You are on page 1of 18

Câu A: Quá trình hình thành và phát triển TTHCM

a) Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (Trước năm 1911)

Hồ Chí Minh chuẩn bị hành trang để đi tìm đường cứu nước: Tiếp thu văn hoá dân tộc,
văn hoá phương Đông, nhất là Nho giáo; giáo dục ở trường; tiếp xúc với các tư tưởng
tiến bộ của văn hoá Pháp; tham gia các phong trào cách mạng, v.v... Từ đó, Người
quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước .

b) Thời kỳ tìm được con đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1911-
1920)

Hồ Chí Minh khảo sát thực tiễn ở nhiều nước tư bản châu Âu, châu Mỹ; tiếp xúc với
nhiều tư tưởng tiến bộ và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên
theo chủ nghĩa Quốc tế vô sản.

c) Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921-1930)

Đây là thời kỳ hoạt động sôi động, đầy hiệu quả của Hồ Chí Minh, trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn, khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải
phóng dân tộc. Người chuẩn bị tư tưởng, tổ chức sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến năm 1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được hình thành về cơ
bản: Xác định rõ con đường cách mạng; lực lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng
lãnh đạo và lực lương thực hiện; đối tượng cách mạng; phương pháp cách mạng; quan
hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới...

d) Thời kỳ thử thách, khó khăn, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng (1930-1941)

Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh gặp nhiều khó khăn do không được đánh giá đúng, có
khi hiểu sai, nhưng Người vẫn kiên trì quan điểm về con đường cứu nước đã chọn.

Hồ Chí Minh chuẩn bị mọi mặt để thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.

e) Thời kỳ phát triển và hoàn thiện tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1941-1969)

Thời kỳ này tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu nhằm
giải quyết các vấn đề quan trọng của dân tộc Việt Nam:

Tư tưởng kháng chiến gắn với kiến quốc; xây dựng Nhà nước; xây dựng Đảng cầm
quyền; đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng, xây dựng và phát triển kinh tế;
thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác với các nước...
1
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc lịch sử,
khẳng định sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoạch định cả một
chương trình cải tạo, xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh.

Câu B: Khái niệm tư tưởng HCM – ý nghĩa – giá trị :


Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
...Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(1).
Giá trị:
Giá trị quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phản ảnh khát vọng thời đại
- Tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng việt nam và ách mạng giải phóng dân tộc của các
dân tộc bị áp bức trên thế giới
- Cổ vũ tinh thần yêu nước, đâu\s tranh vì dân tộc

a) Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại


- Ngay trong những năm 20 của thế kỷ XX, trong quá trình hình thành, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể
hiện khát vọng chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Những nhận thức sâu sắc và độc đáo
về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản phản ánh khát vọng độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
- Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ
thống các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bằng cách đó,
tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần khơi dậy các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc cho các
dân tộc thuộc địa và bị áp bức trên thế giới.
b) Tìm ra con đường đấu tranh tự giải phóng cho các dân tộc thuộc địa
- Đóng góp lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thời đại là đã chỉ ra con đường cách mạng, tiếp
theo đó là phương pháp để thức tỉnh những người bị áp bức ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. - Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn
cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước
hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự
đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng
mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”[2].
c) Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả giải phóng con người

2
Tư tưởng Hồ Chí Minh và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của Người là một tấm gương
sáng cổ vũ các dân tộc trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã
hội. Chính vì vậy mà năm 1987, chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã vinh danh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
- Sự nghiệp đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới của đất nước ta thực hiện theo tư tưởng Hồ
Chí Minh đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã và đang cổ vũ cuộc đấu tranh
chung của nhân loại tiến bộ vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đó cũng chính là tác động
cổ vũ to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ý nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh:


Tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc cách
mạng đưa nước ta giành được tự do, độc lập.
Đây là là tài sản tinh thần quý báu nhất được truyền lại cho thế hệ mai sau về tinh
thần yêu nước, về ý chí đấu tranh quật cường để giành độc lập của cha ông ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mang những giá trị của sự phát triển, của khát vọng vươn
tới “chân thiện mỹ”. Đây chính là nguồn cảm hứng cho nhận thức của toàn đảng,
toàn dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn là của thế
giới. Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh hướng con người trên khắp thế giới
sống có ý nghĩa, có giá trị góp phần xây dựng một thế giới văn minh, tiến bộ.
Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo, nhà cách mạng kiệt xuất cống hiến cả đời mình
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam góp phần vào cuộc đấu tranh của dân
tộc khác vì hòa bình, độc lập dân tộc.

