yếu tố quan
trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc
Thứ tư, Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7, khóa IX cũng đề ra 05
giải pháp chủ yếu để thực hiện đại đoàn kết như sau :
Một là, xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền nhà nước trong việc
thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập họp nhân dân, nâng cao
vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực
hiện đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm
công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước.
Năm là, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối Đại
đoàn kết dân tộc.
4. Liên hệ bản thân
Nhận thức của bản thân về tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc thông qua cuộc
đời hoạt động của mình và nhất là trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Bác
Hồ thực sự là một biểu tượng sáng về tấm gương đạo đức trong cuộc đời và
trong sự nghiệp cách mạng, đó là sự nêu gương to lớn đối với quần chúng nhân
dân về phong cách một nhà lãnh tụ hết mình do lý tưởng của dân tộc, là biểu
tượng sáng của tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp, phong cách lãnh
đạo sâu sát với quần chúng nhân dân.
Bác Hồ còn được biết đến với phong cách lãnh đạo giản dị. Khi đảm
đương nhiệm vụ của một người đúng đầu nhà nước, Bác Hồ là một lãnh đạo sâu
sát thực tiễn, ở cương vị nào, Bác cũng gương mẫu xuống tận địa phương, các
ngành, các cấp để kiểm tra, đôn đốc, nắm thực chất tình hình, lắng nghe nguyện
vọng, đề xuất và đưa ra những chỉ đạo sát thực tế.
Bác truyền đạt chủ trương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một
cách giản dị, rành mạch và sát thực tiễn, giúp cho quần chúng thẩm thấu, lĩnh
22
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

hội và hành động dễ dàng, nêu những băn khoăn, thắc mắc của nhân dân để cán
bộ lãnh đạo suy nghĩ tìm ra cách giải quyết hoặc khơi dậy nghĩa vụ, trách nhiệm
của mỗi người dân, đưa ra những giải thích, chứng minh và hướng dẫn họ làm
theo. Bác Hồ là một tấm gương và biểu tượng về tinh thần đoàn kết cho chúng ta
noi theo.

Câu 4:Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy
nhà nước, về đội ngũ cán bộ - công chức? Ý nghĩa đối với cải cách nền hành
chính hiện nay?
I. Khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đội ngũ cán bộ công chức
1. Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, vấn đề được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
điều kiện Đảng cầm quyền. Theo Người, xây dựng cán bộ, đảng viên là nhiệm
vụ vô cùng hệ trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lãnh đạo của Đảng, năng
lực quản lý của Nhà nước, uy tín của Đảng, Nhà nước trước nhân dân, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự mất còn của chế độ.
2. Vai trò của cán bộ, đảng viên
Người luôn đánh giá cao vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên là gốc của mọi
công việc: "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Người ví cán bộ như "cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt". Quá trình lãnh
đạo cách mạng, Người thường hay hỏi cán bộ, đảng viên sức mạnh của Đảng do
đâu mà có? Rồi Người giải thích: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do
các đảng viên đều tốt".
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là
người trực tiếp tuyên truyền, giáo dục vận động và lãnh đạo quần chúng thực
hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, pháp luật của Nhà nước,
23
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

do đó phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ ảnh hưởng quyết
định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Chính vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu khách quan
trong sự nghiệp cách mạng, là "công việc gốc" của Đảng. Đảng cầm quyền, cán
bộ, đảng viên được quốc dân trao cho trọng trách lớn, nắm trong tay tài sản của
Nhà nước, tiền bạc, sinh mệnh, quyền lợi của nhân dân. Nếu không được giáo
dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên rất dễ nảy sinh biểu hiện hư hỏng, biến chất.
3. Các căn bệnh cần phải chống
Là người có tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lường trước
những căn bệnh khi Đảng cầm quyền: Kiêu ngạo cộng sản, công thần địa vị,
tham ô, lãng phí, hủ hóa, quan liêu xa rời quần chúng, trở thành những "ông
quan cách mạng" quay lại sách nhiễu, ức hiếp nhân dân và nhiều thói hư tật xấu
khác. Thấu hiểu mối nguy hại nảy sinh "bên trong Đảng", Người sớm cảnh báo,
cần lãnh đạo, chỉ đạo tích cực xây dựng, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng
trong sáng, mẫu mực, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, am hiểu các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang gay go,
quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian viết Thư gửi các đồng chí
Bắc bộ (1-3-1947), viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10-1947), trong đó,
Người đã chỉ rõ những khuyết điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên như: Địa
phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt, quan liêu, óc hẹp hòi, bệnh ham
chuộng hình thức, làm việc theo lối bàn giấy, thói vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa...
4. Các yêu cầu của người cán bộ
- Xuyên suốt toàn bộ tư tưởng, Người chủ trương xây dựng tư chất cán
bộ, đảng viên: Trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng, với nhân dân,
luôn đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, sẵn sàng hy
sinh thân mình vì sự nghiệp cách mạng. Nêu cao tính tiền phong gương mẫu,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Nói đi đôi với làm, không nói một đằng
làm một nẻo, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Luôn khiêm tốn học hỏi nhân
dân, gần gũi nhân dân, biết dựa vào dân, chăm lo đến lợi ích của dân, tận tụy
phục vụ nhân dân, phát huy quyền làm chủ của dân.
- Trong công tác và trong cuộc sống hàng ngày luôn thực hiện đúng quan
điểm, đường lối quần chúng của Đảng, thắt chặt mối liên hệ mật thiết với nhân
dân, được quần chúng tín nhiệm. Không công thần địa vị, quan liêu mệnh lệnh,

