You are on page 1of 40

Nhóm 1: Lý thuyết

Lý thuyết làm bài:


- Đặt vấn đề: nêu phương pháp luận mà HCM sử dụng
- Nội dung chính: Nêu tư tưởng HCM về vấn đề được hỏi và phân tích từ 1 đến 2 câu
- Kết luận: Nêu giá trị, ý nghĩa mà tư tưởng HCM mang lại

Câu 1: Nêu khái quát các cơ sở lý luận và phân tích tác động của CN MLN đến việc hình thành tư
tưởng HCM.
2nv: Khái quát cơ sở lý luận → phân tích tác động của cnmln
Trả lời:
Dựa vào những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, cùng với chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình đáp ứng nhu cầu thực tiễn lịch sử từ đó hình thành nên hệ
thống tư tưởng của mình.
Thứ nhất, Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: (mỗi truyền thống phân tích từ 1 – 2 câu)
+ Chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước → tác động đến HCM như
thế nào?
+ Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn,
khó khăn
+ Truyền thống lạc quan yêu đời
+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu
+ Khả năng tiếp biến văn hóa.
Thứ hai, tinh hoa văn hóa nhân loại là sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Đông và Tây:
- Tư tưởng và văn hóa phương Đông:
+ Nho giáo: HCM kế thừa và đổi mới tư tưởng, lựa chọn yếu tố tích cực & phù hợp (phân tích mỗi ý 1 - 2
câu): HCM kế thừa về đạo đức, lễ nghĩa, …
+ Phật giáo: mặt tích cực đã thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc & nhân dân lao động: tinh thần bình
đẳng, dân chủ chất phác, chống lại phân biệt đẳng cấp
+ Tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử: tiết kiệm, … (bổ sung)
+ HCM đã kế thừa tư tưởng cốt lõi của Chủ nghĩa Tam dân - Tôn Trung Sơn: “dân tộc độc lập, dân quyền
tự do, dân sinh hạnh phúc” → sau này trở thành tiêu ngữ: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”
=> HCM đã khai thác những yếu tố tích cực của văn hóa phương Đông để phục vụ sự nghiệp cách mạng
của nước ta.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây:
+ Từ nhỏ đã làm quen với văn hóa Pháp, sống và hoạt động chủ yếu ở châu Âu => chịu ảnh hưởng rất sâu
rộng nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. (trình bày lại) → HCM sớm được biết đến văn hóa
Pháp thông qua nền giáo dục thực dân khi sống ở Huế
+ HCM tiếp thu tinh thần dân chủ cmts ở phương Tây.
Ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, quyền sống của con người ghi trong “Tuyên ngôn độc lập 1776” của
Mỹ đã được Người trích dẫn trong “Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945” của nước ta Bác sang Anh, gia nhập công
đoàn thủy thủ, tham gia các cuộc biểu tình, đình công
Cuối 1917, Bác từ Anh về Pháp và sống tại Paris => quyết định có ý nghĩa lịch sử, mở ra 1 thời kỳ mới
trong cuộc đời Bác
TTDC trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp đã ảnh hưởng tới tư tưởng của Người.
TTDC và phong cách DC còn được hình thành từ cuộc sống thực tiễn: Hoạt động cách mạng tự do, thuận
lợi hơn trong nước: tự do hội họp, tham gia đảng phái, tự do ra báo, phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm, phê
phán vua chúa… Bác còn học được cách làm việc dân chủ
=> Được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp cùng sự cổ vũ, dìu dắt của các nhà cách mạng, trí
thức tiến bộ Pháp, Bác của chúng ta từng bước trưởng thành

Thứ ba, chủ nghĩa MLN là nguồn gốc lý luận quyết định bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng
HCM:
- Với vốn học vấn chắc chắn, năng lực trí tuệ sắc sảo, Bác đã phân tích, tổng kết các phong trào chống
Pháp cuối TK XIX, đầu TK XX. Không theo con đường của các bậc tiền bối, Bác quyết ra đi tìm đường cứu
nước ở tuổi 21 (ngày 5/6/1911)
Trong thời gian 1911-1920: Bác đã tự hoàn thiện cho mình vốn kiến thức văn hóa, chính trị và vốn sống
thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh chính trị vượt trội. Bản lĩnh ấy nâng cao khả năng tư duy độc lập,
tự chủ và sáng tạo khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy các bài viết của Bác rất súc tích,
bình dị, dễ hiểu, thể hiện phong thái riêng, không sao chép giáo điều.
→ Mốc HCM bắt gặp CNMLN là bước ngoặt, dấu mốc quan trọng trong quá trình hình thành hệ thống tư
tưởng HCM, CNMLN cung cấp thế giới quan và phương pháp luận cho tư tưởng HCM.
- Bác đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
Nghĩa là đi tìm lý luận mới để giải quyết nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Bác viết: “Lúc bấy giờ
tôi ủng hộ cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi kính yêu Lênin vì V.I.Lênin là một người
yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình… Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà”
ấy tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.”
- Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin theo phương pháp nhận thức mác xít và theo lối “đắc ý
vong ngôn” của phương Đông. Nghĩa là nắm cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ
ngôn từ. Hồ Chí Minh vận dụng lập trường, thế giới quan và phương pháp luận của CNMLN vận dụng vào điều
kiện cụ thể của để tự tìm ra chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh, thời kỳ cụ thể của cách
mạng Việt Nam chứ không tìm những kết luận có sẵn. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới
quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển sáng tạo những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh
hoa văn hóa nhân loại, kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới, hình thành 1 hệ thống các quan
điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam và đã vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Câu 2: Nêu các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến năm 1969
và trình bày thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 -1930)
* Thời kì hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến 1969 gồm có 5 thời kỳ:
Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm đường cứu nước mới.
Thời kỳ năm 1911 – 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường
cách mạng vô sản.
Thời kỳ 1920 – 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ 1930 – 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam đúng
đắn, sáng tạo.
Thời kỳ 1941 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta.
* Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 – 1930):
HCM được trang bị lý luận, bắt đầu hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng của mình
Đây là thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng bước
được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong các hoạt động cách mạng và các tác phẩm quan trọng “Bản án chế độ thực
dân Pháp”, “Đường kách mệnh”; “Cương lĩnh chính trị” đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc hoạt động rất phong phú, tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
về nước, chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hoạt động thực tiễn phong phú như: tích cực hoạt động trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội
Pháp, các bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân trong Người cùng khổ tờ Báo “Hội Hợp tác Người Cùng Khổ”
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923); Tại Liên-Xô, dự đại hội Quốc tế Nông
dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản (1923-1924); Trung Quốc: Người về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh
niên cách mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ; Thái Lan (1928-1929).
Về mặt lý luận, các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925); “Đường
Kách Mệnh” (1927); “Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt” (1930) và nhiều bài viết
khác của Người trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng
dân tộc. Chỉ ra bản chất của CNTB là “ăn cướp”, “giết người”; là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới.
Những tư tưởng cơ bản được thể hiện trong giai đoạn này: Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại
mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng
không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản chính quốc.
Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “Dân tộc cách mạng”. Cách mạng là sự nghiệp quần chúng
nhân dân. Ở các nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, cần xây dựng
khối công nông liên minh làm động lực cách mạng.
Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ
trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Người trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn
tắt, sách lược vắn tắt của Đảng”, nêu rõ mục tiêu và con đường cách mạng; giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; liên minh công nông là lực lượng
nòng cốt; cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng
tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài
suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930

Câu 3 (Nhóm 1): Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc.
Dựa trên những truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và đòi hỏi thực tiễn của Việt Nam và thế
giới Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình về vấn đề độc lập dân tộc gồm 4 nội dung chính:
Thứ nhất, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Đối với người
dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là
lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc. Và dân tộc VN cũng không ngoại lệ luôn khao khát độc lập và có truyền thống đấu tranh giành độc lập.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu những nhân tố về quyền con
người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791 như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân lý bất diệt về
quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. HCM khẳng định: “Độc lập dân tộc là quyền tự nhiên, thiêng
liêng và bất khả xâm phạm”. Đây là quan điểm nhất quán và mục tiêu đấu tranh của HCM. TTHCM về độc lập
dân tộc đã bổ sung cho lý luận về tự do của thế giới, bổ sung cho lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ hai, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trước hết, dân tộc độc lập
phải gắn liền với tự do. Trong bản Yêu sách gửi đến Hội nghị Vécxây, HCM đòi Pháp phải đảm bảo quyền tự
do cho nhân dân. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930): “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập...
dân chúng được tự do...”. Sau khi giành độc lập cho đất nước, “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Không chỉ vậy, độc lập cũng phải gắn với hạnh phúc, no ấm của
nhân dân. HCM nhấn mạnh: “Có tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Ngay sau khi cách mạng
Tháng Tám năm 1945 tronghoàn cảnh nhân dân đói, rét, mù chữ,... Hồ Chí Minh yêu cầu Chính phủ phải: Làm
cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Năm 1945, Người từng
nói: “ Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, nhưng dân chỉ thấu giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ
ấm”, nếu không như vậy thì độc lập chẳng có nghĩa gì. Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng bộc
bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta aicũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một sự ham
muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để. Theo Hồ Chí Minh, độc lập
dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực. Độc lập dân tộc phải gắn với quyền
tự quyết, HCM giải thích: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự
can thiệp ở ngoài vào”, tức phải có quyền tự quyết”. Quyền tự quyết phải được đảm bảo trên mọi phương diện,
trong đó, quyền tự quyết về chính trị là quan trọng nhất. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau
Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây, để bảo vệ nền độc
lập thực sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ
ngày 6 – 3 – 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự
do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”. Người còn kiên quyết
đấu tranh để có chủ quyền về ngoại giao, đây là một phương pháp biết thắng từng bước của Hồ Chí Minh và là
một minh chứng cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trong lịch sử đấu tranh giành độc
lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp xâm lược nước ta
đã chia VN thành 3 kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau và có âm mưu tách Nam Bộ khỏi VN, thành lập “ Nam Kỳ
tự trị”. Còn đế quốc Mỹ có mưu đồ chia cắt lâu dài VN. Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất
nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu
chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá không gì lay chuyển: “Kiên quyết bảo
vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là
một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”. Đến cuối đời, Người vẫn đặt
niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng trước đế quốc Mỹ tàn bạo và nhân dân VN ta đã thực hiện
được điều đó.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất
cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Điều đó
hoàn toàn phù hợp với nhận định của Ăngghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công
nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”.

Câu 4 - Nhóm 1: Nêu khái quát các quan điểm của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc và
trình bày 1 quan điểm trong đó (nhóm 4)
* Dựa trên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc gồm 5 nội dung chính:
Khái quát các quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
- Hồ Chí Minh nhận định: các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số
phận mất nước.
- Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa thực dân.
- Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, thì ở các nước thuộc địa
trước hết lại phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, không phải giai cấp địa chủ nói
chung mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách
mạng vô sản chính là con đường cách mạng triệt để và phù hợp nhất với yêu cầu của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng vô sản ở Việt Nam nên phải đi từ giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải phóng giai cấp – giải
phóng con người. Phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng cộng
sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản vừa là đội
tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng say nhất,
trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc; là Đảng của toàn dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của
toàn dân tộc. Lực lượng cách mạng của cách mạng Việt Nam là toàn dân. “Công nông là người chủ cách
mệnh… là gốc cách mệnh” vì hai giai cấp này là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề
nhất.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn
nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc là bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào
nhau. Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có thể giành thắng
lợi trước. Nhìn vào thực tiễn Việt Nam thắng lợi năm 1945 và những thắng lợi của phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới những năm 60 của TK XX, trong khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra.
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng. Hồ
Chí Minh viết: “cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và
bảo vệ chính quyền”. Thực dân, đế quốc đã cai trị bằng bạo lực vô cùng tàn bạo, vì vậy muốn đánh đổ chúng
phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, chống lại phản cách mạng của kẻ thù.
* Trình bày quan điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô
sản
Thứ nhất, bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường
cứu nước:
Từ khi Pháp xâm lược nước ta, hàng loạt các phong trào cứu nước nổ ra, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh
dũng nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình đên tối tưởng như
không có đường ra". Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới. Hồ Chí Minh được
chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác
gì "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng
thương”. Con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn. nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong
kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán
thành các con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm một con đưòng mới.
Thứ hai, cách mạng tư sản là không triệt để
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nuớc Mỹ. tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ: đọc “Tuyên
ngôn dân quyền và nhân quyền” của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “Cách
mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ là không triệt để. Cách mệnh không đi đến nơi, tiếng là cộng hào và dân
chủ kì thực thì nó lại bóc lột ,áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Thứ ba, con đường giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Năm 1920 sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, con đường cách mạng vô sản.
Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù hợp với yêu cầu củac cách mạng VN và xu thế
phát triển của thời đại. Giải phòng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết,
trên hết. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.

