You are on page 1of 42

I.

Nhóm 1 (Đánh giá khả năng tái hiện kiến thức, 4 điểm)

Câu 1: Nêu khái quát các cơ sở lý luận và trình bày tác động của chủ nghĩa Mác-
Lênin đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam; Tinh hoa văn hóa nhân loại và Chủ nghĩa Mác - Lênin:

- Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:


+ Việt Nam là đất nước có lịch sử lâu đời trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Điều đó đã tạo nên một dân tộc Việt Nam thống nhất, hun đúc nên nhiều
truyền thống và giá trị tốt đẹp như: Truyền thống yêu nước, truyền thống nhân
văn nhân ái, nhân nghĩa, đoàn kết, kiên cường bất khuất,....
+ Không chỉ có thế, quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi mà ý chí chiến
đấu, giữ nước của nhân dân vô cùng quyết liệt và mạnh mẽ. Chính những điều
đó đã giúp Hồ Chí Minh thừa hưởng những giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc,
tinh thần yêu nước, anh dũng bất khuất, tất cả vì độc lập tự do của dân tộc.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại:
+ Văn hóa phương Đông: Tinh hoa văn hóa phương Đông kết tinh trong ba học
thuyết lớn đó là: Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo.
● Nho giáo: Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy tư tưởng dùng nhân trị, đức
trị để quản lý xã hội. Xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó công bằng,
bác ái, nhân, nghĩa, trí, tín, liêm được coi trọng để đi đến một thế giới
đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân tộc có mối quan hệ
hữu nghị hợp tác. Đặc biệt, HCM chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh
thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
của con người.
● Phật giáo: HCM kế thừa và phát huy tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương
con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại cái ác, đề cao quyền
bình đẳng của con người, khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với
đất nước. Những quan điểm tích cực đó được HCM vận dụng sáng tạo
để đoàn kết đồng theo đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam
hòa bình thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
● Lão giáo: Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên
con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên,
hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Trong đó chú ý kế thừa phát
triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo.
Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng ham muốn về vật chất; thực hiện
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư hành động theo đạo lý với ý nghĩa là
hành động đúng với quy luật của tự nhiên, xã hội.
=> Ngoài ra, Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau
trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác cũng như các trào lưu tư tưởng tiến bộ
thời cận đại ở Ấn Độ, Trung Quốc. Đặc biệt, HCM phát huy và sáng tạo các quan điểm về
dân tộc dân quyền dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư
tưởng đấu tranh cho Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc của con người Việt Nam theo các mạng
vô sản.

+ Văn hóa phương Tây: Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt tới khẩu hiệu nổi tiếng của
đại Cách Mạng Pháp năm 1789: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Khi sang phương Tây,
Người quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng trong các cuộc cách mạng tư sản
ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân
quyền trong Bản Tuyên ngôn Độc lập (1776) của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền (1791) của Pháp và đã đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự
do, hạnh phúc của các dân tộc.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin:
+ Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới và
phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa
văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình
thành một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam .
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã giải
quyết vấn đề khủng hoảng trong đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách
mạng ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất có
vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã vận
dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác -
Lênin.

Câu 2: Nêu các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến
năm 1969 và trình bày thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam (1921 -1930).

★ Thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến
năm 1969
- Trước 1911: Thời gian hình thành tư tưởng yêu nước.
+ Nguyễn Ái Quốc tiếp thu truyền thống yêu nước, thương dân, …. qua sự giáo
dục của gia đình và thầy học.
+ Trang bị những kiến thức cơ bản (ở trường làng, trường tiểu học, trường Quốc
hội học ở Huế).
+ Hình thành chí hướng cách mạng và khát vọng cứu dân, cứu nước.

=> Nhờ trang bị những phẩm chất và kiến thức trên có sự lựa chọn đúng từ hướng đi, đích
đi và cách đi.

- Giai đoạn: 1911 - 1920: Giai đoạn tìm tòi con đường yêu nước, GPDT: Tại giai đoạn
này, người xác định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường
nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
+ Thời kì này, HCM nhận thấy nhân dân các nước châu Á, châu Phi trong hệ thống
thuộc địa đều có chung một kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc khi tất cả công nhân và nhân
dân lao động các nước tư bản cũng bị bóc lột nặng nề, vì thế HCM hình thành tư
tưởng đoàn kết các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Người thành lập nên Hội liên hiệp các thuộc địa để thực hiện tư tưởng này. Năm
1922, người xuất bản báo Người cùng khổ làm công cụ tố cáo chủ nghĩa thực dân ở
thuộc địa và tuyên truyền cho cách mạng thuộc địa.
+ CMVS chính quốc và CMGP dân tộc là hai cuộc cách mạng của thời đại cùng tấn công
vào chủ nghĩa đế quốc, là hai cánh của cách mạng thế giới.
+ HCM với những tư tưởng trên đã đặt cách mạng Việt Nam vào phạm trù cách mạng
thế giới: PTGP dân tộc, PTCM vô sản và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
+ Bước ngoặt lớn nhất và công lao đầu tiên của NAQ là tìm được con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc.
- Giai đoạn 1920 - 1930: Giai đoạn hình thành cơ bản về tư tưởng CMVN.
+ Trong thời kì này, khi được tiếp xúc với nhiều nghiên cứu về CN Mác - Lênin,
với nhiều nhà cách mạng trên thế giới, nhiều tổ chức cách mạng, với Quốc tế
cộng sản, dự thảo nhiều cuộc hội thảo bàn về cách mạng thế giới. Những điều
kiện đó giúp HCM phát triển tư tưởng, hình thành nhiều cơ bản về tư tưởng,
đường lối chiến lược, sách lược cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa.
+ Hình thành và phát triển tư tưởng cách mạng thuộc địa là một bộ phận của
cách mạng chính quốc, đặt cuộc cách mạng này trong phạm trù cách mạng vô
sản, đi theo con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng lao động, giải phóng giai cấp vô sản. Xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ
thù chung của nhân dân lao động chính quốc cũng như của nhân dân thuộc địa
nên cách mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới.
+ Hình thành tư tưởng liên minh đoàn kết các dân tộc châu Á chống CNĐQ.
+ Hình thành tư tưởng HCM: giải phóng dân tộc bằng khởi nghĩa vũ trang nhân
dân.
+ Hình thành tư tưởng xây dựng đảng cộng sản kiểu mới ở một nước thuộc địa.
Đảng kiểu mới ở một nước thuộc địa muốn ra đời phải kết hợp ba nhân tố: CN
Mác - Lênin kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
+ Nhận thấy tầm quan trọng của đảng kiểu mới với thắng lợi của cách mạng VN
nên HCM ra sức chuẩn bị những nhân tố về chính trị, tổ chức, truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào VN và phong trào công nhân thế giới, tạo tiền đề cho
ĐCS ra đời năm 1930.
- Giai đoạn 1930 - 1945: Giai đoạn vượt qua khó khăn, thử thách, kiên trì con đường
đã xác định cho cách mạng VN.
+ Giữ vững lập trường quan điểm trước khuynh hướng “tả” của QTCS.
+ Theo sát tình hình để chỉ đạo cách mạng trong nước.
+ Xây dựng và hoàn thiện chiến lược CMGPDT, xác lập tư tưởng độc lập, tự do
dẫn tới thắng lợi của cách mạng tháng Tám.
- Giai đoạn 1945 - 1969: Giai đoạn tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến
kiến quốc.
+ 1945-1946, cách mạng vừa thành công, chính quyền non trẻ nên đối đầu với vô
vàn khó khăn mà nhất là đe dọa từ thù trong giặc ngoài. HCM đưa ra tư tưởng
dĩ bất biến ứng vạn biến và vận dụng thực hiện thành công tư tưởng đó để bảo
vệ, củng cố chính quyền.
+ Phát triển tư tưởng đối ngoại giải quyết mối quan hệ quan phương với các
quốc gia khác, đặt nền tảng cho tình hữu nghị giữa dân tộc VN với các dân tộc
khác trên thế giới.
+ Phát huy đại đoàn kết dân tộc, nêu lên tư tưởng độc lập thật sự, độc lập trong
nền hòa bình chân chính, độc lập trong tự do hạnh phúc cho nhân dân, nêu tư
tưởng xây dựng nền văn hóa nhân văn, xây dựng đạo đức cách mạng.
+ Trong hoàn cảnh bị chia cắt (1954 - 1969), đồng thời tiến hành hai cuộc cách
mạng: CM XHCN ở miền Bắc và CM Dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai cuộc
cách mạng có mối quan hệ khăng khít với nhau, miền Bắc là hậu phương lớn
của CM miền Nam.