Câu 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vận dụng tư tưởng đó trong
công cuộc đổi mới hiện nay.

Về độc lập dân tộc?

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc


a) Các quyền dân tộc cơ bản
- Theo HCM, tất cả các dân tộc sinh ra trên thế giới đều có quyền bình đẳng. Dân tộc
nào cũng có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc.

3
- Độc lập – Tự do phải là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc với
chân lí “Không có gì quý hơn độc lập – tự do”.
- Độc lập – Tự do phải là nền độc lập thực sự và hoàn toàn trên tất cả các phương diện
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa xã hội và toàn vẹn lãnh thổ. Trong đó quan trọng
nhất mà trước hết là chính trị, sau đó là kinh tế.
- Độc lập – Tự do phải đảm bảo được cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Nếu
không thì độc lập – tự do chẳng có ý nghĩa gì.
- Theo HCM, một dân tộc mất đi quyền bình đẳng thì dân tộc đó mất độc lập – tự do.
Muốn độc lập – tự do thì dân tộc phải đấu tranh, giải phóng mình.
1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới
hiện nay.
- Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực
mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan
điểm giai cấp.
- Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân
tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
* Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam muốn giành được thắng
lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Nguyên nhân:
+ Sự thất bại của CMVN cuối tk19 - đầu tk 20, chứng tỏ CMVN theo đường lối cũ
(phong kiến tư sản) đều ko đáp ứng được nhu cầu lịch sử.
+ HCM đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, người nhận thấy đây là những cuộc
CM chưa đến nơi, chính quyền vẫn nằm trong 1 số ít người
+ CM giải phóng dân tộc và CM vô sản có chung kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc nên
HCM lựa chọn cách mạng vô sản.
+Sau khi tiếp cận chủ nghĩa Mác Lênin và nghiên cứu về CMT10 Nga, HCM nhận
thấy đây là CM triệt để, chính quyền về tay dân .
* Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam muốn dành được thắng
lợi phải có một chính đảng lãnh đạo và đó là Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
- HCM khẳng định vai trò quan trọng của Đảng đối với CM VN: “Cách mệnh trước
hết phải có cái gì, trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp khắp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy”.