24
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

xa rời quần chúng, cơ hội vụ lợi, tham ô, tham nhũng, hủ hóa, chủ quan tự mãn
và mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Cán bộ, đảng viên cần am hiểu lý luận Mác-Lênin, chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, ra sức học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức về các lĩnh vực của đời sống xã hội để tuyên
truyền, vận động, giáo dục, giác ngộ cách mạng cho nhân dân, lãnh đạo, tổ chức
cho nhân dân thực hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Không tự kiêu, tự đại - tự cho mình là tài giỏi mà sinh ra lười biếng, thiếu
tu dưỡng, rèn luyện bản thân, không chịu học hỏi quần chúng mà sinh ra thoái
bộ: "Nếu có tính tự kiêu, thì dù tài giỏi vô cùng như ông Chu Công, thì tài giỏi
ấy cũng vất đi".
Bên cạnh đề ra yêu cầu xây dựng cán bộ, đảng viên, Người còn chỉ ra các
nội dung, biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, khẳng định rõ trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và của chính bản thân
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi tổ chức Đảng phải hết
sức chăm lo giáo dục, quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là thực hiện tốt
tự phê bình và phê bình. Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun
trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho công việc chung.
Nói về vai trò của tổ chức Đảng trong giáo dục cán bộ, đảng viên, Người
từng viết: "Đảng viên tốt thì chi bộ mới tốt. Muốn đảng viên tốt thì chi bộ phải
thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí.Nhiệm vụ của đảng viên là gì?Tư cách của
đảng viên là thế nào? Đồng thời giúp đỡ đảng viên hằng ngày tự kiểm điểm
mình". Đặc biệt, Người luôn căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác, tự
nguyện suốt đời học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản thân cả về đức và tài, để không
ngừng tiến bộ, trưởng thành; phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi
hình thức.
Trong xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phải luôn duy trì thường
xuyên, thực hiện thành nề nếp cơ chế dân chủ, dựa vào dân, phát huy vai trò của
quần chúng nhân dân. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp cán bộ có khuyết
điểm nhưng giấu giếm tổ chức, cấp dưới giấu cấp trên, cấp trên bao che cho cấp
dưới, nhưng không có cán bộ nào có khuyết điểm mà có thể giấu được nhân dân.
Thông qua dân chủ rộng rãi để ngăn chặn, chống lại mọi biểu hiện xấu độc, trái
với đạo lý truyền thống, đi ngược lại lợi ích tối cao của dân tộc, nhân dân.
III. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Nhà nước
25
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa
chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó
phải đại biểu quyền lợi "cho số đông người" và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây
dựng một Nhà nước công nông binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắtcủa
Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930. Trải qua thực tế các cao trào cách mạng
ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà
nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
1. Nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Quan điểm về nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta thấy trong di
sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
a) Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực
trongnhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể
hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả
quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân
có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại
biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ
dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời
cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi
miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại
biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ
có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền,
nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được
hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách
nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ
của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt
ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo,
những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không
26
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân, "quên rằng
dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà nước
tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại.
b) Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm
cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng
cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí
Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm
"ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm
mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc
lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách
đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố
gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của
nước. Hồ Chí Minh cho rằng: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc,
phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch
nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân
dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như
dưới thời đế quốc thực dân.
2. Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai
cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp
năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền
tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.

