You are on page 1of 14

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Câu 1: Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, ý nghĩa học tập môn tư
tưởng Hồ Chí Minh?
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx - Lenin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Ý nghĩa:
1. Góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận
- Năng lực tư duy lý luận của mỗi người là điều rất cần thiết để
giúp giải quyết các yêu cầu do cuộc sống đặt ra. Năng lực này được hình
thành từ nhiều nguồn và qua nhiều giai đoạn. Với vốn tri thức và kỹ năng
của sinh viên được hình thành và phát triển qua nghiên cứu môn học tư
tưởng Hồ Chí Minh sẽ là những yếu tố quan trọng trở thành kim chỉ nam
hướng sinh viên hành động trở thành công dân có ích cho xã hội Việt
Nam trong quá trình thực hiện mục tiêu cao cả: xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp sinh viên tiếp cận với hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam, góp phần củng cố lập
trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Marx - Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Giúp sinh viên chủ động đấu tranh phê phán những
quan điểm sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Marx - Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Giúp
sinh viên vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề trong
cuộc sống
2. Giáo dục và định hướng thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm
tin khoa học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng
yếu nước
- Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh giúp sinh viên có cái nhìn sâu sắc
và toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Từ đó giúp sinh
viên nâng cao niềm tự hào về đất nước, về Hồ Chí Minh, về chế độ xã hội
chủ nghĩa, về Đảng Cộng Sản và tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh
- Không những vậy, thông qua nghiên cứu môn học, sinh viên sẽ
hiểu thêm về cách mạng Việt Nam và trau dồi tình cảm với cách mạng,
nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức, trách nhiệm công dân và thực hành
chống chủ nghĩa cá nhân, chống giặc nội xâm,…
3. Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác
- Giúp sinh viên vận dụng tốt hơn những kiến thức được học vào
việc xây dựng phương pháp học tập, phong cách tư duy, phong cách giao
tiếp,… phù hợp với bản thân, hoàn cảnh
- Điều này góp phần tích cực trong việc giáo dục thế hệ trẻ hình
thành và hoàn thiện về mặt nhân cách, trở thành những chiến sĩ tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần làm cho đất
nước ngày 1 lớn mạnh hơn, tốt đẹp hơn

Câu 2: Cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí


Minh
1. Cơ sở thực tiễn
a) Cơ sở thực tiễn Việt Nam
- Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858 đến
cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước liên tục nổ ra nhưng cuối cùng
đều thất bại. Điều đó chứng tỏ nhân dân ta luôn 1 lòng yêu nước, nhưng
giai cấp phong kiến cùng với hệ tư tưởng lỗi thời, lạc hậu của nó đã đến
lúc suy tàn, bất lực trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc
- Trong khoảng thời gian đô hộ ở Việt Nam, thực dân Pháp vẫn
duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân số là nông
dân, còn lại là các giai cấp địa chủ, thợ thủ công, tiểu thương… Xã hội
Việt Nam dần xuất hiện thêm các giai cấp mới như giai cấp công nhân,
giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản. Từ đó, cùng với mâu thuẫn địa chủ-
nông dân, các mâu thuẫn khác dần xuất hiện là mâu thuẫn công nhân-tư
sản và mâu thuẫn dân tộc, song mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn lớn nhất,
chủ yếu nhất tại Việt Nam
- Đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam lại xuất hiện các phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nhưng cuối cùng vẫn nhận kết
cục thất bại. Nguyên nhân là do giai cấp tư sản ở Việt Nam còn non yếu,
các tổ chức chưa có đường lối cách mạng đúng đắn
- Từ đó nước ta diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối, đặt ra câu
hỏi “Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi?”
- Trong bối cảnh đó, giai cấp công nhân ra đời và dần trở lên đông
đảo về số lượng nhưng vẫn chịu sự áp bức từ giai cấp thực dân, tư sản và
phong kiến do không có tư liệu sản xuất, phải phụ thuộc vào các giai cấp
nêu trên. Do đó, họ vùng lên đấu tranh để dành quyền lợi cho mình.
Phong trào công nhân và các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX chính là
điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Marx - Lenin du nhập và truyền bá vào
đất nước ta
b) Thực tiễn thế giới
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã
phát triển từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Phần lớn các nước
Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ Latin trở thành thuộc địa của các nước
đế quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản,…
- Mâu thuẫn tư sản-vô sản, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, mâu
thuẫn dân tộc thuộc địa ngày càng trở nên sâu sắc. Tình hình đó đã thúc
đẩy phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới
phát triển
- Cách mạng tháng 10 Nga là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Marx-Lenin. Cách mạng này đã đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong
kiến, lập lên 1 xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Cách mạng tháng 10
Nga đã mở ra 1 thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra
con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới
2. Cơ sở lý luận
a) Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí độc
lập, tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc
quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo... Hồ Chí Minh là người Việt
Nam yêu nước trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản.
Truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương đã ảnh hưởng
sâu sắc tới đến quá trình hình thành nhân cách và bản lĩnh của người
thanh niên Nguyễn Tất Thành. Chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá
trị văn hoá dân tộc Việt Nam là tiền đề tư tưởng quan trọng của Nguyễn
Tất thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm
đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu
có chọn lọc, có phê phán quan điểm của các trường phái triết học, quan
điểm tư tưởng cổ kim, đông, tây; tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập,
tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng... để vận
dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến các giá trị tư tưởng nhân
loại trở thành tư tưởng của mình. Đặc biệt, Người đã kế thừa, phát triển
các giá trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa
Tam dân và văn hóa tư sản…
c) Chủ nghĩa Marx-Lenin
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ
nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu
bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam,
Người đã có nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong 3 nguồn gốc trên, chủ nghĩa Marx-Lenin là nguồn gốc chủ
yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định
hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí
Minh trước hết và chủ yếu là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tinh
hoa văn hóa nhân loại làm giàu có và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và
tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Chủ tịch Hồ Chí Minh

