You are on page 1of 25

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1890 đến năm 1945

Học viên: Tăng Thu Nga


Mã sinh viên:
Lớp tín chỉ: CTPT K39

HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Lý do mà em muốn chọn đề tài này là vì em muốn tìm hiểu về quá trình hình thành tư
tưởng của Bác từ xuất phát điểm của Bác đến khi thành lập ra Đảng cộng sản. Từ năm
1890, đó là năm Bác Hồ được sinh ra, điều đó nói rằng là từ gốc rễ gia đình Bác đã thấm
nhuần tư tưởng của cha anh để lại, sự yêu nước ấy lại hình thành lên ước muốn lấy lại độc
lập, tự do cho dân tộc Việt Nam ua các thời kì. Đến năm 1930, đây là thời điểm chín
muồi và năm đó Đảng cộng sản ra đời với mục tiêu dẫn dẵn Cách mạng dân tộc đi đến
thắng lợi.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích của đề tài là tìm hiểu tư tưởng của Bác, để thấy rằng tư tưởng ấy giúp cho dân
Việt Nam ngày càng tốt hơn trong thực tại và đề cao ý chí khát vọng đấu tranh cho nền tự
chủ nước nhà.
- Nhiệm vụ nghiên cứu là đưa ra các dữ liệu, những luận điểm, luận cứ để chứng minh tư
tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, và đề cao tính áp dụng cho Việt Nam hiện đại.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu là từ 1890 đến 1930.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử
vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu khoa học, theo
V.I. Lênin, chúng ta không được quên mối liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét
một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua
những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để
xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào? Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta
hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá
trình phát triển sáng tạo, đổi mới.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng
Việt Nam, có quan hệ thống nhất biện chứng nội tại của nó. Một yêu cầu về phương pháp
luận khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là
phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong
sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng đó quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự
do. V.I. Lênin cũng đã viết: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó"
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường xây
dựng đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy, phải nghiêm túc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao tư duy lý luận, rèn
luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, năng lực công tác, thực hiện tốt các
nhiệm vụ cách mạng trọng đại của Đảng, của Nhà nước ta trên con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
- Đối với thế hệ trẻ nói chung, với học sinh, sinh viên trong các trường cao đẳng và đại học
nói riêng, cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, đặc biệt
là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao lý luận, phương pháp tư duy biện
chứng, góp phần đào tạo sinh viên thành những chiến sĩ đi tiên phong trong công cuộc
bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Di chúc của
Người để lại: "ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
- Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết"
6. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
 Mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
 Nội dung chính: Bao gồm 2 phần chính là lý thuyết và vận dụng. Trong các phần lại chia
thành nhiều tiểu mục nhỏ.