4
- Đảng cộng sản VN phải được trang bị lý luận chủ nghĩa Mác Lênin và hoạt động
theo nguyên tắc Đảng kiểu mới.
* Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam muốn dành được thắng
lợi phải đoàn kết được toàn thể dân tộc trên nền tảng khối liên minh, công nhân,
nông dân, trí thức.
- CM là sự nghiệp chung của toàn thể dân chúng chứ không phải công việc của một,
hai người “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ-nông-công-thương
đều nhất chí chống lại cường quyền”.
- HCM đánh giá cao vai trò trong quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang
“Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”
-Trong lực lượng đông đảo CM, HCM khẳng định: công nông là gốc là chủ cách
mạng:
+Công nông là lực lượng đông đảo nhất của xã hội.
+Công nông là giai cấp bị áo bức bóc lột năng nề, trực tiếp nhất nên có tinh thần cách
mạng cao nhất, triệt để nhất.
+Đây là giai cấp tay chân không, nếu thua họ chỉ mất 1 kiếp khổ, nếu được họ được cả
thế giới.
* Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam muốn dành được thắng
lợi phải được thực hiện bằng con đường cách mạng bạo lực. Đó là sự nổi dậy của
toàn thể quần chúng nhân dân lao động trong đó có sự kết hợp của đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
- Theo HCM chủ nghĩa tư bản đế quốc khi xâm chiếm các nước thuộc địa tư bản, bản
thân nó đã là hành động bạo lực đối với kẻ yếu của kẻ mạnh. Vì vậy con đường giành
và giữ chính quyền chỉ có thể là cm bạo lực.
- HCM khẳng định tính tất yếu: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù cần
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền,
bảo vệ chính quyền.
* Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam muốn dành được thắng
lợi phải đoàn kết được với các dân tộc thuộc địa, giai cấp vô sản và nhân dân ưa
chuộng hòa bình trên thế giới.
Câu 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Những đặc trưng bản chất của CNXH đọc qua
- Chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ: Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ
của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp
xây dựng CNXH.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ lực nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân lao động.
5
- Có nền văn hóa tiên tiến với ba tiêu chí là dân tộc, khoa học và đại chúng.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và có điều kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
- Có mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa tất cả các nước trên thế giới.
- CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, CNXH là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, đạo đức, văn minh, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự
do và nhân đạo, phản ánh được nguyện vọng tha thiết của loài người.
b) Mục tiêu xây dựng CNXH
* Về chế độ chính trị:
- Xây dựng xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Nhà nước của ta phải là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh
công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Và Nhà nước phải phát triển quyền dân chủ
và sinh hoạt chính trị của nhân dân để phát huy tính tích cực và sáng tạo của toàn dân
làm cho mọi công dân Việt Nam thực sư tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức
xây dựng CNXH.
+ Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do vậy Chính phủ, cán bộ công chức phải là
đầy tớ chung của nhân dân. .
+ Mọi công dân trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn
trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đồng thời có nghĩa vụ học
tập để nâng cao trình độ về mọi mặt để xứng đáng vai trò của người chủ.
- Về kinh tế: xây dựng “một nền XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất. Nhưng ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. từ nông nghiệp đi lên
thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá.
- Về văn hóa xã hội: giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc của tự nhiên, xã hội và
của chính bản thân con người. Đồng thời xây dựng một nền văn hóa với tiêu chí
CNXH về nội dung, về dân tộc và về hình thức.
c) Động lực xây dựng đất nước CNXH
- Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc- đây là sức mạnh con người
trên bình diện cộng đồng, động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Sức mạnh cộng
đồng là sức mạnh của tât cả các tầng lớp nhân dân: công nhân, nông dân, trí thức, kể
cả những nhà tư sản dân tộc, các tổ chức và đoàn thể, các dân tộc, các tôn giáo, đồng
bào trong nước và đồng bào ở nước ngoài.

6
- Phát huy sức mạnh con người với tư cách là cá nhân người lao động. Giữa cộng đồng
và cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ và trực tiếp. Có phát huy sức mạnh của cá nhân
mới có sức mạnh cộng đồng. Để phát huy sức mạnh cuả cá nhân người lao động, theo
Hồ Chí Minh: cần tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người; đồng thời phải tác
động vào các động lực chính trị- tinh thần.
- Phát huy động lực tinh thần của con người thông qua việc sử dụng vai trò điều chinh
của các nhân tố: đạo đức, phát huy dân chủ, lí tưởng, hoài bão sống của con người.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
- Khắc phục những trở lực kìm hãm sự phát triển của CNXH như tham ô, lãng phí tiền
bạc, thời gian và sức lao động.
Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên CNXH và vận dụng tư
tưởng đó vào thực tiễn (bỏ)
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên CNXH
* Thời kì quá độ:
- Trong thời kì quá độ lên CNXH, cần nắm vững những quy luật chung và những quy
luật đặc thù của mỗi nước khi quá độ đi lên CNXH. Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai phương
thức quá độ chủ yếu là: quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản phát triển lên CNXH và
quá độ gián tiếp từ nghèo nàn lạc hậu, tiến lên CNXH, qua chế độ dân chủ nhân dân.
- Đi vào thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn
của xã hội Việt Nam.
+ Điểm xuất phát thấp: khi miền Bắc quá độ lên CNXH thì đặc điểm lớn nhất là “từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này sẽ chi phối quy định, nội dung con đường,
những hình thức và bước đi, cách làm CNXH ở Việt Nam.
+ Mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ mới
có kinh tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến với tình
trạng lạc hậu kém phát triển, lại phải đối phó với các thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu
xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
+ Hồ Chí Minh còn chỉ ra nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ là “phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách
mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới mà xây
dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
- Thời kì quá độ tiến lên CNXH Việt Nam là một thời kì lịch sử lâu dài, phải trải qua
nhiều chặng đường với các hình thức và bước đi khác nhau.

