You are on page 1of 72

Câu 1.

Tại sao chủ nghĩa Mác - Lênin được đánh


giá là nguồn gốc có ý nghĩa quyết định bản chất
tư tưởng Hồ Chí Minh?
(Hoặc dạng câu hỏi sau: Phân tích cơ sở/ nguồn gốc/ tiền đề hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, cơ sở/ nguồn gốc/ tiền đề nào có ý nghĩa quyết
định tư tưởng của Người?Tại sao?)

Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến cảnh dân tộc bị đọa
đày đau khổ, Hồ Chí Minh đã quyết tâm di tìm con đường giải phóng cho dân
tộc. Sau nhiều năm bôn ba, Người đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm
thấy con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam. Người tiếp thu chủ nghĩa
Mác-Lê nin theo lối nắm lấy linh hồn của chủ nghĩa này, là phép biện chứng
duy vật chứ không bị trói buộc trong vỏ ngôn từ.Người đã sáng lập ra Đảng
Cộng sản Việt Nam, tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi
.Người đã định hình một hệ thống quan điểm về cách mạng Việt Nam, giúp
Đảng có thể chèo lái con thuyền cách mạng đến thắng lợi.
Trong những nguồn gốc ấy, CNM-L là nguồn gốc có ý nghĩa quyết định bản
chất tư tưởng HCM vì: CNM-L là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
TTHCM, thể hiện ở những điểm sau:
+ Từ khi bắt gặp CNM-L, ở HCM có sự thay đổi về chất trong lập trường tư
tưởng, từ 1 người yêu nước chân chính trở thành người cộng sản yêu nước.

1
+ Toàn bộ hệ thống quan điểm của HCM về CMVN được đưa ra trên cơ sở
nền tảng là CNM-L.

+ Trong quá trình vận dụng CNM-L, HCM luôn có những đóng góp có giá
trị bổ sung vào kho tàng lý luận của CNM-L, đồng thời Người luôn kiên quyết
đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của CNM-L, đấu tranh chống chủ nghĩa giáo
điều và chủ nghĩa xét lại. Nhờ thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích
cực, tiến bộ của truyền thống văn hoá dân tộc cũng như của tư tưởng văn hoá
nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình.

Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực dân
và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là "Bản án chế độ thực dân
Pháp" (xuất bản năm 1925) và "Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương" đã
vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa
thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô lệ,
nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một không hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự
phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những
nhà lý luận mác-xít đề cập đến. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực
dân, đặc biệt là hình ảnh về "con đỉa hai vòi", "con chim hai cánh", đã không chỉ có
tác dụng thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở chính
quốc.

2
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin nằm
trong sự thống nhất hữu cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác -
Lê-nin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như không thể hiểu và quán triệt,
vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác -
Lê-nin.

Câu 2.Phân tích quá trình hình thành TTHCM.Trong đó,


thời kỳ nào quan trọng nhất?Tại sao?
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trải qua năm thời kỳ:

- Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước.

+19/5/1890, Bác sinh tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.. Được sinh ra trong
một gia đình có truyền thống yêu nước Đã hình thành tư tg yêu nc, thương dân
tha thiết, Hồ Chí Minh tiếp thu tinh thần yêu nước nhiệt thành từ cha mẹ. Tư
tưởng thân dân của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng mạnh mẽ và
sâu sắc đến việc hình thành nhân cách của Hồ Chí Minh.

Nghệ An – Hà Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nhiều anh
hùng dân tộc đã có nguồn gốc xuất thân từ đây. Hồ Chí Minh đã chứng kiến biết
bao phong trào yêu nước nổ ra, phong trào này bị dập tắt, lập tức có phong trào

3
khác nổi lên, lớp người này ngã xuống, lập tức có lớp người khác thay thế.Tinh
thần quật cường của đồng bào đã hun đúc cho Hồ Chí Minh ý chí bất khuất
trước các thế lực ngoại xâm.

Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân Việt Nam bị đọa đày đau khổ, họ
phải chịu hai tầng áp bức, bóc lột, bị đàn áp dã man khi bùng phát ngọn lửa đấu
tranh. Chính hình ảnh lầm than tủi cực của đồng bào đã thôi thúc Hồ Chí Minh
quyết tâm tìm cho ra con đường giải phóng dân tộc khỏi gông cùm nô lệ, bảo vệ
giá trị tinh thần truyền thống của DT, ham muốn học hỏi tư tưởng nhân loại.

- Thời kỳ 1911 – 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đây
là thời kỳ Hồ Chí Minh phải bôn ba qua nhiều nước khác nhau để nghiên cứu
kinh nghiệm cách mạng của các nước. Người đã làm nhiều nghề để vừa kiếm
sống vừa có tiền học tập và nghiên cứu. Năm 1911, Bác sang Pháp, sau đó sang
Anh, Mỹ. Năm 1913, Người từ Mỹ quay lại Anh tham gia công đoàn thuỷ thủ
Anh. Năm 1917, Người từ Anh lại sang Pháp vào lúc nổ ra cách mạng Tháng
Mười Nga, Pa-ri sôi động tìm hiểu cách mạng tháng MườiĐi qua nhiều nước,
Hồ Chí Minh rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân và cho cách
mạng Việt Nam sau này. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc ra  nhập Đảng xã hội
Pháp. Tháng 8/1919, Bác gửi bản yêu sách của nhân dân An-nam đến hội nghị
Véc-xay. Đại hội XVIII Đảng xã hội Pháp thảo luận vấn đề gia nhập Quốc tế
III, Đến năm 1920, hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp
cận với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận ra con đường cứu nước theo
khuynh hướng vô sản. Giai đoạn này đánh dấu sự phát triển vượt bậc thế giới
quan của Hồ Chí Minh từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc đến giác ngộ chủ nghĩa
Mác-Lênin, từ chiến sĩ chống thực dân trở thành chiến sĩ cộng sản Việt Nam.

- Thời kỳ 1921 – 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt
Nam. Qua hoạt động thực tiễn phong phú, : tích cực hoạt động trong ban
nghiên cứu thuộc địa của Đảng xã hội Pháp, xuất bản tờ Le Paria nhằm truyền
4
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923). Hồ Chí Minh đã có
được nhiều kinh nghiệm, Người tích cực chuẩn bị về mọi mặt tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Những quan
điểm cơ bản của Người về cách mạng Việt Nam được thể hiện trong các tác
phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930). Với mội dung như sau:
+ Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải theo con đường
cách mạng vô sản.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính
quốc có mối quan hệ khắng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nên lực lượng của cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa bao gồm toàn dân tộc.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo.
Đó là Đảng theo đường lối Mác - Lênin.

- Thời kỳ 1930 – 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách
mạng. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh chịu đựng nhiều thử thách từ bên trong lẫn
bên ngoài.Người bị Quốc tế cộng sản hiểu lầm nên bị cô lập với cách mạng Việt
Nam.Năm 1933, khi đang hoạt động tại Hồng Kông, Trung Quốc, Người bị
chính quyền thực dân Anh bắt. Năm 1942, khi sang Trung Quốc liên lạc với
những người cách mạng để chống phát xít, Người bị chính quyền Tưởng Giới
Thạch bắt giam.Tất cả những thử thách đó đều rất khắc nghiệt, nhưng Hồ Chí
Minh vẫn bình tĩnh vượt qua, kiên trì bảo vệ lập trường cách mạng. Với thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, quan điểm của Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam đã được chứng minh là đúng và có tính sáng tạo. Điều này phản
ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí
Minh.

5
- Thời kỳ 1945 – 1954: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện.
Đây là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta
vừa tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Người đã
bổ sung, hoàn thiện những quan điểm về cách mạng Việt Nam phù hợp với
hoàn cảnh mới của dân tộc. Đó là quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư
tưởng và chiến lược về con người; tư tưởng về Đảng cộng sản và xây dựng
Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền;…

Thời kỳ quan trọng nhất là 1921 – 1930 vì đây là thời kỳ HCM đã tìm ra con
đường cứu nước, định hướng cho CMVN theo khuynh hướng vô sản, sáng lập
chính đảng cộng sản VN và đưa ra những quan điểm cơ bản về CMVN. Những
quan điểm đó thể hiện trong 3 văn kiện: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường Kách mệnh (1927), Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930) -
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản.

- Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết
với nhau.

- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mạng”, đánh đuổi đế
quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.

- Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng
dân tộc thành một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai.

- Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.
6
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải đoàn kết dân tộc, phải tổ chức
quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng hình thức và khẩu hiệu thích
hợp.

- Cách mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng
đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công…

Câu 3. Phân tích sự sáng tạo của HCM trong quan điểm
về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
- Có thể nói Hồ Chí Minh là một trong những người cộng sản đầu tiên vận
dụng thành công học thuyết cách mạng Mác - Lênin vào cách mạng của các dân
tộc thuộc địa, vào cách mạng Việt Nam, cách mạng của một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Tuy nhiên, nhân tố cơ bản đảm bảo thành công của cách mạng Việt
Nam không chỉ đơn giản là “sự vận dụng”, mà còn là sự phát triển sáng tạo của
Hồ Chí Minh đối với học thuyết đó, nhất là về mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
- Mác, Engels chưa có điều kiện nghiên cứu về vấn đề dân tộc. Trong học
thuyết Mác, vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc mới được xem dưới góc độ cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Sở dĩ như vậy vì vấn đề dân
tộc đặt ra trong thời kỳ đó, đặc biệt là ở châu Âu là vấn đề dân tộc tư sản, nó
được ra đời và củng cố bởi chủ nghĩa tư bản. Chính vì thế trong học thuyết của
Mác vấn đề đấu tranh giai cấp được đặt lên hàng đầu, coi giải phóng giai cấp là
điều kiện để giải phóng dân tộc, các vấn đề dân tộc được xem xét như những hệ
quả của vấn đề giai cấp và giải quyết chúng trong sự phụ thuộc vào cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản. Nói về điều đó Mác
viết: “Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc
khác cũng bị xoá bỏ” .Do đó, các ông tập trung nghiên cứu để tìm hướng giải
quyết vấn đề đấu tranh giai cấp.