 Kết luận: Tóm lược nội dung chính

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1. Tình hình quốc tế
- Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chỉ chín nước đế quốc đã chi phối toàn bộ
tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã trở thành
thuộc địa hoặc phụ thuộc của chúng. Nhân dân các nước thuộc địa bị chủ nghĩa thực dân
tước hết những giá trị văn hoá, tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội… Mạng sống
của người dân thuộc địa “không đáng một trinh” . Cùng với mâu thuẫn cơ bản trong xã
hội tư bản - mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh một mâu
thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu
thuẫn này ngày càng gay gắt. Vì vậy, từ đầu thế kỷ XX phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa ngày càng phát triển, nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi.
- Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa
Mác - Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố đặc biệt quan trọng đối với
việc ra đời và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Chủ nghĩa đế quốc và sự tranh chấp thuộc địa giữa chúng là nguyên nhân gây ra cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Cuộc chiến tranh hao người tốn của ấy đã
khơi sâu, làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa
tư bản thế giới suy yếu, tạo điều kiện cho Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga
giành được thắng lợi. Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, mở ra thời đại mới của lịch sử
loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Đồng thời, Nhà nước Xôviết ra đời làm nảy sinh một mâu thuẫn mới mang tính thời
đại - mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
- Những nhân tố quốc tế nêu trên đã tạo những tiền đề và điều kiện cơ bản thúc đẩy phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam phát triển với xu hướng và
tính chất mới.
2. Tình hình Việt Nam
- Giữa thế kỷ XIX (1858), Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã bị chủ nghĩa tư
bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự xâm nhập của chủ
nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bị mất độc lập tự do, nhân dân
ta không ngừng nổi lên chống lại chúng.
- Kể từ khi triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) chịu sự bảo hộ của đế
quốc Pháp, trừ một số ít người cam tâm làm tay sai cho giặc, còn đại đa số nhân dân vẫn
nung nấu ý chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên tự giải phóng. Lớp lớp sĩ phu và đồng
bào yêu nước đã liên tục đứng lên chiến đấu giành lại độc lập. Song, những kinh nghiệm
lịch sử chống ngoại xâm không phát huy được tác dụng trước một kẻ thù mới - chủ nghĩa
đế quốc. Các phong trào kháng chiến đều bị dìm trong máu, lửa. Sau thất bại của phong
trào Cần Vương và các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, đất nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ, tưởng chừng
như không có đường ra.
- Từ những bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước và từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng đòi hỏi bức thiết của dân tộc
và thời đại.

CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG


HỒ CHÍ MINH

1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt
Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là
dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.
- Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người,
niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” .
- Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm
đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người
trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa
yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
thứ ba” .
2. Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
- Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Đông. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn
hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung
Quốc.
- Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà
Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người không phải là
những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà
tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hoà nhã”,
cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”. Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải
giai huynh đệ”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục
lễ”,... của các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong
khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê
phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
- Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu
tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)... Người đã vận dụng và phát triển các
trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
- Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế
thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình độ mới
trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.
3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
- Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa
và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung
thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái
mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari,
Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và
nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO),
một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
- Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành người
cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của Người. Thế
giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá
phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa
học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con dường cách mạng
giải phóng dân tộc đứng đắn.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
- Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra trên
cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan.
- Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng
nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.
- Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới
là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn
luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực
tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao
tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành
những luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng như
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh mới chỉ được bắt đầu
nghiên cứu, tuy vậy, đến nay đã có tới mấy chục khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế
thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

CHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT


TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (TỪ NĂM 1911 ĐẾN
1920)
1. Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911
- Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ
truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà và những tinh hoa
văn hoá phương Đông, Người lại được hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi của
gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
- Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người thanh niên
Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, nhân ái, thương người, có hoài bão
cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư chất
thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân.
Người không đi theo con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối. Người nói:
“Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế
là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những
từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao và tôi tới Pari để
học hỏi”.
- Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu rất quan trọng về
văn hoá Đông - Tây và lòng yêu nước nhiệt thành với chí hướng rõ rệt: trên cơ sở tiếp thu
có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước.
2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành
người cộng sản (1911 - 1920)
- Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người còn đến nhiều nước
thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như Mỹ, Anh để
nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp
Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau của nhân loại là các nước đế quốc “chính
quốc”.
- Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm 1917, Người từ
nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ
ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ
Lênin.
- Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Thực
chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những lời lẽ “tự
do”, “công bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ
lúc bấy giờ.
- Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến
hội nghị “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do,
dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết
luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn” (6) ; các dân tộc muốn được giải
phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn
gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy
những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (7) . Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con
đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo
quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập
(3-1919).
- Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh
trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa
quốc tế vô sản chân chính.
CHƯƠNG 4: NHỮNG NỘI DUNG TƯ TUỞNG HỒ
CHÍ MINH HÌNH THÀNH TRONG GIAI ĐOẠN TỪ
1920 ĐẾN 1930
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam”. Những luận điểm về cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ
Chí Minh được hình thành, phát triển suốt đời cùng sự biến đổi của thực tiễn cách mạng và
quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, giai đoạn từ 1920 đến 1930 đáng được ghi
nhận là một trong những giai đoạn quan trọng bậc nhất trong quá trình hình thành và phát
triển của tư tưởng Hồ Chí với sự hình thành tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, về
đảng cộng sản, về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng quốc tế…
Những nội dung tư tưởng hình thành trong giai đoạn này thể hiện ở những hoạt động thực
tiễn của Hồ Chí Minh và chủ yếu ở các tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường kách mệnh (1927), và các tác phẩm tập hợp trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng (1930).

1. Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc
Trong đó, Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục tiêu, bản chất của cách mạng giải phóng dân tộc,
từ đó có cái nhìn đúng đắn về phương pháp đấu tranh và phương pháp tập hợp lực lượng.
Về Mục tiêu của cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo
con đường cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao
động, giải phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với một xuất phát điểm duy
nhất là long yêu nước thương nòi. Người muốn ra nước ngoài, “xem nước Pháp và các nước
khác làm thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình”. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội
Pháp vì đó là tổ chức duy nhất bênh vực quyền lợi của các thuộc địa mà chưa hề có nhận
thức rõ ràng về Chủ nghĩa Mác – Lênin, về Chủ nghĩa xã hội. Đúng như sau này, Người đã
thổ lộ: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi
chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu
nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của
Lênin viết.
Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy- (hồi đó tôi gọi các đồng chí
của tôi như thế) – đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn
như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa
hiểu.” (Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin – Bài viết cho tạp chí Các vấn đề phương
Đông (Liên Xô) nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của V.I.Lênin, năm 1960.)
Tháng 7 năm 1920, một sự kiện có tính chất bước ngoặt xảy ra với Hồ Chí Minh, khi lần đầu
tiên Người đọc trên báo Nhân đạo của Đảng xã hội Pháp “Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin. Theo Người thì tuy bài báo có những khái niệm chính trị khó hiểu
nhưng “cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương
của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao? Tôi vui mừng
đến phát khóc lên”. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, ủng hộ Quốc tế III.
Đó cũng là cơ sở cho quyết định lịch sử của Hồ Chí Minh 5 tháng sau đó, tháng 12 năm
1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc
tế cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên. Người đã đi từ Chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác Lênin.
Hồ Chí Minh khẳng định: bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin. Người viết: muốn giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác là con đừơng cách mạng vô sản. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ”.
Từ đó, Hồ Chí Minh ra sức tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, thành lập
Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành công.
Về Bản chất của cách mạng: các mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”,
đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập tự do.
Đây là một cách nhìn nhận, đánh giá hết sức đúng đắn của Hồ Chí Minh. Người đã nhìn ra
mâu thuẫn cơ bản của một xã hội thuộc địa, đó là mâu thuẫn dân tộc. Khát vọng lớn lao nhất
của người dân là được độc lập, tự do. Vì thế, trước hết phải thực hiện cuộc dân tộc cách
mệnh để đánh đuổi ngoại xâm, thành lập chính quyền do nhân dân làm chủ. Đó là tiền đề,
cũng là điều kiện tiên quyết để tiến hành đấu tranh giai cấp, xây dựng kinh tế xã hội…v.v.v..
Về Xác định và tập hợp lực lượng: giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng, phải
tập hợp lực lượng dân tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai. Trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Đảng phải thu phục cho được
đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo”. Đồng thời lại “phải hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nông… để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối
với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì
phải đánh đổ”.
Có thể đánh giá đây là quan điểm thể hiện tầm cao của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã
vượt qua được những hạn chế của các đồng chí đương thời của mình, thường nhấn mạnh quá
cao vấn đề đấu tranh giai cấp mà không chú ý tận dụng được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc
để đánh đổ kẻ thù chung, đáp ứng yêu cầu khẩn thiết nhất của lịch sử.
Trong các văn kiện do mình soạn thảo, Hồ Chí Minh vừa xác định rõ đâu là bạn, đâu là thù
của cách mạng. Đồng thời cũng nhìn ra đâu là những bộ phận có thể bắt tay hợp tác có điều
kiện. Những thắng lợi của phong trào cách mạng tháng Tám 1945 và các cuộc kháng chiến
về sau đều có sự góp mặt của một nhân tố quan trọng: chúng ta đã nhìn nhận và tập hợp lực
lượng được đúng đắn, phát huy được sức mạnh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
Về xác định Phương pháp đấu tranh: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc
đại đoàn kết. Phải tổ chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và
khẩu hiệu thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập tự do là
bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm lịch sử từ các vị tiền bối. Người đánh giá