Câu 3: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc.

- Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
+ Cách tiếp cận con người:
● Người tiếp thu những nhân tố về quyền con người trong “Tuyên ngôn độc lập
1776” của Mỹ, “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp năm 1791
như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.
Từ đó, người khái quát lên chân lý không ai có thể chối cãi: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và tự do”.
● Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy chưa có
độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
● Khi đã giành độc lập, tự do phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập tự do ấy.
- Độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
● ĐLDT phải gắn với hòa bình chân chính, hòa bình trong độc lập tự do, Người
đánh giá rất cao học thuyết “tam dân” của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
● Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận một nền hòa bình giả hiệu trên cơ
sở mất độc lập hoặc độc lập giả hiệu.
- ĐLDT phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để: ĐLDT trên tất cả các mặt
như: Chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao,.... trên cơ sở đảm bảo quyền dân tộc tự
quyết. Không có ai có quyền can thiệp, áp đặt.
- ĐLDT phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
+ Sau CMT8, Người tuyên bố không công nhận những hiệp ước bán nước, tách
rời lãnh thổ của triều đình nhà Nguyễn cho Pháp.
+ Đối với HCM: “Nam Bộ là máu của máu VN, là thịt của thịt VN. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.

Câu 4: Nêu khái quát các quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc và trình bày một quan điểm trong đó.

★ Quan điểm của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản:

Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con
đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ
nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô
sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở
thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”; mặt khác, cách mạng
giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

- Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh công – nông:
+ Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, vì
vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền, nhưng trong sự tập hợp đó, luôn phải nhớ: “Công nông là người chủ cách
mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
+ Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp
nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tạo ra
sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu tranh chống
lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:

Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của
Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem
thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản
chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế
quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ
năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất
quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

- Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách mạng bạo
lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang:

Theo Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân
dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của bọn xâm lược cấu kết với những kẻ phản
động. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc,
cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và
bảo vệ chính quyền. Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung Ương VIII, Người cũng đã đưa ra
nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
★ Quan điểm “Con đường giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản”
- Con đường cách mạng của các thế hệ đi trước ảnh hưởng tới HCM:
+ Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường với những khuynh hướng chính trị khác nhau sử dụng
những vũ khí tư tưởng khác nhau nhưng đều bị thất bại:
● Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến tư sản tiêu
biểu là :Phong trào Cần Vương (1885-1896) => việc thất bại của phong
trào CV chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải
quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
● Đầu thế kỷ XX, xuất hiện hai nhân vật nổi bật trong việc đề ra đường
hướng cứu nước mới cho dân tộc: Cụ Phan Bội Châu với hội Duy Tân và
phong trào Đông Du (1906-1908) với nhiều tư tưởng tiến bộ nhưng vẫn
mắc sai lầm khi cầu cứu quân Nhật song không thành công. Cụ Phan
Châu Trinh chủ trương cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân
khí, phát triển kinh tế theo hướng TBCN trong khuôn khổ hợp pháp, làm
cho dân giàu, nước mạnh, buộc Pháp phải trao trả độc lập cho VN song
cũng thất bại.
● Sau đó các phong trào cũng diễn ra sôi nổi nhưng còn mang tính cải
lương bởi giai cấp đứng lên khởi nghĩa là tư sản, họ không có tinh thần
cách mạng triệt để, dễ thỏa hiệp khi đã đạt được mục đích về kinh tế của
họ. Khởi nghĩa Yên Bái cũng diễn ra trong không khí sục sôi, tinh thần
quyết chiến tới cùng nhưng lại diễn ra chưa đúng thời cơ, nên nhanh
chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.

=> Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã
diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu
tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt
Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và
chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy
nhiên, những phong trào này góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy tinh thần kháng
chiến cho nhân dân.
- Người nhận thấy CMTS là cách mạng không triệt để: Khi đọc Tuyên ngôn độc lập
Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, Người nhận thấy: CM Pháp cũng
như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, công nhân nỗi dậy
khắp nơi. Chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền
giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân
chúng mới hạnh phúc. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
- Con đường giải phóng dân tộc: Cách mạng tháng Mười Nga mở ra một kỷ nguyên
mới cho nhân loại - Từ thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới:
● Nó ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào trên toàn thế giới. Tính triệt để của
CMT10 Nga được HCM nhận thức rất sâu sắc, đó là chính quyền thuộc về tay
nhân dân lao động, nếu nó nằm trong tay bọn tư bản thì cách mạng sẽ không
triệt để, không tới nơi.
● Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh tính triệt để của một cuộc CM còn thể
hiện ở chỗ: giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột một cách
triệt để và đem lại hạnh phúc, tự do và bình đẳng thực sự cho họ.
● CM Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với CM Việt
nam, nói riêng và CM thế giới, nói chung. Một mặt cổ vũ tinh thần, mặt khác để
lại những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những nhận xét rất sâu sắc, toàn diện về CM Tháng Mười Nga. Từ đó, Người
lãnh đạo CM Việt Nam theo con đường mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra bằng
cách vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý và đưa CM Việt Nam
theo xu thế thời đại mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra. Và thực tế lịch sử đã
chứng minh tính đúng đắn trong nhận xét và vận dụng những bài học CM
Mười Nga vào CM Việt Nam của Bác.