27
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp
với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta
phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới.
* Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể
chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
* Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng
viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
* Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủnghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện ngay từ
khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ngày 2 tháng 9 năm 1945
trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc
tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí
Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát
huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả
mọi quyền lực vào tay nhân dân.
3. Bản chất nhân dân, dân tộc: Bản chất giai cấp công nhân thống nhất
với tính nhân dân, tính dân tộc.
Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với
tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ
bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà
nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý
chí của nhân dân và của toàn dân tộc.
- Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh
đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của
Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả
28
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời
với việc làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn
luôn thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà
vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách
mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo
đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường
những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt. Trong quá
trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh
thường đề cập đến những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và
khắc phục.
IV. Ý nghĩa đối với cải cách nền hành chính hiện nay?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng cán bộ, đảng viên bao chứa nội dung
toàn diện, rộng lớn và sâu sắc, đã được Đảng ta quán triệt, vận dụng vào công
tác xây dựng Đảng từ ngày thành lập tới nay, đã góp phần trực tiếp làm cho
Đảng ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng đạt được những thành tích vẻ vang.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế cho thấy những "căn bệnh" của cán bộ, đảng
viên từ khi Đảng cầm quyền mà Hồ Chí Minh chỉ ra đến nay vẫn còn tồn tại,
thậm chí có "căn bệnh" lại có chiều hướng gia tăng. Tệ quan liêu, tham nhũng,
suy thoái về đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là số
có chức, có quyền đang là một nỗi nhức nhối, một thách thức rất gay gắt, một
nguy cơ nội sinh rất nguy hiểm đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đang
làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Những vấn đề đó đang đặt ra trực tiếp đối với công tác xây dựng Đảng
hiện nay và trong những năm tới, đòi hỏi phải chấn chỉnh, khắc phục kịp thời,
xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
căn dặn.
Trải qua thực tiễn hàng chục năm, tư tưởng xây dựng cán bộ, đảng viên
của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn, vẫn có ý nghĩa
thời sự đối với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để xây dựng "Đảng ta
thật là đạo đức, là văn minh", là "trí tuệ, danh dự, lương tâm" của dân tộc Việt
Nam.
Đồng thời, đặt ra và đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng hơn bao giờ
hết phải nhận rõ trọng trách của mình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu, tích
cực nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
29
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

ra sức tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu không ngừng, xứng đáng là "người lãnh
đạo, người đầy tớ trung thành" của nhân dân
VI. Liên hệ bản thân:
Từ việc học tập tư tưởng của Bác Hồ cho ta bài học trong phong cách làm
việc dân chủ, thấu hiểu nhât là đối với các công chức trẻ làm nhiệm vụ tiếp dân
cần hết sức mềm dẻo, linh hoạt, phát huy tinh thần phục vụ nhân dân, phụng sự
nhân nhân, hết sức lịch sự, nhã nhặn, lễ phép trong giao tiếp và luôn làm việc
trên tinh thần trách nhiệm, lắng nghe nhân dân và căn cứ đúng theo quy định của
pháp luật để giải quyết cho dân đồng thời kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của lãnh
đạo phòng trong những trường hợp vượt quá khả năng của mình.
Trong mối quan hệ với đồng nghiệp, những người đi trước Các đoàn viên
phụ trách trực tiếp công tác tiếp dân cần tích cực học hỏi kinh nghiệm công tác
của các đồng nghiệp đi trước để làm công tác tiếp dân ngày càng tốt hơn. Đối
với công tác nói chung cần có sự cụ thể nghiên cứu các quy định pháp luật liên
quan và gắn với thực tiễn công tác để có sự tham mưu có chiều sâu cho cấp trên
trong giải quyết công việc tại bộ phận mình

Câu 5: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và đạo
đức cách mạng của người cán bộ? Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện
nay ở Việt Nam?
1. Khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Cán bộ và công tác cán bộ gắn liền với nhau, không thể tách rời. Trên cơ
sở những quan niẹm đugn1 đắn về cán bộ thì mới có thể làm tốt công tác cán bộ.
Thực hiện tốt công tác cán bộ là một biện pháp tích cực xây dựng đội ngũ cán
bộ ngày càng phát triển.