7
- Đến thời đại đế quốc chủ nghĩa, các đế quốc tranh giành thuộc địa với
mục đích phân chia lại thế giới. . Sự bành trướng của CNĐQ đã biến các quốc
gia dân tộc độc lập thành các thuộc địa. Mâu thuẫn giữa CNĐQ và thuộc địa
hình thành gay gắt và xuất hiện các cuộc đấu tranh GPDT .Vấn đề cách mạng
giải phóng dân tộc để xây dựng quốc gia độc lập của các nước thuộc địa và phụ
thuộc đã là một trong những vấn đề cấp bách của thời đại. Trong điều kiện đó,
Lênin đã phát triển học thuyết cách mạng của Mác lên một tầm cao mới.  Lênin
đã chỉ ra sự gắn bó của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện quyền tự quyết dân tộc Lênin đã có sự
nghiên cứu về vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, Lênin vẫn ưu tiên cho việc nghiên cứu
vấn đề giai cấp vì từ thực tiễn nước Nga cho thấy, vấn đề giai cấp là vấn đề nổi
cộm và mâu thuẫn giai cấp là mâu thuẫn chủ yếu.  Những luận điểm của Lênin
về vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp trở nên có ý nghĩa đối với tất
cả các dân tộc bị áp bức. Điều đó lý giải tại sao mùa hè năm 1920, sau khi đọc
Luận cương của Lênin trên báo “Nhân đạo” nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc vui
mừng đến phát khóc. Chính vì vậy, năm 1960, trong bài "Con đường dẫn tôi
đến chủ nghĩa Lênin", viết nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh Lênin, Người đã
thổ lộ: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên, như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta!”

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp là hoàn toàn đứng vững trên lập trường mác-xít. Tuy
nhiên, cũng như những người mác-xít chân chính khác, Hồ Chí Minh có sự phát
triển và vận dụng hết sức sáng tạo, đặc biệt khi vận dụng lý luận mác-xít vào
cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là vào cách mạng Việt Nam. Người
khẳng định rằng, ở các nước thuộc địa tồn tại cả 2 vấn đề DT và GC vì hầu hết
các nước này tồn tại 2 chế độ thực dân và phong kiến. Do đó, HCM cho rằng
cần thiết phải giải quyết cả 2 vấn đề này 1 cách hài hòa thì mới thực hiện được
8
mục tiêu của cách mạng là GPDT và GPGC. Trong khi tranh đấu cho quyền lợi
giai cấp thì phải ưu tiên cho quyền lợi DT vì GPDT là tiền đề để GPGC, ngược
lại GPGC sẽ đẩy nhanh thắng lợi của CM GPDT. Đặt cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng vô sản trong mối quan hệ tương hỗ tác động và thúc đẩy lẫn
nhau, đồng thời làm nổi bật vai trò to lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc trong tiến trình cách mạng vô sản. Đây là một nét hết sức độc đáo trong tư
tưởng Hồ Chí MinhTrên cơ sở đánh giá đúng sức mạnh to lớn của phong trào
đấu tranh ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa không nhất thiết phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc, hơn nữa còn có tính độc lập riêng và có thể chủ động giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Bằng thắng lợi của mình, cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa sẽ tác động trở lại đối với cách mạng chính quốc,
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản ở chính quốc.

Như vậy, xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân Hồ Chí Minh đã đi tìm đường
cứu nước. Người đã khảo sát nhiều nước thuộc địa, đi tìm hiểu cả ba nước tư
bản phát triển nhất thời kỳ đó là Mỹ, Anh, Pháp với những cuộc cách mạng tư
sản điển hình... nhưng tất cả đều chưa đưa lại lời giải đáp cho cách mạng Việt
Nam. Chỉ đến khi tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu tính khoa học,
cách mạng và phát triển một cách sáng tạo học thuyết đó, Hồ Chí Minh mới tìm
ra được con đường giành độc lập dân tộc, con đường cách mạng cho đất nước.
Con đường cách mạng đó gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
gắn liền cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa.

9
Câu 4.Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quan
điểm sau của Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải phóng dân
tộc muốn giành được thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản”.

- Cơ sở lý luận:

+ Quan điểm cách mạng không ngừng của Lênin: “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Len6in trình
bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản đã ....

10
Con đường CMVS

- Cơ sở thực tiễn:
11
+ Nhu cầu đấu tranh chống cường quyền của nhân dân Việt Nam và khát
vọng về một xã hội không có người bóc lột người.(1) Trong những thập
niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc đang bị đoạ đày đau khổ
dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, sự cai trị dã
man, những hình thức bóc lột tàn bạo của bọn thực dân đối với
người bản xứ với tấm lòng yêu nước thiết tha Người đã ra đi tìm
đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc khỏi áp bức bóc lột và
Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường cách
mạng vô sản. Người nhận thấy “ Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và Chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức,
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

+ phong trào yêu nước trước đó theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ
tư sản đã làm nảy sinh 1 nhu cầu bức thiết về 1 khuynh hướng cứu nước mới.(2)

12
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và ảnh hưởng của nó đối với
phong trào cách mạng thế giới.(3) Về cách mạng Nga(1917): Trải qua
bao năm bôn ba nước ngoài và khảo sát các cuộc cách mạng
điển hình trên thế giới như cách mạng tư sản Pháp 1789, cách
mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tháng 10 Nga 1917. Người
đã rút ra những kết luận quan trọng. Người đã phát hiện ra rằng
các cuộc cách mạng tư sản như : cách mạng Pháp, Cách mạng
Mỹ là những cuộc cách mạng không triệt để, tuy thành công
nhưng không đến nơi đến chốn vì người lao động vẫn chưa
hoàn toàn được giải phóng, xã hội còn đầy bất công. Cách
mạng dân chủ tư sản do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế
hình thức áp bức bóc lột khác và tại bộ phận người lao động
vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan của Hồ Chí Minh chỉ có cách
mạng tháng 10 Nga là triệt để là thành công đến nơi, nhân dân
lao động đã được giải phóng và trở thành người chủ của xã hội.
Người đã nhận định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, không
phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp

13
khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư
bản, điạ chủ, rồi lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp
bức các thuộc điạ làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ
nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người đã lựa chọn con
đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng tháng 10

Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành
công
thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất Tất cả những luận điểm
và sự
tổng kết thực tiễn trên đều cho thấy: Việt Nam không còn con
đường

14
giải phóng dân tộc nào khác ngoài tiến hành cách mạng vô sản

(1), (2), (3)  hướng đến con đường CMVS của Lênin. Đó là con đường
GPDTVN, đưa NDVN từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, thực hiện
mục tiêu GPDT, GPGC và GP con người.

Câu 5. Bằng lý luận và thực tiễn, hãy chứng minh quan


điểm sau của Hồ Chí Minh là sáng tạo: “CMGPDT cần
được thực hiện chủ động, sáng tạo và có khả năng nổ
ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc”.

 Ðiểm đặc sắc, nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc là,
ngay lúc đầu khi tiếp thu lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Người
đã thấy được vai trò to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “CMGPDT cần được thực hiện chủ động,
sáng tạo và có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc”.

- Cơ sở lý luận:
+ do điều kiện lịch sử quy định, Mác và Ăngghen tập trung nghiên cứu từ
thực tiễn xã hội châu Âu, nên chưa có điều kiện bàn nhiều về cách mạng giải
15
phóng dân tộc ở thuộc địa, các ông mới chỉ bắt đầu tiếp cận vấn đề dân tộc,
thuộc địa ở một số trường hợp cá biệt (Ba Lan, Airơlen). Từ quan điểm của
Mác: “Sự nghiệp giải phóng GCCN chỉ có thể được thực hiện bởi chính
GCCN”, HCM đã khái quát: “Công cuộc giải phóng anh em (các DT thuộc địa)
chỉ có thể được thực hiện bởi chính anh em”.

+ Lênin là người sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân
tộc  và là người đã viết đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, trong đó nhấn
mạnh tư tưởng phải kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng vô sản ở chính quốc
với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa; các nước làm cách mạng thành
công phải giúp đỡ cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là các nước kinh tế lạc
hậu, còn nhiều tàn tích phong kiến ...

Lênin khẳng định rằng: “GCVS ở thuộc địa có khả năng tự giải phóng nếu có sự
giúp đỡ của GCVS ở chính quốc”.  Tuy nhiên, khi xác nhận con đường phát
triển của cách mạng thuộc địa, cả Lênin và những người lãnh đạo của Quốc tế
cộng sản vẫn nhấn mạnh một chiều đến sự tác động của cách mạng vô sản ở
chính quốc đối với cách mạng thuộc địa, đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào
cách mạng vô sản chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể giành
thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi. Quan điểm này, chưa nhận
thức hết tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
HCM tiếp thu quan điểm của Lênin nhưng cho rằng CMTĐ có tính độc lập
tương đối của nó và CMTĐ là 1 trong những cái cánh của CMVS.

+ Năm 1925,. Quan điểm này lại tiếp tục được Quốc tế Cộng sản khẳng
định khi cho rằng cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của
cách mạng vô sản ở chính quốc. Khi CMVS ở chính quốc thành công thì CMVS
ở TĐ mới thành công Luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa nêu ở Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (ngày 1-9-1928) cho
rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng cácthuộc địa khi
giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến” . Quan điểm
vô hình chung này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa
trên phạm vi toàn thế giới. HCM không đồng ý với quan điểm trên. Người
khẳng định, CMGPDT ở TĐ và CMVS ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết
16
với nhau và là quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ chính phụ, lệ
thuộc.CMGPDT ở TĐ có tính chủ động và có thể tự nổ ra khi thời cơ đến.
- Cơ sở thực tiễn:
+ HCM nhận thấy CNDT là truyền thống lâu đời của các DTTĐ. Nó tạo ra
sức mạnh khổng lồ để các DTTĐ đấu tranh chống lại mọi ách xâm lăng. Mỗi
khi có họa ngoại xâm, CNDT lại trỗi dậy, tạo thành động lực mạnh mẽ cho các
phong trào đấu tranh GPDT. Do đó, các DTTĐ sẽ không trông chờ sự giúp đỡ
từ bên ngoài mà sẽ chủ động tìm mọi cách để tự giải phóng.(1)
+ CNTB luôn xem TĐ là nơi cung ứng tài nguyên thiên nhiên và con người
cho chúng. Do đó, chúng tìm mọi cách để khai thác triệt để nguồn tài nguyên
này. Khi NDTĐ đứng lên đấu tranh thì chúng chỉ sử dụng 1 biện pháp duy nhất
để đối phó là đàn áp. Theo quy luật chung, ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh,
ách áp bức càng nặng, tinh thần đấu tranh càng cao. Do vậy, các DTTĐ sẽ bùng
phát cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt để tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ. (2)
+ Nếu ở chính quốc, khi NDLĐ đấu tranh đòi quyền lời, chính phủ tư sản sẽ
dễ dàng thỏa hiệp những quyền lợi cơ bản để xoa dịu ND và củng cố địa vị
thống trị, thì ở TĐ, chính quyền thực dân thẳng tay đàn áp. Do vậy, so sánh với
NDLĐ ở chính quốc, NDLĐ ở TĐ bị bóc lột nặng nề hơn, bị áp bức tàn nhẫn
hơn. Vì thế, khi thời cơ cách mạng đến, NDTĐ sẽ vùng lên “đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta” chứ không ngồi im trông chờ sự giúp đỡ của chính quốc. (3)
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, HCM đã khẳng định: CMGPDT ở
TĐ không những không phụ thuộc hoàn toàn vào CMVS ở chính quốc mà nó
còn có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước.