Câu 5: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

1. Mục tiêu CNXH ở VN:


Mục tiêu chung, đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một
cách toàn diện

a. Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ
- Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm
chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. => khẳng
định quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân.
- Người chỉ rõ: Tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của dân, công cuộc
đổi mới là trách nhiệm của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công
việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra,các tổ chức đoàn thể do dân tổ
chức nên.

b. Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết
với mục tiêu về chính trị:
- Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa học – kỹ
thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống.

c. Mục tiêu về văn hóa: Văn hoá là mục tiêu cơ bản, xóa mù chữ,phát triển nghệ thuật,
thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí… Phải xây dựng được nền văn hóa mang
tính dân tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.

d. Mục tiêu con người: Theo Hồ Chí Minh, CNXH là công trình tập thể của nhân dân. Do
đó, nếu không có con người thì sẽ không có CNXH.
- Trước hết, để xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Đó là con người có
lý tưởng XHCN, đấu tranh cho lý tưởng của CNXH.
- Thứ hai, con người XHCN phải luôn gắn tài năng với đạo đức. Người quan
niệm: Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà không có tài thì không thể
làm việc được.

2. Động lực của CNXH ở VN:

* Động lực bên trong:


- Động lực quyết định là con người, là nhân dân lao động công - nông - trí thức. Kết
hợp sức mạnh cá nhân (cá thể) với sức mạnh cộng đồng (sức mạnh XH), với truyền
thống dân tộc yêu nước, đoàn kết cộng đồng, sự sáng tạo của nhân dân.
- Sức mạnh của hệ thống chính trị, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự
trong sạch, liêm khiết của cán bộ, công chức các cấp.
- Động lực kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, giáo dục
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng .
- Dân chủ XHCN

* Động lực bên ngoài: Ngoài ra Hồ Chí Minh còn nêu các động lực bên ngoài như kết hợp
với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả khoa học kỹ
thuật thế giới.

* Trở lực:

- Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa thực dân


- Thói quen và truyền thống lạc hậu
- Chủ nghĩa cá nhân

Câu 6: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển của Đảng và
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- HCM khẳng định tính tất yếu sự ra đời, phát triển và vai trò lãnh đạo của ĐCS VN là
quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong cả quá trình hoạt động CM của Người. Vì vậy,
khi tham gia thành lập ĐCS Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của VN vào
tháng 12/1920, HCM bắt tay vào việc chuẩn bị về mọi mặt cho sự ra đời của ĐCS VN
(chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức)
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) Người khẳng định: Cách mạng trước hết
phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
- Trong suốt quá trình vận động của cách mạng Việt Nam (suốt 90 năm), sự hiện diện
của Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò lãnh đạo đất nước phát triển đã nói lên một
thực tế rằng, sự lãnh đạo của Đảng là thực tế lịch sử khách quan, đáp ứng yêu cầu
phát triển của dân tộc.
- Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam ( tháng 2/1930),
vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác-Lênin về đảng cộng sản trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam (nước nông nghiệp lạc hậu, nơi số lượng công nhân, trong
đó công nhân đại công nghiệp lại càng ít so với dân số) để xây dựng thành công một
đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, quy luật sự ra đời của một đảng cộng sản là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Còn ở Việt Nam, Hồ
Chí Minh cho rằng: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là luận
điểm sáng tạo, phát triển và bổ sung của Hồ Chí Minh về Quy luật ra đời của một
chính đảng cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến
- Như vậy, Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào yêu nước.
Sự khẳng định của Hồ Chí Minh trên đây là hoàn toàn phù hợp với xã hội thuộc địa và
phong kiến Việt Nam khi các giai cấp, tầng lớp đều có mâu thuẫn dân tộc. Đó là mâu
thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai.
- Trong thực tế, những phong trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp được rất
nhuần nhuyễn với phong trào yêu nước ngay từ đầu khi giai cấp công nhân mới ra
đời, và vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc quyện chặt với đấu tranh giai cấp. Hàng
loạt các tổ chức yêu nước ra đời, trong đó nổi rõ nhất là tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam là Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ Chí Minh lập ra.
- Mục tiêu cơ bản giữa các phong trào đấu tranh cách mạng, yêu nước là: Giành độc
lập, tự do cho dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển chính là
do nhu cầu tất yếu đó.
- Đảng đã được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Kết quả của 15 năm lãnh đạo đấu tranh
giành độc lập dân tộc với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là Đảng trở
thành Đảng cầm quyền – lãnh đạo Nhà nước cách mạng và toàn xã hội. Sự lãnh đạo,
sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó, không phải cứ tự nhận mà được,
nó chính là kết quả tất yếu từ sự phát triển hợp quy luật của dân tộc Việt Nam và từ
quá trình thực hiện vai trò của Đảng; Đảng được dân tộc, nhân dân giao cho sứ mệnh
đó

Câu 7: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

a. Nhà nước của nhân dân


- Tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa - XH… Người khẳng
định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân”. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”

=> Khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân.

- Hiến pháp 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân
dân VN, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo…
- Nhân dân có quyền kiểm soát NN: Nhân dân có quyền bầu ra các đại biểu và ủy
quyền cho họ, đồng thời cũng có quyền bãi miễn những đại biểu không xứng
đáng với sự tín nhiệm của mình
- Trong NN của dân thì dân là chủ, dân làm chủ, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ.
- NN phải hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của
người dân.
b. Nhà nước do nhân dân:
- Là nhà nước do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình
- Đó là NN do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để NN chi tiêu hoạt động
- Đó là NN do dân phê bình, xây dựng
- HCM yêu cầu: Tất cả các cơ quan NN phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Khi các cơ quan
đó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ
bãi miễn nó.
- Chủ tịch HCM luôn quan tâm đến việc xây dựng Quốc hội và Hiến pháp.
c. Nhà nước vì nhân dân:
- Là NN lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả vì lợi ích của
nhân dân ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. Đó là NN phục vụ lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch,
cần, kiệm, liêm, chính.
- Trong NN đó, từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công
bộc, làm đầy tớ cho nhân dân.
- Những người thay mặt dân phải có đủ sức đủ tài, vừa hiền lại vừa minh.
- “Việc gì có lợi cho nhân dân thì hết sức làm/Việc gì có hại cho nhân dân thì hết
sức tránh”.

Câu 8: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất.

