You are on page 1of 9

1.

Khái niệm TTHCM - Líp

Khái niệm tư tưởng HCM:


“Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
2. Cơ sở hình thành TTHCM
2.1 Cơ sở khách quan:
2.1.1 Cơ sở thực tiễn - Líp
Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Bối cảnh trong nước: xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX + Chế độ phong kiến Việt Nam bộc lộ
nhiều sự suy yếu lỗi thời,thể hiện qua việc chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ,
phản động,.. không thể đảm đương được sứ mệnh lịch sử dân tộc. Cuối thế kỷ XIX, hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời
trước các nhiệm vụ lịch sử,tiêu biểu là sự thất bại của phong trào Cần Vương dưới chiếu vua Hàm Nghi (1885 –
1896).
+ Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước nhưng đều thất bại
(Chủ trương cầu viện Nhật Bản, dùng vũ trang khôi phục độc lập của Phan Bội Châu; Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến
bộ” khai thông dân trí, nâng cao dân trí,.. trên cơ sở đó mà dần dần tính chuyện giải phóng của Phân Chu Trinh; Khởi
nghĩa nặng cốt cách phong kiến của Hoàng Hoa Thám; Khởi nghĩa theo khuynh hướng tư sản của Nguyễn Thái Học).
Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới. Tất cả điều đó cho
thấy sự xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
- Bối cảnh thời đại (quốc tế)
+ CNTB từ cạnh tranh đã chuyển sang độc quyền,hình thành chủ nghĩa đế quốc,xác lập sự thống trị trên phạm vi
thế giới.Hầu hết các nước Á,Phi,Mỹ La Tinh trở thành thuộc địa của các nước phương Tây.Chúng ra sức bóc lột vơ
vét sức người sức của của nhân dân bản địa,áp đặt những chính sách vô lí,tuyên truyền thứ văn hóa lai căng,hủ hóa và
xóa bỏ đi văn hóa truyền thống của các dân tộc. Trước tình hình đó,ở các nước thuộc địa hình thành mâu thuẫn giữa
nhân dân của các nước thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc.
+ Chủ nghĩa đế quốc tranh giành thuộc địa làm nên cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) khơi sâu thêm
mâu thuẫn trong nội bộ các nước đế quốc,làm chủ nghĩa đế quốc suy yếu,tạo điều kiện cho cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên thế giới mà tiêu biểu là sự thành công của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917) đã cho ra đời
một nhà nước công nông rất mới trên thế giới,“thức tỉnh các dân tộc châu Á”, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nhân
loại – thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
+ Quốc tế III được thành lập (1919) cùng sự phát triển của Lê nin từ chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác Lênin
giúp cho phong trào công nhân trong các nước TBCN và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng có quan
hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là CNĐQ.
Tất cả các nội dung trên cho thấy, việc xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là nhu cầu tất yếu khách quan
của cách mạng Việt Nam, mà còn là tất yếu của cách mạng thế giới.