7
* Về phương pháp, biện pháp, cách làm CNXH là lĩnh vực đòi hỏi tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo cao. Khi miền Bắc đi vào thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những
vấn đề cụ thể:
- Bước đi và cách làm phải thể hiện được sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam “xây dựng CNXH ở miền Bắc, chiếu cố miền Nam”.
- Khi miền Bắc có chiến tranh thì “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mỹ, cứu
nước, vừa xây dựng CNXH”.
- Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá đi lên CNXH thì phải kết
hợp cải tạo với xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựng là chủ chốt và lâu dài.
- Đào tạo được đội ngũ nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
- Đẩy lùi được ba thứ giặc ngoại xâm: tham ô, lãng phí và quan liêu.
b) Vận dụng
- Giữ vững mục tiêu của CNXH.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực nhất là
nguồn lực nội sinh để công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH.
Câu 5: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng tư tưởng đó vào quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường tại Việt Nam hiện nay.
a) Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc
* Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng.
- Với Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc không phải là sách lược, không phải là thủ
đoạn chính trị mà là chính sách dân tộc, là vấn đề chiến lược của cách mạng.
- Bởi vậy, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của dân tộc. “Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”. Đoàn kết
là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công”.
* Đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, vừa là động lực hàng đầu
của cách mạng
- Hồ Chí Minh nói với dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm
trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Bởi vậy tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Xét về bản chất thì đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần
8
chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Nhận thức ra điều đó, Đảng tiên phong cách
mạng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự
phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành
sức mạnh vô địch của quần chúng thực hiện mục tiêu cách mạng của quần chúng.
- Như vậy đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, đồng thời cũng là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
* Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, thực hiện đại đoàn kết với tất cả giai
cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam trong nước và người Việt
Nam ở nước ngoài.
- Đại đoàn kết toàn dân, theo Hồ Chí Minh thì phải bằng truyền thống dân tộc mà
khoan dung, độ lượng với con người, mà đoàn kết ngay với những người lầm đường,
lạc lỗi, nhưng đã biết hối cải, không được đẩy họ ra khỏi khối đoàn kết. Muốn vậy, cần
xoá bỏ hết thành kiến, cần thật thà đoàn kết với nhau, giúp đì nhau cùng tiến bộ để
phục vụ nhân dân.
- Đại đoàn kết toàn dân, theo Hồ Chí Minh là cần phải có lòng tin ở nhân dân, tin rằng
hễ là người Việt Nam “ai cũng có ít nhiều tấm lòng yêu nước” mà khơi dậy và đoàn
kết với nhau vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.
- Đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân phải được xây dựng trên nền tảng “trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Về sau, Người xác định thêm: lấy liên minh công
nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đoàn kết toàn dân.
* Đại đoàn kết dân tộc phải được biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức, được tập
hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất để hướng tới những mục tiêu cụ thể trong thực
tiễn
- Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành chiến lược đại đoàn kết
của cách mạng Việt Nam, hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo ra sức mạnh to
lớn quyết định thắng lợi của cách mạng.
- Ngay từ dầu, Hồ Chí Minh đã chú ý tập hợp người Việt Nam ở trong nước và định cư
ở nước ngoài vào các tổ chức phù hợp với giai tầng, từng giới, từng ngành nghề, từng
lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp từng thời kỳ cách mạng. Tất cả được tập hợp thành
Mặt trận dân tộc thống nhất để liên kết và phát huy sức mạnh của toàn dân. Tuỳ thời
kỳ lịch sử mà Mặt trận dân tộc thống nhất có tên gọi khác nhau.
- Mặt trận dân tộc thống nhất hình thành được và hoạt động được phải trên cơ sở
những nguyên tắc:
+ Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông và lao động trí óc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