các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là
những vị anh hùng dân tộc, yêu nước thương dân nhưng phương pháp đấu tranh của các cụ
chưa đúng và Người không đồng tình. Trong “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch”, Trần Dân Tiên đã phân tích nhận định của Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường
cứu nước như sau:
“Anh (Trần Dân Tiên dùng để gọi Nguyễn Tất Thành) khâm phục các cụ Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành
cách làm của một người nào. Vì:
Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu Người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai
lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.
Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác
gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo người
ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.
Anh thấy rõ và quyết định chọn con đường nên đi…”.
Hồ Chí Minh thấy rằng chỉ có bằng bạo lực của quần chúng nhân dân, và phải tự dựa vào
mình “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, chứ không thể ỷ lại trông chờ bên ngoài.
Đó là những nhận thức đúng đắn đem lại nền độc lập cho nước ta ngày nay.
2. Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đã hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng
chính quốc, cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau. Cách
mạng thuộc địa không lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có tính chủ động, độc lập.
Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc và giúp cho
cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn thành.
Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, song phải nêu cao tinh thần
tự lực tự cường, không được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế.
* Những cơ sở hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh
Tinh thần đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trong quá trình hoạt
động thực tiễn sôi nổi của Hồ Chí Minh trong phong trào công nhân quốc tế, cũng là sự kế
thừa tinh thần của Quốc tế cộng sản.
Năm 1921, Hồ Chí Minh khi ấy đang hoạt động ở Pháp đã cùng một số nhà cách mạng của
Angiêri, Tuynidi, Marốc, Mađagaxca… thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Hội đã
ra báo Người cùng khổ, rồi bí mật chuyển về các thuộc địa. Qua đó truyền bá chủ nghĩa Mác
và các tư tưởng của Hội. Các nghiên cứu cho thấy Hồ Chí Minh là người hoạt động tích cực,
sôi nổi nhất của Hội.
Tiếp đó, năm 1927, Hồ Chí Minh lại thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á đông tại
Trung Quốc.
Ngoài ra, trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, ở Anh, ở Liên Xô, Trung Quốc… Hồ Chí Minh
cũng thường đi sâu vào phong trào công nhân, thợ thuyền của các địa phương đó. Chính hoạt
động thực tiễn đã giúp cho Hồ Chí Minh có được sự cảm thông, và Ngừơi dễ dàng tiếp nhận
và hưởng ứng tinh thần của Quốc tế cộng sản “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”.
“Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”, đó là câu đề dẫn cho bản in Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản do Các Mác và Ăngghen soạn thảo năm 1848. Cùng với sự phát triển của phong trào
cách mạng quốc tế, nội hàm của lời kêu gọi ấy được bổ sung: “Vô sản và các dân tộc bị áp
bức toàn thế giới liên hiệp lại”.
Trong quá trình soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930 cũng như suốt
quãng thời gian lãnh đạo về sau, Hồ Chí Minh đều khẳng định cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới, và Người yêu cầu phải đoàn kết chắt chẽ cùng vô sản thế
giới, nhất là vô sản Pháp.
Sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành
nguồn lực to lớn tạo nên những thắng lợi thần kỳ của quân và dân ta trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
3. Giai đoạn từ 1920 đến 1930 đã hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng cộng sản và cán bộ cách mạng
Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ
chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy đúng hướng, tới đích. Đảng phải có lý luận làm cốt.
Đồng thời, Đảng muốn mạnh thì phải có người cán bộ cách mệnh mạnh. Vì vậy, Hồ Chí
Minh rất chú trọng đến tiêu chuẩn của Người cán bộ cách mạng.
Năm 1925, Hồ Chí Minh sáng lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” với tôn
chỉ “trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng quốc tế”. Cùng với đó, Người mở
các lớp huấn luyện tại Quảng Châu – Trung Quốc để đào tạo cán bộ. Các bài giảng của
Người được tập hợp và in thành cuốn “Đường kách mệnh” năm 1927. Đó là những bước
chuẩn bị của Hồ Chí Minh cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, cũng là quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản và tư tưởng Hồ Chí Minh về người cán bộ
cách mạng.
* Bằng những nghiên cứu lý luận và tổng kết hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Người viết: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng
vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc thắng lợi” (Hồ Chí Minh toàn