2.1.2 Cơ sở lý luận - NS
a. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
- Lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc VN đã hình thành nên những truyền thống hết
sức đặc sắc và cao quý, trở thành tiền đề tư tưởng, lý luận xuất phát hình thành TTHCM. Đó là truyền thống yêu nước,
kiên cường, bất khuất; tinh thần tương thân tương ái, ý thức cố kết cộng đồng; lòng nhân nghĩa; trí thông minh, sáng
tạo; hiếu học; quý trọng
- Trong những truyền thống đó, truyền thống yêu nước là cao quý thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí sáng
tạo và lòng dũng cảm của người VN, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc, của mỗi người. HCM đã đúc kết
chân lý “Dân ta có 1 lòng nồng nàn yêu nước”.
- Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực thụ khi nó ăn sâu vào tìm thức và ý chí và hành
động của mỗi con người.
- Chính CN yêu nước là nền tảng tinh thần, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy NTT ra đi tìm đường cứu
nước và tìm thấy ở chủ nghĩa M-L con đường cứu nước, cứu dân.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại:
- Tinh hoa phương Đông:t34 t34t63 t34t634 t34t6347 t34t6347,t34t6347/t34t6347f
- t34t6347ff
+ Vận dụng kết tinh của văn hóa phương Đông trong ba học thuyết lớn của nho giáo phật giáo và lão giáo kết
hợp với chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. (✓)
+ -Nho giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu những mặt tích cực trong Nho giáo của Khổng tử. Tiếp thu quan điểm
của Nho giáo để xây dựng một xã hội công bằng bác ái Nhân Trí Dũng Tín Liêm để đi đến sự hòa bình không có chiến
tranh các dân tộc có quan hệ hợp tác hữu nghị. Đặc biệt Hồ Chí Minh chú ý kế thừa tinh thần coi trọng đạo đức trong
Nho giáo, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức của con người, đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. ( ✓)
+ -Phật Giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng của tư tưởng của đạo Phật đó là vị tha, từ bi bác ái,
yêu thương con người, chống lại điều ác, làm việc thiện, bình đẳng, không phân biệt đẳng cấp, khuyên con người
không sống xa lắm mà đoàn kết với nhau, gắn bó đất nước. (✓)
+ -Lão giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu và kế thừa những tư tưởng của lão tử khuyên con người sống hòa đồng
với thiên nhiên gắn bó với thiên nhiên và biết bảo vệ môi trường mình đang sống. Người còn nhấn mạnh phải chú ý tư
tưởng thoát ly mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong lão giáo, khuyên mọi người từ bỏ ham muốn về vật chất sống
một cách cần kiệm liêm chính chí công vô tư. (✓)
+ -Chủ nghĩa tam Dân của Tôn Trung Sơn:
+ Người thấy chủ nghĩa tam Dân của Tôn Trung Sơn "có những điều thích hợp với điều kiện của nước ta",
đó là các quan điểm về dân tộc dân quyền dân sinh "dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Trong
cách mạng tư sản=>Độc lập-tự do-hạnh phúc trong cách mạng vô sản. (✓)
+ Có thể thấy Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng văn hóa phương Đông để
giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng của Việt Nam hiện đại. (X)
- Tinh hoa văn hóa phương Tây:
+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây, trong đó tiêu
biểu là văn hóa Mỹ và Pháp.
+ Pháp: khi học ở Vinh, Hồ Chí Minh sớm làm quen với văn hóa pháp, người đọc và tiếp thu tư tưởng tự do-
bình đẳng-bác ái. Người tìm hiểu về đại cách mạng Pháp và tiếp thu bản Tuyên ngôn nhân quyền nhân quyền năm
1789.
+ Mỹ: Người tìm hiểu và kế thừa các giá trị về quyền sống quyền tự do quyền mưu cầu hạnh phúc trong
tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776.
c. Chủ nghĩa Mac - Lênin:
- Lúc bấy giờ, thế giới tồn tại nhiều hệ tư tưởng nhưng trong đó hệ tư tưởng tiên tiến nhất cách mạng nhất
của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, Bác từng nói "bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa của Lênin." (✓)
- Chủ nghĩa Mác Lênin là những học thuyết về giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động
và giải phóng con người. Đó là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của nhận thức và hoạt động cách mạng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. (✓)
- Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác-lênin một cách có chọn lọc sáng tạo theo phương pháp Mác xít, nắm
lấy cái tinh thần, cái bản chất. Vận dụng những quan điểm lập trường, phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa
Mác-lênin vào những vấn đề thực tiễn của Việt Nam chứ không đi tìm các kết luận có sẵn trong sách vở. ( ✓)
- Câu phụ: yếu tố nào quyết định
- =>Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở lý luận mang tính quyết định nhất. Vì chủ nghĩa Mác Lênin dẫn đến sự
phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh khiến cho người vượt lên hẳn phía trước so với những nhà yêu
nước đương thời. Giá trị TTDT hay tinh hoa VHTG đều ít nhiều tác động đến những hệ tư tưởng cũ như phong kiến
(Cần Vương) hay tư sản (Khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học), nhưng chỉ có Hồ Chí Minh là tiếp thu chủ nghĩa
Mác-Lênin, và thực tế thắng lợi đã chứng minh đó là đúng, cách mạng nhất, tiên tiến nhất ( ✓)
3. Nhân tố chủ quan HCM:
a. Phẩm chất HCM:
- Phẩm chất Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực để
đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người có ý chí, nghị lực to lớn, một mình dám đi ra nước ngoài khảo sát thực
tế các nước đế quốc giàu có cũng như các dân tộc thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, mà chỉ với hai bàn tay trắng. Người đã
làm nhiều nghề nghiệp khác nhau để kiếm sống, biết rất nhiều ngoại ngữ, tự học hỏi và hoạt động cách mạng. Kết hợp
học ở nhà trường, học trong sách vở, học trong thực tế hoạt động cách mạng, học ở nhân dân khắp những nơi Người
đã đến, và đã có vốn học thức văn hoá sâu rộng Đông Tây kim cổ để vận dụng vào hoạt động cách mạng.
- Đặc biệt là Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới
và cách mạng; đã vận dụng đúng quy luật chung của xã hội loài người, của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ
thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách mạng mới đáp ứng đúng đòi hỏi thực tiễn; có năng lực tổ chức
biến tư tưởng, đường lối thành hiện thực.
- Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt Nam vào dòng
chảy chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là người có năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực tiên tri, dự báo
tương lai chính xác và kỳ diệu
- để dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang.
- Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, Là người suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới. Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân
tố quyết định những thành cộng sáng tạo của Hồ Chí Minh trong hoạt động lý luận và thực tiễn không vì cho sự
nghiệp riêng mình mà vì cả dân tộc Việt Nam và nhân loại.
- Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
- Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường. Trước khi trở thành
Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt động, công tác ở khoảng 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân không chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách, báo, radio
mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua cuộc sống và hoạt động thực tiễn tại các cường quốc đế quốc. Người đặc biệt
xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa để quốc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
- Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về xây dựng đảng cộng
sản, v,v...không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, qua hoạt động
trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu đời sống
xã hội ở Liên Xô — nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, v.v.
- Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư tưởng, lý luận cách
mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách
mạng. Cùng với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – tổ chức lãnh
đạo cách mạng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập Quân đội
nhân dân Việt Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Những phẩm chất cá nhân cùng những hoạt động thực
tiễn phong phủ trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở trong nước và trên thế giới là nhân tố chủ quan hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- =>Khen

b. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận:
- Những tháng năm hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu, NAQ đã liên tục
quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm những hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan
trọng để làm nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của người về sau này.
- HCM cho rằng, PBC, PCT trước đó là vua Hàm Nghi hay Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Thái Học,... họ cũng có những quan sát, song chưa nhận thấy hoặc nhận thấy nhưng nhận thức chưa
đúng về sự thay đổi của dân tộc và thời đại.
- Riêng HCM, trong quá trình tìm đường cứu nước đã khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn
hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lí luận, đem lí luận chỉ đạo hoạt động
thực tiễn và kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Nhờ con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận HCM manh giá trị khách quan và khoa học.
Tóm lại, tư tưởng HCM là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách quan, chủ quan, của truyền thống
VHDT và tinh hoa Vh nhân loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được HCM tổng kết chuyển hóa sắc sảo, tinh
tế với 1 phương pháp khoa học, biện chứng. Tư tưởng HCM đã trở thành tư tưởng VN hiện đại.

3. Giá trị của TTHCM - Bội Bội


3.1 Đối với cách mạng Việt Nam
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt đầu xây
dựng một xã hội mới trên đất nước ta.
Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân đã lãnh đạo cuộc cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam -
Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, Người cùng Đảng ta lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống pháp thắng lợi. Sau đó, lãnh đạo miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từng bước đi đến thắng lợi. Từ 1975, cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất
đi lên chủ nghĩa xã hội. Có được những thắng lợi to lớn đó là bởi có tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự lãnh đạo
của Hồ Chí Minh và Đảng ta biến tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực.
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, và chính thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh, khẳng định tính đúng
đắn giàu sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một hệ thống những quan điểm lý luận về chiến lược, sách lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về sự cải biến cách mạng xã hội cũ
và xây dựng xã hội mới trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về xây dựng những điều kiện đảm bảo
cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi cuối cùng, đó là xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền trong sạch vững mạnh, xây
dựng nhà nước của dân, do dân vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị xã hội, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế,v,v… Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống mở đầy sức
sống được Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
và trong tương lai
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng định hướng, soi đường, chỉ đạo sự phát triển của cách
mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam là của chính người Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường cho
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Trong suốt các chặng đường cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi
đường, là kim chỉ Nam định hướng hành động cho Đảng ta và nhân dân ta. Khi nào làm đúng với tư tưởng Hồ Chí
Minh thì cách mạng thắng lợi. Khi nào xa rời hoặc làm sai với tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mạng Việt Nam bị tổn
thất hoặc thất bại.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta, nhân dân ta nhận thức đúng những
vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm tự do và hạnh phúc của
con người, tiến tới xã hội xã hội chủ nghĩa. Tất cả các quan điểm lý luận và phương pháp cách mạng cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đều là nhằm tới mục tiêu: Độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, dân chủ cho nhân dân, công
bằng và hạnh phúc cho mọi người, hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc với sự phát triển các quan hệ văn hóa, nhân
văn của thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đường lối cách mạng đúng
đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh
trường tồn, bất diệt cùng với sự phát triển vững mạnh của dân tộc Việt Nam.
3.2 Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân tộc gắn
với sự tiến bộ xã hội
C.Mác cho rằng, mỗi thời đại xã hội đều cần những con người vĩ đại của nó và nếu không có những con người vĩ
đại như thế thì thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như thế. Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử, đáp ứng đúng yêu
cầu của dân tộc Việt Nam cần phát triển mạnh mẽ trong thời đại mới. Người không chỉ là sản phẩm của dân tộc Việt
Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ, người anh hùng giải phóng dân tộc tiêu biểu của thế kỷ
XX.
Cống hiến lý luận lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóngdân tộc. Cách mạng giải phóng dân
tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản, được tiến hành bởi toàn thể nhân dân với
nòng cốt liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo, có thể thắng lợi trước cách mạng vôsản ở chính quốc, bằng con đường bạo lực: Kết hợp đấu tranh
chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm một hệ thống các luận điểm giải quyết một
cách đúng đắn, sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa, dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về cách
mạng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người, góp phần bổ sung, phát triển kho tàng
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Và trên thực tế, Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc dẫn tới phá tan hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân, được thế giới tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trên cơ sở hiện thực của Việt Nam nhưng có ý nghĩa lớn đối với
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.

b. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển trên thế giới
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại, phá bỏ sự biệt
lập, mở đường cho sự phát triển, liên kết các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Người là một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhu cầu, khả năng, điều kiện hợp tác giữa các dân
tộc. Điểm nổi bật trong tư tưởng của Người lúc bấy giờ là sự hợp tác, đoàn kết giữa các dân tộc nhỏ yếu, lạc hậu, bị áp
bức tạo nên sức mạnh chống đế quốc, thực dân, chống lại chính sách “chia để trị”, giành độc lập, tự do.
Hồ Chí Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân trong các nước tư bản và phong trào cộng sản quốc tế, phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Hồ Chí Minh chủ trương hòa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài giữa các nước, không chỉ xuất phát từ những mục
tiêu chính trị vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội của thời đại, mà còn vì sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản
xuất thế giới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hợp tác quốc tế không chỉ để giành độc lập dân tộc, mà còn là để xóa bỏ nghèo nàn,
lạc hậu, tiến kịp các nước tiên tiến và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn với những chuyển biến của thời
đại về chính trị, kinh tế, giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác.
Một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai” 1 . Hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi; phát huy sức mạnh nội
lực của dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế. Ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh
được giương cao đã thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam trong quá trình hội nhập, đồng thời góp phần tích cực củng
cố hòa bình, thúc đẩy tình hữu nghị, sự hợp tác và phát triển giữa các quốc gia trên thế giới ngày nay. Thế giới còn đổi
thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi.
Trong lòng nhân dân thế giới, Hồ Chí Minh là bất diệt. Bạn bè năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là biểu
tượng cao đẹp của những giá trị về tư tưởng, lương tri và phẩm giá làm người. Nhận thức về giá trị vô cùng to lớn của
di sản tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một quá trình lâu dài, ngày càng đi đến hoàn thiện và đầy đủ hơn. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, tổng kết 86 năm hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, người đã làm rạng rỡ dân
tộc ta, non sông đất nước ta, người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực, người bạn thân thiết của các dân tộc đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Tư tưởng của Người, cùng với chủ nghĩa Mác
- Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta"1 .Việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần góp phần thiết thực vào việc làm cho tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trở thành một bộ phận cấu thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội Việt Nam hiện đại.