Thực tiễn CMT8 ở VN đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm này,.
Cách mạng tháng Tám của Việt Nam là cuộc cách mạng đã ch ủ đ ộng
giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Khi chu ẩn b ị thành l ập
Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ tính chủ động của cách mạng ở
các thuộc địa và không phụ thuộc vào việc cách mạng có nổ ra ở chính

17
quốc hay không, chẳng những thế cách mạng ở thuộc địa còn có th ể
giúp đỡ những người anh em của mình là giai cấp vô sản ở chính qu ốc.
Khi lãnh đạo và chỉ đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nêu cao tinh thần chủ động này. Trong
bản Chỉ thị ''Nhật - Pháp bắn nhau và hành đ ộng c ủa chúng ta'' (12-3-
1945) Trung ương Đảng cũng dự kiến khả năng cách mạng có th ể n ổ ra ở
chính quốc (Nhật, Pháp) sẽ là điều kiện thuận lợi cho ta. Song, cách
mạng đã không nổ ra ở các nước đó, mà cách mạng n ổ ra và giành
thắng lợi ở một nước thuộc địa là Việt Nam. Tính chủ động và sáng t ạo
đó không chờ tác động từ cách mạng chính quốc, cũng không nhờ vào
lực lượng giải phóng từ bên ngoài tới, đã có ý ngh ĩa c ổ v ũ m ạnh m ẽ đ ối

với sự nghiệp cách mạng ở các nước thuộc địa.  đó là NDVN đã chớp lấy
thời cơ, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, vùng dậy giành chính quyền khi CM của
ND Nhật chưa nổ ra

Ngoài ra, CM Trung Quốc, Cu Ba, Angiêri… cũng chứng minh quan điểm của
HCM là đúng. Do đó, nó được đánh giá là quan điểm có ý nghĩa sáng tạo, góp
phần bổ sung hoàn thiện quan điểm của CNM-L về đấu tranh cách mạng.

Câu 6. Bằng lý luận và thực tiễn, hãy làm rõ sự sáng tạo


của Hồ Chí Minh trong việc định ra các đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

18
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội để đưa ra những đặc trưng cơ
bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa , xã
hội và con người như sau:
19
20
21
22
23
Trong những đặc trưng nêu trên, đặc trưng về văn hóa, đạo đức trong chủ nghĩa xã hội là một
24
nét sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh. Người nhận thấy Việt Nam là một quốc gia giàu
truyền thống văn hóa, đạo đức.Nền văn hóa, đạo đức của Việt Nam được hình thành, phát
triển qua hàng ngàn năm lịch sử, tạo nên giá trị trường tồn cho dân tộc.Những truyền thống
văn hóa quý báu như yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, cần cù, hiếu học cùng những phẩm chất
đạo đức nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm đã tạo nên một đất nước Việt Nam hòa hiếu, con người
Việt Nam giàu nhân nghĩa, trọng đạo lý. Đó là những cơ sở vững chắc để xây dựng chủ nghĩa
xã hội, một chế độ trong đó con người với con người xem nhau là đồng chí, là anh em. Chính
những truyền thống văn hóa, đạo đức giàu đẹp của dân tộc đã trở thành động lực mạnh mẽ
thúc đẩy kinh tế phát triển, chính trị ổn định, nền dân chủ được từng bước hoàn thiện, giúp
Việt Nam có đầy đủ khả năng để vươn cao, vươn xa sánh vai cùng bạn bè thế giới.

Câu 7.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về bước đi, phương thức và
biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ.
Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản. Đó là
một xã hội phát triển cao về mọi mặt. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước đi tất
yếu của xã hội loài người, tuy nhiên, mỗi nước đều có đặc điểm lịch sử cụ thể
khác nhau, nên bước đi, phương thức và biện pháp tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội cũng không giống nhau. Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại chịu ảnh hưởng của chiến
tranh, nên điểm xuất phát thấp, nhưng lại có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và
con người, do đó, khi học tập kinh nghiệp của các nước, Việt Nam phải áp dụng
vào thực tiễn nước mình cho phù hợp.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ:
25
Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay
trắng nên khó khăn còn nhiều, mâu thuẫn cần giải quyết rất lớn, do đó phải làm
dần dần, không thể nóng vội, chủ quan.
Theo quan điểm của Lênin, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải kiên nhẫn
bắc những nhịp cầu nhỏ, vừa tầm, lựa chọn những giải pháp trung gian, quá độ.
Đối với hoàn cảnh của Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng phải trải qua nhiều
bước, có bước ngắn, có bước dài, tùy theo hoàn cảnh, đi bước nào vững chắc
bước ấy, cứ tiến dần dần.

nghĩa xã hội và Là nước chuyên sản xuất nông nghiệp, muốn đi lên chủ nghĩa
xã hội, Việt Nam cũng phải tiến hành công nghiệp hóa.Tuy nhiên, nếu nóng vội,
muốn thực hiện công nghiệp hóa ồ ạt để nhanh chóng có chủ nghĩa xã hội là
chuyện không tưởng, vì nền tảng vật chất kỹ thuật để tiến hành công nghiệp hóa
ở nước ta rất ít, hầu như không có. Do đó, phải xuất phát từ phát triển nông

26
nghiệp vì nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng, tạo ra những giá trị vật chất cần
thiết giúp ổn định đất nước, từ đó từng bước thực hiện công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa để đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Về phương thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo,
chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải tùy tình hình cụ thể
mà suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Cụ thể như sau:


+ Trong giai đoạn miền Bắc được giải phóng, miền Nam đang trong vòng
vây của đế quốc, Hồ Chí Minh cho rằng phải kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược ở
hai miền: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.
+ Khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh từ miền Nam ra miền Bắc, phải thực
hiện khẩu hiệu: “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mĩ cứu nước, vừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đây là kinh nghiệm sáng tạo của Việt Nam đã
được thế giới công nhận.
+ Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, phải
kết hợp cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới, lấy xây dựng làm trọng tâm.
+ Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của
Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra dường lối chính sách để huy động
và khai thác triệt dể các nguồn lực của dân, vì lợi ích của nhân dân lao động. Do
27
đó, phải “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Người đề ra 4 tiêu
chí: Công-tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công- nông giúp nhau, lưu thông trong
ngoài. Có như vậy mới phát huy được tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình lâu dài, gian khổ, phải vượt qua
nhiều khó khăn thử thách, do đó, cần phải có kế hoạch tổng quát và kế hoạch cụ
thể cho từng chặng đường, phải có biện pháp và quyết tâm để thực hiện kế
hoạch đó. Theo Hồ Chí Minh, “kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm phải
hai mươi” để đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
 Vận dụng qđ HCM về xd XHCN VN hiện nay

Hợp cới tình hình thực tiễn đất nước và những biến đổi của thế giới.
Câu 8.Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào công cuộc
đổi mới hiện nay như thế nào?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Đảng ta vận dụng
trong việc đưa ra quan điểm về những phương thức, bước đi, biện pháp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đặc biệt

28
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, Đảng ta đã có
những quan điểm cụ thể như sau:
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh là
người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con đường độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng
chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta.Trải qua những
cuộc cách mạng giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mĩ, nhân dân ta đã giành, giữ và bảo vệ thành công nền độc lập của dân tộc. Sau
khi đã có độc lập, mục tiêu tiếp theo của toàn Đảng, toàn dân ta là tiến lên chủ
nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn
dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi
người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước hướng đến mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đổi mới, vì thế, là
quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu. Đó cũng
chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đưa đất nước tiến lên. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải qua. Chúng ta phải
tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của điều kiện giao
lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn
của Hồ Chí Minh Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay, chúngØ ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh
nghiệm quản lý, cộng nghệ và gia nhập thị trường TG nhưng phải trên cơ sở độc
lập tự chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực. Bên cạnh những thời cơ phát

29
triển đất nước, ta phải đối diện với những thách thức nghiêm trọng. Chủ nghĩa
đế quốc vẫn không ngừng thực hiện Diễn biến hòa bình hòng xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ tính định hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội của đất nước, từng bước biến Việt Nam thành nước lệ thuộc về kinh tế,
dẫn đến lệ thuộc về chính trị, nhằm đạt những mục tiêu của chúng ở Việt Nam

Tình hình đó cho thấy, muốn giữ được độc lập thực sự, nhân dân muốn được
hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự thì phải kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã
hội.
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm
xuất phát thấp không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên phải
đối diện với nhiều khó khăn, thử thách. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một quá
trình phức tạp. Trong nỗ lực phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Việt Nam đón nhận nhiều luồng gió mới tiến bộ, kích thích tính năng
động, sáng tạo của các tổ chức kinh tế, làm cho năng suất lao động tăng cao,
chất lượng nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái, tác động tiêu cực vào đời sống xã hội,
làm tăng nhanh độ giãn cách giàu nghèo, xã hội bị phân tầng nhanh chóng. Đặc
biệt, sự tác động tiêu cực vào xu hướng biểu hiện đạo đức trong xã hội hiện nay
đã tạo ra nguy cơ đối với tính định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.Hồ Chí
Minh từng nói: muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trước hết phải có
những con người xã hội chủ nghĩa. Việc hiện nay có những cán bộ thoái hóa
biến chất, trở thành nguy cơ của chủ nghĩa xã hội là vấn đề được Đảng và toàn
xã hội quan tâm. Đảng ta đã tích cực đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu nhằm làm trong sạch tổ chức Đảng và Nhà nước,
nhằm thực hiện thành công mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân

30
tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Đảng và Nhà
nước phải phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.Trong lịch sử phát triển
đất nước, trong chiến tranh cũng như trong hòa bình, nhân dân luôn đóng vai trò
quan trọng, thể hiện sự chủ động, tích cực trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội… Do đó, để đạt được mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cần quan tâm
tạo động lực để nhân dân phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Để phát
huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước, cần giải
quyết tốt các vấn đề sau:- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân
dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở
thành động lực của sự phát triển xã hội.- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân
dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.- Thực hiện nhất quán chiến lược
đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí
thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Giai đoạn hiện nay là giai đoạn cả thế giới cùng hội nhập, Việt Nam không
nằm ngoài xu thế này.Đảng đã khẳng định, cần phát huy tối đa nội lực tạo thế
mạnh cho Việt Nam.Việt Nam có thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên và con
người.Nguồn tài nguyên của nước ta dồi dào, phong phú. Con người Việt Nam
xét về lực lượng lao động rất dồi dào về số lượng, trẻ, năng động. Ngoài ra,
nước ta có môi trường hòa bình, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
luôn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.Với lợi thế đó, Việt Nam hoàn
toàn có khả năng đi tắt đón đầu để theo kịp và vượt qua các nước trong khu vực,
hội nhập thành công. Tuy nhiên, Việt Nam không thể tách mình ra khỏi thế giới
mà phải hòa vào dòng chảy chung của tiến bộ nhân loại. Trong bối cảnh đó, để
đứng vững và phát triển, chúng ta phải khéo léoØ các mối quan hệ, nghĩa là phải
chủ động thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa, cải thiện và tối đa hóa quan hệ
hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước có chế độ xã hội và con đường khác nhau,
Càng giữ vững độc lập tự chủ càng có đk đa dạng hóa, đa phương hóa. Ngược
lại càng thực hiện có hiện quả đa đang hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại

31
càng củng cố được độc lập tự chủ . Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn
liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho
thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của nước nhà, để không tự đánh mất
mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh
mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài
người, làm phong phú, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc .Do đó, Đảng chủ
trương phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tận dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của thế giới vào tiến trình
phát triển đất nước. Có như vậy, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mới
giành được thắng lợi vẻ vang.