tập – tập 9, trang 290). Trong Đường kách mệnh, Người viết: “Cách mệnh trước hết phải có
cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Hồ Chí Minh
cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ
tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.
Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì
quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy phải có Đảng để tổ
chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy
chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.
Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Điều đó lý giải vì sao năm 1925 Hồ Chí Minh chỉ thành lập Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội mà không thành lập ngay đảng cộng sản vì khi đó 3
nhân tố cho sự ra đời của Đảng cộng sản chưa chin muồi: Chủ nghĩa Mác – Lênin chưa được
truyền bá sâu rộng trong nước, phong trào công nhân đang phát triển tự phát mà chưa chuyển
sang tự giác, phong trào yêu nước thì manh mún, chia rẽ thành nhiều khuynh hướng khác
nhau. Thông qua VN TNCMĐCH, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị mọi mặt để thành lập Đảng.
Đây cũng là một bước phát triển mới trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi Lênin, bằng
sự quan sát thực tiễn cách mạng châu Âu, cho rằng Đảng ra đời kết hợp bởi chủ nghĩa Mác
và phong trào công nhân thì Hồ Chí Minh, với sự hiểu biết đất nước mình – một xã hôị thuộc
địa cho rằng cần cộng thêm vào đó cả phong trào yêu nước. Và Đảng cộng sản Việt Nam
thực sự “là đảng của dân tộc”.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội
tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Trong Sách lược vắn
tắt, Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Trong Chương trình
vắn tắt của Đảng Người viết: Đảng là “đội tiên phong của đạo quân vô sản”. Đảng tập hợp
vào hàng ngũ của mình những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và
Quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng
kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng”. Hồ Chí Minh khẳng định rõ mục đích của
Đảng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
“Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”.
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng cộng sản Việt Nam phải lấy Chủ
nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa
Mác Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng năm 1925 – 1927, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Đảng muốn vững phải có Chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có kim chỉ nam” và Người khẳng định “Chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác Lênin. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng chủ nghĩa
Mác Lênin, chính chủ nghĩa Mác Lênin là nguồn gốc cơ bản nhất hình thành tư tưởng của
Người. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác Lênin thực sự là “mặt trời soi sáng” cho con
đường cách mạng Việt Nam, là “cái cẩm nang thần kỳ” để giải quyết cá công việc cho đúng
đắn… Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác – Lênin như trí không của con người, như bàn chỉ
nam định hướng cho con tàu đi là nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả
các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác Lênin trở thành
“cốt”, trở thành nền tảng tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
4. Ngoài ra, thời kỳ 1920 đến 1930, Hồ Chí Minh cũng tiếp tục phát
triển tư tưởng yêu nước mở rộng mối hiểu biết về văn hoá, thế
giới
4.1. Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển tư tưởng yêu nước tập trung vào hai
mảng chính:
Một là: tố cáo chế độ thực dân Pháp.Trong thời kỳ 1920 đến 1930, Hồ Chí Minh đã viết
nhiều bài đăng các báo Người cùng khổ của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, Nhân đạo
của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng liên đoàn lao động Pháp… qua đó
Người vạch trần những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân, tố cáo những tội ác mà
thực dân Pháp đã thực hiện ở Đông Dương.
Đặc biệt, năm 1927, Người xuất bản “Bản án chế độ thực dân Pháp” là một lời buộc tội rất
mạnh mẽ. Người đưa ra luận điểm nổi tiếng: Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có hai vòi,
“một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô
sản ở các thuộc địa”. Vậy nên, “nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai
cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Từ đó Người vạch
rõ chủ nghĩa thực dân không chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức, mà đồng thời là kẻ thù
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc.
Hai là: tố cáo sự thối nát, mục rỗng, ăn hại của chính quyền nhà Nguyễn. Thời kỳ này,
Người đã viết những tác phẩm văn học hết sức lý thú như: Vi hành, Con người biết mùi hun
khói, Những lời than vãn của bà Trưng Trắc…
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn nêu lên nỗi thống khổ của nhân dân, đi vào nhân dân, cùng sống
và vận động nhân dân. Tiêu biểu là thời kỳ ở Thái Lan.