4. TTHCM về cách mạng giải phóng dân tộc - Tấn Kha


Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Trong đó chủ yếu nghiên
cứu đề cập đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh cho độc lập của dân tộc
mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có
những nội dung cần được nhấn mạnh hơn, nhất là thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa mà trong đó độc lập dân tộc
là nội dung cốt lõi nhất của vấn đề dân tộc thuộc địa.
1/ Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người. :
+ Lí luận về quyền con người: Quyền con người là một trong những vấn đề có lịch sử lâu đời về cả phương diện
thực tiễn cũng như lý luận. Đó luôn là mối quan tâm của nhân loại. Mỗi thời kỳ phát triển của quyền con người đều
gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, các cuộc cách mạng - xã hội. Điều đó, phản ảnh quá trình nhân loại
tự giải phóng mình, do vậy vấn đề này bao giờ cũng là điểm nóng của cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt trên lĩnh vực
đấu tranh tư tưởng.
+ Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người ở những phương diện hết sức mới
mẻ,xuất phát từ thực tiễn và truyền thống của dân tộc Việt Nam đã thôi thúc Người đi tìm chân lý. Người đã kế thừa
những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền trước đó, để đưa ra những luận điểm mới mẻ sâu sắc và toàn diện về
quyền con người, phù hợp đặc điểm của thời đại mới và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Trên con đường tiếp cận chân lý
cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm
1776: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được
tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Từ quyền con người ấy, Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản của các
dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
-> Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành quyền dân tộc, quyền con người trừu
tượng thành quyền của người dân được sống trong độc lập, tự do, từ quyền dân tộc độc lập, được phát triển thành
quyền độc lập của các dân tộc. Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền “tự nhiên” đến chỗ khẳng định quyền đấu tranh
“chống áp bức” của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Tiểu kết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn sâu xa từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất
nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của các nước phương Đông cũng như các nước phương
Tây. Đặc biệt là vận dụng có sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đây là đặc
điểm nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân quyền.
- Nội dung của độc lập dân tộc:
+ Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm phạm của dân tộc. Trong “Bản
Yêu sách tám điểm” 1919, Nguyễn Ái Quốc đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Nội dung cốt lõi trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: độc lập, tự do cho dân tộc.Kính cáo đồng bào 5/1941, Người chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết thảy”. Tháng 8 năm 1945, Người khẳng định quyết tâm:
“Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”.Trong
“Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Người long trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và
thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”. v.v.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Độc lập dân tộc và thống nhất đất
nước nhà là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, là con đường sống của nhân dân Việt Nam. Đó là
một quan điểm lớn của Hồ Chí Minh. Người nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính
phủ các nước vào thời gian sau CMTT, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng
nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ Quốc và độc lập cho đất nước”.Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm
bảo vệ độc lập và chủ quyền được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã
đưa ra một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng
dậy đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ Mỹ phải cam
kết: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như
hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
+ Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia
do dân tộc đó tự quyết định. Người khẳng định: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết
định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc
thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An-Nam đòi
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với châu u, xoá bỏ chế độ
cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật. Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân: tự do ngôn
luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú... Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học:
Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc - làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
+ Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Nghĩa
là độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc, cơm no, áo ấm của nhân dân.Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham
muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành” Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập
khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng
của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập,
tự do của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
KẾT BÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc không theo một khuôn mẫu giáo điều, mà được hình thành
và phát triển gắn liền với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có phong trào đấu tranh của dân tộc Việt
Nam, nhằm xoá bỏ ách trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, hình thành nên nhà
nước dân tộc độc lập và tiếp tục phát triển theo sự lựa chọn của mỗi quốc gia dân tộc, phản ánh chân lý lớn nhất của
