You are on page 1of 19

Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)

Người làm: Chuyên gia Tâm lý học giáo dục RAM Nông Thanh Đối – Khoa Ngữ
văn – HNUE

1
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)

ĐỀ CƯƠNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Câu 1: Các cơ sở hình thành tư tưởng HCM?
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại.
Cơ sở khách quan
+ Hoàn cảnh lịch sử:
Tình hình trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước
cuộc xâm lược của thực dân Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận
nền bảo hộ của chúng trên toàn cõi Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, các cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển và phân hóa.
Tình hình quốc tế, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản từ giai
đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị của
chúng trên phạm vi toàn thế giới.
Những tiền đề tư tưởng, lý luận
+ Truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có
nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chính truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh
mẽ thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước vào năm
1911. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc
đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước,
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ
ba”.
+ Tinh hoa văn hoá nhân loại
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông: cùng với chủ
nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông. Người
cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá
Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung
Quốc.

2
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình
đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc) … Người đã vận
dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp
với dân tộc và thời đại mới.

 Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh
đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên
một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít – lêninnít.
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin
❖ Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều
nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm
những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái.
Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà
hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919,
Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc
Quốc tế II.
❖ Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành
người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của
Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn
nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách
mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề
ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
❖ Có thể khẳng định rằng Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ
yếu nhất của sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
❖ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công và sự ra đời của Quốc tế Cộng
sản (tháng 3-1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương
Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông đã có quan
hệ với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Nhân tố chủ quan
❖ Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
❖ Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo
ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Từ những trải nghiệm thực tế và việc
được tiếp xúc với các nguồn tư tưởng mới đã hình thành tư tưởng của Người.
❖ Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu
lòng nhân ái và sớm có chí cứu nước, giúp nhân dân thoát khỏi khiếp nô lệ.
❖ Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với
cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất
đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm

3
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích
tổng hợp, khái quát hình thành những luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học căn
cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại.
Câu 2 : Giá trị tư tưởng HCM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của cách mạng Việt Nam
❖ Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại. Người đã tiếp thu, kế
thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa
Mác - Lênin, giải đáp các vấn đề của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
❖ Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành
ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay,
tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và Nhân dân ta trên con đường thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
❖ Trong bối cảnh của tình hình thế giới đang diễn biến ngày càng nhanh, phức tạp
và khó lường hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những
vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo
đảm quyền con người; độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội vì lợi ích con người.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
dân tộc Việt Nam
❖ Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là thế giới quan, phương pháp luận
xem xét và xử lý các vấn đề thực tiễn. Trung thành với những nguyên lý phổ biến
của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng những nguyên lý đó vào thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, đề xuất
những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu
quả. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn : “lý luận không phải là một
cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng
những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”[1].
❖ Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh ở chỗ đã bao gồm một hệ thống những quan
điểm lý luận toàn diện và sâu sắc về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối

4
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực
hóa các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội...
❖ Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự định hướng cho sự phát triển của dân tộc.
Dựa trên các quá trình có tính quy luật của thời đại, Hồ Chí Minh đã xác định phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là : làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội”, là mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”; phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
❖ Tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chiếm lĩnh trái tim,
khối óc, trở thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người; là sức
mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ViệtNamxã hội
chủ nghĩa.
2. Giá trị quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại
❖ Ngay trong những năm 20 của thế kỷ XX, trong quá trình hình thành, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã thể hiện khát vọng chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Những
nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản phản
ánh khát vọng độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa.
❖ Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình
thành một hệ thống các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần khơi
dậy các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc cho các dân tộc thuộc địa và bị áp
bức trên thế giới.
b) Tìm ra con đường đấu tranh tự giải phóng cho các dân tộc thuộc địa
❖ Đóng góp lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thời đại là đã chỉ ra con
đường cách mạng, tiếp theo đó là phương pháp để thức tỉnh những người bị áp bức
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự
biến chuyển của thời đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù
cách mạng vô sản và hoạt động không mệt mỏi cho phong trào cách mạng thế giới.
Trong đó, Người đã chỉ ra khả năng to lớn, vai trò chiến lược của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản và phong trào cách mạng thế
giới nói chung.