4.2. Thời kỳ 1920 đến 1930, Hồ Chí Minh cũng tăng cương sự hiểu biết về
văn hoá chính trị thế giới thông qua các chuyến du lịch các nước. Và
Người cũng chăm chỉ rèn luyện ngoại ngữ nên đã sử dụng được nhiều
thứ tiếng nói. Đó là những chìa khóa quý báu để bước vào kho tàng tri
thức nhân loại.

Những hiểu biết sâu sắc và rộng lớn trên nhiều lĩnh vực là cơ sở giúp Hồ Chí Minh có những
nhận định đúng đắn về phong trào cách mạng và phát triển những luận điểm tư tưởng của
mình.

5. Những nội dung tư tưởng mà Người vận dụng sang tạo và phát
triển CN Mác – Lênin trong thời kỳ này
Nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1920 – 1930 không thể
không chỉ ra những luận điểm mà Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ
nghĩa Mác Lênin, bởi đó những luận điếm sáng tạo đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối
với Hồ Chí Minh mà nó còn có ý nghĩa sống còn với cách mạng Việt Nam.
Những luận điểm mà Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển trong thời kỳ này gồm
có: tư tưởng về mối quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, mối quan hệ
giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, quan điểm về tập hợp lực lượng cách mạng, và việc vận
dụng phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin.
5.1. Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm đặc biệt sáng tạo: cách mạng ở các
nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính
quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân
Việt nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên, “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”. Không ỷ lại chờ đợi cách mạng chính quốc.
Hồ Chí Minh tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III nhưng vốn là người dân thuộc địa và là
người cộng sản lăn lộn tỏng phong trào thuộc địa va nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa thực dân,
Người đã đề ra những luận điểm về tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phóng dân
tộc, của nhân dân các nước thuộc địa, bổ sung vào những luận điểm chung lúc bấy giờ.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ
thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể
“chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng vô
sản chính quốc.
Trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921), Người viết: Công cuộc
giải phóng an hem chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân an hem”. Đến
Đường kách mệnh (1927), Người lại chỉ rõ “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự
giúp lấy mình đã”, và Người dự báo: Việt Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản
Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng càng dễ”. Luận điểm
sáng tạo này của Hồ Chí Minh mang tính cách mạng và khoa học đúng đắn đã được Người
khảo sát, chứng minh.