Câu 5: Trình bày quan điểm HCM về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Dựa vào truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan điểm của mình về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Mục tiêu chung:
* Mục tiêu CNXH ở VN:
- Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
=> khẳng định quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân.
Người chỉ rõ: Tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của dân, công cuộc đổi mới là trách nhiệm
của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ
chức đoàn thể do dân tổ chức nên; “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”; “Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”.
- Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về
chính trị:
Phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị vì “Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển”.
Để đảm bảo cho sự gắn bó này, Người xác định:
+ Kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân
+ Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động
=> Nhà nước phải đảm bảo ưu tiên cho kinh tế quốc doanh phát triển
phải đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
- Mục tiêu về văn hóa: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và tiếp
thu tinh hoa văn hóa của nhân loại:
Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối quan hệ biện chứng.
Chế độ chính trị và kinh tế là nền tảng và quyết định tính chất của văn hóa; còn văn hóa góp phần thực
hiện mục tiêu của chính trị và kinh tế.
Người đã từng nói: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở
trong kinh tế và chính trị” và “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế và văn hóa. Theo Người,
“để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì “văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung” và “dân
tộc về hình thức”; xây dựng văn hóa dân tộc phải chú ý đến:
1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường;
2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng;
3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội;
4) Xây dựng chính trị: dân quyền;
5) Xây dựng kinh tế.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, Hồ Chí Minh cho rằng phải: Triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc
địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc; phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; tiếp
thu những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa có tính chất dân tộc,
khoa học và đại chúng.
Mục tiêu về các quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh
Với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền
tự do thân thể; có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào; có quyền bầu cử, ứng cử. → lược bớt
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân,
nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.
* Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích (vật chất – tinh thần) của cả cộng đồng người và
lợi ích của những con người cụ thể. Vì Người cho rằng đây là một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa chủ
nghĩa xã hội với những chế độ xã hội trước nó.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; “địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”. Với tư cách là những động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của dân và dân
chủ của dân không thể tách rời nhau.
Về sức mạnh đoàn kết toàn dân: Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng mạnh nhất trong tất cả các lực
lượng. CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ của nhân dân về quyền lợi và quyền hạn, trách
nhiệm và địa vị dân chủ của mình và sự lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội
khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trò quyết định. Theo Hồ Chí Minh, Đảng như người
cầm lái, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Các tổ chức chính trị-xã hội với tư cách là các tổ chức
quần chúng tuy có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều nhất quán về chính trị và
tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; hoạt động vì lợi ích của các thành viên của mình
trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Đấy là những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã
hội chủ nghĩa

Câu 6 Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển của Đảng và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bài làm
Dựa trên sự vận dụng sáng tạo luận điểm về vai trò của Đảng đối với cách mạng của CNMLN vào thực
tiễn CM VN, HCM đã khẳng định tính tất yếu của Đảng về sự ra đời, phát triển cùng vai trò lãnh đạo của ĐCS
VN. Các quan điểm đó gồm:
- Sự ra đời của Đảng trước hết là vì sự sống còn của dân tộc:
+ Sau khi hoàn thành quá trình xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã biến Việt
Nam từ một nước phong kiến độc lập thành nước mang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị
của thực dân Pháp, đời sống của các giai cấp tầng lớp trong xã hội vô cùng thống khổ.
=> Không cam chịu thân phận nô lệ, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc nhưng
đều lần lượt thất bại. Lịch sử đặt ra yêu cầu phải tìm được một đường lối cứu nước đúng đắn nhằm đánh đổ ách
áp bức giành độc lập tự do cho nhân dân. Với lòng yêu nước thương nòi và trí tuệ xuất chúng, Nguyễn Ái Quốc
đã tìm ra con đường cứu nước là đi theo con đường cách mạng vô sản.
+ “Muốn sống thì phải làm cách mạng, mà muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng”: trong thì tổ
chức và vận động dân chúng; ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức, vô sản giai cấp ở mọi nơi.
- HCM khẳng định sự cần thiết phải có Đảng - Đảng cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng:
+ Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa MLN và tư tưởng HCM, vừa mang tính cách mạng vừa có
tính khoa học sâu sắc
+ Đảng có 4 vai trò rất quan trọng: giác ngộ quần chúng; tập hợp, đoàn kết, hướng dẫn quần chúng đấu
tranh; đề ra đường lối đúng đắn; thực hiện đoàn kết quốc tế.
+ Đảng viên là những thành phần ưu tú nhất của dân tộc.
+ Đảng được nhân dân tin cậy, thừa nhận là lực lượng dẫn dắt.
+ Đảng có vững, cách mạng mới thành công, như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy.
- Quy luật ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam : “Chủ nghĩa MLN kết hợp với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”
+ Chủ nghĩa Mác- Lênin: là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động
. Không có chủ nghĩa Mác - Lenin, giai cấp công nhân chỉ dừng ở tình trạng tự phát.
. Không có chủ nghĩa Mác - Lenin, phong trào yêu nước chỉ dừng lại ở yêu nước truyền thống.
+ Giai cấp công nhân và phong trào công nhân: là cơ sở xã hội của Đảng:
. Không có phong trào công nhân thì chủ nghĩa Mác không có “đất" để “bám rễ".
. Nhưng giai cấp công nhân Việt Nam còn non trẻ, số lượng ít. Đòi hỏi phải gắn bó với phong trào yêu
nước
+ Phong trào yêu nước Việt Nam:
.Truyền thống lâu đời.
. Có trước so với giai cấp công nhân và phong trào công nhân.
. Số lượng đông đảo, quy mô rộng lớn
⇒ Đây là quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
*Vai trò lãnh đạo của ĐCS VN: (cần phân tích thêm)
• Đảng lấy CNMLN làm nền tảng tư tưởng, từ đó xây dựng đường lối chiến lược, sách lược CM
• Xác định phương pháp CM: Dùng bạo lực CM đập tan bạo lực phản CM
• Tổ chức, đoàn kết, tập hợp lực lượng CM: Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải
có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng
• Đảng nhận thức và giải quyết các mối quan hệ giữa CMVN với CMTG, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
• Vai trò của ĐCS VN còn được thể hiện ở vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ,
Đảng viên
* Ý nghĩa
- Ý nghĩa lý luận:
+ Bổ sung, làm phong phú và hoàn thiện thêm kho tàng lý luận Mác-Lenin.
+ Tư tưởng mới so với các bậc tiền bối.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đặt cơ sở cho việc tổ chức thành lập Đảng.
+ Chống lại những quan điểm sai trái.
+ Củng cố niềm tin.
⇒ Thực tiễn CM nước ta đã khẳng định vai trò lãnh đạo, tính quyết định hàng đầu từ sự lãnh đạo của
ĐCSVN. Đồng thời cũng khẳng định không có 1 tổ chức chính trị nào khác có thể thay thế đc ĐCSVN.

Câu 7: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
TRẢ LỜI
- Dựa trên những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, cùng với chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi
giai cấp.
- Nhà nước của nhân dân: là nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Người khẳng định: “Trong
nhà nước VNDCCH, tất cả mọi quyền lực đều của nhân dân”. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”.
- Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân
chủ gián tiếp.
+ Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nd trực tiếp qđ mọi vấn đề lq đến vận mệnh QG, dt,
quyền lợi của nd. Nd làm chủ trực tiếp thông qua các cuộc trưng cầu dân ý.
+Dân chủ gián tiếp là (dân chủ đại diện) nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà
họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế QL mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
+ Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Cán bộ là công bộc của dân, nghĩa là gánh
vác việc chung cho dân chứ ko phải để đè đầu dân..
+ Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, bãi miễn những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu
ra và giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
+ Luật pháp dân chủ là công cụ quyền lực của nhân dân.
- Nhà nước do nhân dân:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên sau
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. “Dân là chủ” xác định vị thế của nhân dân đối với
quyền lực nhà nước, còn “dân làm chủ” nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người
chủ.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cũng phải tự giác
phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình.
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân thực thi những quyền
mà Hiến pháp, pháp luật quy định, hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình.
-Nhà nước vì nhân dân.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền lợi,
thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ
quan nhà nước, cán bộ nhà nước đều phải vì nhân dân mà phục vụ. Theo Người, thước đo của một nhà nước vì
dân là phải được lòng dân.
Trong nhà nước vì dân, cán bộ phải vừa là đầy tớ, vừa phải là người lãnh đạo nhân dân.
+ Là đày tớ cho nhân dân thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ... Đó chính là đức.
+ Là người lãnh đạo nhân dân thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần
gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Đó chính là tài.
Để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
Câu 8: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận
dân tộc thống nhất .(Nhóm 1- Chương 5)
TRẢ LỜI
Dựa trên những truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, những đòi hỏi của thực tiễn Việt Nam
và thế giới, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm của mình về nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất:
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức và đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất là nhằm tập hợp tới
mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh
công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Người cho rằng, phải lấy liên minh công nông làm nền
tảng “vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị
áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận Đảng không có lợi ích
riêng mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở khả năng nắm bắt thực
tiễn, phát hiện ra quy luật khách quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương pháp cách mạng
phù hợp, lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Hoạt động của Mặt trận phải dựa theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Mọi vấn đề đều phải được đem
ra để tất cả mọi thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áo đặt hoặc dân chủ
hình thức. Những lợi ích riêng chính đáng cần được tôn trọng; những gì riêng biệt, không phù hợp sẽ dần được
giải quyết bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ
phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Ngoài ra, tổ chức Mặt trận cần đặc biệt quan tâm, xem xét và giải quyết thoả đáng vấn đề này đối với
các thành viên tham gia bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng bàn bạc để đi
đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt và dân chủ hình thức.
Ba là, phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác
biệt. Mặt khác, Người nêu rõ rằng đoàn kết phải gắn với đấu trang, đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết.
Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình
và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
Bên cạnh đó, Người nêu rõ: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải
nhất trí, vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình
trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.”
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển MTDTTN, Đảng luôn đấu tranh chống khuynh hướng
hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả các lực luợng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh hướng đoàn
kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất là
nền tảng tư tưởng cốt lõi, là kim chỉ nam tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luôn được Đảng vận dụng để
tạo nên sự đoàn kết trong quần chúng nhân dân.

Câu 9: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. (Chương 6)
Dựa trên tư tưởng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã có những quan điểm sâu sắc về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
Thứ nhất, bản sắc văn hoá dân tộc là những giá trị văn hoá bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam; là thành quả của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam.
Thứ hai, bản sắc văn hoá dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ: Về nội dung, đó là lòng yêu nước,
thương nòi; tinh thần độc lập,tự cường, tự tôn dân tộc,… Về hình thức, cốt cách văn hoá dân tộc biểu hiện ở
ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm và nghĩ,…
Thứ ba, bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc: Phản ánh những nét độc đáo, đặc tính dân tộc; là ngọn nguồn tìm đến chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Thứ tư, trách nhiệm trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
Hồ Chí Minh chỉ rõ trách nhiệm của con người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy,
phát triển những giá trị của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử.
Theo Người: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Chăm lo cốt cách dân tộc, đồng
thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc, tôn trọng phong tục tập
quán, văn hoá của các dân tộc ít người.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tiếp thu văn hóa nhân loại:
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại “Tinh hoa văn hóa nhân loại là di sản chung của nhân loại, là thành quả lao động, sáng tạo của các
dân tộc trên thế giới. Mọi dân tộc đều có quyền tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại". Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Văn hóa của các dân tộc khác cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được
nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”.
Như vậy, về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh nêu rõ: Mối quan
hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là
điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
Nội dung tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh:
- Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy.
- Mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa
Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là
tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt chăm lo giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc; mặt khác, Người chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu cho
nền văn hóa Việt Nam.
Việc nghiên cứu, phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn
hóa nhân loại còn giúp nâng cao năng lực, tư duy lý luận và phương pháp công tác. Tư tưởng này đã được Đảng
và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sâu rộng hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại càng có ý nghĩa quan trọng.