5
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
❖ Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp
cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ kinh
nghiệm của cách mạng Việt Nam, Người đi đến khẳng định bài học chung của các
dân tộc là : “... trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi
trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt
trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước
hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”[2].
c) Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả giải phóng con người
❖ Tư tưởng Hồ Chí Minh và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của Người
là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc
lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy mà năm 1987, chuẩn bị kỷ niệm
100 năm ngày sinh của Người, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO) đã vinh danh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hóa kiệt xuất.
❖ Sự nghiệp đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới của đất nước ta thực hiện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, đã và đang cổ vũ cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì hòa bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Đó cũng chính là tác động cổ vũ to lớn của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
❖ Là nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh
cần được nghiên cứu, quán triệt trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ở các giai đoạn phát triển của cách mạng. Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ của tất cả các
cấp, các ngành trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
❖ Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời từ yêu cầu của
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn luôn vận động và phát triển,
phải vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, hết sức tránh giáo điều,
rập khuôn, máy móc, làm mất đi tính sáng tạo của tư tưởng của Người.
❖ Trong sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, phải tuân theo thế giới
quan, phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tuyệt đối
trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; đề phòng những tư tưởng cơ hội, xét lại, thực chất là phản bội lại chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

6
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
Câu 3 : Tư tưởng HCM về độc lập dân tộc với CM GPDT
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự
do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta
đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội và từ thực
tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài học quý
báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền thống,
bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm hiểu
thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên tầm cao mới
của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
❖ Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình thức
cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng đồng dân tộc,
các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm
lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó
xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề
thời đại.
❖ Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự do là
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
❖ Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh
nói : “Cái mà tôi cần nhất trên đời là : Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được
độc lập...”(1). Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên
ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của
cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân
tộc : Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do.
❖ Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các đồng
minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt cho những
người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Vécxây một bản yêu
sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã
không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học : “Muốn được giải phóng, các
dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(2).

7
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
❖ Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng,
Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là :
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”(3)
❖ Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng,
viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ : “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao
hơn hết thảy”(4). Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân
dân ta trong một câu nói bất hủ : “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
quyết giành cho được độc lập!”....
❖ Cách mạng Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới
: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4).
❖ Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền
dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến : “... thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(2).
❖ Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở rộng
chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ, có
giá trị cho mọi thời đại :“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống,
là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không chỉ được tôn vinh
là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người
khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
❖ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần được tiến
hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to
lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ
đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được
đúng đắn vấn đề dân tộc.
❖ Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy
con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách mạng vô sản. Người
viết rằng : “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn
thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước
nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”(5).
8
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
❖ Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng cộng sản
châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng như tương lai của cách
mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm : các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc,
rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện ở những luận điểm sau đây :
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương
Đông, Hồ Chí Minh khẳng định : Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông
: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” (6); “Người ta sẽ không thể làm
gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của
đời sống xã hội của họ”(7). Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnhhành động của
Quốc tế Cộng sản : “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng
sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ
biến thành chủ nghĩa quốc tế”(8).
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc
địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu
những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ
Chí Minh đã khẳng định : “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(4).
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác
định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn : làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản
(tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn : “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu
giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.

9
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm
của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói : “Chúng ta phải tranh đấu cho
tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Người đã
nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự
giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng
góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con
người.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ Chí Minh
luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân
dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản chính vì
cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng mọi
giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Người nói : giành
độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu,
nước mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành
tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc lập, Người
thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết
giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó Người nói : “Nếu nước độc lập mà
dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (9).
Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết : “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(2).
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể
tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau :
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đường của
cách mạng vô sản.

10
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
• Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng
định một chân lý là : Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác là cách mạng vô sản.
• Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : chủ nghĩa đế quốc
là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa.
Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là
phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo.
• Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định : muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành
công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành
công”(10)
• “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”(2).
• Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng : Đảng của giai cấp công
nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên
cơ sở liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết : cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng
định cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông
là gốc cách mệnh”(11).
• Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong
một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc,
đấu tranh giành độc lập, tự do.
• Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân
vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết : “Đảng phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểuđịa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung... (12)

11
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
• Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế
quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp : “công nông là
gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song
không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông
thôi”(13). Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”(14).
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm
xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách
mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động,
sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế
cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích : “Vận mệnh của giai cấp vô sản
thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc
địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa” (15); “nọc độc và
sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa” (16), nếu
khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6).
• Vận dụng công thức của Mác : “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm : “Công
cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự
nỗ lực của bản thân anh em”(6).
• Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế
quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng : Cách mạng thuộc địa không những không
phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
• Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan
hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng : “trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và
thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo
lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân
dân.