9
+ Mặt trận hoạt động trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích
tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không
ngừng mở rộng.
+ Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
* Đảng CSVN vừa là thành viên của mặt trận nhưng đồng thời là lực lượng xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.
* Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
- Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh
đã sớm xác định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách
mạng chỉ có thể thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Trong mối quan hệ này phải được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước chân chính
gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
b) Vận dụng
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải
phóng mạnh mẽ sức sản xuất, phát huy cao độ tiềm năng của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế Nhà nước phải vững mạnh, kinh doanh có hiệu quả, giữ vai trò chủ
đạo.
- Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
- Khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, đồng thời tích cực xóa đói, giảm
nghèo, chăm sóc đời sống những gia đình có công với nước, những người có số phận
rủi ro, quan tâm hơn nữa việc phát triển kinh tế - xã hội của vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân,
đồng bào ở trong nước cũng như đồng bào định cư ở nước ngoài vì sự nghiệp chung.
- Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ, thành phần, giai cấp, nghề
nghiệp, vị trí xã hội, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Phát huy hơn nữa nền dân chủ XHCN gắn liền với việc xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh.
- Tăng cường nền quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, và đối tác tin
cậy của tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, hợp tác và phát
triển.
10
Câu 7: Tư tưởng HCM về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân và vận
dụng tư tưởng đó trong xây dựng Nhà nước hiện nay.
a) Tư tưởng HCM về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân
* Nội hàm của khái niệm nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng HCM
- Nhà nước của dân: Đó là nhà nước mà mọi quyền hành trong nước đều là của toàn
thể nhân dân, mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia phải do chính nhân dân
quyết định. Trong nhà nước nhân dân là chủ, được mọi quyền dân chủ và có quyền
làm bất cứ điều gì mà pháp luật k cấm
- Nhà nước do dân: Đó là nhà nước do nhân dân bầu cử, lựa chọn ra, do nhân dân giúp
đỡ, góp ý, phê bình, xây dựng, bảo vệ và do nhân dân đóng thuế để nhà nước chi tiêu
hoạt động.
- Nhà nước vì dân: Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Các
cấp trong nhà nước từ chủ tịch nước trở xuống đều là công bộc của dân, điều gì có lợi
thì làm, hại thì tránh.
* Mối quan hệ giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc
- Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta:
+ Nhà nước ta do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng những
chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong quốc hội, chính phủ, các
ngành, các cấp của nhà nước; được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của
nhà nước.
+ Bản chất giai cấp cũng thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
“Bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền
kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.”
+ Bản chất giai cấp của nhà nước ta cũng thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là
nguyên tắc tập trung dân chủ. “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ... mới động
viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập
trung cao độ để thống nhất lónh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xó hội.”
- Bản chất giai cấp của nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:
+ Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ với
sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
+ Lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân.
+ Nhà nước ta vừa ra đời đó đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân kháng chiến
để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,

11
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, gúp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ
của thế giới.
* Tư tưởng HCM về một nhà nước pháp quyền
- Xây dựng một nhà nước hợp hiến
+ Sau khi giành chính quyền, Hồ Chớ Minh đó thay mặt chính phủ lâm thời đọcTuyên
ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp, tổng tuyển cử bầu ra
quốc hội rồi từ đó lập chính phủ và các cơ quan nhà nước mới.
+ Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu, thành lập uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm chủ tịch Chính phủ
liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy
đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
- Quản lý Nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật
và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong nhà nước dân chủ, dân chủ
và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Mọi
quyền dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật. Xây dựng một nền
pháp chế XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm của
Hồ Chí Minh.
- Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của nhà nước có đủ đức và tài
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Bác Hồ cho rằng, phải
nhanh chóng đào tạo, bồi dưìng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có
trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải
có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm
cân công lý.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục, đạo đức, kết hợp giữa đức trị và
pháp trị
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do tập quán của kinh tế
tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà nước pháp quyền là chưa được, vì vậy một
mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục đạo đức. Khắc phục những biểu hiện tiêu
cực sau:
+ Đặc quyền, đặc lợi.
+ Tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
12
- Phải đầy lùi ba thứ giặc ngoại xâm là tham ô, lãng phí và quan liêu
Bác nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của
thực dân phong kiến,... tội lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”.
b) Vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng Nhà nước hiện nay
- Cần mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN. Quyền làm chủ của
nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp
luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng
trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi
phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra.
- Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
Phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục
vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. kiên quyết khắc phục quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực,
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, năng
lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước: lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng
trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng
viên hoạt động trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác kiểm tra, Đảng không làm thay
công việc quản lý của Nhà nước.
Câu 8: Tư tưởng HCM về đạo đức và vận dụng tư tưởng đó trong việc giáo dục,
rèn luyện thế hệ trẻ hiện nay.
a) Tư tưởng HCM về đạo đức
* Vị trí, vai trò của đạo đức đối với đời sống xã hội con người
- Khái niệm: Đạo đức là một hệ thống những giá trị chuẩn mực được xã hội thừa nhận
để quy định, điều chỉnh hành vi của con người (trong mối quan hệ giữa người với
người, giữa người với tự nhiên và giữa người với xã hội).
- Đạo đức là cái gốc, là nền tảng của con người và xã hội; đặc biệt là gốc, là nền tảng
của người làm cách mạng
- Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người.
- Theo HCM, đức phải đi đôi với tài. Đức là cái gốc và tài năng cũng là gốc của con
người.
* Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam theo tư tưởng HCM
- Trung với nước, hiếu với dân