Câu 10: Nêu quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và trình bày một
chuẩn mực trong đó.
Dựa vào những giá trị truyền thống đạo đức dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại đặc biệt là dựa trên
những quan điểm của Nho giáo, Người đã đưa ra quan điểm của mình, hình thành nên quan điểm Hồ Chí
Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng gồm 4 chuẩn mực đó là:
Thứ nhất là Trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng
Thứ hai là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là tứ đức mà
mỗi người phải có, nếu thiếu một đức thì không thành nhân, là thước đo văn minh và sự tiến bộ của một dân
tộc, đồng thời người cũng coi đó là nền tảng của “đời sống mới”.
Thứ ba là thương yêu con người, sống có tình nghĩa nghĩa. Hồ Chí Minh xác định yêu thương con người
là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Vì yêu thương những người thân, yêu thương nhân dân mà
chấp nhận mọi gian khổ, dành hết sự hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho
người dân hay thậm chí là con người.
Thứ tư là tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu
lên bằng một mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với
nhân dân lao động các nước, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn
thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là tinh
thần hợp tác và hữu nghị.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Thứ nhất, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm
chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là đại
cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là mối quan hệ "với
tự mình". Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đầu tiên cần có của "tư cách một người cách mệnh" là "Tự
mình phải: Cần kiệm,... Nhẫn nại (chịu khó),... Vị công vong tư". Hồ Chí Minh cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính
là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc.
Thứ ba, Hồ Chí Minh quan niệm:
Một là, Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Siêng học tập thì mau biết. Siêng nghĩ ngợi thì
hay có sáng kiến. Siêng làm thì nhất định thành công... Người siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì
chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.
Hai là, Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi". Kiệm tức là tiết kiệm sức lao
động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; không phô trương hình thức,
không liên hoan chè chén lu bù. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng
làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì đù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế
mới đúng là kiệm. Hồ Chí Minh yêu cầu "Phải cần kiệm xây dựng nước nhà".
Ba là, Liêm là liêm khiết, "là trong sạch, không tham lam". Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền
tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao
giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ". "Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm.
Cũng như chữ Kiệm phải đi với chữ Cần”.
Bốn là, Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Hồ Chí Minh yêu cầu:
Với mình, không được tự kiêu tự đại, phải luôn cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, đồng thời
phải hoan nghênh người khác phê bình mình. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý.
Với người, phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên, xem khinh người dưới. Thái độ
phải chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới.
Với việc, phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho
kỳ được, không sợ khó nhọc, nguy hiểm. Bất kỳ việc to việc nhỏ, phải có sáng kiến, kế hoạch, cẩn thận, quyết
làm và làm cho thành công. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước. Lợi cho nước tức là lợi cho mình. Nhiều
lợi nhỏ cộng thành lợi to.
Năm là, Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng, không chút
thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Chí công vô tư
là nêu cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân.
Như vậy, Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có được các đức tính cần, kiệm, liêm, chính thì phải chống chủ
nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế quốc; là một thứ vi trùng rất độc hại, nó đẻ ra hàng trăm
thứ bệnh nguy hiểm như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, thích
địa vị, quyền hành, cơi thường tập thể, tự cao, tự đại, độc đoán chuyên quyền... "Chủ nghĩa cá nhân là một thứ
rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc". "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Nhóm 2: Vận dụng

Lý thuyết làm bài:


- Nêu khái quát tư tưởng của HCM về vấn đề (Gạch ý)
- Nêu thực trạng hiện tại của đất nước về vấn đề đấy
- Vận dụng vào thực tiễn như thế nào?
Câu 1: Vận dụng tư tưởng HCM về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào công cuộc xây dựng
CNXH ở VN hiện nay.
Dựa vào những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, cùng với chủ nghĩa Mác –
Lênin, và đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội:
* Về độc lập dân tộc:
Thứ nhất, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Thứ hai, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Thứ ba, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để
Thứ tư, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
* Về chủ nghĩa xã hội: Theo Hồ Chí Minh, xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội xã hội chủ nghĩa không còn áp bức, bóc lột,
xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân
và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau (nên nhắc đến đặc trưng, mục tiêu của CNXH)

Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã vận dụng nó vào công cuộc
xây dựng CNXH ở Việt Nam rằng:
Thứ nhất, kiên định độc lập dân tộc gắn liền cnxh mà HCM đã xác định
Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù hợp với khát vọng của
nhân dân VN, là sự lựa chọn đúng đắn của HCM và sự khẳng định của ĐCS VN. Ngày nay, Đảng nhận thức rõ:
“ĐLDT là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT. Xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là 2 nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”.
Thứ hai, phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Là phát huy sức mạnh bản chất ưu việt của chế độ xã hội; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân; dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống để nhân dân
tham gia vào tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phát huy sức mạnh dân chủ XHCN không
tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa
vụ công dân… phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức và xử lý nghiêm minh những
hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như tất cả những hành vi vi
phạm quyền dân và quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị.
(thừa)
Đặc điểm của hệ thống chính trị ở VN là tính nhất nguyên và tính thống nhất: Nhất nguyên về chính trị,
tổ chức, tư tưởng; thống nhất dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN, thống nhất về mục tiêu chính trị. Các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở VN có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau, phương thức hoạt
động khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau tạo nên 1 thể thống nhất, phát huy sức mạnh để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện.
Thứ tư, đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nói riêng và thực hiện có hiệu quả toàn bộ công tác xây dựng
Đảng nói chung là những hành động cụ thể, đặt trong bối cảnh cụ thể mà Đảng tiếp tục thực hiện tư tưởng
HCM để Đảng xứng đáng là Đảng cầm quyền, thực hiện được nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong sự nghiệp
xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh để giữ vững nền độc lập
dân tộc trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 2 (nhóm 2): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản vào công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản gồm 2 nội dung:
Thứ nhất đó là tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thứ hai, Đảng phải trong sạch, vững mạnh.
NV2: Thực trạng
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay:
Một là xây dựng Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh
Phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Sai một ly thì đi một dặm, đó là tầm quan trọng của đường
lối, chủ trương của Đảng. Đường lối, chủ trương này phải dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin sáng tạo và tư
tưởng Hồ Chí Minh; phải phù hợp với hoàn cảnh của đất nước từng giai đoạn, thời kỳ.
Phải tổ chức thực hiện thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Phải thể chế hóa và phải biến thành hành
động tích cực nhất của tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt quan trọng là thực thi và phát
huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chiến lược, đặc
biệt quan trọng nữa là người đứng đầu phải nêu cao trách nhiệm làm gương tốt để mọi người noi theo.
Phải chú trọng hơn nữa công tác chỉnh đốn Đảng. Sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp đổi mới
đất nước có thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng, trong đó có sự trong sạch của bản thân
Đảng. Thường xuyên chỉnh đốn nội bộ để Đảng xứng đáng là người cầm quyền, để đảng viên luôn xứng đáng
vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải làm cho Đảng luôn là “Đảng là
đạo đức, là văn minh” như Hồ Chí Minh đã nêu. Cái thiếu nhất hiện nay là sự thống nhất giữa nói và làm trong
Đảng. Phải quán triệt sâu sắc hơn nữa trong Đảng tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh về thống nhất giữa
nói và làm. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để Đảng sử dụng và phát huy tốt quyền lực do dân giao phó
nhằm phục vụ sự phát triển của dân tộc, đưa đất nước tiến những bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cho
đất nước hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như tiêu đề mà Hồ Chí Minh đã viết
trong các văn bản hành chính.
Hai là xây dựng Nhà nước
Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với
tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ
để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản
lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa
vụ của công dân.
Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền
lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ
hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ
thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính
quyền địa phương.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ
trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác
cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp
để thực thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp
bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn
thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn,
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công
chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để
đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền;
thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện và
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ
trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,
pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng
lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ
pháp luật. Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến
lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho sự
thành công của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ vào công tác cán bộ của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ:
Dựa trên những truyền thống dân tộc và đường lối chủ trương của đảng và đòi hỏi về thực tiễn của Việt
Nam,
Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm về công tác cán bộ gồm 6 nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Phải xây dựng những chuẩn mực phù hợp. Không quá xuê xoa,
không quá cầu toàn. Người có thẩm quyền đánh giá phải có đạo đức, công tâm và nhìn nhận mọi mặt.
Thứ hai, phải chú trọng việc huấn luyện, đào tạo cán bộ. Huấn luyện là công việc gốc của Đảng. Việc
huấn luyện phải thiết thực, hiệu quả và có tổ chức.
Thứ ba, Phải khéo sử dụng cán bộ trên tinh thần “dụng nhân như dụng mộc”, tức là đặt người đúng việc.
Thứ tư, biết chiêu hiền, đãi sĩ, cầu người hiền tài, “có gan cất nhắc cán bộ”. Trước khi cất nhắc phải xem
xét kỹ, đặc biệt xem xét quan hệ của họ đối với quần chúng và tình cảm quần chúng dành cho họ. Cất nhắc rồi
cũng phải theo dõi để giúp đỡ kịp thời.
Thứ năm, phải khéo kết hợp giữa các loại cán bộ già với trẻ, cán bộ giỏi chính trị và cán bộ giỏi chuyên
môn, cán bộ Trung ương và cán bộ địa phương
Thứ sáu, phải chăm sóc, yêu thương, lắng nghe tâm tư, ý nguyện và tạo điều kiện để họ làm việc và
khẳng định mình. Đồng thời cần động viên, khích lệ khi cán bộ có thành tích, giúp họ sửa chữa khi mắc sai lầm.
Bên cạnh đó cần hợp lý hóa gia đình và có đãi ngộ vật chất tương xứng với sự đóng góp để họ yên tâm công
tác.
NV2: Thực trạng công tác cán bộ của Đảng hiện nay (chưa đúng vị trí, bè cánh…)
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay:
Công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác cán bộ
của Đảng. Trong những năm qua, Đảng ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với mảng công tác trọng yếu này.
Qua 30 năm thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã cho thấy những
thành tựu to lớn đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng không ngừng được kiện toàn, được đào tạo cơ
bản và tương đối toàn diện về chính trị cũng như chuyên môn, nghiệp vụ. Chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước
được nâng cao, cơ bản bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển. Đặc biệt là đã xuất hiện nhiều cán
bộ trẻ tài năng, là nguồn kế cận thế hệ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp chiến lược trong tương lai với tư duy, tầm
nhìn mới.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, công tác cán bộ của Đảng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Đánh giá
cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất. Đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh. Năng lực chưa
đồng đều; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp. Trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch, trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và những mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, nhiều
cán bộ của Đảng đã bị thoái hóa, biến chất, tình trạng ngại phấn đấu, rèn luyện đã xuất hiện trong số cán bộ trẻ.
Trong những năm tới, để có bước đột phá trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, công tác cán bộ của Đảng phải triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó
có việc tiếp tục quán triệt và vận dụng các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Với các
nội dung lớn sau:
Một là, cần làm tốt hơn nữa việc lựa chọn, sàng lọc cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm,
nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm
nhiều. “Dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được” … Để
công cuộc đổi mới, phát triển đất nước đi đến thành công Đảng cần có những cán bộ tài năng. Cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp phải có trách nhiệm trong việc tìm kiếm, huy động người tài tham gia vào bộ máy hệ thống chính
trị, bố trí và sử dụng một cách hiệu quả. Song song với tuyển dụng, bố trí, thu hút nhân tài, việc sàng lọc cán bộ
phải được tiến hành một cách quyết liệt; phải kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức những cán bộ suy thoái, biến chất,
những cán bộ nói mà không làm, những người năng lực yếu không thể đảm đương nhiệm vụ. Để làm được điều
này, phải đề cao dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; phải tăng cường kỷ luật Đảng, tăng
cường kiểm tra, giám sát những người làm công tác cán bộ. Công tác cán bộ phải được đặt dưới sự giám sát của
các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, phải thường xuyên lắng nghe, tiếp thu
ý kiến từ Nhân dân.
Bên cạnh việc phát huy trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, để nâng cao chất lượng cán bộ, trước hết phải
phát huy trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, những người làm công tác tổ chức cán bộ, phải đề
cao vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng. Quá trình rà soát, lựa chọn, đánh giá, sử dụng, đề bạt cán bộ phải được
tiến hành nghiêm túc, phải thật sự công tâm để nhìn cho đúng, tìm cho được những người có tài, có đức cho đất
nước. Kiên quyết loại bỏ thói hư, tật xấu trong sử dụng cán bộ như: dùng người quen, người nhà để dễ bề cai
trị… Thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng mới ban hành về công tác cán bộ, rà soát kỹ
chất lượng chính trị, thực hiện phân cấp, phân quyền và chịu trách nhiệm trong đề cử, tiến cử nhân sự vào quy
hoạch.
Việc lựa chọn, sàng lọc cán bộ phải được triển khai có lộ trình, tính liên thông và bám sát quan điểm,
nguyên tắc đã đề ra trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị. Cụ thể như, Nghị quyết số 39-
NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 36-QĐ/TW, ngày 19/7/2017 về luân chuyển cán
bộ; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 21/5/2018 và Kế hoạch số 10-KH/TW, ngày 06/06/2018 về tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của
Đảng… Theo đó, cần làm tốt hơn nữa công tác cán bộ. Công tác nhân sự cần tiến hành từng bước, từng việc,
chắc chắn, thận trọng, chặt chẽ, đúng quy trình, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, nhưng
phải thật sự đúng người, đúng việc. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm
việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp...
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người
có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy cơ cấu, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng, bảo
thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm…
Hai là, thực hiện nghiêm các khâu, các quy trình trong công tác cán bộ, tăng cường luân chuyển để
đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn cán bộ
Để có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, trước hết, phải tiến hành
xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo vị trí việc làm. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói “dùng người như dùng gỗ”, phải bố trí cán bộ theo vị trí, đúng năng lực, đúng chuyên môn để từ
đó phát huy hiệu quả, dễ đánh giá, quy hoạch, đào tạo; đồng thời, thông qua đó phát hiện những kẻ “hủ hoá”,
những người thoái hoá biến chất, nhất là những kẻ cơ hội về chính trị để loại bỏ ra khỏi bộ máy của Đảng và
Nhà nước. Việc luân chuyển cán bộ không chỉ để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, đó còn là giải pháp để
khắc phục tình trạng phe nhóm, cục bộ trong lãnh đạo, quản lý ở các cấp, chữa căn bệnh “hẹp hòi”, bệnh “địa
phương cục bộ” trong công tác cán bộ. Tạo cho cán bộ luôn có môi trường thuận lợi để phấn đấu, trưởng thành.
Trong thực hiện quy trình 5 bước quy hoạch cán bộ, phải tránh làm “qua loa, đại khái” và không để xảy ra
tình trạng lợi dụng quy trình để đưa người cùng phe cánh vào quy hoạch. Làm đúng quy trình, phát huy trách
nhiệm của cơ quan tổ chức cán bộ và các thành viên cấp ủy để tìm được người tài, bố trí cán bộ đúng việc, phát
huy tối đa năng lực của cán bộ. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã chỉ rõ: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
“Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; thể chế hóa, cụ thể hóa các
nguyên tắc về xây dựng Đảng; tiếp tục ban hành và thực hiện các quy chế, quy định trong công tác cán bộ bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; có quy chế về đánh giá đúng
đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức,
chạy tuổi, chạy bằng cấp...
Để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện, thông qua thực tiễn để đánh giá năng lực và sàng lọc
cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, cấp ủy các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương cần phải tiếp
tục quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/06/2017 về “Luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp”, Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận số 37-KL/TW, ngày 02/02/2009
về “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị
quyết số 12-NQ/TW, ngày 03/06/2017 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận số
24-KL/TW, ngày 06/05/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Làm tốt khâu luân chuyển, bố trí cán
bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương còn là một giải pháp hữu hiệu trong đấu tranh
ngăn chặn tình trạng cục bộ, cát cứ trong công tác cán bộ tại các bộ ngành và địa phương.
Ba là, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ và công tác cán bộ
Việc tổng kết hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã ghi nhận nhiều thành tựu to lớn, nhưng cũng đồng thời
rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng. Một trong những bài học kinh nghiệm đáng lưu ý đó là công
tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ và công tác cán bộ. Những vụ án lớn mà Đảng và Nhà nước chỉ đạo triển
khai những năm gần đây đã cho thấy rõ điều này. Đã có hàng ngàn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp bị đưa ra
xem xét, xử lý kỷ luật về đảng và truy tố trước pháp luật, trong đó có cả những cán bộ ở cấp cao như Ủy viên
Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương… Nhiều ban thường vụ, tập thể ban chi ủy đã phải chịu trách
nhiệm và nhận các hình thức kỷ luật của Đảng về tình trạng vi phạm của cán bộ, đảng viên. Nguyên nhân
không có gì mới, vẫn là bài học cũ về buông lỏng kiểm tra, giám sát, là bài học mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nhắc: Kiểm tra, giám sát để xem xét công tác, học tập, giúp đỡ người tiến bộ ít, khen ngợi người tiến
bộ nhiều, phát huy mặt tích cực, khắc phục, sửa chữa những sai lầm, thiếu sót. Việc kiểm tra, giám sát phải
được tiến hành thường xuyên, phải lấy hiệu quả công tác để đánh giá, phải đề cao dân chủ, lắng nghe ý kiến của
các đoàn thể và nhân dân về cán bộ. Cần phải khắc phục triệt để tình trạng như đã diễn ra vừa qua ở nhiều cấp,
nhiều nơi, cán bộ vi phạm kỷ luật nhưng tổ chức không biết, khi được phản ánh thì bao biện, bao che. Làm như
thế là làm hại cán bộ, làm cho công tác cán bộ của Đảng kém hiệu quả.
Để làm tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ và công tác cán bộ, cấp ủy các cấp cần phải tiếp tục
quán triệt, triển khai các nhiệm vụ và giải pháp đề ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X và các
chỉ thị, nghị quyết đã ban hành trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Việc kiểm tra, giám sát trước hết tập
trung vào công tác lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, phải bắt đầu từ quy trình trách nhiệm đối với từng khâu,
từng bước trong công tác cán bộ. Đối với các trường hợp cán bộ vi phạm khuyết điểm, việc kiểm tra, giám sát
không chỉ đánh giá trách nhiệm cá nhân của cán bộ đó, mà phải bắt đầu từ trách nhiệm giới thiệu quy hoạch,
giới thiệu ứng cử, đề cử và bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành công khai, minh bạch và
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, để với mỗi một sai lầm, khuyết điểm sau khi
được nhìn nhận và đánh giá đều tạo nên một bài học để cán bộ, đảng viên sửa chữa và khắc phục, công tác cán
bộ của Đảng ngày càng hiệu quả.
➔ Lược bớt