Câu 3: Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
- Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược, xã hội Việt Nam xuất
hiện thêm các giai cấp mới và các mâu thuẫn mới. Nhưng trong đó, mâu
thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu nhất. Vì vậy vấn đề cần được ưu tiên,
liên quan đến vận mệnh dân tộc được đặt ra là giải phóng dân tộc khỏi
ách đô hộ của thực dân đế quốc. Nhưng lúc này, Việt Nam lại rơi vào
hoàn cảnh khủng hoảng về đường lối cách mạng, các cuộc nổi dậy, cách
mạng theo khuynh hướng phong kiến hay dân chủ tư sản đều thất bại
- Sau khi tìm hiểu ở các nước phương Tây, Hồ Chí Minh đưa ra
nhận xét rằng “Cách mệnh dân chủ tư sản là cách mệnh không đến nơi,
mang tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong nước thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”
- Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi năm 1917 đã ảnh hưởng sâu
sắc tới Hồ Chí Minh. Người cho rằng “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”
- Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin, Hồ Chí Minh tìm
thấy ở đó con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đó là con đường cách
mạng vô sản. Cách mạng vô sản là cách mạng do giai cấp vô sản lãnh
đạo, nhằm dùng bạo lực cách mạng, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư
sản, trong đó, giải phóng dân tộc là trước tiên, trên hết. Đây là con đường
cách mạng triệt để nhất, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và
xu hướng phát triển của thời đại
- Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, trong đó giải
phóng dân tộc là trước hết, trên hết: khác với các nước châu Âu, Việt
Nam và các nước thuộc địa có bối cảnh lịch sử và tình hình chính trị khác
nên phải đi từ giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng giai cấp
- giải phóng con người
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là nội dung
cốt lõi, xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quết, là tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
cũng là cơ sở để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc. Ngay sau khi giải
phóng dân tộc, giành được độc lập thì phải tiến hành cách mạng tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Vì chỉ có tiến
lên xã hội chủ nghĩa thì nhân dân mới ngày càng ấm no, Tổ quốc mới mỗi
ngày một giàu mạnh