thời đại là “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Riêng với dân tộc Việt Nam, thì sự phát triển đó theo phương hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh là: “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
tham khảo thêm cái này
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Để cứu nước thoát khỏi thực dân Pháp ông cha ta đã sử dụng những tư tưởng khác nhau, rất nhiều phong trào yêu
nước đã nổ ra nhưng cuối cùng đều bị thực dân Pháp nhấn chìm trong Biển máu. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc rất khâm
phục và trân trọng sự hi sinh của ông cha ta nhưng người không trọng tình với tư tưởng của họ. Trong 10 năm từ năm
1916 đến năm 1926 người đã đi qua rất nhiều châu lục đặc biệt là châu âu châu Mỹ tham khảo tìm hiểu về các cuộc
chiến tranh trên toàn thế giới chiến tranh Mỹ chiến tranh Pháp Vân Vân và cuối cùng người kết luận muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản và điều đó được chứng minh qua lý
luận và thực tiễn sau:
Về mặt thực tiễn, trong lúc Hồ Chí Minh đang tìm mục tiêu và con đường cứu nước ở Pháp, tức thực hiện theo
Binh Pháp Tôn tử "muốn đánh thắng kẻ thù phải hiểu rõ kẻ thù" thì cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 nổ ra và giành
thắng lợi.
Sau khi đã nghiên cứu kỹ của cách mạng trên người kết luận "trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là
thành công và thành công đến nơi". Người quyết định đi theo con đường mà cách mạng tháng 10 Nga đã vạch tra đã đi
và dành thắng lợi.
Về mặt lý luận, ngày 26 tháng 7 năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đọc sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin đã giúp người tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Người cho rằng
"bây giờ tư tưởng nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lênin".
Con đường ấy là "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản". Đó là cuộc cách mạng triệt để sâu sắc và toàn diện nhất phù hợp với thực tiễn Việt Nam và quy luật phát triển
của thời đại.
Chính thực tiễn và lý luận đó Nguyễn Ái Quốc khẳng định muốn cứu nước không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam muốn thắng lợi phải do Đảng lãnh đạo
Theo Hồ Chí Minh muốn làm cách mạng trước phải làm cho dân giác ngộ, giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho
dân hiểu,phải bày sách lược cho dân, cách mạng phải tập trung thì dân tộc mới đoàn kết để tạo thành sức mạnh tổng
hợp. Và muốn tập trung phải có Đảng cách mệnh để Đoàn kết tập hợp quần chúng.
Trong tác phẩm đường cách mệnh 1927 bài giảng cho Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do người đích thân
giảng dạy Nguyễn Ái Quốc khẳng định
"Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong vận động và tổ chức dân chúng ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị
áp bức và vô sản khắp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như gười cầm lái có vững thuyền mới
chạy"
Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc sáng lập đảng cộng sản Việt Nam bổ sung phát triển sáng tạo học thuyết mác-
lênin về Đảng cộng sản. Hồ Chí Minh cho rằng "Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam"
Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc lấy liên minh công nông làm
nền tảng
Luận điểm trên xuất phát từ
+Truyền thống toàn dân giữ nước và đánh giặc cứu nước của dân tộc ta.
+Nguyên lý của chủ nghĩa Mác-lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
-Theo Hồ Chí Minh phải "lấy dân làm gốc" "có dân là có tất cả" "dễ trăm lần không dân cũng chịu khó vạn lần
dân liệu cũng xong"
-Trong sách lược vắn tắt của Đảng Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân trong đó công
nông là chủ là gốc của cách mạng.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo Chiến Thắng trước cách mạng vô sản ở
chính quốc (câu này mình thi)
Đây là một luận điểm hết sức đúng đắn và sáng tạo của Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở chủ nghĩa mác-lênin và Quốc
tế cộng sản. (X)
Sau khi Lênin mất thì dần dần xuất hiện các tư tưởng xem nhẹ, hạ thấp cách mạng thuộc địa, nhưng thấm nhuần
tư tưởng của Lênin Hồ Chí Minh đã sớm thấy được mối quan hệ hữu cơ gắn bó thân thích của cuộc cách mạng thuộc
địa và cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong bản án chế độ thực dân Pháp 1925 người cho rằng chủ nghĩa tư bản
giống một con đĩa có một vòi bám vào cách mạng vô sản ở thuộc địa và vòi còn lại bám vào cách mạng vô sản ở chính
quốc, muốn giết được con đĩa ấy phải chặt đứt cả hai vòi. Sau khi đưa ra mối quan hệ chặt chẽ của hai cuộc cách
mạng, bằng phương pháp Mát xít cơ sở lý luận khách quan người đưa ra dự báo rằng cách mạng thuộc sẽ giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Thực tiễn thắng lợi của cách mạng giải Việt Nam và cách mạng giải phóng
dân tộc trên toàn thế giới đã chứng minh luận điểm này của Hồ Chí Minh là đúng đắn và sáng tạo. ( ✓)
Khen=> khẳng định lại đúng đắn sáng tạo, tầm nhìn xa trông rộng.
Cách mạng vô sản phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
Các Mác viết "bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới"
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin về bạo lực nói trên vào trong thực tiễn
của Việt Nam như sau
Về tính tất yếu của dùng bạo lực trong cách mạng người chỉ rõ "cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". Bác còn giải thích thêm rằng vì hành động đem quân
xâm lược của các nước lớn đối với các nước thuộc địa đã là hình động sử dụng bạo lực của nước mạnh đối với nước
yếu rồi.
Về hình thức bạo lực thấm nhuần tư tưởng mác-lênin Hồ Chí Minh chỉ rõ bạo lực ở đây là bạo lực của quần
chúng với hai lực lượng và hai hình thức đấu tranh, chính trị và quân sự đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Tuy
nhiên cũng cần căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể để áp dụng các hình thức đấu tranh thích hợp.
=>khen

You might also like