1. Khái niệm: Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân là người
VN yêu nước, phấn đấu vì mục tiêu chung độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân
dân.

2. Nguyên tắc:
a. MTDTTN phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông- trí thức,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân:
- LL chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công - nông, cho nên liên minh công -
nông là nền tảng của MTDTTN
- Trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có 1 vai trò quan trọng và vẻ
vang; và công,nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành 1 khối
- ĐCS VN vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là 1 tất yếu, vừa phải có điều kiện.
Tính tất yếu: nắm bắt thực tiễn, phát hiện các quy luật khách quan của lịch sử,
vạch ra đường lối phương pháp đúng đắn. Điều kiện: Đảng phải “tỏ ra là 1 bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất… phải có chính sách
đúng đắn và có năng lực lãnh đạo”.

b. Thứ hai, đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước
thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu:
- HCM cho rằng, nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.
- Lấy lợi ích tối cao của dân tộc, nhân dân làm mẫu số chung.
- Tìm kiếm, trân trọng yếu tố tương đồng.
- Thu hẹp những yếu tố khác biệt.

c. Thứ ba, hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
- Thương lượng, bàn bạc
- Hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được
đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất
trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
- Mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều phải được trình bày công khai trước
mặt trận. Khi có những lợi ích riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết
bằng việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc

Câu 9: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Câu 10: Nêu quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và trình

bày một chuẩn mực trong đó.

- Trung với nước, hiếu với dân

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

- Yêu thương con người, sống có tình nghĩa

- Tinh thần quốc tế trong sáng

● Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

+ Cần: siêng năng, chăm chỉ,, cố gắng dẻo dai; lao động có kế hoạch, năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm

+ Kiệm: tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không phô trương hình thức

+ Liêm: trong sạch, không tham lam, không tham tiền của, địa vị, danh tiếng; chỉ có một
thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ

+ Chính: không tà, thẳng thắn, đứng đắn

1. Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình

2. Đối với người: không ninh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốt, đoàn kết thật thà, khồn dối trá, lừa lọc

3. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; đã phụ trách việc
gì thì quyết làm cho kỳ được, đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn; việc thiện
thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dủ nhỏ mấy cũng tránh
4. Chí công vô tư: về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính - rất mực công
minh, chính trực, công bằng, công tâm, không thiên tư thiên vị, không nghĩ đến
mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, đặt lợi ích của cách mạng,
nhân dân lên trước hết. Những yếu tố này có MQH biện chứng với nhau với
Chính là gốc rễ

5. Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải đi liền với chống chủ
nghĩa cá nhân. Cần tiêu diệt, quét sách, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, nhưng dấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân

II. Nhóm 2 (Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, 3 điểm)

Câu 1: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội

- ĐLDT là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là con đường
củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để.

- Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến trình từng bước
và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Thứ hai, những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
quá trình cách mạng Việt Nam

- Đảng phải trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt
nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong
đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.

- Đảng phải xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.

- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Thứ ba, sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội

Trong bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là các thế lực
thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay trong nội bộ Đảng và cán bộ, đảng viên
phải luôn vững vàng lập trường, bản lĩnh, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.

Câu 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản vào công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.

Xây dựng Đảng về chính trị: Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm “nòng cốt”, làm nền
tảng tư tưởng và “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của mình.

Xây dựng Đảng về tư tưởng: Học lý luận là để nắm vững lý luận và điều cốt lõi là phải biết
vận dụng lý luận vào thực tiễn, vào tất cả các tình huống khác nhau của đời sống xã hội. Có
như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mới thực sự đóng vai trò là “hạt nhân chính trị”,
là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động thực tiễn của Đảng.

Xây dựng Đảng về đạo đức: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức,
là văn minh”

Xây dựng Đảng về tổ chức: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, bởi vậy, tổ chức đảng
từ Trung ương đến địa phương phải thật sự chặt chẽ, có ý thức kỷ luật cao.

Xây dựng Đảng về công tác cán bộ: cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Huấn luyện cán bộ
là công việc gốc của Đảng

Câu 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ vào công tác cán bộ của
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác cán bộ và huấn luyện cán bộ của
Ðảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ là một bộ phận cấu thành hệ thống tư
tưởng của người, có giá trị lịch sử và thực tiễn vô cùng sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ đã trở thành kim chỉ Nam cho Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng ở mỗi
giai đoạn và thời kỳ cách mạng. “Cán bộ là gốc của công việc”, mọi quyết sách của Đảng
đều phụ thuộc vào yếu tố con người, việc thành hay bại là ở cán bộ.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ
vừa hồng vừa chuyên, có năng lực lãnh đạo, biết tổ chức quần chúng thực hiện tốt nhiệm
vụ cách mạng của nước ta, đi đến mục tiêu đã chọn. Người nói: “Cán bộ là gốc của mọi
công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Công tác
cán bộ của Ðảng có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Trong các
bài nói hoặc bài viết về công tác cán bộ của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường quan tâm
đến các vấn đề hết sức cốt lõi và mang tính nguyên tắc và rất toàn diện như: Lựa chọn,
huấn luyện - đào tạo, đánh giá, bố trí sử dụng, quản lý và chính sách cán bộ, cụ thể:

Thứ nhất, về lựa chọn cán bộ là bước đầu tiên, nó cực kỳ quan trọng trong tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao nhất cho cách mạng. Lựa chọn cán bộ là nhằm tìm kiếm,
phát hiện để bố trí, sử dụng những cán bộ có đức, có tài, có tâm huyết cống hiến cho Tổ
quốc. Người đưa ra 3 tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ: trung thành với cách mạng; liên hệ
mật thiết với quần chúng và vì lợi ích của quần chúng; đồng thời, cán bộ còn phải là người
dám làm, dám chịu trách nhiệm, không sợ khó khăn, gian khổ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phải tìm cho được những người tiêu biểu như: Những người tỏ ra trung thành và hăng hái
trong công việc, trong lúc đấu tranh; Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu
biết dân chúng, luôn luôn chú ý tới lợi ích của dân chúng. Như thế thì dân mới tin cậy cán
bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ; những người có thể phụ trách và giải quyết
các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì
không phải là người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn thì cần phải: khi thất bại không
hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc,
không sợ khó khăn; những người luôn luôn giữ kỷ luật.

Thứ hai, về huấn luyện - đào tạo cán bộ Hồ Chí Minh luôn khẳng định công tác chăm
lo huấn luyện cán bộ là việc có tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì: “Đảng phải nuôi dậy cán bộ,
như người dân vẫn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ”.
Đồng thời người yêu cầu phải coi “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Huấn
luyện, đào tạo cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp, theo tinh thần làm việc gì
học việc ấy. Huấn luyện - đào tạo phải thiết thực và chu đáo, nghĩa là phải nắm được nhu
cầu để huấn luyện. Không được làm hình thức, làm nhiều mà không thiết thực. Người cũng
căn dặn mở lớp nào ra lớp đó, chọn người dạy và học cho đúng, không nên tùy tiện lung
tung.