Câu 4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của CNXH ở Việt
Nam
- Động lực thúc đẩy CNXH rất phong phú, bao hàm những độc lực
cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cả về vật chất và tinh thần, nội lực
và ngoại lực, ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học và giáo dục,… Tất cả các động lực trên đều có mối quan hệ biện
chứng với nhau nhưng giữ vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân
dân, vậy nên để thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải đảm
bảo lợi ích của nhân dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân
- Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là một trong những
điểm khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội với những chế độ xã hội
trước đó. Từ những ngày đầu xây dựng chế độ xã hội mới, Người đã dạy
“Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết
sức tránh”, “phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết”
- Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ là thứ quý giá nhất của
dân, “địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Lợi ích nhân dân và dân chủ
không thể tách rời nhau
- Về sức mạnh đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực
lượng mạnh nhất trong tất cả các lực lượng và CNXH chỉ có thể xây dựng
được khi nhân dân đã giác ngộ đầy đủ, trọn vẹn về quyền lợi và quyền
hạn, trách nhiệm và địa vị dân chủ của mình
- Những yếu tố trên chỉ phát huy đầy đủ sức mạnh của mình thông
qua các hoạt động của các tổ chức và con người Việt Nam cụ thể:
- Về hoạt động của tổ chức, điển hình là Đảng Cộng Sản và Nhà
nước giữ vai trò quyết định. Đảng như người cầm lái, người cầm lái có
vững vàng thì thuyền mới chạy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là
tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, thực hiện chức
năng quản lý xã hội để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện
thực
- Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn xây
dựng CNXH, trước hết phải có những con người XHCN”, đó là những
con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ
nghĩa
- Như vậy, cùng với việc xác định và định hướng phát huy những
động lực của CNXH, Hồ Chí Minh còn không ngừng nhắc nhở phải ngăn
chặn lực cản của những động lực này như chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
làm quan cách mạng, thói quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, bảo thủ,
rụt rè

Câu 5: Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu và vai trò lãnh
đạo của Đảng
- Hồ Chí Minh ví Đảng như người cầm lái, người cầm lái có vững
vàng thì thuyền mới chạy, hay “muốn làm cách mạng trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi”. Như vậy, sự
lãnh đạo và vai trò lãnh đạo của Đảng là 1 điều tất yếu, xuất phát từ nhu
cầu phát triển của dân tộc Việt Nam
- Trên thế giới, sự ra đời của Đảng Cộng Sản là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Nhưng
đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh còn thêm vào đó là phong trào yêu nước
- Gần như mọi giai cấp trong xã hội Việt Nam đều tồn tại mâu
thuẫn dân tộc, trừ tư sản mại bản và đại địa chủ. Trên thực tế, phong trào
đấu tranh của công nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn với phong trào yêu
nước, hàng loạt tổ chức yêu nước được ra đời, trong đó nổi bật nhất là
Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên do Hồ Chí Minh lập ra. Nhưng dù
có là tổ chức nào thì cũng hướng đến chung 1 mục tiêu đó là giành độc
lập tự do cho dân tộc
- Đảng Cộng Sản ra đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu
tất yếu của xã hội Việt Nam, được toàn dân tộc trao cho sứ mệnh lãnh
đạo đất nước trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã
hội
Câu 6: Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
- Nhà nước của dân là nhà nước mà tất cả mọi quyền lực trong nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước của dân nhấn
mạnh tới khía cạnh “dân là chủ”, khẳng định địa vị tối cao, quyền lực của
nhân dân
- Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực của mình
thông qua 2 hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp
- Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ mà trong đó nhân dân trực
tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc và
quyền lợi của mình. Đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời tạo
mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ trực tiếp
- Dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ được sử dụng rộng rãi
nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Ở hình thức này, nhân dân thực
thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và
tiết chế quyền lực mà họ lập nên. Trong dân chủ gián tiếp thì:
+) Quyền lực nhà nước là thừa ủy quyền của nhân dân. Bản
thân nhà nước không có quyền lực, mà quyền lực của nhà nước là do
nhân dân trao cho. Chính vì vậy, các cơ quan nhà nước đều phải là nô bộc
cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã xác định vị thế và mối quan hệ giữa nhân
dân với cán bộ nhà nước rằng: dân làm chủ tịch, làm bộ trưởng, thứ
trưởng, còn cán bộ nhà nước làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải là
làm quan cách mạng. Người cũng kịch liệt phê phán những cán bộ biến
chất, coi khinh nhân dân,…
+) Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có
quyền bãi miễn những đại diện mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền
giải tán những tiết chế quyền lực mà họ đã lập nên. Đây là quan điểm thể
hiện rõ ràng một nhà nước thật sự là của dân, đảm bảo mọi quyền lực,
trong đó có quyền lực nhà nước luôn nằm trong tay nhân dân. Nhân dân
đã bầu ra các đại diện, các cán bộ nhà nước mà họ tin tưởng thì họ cũng
có quyền bãi miễn các đại biểu nếu họ không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân, thậm chí nếu Chính phủ làm hại nhân dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ
+) Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân.
Nhân dân sử dụng luật pháp để thực thi quyền lực của mình, để kiểm soát
nhà nước. Như vậy có thể nói luật pháp Việt Nam phản ánh được ý
nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân. Đây cũng là điểm làm cho luật pháp
Việt Nam khác với luật pháp của các chế độ khác
a) Nhà nước do nhân dân
- Nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên
sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nhà nước do nhân dân nhấn mạnh tới khía cạnh “dân làm
chủ”, tức là nhấn mạnh tới quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư
cách là chủ, là người chủ đất nước.
- Nhân dân đã có quyền là chủ, vậy thì cũng phải có nghĩa vụ làm
tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân. Tức là phải tuân
theo pháp luật, đóng góp xây dựng lợi ích chung, bảo vệ Tổ quốc,…
- Nhà nước cũng phải tạo mọi điều kiện để nhân dân thực thi quyền
lợi và làm tròn nghĩa vụ của mình
- Nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện
quyền lợi của mình vì “muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm
chủ”
b) Nhà nước vì nhân dân
-Nhà nước vì nhân dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng
của nhân dân, không có bất kì đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần
kiệm liêm chính
- Hồ Chí Minh cho rằng “Chính phủ bao giờ cũng phải đặt quyền
lợi của nhân dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì
có hại cho dân thì phải tránh”, thước đo một Nhà nước vì dân là phải
được lòng dân
- Trong nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh
đạo nhân dân. Là đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ, tầm nhìn xa
trông rộng, hơn người, sáng suốt. Như vậy, muốn trở thành người đại
diện cho nhân dân thì phải là người có đủ đức đủ tài,vừa hiền vừa minh