Câu 9. Phân tích để thấy sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan
điểm: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.

32
Vận dụng học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với
phong trào cách mạng. Cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX hầu hết đều thất bại không phải do thiếu tinh thần yêu nước,
thiếu lòng kiên quyết đấu tranh, mà do chưa có lý luận tiền phong dẫn
đường.Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt
Nam “không những là cái cẩm nang thần kỳ, là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt
trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi đến chủ nghĩa xã
hội”. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành cơ sở lý luận dẫn đường
cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao vai trò cách mạng của giai cấp công nhân
Việt Nam trong tiến trình cách mạng. Theo Người, giai cấp công nhân Việt
Nam tuy ít về số lượng, nhưng lại nắm giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng, vì
nó có đặc điểm nổi bật là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.Đó
là giai cấp tiên tiến nhất trong sản xuất, có thể nhanh chóng nắm bắt và thấm
nhuần tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để thực hiện trách nhiệm
đánh đổ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, xây dựng một xã hội mới. Trong
quá trình đấu tranh cách mạng, giai cấp công nhân xây dựng tổ chức Đảng theo
chủ nghĩa Mác – Lênin để đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi
cuốn các giai cấp, tầng lớp khác vào đấu tranh. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin
là cơ sở lý luận của phong trào công nhân, và phong trào công nhân là cơ sở
thực tiễn kiểm nghiệm chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tuy nhiên, trong đấu tranh cách mạng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc,
chỉ kể đến phong trào công nhân thì chưa đủ, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò
to lớn của phong trào yêu nước của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt
Nam. Do đó, Người đã thêm yếu tố phong trào yêu nước vào thành cơ sở thực
tiễn thứ hai cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vì những lý do sau đây:

33
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ khi Việt Nam lập quốc, phong trào yêu
nước đã được hình thành và ngày càng được củng cố, phát triển theo dòng chảy
lịch sử. Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân nên đã phát triển
trên một phạm vi rộng lớn, lôi cuốn được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, mà
chủ yếu là nông dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
phong kiến giành lại độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt
Nam có một lòng nồng nàn yêu nước, mỗi khi có họa ngoại xâm, tinh thần ấy
lại sôi nổi, mạnh mẽ, nó biến thành những con sóng to, lướt qua mọi khó khăn
thử thách, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Chính chủ nghĩa
yêu nước và lòng tự hào dân tộc đã khiến Việt Nam trở nên mạnh mẽ, không
chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Khi thực dân Pháp sang xâm lược Việt
Nam, phong trào yêu nước lại bùng lên dữ dội, phong trào này bị dập tắt, lập tức
có phong trào khác nổi lên, lớp người trước ngã xuống, lập tức có lớp người sau
thay thế. Chính vì thế, yêu nước đã trở thành giá trị văn hóa trường tồn của dân
tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm thăng trầm lịch sử.

Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước vì
hai phong trào này có cùng mục tiêu.Nếu ở phương Tây, giai cấp công nhân đấu
tranh là nhằm lật đổ ách áp bức giai cấp, thì ở phương Đông nói chung, ở Việt
Nam nói riêng, giai cấp công nhân hòa mình vào dân tộc để đấu tranh chống ách
áp bức dân tộc, vì suy cho cùng, lực lượng chủ yếu áp bức, bóc lột giai cấp công
nhân Việt Nam không phải là giai cấp tư sản Việt Nam mà là giai cấp tư sản
Pháp với sự bảo hộ chặt chẽ của chính phủ Pháp lúc bấy giờ. Khi giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời và có phong trào đấu tranh thì hai phong trào này đã có sự
kết hợp với nhau trên các lĩnh vực như kinh tế, chính trị… Cơ sở của việc kết
hợp ngay từ đầu, liên tục và chặt chẽ giữa hai phong trào này là do xã hội nước
ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và
tay sai. Vì vậy giữa hai phong trào này đều có mục tiêu chung, yêu cầu chung:

34
giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất
nước. Hơn nữa, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó lại mang tính chất
của phong trào yêu nước vì phong trào đấu tranh của công nhân không những
chống lại ách áp bức giai cấp của đế quốc, tư sản mà còn chống lại ách áp bức
dân tộc của phong kiến.

Ba là, trong phong trào yêu nước Việt Nam, không thể không kể đến phong
trào nông dân, đó là đồng minh tự nhiên của phong trào công nhân. Có thể nói,
khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa ở Việt Nam, với việc hình thành
những khu công nghiệp như hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, đồn điền… giai cấp
công nhân Việt Nam đã được hình thành. Họ xuất thân hầu hết từ giai cấp nông
dân, do đó có mối liên hệ mật thiết tự nhiên với giai cấp này. Nếu kết hợp được
với phong trào nông dân, phong trào cách mạng Việt Nam sẽ trở nên mạnh mẽ,
vì giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số Việt Nam, phong trào của họ luôn
sôi nổi, quyết liệt hòng chống lại cường quyền. Từ khi đất nước bị xâm lược,
phong trào nông dân chưa bao giờ tắt. Có thể kể đến những phong trào nông
dân tiêu biểu như phong trào Cần Vương với sự lãnh đạo, dẫn dắt của Hàm
Nghi và Tôn Thất Thuyết (1885 – 1896); phong trào đấu tranh của nông dân
Yên Thế dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám (1884 –
1913); phong trào nông dân chống thuế ở Trung kỳ năm 1908; phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, cuộc khởi
nghĩa Nam kỳ năm 1940, cuộc Đồng khởi năm 1960,…
Bốn là, phong trào yêu nước của tầnglớp trí thức Việt Nam có đóng góp
quan trọng cho sự ra đời của Đảng. Trí thức Việt Nam luôn được đánh giá là
lực lượng tiến bộ của dân tộc.Khi đất nước lâm vào cảnh lầm than nô lệ, trí thức
luôn là lực lượng tiên phong, tuy số lượng ít nhưng lại là “ngòi nổ” của cách
mạng.Họ luôn tìm tòi những phương hướng mới để cởi ách nô lệ cho dân tộc.
Khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến thất bại, ở Việt Nam
35
đã xuất hiện một lớp sĩ phu đã mạnh dạn nghiên cứu, tiếp thu những trào lưu
cách mạng trên thế giới và vận dụng vào Việt Nam. Đó là Phan Bội Châu đã
tiếp thu yếu tố tiến bộ của cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật để khởi xướng nên
phong trào Đông du, cầu viện Nhật để đánh Pháp, đồng thời học tập kinh
nghiệm nước Nhật để xây dựng Việt Nam theo chế độ quân chủ lập hiến. Đó là
Phan Chu Trinh đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ của cuộc đại cách mạng Pháp năm
1789 để khởi xướng nên phong trào Duy tân, muốn nhờ người Pháp cải cách
văn hóa cho nhân dân Việt Nam và cải biến Việt Nam thành một nước dân chủ
mới. Đó là Nguyễn Thái Học đã học tập tư tưởng tiến bộ của Trung Hoa Quốc
dân Đảng để thành lập nên Việt Nam Quốc dân Đảng vào đầu thế kỷ XX. Khi
phong trào yêu nước theo khynh hướng dân chủ tư sản thất bại, cách mạng Việt
Nam như chìm trong đêm tối, thì những trí thưc yêu nước nhiệt thành vẫn
không bỏ cuộc, họ không thụ động tiếp nhận tư tưởng cách mạng từ bên ngoài
du nhập vào nữa mà mạnh dạn dấn thân ra nước ngoài để tìm hướng đi mới cho
dân tộc. Trong số những trí thức nhiệt thành cách mạng đó, có một trí thức kiệt
xuất đã tìm ra con đường cứu nước, con đường cách mạng theo khuynh hướng
vô sản cho dân tộc Việt Nam. Đó chính là lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh.
Như vậy, với việc nhận thấy vai trò của phong trào yêu nước và đưa nó vào
thành một trong ba nhân tố kết hợp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam,
quan điểm của Hồ Chí Minh được đánh giá có ý nghĩa sáng tạo, góp phần bổ
sung làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Câu 10.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mạng. Đảng có vững
cách mạng mới thành công, như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Thực vậy, trong bất kỳ cuộc cách mạng theo khuynh hướng nào, vai trò lãnh
đạo của tổ chức đảng đều đóng vai trò quyết định thành công của cuộc cách

36
mạng ấy. Đảng là tổ chức hoạch định đường lối cách mạng và lãnh đạo việc
thực hiện đường lối ấy.Nếu đường lối của Đảng đúng đắn, phù hợp với hoàn
cảnh, với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc thì cách mạng chắc chắn thành công;
ngược lại cách mạng sẽ thất bại.
Trong hoàn cảnh Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu hai tầng
áp bức của thực dân đế quốc và bọn phong kiến tay sai, vai trò của Đảng càng
được nhấn mạnh để đưa dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ, xây dựng chế độ
mới vì lợi ích của nhân dân.
Đảng ra đời có vai trò trước hết là tập hợp, tổ chức quần chúng thành
một khối đoàn kết rộng rãi. Mác từng ví quần chúng như những củ khoai tây,
nếu không được tập hợp mỗi củ sẽ lăn về mỗi hướng, không liên kết được. Do
đó, để quần chúng có thể kết lại với nhau thành một khối đoàn kết thống nhất,
Đảng phải có chủ trương kêu gọi, vận động mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội
hướng về mục tiêu chung của cách mạng. Khi quần chúng đã được tập hợp, sức
mạnh của cách mạng sẽ được nhân lên nhiều lần. Hồ Chí Minh khẳng định:
trong bầu trời không có gì quý hơn nhân dân, trong thế giới không có lực lượng
nào mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân; có lực lượng đoàn kết toàn
dân thì không có súng ống nào, binh lính nào có thể địch lại được. Ngay khi vừa
ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương tập hợp quần chúng trong một
tổ chức mặt trận để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Qua từng thời kỳ
cách mạng, tên gọi của mặt trận có thể thay đổi, từ Hội phản đế đồng minh năm
1930 đến Mặt trận Việt Minh năm 1941, hay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện
nay, nhưng bản chất và tinh thần của Mặt trận vẫn không thay đổi. Đó là tổ chức
của khối đoàn kết toàn dân thực hiện mục tiêu độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội.
Khi quần chúng đã được tập hợp, Đảng có trách nhiệm giác ngộ để
quần chúng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu được vì sao phải làm
cách mạng, làm cách mạng sẽ đạt được lợi ích gì, lực lượng cách mạng bao gồm