12
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí
Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người,
cuộc khởi nghĩa vũ trang đó : phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ
không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ
sự phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền
thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga,
từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
• Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định :
Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu
có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường
cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
• Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng
chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính
trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời
cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được
chính quyền trong cả nước.
=> Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság
tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách
mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Câu 4 : Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với CNXH
Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2/1930),Hồ Chí Minh khẳng định phương
hướng chiến lược của cách mạng nước ta là : “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, giải phóng dân tộc, giành
độc lập dân tộc sẽ là mục tiêu đầu tiên của cách mạng, là cơ sở, tiền đề cho mục tiêu
tiếp theo là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và
dân chủ; độc lập phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và hơn
nữa độc lập dân tộc cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân
dân. Mục tiêu giải phóng dân tộc phải hướng đến chủ nghĩa xã hội.
13
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
Đấu tranh giành độc lập dân tộc là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo –
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu
sắc, triệt để thì càng tạo ra những tiền đề thuận lợi, sức mạnh to lớn cho cách mạng
xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để bảo đảm nền độc lập dân tộc vững chắc
Chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại và phù hợp với lợi ích của nhân
dân Việt Nam : “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Nước độc lập mà người dân không được tự do, hạnh phúc thì nền độc lập ấy
cũng không có ý nghĩa gì, vì vậy sau khi đã giành độc lập phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng một xã hội “hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh”; đem
lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân và bảo đảm vững chắc nền độc
lập dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là một xã hội tốt đẹp, không còn chế
độ áp bức bóc lột; đó là một xã hội bình đẳng, công bằng và hợp lý; có nền kinh tế
phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, bảo đảm đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân; là một xã hội có sự phát triển cao đạo đức và văn
hoá; hoà bình hữu nghịvới tất cả các nước dân chủ trên thế giới.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem lại tự do, hạnh
phúc của người dân, làm cho đất nước phát triển mạnh mẽ, tạo nền tảng vững chắc
để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Điều kiện để bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, cần có những điều kiện cơ bản sau :

Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản trong suốt
tiến trình cách mạng.
Hai là, phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là
khối liên minh công – nông.
Ba là, phải đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với cách mạng thế giới. Đoàn kết quốc tế,
theo Hồ Chí Minh, là để tạo ra một sức mạnh to lớn cho cách mạng và cũng để góp
phần chung cho nền hoà bình, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Các điều kiện trên phải được bảo đảm, gắn bó chặt chẽ với nhau sẽ góp phần
bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

14
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
Câu 5 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐCS
Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định sự cần thiết phải có Đảng - nhân tố quyết địnhthắng
lợi của sự nghiệp cách mạng.Trong cuốn Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí
Minh viết : “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thìvận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sảngiai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
ngườicầm lái có vững thì thuyền mới chạy”
Về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Trên thế giới, nói chung, sự ra đời
của một đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa cộng sản khoahọc với
phong trào công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin cần phong trào công nhân với tư cách
là lực lượngđể thực hiện chủ nghĩa của mình và phong trào công nhân cần chủ nghĩa
Mác –Lênin để soi đường dẫn lối đấu tranh
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh: Năm 1960 nhân kỷ niệm 30 năm hoạt độngcủa
Đảng, trên tạp chí Hòa bình và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ
nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nướcđã dẫn tới việc
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”
 Đây là luận điểm Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –Lênin
về quy luật hình thành Đảng Cộng sản phù hợp với thực tiễn Việt Namkhi
đưa thêm vào yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào yêu nước.
2. Đảng phải trong sạch vững mạnh
a. Đảng là đạo đức, là văn minh
Trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (năm 1960), Hồ Chí
Minh cho rằng : “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” (1). Hồ Chí Minh coi đạo đức là
gốc, là nền tảng của người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể
hiện trên những quan điểm sau đây :
(1) Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp cách mạng
theo chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
(2) Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của
Đảng đều phải nhằm mục đích đó. Đảng phải luôn luôn trung thành với lợi ích
toàn dân tộc vì Đảng không có lợi ích riêng ; sự ra đời và phát triển của Đảng đều vì
mục đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi
cho dân.