Câu 7: Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết toàn
dân tộc
c) Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng
- Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách lược hay thủ đoạn
chính trị mà là chiến lược lâu dài và nhất quán
- Người nói rằng “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn
kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”
- Trong mỗi giai đoạn lịch sử, đại đoàn kết toàn dân tộc có thể điều
chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng khác nhau. Song không bao
giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng
- Qua những thực tiễn về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
Người đã đi đến kết luận:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
d) Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam
- Đại đoàn kết không chỉ là chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài
và là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Nhiệm vụ này được quán triệt
trong tất cả lĩnh vực từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động
thực tiễn của Đảng
- Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, của
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng, nếu không
đoàn kết thì họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình
- Trách nhiệm của Đảng là phải thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần
chúng nhân dân, làm cho họ hiểu được những chính sách, đường lối ấy,
biến những yêu cầu khách quan kia thành những đòi hỏi tự giác, thành
khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự
do của dân tộc

Câu 8: Quan điểm của Hồ Chí Minh về lực lượng của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc
e) Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Trước hết, theo Hồ Chí Minh, chủ thể của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc là toàn bộ nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân
tộc, đồng bào các tôn giáo, đảng phái
- Người nói rằng “ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ
quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Từ “ta” ở đây là chủ
thể, vừa là Đảng Cộng Sản Việt Nam nói riêng, vừa là người dân Việt
Nam nói chung
- Người còn chỉ ra rằng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài
hòa những xung đột giữa các giai cấp để không bỏ sót bất kì 1 lực lượng
nào
f) Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Trước hết phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân thì mới xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ở đây,
nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Việt Nam là lực lượng
công nhân, nông dân, tri thức và 1 số tầng lớp nhân dân lao động khác.
Cần củng cố vững chắc nền tảng này để khối đại đoàn kết toàn dân có thể
mở rộng, không thế lực nào có thể làm suy yếu được
- Không chỉ nhân dân mà cả sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ
Đảng cũng là 1 yếu tố quan trọng. Sự đoàn kết của Đảng càng vững chãi
thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, nhân
dân đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên 1
khối đại đoàn kết toàn dân hoàn chỉnh, mạnh mẽ