37
những ai, ai sẽ là người lãnh đạo cách mạng, làm cách mạng là phải làm gì và
làm như thế nào, Tám tư năm chưa phải là dài trong tiến trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của Đảng, nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc đã thực hiện được
quả là phi thường. Nếu không phải là một đảng mác-xít - lê-nin-nít chân chính
như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản Việt
Nam thật vĩ đại… Khi chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh đã đặt những câu hỏi như trên và lần lượt giải đáp chúng. Sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành
tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định
lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và
tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quần chúng được giác ngộ
sẽ đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức, có kỷ luật, tuân thủ những chiến lược
cách mạng của Đảng để đảm bảo thành công của cách mạng.
Là tổ chức lãnh đạo cách mạng, Đảng không thể thiếu vai trò hoạch
định đường lối cách mạng và lãnh đạo thực hiện đường lối ấy trong thực
tiễn.Đường lối của Đảng phải đúng đắn, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của
đất nước, phù hợp với lợi ích của giai cấp, lợi ích của nhân dân, của toàn dân
tộc. Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Do đó, Đảng phải luôn sáng suốt nhận
định tình hình thế giới và trong nước một cách chính xác, khách quan, từ đó tỉnh
táo đưa ra quan điểm chỉ đạo đúng đắn, kịp thời. Trải qua 84 năm lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch
sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng

38
Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong
kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt
Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và
cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập
lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam. 
Ngày nay, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Những
mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam do Đảng xác định từ những năm 30
của thế kỷ XX đến nay đang được thực hiện từng bước. Đất nước đã được độc
lập, nhân dân đã được tự do. Tuy nhiên, đời sống của nhân dân lao động vẫn
còn nhiều khó khăn. Kinh tế đất nước vẫn chưa phát triển mạnh. Các nguy cơ đe
dọa đất nước, chế độ vẫn còn rình rập. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
cần kiên định sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều biến động phức tạp,
đưa nước ta trở thành một nước giàu mạnh của khu vực và thế giới. Chỉ có như
vậy, nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam mới vững bền, sự nghiệp cách mạng của Đảng mới thành công trọn vẹn
Trong bối cảnh Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới, Đảng còn có vai trò là nhịp cầu nối gắn kết cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới, phải làm cho thế giới hiểu mục tiêu chính nghĩa của cách mạng
Việt Nam, từ đó có sự tôn trọng, ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Việt Nam giành
thắng lợi.
Câu 11.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra rằng, muốn được giải phóng khỏi ách nô lệ,
các dân tộc thuộc địa và các giai cấp bị áp bức phải dựa vào chính sức mình.
Muốn vậy phải đoàn kết chặt chẽ thành một lực lượng thống nhất có sức mạnh

39
tổng hợp để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.Theo
Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng. Tùy từng thời kỳ cụ thể, từng đối tượng của cách
mạng mà tập hợp khối đoàn kết cho phù hợp, nhưng không có thời kỳ cách
mạng nào có thể bỏ qua chính sách đoàn kết dân tộc.

Dân tộc càng được đoàn kết chặt chẽ, cách mạng càng có cơ hội thành công.
CM là cuộc chiến đấu khổng lồ, không tập hợp được rộng rãi lực lượng quần
chúng thì sẽ không thể thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân thực hiện âm mưu chia để
trị, vậy ta phải đoàn kết muôn người như một, phải thực hiện chữ “đồng” thì
mới thành công. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó: đoàn
kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã là Cách mạng Tháng Tám thành
công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đoàn kết trong Mặt trận Liên
Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, giải phóng miền Bắc; đoàn kết trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã thực hiện thành công những chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đoàn
kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất miền Nam Việt Nam, nhân dân ta đã
kháng chiến thành công, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã tổng kết: đoàn kết làm ra sức
40
mạnh. Người khẳng định: “đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để
khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt
của thành công”; “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại
thành công”…

Để thực hiện mục tiêu này, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải
thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần
chúng, vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, phải thấm nhuần lời dạy “dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu mà còn là nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng, của mọi giai đoạn cách mạng.Tùy hoàn cảnh cách mạng, Đảng phải
có chủ trương, chính sách lôi kéo, tập hợp quần chúng cho phù hợp, tạo thực lực
cho cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ của toàn Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ của toàn dân tộc. Người khẳng
định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.Từ thực tiễn đấu tranh,
quần chúng sẽ nảy sinh nhu cầu đoàn kết. Đảng có trách nhiệm thức tỉnh, hướng
dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan của quần chúng
thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết,
tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập cho dân
tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.

41
  Hồ
Chí Minh khẳng định: đoàn kết không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài…
Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân đều
được đứng trong khối đại đoàn kết. Như vậy,dân theo HCM có biên độ rất rộng,
vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa được hiểu là toàn thể đồng bào, nhưng dân
không phải là khối đồng nhất, mà là một cộng đồng gồm nhiều giai tầng, dân
tộc có lợi ích chung và riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối với sự pháp
triển XH. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải
xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng
nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân

42
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền
của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất"
HCM chỉ ra giai cấp công nhân, nông dân là những giai cấp cơ bản, vừa là lực
lượng đông đảo nhất, vừa là những người bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, có tinh
thần cách mạng triệt để nhất, là gốc của CM.. Về sau, Người nêu thêm: lấy liên
minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được
mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết
dân tộc.. Để thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân, theo Hồ Chí Minh, phải
có lòng khoan dung, độ lượng và phải có niềm tin vào nhân dân. Lòng khoan
dung, độ lượng sẽ giúp lôi kéo được đông đảo quần chúng, kể cả những người
từng phục vụ chế độ cũ, vào khối đại đoàn kết, tạo điều kiện cho họ cống hiến
cho cách mạng. Có niềm tin vào nhân dân vì dân là chỗ dựa vững chắc của
Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định
thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận.

43
Mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân

tộc.

44
Câu 12.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân
Năm 1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ra đời. Khẩu hiệu của
Mặt trận là: Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền. Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công đã giành chính quyền về tay nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch
sử, nhân dân từ thân phận nô lệ vươn lên địa vị làm chủ đất nước.Với cương vị
Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh được phân
công làm trưởng Ban soạn thảo Hiến pháp. Người nêu rõ: Nước ta là nước dân
chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân.Đó chính là điểm khác biệt giữa Nhà nước dân chủ
nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột trong lịch sử. Nhà nước phong
kiến tập trung quyền lực và quyền lợi vào tay giai cấp phong kiến, đứng đầu là
vua. Vua nắm quyền sinh sát trong tay, mọi mệnh lệnh từ vua ban xuống thứ
dân phải tuân theo, không phân biệt đúng hay sai. Để bảo vệ quyền lực và
quyền lợi của mình, giai cấp phong kiến đã định ra hệ tư tưởng nô dịch áp đặt
cho nhân dân.Vì thế, dưới nhà nước phong kiến, nhân dân không được hưởng
quyền dân chủ.

Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước dân chủ, tiến bộ hơn so với nhà nước quân
chủ chuyên chế, song nền dân chủ ở đây chỉ dành cho thiểu số, đó là giai cấp tư

45
sản.Giai cấp tư sản nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, nên nắm giữ
địa vị thống trị.Nhân dân lao động vẫn không được hưởng quyền dân chủ,
ngược lại họ bị bóc lột về kinh tế, nô dịch về tư tưởng, tinh thần. Sau cách
mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân.... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân
cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đó là điểm khác
nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai
cấp bóc lột đã từng tồi tại trong lịch sử.

Hồ Chí Minh đã nêu ra quan điểm về Nhà nước của dân, do dân, vì dân như
sau:

Nhà nước của dân: Hồ Chí Minh khẳng định vị thế của nhân dân đối với Nhà
nước trong các bản Hiến pháp do Người soạn thảo. Hiến pháp năm 1946 nêu rõ:
tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Quyền quyết định
của nhân dân về các vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia.“Những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” (Điều thứ 32 -
Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức
dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta. Nhân dân có quyền kiểm soát
Nhà nước thông qua việc bầu ra đại biểu của mình trong hội đồng nhân dân các
cấp và trong Quốc hội để đại diện cho tiếng nói của mình.Nếu đại biểu của nhân
dân mà không đại diện cho lợi ích của nhân dân, thậm chí có biểu hiện xa rời
nhân dân, coi khinh nhân dân, phản bội lợi ích của nhân dân, thì nhân dân có
quyền bãi miễn tư cách những đại biểu đó. Người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân
theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế
dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân, để cho nhân dân thực thi

46
quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của
nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng

Có thể thấy, quan điểm Nhà nước của dân của Hồ Chí Minh đã đặt nhân dân lên
vi trí tối cao. Dân là chủ và dân làm chủ.Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân. Cán bộ Nhà nước là “đày tớ” của nhân dân, không
được cậy quyền, cậy thế, đặt mình lên trên nhân dân mà hà hiếp, đè đầu cưỡi cổ
nhân dân. Hồ Chí Minh phê hán những “vị đại diện” lầm lẫn sự uy quyền đó
với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban
này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận,
không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ
không phải để cậy thế với dân”

Nhà nước do dân: Nhà nước là của dân, do dân lập ra. Nhân dân đã đấu tranh
không mệt mỏi, chịu không ít hy sinh để giành được chính quyền. Khi cách
mạng thành công, nhân dân tự tay xây dựng chính quyền, ủng hộ, giúp đỡ chính
quyền, nộp thuế để Nhà nước có kinh phí hoạt động. Do đó, nhân dân có quyền
phê bình Nhà nước. Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của
mình.

+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt
động.

+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó Bác yêu cầu tất cả các
cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe
ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. "Nếu chính phủ làm hại dân thì dân
có quyền đuổi chính phủ" nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích
và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó.