15
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
(3) Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy, một trong
những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam để
cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức, của văn minh là Người “rèn” đạo đức cán bộ,
đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đảng viên càng phải là những người có lòng
nhân ái, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; trung với Đảng, trung với
nước, hiếu với dân; có bốn đức : Cần, Kiệm, Liêm, Chính và luôn luôn Chí công vô
tư; có tinh thần quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh : Đảng “là Đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày
và lao động trí óc kiên quyết nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc
và nhân dân. Những người mà : “Giàu sang không thể quyến rũ Nghèo khó không
thể chuyển lay Uy vũ không thể khuất phục”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh : “Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” - Xây dựng Đảng cộng sản
Việt Nam thành một Đảng văn minh. Điều này thể hiện ở những nội dung sau :
(1) Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của
dân tộc.
(2) Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật văn minh tiến bộ của dân
tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển
của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải
đặt dưới sự phát triển của dân tộc; mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với
quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
(3) Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do
nhân dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh
càng chú trọng hơn việc phòng và chống các tiêu cực trong Đảng.
(4) Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổ chức đứng
trên dân tộc.
(5) Xây dựng Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng
viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng, nhất là những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến đảng
viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ tiên phong, gương
mẫu trong công tác và cuộc sống hàng ngày.
(6) Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không
những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển

16
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
của các dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh đã cảnh báo : “Một dân tộc, một đảng và
mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định ngày
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Như vậy, xây dựng Đảng để cho
Đảng xứng đáng là Đảng đạo đức, văn minh là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là bước sáng tạo của Người so với lý
luận của V.I. Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
b. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
• Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Hồ Chí Minh khẳng định : “Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
• Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh phải trung thành với chủ nghĩa Mác – Lêni
nhưng đồng thời phải luôn luôn sáng tạo, vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh, từng lúc, từng nơi, không được phép giáo điều.
• Tập trung dân chủ: Người khẳng định đây là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao
trùm quá trình tồn tại và phát triển của Đảng. Tập trung và dân chủ là hai mặt của
nguyên tắc, có quan hệ khăng khít với nhau: Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân
chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Tập trung là thiểu số phải phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện Nghị quyết của
Đảng. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là
thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm
ra chân lý. Đó là một quyển lợi và cũng là nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người
đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền
tự do phục tùng chân lý”.
• Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
+ Tập thể lãnh đạo vì : Một người dù tài giỏi đến mấy, nhiều kinh nghiệm đến
đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không
thể trông thấy và xem xét tất cả mọi vấn đề. Vì vậy, phải đảm bảo tập thể lãnh đạo.
Cần nhiều người tham gia lãnh đạo vì : nhiều người thì nhiều kiến thức, người hiểu
mặt này, người hiểu mặt kia, người hiểu việc này, người hiểu việc khác. Ý nghĩa của
việc tập thể lãnh đạo rất đơn giản : “Dại bầy hơn khôn độc”.
+ Cá nhân phụ trách vì : Cá nhân phụ trách sẽ tránh được thói dựa dẫm, ỷ lại,
“nhiều sãi không ai quét cửa chùa”. Hồ Chí Minh đi đến kết luận : Lãnh đạo không
tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, kết quả là hỏng việc. Phụ
trách không do cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lôn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng

17
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
hỏng việc. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung.
• Tự phê bình và phê bình.
+ Mục đích của tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong con người
nảy nở như hoa hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi để hướng tới giá trị chân,
thiện, mỹ.
+ Đề cập đến thái độ, phương pháp phê bình – tự phê bình, Hồ Chí Minh chỉ rõ
: Phải được tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày, phải kiên quyết,
thẳng thắn, không nể nang, phải trung thực, thành khẩn, phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau

• Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được
Hồ Chí Minh lý giải theo những căn cứ sau :
Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Vấn
đề mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản – giai cấp công nhân – nhân dân Việt Nam là
mối quan hệ khăng khít, máu thịt. Mỗi một thành tố đều có chức năng, nhiệm vụ
riêng, nhưng tất cả những thành tố đó cũng như sự hoạt động, sự tương tác của chúng
đều có tính hướng đích : Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đoàn kết quốc tế :
+ Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong
sáng. Điều này xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân mà C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin đã nhiều lần đề cập.
+ Đối với nguyên tắc này, Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là một phận
khăng khít của cách mạng thế giới. Trong Di chúc, Người mong Đảng “sẽ ra sức hoạt
động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em
trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
c, Xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên
Hồ Chí Minh lưu ý phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có đức, vừa
có tài, trong sạch, vững mạnh. Người đề cập những yêu cầu chủ yếu sau đây đối với
đội ngũ cán bộ, đảng viên:
• Phải tuyệt đối trung thành với Đảng
• Phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường lối, quan điểm,
chủ trương, Nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.
• Phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng.

18
Nhóm học tập RAM – HNUE Chiến dịch Nguyễn Công Hoan (2023 – 2024)
• Phải luôn luôn học tập, nâng cao trình độ mọi mặt.
• Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
• Phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.
• Phải là những người luôn luôn phòng và chống các tiêu cực

19

You might also like