Thứ ba, về đánh giá cán bộ theo người là phải tiến hành một cách thường xuyên,
liên tục, phải đánh giá khách quan và toàn diện. Đánh giá cán bộ là cách xem xét một con
người, là vấn đề mang tính khoa học và nghệ thuật, lãnh đạo cấp trên phải có cái nhìn toàn
diện, bao quát, tổng thể về quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ. Đánh giá, nhận
xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ
công việc của cán bộ, tránh việc đánh giá chủ quan, cảm tính cũng như hình thức, qua loa,
nể nang. Đặc biệt là đánh giá cán bộ phải chú trọng đến phẩm chất đạo đức. Theo Người,
việc đánh giá cán bộ cần phải dựa vào nhân dân, phát huy dân chủ và nắm bắt được dư
luận xã hội mới bảo đảm thực chất và hiệu quả..

Thứ tư, về quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ. Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về quản lý cán bộ là phải thực hiện tốt chế độ phê bình, tự phê bình; chế độ khen
thưởng và kỷ luật. Người xem nó như là một nguyên tắc không thể thiếu trong công tác
cán bộ, mà buộc những người làm công tác cán bộ phải luôn thực hiện. Muốn quản lý tốt
cán bộ cần phải tiến hành tốt công tác kiểm tra, cần phải có có sự tham gia giám sát của
nhân dân, phải tiến hành đồng bộ, toàn diện, chặt chẽ. Trong bố trí, sử dụng cán bộ, Người
khẳng định “dụng nhân như dụng mộc”, dùng người nào thì phải phù hợp với việc đó. Cán
bộ lãnh đạo phải có gan cất nhắc cán bộ cho đúng, khéo dùng cán bộ. Phải có tinh thần
rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa; phải có tính chịu khó dạy bảo,
mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ; phải sáng suốt, mới khỏi
bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt.

Thứ năm, về chính sách cán bộ, theo người cần phải thưởng phạt kịp thời, phải yêu
thương cán bộ nhưng yêu thương không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc mà thương
yêu là để giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm. Là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn.
Luôn quan tâm đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Khi thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa
chữa ngay, làm cho họ vui lòng sửa đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi. Phải
quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh của cán bộ, để có chính sách đúng đắn,
phù hợp để động viên, khích lệ cán bộ.

Từ thực tiễn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII, Đảng ta đã rút ra một số bài học kinh nghiệm trong đó ở bài học đầu tiên
đã xác định: “Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ”. Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng hiện nay, để triển
khai có hiệu quả Chiến lược cán bộ của Đảng, cần nghiên cứu vận dụng một cách khoa học,
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, trong đó chú trọng một số nội dung sau:

Một là, trong tuyển chọn cán bộ. Cần quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chủ
trương đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện và thu hút người tài của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn, khâu tuyển chọn phải được “sàng lọc”, thực hiện qua nhiều bước, nhiều nguồn,
có phương pháp cách làm khoa học. Trước tiên, cần phải tìm nguồn, phát hiện nguồn cán
bộ từ sớm, từ xa, từ cơ sở thông qua kết quả hoạt động thực tiễn của cán bộ, thông qua
việc đánh giá chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ để tìm những hạt nhân ưu tú nhất để
tạo nguồn. Việc phát hiện nguồn cán bộ còn dựa trên kinh nghiệm, sự giới thiệu của cán bộ
lãnh đạo, quản lý; sự giới thiệu của cấp ủy, tổ chức Đảng; từ sự đóng góp của nhân dân, đặc
biệt là phải dựa vào dân, trọng dân gần dân để tìm nguồn cán bộ thực sự có đức có tài.
Ngoài ra việc tuyển chọn cán bộ còn phải xem xét từ các cơ sở đào tạo cán bộ ở trong hệ
thống giáo dục quốc dân, qua đây tiếp tục sàng lọc đưa đi tạo nguồn, bồi dưỡng quy hoạch
tiếp cho các nhiệm kỳ tiếp theo.

Hai là, làm tốt công tác quy hoạch nguồn cán bộ. Trên cơ sở tuyển chọn những cán
bộ ưu tú, có đức, có tài tiến hành xây dựng và đưa vào nguồn quy hoạch. Trong việc quy
hoạch cán bộ nguồn phải tổ chức phân loại cụ thể những cán bộ có phẩm chất, trình độ
năng lực về lãnh đạo, quản lý; những cán bộ chỉ có phẩm chất, trình độ năng lực về chuyên
môn, khoa học, để từ đó có hướng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cho hiệu quả trên từng
lĩnh vực cụ thể gắn với sở trường năng khiếu của từng cán bộ; tuyệt đối tránh việc xếp
nhầm chỗ, lệch về chuyên môn trong quy hoạch.

Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách về công tác cán bộ. Phải hoàn thiện cơ chế
thu hút, phát hiện nguồn nhân lực. Tập trung vào những cán bộ thực sự có năng lực thông
qua hiệu quả hoạt động thực hiện nhiệm vụ. Tiến hành thường xuyên hoặc định kỳ tổ chức
tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện chủ trương trẻ hóa đội ngũ cán bộ, qua đó khẳng định
tính đúng đắn và rút ra những kinh nghiệm từ thành công và hạn chế của quá trình triển
khai. Xây dựng, hoàn thiện bộ khung tiêu chí và lấy yêu cầu về cơ cấu nguồn cán bộ làm cơ
sở để phát hiện, tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc, cán bộ là nữ giới, từ đó sàng
lọc đưa vào quy hoạch, ưu tiên cán bộ Đoàn ưu tú và tiêu biểu, trưởng thành trong hoạt
động phong trào. Từng bước đưa hình thức tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo một số
chức danh ở cơ sở đối với đội ngũ cán bộ, qua đó làm tiền đề để những cán bộ thực sự có
trình độ năng lực được thể hiện mình.

Bốn là, trong sử dụng và luân chuyển cán bộ. Cán bộ nhất là cán bộ trẻ phải được và
có quá trình thử thách, rèn luyện qua thực tiễn cách mạng để trên cơ sở đó đánh giá đúng
năng lực và phẩm chất đạo đức của họ. Nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo của Đảng ta trước
đây đều được tôi luyện và thử thách trong phong trào đấu tranh cách mạng mà trưởng
thành và khẳng định được tài năng, đạo đức cách mạng. Với Đảng ta, trong các nhiệm kỳ
vừa qua đều tiến hành công tác luân chuyển, bố trí cán bộ nguồn, cán bộ trẻ, cán bộ người
dân tộc, cán bộ nữ về cơ sở, về các địa bàn khó khăn, trọng yếu để rèn luyện thử thách. Tuy
nhiên thời gian đi luân chuyển thực tế còn ngắn, chưa đủ dài để cán bộ thực sự bộc lộ và
phát huy hết phẩm chất, trình độ năng lực của bản thân. Trên cơ sở đó, cần phải kéo dài
thời gian luân chuyển, bố trí cán bộ ít nhất là trọn một nhiệm kỳ. Khi bố trí, luân chuyển
phải xem xét toàn diện, nhiều mặt, dựa trên trình độ, năng lực, sở trường chuyên môn
của cán bộ để tiến hành bố trí, luân chuyển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận
và thực tiễn. Do đó, phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng và những chỉ dạy của
Người vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, thực hiện thành công Chiến lược cán bộ của Đảng,
xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn
hiện nay.