Hồ Chí Minh nêu rõ nhân dân quản lý Nhà nước ở chỗ:


- Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội –cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.

47
- Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ.
- Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực
hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
- Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực
hiện ý chí của dân.

Nhà nước vì dân:Theo Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân tự xây dựng lấy
phải là nhà nước vì dân, đại biểu cho lợi ích chân chính của nhân dân. Cán bộ
Nhà nước phải luôn tâm niệm rằng: “việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm,
việc gì có hại đến dân thì phải hết sức tránh”. Nếu nhà nước phong kiến ra đời
để bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến, nhà nước tư sản được lập ra để đại
biểu cho quyền lợi của giai cấp tư sản, thì theo Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân
phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, ngoài lợi ích của nhân dân, Nhà nước
không còn lợi ích nào khác. Cán bộ Nhà nước là “công bộc” của dân, phải biết
“vui trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân,
đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành,
tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông
rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải
đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.Nói tóm lại, Nhà nước vì dân là Nhà
nước phục vụ cho lợi ích chính đáng của nhân dân.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân, trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và thường xuyên quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết về củng cố và tăng
cường xây dựng bộ máy nhà nước. Đặc biệt, ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18- NQ/TW “Một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, chắc
chắn vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều hành của cơ quan nhà nước Trung ương và chính quyền địa phương, chất
48
lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được
nâng cao; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Câu 13. Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong
sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả, hãy liên hệ đến việc xây dựng nhà
nước ở nước ta hiện nay
Theo Hồ Chí Minh, để nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu
quả, trước hết phải có đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài. Người cho rằng, cán bộ là
“cái gốc của mọi công việc”, mọi việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Hồ Chí Minh nêu ra một số yêu cầu nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ vừa có đức
vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên như sau:
- Phải tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên đối với
cán bộ. Lòng trung thành đó thể hiện hàng ngày, hàng giờ, nhưng phải được thể
hiện rõ trong những lúc đất nước gặp khó khăn, thử thách, chuyển giai đoạn.
- Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ

- Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Cán bộ phải gần dân, hiểu dân
và vì dân, phải xem việc phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân là mục tiêu
hàng đầu cho hoạt động của mình.

49
- Phải dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong
những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.

- Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động
vì sự lớn mạnh và trong sạch của Nhà nước.
Để Nhà nước trong sạch, bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ
tài, cần phải đề phòng và khắc phục những căn bệnh trong hoạt động của Nhà
nước. Đó là biểu hiện đặc quyền, đặc lợi; là bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu; là
bệnh tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo,… Đây là biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa cá
nhân, là kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Do đó, cần phải triệt để khắc
phục. Để làm được điều đó, theo Hồ Chí Minh, cần phải tăng cường tính
nghiêm minh của pháp luật đồng thời đẩy mạnh các biện pháp giáo dục đạo đức
cho cán bộ đảng viên và nhân dân.
Hiện nay, Việt Nam đang hòa vào xu thế toàn cầu hóa, thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế, nhiều cơ hội để phát triển đất nước đang đến gần, nhưng cũng
có không ít nguy cơ đang rình rập, đe dọa nền độc lập và tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của nước ta.Đảng ta ngay từ những ngày đầu thành lập đã xác định
tính định hướng xã hội chủ nghĩa cho cách mạng Việt Nam. Sau khi giành được
chính quyền, Đảng đã chủ trương xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân để

50
thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Đứng trước những cơ hội và thách thức nêu trên, Đảng luôn kinh định
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định tính định hướng xã hội
chủ nghĩa cho Nhà nước Việt Nam. Để làm được điều đó, Đảng luôn nỗ lực
lãnh đạo nhân dân xây dựng Nhà nước Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu quả. Một khi Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, mọi mục tiêu phát triển của đất nước đều thực hiện được một cách tốt
nhất, và các thế lực thù địch cũng không có cơ hội để chống phá chế độ ta. Tuy
hiện nay, hiện tượng quan liêu, hống hách, cửa quyền, lãng phí, tham nhũng vẫn
còn tồn tại, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, của Nhà nước, làm giảm lòng tin
trong nhân dân, nhưng nhìn chung, đội ngũ cán bộ Nhà nước hiện nay vẫn đảm
bảo được những yêu cầu mà Hồ Chí Minh đã đặt ra cho cán bộ công chức.
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực thực hiện cải cách toàn diện nền hành chính
công để phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân một cách tốt nhất, xứng đáng
là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Câu 14.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của
văn hóa. Đảng ta đã kế thừa, vận dụng vào việc xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay như thế nào?
Năm 1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
51
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hóa có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng đối với đời sống xã hội của con người. Văn hóa là đời sống tinh
thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.

Hồ
Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn
vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với
nhau. Kinh tế, chính trị mở đường cho văn hóa phát triển, ngược lại, văn hóa tạo
động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế và ổn định chính trị. Với ý nghĩa đó, văn
hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế, chính trị, phải phục vụ
nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế.

52
Xét về tính chất, Hồ Chí Minh khẳng định nền văn hóa của nước Việt Nam
mới là nền văn hóa có tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng. Tính dân
tộc thể hiện ở chỗ nền văn hóa phải “lột tả cho hết tinh thần dân tộc”, không
những biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện
lịch sử mới của đất nước. Tính khoa học của nền văn hóa thể hiện ở tính hiện
đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại; phải biết gạn đục khơi
trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại,
đồng thời đấu tranh chống lại những gì phản kho học, phản tiến bộ, chống lại
chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan. Tính đại chúng của nền văn hóa thể
hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên.
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa mới bao gồm ba chức năng. Thứ nhất là,
bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp cho con người. Tư
tưởng đúng đắn của con người là luôn hướng về lợi ích dân tộc. Do đó, văn hóa
phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do, phải làm thế nào cho ai
cũng “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.
Tình cảm lớn là lòng yêu nước, yêu thương con người, yêu tính trung thực, chân
thành, thủy chung, ghét những thói hư tật xấu, sự sa đọa… Thứ hai là, mở rộng
hiểu biết, nâng cao dân trí. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng “biến một nước dốt nát, cực khổ
thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui, hạnh phúc”.

Thứ ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành
mạnh; hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân. Phẩm chất
và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị con người. Do đó, văn hóa phải giúp con
người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh

53
thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ với
cái lạc hậu, bảo thủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực lãnh đạo nhân dân xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng chủ trương phải kế thừa, phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu
tinh hoa văn hóa của nhân loại nhằm làm phong phú thêm nền văn hóa của dân
tộc. Tận dụng bối cảnh toàn cầu hóa, sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc
gia đang diễn ra một cách nhanh chóng, việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nước
ngoài và phổ biến văn hóa Việt Nam ra bên ngoài sẽ gặp nhiều thuận lợi. Hồ
Chí Minh đã từng nói, văn hóa phát triển đến cực điểm sẽ tiến đến chỗ thế giới
hóa nó, nghĩa là lúc ấy thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa Việt Nam và văn hóa
Việt Nam sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hóa thế giới. Vì thế, để
gây được ảnh hưởng của văn hóa ra thế giới, trước hết phải làm cho nền văn hóa
Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng và đậm chất dân tộc.

54
Bên
cạnh đó, phải biết chọn lọc những trào lưu văn hóa thế giới để lấy những gì tinh
túy nhất, gạt bỏ những biểu hiện phi văn hóa như lối sống thực dụng, phóng
túng, hợi hợt…, những sản phẩm độc hại mang nhãn mác văn hóa…

55
Như vậy, nền văn hóa Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu định hướng cho kinh
tế, phục vụ cho chính trị và xứng đáng là ngọn đuốc soi đường cho quốc dân đi.
Câu 15.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức
đối với người cách mạng.Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
nay, vai trò của đạo đức thể hiện như thế nào?
 Tư tưởng Hồ Chí Minh, là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt nam. Một trong những nét đặc sắc nổi bật trong tư tưởng của Người là vấn đề
đạo đức của người cách mạng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ luôn nhắc nhở cán bộ,
đảng viên phải quan tâm rèn luyện đạo đức cách mạng mà chính bản thân Người còn là tấm gương
trong sáng tuyệt vời về đạo đức cách mạng.

Cách mạng là sự nghiệp vẻ vang của toàn Đảng, toàn dân ta.Đó là sự nghiệp
cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới, thực hiện mục tiêu độc lập, tự do và chủ nghĩa
xã hội.Trách nhiệm của người làm cách mạng là đem lại cuộc sống hạnh phúc
thực sự cho nhân dân. Do đó, bản thân những người làm cách mạng phải có đạo
đức cách mạng cao đẹp. Hồ Chí Minh đánh giá đạo đức là cái gốc của người

56
cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn
nguồn của sông suối.

Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề đạo
đức, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là
tấm gương mẫu mực, thực hiện triệt để nhất những phẩm đạo đức cách mạng.
Bác thường nhắc nhở , không phải cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là được
dân tin, dân yêu, người dân chỉ tin tưởng, quý mến những người có cái tâm
trong sáng, có đạo đức cao đẹp. Có thể nói, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
là tư tưởng đạo đức trong hành động, do đó nó gắn với cái tài. Vì vậy, đạo đức
phải được đặt trước tài: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm
nhuần đạo đức cách mạng hay không”. Như vậy, một người cách mạng chân
chính phải là người vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên, trong đó, đức
là gốc của tài, hồng là gốc của chuyên, đạo đức là gốc của năng lực.
Trong sự nghiệp cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức được đánh
giá là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội.Chủ nghĩa xã hội là một
chế độ có tính nhân văn cao đẹp, trong đó con người xem nhau là đồng chí, là
anh em. Do đó, đạo đức được bồi dưỡng sẽ tạo nên giá trị to lớn cho chủ nghĩa
xã hội. Những người cộng sản là những người trọn đời cống hiến cho Tổ quốc,
cho nhân dân, cho chủ nghĩa xã hội. Do vậy, tư cách đạo đức của họ sẽ là những
mẩu mực làm đẹp xã hội và trở thành tấm gương để nhân dân noi theo. Hồ Chí
Minh từng nói: mỗi một người tốt là một bông hoa đẹp, một xã hội tốt là một
rừng hoa đẹp. Đạo đức cách mạng nếu được xây dựng, gìn giữ, vun đắp sẽ tạo
nên rừng hoa đẹp cho đất nước.