30
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Công tác cán bộ thể hiện sự hiểu biết và đánh giá đúng cán bộ; lực chọn
cán bộ; huấn luyện cán bộ; biết dùng cán bộ; kết hợp các loại cán bộ, chính sách
cán bộ; trọng dụng người có đức có tài.
2.2. Quan niệm Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của công tác cán bộ
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ thì cán bộ là chủ thể, tức là đội
ngũ cán bộ phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày cả phẩm chất đạo đức,
năng lực trí tuệ và phong cách để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng. Khi bàn về quan điểm Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thì cán bộ lúc này
là khách thể, tức là những người chịu đựng cái kết quả của những người. Công
tác cách mạng có phát triển hay không phụ thuộc rất lớn vào công tác cán bộ,
mà trực tiếp là cấp ủy và những người đứng đầu trong các tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể và tổ chức cán bộ.
2.3. Nội dung của công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Đây là quan điểm xuất phát và khó trong công tác cán bộ. Vì không hiểu
và đánh giá đúng cán bộ thì không thể làm tốt công tác cán bộ.
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải khách quan, khoa học. Hồ chí Minh
cho rằng: một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm
mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không
phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn
giống nhau.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, xem xét cán bộ, không chỉ xem xét ngoài mặt
mà còn phải xem xét tình chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải
xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ.
Trong việc xem xét cán bộ, người ta thường phạm những chứng bệnh sau:
tự cao tự đại, ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu ghét của mình mà đối với
người; đem một cái khuôn khổ nhất định; chật hẹo mà lắp đạt vào tất cả mọi
người khác nhau.
Hiểu biết cán bộ một cách toàn diện giúp ta phân biệt được cán bộ làm
được việc và cán bộ tốt.
Việc xem xét, đánh giá cán bộ phải làm thường xuyên.
b. Khéo dùng cán bộ
Đây là yêu cầu đặt đúng người đúng việc
Theo Hồ Chí Minh “mình có quyền dùng người thì phải dùng những
người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn, mà kéo vào chức nọ
chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình”.
31
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dùng cán bộ đúng là:


- Phải có độ lượng vĩ đại, không có thành kiến với cán bộ
- Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người không ưa
- Phải có tính chịu khó dạy bảo để nâng đỡ những cán bộ kém
- Phải sáng suốt để khổi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật để cán bộ gần gũi mình.
Mục đích khéo dùng cán bộ là để cán bộ làm được việc. Để thực hành tốt
chính sách của Đảng và Chính phủ.
Khéo dùng cán bộ còn liên quan đến việc “phải có gan cân nhắc cán bộ”.
Cân nhắc cán bộ phải vì công tác tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm
hăng hái.
c. Huấn luyện cán bộ
“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Vì cách mạng là một
nghề. Làm nghề gì cũng phải học, làm nghề gì cũng phải thông thạo nghề đó.
Hồ Chí Minh phê bình khuyết điểm trong công tác huấn luyện cán bộ còn
“hữu danh vộ thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực chu đáo”. Huấn luyện
cho cán bộ trong các cơ quan hành chính mà không đụng đến công việc hành
chính. Lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ.
Các phẩm chất cách mạng của người cán bộ theo TT HCM là:
- Trung với nước, hiếu với dân.
- Yêu thương quý trọng con người, sống có tình có nghĩa.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Chủ nghĩa quốc tế trong sang, thủy chung.
3.1. Trung với nước, hiếu với dân.
“Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước với dân tộc,
thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và sự phát triển của đất
nước, là phẩm chất đạo đức chủ chốt nhất. Nội dung trung với nước, hiếu với
dân là phải quyết tâm suốt đời, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân; đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Phải trọng dân, tin dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, lắng nghe dân, thương
dân, hòa mình với quần chúng nhân dân thành một khối; nắm vững dân tình, dân
tâm, dân ý; quan tâm dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ.
“Trung với nước, hiếu với dân” không phải là một khẩu hiệu, không phải
quyết tâm ở hội trường mà phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo theo tinh