Câu 4: VD TTHCM về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vào xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (nhóm 11)
Đặt vấn đề:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; có
nền dân chủ lập hiến, quản lý đất nước bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một hoàn
thiện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng qua các thời kỳ.
a. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân: (lược bớt)
- Thứ nhất, bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân”.
- Thứ hai, Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta xây dựng là nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Thứ ba, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi.
→ Bổ sung thực trạng:
b. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện tại.
● Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì
độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
- Lựa chọn ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những
công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
⇒Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân
chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng
nước ta.
Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng
quyền làm chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
● Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước
kiểu cũ.
- Kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân
dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
● Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
- Ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức,
đảng viên, những người có chức, có quyền
- Đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái
hóa đạo đức, làm hại dân, hại nước.
- Cán bộ các cấp phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng
phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
● Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên
quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu.
- Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm
minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền.
=> Vì vậy phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công
chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh
● Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan
quyền lực của Nhà nước
Cùng với nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công
chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính
nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
● Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo
đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ
thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con
đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Câu 5: VD TTHCM về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vào xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh ở nước ta hiện nay
- BỔ SUNG NV1, NV2
- Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật
=> nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước
=> bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ,
kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng
đạo đức xã hội.
- Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân
Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.
Đồng thời quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính
quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan của nhà nước ở Trung ương và địa
phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
- Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Đảng phải tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách
về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi
tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: + có bản lĩnh chính trị vững vàng,
+ phẩm chất đạo đức trong sáng,
+ có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp
=> để thực thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
● Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện;
● mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý.
● Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ;
● xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan hành chính.
● Rà soát, sửa đổi bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công
chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ;
● lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ.
● Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
- Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
- Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
Đảng +lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn,
● lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực để thực thi tốt trách nhiệm công vụ,
● lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật;
● chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp;
● các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ pháp luật.
Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt
Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho sự thành
công của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 6 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc vào xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc ở nước ta hiện nay
Bài làm
Dựa trên những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại cùng nhu cầu đòi hỏi của thực
tiễn cách mạng Việt Nam, HCM đã có những quan điểm về đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc ở nước ta.
*Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc:
- Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng; là
chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng việt nam, là vấn đề mang tính sống còn; Chính sách và phương
pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song
không được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh,là then chốt của thành công”, “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,thành công, đại thành công
+ Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết toàn
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ
đường lối, chủ trương,chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do
quần chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách
quan của quần chúng
- Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. toàn thể nhân dân,
tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các
lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái, v.v
+ Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: là công nhân, nông dân và trí thức. Nền tảng càng được
củng cố vững chắc, khối đại đoàn kết ngày càng được mở rộng, không thế lực nào có thể can thiệp hoặc làm
suy yếu khối đại đoàn kết ấy.
- Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời phải tôn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng.
+ Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
+ Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người.
+ Phải có niềm tin vào nhân dân.
- Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Mặt trận dân tộc thống nhất
+ Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Làm tốt công tác vận động quần chúng, dân vận.
+ Thành lập đoàn thể, tổ chức tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần chúng.
+ Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất.
*Đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay:
• Nhận thức và hiểu rõ được tầm quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Nhà
nước ta ngày nay tiếp tục chủ trương noi theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh:
• Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết dân tộc, về
công tác dân tộc, về tôn giáo, về người Việt Nam ở nước ngoài, từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp
lệnh, chính sách và ngày càng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
• Nhiều cấp ủy đảng đã quan tâm hơn đến sự nghiệp đại đoàn kết, đến công tác dân vận và công
tác mặt trận, củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ, phương tiện và điều kiện cho công tác mặt trận. Chính
quyền ở nhiều cấp, nhiều địa phương đã thật sự có chuyển biến trong nhận thức và hành động về quan hệ với
nhân dân.
• Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của Nhà nước được ban hành nhằm chăm lo
đời sống cho nhân dân đã thực hiện có kết quả. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước được phát huy.
• Sự đổi mới hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào việc động viên nhân dân và cán bộ
hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng.
⇒ Đó là những nhân tố rất quan trọng, là động lực chủ yếu bảo đảm sự ổn định chính trị – xã hội và
thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
• Cùng với những tiến bộ và chuyển biến nêu trên, nhiều vấn đề mới đã và đang nảy sinh trong
quá trình đổi mới như:
• Sự chuyển hóa của các tầng lớp giai cấp làm xuất hiện chênh lệch ngày càng lớn giữa các vùng
miền, và các tầng lớp nhân dân, giữa thành thị với nông thôn.
• Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tiếp tục khai thác những thiếu sót, yếu
kém của đất nước ta hòng phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc ta.
⇒ Vì vậy, tuy đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường, song chưa thật
vững chắc và đang đứng trước những thách thức không thể xem thường
*Giải pháp:
Để khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua, đồng
thời tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
-Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và của toàn dân.
-Kiên trì thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, khoan dung, cùng nhau hợp sức xây dựng
cho được một xã hội đồng thuận cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định, phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước.
- Nâng cao nhận thức về vai trò, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc: Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền
làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, mọi người Việt Nam nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khối đại đoàn kết
dân tộc.
- Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và các giai tầng, các giới trong
toàn dân tộc.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân
dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
- Tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối hợp giữa chính quyền các cấp với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội làm công tác dân vận.
- Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.

Câu 7: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ quốc tế của nước ta
hiện nay.
TRẢ LỜI
1. Khái quát lý thuyết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
- Đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức.
+ Đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và toàn thể nhân dân thuộc các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
+ Đoàn kết giữa các nước, các dân tộc thuộc địa.
- Đoàn kết giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với phong trào cách mạng vô sản ở
chính quốc.
+ Đoàn kết giữa nhân dân lao động ở thuộc địa và nhân dân lao động tại chính quốc.
+ Đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở thuộc địa và giai cấp vô sản tại chính quốc.
+ Sự tương quan, liên kết, tác động lẫn nhau của cách mạng giải phóng thuộc địa và ác mạnh vô sản
chính quốc.
- Đoàn kết giữa các Đảng cộng sản và các nước trong cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa.
- Đoàn kết với các nước láng giềng, các nước trong khu vực.
+ Đoàn kết với các nước trong khu vực Châu Á.
+ Đoàn kết với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
+ Đoàn kết với các nước cùng chung biên giới: Trung Quốc, Lào, Campuchia.
+ Đoàn kết giữa ba nước cùng thuộc khu vực bán đảo Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia.
- Đoàn kết với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

2. Đoàn kết quốc tế trong quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xâm lược
Mỹ. Nhờ quan điểm đoàn kết đúng đắn đó của Người mà ở Pháp và Mỹ đã dấy lên phong trào các tầng lớp
nhân dân đòi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại vẻ vang của
dân tộc, nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển
và hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối
ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay.
Một là, đẩy mạnh vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế
trong quá trình hoặch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Để làm được điều này, toán Đảng, toàn dân cần nhận thức rõ đối tượng cũng như cách thức để
vận dụng và phát triển: cần phải “vận dụng” một cách đúng đắn, sáng tạo và “phát triển” đúng hướng, đảm bảo
tính kế thừa.
Để phát triển, nâng cao giá trị của tư tưởng, lí luận của Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc
tế, toàn Đảng toàn dân cần phải liên tục trau dồi, đẩy mạnh tuyên truyền, tích cực cập nhật và nâng tầm nội
dung tư tưởng.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu
rộng và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc.
Để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và hóa giải các thách thức, ứng phó tốt với
những chuyển biến về chính trị - xã hội, toàn Đảng, toàn dân cần ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự
nghiệp làm nên bởi chữ Đồng. Theo đó, cần chú trọng đề cao việc xây dựng và giữ gìn đoàn kết và đồng thuận
trong nước, với mục tiêu lớn nhất, cao nhất là phải kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Để làm được
điều này, ta cần vận dụng và sáng tạo một cách hiệu quả nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc
tế, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”; thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Điểm
mấu chốt là giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử trí các thách thức đối ngoại, tranh
thủ điểm tương đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và
tôn trọng luật pháp quốc tế.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp tác về
kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới.
Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an
ninh với các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; giữa đối
ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết, kiên trì
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; tiếp tục duy trì mối
quan hệ với các đối tác - trước tiên là với các nước láng giềng, các nước lớn, cần chú trọng ngoại giao theo
chiều sâu, ổn định, hiệu quả, tăng cường hợp tác đa lĩnh vực; đồng thời xử lý các vấn đề nảy sinh trên tinh thần
hợp tác, hữu nghị, hòa ái, tránh chiến tranh và tôn trọng luật pháp quốc tế cũng như thông lệ khu vực.