Câu 9: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
g) Khái niệm văn hóa
- Theo quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa năm 1943, ta có thể
hiểu rằng văn hóa là tổng thể các giá trị về mặt vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống
h) Xây dựng nền văn hóa mới
- Nền văn hóa mới mà Hồ Chí Minh theo đuổi khác hoàn toàn so
với nền văn hóa cũ. Nền văn hóa cũ mang tính chất nô dịch, ngu dân đã
được Hồ Chí Minh phân tích, tố cáo, lên án trong nhiều tác phẩm, nhất là
trong Bản án chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.
- Người cho rằng xây dựng nền văn hóa mới là kết hợp những
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc được phát triển và nâng cao với
tinh hoa văn hóa của nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Hay nói cách khác, xây dựng nền văn
hóa mới là phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại
- Trước năm 1945, Hồ Chí Minh đưa ra định hướng về xây dựng
văn hóa với 5 nội dung đó là: Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự
cường, Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Xây
dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã
hội. Xây dựng chính trị: dân quyền và Xây dựng kinh tế
- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đưa ra
phương châm xây dựng nền văn hóa mới mang tính dân tộc, khoa học và
đại chúng. Tính dân tộc thể hiện qua tinh thần độc lập tự cường của dân
tộc trong lĩnh vực văn hóa và qua phương tiện diễn đạt đó là ngôn ngữ.
Tính khoa học thể hiện qua việc chống lại những thứ phản khoa học, phản
tiến bộ, cổ hủ, lạc hậu. Tính đại chúng thể hiện qua văn hóa phải phục vụ
đại đa số nhân dân, phải hướng về đại chúng, phải phản ánh được tâm tư,
nguyện vọng, ý chí của nhân dân
- Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân
tộc. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa lấy hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân làm nền tảng, giữ vai trò chủ đạo quyết định phương
hướng phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
- Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa
mới là một nền văn hóa toàn diện, giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc,
bảo đảm tính khoa học, tiến bộ và nhân văn

Câu 10: Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức là gốc, là nền tảng
tinh thần của xã hội, của người cách mạng
- Khi đánh giá về vai trò của đạo đức trong đời sống, Hồ Chí Minh
đã nêu rõ đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân. Vì muốn giải phóng dân tộc mà người làm cách mạng bản chất xấu
xa, không có đạo đức thì còn làm nổi việc gì”
- Người làm cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
phải thấm nhuần đạo đức cách mạng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng không ngừng cầu tiến
và hoàn thiện bản thân mình
- Đảng phải là đạo đức, là văn minh, trong đó đạo đức là vấn đề
được đặt lên trên hết. Vì Đảng Cộng Sản đóng vai trò tiên phong thì trước
hết phải là một Đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực
phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trách nhiệm của mỗi Đảng viên là phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ sau,
biến họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng” vừa “chuyên”
- Bên cạnh đạo đức thì cũng cần có tài năng, nhưng đức và tài phải
đi đôi với nhau. Nếu đạo đức là điều kiện tiêu chuẩn cho mục đích hành
động thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó. Người khẳng định rằng
“Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Người có tài mà
không có đức thì cũng vô dụng”

Câu 11: Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức “Trung
với nước, hiếu với dân”
- Đầu tiên, Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao
trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác, bắt nguồn từ tư
tưởng đạo đức truyền thống phương Đông “Trung với vua, hiếu với cha
mẹ” đã được Hồ Chí Minh phát triển, tạo nên 1 cuộc cách mạng sâu sắc
trong lĩnh vực đạo đức
- Tư tưởng “Trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh
không chỉ kế thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt
qua những hạn chế của truyền thống đó. “Trung với nước” là trung thành
với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. “Hiếu với dân” là lấy dân làm gốc,
hết lòng vì dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không
được coi khinh nhân dân. Đây chính là điểm khiến cho tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vượt xa, tiến bộ hơn các tư tưởng khác
- Có thể thấy mối quan hệ giữa nước với dân và dân với nước trong
tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với
nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của
công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc
-  Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh được thể hiện trong mọi nhiệm vụ cách mạng của Ðảng, trong từng
suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân.
Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng  khác nhau nhưng
yêu cầu về trung và hiếu luôn nhất quán