32
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

thần “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”
3.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là tứ đức của con người, là 4 đức
tính của con người, thiếu 1 đức tính thì không phải là con người. Bác ví 4 đức
tính của con người như là 4 mùa của trời, 4 phương của đất.
- Cần, kiệm: luôn đi liền với nhau, “Cần mà không kiệm như gió thổi vào
nhà trống. Kiệm mà không cần thì không bao giờ giàu”. Bác nói “Cần mà không
kiệm như thùng không đáy. Kiệm mà không cần như thùng nước đầy chỉ lấy ra
dung mà không bao giờ bổ sung vào”.
+ Cần: là lao động cần cù chịu khó, siêng năng, lao động có kế hoạch, có
sáng tạo để đạt năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
+ Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm của cải,
tiết kiệm tiền của dân, của nước và bản thân, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
không xa xỉ, hoang phí, không phô trương, hình thức nhưng không bủn xỉn.
+ Liêm: luôn tôn trọng và giữ gìn của công, của dân, không xâm phạm lợi
ích của nước, của dân, không màng công danh, Phải "trong sạch, không tham
lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ
hoá". "Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ".
+ Chính: không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao, tự
đại, khiêm tốn, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi
điều dở của bản thân. Đối với người: không nịnh hót người trên, không coi
thường người dưới, chân thành thật thà, khiêm tốn, không dối trá lừa lọc.
Đối với việc: để công lên trên việc nhà, quyết tâm hoàn thành việc dù khó
khăn, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
+ Chí công vô tư: là công bằng, công tâm, không thiên vị. Con người phải
giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân – tập thể, cá nhân-quốc gia, dân tộc, đất
nước, có nghĩa là phải biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích quốc gia dân tộc,
lợi ích cá nhân phục tùng lợi ích quốc gia tùy tình hình cụ thể.
Cần, kiệm, liên, chính là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân
tộc, là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái cần để làm việc,
làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại.
33
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Chí công vô tư, về thực chất là nối tiếp cần kiệm liêm chính. Người giải
thích: Trước mắt là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công
vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính và có được nhiều tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh, mình đã
chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng thêm.
3.3. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Thương yêu, quý trọng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là
tình thương yêu con người dành cho con người đang sống thực tế trên đời này,
bị áp bức, đói nghèo, bệnh tật.
Tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh là một biểu hiện sáng ngời
của việc thấm nhuần chủ nghĩa Mac Lê-nin. Đó là một tình thương yêu không
chỉ trong phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại.
3.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế là một phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ bản chất của
giai cấp công nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Người không chỉ giáo dục tinh
thần quốc tế trong sáng, thủy chung mà còn là hiện thân của tinh thần quốc tế,
kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế cộng sản.
Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng,
phân biệt chủng tộc, đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế
giới; gắm mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt nam với mục tiêu chung của
nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
4. Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, đỏi hỏi Đảng và nhân dân ta quán
triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức,
vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn với kinh tế. Trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là
nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân, cho mỗi con người.

34
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn
hoá, đạo đức, con người. Tinh thần nay đã được thể hiện trong câu nói bất hủ
của Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hôi chủ nghĩa”.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ
động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể,
cá nhân xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo
đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới đất nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng
những phẩm chất đạo đức: Trung với nước hiếu với dân, thương người, cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản
của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh
“cá nhân”, đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chế độ.
Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba
loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là
kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến,
là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ
tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội lỗi “Việt gian,
mật thám”. Người cho rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng,
bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội
bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”.
Cuộc sống đang đòi hỏi phải trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống
đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phả khắc phục các
nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã
để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc
xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị
quyết của Đảng.
5. Liên hệ bản thân.
Thông qua cuộc đời hoạt động của mình và nhất là trên cương vị người
đứng đầu Nhà nước, Bác Hồ thực sự là một biểu tượng sáng về tấm gương đạo
đức trong cuộc đời và trong sự nghiệp cách mạng, đó là sự nêu gương to lớn đối
35
Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính VHVL (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận

với quần chúng nhân dân về phong cách một nhà lãnh tụ hết mình do lý tưởng
của dân tộc, là biểu tượng sáng của tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp,
phong cách lãnh đạo sâu sát với quần chúng nhân dân. Bác Hồ còn được biết
đến với phong cách lãnh đạo giản dị.
Khi đảm đương nhiệm vụ của một người đúng đầu nhà nước, Bác Hồ là
một lãnh đạo sâu sát thực tiễn, ở cương vị nào, Bác cũng gương mẫu xuống tận
địa phương, các ngành, các cấp để kiểm tra, đôn đốc, nắm thực chất tình hình,
lắng nghe nguyện vọng, đề xuất và đưa ra những chỉ đạo sát thực tế. Bác truyền
đạt chủ trương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách giản dị, rành
mạch và sát thực tiễn, giúp cho quần chúng thẩm thấu, lĩnh hội và hành động dễ
dàng, nêu những băn khoăn, thắc mắc của nhân dân để cán bộ lãnh đạo suy nghĩ
tìm ra cách giải quyết hoặc khơi dậy nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân,
đưa ra những giải thích, chứng minh và hướng dẫn họ làm theo.

36

You might also like