Câu 8: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng văn hóa Việt Nam hiện
nay.( nhóm 2- chương 6)
Trả lời:
Ban chấp hành trung ương Đảng khẳng định:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
- Vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy nền kinh tế xã hội
- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri
thức giữu vai trò quan trọng.
- Văn hóa là 1 mặt trận, xây dựng phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi
phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng văn hóa Việt Nam hiện nay
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ
- Phải làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển
- Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thâm mĩ ngày càng cao
- Phát triển nâng cao chất lượng sáng tạo văn học nghệ thuật
- Khẳng định biểu dương các giá trị chân, thiện, mĩ, phê phán những cái lỗi thời thấp kém, đấu tranh
chống những biểu hiện văn hóa. Đảm bảo quyền được thông tin, quyền được tự do sáng tạo của công dân.
- Phát triển phương tiện thông tin đại chúng, đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng kịp thời,
phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
- Cần nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ vai trò sứ mệnh của văn hóa đối với sự nghiệp phát triển
bền vững. Mỗi bước phát triển đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn hóa
- Cần nhận thức những yếu tố bản chất của văn hóa. Văn hóa còn thì chế độ còn, văn hóa mất thì chế
độ mất, không có gì đáng sợ bằng văn hóa lâm nguy.
- Phát triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội.
- Phát huy và trọng dụng nhân tố con người với tư cách là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo.
- Trọng dụng tri thức nhân tài. Thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người, tạo
động lực mạng mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Câu 9: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào xây dựng đạo đức cách mạng ở nước ta
hiện nay. (Chương 6)
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ truyền thống đạo đức dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại, đạo
đức cộng sản Mác - Lênin và sự tu dưỡng, rèn luyện không mệt mỏi của Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, Tư tưởng HCM về đạo đức:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc của
Người về những chuẩn mực và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới khác về chất so với nền đạo đức
cũ, nhằm phát triển toàn diện con người trong thời đại mới. Hồ Chí Minh xây dựng nền đạo đức cách mạng với
hai nội dung cơ bản:
- Xây dựng hệ thống những chuẩn mực của nền đạo đức mới. Tổng hợp những chuẩn mực đó thành
phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, tập thế…
- Xây dựng những nguyên tắc trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức mới. Hai nội dung này nhằm
mục đích phát triển con người một cách toàn diện, hướng tới các giá trị cao đẹp Chân - Thiện - Mỹ.
Về vai trò và sức mạnh của đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng:
- Đạo đức là gốc, là nền tảng là nhân tố chủ chốt của người cách mạng. Trong tương quan giữa đức
và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là “gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ chốt” của người cách
mạng.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội.
Về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:
Người cho rằng chuẩn mực đạo đức của mỗi cá nhân là phải phấn đấu, rèn luyện thường xuyên. Đặc biệt,
cán bộ, đảng viên cần:
- Trung với nước, hiếu với dân.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa.
- Tinh thần quốc tế trong sáng.
Về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cũng đề ra các quan điểm:
- Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.
- Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
- Tu dưỡng đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng.
Thứ hai, thực tiễn xây dựng đạo đức cách mạng ở Việt Nam hiện nay:
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đáp ứng với đòi hỏi của tình hình cách
mạng đặt ra ở mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cấp ủy đảng và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa
phương đã quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh niên
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; triển khai nhiều chương trình, dự án, … Qua
đó, nhiều thanh niên đã trở thành nguồn cán bộ có chất lượng; những doanh nhân trẻ thành đạt, những gương
điển hình tiên tiến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn một số
hạn chế: một số cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự chú trọng đến việc giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên; còn nặng về hình thức, chưa chú trọng đến nội dung, đi sâu vào những
vấn đề đặt ra cần tập trung giáo dục cho thanh niên, như: ý chí, khát vọng vươn lên trong công việc, cuộc sống,
tình yêu thương với quê hương, đất nước; kỹ năng sống; hoạt động thực tiễn; khả năng chịu đựng những khó
khăn, vất vả ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của thanh niên vẫn chưa nhiều, chủ yếu chọn nơi sinh sống,
làm việc có nhiều thuận lợi, điều kiện về cơ sở vật chất, kinh tế; một số thanh niên thiếu tu dưỡng phấn đấu rèn
luyện, học tập, sống buông thả, thờ ơ, bàng quan với bản thân, gia đình và xã hội; thậm chí có nhiều thanh niên
vi phạm pháp luật.
Thứ ba, vận dụng vào tình hình nước ta:
Để khắc phục những hạn chế nói trên, trong thời gian tới, cần kế thừa, vận dụng tư tưởng của Hồ Chí
Minh vào thực hiện tốt một số định hướng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân như sau:
Một là, thống nhất nhận thức và quán triệt sâu sắc về tầm quan trọng và nội dung của giáo dục đạo đức
trong toàn Đảng, toàn dân.
Cần nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, đặc biệt là trong
bối cảnh có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân
như hiện nay. Trước hết, cần nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục đạo đức trong việc đào tạo các thế
hệ công dân ưu tú cho đất nước; tiếp đó là thống nhất nội dung giáo dục đạo đức phải bao gồm toàn diện các
phẩm chất như: Nhân, Dũng, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Đồng thời, phải đặt giáo dục
đạo đức trong mối quan hệ mật thiết với trí dục, thể dục, mỹ dục... nhằm hun đúc các thế hệ công dân Việt Nam
phát triển toàn diện về mọi mặt.
Hai là, chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu
của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay. “Chú
trọng hơn giáo dục đạo đức, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào,
tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao
tầm vóc con người Việt Nam”.
Ba là, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, giảng
viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, nhằm tạo điều kiện, tiền đề, động lực thúc
đẩy công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân đạt hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân, trước hết phải nâng cao đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; cán bộ, đảng viên phải
chuẩn mực, gương mẫu để quần chúng nhân dân noi theo. Cần đặc biệt quan tâm nâng cao đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục như giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng. Tấm gương đạo đức sáng ngời của đội ngũ này có khả năng thuyết phục, tạo động lực to
lớn đối với người học trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện. Người giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục
không chỉ cần trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, thấm nhuần đạo
đức cách mạng và luôn nêu gương tốt.
Như vậy, cùng với giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải
đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phải xây dựng cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân.

Câu 10: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước Việt Nam. Ông coi trọng con người không chỉ là nhân tố quan trọng mà còn là động lực chủ
động, sáng tạo để phát triển đất nước. Để áp dụng tư tưởng này vào việc xây dựng con người Việt Nam hiện
nay, chúng ta cần tìm hiểu và áp dụng những giá trị cốt lõi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền đạt.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tôn trọng, yêu quý
con người. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của con người trong mọi hoạt động và phát triển xã hội. Điều này
đồng nghĩa với việc chúng ta cần phải đặt con người lên trên hết, tạo điều kiện để họ phát triển toàn diện về văn
hóa, giáo dục, và sức khỏe. Chúng ta cần tạo ra môi trường làm việc tích cực, tạo động lực để mọi cá nhân có
thể phát huy tối đa khả năng của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng coi trọng việc giáo dục con người. Ông luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng
của giáo dục trong việc phát triển con người và xã hội. Để áp dụng tư tưởng này vào hiện thực, chúng ta cần
đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống giáo dục, nâng cao chất lượng giáo viên, và đổi mới phương pháp giảng dạy.
Giáo dục không chỉ là việc truyền đạt kiến thức mà còn là việc nuôi dưỡng tinh thần tự chủ, sáng tạo và trách
nhiệm trong con người.
Ngoài ra, tư tưởng về tình yêu quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là nguồn động viên quan trọng
để xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Tình yêu quê hương không chỉ là niềm tự hào về lịch sử, văn hóa
của dân tộc mà còn là động lực để hành động, đóng góp cho sự phồn thịnh của đất nước. Để thực hiện điều này,
chúng ta cần tăng cường giáo dục về lịch sử, văn hóa, đặc biệt là những giá trị truyền thống và lòng yêu nước
trong tâm hồn mỗi người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khuyến khích tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong xã hội. Việc xây
dựng con người Việt Nam hiện nay cũng cần chú trọng đến tinh thần đoàn kết, lòng hiếu thảo, và sự chia sẻ.
Chúng ta cần khuyến khích tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau vượt qua khó khăn và phát triển
cộng đồng.
Cuối cùng, việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào xây dựng con người Việt Nam hiện nay
đòi hỏi sự nhìn nhận đa chiều, kết hợp sự học hỏi từ các giá trị truyền thống và tiếp nhận những đổi mới, hiện
đại. Chúng ta cần tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện và góp phần tích cực vào sự phồn thịnh của
đất nước.
Nhóm 3: Sáng tạo
Câu 1: Đề xuất quan điểm của mình về ý nghĩa của việc học tập môn TTHCM:
* Nâng cao năng lực tư duy:
- Góp phần trang bị cho sinh viên tri thức khoa học về hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách
mạng Việt Nam; hình thành năng lực, phương pháp làm việc, niềm tin, tình cảm Cách mạng; góp phần củng cố
cho sinh viên về lập trường, quan điểm Cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng HCM; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan
điểm sai trái để bảo vệ sự trong sáng của CNMLN, TTHCM.
- Biết vận dụng TTHCM vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực tư duy lý luận của
mỗi người là điều rất cần thiết để giúp giải quyết được yêu cầu do cuộc sống đặt ra. Năng lực đó được hình
thành và phát triển từ nhiều nguồn, trải qua nhiều giai đoạn của cuộc sống, nhưng giai đoạn đang nghiên cứu ở
trường đại học rất quan trọng, nó gắn liền với tuổi trẻ của con người
* Giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin khoa học gắn liền với trau dồi tình
cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước, rèn luyện bản lĩnh chính trị:
- Qua nghiên cứu môn học TTHCM, người học có điều kiện hiểu biết sâu sắc và toàn diện về cuộc đời và
sự nghiệp của HCM, lãnh tụ của Đảng, người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ kiên cường đấu
tranh vì độc lập, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tiến bộ giữa các dân tộc trên thế giới, trong đó đặc biệt là học
tập tư tưởng của Người, học tập gương sáng của một con người suốt đời phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân
- Sinh viên nghiên cứu môn học TTHCM sẽ có điều kiện tốt để thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân, chống “giặc nội xâm” để lập thân, lập nghiệp, sống có ích cho xã hội, yêu và làm những điều tốt,
điều thiện, ghét và tránh cái xấu, cái ác; nâng cao lòng tự hào về đất nước Việt Nam, về chế độ chính trị xã hội
chủ nghĩa, về HCM, về ĐCS VN và nguyện “sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”
* Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác:
- Qua nghiên cứu môn học TTHCM, người học có điều kiện vận dụng tốt hơn những kiến thức và kỹ
năng đã nghiên cứu, học tập vào việc xây dựng phương pháp học tập, tu dưỡng, rèn luyện phù hợp với điều
kiện cụ thể của từng người, từng địa bàn
- Người học có thể vận dụng xây dựng phong cách tư duy, diễn đạt, làm việc, ứng xử, sinh hoạt phù hợp
với từng lúc, từng nơi theo phương châm HCM: dĩ bất biến ứng vạn biến
- TTHCM có tác dụng góp phần tích cực trong việc giáo dục thế hệ trẻ tiếp tục hình thành và hoàn thiện
nhân cách, trở thành những chiến sĩ tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội
chủ nghĩa, góp phần làm cho đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như khát vọng của HCM và của
mỗi người VN yêu nước.