57
Từ những nhận định trên, ta thấy đạo đức cách mạng có vai trò và sức mạnh vô
cùng to lớn. Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử
thách. Người viết “Người có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa” Từ những
nhận định trên, ta thấy đạo đức cách mạng có vai trò và sức mạnh vô cùng to
lớn. Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách.
Người viết “Người có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công
thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”

Trong thời kỳ hiện nay, đạo đức có vai trò cực kỳ quan trọng, giúp định hướng
con người đến chân, thiện, mỹ. Nền kinh tế thị trường một mặt giúp con người
phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động tham gia cống hiến cho đất nước.
Mặt khác, có những yếu tố tiêu cực của kinh tế thị trường có thể làm con người
trở nên hời hợt, vô cảm trước người khác, trước vận mệnh của đất nước, từ đó
dễ rơi vào lối sống thực dụng, rơi vào chủ nghĩa cá nhân.Trong thực tế những
năm gần đây, sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân, đang làm băng hoại nền đạo đức xã hội,
băng hoại truyền thống nhân văn của dân tộc. Có thể nói,đây là những thách
thức lớn nhất của công cuộc đổi mới đất nước, là nguy cơ đe doạ sự sống còn
của chế độ ta, làm mất thanh danh uy tín của Đảng, Nhà nước, làm xói mòn
lòng tin của dân chúng vào Đảng, vào chế độ.Đó là những điều hết sức nguy hại
đối với Đảng, vì cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng. Đảng viên là tế bào của Đảng. Sức mạnh của Đảng là do sức mạnh
của đội ngũ đảng viên tạo nên. Người thường nhắc nhở: “Để lãnh đạo cách
mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên
đều tốt”(7) . Vậy mà, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lại thoái hoá,
biến chất thì ảnh hưởng rất lớn đến sự lãnh đạo của Đảng.

58
59
Do đó, đạo đức có vai trò định hướng cho con người, giúp họ phân biệt
thiện ác, tốt xấu, từ đó nhìn nhận lại bản thân, khắc phục điểm xấu, vương đến
cái tốt, trở thành những công dân gương mẫu tích cực xây dựng xã hội ngày một
phồn vinh.
Câu 16.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo
đức của người cách mạng. Trong cuộc sống hàng ngày, ứng với công việc
cụ thể, việc rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức của Hồ Chí Minh
được thực hiện như thế nào?
Theo Hồ Chí Minh, đã là con người sống trong xã hội, cần thiết phải tuân
theo những chuẩn mực đạo đức do xã hội quy định. Là người cách mạng, việc
rèn luyện đạo đức cách mạng càng trở nên cần thiết. Hồ Chí Minh đã nêu lên
bốn nhóm phẩm chất sau:
- Trung với nước, hiếu với dân. Quan điểm trung, hiếu được Hồ Chí Minh
kế thừa từ truyền thống đạo đức của Nho giáo.Theo Nho giáo, trung là trung với
vua, hiếu là hiếu với cha mẹ phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con
đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung, mới đạo
đức cách mạng: Trung với nước hiếu với dân, đồng thời người đã loại
bỏ đi những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ. Trung với vua nghĩa là phải
trung thành tuyệt đối, phục tùng mọi mệnh lệnh do vua ban ra, bất kể đúng sai,
thậm chí nếu vua bắt chết cũng phải chết. Hiếu với cha mẹ có nghĩa là phải
vâng lời cha mẹ, phải phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên, sinh con nối dõi,
…Những quy tắc quy định chữ trung, hiếu của Nho giáo đã trói buộc tư tưởng
con người trong lễ giáo phong kiến. Theo Hồ Chí Minh, trung ở đây không phải
là trung thành với một người, mà trung thành với Tổ quốc, phục vụ cho lợi ích
của Tổ quốc.

60
Hiếu là
hiếu với nhân dân, trong nhân dân có cha mẹ.

Trung với
nước, hiếu với dân có mối quan hệ mật thiết với nhau, trung với nước là biểu hiện của hiếu
với dân, ngược lại, hiếu với dân nghĩa là trung với nước vì nước là nước của dân, dân là chủ
đất nước. Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định
hướng chính trịđạo đức cho mỗi người Việt Nam.
 
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là
điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với
dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là
người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền
và trách nhiệm của người chủ đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính tuy
nhiên ông cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên
phú”. Tuy nhiên, khi vận dụng những khái niệm này của đạo đức cũ Người
lại cho rằng cần, kiệm, lêm, chính không phải do thiên phú mà do sự rèn
luyện bền bỉ mà nên, cho nên Người đã khằng đinh: đạo đức cách mạng
không phải tự trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên. Theo
Người, cần, kiệm, lêm, chính là tứ đức không thể thiếu được đối với mỗi
con người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
  Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh
thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là tiết kiệm của cải, thời giờ, công sức của nước, của dân và của bản
thân mình.
Liêm là trong sạch, không tham lam, luôn tôn trọng của công và của dân.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.

Cần, kiệm, liêm, chính luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Đối với mình, không tự cao,
tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay,
61
sửa đổi điều dở. Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới;
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Đối với
việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại
khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.Cần, kiệm, liêm, chính cần
thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh ví bốn đức cần, kiệm, liêm, chính của
người cách mạng với bốn mùa của đất, bốn phương của trời.Người cách mạng
phải hội đủ cả bốn đức, không thể thiếu một đức nào.
Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc gì
cũng kông nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc. Đối lập với chí
công vô tư là dĩ công vi tư, đó là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, là kẻ địch
hung ác của chủ nghĩa xã hội. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ .Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người
vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để
vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.

- Yêu thương con người, sống có tình nghĩa. Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân
tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh
thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
 
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp
bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân
được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có
tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
 
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những
ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong
mỗi con người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
 
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái
độ tôn trọng con người, trong sự khoan dung, độ lượng, vị tha với người

62
khác, thậm chí là những người lầm đường, lạc lối đã biết ăn năn, hay kẻ thù của
nhân dân nhưng đã bị thương, bị bắt hoặc đã quy hàng.

điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.


- Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.

Tin
h thần đó thể hiện sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp
vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những
người tiến bộ trên toàn thế giới; Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn
phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của
nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà
bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn
của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. chống
lại sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc, chống chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền… Hồ Chí
Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
 Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hồ Chí Minh chỉ rõ, mỗi người cán bộ, đảng viên phải
thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đây là công việc phải làm kiên trì,
bền bỉ suốt đời. Theo Người, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong. Việc tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân phải được thực hiện
thông qua hoạt động thực tiễn sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu. Khi cách mạng thuận lợi, cũng như
lúc cách mạng gặp khó khăn thử thách, cán bộ, đảng viên đều phải rèn luyện để nâng cao đạo đức cách

63
mạng. Bởi vì, khi mới được bầu, mới được đề bạt hầu như ai cũng là người tốt nhưng nếu không rèn
luyện thường xuyên thì sẽ dễ bị danh lợi, uy quyền, tiền tài, sắc đẹp… làm cho gục ngã thoái hóa, biến
chất về đạo đức, lối sống. Vì thế, việc rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân phải được thực hiện trong suốt cả cuộc đời.

Trong cuộc sống thực tiễn hàng ngày, là sinh viên đang theo học tại trường
sư phạm, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức theo tư tưởng và tấm gương của Hồ
Chí Minh là vô cùng cần thiết, vì sinh viên sư phạm hôm nay sẽ là giáo viên
tương lai, nắm trọng trách thiêng liêng là dạy chữ, dạy người. Bản thân giáo
viên mà không cần, kiệm, không liêm, chính, không có lòng yêu thương con
người, không biết nghĩ đến Tổ quốc, đến đồng bào, thì không đủ tư cách để dạy
các thế hệ sau nên người.

64
Câu 17. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc
xây dựng đạo đức mới. Bản thân là sinh viên sư phạm, hãy cho biết việc
thực hiện những nguyên tắc này như thế nào?

Khi bàn về vấn đề đạo đức, theo Hồ Chí Minh, để trở thành người cách mạng
chân chính, giữ vững được đạo đức cách mạng, thì phải hiểu và tuân thủ nghiêm
túc những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Theo Người, một người cách
mạng cần phải tuân thủ ba nguyên tắc đạo đức sau:

- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, đây là
nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Đạo đức
cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải quyết trên lập
trường của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng Nó trái
ngược với thói đạo đức giả, nói nhiều làm ít, hoặc nói mà không làm. Nhân dân
chỉ tin và theo những người cách mạng dám nói dám làm và dám chịu trách
nhiệm. Vì thế, đạo làm gương được Hồ Chí Minh xem trọng. Người nói: một
tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Lời nói
phải đi đôi với việc làm và thực hành đạo làm gương là đạo đức của
người cách mạng nói chung, nằm trong vốn văn hóa phương Đông nói
riêng. "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và
65
đối với họ, một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền". Do đó cần xây dựng những tấm gương người tốt việc tốt .
Đối với cán bộ, Đảng viên, Hồ Chí Minh nói: "Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán hai chữ "Cộng sản" mà ta lại được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải mực thước cho người ta bắt chước...
Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã".

- Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Để tạo
nên những con người hoàn thiện về tài, đức, phục vụ sự nghiệp cách
mạng, theo Hồ Chí Minh cần phải quán triệt nguyên tắc xây phải đi đôi
với chống. Hồ Chí Minh cho rằng cuộc cách mạng của nhân dân ta là
cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, trong đó vừa chống lại nọc độc của xã
hội cũ, những cái xấu vừa nảy sinh, vừa chống lại bọn đế quốc thực
dân, vừa chống nghèo nàn lạc hậu, thói hư tật xấu. Vì vậy, thái độ của
người cách mạng là phải kiên quyết đầu tranh chống lại cái xấu, cái ác,
phải bồi dưỡng và phát triển cái thiện, cái tốt đẹp cho xã hội. Vì vậy, xây
và chống phải đi đôi với nhau.

 Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau nên không
phải "người người đều tốt, việc việc đều hay". "Mỗi con người đều có cái
thiện và cái ác trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và cái xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người cách mạng". Chống và xử lý nghiêm minh là nhằm xây, đi liền
với xây và muốn xây thì phải chống. Mục đích cuối cùng là xây dựng
con người có đạo đức và nền đạo đức mới Việt Nam. Xây là giáo dục
những phẩm chất đạo đức mới, giáo dục đạo đức phải phù hợp với lứa
tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác
nhau, đồng thời phải chú ý đến từng giai đoạn cách mạng.

Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai, cái đạo đức
– cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau trong từng hành vi của
những người khác nhau, và trong mỗi con người. Xây dựng đạo đức có nhiều
cách làm, trước hết mỗi cá nhân và tổ chức phải có ý thức tự giác trau
dồi đạo đức cách mạng. Sự tự giác của bản thân là phẩm chất đạo đức
quý đối với từng người và tổ chức. bên cạnh việc xây dựng đạo đức mới cần
thực hiện việc chống những biểu hiện vô đạo đức

66
 Xây đi đôi với chống trên cơ sở tự giáo dục, đồng thời phải tạo thành
phong trào quần chúng rộng rãi. Bới vì chủ nghĩa xã hội là công trình
của quần chúng nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây
đi đôi với chống nghĩa là phải làm cho “phần tốt trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa xuân, còn phần xấu mất dần đi”. Muốn đạt hiệu quả trong trong
tác xây – chống, cần phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.Cần huy
động sức dân vào việc xây dựng nền đạo đức mới xã hội chủ nghĩa, chống lại
những biểu hiện đạo đức đã lỗi thời, lạc hậu, phản động.Có như vậy, công tác
xây – chống mới đạt hiệu quả tich cực, làm cho xã hội ngày càng trở nên tươi
đẹp hơn.

- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức cách mạng, đạo đức mới khác
với đạo đức cũ ở chỗ nó gắn với thực tiễn cách mạng và phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân. Vì vậy, việc rèn luyện, tu dưỡng bền bỉ suốt
đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày, như một yêu cầu có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu.Theo Hồ Chí Minh:" Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống" mà phải "gian nan rèn luyện mới thành công".
Đã là con người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt chỗ xấu, ai cũng
có thiện có ác ở trong bản thân mình. Nhưng quan trọng là dám nhìn
thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái
thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.Đối với
mỗi con người, việc tu dưỡng đạo đức phải gắn với hoạt động thực tiễn,
trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm, trách nhiệm của
mỗi người. Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời ví như rửa mặt
hàng ngày vậy.Ở nước ta từng bước đi vào nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền đạo đức mới đã
và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng là nguồn
động lực quan trọng góp phần xây dựng nước ta trở thành một nước
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là nền
đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu
nước, thương người, ý thức tự lực tự cường vượt gian khó đi lên, sống
nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu
cầu mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ
đó, đa số sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa,
giản dị, trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, luôn cần cù, sáng tạo trong
học tập, sống có bản lĩnh, biết gắn kết giữa cống hiến và hưởng thụ, có
chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những
khó khăn thử thách, luôn tìm tòi khám phá cái mới, dám chịu trách
nhiệm không ỷ lại chây lười; luôn gần gũi và gắn bó với nhân dân, đồng

67
hành cùng dân tộc phấn đấu hết mình để xây dựng Tổ quốc phồn vinh
và hạnh phúc.

Trong cuộc sống hàng ngày, con người tồn tại trong mối liên hệ phổ biến từ
trong gia đình đến nhà trường và ra ngoài xã hội. Những mối liên hệ ấy đan xen
nhau, thúc đẩy nhau, tác động làm cho con người thay đổi, có thể theo xu hướng
tiến bộ, cũng có thể theo xu hướng thụt lùi. Do vậy, tuân thủ những nguyên tắc
xây dựng đạo đức mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh là việc cần thiết cho
mỗi chúng ta. Nhờ có những nguyên tắc này mà những phẩm chất đạo đức được
gìn giữ và phát triển.(Tùy từng nguyên tắc, sinh viên viết phần rèn luyện của
bản thân cho phù hợp) 

Bác Hồ kính yêu đã cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu
tình cảm, trọng đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con
người có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu
dưỡng này còn quan trọng hơn vì họ là người chủ tương lai của đất
nước, là cái cầu nối giữa các thế hệ. Người tiếp sức cách mạng cho
thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên
tương lai. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn
luyện đạo đức của học sinh, sinh viên được Bác Hồ và Đảng ta quan
tâm rất sớm.

Còn riêng đối với trường ta có nên kết hợp dạy chữ, rèn người để từng
bước hình thành đức tài cho học sinh, sinh viên không? Ai (tập thể, cá
nhân, tổ chức nào) làm việc này? Phương pháp giáo dục như thế nào
cho có hiệu quả..v..v.. Đó chính là vấn đề mà bản thân muốn xới lên để
các nhà khoa học, những người có lương tâm, nhiệt huyết với sự
nghiệp "trồng người" cùng trao đổi, luận bàn để cùng tìm ra lời giải đáp.

Theo tôi, để từng bước hình thành đạo đức cho con trẻ phải kiên trì,
nhẫn nại, phải hiểu rõ tâm lý tính cách, đặc điểm , sở thích của từng lứa
tuổi, giới tính, phải biết kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội để giáo
dục. Phải đưa nội dung, kết hợp nhiều phương pháp giáo dục đạo đức
trong từng buổi học, nội dung học để hình thành nhân cách. Bởi như
Bác thường nói: "Đạo đức không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu

68
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Ở trường ta
một số người quan niệm giáo dục, quản lý, rèn luyện đạo đức cho học
sinh, sinh viên là trách nhiệm của bố mẹ và thầy cô giáo. Tôi cho rằng ý
kiến đó không sai nhưng chưa đủ bởi vì việc "trồng người" là sự nghiệp
lâu dài, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, việc đó không của riêng ai. Nếu
như trên hục giảng và trong từng bài giảng thầy cô có thuyết trình, giáo
huấn hay đến đâu nhưng giữa lời nói và việc làm "người dạy chữ" nó
cong vênh, không ăn khớp với nhau thì thử hỏi giá trị giáo huấn cao hay
thấp? Nếu cô thầy hay đi chậm mà bắt học sinh phải đúng giờ? Nếu cô
thầy nghe điện thoại, nhắn tin trong giờ, cấm học sinh không sử dụng,
phải chấp hành quy chế nghiêm túc. Nếu người đi giáo dục mà hành
động, ứng xử, phát ngôn có lúc thiếu văn hóa..v..v..  thì thử hỏi các em
sẽ học ai? Chính vì vậy, trong nhà trường các thầy cô giáo muốn được
học trò tin yêu, mến phục thì họ phải là tấm gương sáng. Do đó, như
Bác Hồ đã dạy: "Yêu cầu giáo viên phải chú ý cả tài cả đức, tài là văn
hóa chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo
viên phải có đức, cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là
đối với trẻ con".

Để hình thành lối sống, đạo đức cho học sinh, sinh viên phải hết sức
quan tâm đến "văn hóa học đường", phải biết phối kết hợp giữa Đảng
ủy, Ban giám hiệu, phòng khoa ban, giáo viên, cán bộ công nhân viên
cùng chăm lo giáo dục, quản lý. Thực tế cho thấy ở các phòng ban
thường xuyên tiếp xúc với học sinh, phụ huynh, quan khách, các cấp
lãnh đạo và đội ngũ giáo viên chuẩn mực còn ở đâu đó có vài bộ phận,
cá nhân cách ứng xử thiếu văn hóa, lời nói thì thô tục, cục cằn, có thái
độ bắt nạt người được phục vụ thì sẽ ảnh hưởng ghê ghớm đến uy tín
của nhà trường và kết qủa giáo dục. Còn trong đội ngũ cán bộ giáo viên
đa số gương mẫu, sống trong sạch, lành mạnh, biết trọng chữ tín, danh
dự, nghèo nhưng không hèn, trong khó khăn không cần lèo lách. Được
các thế hệ học sinh khâm phục nhắc tên. Nhưng chỉ cần một ít cá nhân
lợi dụng cơ chế, tìm cách móc túi người khác; gợi ý hoặc xử phạt học
sinh tiền, đánh đổi nó bằng con điểm, chỉ vì lợi ích cá nhân mà đánh đổ
tất cả "há miệng mắc quai", mình làm như vậy thì thử hỏi giáo dục được
ai trên đời này?

Người đời vẫn nói: "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò". Học sinh, sinh
viên là lứa tuổi rất năng động, bản lĩnh chưa vững vàng, không làm chủ
69
được bản thân dễ bị mặt trái lôi kéo. Chính vì vậy, học sinh trường ta
những chuyện "thật như bịa" diễn ra hàng ngày ai cũng nhìn thấy như:
phát ngôn tục tằn, hành động, ăn mặc, quần áo, đầu tóc biểu hiện thiếu
văn hóa không đúng với phong tục tập quán, tâm lý truyền thống người
phương Đông, thách đố hỗn láo với người lớn tuổi, chửi bới ném giấy
vào mặt giáo viên trẻ. Thầy cô giáo chủ nhiệm, giáo viên giảng dạy hàng
ngày gặp học trò trên sân trường không được một lời chào. Có rất nhiều
sinh viên không hề biết tên giáo viên trực giảng , giáo viên chủ nhiệm
mình tên gì? Đó là chưa kể đến những chuyện gây mất đoàn kết, đánh
đập nhau ở ký túc xá, sân bóng của nhà trường ..v..v. Những chuyện
thường nhật này những ai biết? trách nhiệm thuộc về ai? Phải làm gì và
sử dụng những phương pháp nào để tăng cường và lập lại kỷ cương
"văn hóa học đường". Xin mời bạn đọc và các nhà khoa học cùng suy
ngẫm cho ý kiến để cùng tranh luận làm sáng tỏ vấn đề.

MUC LUC

70
Câu 1.Tại sao chủ nghĩa Mác - Lênin được đánh giá là nguồn gốc có ý nghĩa
quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh?........................................................1

Câu 2.Phân tích quá trình hình thành TTHCM.Trong đó, thời kỳ nào quan trọng
nhất?Tại sao?........................................................................................................3

Câu 3. Phân tích sự sáng tạo của HCM trong quan điểm về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.........................................................................7

Câu 4.Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quan điểm sau của Hồ Chí Minh:
“Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản”...................................................................................10

Câu 5. Bằng lý luận và thực tiễn, hãy chứng minh quan điểm sau của Hồ Chí
Minh là sáng tạo: “CMGPDT cần được thực hiện chủ động, sáng tạo và có khả
năng nổ ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc”................................15

Câu 6. Bằng lý luận và thực tiễn, hãy làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong
việc định ra các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.............................18

Câu 7.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về bước đi, phương thức và
biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ.....23

Câu 8.Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào công cuộc
đổi mới hiện nay như thế nào?........................................................................26

Câu 9. Phân tích để thấy sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”..........................30

Câu 10.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng Cộng
sản Việt Nam.....................................................................................................34

Câu 11.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.....37

Câu 12.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân.........................................................................................................42

Câu 13. Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu quả, hãy liên hệ đến việc xây dựng nhà nước ở
nước ta hiện nay................................................................................................46

71
Câu 14.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn
hóa. Đảng ta đã kế thừa, vận dụng vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay như thế nào?.............................................49

Câu 15.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức đối
với người cách mạng.Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay,
vai trò của đạo đức thể hiện như thế nào?.....................................................53

Câu 16.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo
đức của người cách mạng. Trong cuộc sống hàng ngày, ứng với công việc
cụ thể, việc rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức của Hồ Chí Minh
được thực hiện như thế nào?...........................................................................57

Câu 17. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây
dựng đạo đức mới. Bản thân là sinh viên sư phạm, hãy cho biết việc thực
hiện những nguyên tắc này như thế nào?.......................................................62

72

You might also like