5.2. Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Theo Người, đối với Việt Nam không giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết được vấn
đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng
được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giai phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải
phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp.
Ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ
dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh dân tộc giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa
thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Do đó, theo Người: Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn
của đất nước và đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với nông
dân trí thức là một chiên lược cách mạng, là lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam.
“Chủ nghĩa dân tộc” theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc
phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính theo lập trường
chủ nghĩa Mác Lênin gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giải phóng giai cấp, hướng tới triệt
để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

5.3. Từ chỗ xác định đúng đắn mối quan hệ dân tộc – dân chủ nên Hồ Chí
Minh đã đề ra phương pháp tập hợp lực lượng đúng đắn. Đó là luận
điểm tư tưởng được xây dựng trên tinh thần “đại đoàn kết” của Hồ
Chí Minh.

5.4. Hồ Chí Minh một mặt khẳng định tính chân thực của Chủ nghĩa Mác
– Lênin, nhưng mặt khác trong khi tìm hiểu và vận dụng những
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam
và các dân tộc phương Đông, Người đã sớm phát hiện ở phương Đông
có những đặc điểm khác với các nước phương Tây mà thời Mác chưa
có điều kiện nghiên cứu. Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin bằng những luận điểm mới rất quan trọng.
Trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ gửi Quốc tế Cộng sản năm 1924, Người viết:
“Cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống như ở phương Tây”… Dù sao thì
cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà thời Mác không thể có được.
“Mác đã xây dựng học thuyết cảu mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử
nào? Lịch sử châu âu. Mà châu âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại…” Xem xét lại
chủ nghĩa Mác và cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằn dân tộc học phương Đông, đó là điều
cần làm.
Từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học trong kế thừa và phát triển học
thuyết Mác – Lênin, đồng thời bám sát đặc điểm của thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí
Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin,
nhất là những vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước phương Đông, thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế
lạc hậu…
Đó là những nét đóng góp cực kỳ quan trọng của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này.
 Tóm lại, với 10 năm hoạt động sôi nổi, từ năm 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào vô sản trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
giải phóng dân tộc trong nước, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất tích cực, sôi nổi. Được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí, bạn bè, Người đã nhận thức và hiểu được các
quy luật vận động và phát triển của phong trào cách mạng trong nước và thế giới, từ
đó Người tiếp cận với ánh sáng Chủ nghĩa Mác – Lênin, sáng lập nên Đảng cộng sản
Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người đi từ
người yêu nước chân chính đến người cộng sản. Trong quá trình ấy, các tư tưởng cơ
bản về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển. Những tư
tưởng ấy được chính Người vận dụng và rèn rũa, trong đó có rất nhiều điểm sáng tạo
với Chủ nghĩa Mác Lênin. Và ngày nay, sau gần một thế kỷ, những tư tưởng ấy vẫn
sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp. Tuy nhiên, sự phát triển biện chứng
của chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục
nghiên cứu làm rõ đồng thời bổ sung phát triển thêm những nội dung tư tưởng mới
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang thay đổi từng ngày từng giờ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách
mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam".