Câu 2 (nhóm 3): Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại cùng
với đó là những đòi hỏi từ thực tiễn của Cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã phát triển và sáng
tạo để đưa ra những tư tưởng của mình về cách mạng giải phóng dân tộc.
ND1: TTHCM về con đường cmvs sáng tạo ntn?
Thứ nhất, cách mạng giải phóng muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản → so với
truyền thống
Để giải phóng dân tộc, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng, chính trị
khác nhau như phong kiến, dân chủ tư sản; sử dụng những vũ khí, tư tưởng khác nhau. Nhưng rốt cuộc đều bị
thực dân Pháp dìm trong bể máu… Hồ Chí Minh không tán thành các con đường ấy mà quyết tâm ra đi tìm một
con đường cứu nước mới
Sau gần 10 năm tìm hiểu (1911 - 1920), khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người nhận
thấy:
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng
là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.”
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản mà còn là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt
họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Chính vì lẽ đó, Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản.”
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
➔ So với các tiền bối?
➔ So với CNMLN?
Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng, nhưng dân chúng có được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo
theo đường lối đúng đắn của Đảng mới trở thành lực lượng to lớn.
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tháng 2/1930, là một chính Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc
Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên lạc mật
thiết với quần chúng.
Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp
công nhân và của cả dân tộc Việt Nam.
Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và
trở thành nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông
➔ So với các tiền bối đi trước?
➔ So với CNMLN:
lực lượng thực hiện là giai cấp công nhân (CNMLN),
lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân, ngoài giai cấp công nhân thì đa phần là nông dân và
gồm các giai cấp khác trong dân tộc: tư sản dân tộc, tri thức, địa chủ, tiểu địa chủ,…
Xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc và cách mạng là sự nghiệp của quần chúng:
Năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương phải có tính
chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn
bị trong quần chúng.
Người phê phán lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động, xúi dân bạo động mà
không bày cách tổ chức.
Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Phải
dựa vào dân, lấy dân làm gốc, có dân là có tất cả
Lực lượng cách mạng toàn dân tộc (công, nông, thương,...)
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, Bác phân tích: “dân tộc cách mệnh thì phân chia giai cấp, nghĩa là sĩ,
công,nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc.
Trong đó, công, nông là gốc của cách mạng, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn
đồng minh của cách mạng
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa gắn bó khăng khít với cách mạng vô sản ở
chính quốc
➔ CNMLN: cm gpdt ở thuộc địa cũng có thể giành thắng lợi nếu các cuộc cmvs ở chính quốc giành được
thắng lợi và quay trở lại giúp đỡ các cuộc cm ở thuộc địa >< Sáng tạo: HCM nhìn thấy sức mạnh to lớn của lực
lượng các cuộc cmgpdt ở các nước thuộc địa
 Ý nghĩa:

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản
ở chính quốc.
Vận dụng quan điểm, Hồ Chí Minh cho rằng: “công cuộc giải phóng ở các nước thuộc địa chỉ có thể thực
hiện bằng sự nỗ lực của chính mình, không nên ngồi chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài.”
8/1945, khi thời cơ xuất hiện, Người đã kêu gọi: “toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta.
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết
hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng
khởi nghĩa giành thắng lợi
Các thế lực đế quốc đã sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào
yêu nước. Vì thế, con đường giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Tùy theo tình
hình mà có những hình thức đấu tranh thích hợp.
Trong di sản Hồ Chí Minh, tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện
chứng với nhau. Hồ Chí Minh luôn tranh thủ mọi khả năng có thể để giành, giữ nền độc lập dân tộc mà ít mất
mát, hy sinh, đổ máu nhất. Người tìm mọi cách để hạn chế xung đột, chiến tranh, giải quyết vấn đề trên cơ sở
hòa bình, thương lượng thậm chí nhượng bộ nhưng có nguyên tắc.
 Kết luận: Là sáng tạo quan trọng của HCM về phương pháp cm, so với những nhà cm tiền bối
Câu 3 (Nhóm 3): Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Dựa trên thực tiễn dân tộc, tinh hoa nhân loại đòi hỏi thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã
sáng tạo chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội gồm những điều sau:
Một là, khẳng định tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ từ góc độ kinh tế mà từ nhu
cầu giải phóng dân tộc, phát triển văn hóa và đạo đức.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. Người đã tìm thấy
trong học thuyết khoa học và cách mạng của Mác con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội và giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã thấy được giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc trong mục tiêu lý
tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đối với Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là ước mơ, mục tiêu lý tưởng của
cách mạng Việt Nam, đó là sự nhất quán con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, xuất phát từ hoàn cảnh một nước thuộc địa mất độc lập, tự do, Hồ Chí Minh ra đi năm 1911 là
để tìm con đường giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, không theo con đường của các bậc tiền bối. Chính từ
khát vọng giải phóng dân tộc, trải qua nhiều năm khảo sát, tìm tòi, Người biết đến cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã đến với chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội mới có thể giải phóng các dân tộc một cách
triệt để. “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm
gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.Muốn vậy, giá trị của độc lập,
tự do, hạnh phúc chỉ tìm thấy được trong chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có được giá trị chân
chính của độc lập và tự do.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, hướng tới chủ nghĩa nhân văn cao cả.
Theo Người, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội vừa ở mức sống vật chất, vừa ở giá trị đạo đức của xã hội, ở
phẩm chất đạo đức của những người cộng sản ưu tú. Việc giảm sút niềm tin của quần chúng vào tương lai của
chủ nghĩa xã hội, không phải ở những sai lầm và thất bại tạm thời mà chủ yếu là ở sự sa sút, thoái hóa của
những người được mệnh danh là “những chiến sĩ tiên phong” trước thuận lợi hay khó khăn của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, phong trào cộng sản quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh loài người
chẳng những là do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo
đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch. Đạo đức chính là nhân tố quan trọng làm
nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. “Có gì sung sướng và vẻ vang hơn là trau dồi đạo
đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”. Đối
với Hồ Chí Minh, đạo đức cao cả nhất là đạo đức cách mạng, đạo đức giải phóng dân tộc, giải phóng loài
người. Chủ nghĩa xã hội vì vậy cũng là giai đoạn phát triển mới của đạo đức.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Việt
Nam là một nước nông nghiệp, lấy đất và nước làm nền tảng nên đòi hỏi rất nhiều nhân lực. Địa hình Việt Nam
rất đa dạng, phức tạp, lại nằm trong vùng nhiệt gió mùa, người dân Việt Nam phải thường xuyên vật lộn, chống
chọi với thiên tai khắc nghiệt. Chế độ công điền và công cuộc trị thủy sớm gắn kết con người Việt Nam lại với
nhau. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đứng lên để chống giặc ngoại xâm, đó là những nhân tố
quan trọng hình thành nên tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam – một nhân tố thuận lợi để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Con người Việt Nam có tâm hồn trong sáng, giàu lòng vị tha, yêu thương đồng loại, kết hợp được cái
chung với cái riêng, gia đình với Tổ quốc, dân tộc và nhân loại… chính những truyền thống tốt đẹp của văn hóa
và con người Việt Nam đã tạo nên bản sắc văn hóa tốt đẹp của người Việt, là một trong những cơ sở dẫn dắt Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội. Như Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
Bản chất của chủ nghĩa xã hội tự nó đã thể hiện những văn hóa tốt đẹp; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người. Nói đến văn hóa là nói đến con người,
theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết là xây dựng con người có văn hóa, có trình độ, năng
lực… và Người đã từng nhắc nhở: Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa, nếu
thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được.
Đối với Hồ Chí Minh: muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Hai là, khẳng định chân lý mới mẻ: “Chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu
Âu”.
Thực tiễn xã hội phương Đông, ngay từ rất sớm đã xuất hiện tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai, những tư
tưởng tiến bộ trong “thuyết đại đồng” và truyền bá sự bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Khổng Tử từng nói,
thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng, “Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều. Bình đẳng sẽ xóa bỏ
nghèo nàn”(5), việc thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số mà cho tất cả mọi
người… đó chính là những chất liệu của văn hóa phương Đông là cơ sở để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phương Đông cũng là cái nôi của các tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo mà nội dung cốt lõi
của các học thuyết này là nhằm giải phóng con người, mưu cầu hạnh phúc cho con người, hướng con người tới
các giá trị chân, thiện, mỹ. Có thể nói, nguồn gốc của tôn giáo tương đồng với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của phương Đông, của châu Á bởi các nước này đến
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều trở thành đối tượng xâm lược của thực dân, đế quốc. Chủ nghĩa thực dân
tiến hành xâm lược áp bức, bóc lột các nước thuộc địa (thực hiện công nghiệp hóa cưỡng bức), làm thay đổi cơ
cấu xã hội, cơ cấu giai cấp – giai cấp công nhân thuộc địa ra đời có điều kiện phát triển, tiếp thu truyền thống,
lý luận. Chủ nghĩa thực dân đã thực hiện sự thống trị tàn bạo đối với các nước thuộc địa: độc quyền về kinh tế,
chuyên chế về chính trị và nô dịch về văn hóa. Chính sự tàn bạo vô nhân đạo của chủ nghĩa đế quốc, sự thống
trị dã man đã tước bỏ các quyền làm người của mỗi người. Chính sự tàn bạo đó đã giúp cho người dân nhận
thức được bản chất của chế độ tư bản, từ đó lựa chọn, hướng về một xã hội tốt đẹp hơn mà nhân loại đang tiến
đến.
Chính sự áp bức tàn bạo vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản đã làm bần cùng hóa người lao động, thúc đẩy
nhân dân đấu tranh, là tiền đề, điều kiện để chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển. Đúng như Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.
Ba là, Bác sáng tạo không máy móc trong cách tiếp cận về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Hồ Chí Minh không có một tác phẩm chuyên bàn về chủ nghĩa xã hội, cũng không đưa ra một khái niệm
chung về chủ nghĩa xã hội mang tính lý luận cao mà bằng những quan niệm khác nhau về chủ nghĩa xã hội.
Người diễn đạt chủ nghĩa xã hội trên những mặt cụ thể, bằng những lời lẽ ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ.
Theo Người, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bao gồm các mặt hoàn chỉnh, con người được phát
triển toàn diện, tự do. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính, xoá bỏ những biên
giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những bức tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu
nhau và yêu thương nhau”. Nói cách khác: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục, tập
quán không tốt dần dần được xóa bỏ”. Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết, phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội thông qua những mặt cụ thể về chính trị, sở hữu, phân phối của
chủ nghĩa xã hội. Trong Bài nói tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất, Người chỉ rõ: “Nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn đến Chủ tịch
một nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân”. Đồng thời Hồ Chí Minh khẳng định: “trong chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể,
giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội”.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội còn được Hồ Chí Minh nhấn mạnh bằng việc xác định các động lực, mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Về động lực của chủ nghĩa xã hội, theo Người, nhân tố quyết định thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội là ra sức phát triển sản xuất, xây dựng con người mới, chú trọng phát triển khoa học và kỹ thuật.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa,… có tư tưởng và tác
phong xã hội chủ nghĩa”. “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự
phát triển văn hóa của nhân dân”. “Muốn thực hiện được chủ nghĩa xã hội phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất
cả mọi người đều được phát huy hết khả năng của mình”. “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát
triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân”.
Chủ nghĩa xã hội là hướng tới mục tiêu cho con người và vì con người. Hồ Chí Minh đặt câu hỏi “chủ
nghĩa xã hội là gì?” và Người tự trả lời rất đơn giản, dễ hiểu: chủ nghĩa xã hội “Là mọi người được ăn no, mặc
ấm, sung sướng, tự do”; “Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm, cơm no, nhà ở tử tế, được học hành”
“Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân” “Chủ nghĩa xã hội là làm
sao cho dân giàu, nước mạnh” “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán
không tốt dần dần bị xoá bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội”.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là tài sản vô giá, là lý luận và kim chỉ nam cho mọi hoạt động và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đó đã bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất trên cơ sở vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin. Đó là các quan điểm về tính tất yếu, bản chất, mục tiêu, động lực
của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ, về đặc điểm, nhiệm vụ, các hình thức,
bước đi, biện pháp thực hiện trong thời kỳ quá độ cũng như trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.