Câu 12: Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức: “Cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư”
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo
đức cách mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng
ngày của mỗi người. Đây cũng là 1 đạo đức truyền thống của dân tộc,
được Hồ Chí Minh phát triển, loại bỏ những nội dung không phù hợp và
thêm vào những nội dung mới đáp ứng nhu cầu cách mạng
- Khác với xã hội phong kiến, đề ra cần, kiệm, liêm, chính rồi bắt
nhân dân làm theo để thỏa mãn thói quan liêu. Ngày nay, Hồ Chí Minh đề
ra cần, kiệm, liêm, chính để cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân
làm theo. Có thể thấy rằng, cần, kiệm, liêm, chính cũng là 1 biểu hiện của
“Trung với nước, hiếu với dân”
- “Cần” là cần cù, siêng năng, chăm chỉ. Để “cần” có hiệu quả thì
phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Vì vậy, “cần” không chỉ là siêng
năng, chăm chỉ làm việc mà phải làm việc có kế hoạch, có sáng tạo, tạo ra
năng suất cao
- “Kiệm” là tiết kiệm, không xa hoa, hoang phí, bừa bãi. Tiết kiệm
không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một xu cũng không
được tiêu. Khi có việc cần làm, có lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù
tốn bao nhiêu công sức, tiền bạc cũng phải tiêu. Việc đáng tiêu mà không
tiêu là bủn xỉn chứ không phải tiết kiệm. Cần với kiệm phải đi đôi với
nhau, như 2 chân của con người
- “Liêm” là liêm khiết, là trong sạch, không tham lam, không tham
địa vị, tiền tài, danh tiến, sung sướng. Chỉ ham 1 thứ đó là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. Liêm phải đi đôi với kiệm, cũng như kiệm phải đi đôi
với cần. Có kiệm mới liêm được
- “Chính’ tức là ngay thẳng, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
ngay thẳng tức là “tà”. “Chính được thể hiện trong 3 mối quan hệ: đối với
mình, chớ tự kiêu, tự đại. Đối với người, chớ nịnh hót người trên, chớ
khinh thường người dưới. Đối với việc, phải đặt việc nước lên trước việc
nhà. Việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải
thực hiện, đặc biệt là cán bộ phải nghiêm túc thực hiện để làm gương cho
dân. Cán bộ mà không giữ đúng cần kiệm liêm chính thì dễ trở nên hủ
bại, trở thành sâu mọt của dân
- “Chí công vô tư” là công bằng, công tâm, làm việc không màng
tư lợi, chống chủ nghĩa cá nhân, luôn đặt lợi ích của dân tộc, của Đảng
lên hàng đầu. Chí công vô tư thực chất là sự tiếp nối cần kiệm liêm chính.
Bởi một người cán bộ không giữ đúng cần kiệm liêm chính thì dễ mắc
thói quan liêu, hủ bại, tham ô, trở nên “dĩ công vi tư” chứ không thể nào
“chí công vô tư” được

Câu 13: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
- Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, có ý nghĩa chiến
lược. Xây dựng con ngươi có mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền với nhiệm
vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
- Hồ Chí Minh từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người” cho thấy “trồng người” là công việc lâu dài, gian
khổ, phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi
người, đây vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự
nghiệp xây dựng đất nước
- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những
con người xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người
xã hội chủ nghĩa, những con người xã hội chủ nghĩa lại là chủ thể của
toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Trước hết cần phải có
những con người xã hội chủ nghĩa” tức là không phải tất cả mọi người
đều phải là con người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ mà là phải có những
người mang nét tiêu biểu của con người xã hội chủ nghĩa, lấy những
người này ra làm gương và lôi cuốn những người khác trong xã hội noi
theo
- Công việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải được đặt ra
ngay từ đầu và tiến hành trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
chứ không phải đợi cho kinh tế văn hóa phát triển rồi mới đi xây dựng
con người, cũng không phải xây dựng con người rồi mới đi xây dựng chủ
nghĩa xã hội
- Tiêu chuẩn của một con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí
Minh khái quát như sau: Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa và ý thức làm chủ,
có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa, có tác phong xã hội chủ nghĩa,
có lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần quốc tế trong sáng
- Về phương pháp xây dựng con người, bên cạnh việc tự rèn luyện,
tu dưỡng ý thức thì việc nêu gương để những người khác noi theo cũng
rất quan trọng. Văn hóa phương Đông cho thấy “một tấm gương sống có
giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Hồ Chí Minh cũng nói
rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hàng ngày để giáo dục lẫn nhau là rất
cần thiết và bổ ích”. Ngoài ra biện pháp giáo dục, uốn nắn phù hợp, đúng
đắn và các phong trào như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt” cũng
đống góp vào công cuộc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa

You might also like