CHƯƠNG 5: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI TỔ


CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
THẮNG LỢI VÀ SÁNG LẬP NƯỚC VIỆT NAM DÂN
CHỦ CỘNG HOÀ (1930-1945)
Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi
phối nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào
cách mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội nghị lần
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp từ ngày 14 đến 31-10-1930 tại
Hương Cảng (Trung Quốc) theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Hội nghị cho rằng, hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 vì chưa nhận thức đúng nên đặt tên Đảng
sai và quyết định đổi tên thành Đảng Cộng Sản Đông Dương; chỉ trích và phê phán đường
lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt đã phạm phải
những sai lầm chính trị rất “nguy hiểm”, vì “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích của
giai cấp tranh đấu”. Do đó, Ban Chấp hành trung ương đã ra nghị quyết “ thủ tiêu Chánh
cương, sách lược của Đảng” và phải dựa vào các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, chính
sách và kế hoạch của Đảng “làm căn bổn mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng Bônsêvích
hóa”…
Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyến
Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện tả
khuynh và biệt phái trong Đảng.
Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Người là đúng. Đây là thời kỳ thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh cả về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. Khẳng định
quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là đúng đắn. Thời kỳ
này Hồ Chí Minh và Quốc tế cộng sản mâu thuẫn trong nhận thức về liên minh các lực
lượng cách mạng, Hồ Chí Minh đã giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua
khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi.
Điều này phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam , giá trị và sức sống của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
1. Giữ vững lập trường quan điểm trước khuynh hướng "tả khuynh" của Quốc tế cộng
sản
Tháng 7-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả” trong
phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trặn dân tộc thống nhất vì hòa bình,
chống chủ nghĩa phát xít. Đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, Đại hội VII bác bỏ luận
điểm “tả khuynh” trước đây về chủ trương làm “cách mạng công nông”, thành lập “chính
phủ Xôviết”…Sự chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của
Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về Mặt trận dân tộc thống nhất, về việc tập trung mũi
nhọn vào chống chủ nghĩa đế quốc là hoàn toàn đúng đắn. Trên quan điểm đó, năm 1936,
Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái
trước đây.
Như vậy, sau quá trình thực hành cách mạng, cọ xát với thực tiễn, vấn đề phân hóa kẻ
thù, tranh thủ bạn đồng minh…đã trở lại với chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của
Nguyễn Ái Quốc. Đó cũng là cơ sở đẻ Đảng ta chuyển hướng đấu tranh trong thời kỳ 1936-
1939, thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận
dân chủ Đông Dương) từ năm 1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
2. Theo sát tình hình để chỉ đạo cách mạng trong nước
Trước khi về nước, trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn
luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam
tiếp tục tiến lên. Người viết tám điểm xác định đường lối, chủ trương cho cách mạng Đông
Dương trong thời kỳ 1936-1939. Khi tình hình thế giới có những biến động mới, Người đã
chủ động đề nghị Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động. Người yêu cầu “ đừng để tôi
sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như bên cạnh, ở bên ngoài của
Đảng”
Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva về Trung Quốc (tháng 10-
1938). Tại đây, Người đã có những quan điểm chỉ đạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo
trong nước. Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về
Tổ quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần VIII (từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941) họp tại Pác Bó
(Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.

3. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng
độc lập, tự do dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
Những tư tưởng và đường lối đúng đắn, sáng tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa ra
và thông qua trong Hội nghị này có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách
mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Bản tuyên ngôn nêu rõ: “ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tình mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do độc, lập ấy”.
4. Tư tưởng về các quyền dân tộc cơ bản
Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó độc lập, tự do gắn với
phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị cốt lõi, vốn đã được Hồ
Chí Minh phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng năm 1930, nay trở thành hiện thực
cách mạng, đồng thời trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
xã hội mới của dân tộc ta.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng, phát triển ngày càng sát với
hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
của Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Trở thành
một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một
quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú
của Người, để từ đó hoàn thiện một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Về đường
lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có
chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước của
dân, do dân, vì dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế...Soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng ta xây dựng đường
lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao tư
tưởng Hồ Chí Minh, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.
Trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn
và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/02/1995 của
Bộ Chính trị (khóa VII) khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề
quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”. Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động… Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, định hướng con đường đúng đắn
của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử; thấm sâu vào trái tim,
khối óc quần chúng nhân dân; trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Đồng hành cùng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh đang tiếp tục soi
đường cho Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, vững bước hội nhập trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội.1996, tr.480, 64.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr.252-253, 636. Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội,1996, tr.283, 285.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập11, Nxb CTQG, Hà Nội,1996, tr.186.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.158.
Nông Đức Mạnh, "Phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, không ngừng học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Báo Nhân dân,3/2/2007, tr.4.
Đ.C.S.V.N. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006,
48.
Nông Đức Mạnh, "Phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, không ngừng học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Báo Nhân dân, 3/2/2007, tr.4.

You might also like