Câu 4 – Nhóm 3: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. (nhóm4)
Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là
quá trình vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và
Người cũng có những sáng tạo độc đáo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi tìm ra được con đường cứu nước, Bác đã tích cực hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị tồn
tại và phát triển theo những quan điểm của V.I. Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh nhận
định: Sự ra đời của Đảng Cộng sản là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước. Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động
thành lập Đảng bởi Hồ Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để
chỉ ra quy luật này.
Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam.
Đối với Bác, đường lối cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem lại độc lập cho dân
tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa, giải phóng con người,
đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, con người được phát triển toàn diện. Đây là hai giai đoạn không
có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn liền với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng
dân tộc là tiền đề, là điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải phóng
con người sẽ bảo đảm cho độc lập dân tộc được vững chắc, “độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội”.
Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Vận dụng sáng tạo Chủ Nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Bác đã chỉ ra rằng lực
lượng tiến hành cách mạng của ta không chỉ có riêng giai cấp công nhân và nông dân là động lực của cách
mạng vô sản mà toàn thể nhân dân Việt Nam mới chính là động lực cách mạng đê ta giải phong dân tộc. Để
thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính tiên phong và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết vấn đề dân
tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba dân tộc Đông Dương.
Với cách giải thích của Người, Hội nghị thống nhất và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó có
tính yếu tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời
tạo ra sự tin cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa đã
được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học.
Đây là sự cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh.Trải qua gần 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, luôn gắn bó mật
thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện của Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư tưởng của Người
vẫn còn nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Câu 4: Rút ra những sáng tạo của HCM về ĐCS VN (nhóm11)
Một là, Vạch ra quy luật hình thành ĐCS VN
QL chung: CNMLN + PT công nhân
HCM sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đã bổ sung và thêm yếu tố thứ 3 là phong
trào yêu nước
Hai là, phải xây dựng Đảng là đạo đức là văn minh (bài 4)
- Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Nhấn mạnh phẩm chất đạo đức và văn minh
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một quan điểm đặc sắc của Hồ Chí Minh trong vấn đề xây dựng Đảng.
- Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể hiện trên những điểm sau đây:
(1) Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Nhằm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.
(2) Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều phải nhằm mục đích đó.
(3) Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt
đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Cho nên:
“Giàu sang không thể quyến rũ
Nghèo khó không thể chuyển lay,
Uy lực không thể khuất phục”.
- Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những nội dung chủ yếu về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành
một Đảng văn minh bao gồm
(1) Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc. (2) Đảng ra
đời, tồn tại và phát triển phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ của dân tộc và của nhân loại. Mọi
hoạt động của Đảng đều xuất phát và đi theo xu thế phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm
trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc.

(3) Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân dân, dân tộc giao phó
là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng
cầm quyền, Hồ Chí Minh càng chú trọng hơn việc phòng và chống các tiêu cực trong Đảng để Đảng luôn luôn
là nhân tố tích cực, đi tiên phong cho mọi sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
(4) Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổ chức đứng trên dân tộc, mà là con đẻ của dân tộc, “Đảng ta là
con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động”.
(5) Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công
tác và cuộc sống hằng ngày.
(6) Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không những vì lợi ích dân
tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì hòa bình,
hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
Ba là, Phải thực hiện nguyên tắc về xây dựng Đảng
● Phải lấy CNMLN làm nền tảng
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
● Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ phải đi đến tập trung có mối quan hệ biện chứng.
● Phê bình và tự phê bình
Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, “như mỗi ngày phải rửa mặt”. Tự phê
bình và phê bình phải trung thực, kiên quyết, đúng người, đúng việc, phải có văn hóa…Trong Đảng, “phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
● Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Trong Đảng chỉ kết nạp những phần tử hăng hái nhất, cách mạng nhất. Đảng có những điều kiện kỷ luật
bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỷ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng thì phải theo tư tưởng của
Đảng. Đảng đã chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra khỏi Đảng
- Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không có mục đích tự thân,
Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài mà Đảng từ trong xã hội mà ra, hoạt động vì Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng. Thường xuyên tự chỉnh đốn, do đó, trở thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
trong xây dựng Đảng.

● Đoàn kết thống nhất


Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết, thống nhất trong
Đảng trước hết là trong cấp uỷ, trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin, trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng.
● Mối liên hệ mật thiết với nhân dân là mối quan hệ máu thịt, chặt chẽ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như lơ
lửng giữa trời, nhất định sẽ thất bại. Mất lòng tin là mất tất cả. Hướng vào việc phục vụ dân - đó chính là yêu
cầu của Hồ Chí Minh đối với Đảng. Đồng thời, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng “học hỏi quần chúng
nhưng không theo đuôi quần chúng”, phải chú ý nâng cao dân chúng.
● Đoàn kết quốc tế:
Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong sáng.
Coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới và trong Di chúc, Người
mong Đảng “sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
➔ Ý 3 viết lại
Câu 5: Từ việc nghiên cứu TTHCM về ĐCS VN, đề xuất giải pháp thực hiện công tác phòng,
chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay → theo hướng dẫn ch nhóm 2
1. Giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục CNMLN, TTHCM, cương lĩnh, đường lối chủ
trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên, nhân dân
2. Coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức CM của Cán bộ, đảng viên, nhân dân
3. Xác định tiêu chí và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng đảng về đạo đức, đồng thời đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM
4. Đảng phải thực hiện tốt mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân, không được lãnh đạo vô cảm trước những
khó khăn bức xúc của nhân dân
5. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị
của nước CHXHCNVN
6. Phát huy vai trò tích cực của hệ thống báo chí, truyền thông, đồng thời khảo sát quản lý tốt các hoạt
động của báo chí, xuất bản và các mạng xã hội
7. Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất năng lực hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao

Câu 6- Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Bài làm
*Sáng tạo trong việc lựa chọn mô hình nhà nước:
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lý luận về nhà nước, tham khảo thực
tiễn các kiểu nhà nước trong lịch sử thế giới. Qua đó, lựa chọn cho Việt Nam một mô hình nhà nước tiến bộ
nhất và quan trọng là mô hình đó đã được thực hiện và cho đến tận ngày hôm nay vẫn còn thể hiện tính ưu việt
so với các kiểu mô hình nhà nước khác. Điều đó giúp chúng ta có thể khẳng định: Sự lựa chọn kiểu mô hình
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh.

*Sáng tạo trong việc khẳng định tính thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính chất nhân dân
và tính dân tộc của nhà nước:
⁃ Trước hết, Hồ Chí Minh tuân thủ các vấn đề thuộc về nguyên tắc của nhà nước khi khẳng định: Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Vậy nhà nước Việt Nam mới
theo quan điểm của Hồ Chí Minh là một nhà nước của dân, do dân và vì dân, mang bản chất giai cấp công
nhân, biểu hiện:
+ Một là, nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
+ Hai là, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta còn thể hiện ở tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
+ Ba là, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta còn được thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và
hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
⁃Thứ hai, mặc dù mang bản chất giai cấp công nhân nhưng nhà nước ta lại có sự thống nhất với tính nhân
dân, tính dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài lợi
ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân một cách triệt để”. Chính
vì vậy nhà nước của giai cấp công nhân có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và
tính dân tộc. Sự thống nhất này được thể hiện ở những nội dung sau đây:
+ Một là, nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khô
với sự hy sinh xương máu của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của biết bao nhiêu giai cấp và tầng lớp, hoàn
toàn không phải chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh của riêng giai cấp công nhân.
+ Hai là, tính thống nhất đó còn được biểu hiện ở nội dung nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân
dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng.

*Sáng tạo trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân:
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân trước hết
là công cụ quyền lực của nhân dân lao động, phản ánh và bảo vệ lợi ích của nhân dân; nó được tổ chức trên cơ
sở pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật. Nói chung, trong hệ thông
tư tưởng của Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về nhà nước nói riêng đều thể hiện tính chủ động,
sáng tạo. Sáng tạo ở chỗ, Người đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách linh hoạt vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, dựa trên sự tổng kết một cách chính xác thực tiền Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những định
hướng lãnh đạo, chỉ đạo thực tiền, đem lại những thành tựu to lớn cho dân tộc Việt Nam.

=> Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng nhà nước kiếu mới ở Việt Nam. Nhờ có sự lãnh đạo tài tình, dẫn
dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh với hệ tư tưởng tiến bộ, xuất sắc của mình mà cách mạng Việt Nam từ chỗ bế tắc
đã vươn lên giành được những thắng lợi quan trọng. Trong tư tưởng của Người về nhà nước rõ nét nhất là việc
lựa chọn mô hình nhà nước Dân chủ Cộng hòa cho Việt Nam; việc khẳng định tính thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân và tính nhân dân, dân tộc của nhà nước và tư tưởng về xây dựng pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân thể hiện sự sáng tạo của Người. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng
nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết.

Câu 7: Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, đề xuất giải pháp xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh ở nước ta hiện nay. (Câu 7 –
Nhóm 3) → làm theo hd nhóm 2
TRẢ LỜI
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước đột phá trong tư duy về xây
dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và thúc
đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam
hiện nay. Do vậy, trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì
độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân
chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định những công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và
“nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta.
Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm
chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những hạn chế của các nhà nước kiểu cũ.
Đồng thời, kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”
tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong
cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức: Ra sức giáo dục, bồi dưỡng,
nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có
quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái
hóa đạo đức, làm hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và
học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
Thứ tư, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên
quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch,
gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện
tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan
quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự
là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng
cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước có đủ
tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, về tổ chức
lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
là nhân tố quyết định để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách
thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Câu 8: Rút ra những sáng tạo của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. (Nhóm 3 - Chương
5)
Trả lời:
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
để giành thắng lợi. Người luôn khẳng định vai trò của đại đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, xem đó là một
trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, hình thành sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc trước
những kẻ thù vốn rất hung bạo, hiểm độc. Những sáng tạo trong tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân tộc của Bác :
- Chủ thể: toàn dân.

- Nền tảng: liên minh công-nông-trí.

- Điều kiện thực hiện:


+ Lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời phải tôn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng.
+ Kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.Khoan dung, độ lượng với con người.
+ Tin dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.

- Hình thức khối đại đoàn kết: mặt trận dân tộc thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tùy theo từng
giai đoạn mà thành lập mặt trận phù hợp, theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đoàn kết chặt chẽ, chân thành.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân là người Việt Nam yêu nước, phấn đấu vì mục
tiêu chung độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.

- Phương thức xây dựng:


+ Làm tốt công tác vận động quần chúng.
+ Thành lập các đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần chúng.
+ Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất.

Câu 9: Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, đề xuất giải pháp thực hiện
chiến lược đoàn kết quốc tế ở nước ta hiện nay. (Chương 5) → hd nhóm 2
Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: từ ý thức quốc gia, dân tộc, mong muốn làm chủ
đất nước; tinh thần chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử ngàn năm đã hun đúc nên lòng
yêu nước nồng nàn, tinh thần kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung của dân tộc Việt
Nam.
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, gắn chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh có nhiều cống hiến cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn đối với phong trào giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế được chia
thành 5 phương diện:
- Đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức.
- Đoàn kết giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với phong trào cách mạng vô sản
ở chính quốc.
- Đoàn kết giữa các đảng cộng sản và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa.
- Đoàn kết với các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trên tinh thần bốn biển đều là anh em.
- Đoàn kết với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
→ Thực trạng:
- Tình hình quốc tế, bối cảnh qte về chính trị;
- Xu hướng toàn cầu hóa, “hòa nhập nhưng không hòa tan”
Từ việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế ta đề xuất một số giải pháp thực hiện
chiến lược đoàn kết quốc tế ở nước ta hiện nay:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế
trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Để vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế đạt kết quả, đòi
hỏi toàn Đảng, toàn dân cần nhận thức rõ thế nào là “vận dụng”, thế nào là “phát triển”; đồng thời, cần nắm
vững đối tượng để “vận dụng” và “phát triển”. Vấn đề đặt ra đối với sự “vận dụng” là phải đúng đắn, sáng tạo;
“phát triển” cần bảo đảm tính kế thừa, đúng hướng. Phát triển là cập nhật nội dung mới, nâng tầm nội dung của
tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao giá trị của tư tưởng, lý luận.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về nội dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền và làm phong phú các nội dung nhằm
mang lại hiệu quả thiết thực trên không gian rộng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, cần chú ý đến
hiệu quả, tránh chạy theo số lượng, hình thức; nội dung tuyên truyền cần phù hợp với từng đối tượng trong xã
hội, trong đó đặc biệt chú ý đến thế hệ trẻ, như thanh, thiếu niên, sinh viên
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì
lợi ích quốc gia, dân tộc.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế ở nước ta hiện nay
phải thống nhất hai mặt của mối quan hệ biện chứng: vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm
về đối tác, đối tượng; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước,
để ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến
lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính đáng của đất nước phù hợp với luật
pháp quốc tế. Một trong những yêu cầu then chốt nhằm bảo đảm môi trường hòa bình là phải luôn kiên trì, bình
tĩnh, sáng suốt, khôn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ.
Đây là “nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành ngoại giao là những người đi
đầu”.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các lĩnh vực hợp tác về kinh
tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới.
Thực tiễn minh chứng, hợp tác kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh là một thể thống nhất,
không tách rời nhau, không thể hợp tác thành công nếu chỉ hợp tác trên một mặt, một lĩnh vực. Đoàn kết, hợp
tác quốc tế trên một lĩnh vực tạo ra các nhu cầu hợp tác và tác động mạnh mẽ đến kết quả hợp tác trên các lĩnh
vực khác, cũng như kết quả chung của quá trình hợp tác quốc tế.
Trong đó, hợp tác về kinh tế giữ vị trí trung tâm, có vai trò tiên phong thúc đẩy các mặt hợp tác khác phát
triển ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng. Hợp tác về quốc phòng, an ninh phải dựa trên nền tảng hợp tác về kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Quá trình hợp tác quốc phòng, an ninh là nhằm tạo môi trường hòa bình cho công
cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và hợp tác quốc tế ngày càng toàn diện hơn. Hợp tác về quốc
phòng, an ninh càng gắn bó chặt chẽ, càng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Câu 10 : Từ việc nghiên cứu Hồ Chí Minh về đạo đức đề xuất phương pháp rèn luyện đạo đức của
bản thân.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
2 lý thuyết: nguyên tắc rèn luyện và
1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới đã bàn nhiều về đạo đức
và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất sâu sắc, phong phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở
thành một bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định
đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguốn cua sông suối – “cũng như
sông thì có nguốn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo dức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
a. Trung với nước, hiếu với dân
Về quan hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với nhân dân, dân tộc mình là mối
quan hệ lớn nhất.
Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông đã
được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia là trung quân, là trung thành với vua; trung
thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một, vua là nước, nước là nước của
vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Tư tưởng trung với
nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân
tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước
và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của
Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải
chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, như Hồ Chí Minh đã nói, điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là "quyết
tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng", là "tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân", là "trung
với nước, hiếu với dân", hơn nữa phải là "tận trung, tận hiếu thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là
đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ,
ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân,
dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại
phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu được quyền và
trách nhiệm của người chủ đất nước, quyền thì hưởng còn trách nhiệm thì phải làm tròn. Có được cái đức ấy thì
người cách mạng người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh
to lớn cho cách mạng.
b. Thương yêu con người , sống có tình có nghĩa.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần
nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách
mạng thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao
động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho
nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không
có tình yêu thương con người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Tình yêu thương con người còn được thế hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí,
với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi người phải luôn luôn chặt chẽ nghiêm
khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng
con người lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối
với những người ở cương vị lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết
điểm, nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả đối với những người lầm đường lạc loi
đã hối cải kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã
đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có, tuy nhiều ít có khác nhau.
Trong Di chúc , Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây chính là điều nhắc
nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình thương yêu trẽn
nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, cùng
phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý bao che sai lầm khuyết điểm
cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng,
cho cách mạng.
c.Cần , kiệm , liêm , chính , chí công vô tư .
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề
cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, từ Đường Kách mệnh cho đến bản Di chúc cuối cùng.

Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông
và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn
phù hợp và đưa vào những nội dung mới. do sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội đặt ra.
Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ
hiểu đời với mọi người. Nếu phẩm chất này đã cần thiết đối với con người Việt Nam khi đất nước còn phải
đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược rất tàn bạo do chủ nghĩa thực dân đế quốc gây ra, thì lại càng cần
thiết khi đất nước phát triển trong xây dựng hòa bình. Đây không phải chỉ là yêu cầu về đạo đức, mà còn là yêu
cầu của chính sự phát triển kinh tế.
Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại. không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình;
phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to: "không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi" , không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc
của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam"."Không tham địa vị. Không tham tiền tài.
Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ
hóa.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như:
" cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của người khác...”
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.
Đối với mình - không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển
điều này, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người dưới - không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc - để công việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ
được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm: việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù
nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.
Về Chí công vô tư , Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc", "Khi làm bất cứ
việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"; "phải lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ" (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Đối lập với "chí công vô tư" là "dĩ công vi tư" đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
Chí công vô tư, về thực chất là nối tiếp Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích:
"Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay
nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư" 11 .
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi Hồ Chí Minh coi cần kiệm
như hai chân của con người, phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào "gió vào nhà trống",
"nước đổ vào chiếc thùng không đáy", "làm chừng nào xào chừng ấy", rốt cuộc "không lại hoàn không". Còn
kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Có khi
Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của con người, thiếu một đức thì không thành người; cũng như trời
có bốn mùa, đất có bốn hướng, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một hướng thì không thành đất.

Cần, kiệm, tiêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân,
vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính, và có được nhiều tính tốt khác. "Mình đã chí
công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm.
Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm".
Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người vững vàng nước mọi thử
thách.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng .
Đó là tinh thẩn đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản
đều là anh em".
Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã
dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả
dân tộc.
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình,
công lý và tiến bộ xã hội.
Sự đoàn kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.Tinh thần
quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản, hay chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt
qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Không phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần
quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá
nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Trong vấn đề này, đường lối chính trị của Đảng lãnh
đạo và những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước có ý nghĩa định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng
tinh thần quốc tế ở mỗi người.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
Để xây dựng một nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho
sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi người:
a. Nói đi đôi với làm , nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân
mình và có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm
một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng. "Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm", thói đạo
đức giả ấy là đặc trưng đạo đức của các giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử của xã hội loài người, trong
mỗi quốc gia dân tộc, nó hoàn toàn xa lạ với đạo đức cách mạng, với nền đạo đức mới mà chúng ta cần xây
dựng. Chúng ta phải phấn đấu để làm sao trong xã hội ta không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho
phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ
nghĩa xã hội một phần quan trọng phụ thuộc vào vấn đề này.
Từ đó, chúng ta cũng thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh
vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với những người
em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà
nước là tấm gương của những người phụ trách, lãnh đạo, của cấp lên đối với cấp dưới, trong xã hội thì đó là
tấm gương của người này đối với người khác, những gương "người tốt việc tốt" mà Hồ Chí Minh đã phát hiện
để mọi người học tập noi theo. Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống, điều mà Hồ Chí
Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo
đức. Đó cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc
đời trọn vẹn.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau là đặc biệt quan trọng. Mỗi thế hệ
đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao giờ cũng có trách nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau
trong việc giáo dưỡng, nhất là trong việc bồi dưỡng về đạo đức. Đương nhiên trong cuộc sống không phải bao
giờ cũng chỉ diễn ra một chiều ảnh hưởng, tác động như vậy, do đó Hồ Chí Minh cũng đã nói đến việc người
già có thể học tập người trẻ để không ngừng hoàn thiện đạo đức của mình.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm quan trọng: "Trước mặt quần chúng,
không phải ta có viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước". Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng
đặc biệt trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi
mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương của những người
tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể, những tấm gương "người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường, có
ở mọi nơi mọi lúc mà chúng ta không thể coi thường.
Như vậy, những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo một nghĩa rộng. Có những tấm gương chung và
riêng, lớn và nhỏ, xa và gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi
những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong
toàn xã hội, mà những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tất việc tốt có ý nghĩa thúc
đẩy cho quá trình đó.
b. Xây đi đôi với chống
Muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách mạng cho hàng triệu, hàng
triệu con người - cán bộ, đảng viên, các công dân trong các giai tầng khác nhau, thì cùng với việc xây dựng, bồi
dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết là phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa, trái với những yêu cầu
của đạo đức mới, những hiện tượng vẫn thường gọi là tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất. Trong đời sống hàng
ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn thường đan xen nhau, đối chọi
nhau, thông qua hành vi của những con người khác nhau. Hơn nữa những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra
ngay trong bản thân mỗi người. Chính vì vậy việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hoàn toàn không đơn
giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những
chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể - nơi mà
phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó bằng hoạt động thực tiễn của mình. Những phẩm chất chung
nhất, cơ bản nhất lại phải được cụ thể hóa cho sát hợp với từng giai tầng, từng lớp đối tượng khác nhau. Đó là
điều Hồ Chí Minh đã làm trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cho công nhân, nông dân, phụ nữ,
trí thức, văn nghệ sĩ. cho thiếu niên nhi đồng, cho bộ đội, công an, các tướng lĩnh, v.v...
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người,
để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình và như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy
sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm "sung sướng vẻ vang nhất trên đời này". Tiếp nhận sự giáo
dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người
còn quan trọng hơn nhiều. Phải chăng sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là khơi dậy
sự tự giác của mỗi người nhằm đấu tranh tự loại bỏ cái thấp hèn để vươn tới cái cao đẹp, loại bỏ cái ác; cái vô
đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức. Chắc chắn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản tương lai càng phải
như vậy, và đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành
phổ biến trong xã hội .
Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng thời chống lại cái xấu, cái sai,
cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là phải phát hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh
cho sự trong sạch lành mạnh về đạo đức. Hơn nữa còn phải thấy trước những gì có thể xẩy ra để đề phòng, ngăn
chặn.
Phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa bằng xử phạt với những mức độ nặng
nhẹ khác nhau.
Tuy nhiên, trong bài nói về Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. chông bệnh quan liêu lúc đó, có
lẽ đây là lần duy nhất, Người đã trích dẫn khá dài những ý kiến rất quyết liệt của Lênin về vấn đề này: "Cần
phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng... Phải lập
tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác), ít nhất
cũng phải phạt 10 năm giam cầm và l0 năm khổ sai". Trước việc Tòa án nhân dân Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ
ăn hối lộ, Lênin không bằng lòng và viết: "Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng
nhẹ nhàng như vậy, đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng.
Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, Hồ Chí Minh đã phát động
nhiều phong trào như vậy: Năm 1952, đó là phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí -
quan liêu; năm 1963, đó là cuộc vận động "nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính,
cải tiến kỹ thuật, chống tham ô - lãng phí - quan liêu", gọi tắt là cuộc vận động "3 xây, 3 chống". Có phong trào,
có cuộc vận động chung cho toàn Đảng, toàn dân; có phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng
giới. Qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể, rõ ràng, thôi thúc trách
nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Thực
tiễn chứng minh, những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa
mặt hàng ngày, đấy cũng là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự
mãn. Người thường nhắc lại luận điểm "chính tâm, tu thân...", của Khổng Tử, từ đó rút ra ý nghĩa tích cực để
vận dụng vào việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của mỗi người. Người cũng thường nêu lại tấm
gương của người xưa, mỗi tối đều tự kiểm điểm để bỏ đỗ đen, đỗ trắng vào hai cái lọ, để cứ nhìn vào đó có thể
biết mình tốt xấu ra sao . Từ đó, Người đi đến một kết luận khái quát: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên
trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải
loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người" .
Đó là điều chúng ta vẫn thấy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những người đã phấn đấu gần hết
cuộc đời, có nhiều công lao, nhưng cuối đời lại không giữ được tấm lòng trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ.
Kết luận của Hồ Chí Minh cũng đúng với sự đổ vỡ của một số Đảng ở cuối thế kỷ XX. Điều này cũng đúng như
Lênin trước kia đã nhận định: cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ xấu chỗ tất, ai cũng có
thiện có ác ở trong bản thân mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn
hoặc; thấy rõ cái hay cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư
cũng như đời công - sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ
nhỏ đến lớn - gia đình, nhà trường, xã hội; từ quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em đến quan hệ tập thể, với cấp
trên cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân, và cả trong các mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc sống, mỗi người
có nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình, và phẩm chất đạo đức
của :mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng. Có rèn luyện công phu như vậy, con người mới có
được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, và những phẩm chất ấy ngày hàng được bồi đắp, nâng cao.

Qua đó ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một phần quan trọng của triết lý sống và làm việc của
Người. Sau đây là một số phương pháp rèn luyện đạo đức
- Tìm hiểu về Tư tưởng Hồ Chí Minh: phải nắm tư tưởng, triết lý và cuộc đời của Hồ Chí Minh
thông qua việc đọc sách, nghiên cứu và hiểu rõ những giá trị mà Người theo đuổi.
- Thực hành lòng khiêm tốn: Hồ Chí Minh luôn tỏ ra khiêm tốn, không tự cao tự đại. Hãy tránh kiêu
ngạo, luôn sẵn sàng học hỏi từ mọi người xung quanh. Dành thời gian để lắng nghe và đánh giá đúng mức khả
năng của bản thân.
- Phát triển tình yêu thương và tận tụy với mọi người: Hồ Chí Minh luôn tận tụy với nhân dân. Hãy
tham gia các hoạt động xã hội, giúp đỡ người khác và thấu hiểu nhu cầu của cộng đồng. Xem xét những cơ hội
để đóng góp cho xã hội và giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.
- Giữ gìn phẩm chất đạo đức trong công việc, học tập: Luôn tuân thủ nguyên tắc đạo đức trong mọi
quyết định và hành động. Tránh những hành vi không chính trực, luôn giữ vững lập trường và nguyên tắc.
- Tìm hiểu và thực hành lòng nhân ái: Học từ những hành động nhân ái của Hồ Chí Minh, đặt mình
vào vị trí của người khác và hỗ trợ trong khó khăn. Thực hiện các hoạt động từ thiện, tình nguyện để lan tỏa
lòng nhân ái.
- Phát triển ý thức quốc gia và tình yêu nước.
- Thực hiện việc học tập liên tục: Người luôn xem trọng học vấn và tự học. Hãy duy trì tinh thần học
hỏi liên tục, nâng cao kiến thức và kỹ năng của bản thân.

You might also like