Câu 4: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Thứ nhất, Lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước
ta là nước dân chủ”. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công
việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công
việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề cốt tử là làm
sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân
được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương
thức, cơ chế thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các tổ chức xã
hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các
cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó.
Quan điểm về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được Lãnh tụ Hồ Chí Minh và
Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc; được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp. Điều
2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức; 3. Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân được Đảng
ta đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ
chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta xây dựng là nhà nước tôn trọng pháp
luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Ngay sau khi tổ
chức thành công Cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội đầu tiên (06/01/1946), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ đạo khẩn trương xây dựng và thông qua Hiến pháp năm 1946, đặt nền
móng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Quá trình chỉ đạo xây dựng
Hiến pháp và pháp luật, tổ chức và vận hành nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, Nhà
nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, bảo vệ quyền lợi của
nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế: “Nghiêm chỉnh thực
hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và
pháp luật của Nhà nước”. Người luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê
bình, giám sát công việc của Chính phủ; đồng thời, nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành,
trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương mẫu trong việc tuân thủ
pháp luật. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am
hiểu pháp luật, biết quản lý nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có
đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ nhân dân.
Đồng thời, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là: Tham ô, lãng phí, quan liêu. Cùng với đó,
Người rất coi trọng việc giáo dục pháp luật cho nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi
dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích
nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.

Thứ ba, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. Sinh thời, Hồ Chí Minh
thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm quyền chứ không
phải đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn:
“Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán triệt sâu
sắc tư tưởng, học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã
hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân trong tình hình mới

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá trong tư duy
về xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh
việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ
thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng, khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Do vậy, trong thực hiện cần tiếp tục
quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra
và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công
việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào và
khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ
của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt
động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước
ở địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng
chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế
độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo
dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình
tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu
của các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các
thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết
chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” tư
sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây
dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa
“đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là
ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ,
công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá
nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm hại
dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở
phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng
phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và
trọng dân.

Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của
Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ
Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm
minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người
cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến chất của
đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.

Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách,
năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”,
toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo
dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ tri
thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà
nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.

Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã
chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo đảm
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo
đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ,
thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô cùng cần thiết và đúng
đắn.

Câu 5: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân vào xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở nước ta hiện nay.

1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài

Một là, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ
cán bộ, công chức.

Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó không phải là những điều trừu
tượng, chung chung, mà phải được thể hiện hằng ngày, hằng giờ, trong mọi lĩnh vực công
tác, thể hiện trong kết quả thực tế công tác. Lòng trung thành đó thể hiện đặc biệt rõ trong
những lúc đất nước gặp khó khăn, thử thách, chuyển giai đoạn.

Hai là, hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
Chỉ với lòng nhiệt tình thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây
được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ cán bộ, công chức phải hiểu biết công việc
của mình, biết quản lý nhà nước, do vậy, phải được đào tao và tự mình phải luôn luôn học
hỏi. Đó là tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức. Công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ,
phải luôn luôn học tập không ngừng nghỉ, học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời. Hồ Chí
Minh chính là con người điển hình của tự học. Người tự học những kiến thức về nhà nước
trong cả cuộc đời mình.

Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.

Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ,
công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người hưởng lương từ nguồn
ngân sách nhà nước do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ, công
chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo
đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ quyền lợi
chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình.

Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân, hiểu dân và
vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền… đối với nhân dân đều
dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước vì đã phạm một
điều có tính chất cốt tử của cấu tạo quyền lực nhà nước là tất cả mọi quyền lực thuộc về
nhân dân.

Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu
trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không
nản”. Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “công bộc”, làm “đày tớ”, phục vụ tận tuỵ
nhân dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy
sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, luôn luôn “có chí tiến thủ”, luôn luôn học tập đế nâng cao trình độ về mọi
mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn.

Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì
sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước. Với chức trách là những người phục vụ nhân dân,
thì cán bộ, công chức phải tận tuy, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Muốn vậy, theo Hồ
Chí Minh cán bộ, công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm
chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Đồng thời, cán bộ, công chức phải chăm lo
xây dựng bộ máy nhà nước để nhà nước đúng là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước

Hồ Chí Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải
ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và
gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu
không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích
của nước nhà mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực vào
lòng”

Hồ Chí Minh đã dùng những cụm từ “công bộc”, “đày tớ” để chỉ ra một mặt trách nhiệm
của người cán bộ, công chức trong xây dựng một Nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Hồ Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và
khắc phục.

Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là
người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để
vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào
chủ nghĩa cá nhân.

Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc
nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công dùng vào việc
tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và
bệnh quan liêu, dù có hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội
lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”

3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật


Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật
với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được
hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử (kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”).

Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ
Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và
tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết
điểm của bất cứ ai.

Kỷ cương, phép nước thời nào cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi
người. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất
kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín
của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những
người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ
Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã dần hiểu ra và không “sẩy chân”
phạm pháp hoặc không đi theo địch.

Xây dựng Nhà nước trong sạch, hiệu quả

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học
tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ giai đoạn cách
mạng mới là hết sức cần thiết.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhà nước đó được xây dựng trên nền tảng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những điều kiện thực tế hiện nay của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011).

a) Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân.
Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở
rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính
vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật,
đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người
được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật,
bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy, dân mới tin và mới
bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta.

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi nghiêm chỉnh
pháp luật, còn cần chú ý thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư, tùy
theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc đó không trái với những quy định của
pháp luật.

b) Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi chú trọng cải cách và xây dựng, kiện
toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân.

Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham
nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, sự sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực
thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
hiện nay còn cần chú ý cải cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm cá nhân trong
việc giải quyết các khiếu kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu
chuẩn hóa cũng như sắp xếp lại đội ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức
vừa có đức, vừa có tài, tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ.
Đội ngũ công chức yếu thì không thể nói đến một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân thực sự vững mạnh. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được
đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.

c) Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

Công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng cầm
quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà nước
thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai
trò quản lý của Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: lãnh
đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan nhà nước, bằng vai
trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, bằng
công tác kiểm tra, Đảng không làmthay công việc quản lý của Nhà nước.

Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật định. Bản chất, tính chất của Nhà
nước ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một
tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính
là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 6: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc vào xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Một là, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về đại đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng hợp thành
trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người có thể nhận thấy cụm từ “đoàn kết” được Người nhắc
tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được Người nhắc tới hơn tám mươi lần, điều
đó nói lên sự quan tâm đối với vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lịch sử,
đồng thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết có thể hiểu một
cách đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục
đích chung nào đó. Còn đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi tức muốn nhấn mạnh tới thành
phần, quy mô, lực lượng của khối đoàn kết.

Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy nhất
Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết
đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Tư
tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như:
“đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn
kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đều thống
nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các dân tộc,
tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn kết mọi thành viên
trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài thành
một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.

Hai là, Hồ Chí Minh chỉ ra vai trò của đại đoàn kết dân tộc đối với cách mạng Việt
Nam

Khi đề cập đến vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định, đại
đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết
định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành
và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc,
của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công:
“Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản là phương
pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên
suốt trong đường lối chiến lược cách mạng, Người khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách
dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”. Có thể nói đoàn kết dân tộc vừa là điều kiện
tiên quyết, sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời là tôn chỉ, mục đích, là nhiệm
vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng và đạt tới.

Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một chủ trương, một chiến lược xuất
phát từ nguyện vọng, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà là sự đúc kết những
đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành. Nếu như xuất phát
từ nhu cầu của lực lượng lãnh đạo cách mạng, đại đoàn kết dân tộc sẽ chỉ dừng lại là một
thủ đoạn chính trị nhằm đạt được mục đích, một ý đồ nhất định. Ngược lại, nhìn nhận đoàn
kết dân tộc như một đòi hỏi tự thân, khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng thì đại đoàn kết là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó, trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người yêu cầu không được có bất cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại
trong nhận thức mà được cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát triển của cách
mạng, Người nói: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn
phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”.

Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một công việc hết
sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành công khi quy tụ
được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc vì đoàn kết mới tạo nên sức mạnh, tạo nên lực
lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến thắng kẻ thù. Thực tiễn cách mạng đã trả lời
giữa đoàn kết và thành công có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi phạm vi, mức độ, quy
mô của thành công trước hết phụ thuộc vào chính quy mô và mức độ của khối đại đoàn kết.
Là người lãnh đạo tối cao cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhận thức
sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc
sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Để lý giải một nước Việt
Nam nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại một tên thực dân đầu sỏ có ưu
thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện chiến tranh, Người nói: “Toàn dân Việt Nam chỉ có
một lòng: Quyết không làm nô lệ, Chỉ có một ý chí: Quyết không chịu mất nước, Chỉ có một
mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho tổ quốc. Sự đồng tâm
của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch
hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất
bại”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trả lời, có đoàn kết mới có thắng lợi, càng gặp kẻ
thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao nhiêu lại cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững
chắc bấy nhiêu. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt quan tâm tới vấn đề
đoàn kết vì đoàn kết là mấu chốt của thắng lợi và rút ra một bài học lớn đồng thời là quy
luật mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta
đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.

Ba là, Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là toàn dân trong
đó lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng.

Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ông: “Nước lấy dân làm
gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng là ngày hội của quần chúng”, Hồ
Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần kì của công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng vô địch của nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng. Người dùng các khái
niệm này để chỉ tất cả mọi công dân của nước Việt Nam, những người được gọi là “con Lạc
cháu Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân
dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước
đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết
trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng
và bộ phận có thể tranh thủ. Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi được dựa trên điểm tương đồng
là: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. “Ai có
tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”...
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của
dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, kết hợp hài hoà lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người bổ sung thêm nền tảng của khối đại
đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công nhân, nông dân với trí thức: “Trong sự nghiệp cách
mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng
và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Một là, Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định thành công
của cách mạng Việt Nam: Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng
định mối quan hệ chặt chẽ giữa đoàn kết và thành công. Hơn thế nữa, phạm vi, mức độ,
quy mô của thành công trước hết phụ thuộc vào chính quy mô và mức độ của khối đại đoàn
kết. Có đoàn kết mới có thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao nhiêu lại
cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu.
Hai là, Lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc: Theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng,
đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, người Việt Nam ở nước ngoài,
kể cả những người đã lầm đường, lạc lối nhưng biết hối cải trở về với Nhân dân. Nói cách
khác, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ”.
Ba là, Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm: Tin vào dân, dựa vào dân vì
lợi ích của dân; đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn
kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn với đấu
tranh, tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân
nghĩa - đoàn kết của dân tộc.
Bốn là, Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: Để phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tuyên truyền, vận động nhân dân; phải chăm lo
xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Năm là, Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và là đức tính cơ bản của
người cách mạng: Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước
và giữ nước, theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của
người cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các đồng chí của
mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ. Song song đó, Người cũng chỉ rõ,
phải chống những cái xấu, những căn bệnh gây chia rẽ, mất đoàn kết.
Sáu là, Phong Cách Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc: Hồ Chí
Minh suốt đời kiên tâm thực hiện đại đoàn kết. Bản thân Người cũng chính là hình ảnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Theo Bác, để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, thì toàn Đảng
cũng như mỗi cán bộ, đảng viên cần có phong cách lãnh đạo: “Kiên quyết nhất, hăng hái
nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và Nhân dân”.

Câu 7: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ quốc tế
của nước ta hiện nay.

Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn
nhau, vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những
thuận lợi và khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế
là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối
ngoại và giải quyết các vấn đề quốc tế:

Một là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là
chính làm nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
phát triển bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa
dân tộc

Năm 1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài về quan niệm độc lập của Việt Nam,
Hồ Chí Minh nói rõ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi,
không có sự can thiệp ở ngoài vào”

Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hòa bìnhvà hữu nghị. Chiến tranh,
xung đột cục bộ vẫn xảy ra, chủ nghĩa khủng bố và những hành vi tàn ác chà đạp quyền
sống của con người. Đặc biệt, thái độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan
đã kéo theo các hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác,
bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó, những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và
tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hòa bình, ổn định của Việt Nam và các nước trong khu
vực. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và
củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc
gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm sâu
sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc
gia. Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều
Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải
quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và
lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và
đe dọa sử dụng vũ lực.

Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng để
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đường lối đối ngoại rộngmở, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế trong bối cảnh mới

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo sử dụng ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thông cáo về
Chính sách ngoại giao do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối ngoại
thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái; tôn trọng nền độc
lập của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên toàn
cầu thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ

Có thể thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta
được hình thành từ rất sớm. Ngay từ tháng 6-1947, trả lời nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bày tỏ mong muốn của Việt Nam là làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai. Nhờ Chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt
Nam đã phá được thế bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của
chính quyền cách mạng ở khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước.

Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường
quốc tế hòa bình, ổn định, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các
nước lớn để tập trung mọi nguồn lực phát triển đất nước

Để xây dựng một thế giới hòa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc
cần xích lại gần nhau, thông qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau,
cùng nhau giải quyết các xung đột. Người luôn tâm niệm: “với một sự tin cẩn lẫn nhau,
những dân tộc tự do và bình đẳng vẫn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn nhất” và
“Thế giới hòa bình có thể thực hiện được nếu các nước trên thế giới, nhất là những nước
lớn, đều sẵn sàng giải quyết những xích mích giữa các nước bằng thương lượng”

Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ chức quốc
tế, đoàn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX. Tư
tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế là
lấy hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hòa bình thay cho chiến tranh,
luôn mong muốn tình hữu nghị, hòa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc,
giữa các nước trên thế giới.

Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức
đan xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững chắc, lâu
dài cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng
Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn
kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “… tôi càng tự
hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng
đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” và cũng thực hiện sự
mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, có lý, có tình”
Câu 8: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa Việt
Nam hiện nay.

https://tuoitredhdn.udn.vn/chu-tich-ho-chi-minh/tu-tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-ho-
chi-minh-ve-xay-dung-nen-van-hoa-viet-nam-940.html

Câu 9: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào xây dựng đạo đức cách
mạng ở nước ta hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng. Tư
tưởng về đạo đức của Người bao gồm những quan điểm cơ bản về vai trò, nội dung và
những nguyên tắc trong xây dựng đạo đức mới, thể hiện qua các tác phẩm cô đọng và sâu
sắc. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng không những là một
đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng mà còn góp phần quan trọng trong việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào xây dựng đạo đức cách mạng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng đội ngũ CBĐV và công tác xây dựng
Đảng trong giai đoạn hiện nay. Dưới tác động của nhiều yếu tố: sự cám dỗ của lợi ích vật
chất, mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch, sự kiểm tra, giám sát của tổ chức chưa chặt chẽ, việc tự rèn luyện kém… làm cho một
bộ phận không nhỏ CBĐV, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu
hiện khác nhau về phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc…

Chính vì vậy, việc rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBĐV càng cần được coi trọng hơn
bao giờ hết, nhất là khi chúng ta đang đứng trước thềm Đại hội XIII của Đảng. Để việc rèn
luyện phẩm chất ĐĐCM cho đội ngũ CBĐV theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hiệu quả thiết
thực, cần chú trọng một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho đội ngũ CBĐV về ý nghĩa, vai trò, tầm quan
trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về ĐĐCM. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.

Trong đó, tập trung xây dựng ĐĐCM cho CBĐV: tuyệt đối trung thành, kiên định lý
tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên hết; hết lòng, hết sức
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, thật sự là công bộc của Nhân dân; cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội. Mỗi CBĐV cần nhận thức
rõ, ĐĐCM sẽ tạo cơ sở vững chắc để người cán bộ giữ vững phẩm cách của mình trước mọi
cám dỗ tầm thường, giúp người cán bộ hình thành và củng cố phương pháp, tác phong làm
việc khoa học, nâng cao chất lượng công việc đảm nhiệm.

Hai là, mỗi CBĐV cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, thực hiện đồng bộ
các giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”14. Do đó, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi CBĐV vừa phải
tích cực, thường xuyên, liên tục, đồng thời phải được gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ của
cách mạng và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người trên cương vị, chức trách được
giao.

Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy đảng các cấp và người đứng đầu trong
việc tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBĐV. Cấp ủy đảng và người đứng đầu phải
luôn quán triệt và thực hiện tốt việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho đội ngũ CBĐV ở mọi
nơi, mọi lúc, mọi công việc và trong các mối quan hệ. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình,
thẳng thắn chỉ rõ khuyết điểm, đề cao tinh thần “tự soi”, “tự sửa” trong mỗi CBĐV và tổ
chức đảng. Cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ làm gương cho chiến sĩ, đảng viên làm
gương trước quần chúng.
Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), Đảng ta đã ban
hành Quy định về trách nhiệm nêu gương của CBĐV, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (Quy định số 08-QĐi/TW ngày
25/10/2018), trong đó yêu cầu CBĐV, nhất là người đứng đầu phải “không ngừng học tập,
tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành”.

Như vậy, xây dựng đội ngũ CBĐV có lập trường, quan điểm vững vàng; luôn gương
mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực
công tác, phong cách lãnh đạo, sâu sát quần chúng, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia,
dân tộc lên trên lợi ích cá nhân là vô cùng cần thiết. Chú trọng rèn luyện cho cán bộ tinh
thần chủ động khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh đó, cần sớm xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của CBĐV với
tổ chức đảng và với Nhân dân, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình
mới để mỗi CBĐV lấy đó làm tiêu chí tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện theo chuẩn mực
ĐĐCM. Hằng năm, người đứng đầu và từng CBĐV có cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất
đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức
đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ
quan, đơn vị mình theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII).

Bốn là, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực toàn diện cho đội ngũ CBĐV,
giúp họ vươn lên chiếm lĩnh tri thức, làm chủ khoa học công nghệ, vững vàng chuyên môn
nghiệp vụ. Trong một xã hội vận động và biến đổi nhanh chóng, đất nước hội nhập sâu rộng
với thế giới đã và đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi rất cao về năng lực, trình độ chuyên môn,
phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh chính trị đối với mỗi người CBĐV, công chức, viên chức. Do
vậy, để tránh tụt hậu, đáp ứng được yêu cầu của công việc, tiến tới có đủ năng lực làm việc
được trong môi trường quốc tế, mỗi người cần có tinh thần cầu thị, không ngừng cố gắng,
nỗ lực học tập, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân. Có như vậy, chúng ta mới xây dựng
được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập, góp phần đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững.

Câu 10: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào xây dựng con người Việt
Nam hiện nay.

III. Nhóm 3 (Đánh giá khả năng sáng tạo, 3 điểm)

Câu 1: Đề xuất quan điểm của mình về ý nghĩa của việc học tập môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Câu 2: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Câu 3: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Câu 4: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 5: Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đề xuất
giải pháp thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay.

Câu 6: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.

Câu 7: Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, đề xuất giải pháp xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở nước ta
hiện nay.

Câu 8: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về đại đại đoàn kết toàn dân tộc.

Câu 9: Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, đề xuất giải
pháp thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế ở nước ta hiện nay.

Câu 10: Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, đề xuất phương pháp
rèn luyện đạo đức của bản thân.

You might also like