13
+ Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng.
+ Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
. Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
. Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Nội dung của hiếu với dân là:
. Khẳng định vai trũ sức mạnh thực sự của nhân dân.
.Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
. Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Có tình yêu thương con người
+ Tình yếu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức,
bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự
do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
+ Nghiếm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những
ai có sai lầm, đó nhận ra và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi
con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên
tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
- Cần kiệm liêm chính chí công vô tư
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của
đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; không xa sỉ, không
hoang phí.
+ Liêm là phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng.
Không tâng bốc mình. Chỉ cú một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
+ Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc.
. Đối với mình, khụng tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm
điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
. Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
. Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không
ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
+ Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng.
14
- Có tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn
kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết
của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý
và tiến bộ xã hội.
* Những nguyên tắc thực hiện đạo đức
- Nói phải đi đôi với làm, chống mọi biểu hiện của nói mà không làm, nói nhiều làm ít,
nói một đường làm một nẻo
- Phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, lên án phê phán cái xấu, cổ vũ biểu
dương cái tốt
- Phải nêu gương sáng về đạo đức
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
b) Vận dụng tư tưởng đó trong giáo dục và đạo tạo thế hệ trẻ hiện nay
- Phát huy nhiệt huyết sức trẻ, trí tuệ, thực hiện thành công lý tưởng của Đảng, của
Bác: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công
CNXH trên đất nước ta.
- Không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên, chú trọng thanh niên
dân tộc, tôn giáo vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, trong các doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp liên doanh. Mỗi một đoàn viên thanh niên cần phải thường xuyên nhận
thức sâu sắc về rèn luyện tu dưỡng đạo đức, gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà
nước, có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
- Mỗi một đoàn viên thanh niên cần nhận thức sâu sắc về vấn đề học tập, nâng cao
trình độ trong hội nhập và phát triển. Người đã từng dạy: “Học để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người
chủ nước nhà”.
- Các cấp bộ Đoàn phải thường xuyên tổ chức học tập tư tưởng đạo đức của Người phù
hợp từng đối tượng. Cần phải sáng tạo các hình thức học tập để không khô cứng giáo
điều mà sinh động hấp dẫn lôi cuốn mọi người.
Câu 10: Tư tưởng HCM về một số lĩnh vực văn hóa
Các lĩnh vực văn hoá là bộ phận cấu thành nền văn hoá. Ở đây, chỉ đề cập ba lĩnh
vực chính: văn hoá giác dục, văn học - nghệ thuật, văn hoá đời sống.

* Văn hoá giáo dục

Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục tập trung ở các điểm sau:

- Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hoá bằng
giáo dục, có nghĩa là bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người toàn diện
vừa có đức vừa có tài, những công dân biết làm và đủ điều kiện làm chủ để xây
15
dựng và bảo vệ đất nước. Đó là cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, thực hiện
công nông trí thức hoá, trí thức công nông hoá, xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng
đông đảo, trình độ ngày càng cao.

- Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những
bước phát triển của nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và học chữ mà
phải dạy và học làm người.

- Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với lao
động, phải luôn luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam. Có như vậy,
văn hoá giáo dục mới có tính hướng đích đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.

- Phải tạo môi trưòng giáo dục lành mạnh, -dân chủ trường phải ra trường, lớp phải
ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò. Đồng thời phải phối hợp cả ba khâu nhà trường, gia
đình và xã hội trong giáo dục.

- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người: học suốt đời; phải coi trọng việc tự học,
tự đào tạo và đào tạo lại.

* Văn học - nghệ thuật

Văn học, nghệ thuật gọi chung là văn nghệ. Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất
của nền văn hoá là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân
tộc. Trong lịch sử phát triển, dân tộc Việt Nam là dân tộc rất quý trọng văn nghệ và
văn nghệ cũng đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của nhân dân ta. Tiếp nối
truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh là một chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn
nghệ và là người đã khai sinh một nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Cống hiến
của Hồ Chí Minh về văn nghệ là bộ phận đặc sắc trong sự nghiệp của Người đã để
lại cho Đảng, cho dân tộc.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn nghệ có thể tóm tắt như sau:

- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén
trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.

- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân.

- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước, của
dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp cách mạng
của nhân dân.

16
Hồ Chí Minh nói với văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn
nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta”. "Quần chúng mong muốn
những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và
vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”. Và theo Người, “một
tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa
đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu
được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như một
tác phẩm hay và biên soạn tốt”

*Văn hoá đời sống.

Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới và viết tác phẩm Đời
sống mới để hướng dẫn thực hiện trong xã hội.

Khái niệm "Đời sống mới” mà Hồ Chí Minh đưa ra bao hàm cả đạo đức mới, lối
sống mới và nếp sống mới. Đạo đức mới được đề cập ở phần tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức, ở đây chỉ trình bày về lối sống và nếp sống mới.

Lối sống mới là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng lối sống mới, Hồ Chí
Minh đòi hỏi phải: “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống
của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm
việc”. Đó là 5 cách phải sửa đổi không chỉ với mỗi người mà còn cho cả tập thể,
cộng đồng.

Xây dựng lối sống mới không hoàn toàn phụ thuộc vào phương tiện sống nhiều hay
ít, giản đơn hay sang trọng mức sống cao hay thấp mà là ở chất văn hoá của lối
sống. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực,
điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham
muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè
đồng chí thì cởi mở chân tình, ân cần tế nhị, giàu lòng yêu thương quý mến con
người, trân trọng con người; đối với mình thì chặt chẽ đối với người thì khoan
dung, độ lượng. Làm việc thì quần chúng, tập thể, dân chủ khoa học.

Nếp sống mới. Quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành nền nếp, thói quen,
ổn định ở mỗi người, thành phong tục tập quán của tập thể hay cả cộng đồng, trong
khu vực hay cả nước, thường gọi là nếp sống mới hay nếp sống văn hoá.

17
Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải phát triển
những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán cũ
lạc hậu. Việc sửa đổi những thói quen, phong tục tập quán không còn phù hợp, loại
bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là công việc rất khó khăn, phức tạp. Hồ
Chí Minh đã khuyến cáo: “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho
là xấu. Cái xấu mà quen, người ta cho là thường”. Vì vậy, phải nâng cao nhận thức,
phải phấn đấu kiên trì mới có thể xây dựng được những thói quen, phong tục tập
quán mới, thực hiện đời sống mới.

Hồ Chí Minh cho rằng: “ Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không
phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu,
nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
triển thêm.. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”1-.
Như vậy, phải xây dựng được những thuần phong mỹ tục mới, đồng thời đấu tranh
khắc phục rất nhiều vấn đề, thông qua việc rà soát, đánh giá để xây, để chống cho
đúng, qua việc làm gương và nêu gương. Bắt đầu từ từng người, từng gia đình thì
mới có thể xây dựng được đời sống mới ở tập thể, các đơn vị, ở làng xã, phố
phường cho đến cả nước. Có như thế mới xây dựng được nếp sống có văn hoá, xây
dựng được đời sống mới thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội.

18

You might also like