You are on page 1of 6

An Giang University Journal of Science – 2018, Vol.

20 (2), 73 – 78

CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHO GIÁO

Bùi Quốc Hưng1


1
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam

Thông tin chung: ABSTRACT


Ngày nhận bài: 05/05/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt: This article includes two periods. Period 1 discusses about the economic,
05/06/2018 political and social conditions for the formation of Confucianism. In terms of
Ngày chấp nhận đăng: economic condition, it is a new evolution: irons were made and widely used
06/2018 in ancient China. Chinese people at that time knew how to use pulling force.
Title: As a result, carpentry, handicrafts and the economy generally developed, and
The basis formation of economic development led to significant social changes, for example, the
Confucianism trading was characterized by the trafficking of the king! The slaves were not
Keywords: buried alive together with their dead owners, and thus the value of slaves
Confucianism, Confucius, was increased considerably.
Mencius, Lao Tzu
Basing on the politic conditions, during the wartime period of ancient China,
Từ khóa: numerous wars occurred and countries fight fiercely. Until 221 BC, the
Nho giáo, Khổng Tử, Mạnh mighty Qin conquered all small and weak states, leading to the uniting of the
Tử, Lão Tử whole China, and ending the war era.

Period 2 discusses about the previous cultural ideologies contributing to the


formation of Confucianism. It is a treasure trove of ancient Chinese folk
songs and a collection of historical titles namely Kinh thu, both of which
contain many Confucius ideas. They were the theory of Eight Triggers, Five
Elements, Yin and Yang explaining the origin of the world. It was the thought
of Lao Tzu, a great scholar and a master of Confucianism who explained the
origin of the universe and opposites of a thing.

TÓM TẮT
Nội dung chính của bài viết gồm 2 tiết. Tiết 1 bàn về điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội cho sự ra đời Nho giáo. Về kinh tế, đó là sự tiến bộ mới: đồ sắt đã
xuất hiện, được sử dụng phổ biến trong thời cổ đại Trung Quốc. Người
Trung Quốc thời này đã biết sử dụng sức kéo. Vì thế, nghề mộc, thủ công
nghiệp và kinh tế nói chung phát triển, kinh tế phát triển dẫn đến quan hệ xã
hội có biến đổi đáng kể: nghề buôn ở đây có dấu hiệu đặc thù là buôn cả
vua, nô lệ không bị chôn sống theo chủ chết nữa, tức là giá trị của nô lệ đã
được tăng lên ít nhiều. Về chính trị, thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc cổ
đại, chiến tranh nổ ra liên miên, các nước đánh nhau dữ dội, đến năm 221
trước Công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã chiến thắng tất cả các nước
nhỏ yếu, thống nhất được toàn Trung Quốc, kết thúc thời đại mang tên Chiến
Quốc. Tiết 2 bàn về những tiền đề văn hóa tư tưởng góp phần hình thành

73
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78

Nho giáo. Đó là kho tàng Kinh thi, nguồn ca dao cổ của người Trung Quốc;
là bộ lịch sử mang tên Kinh thư, cả hai loại tác phẩm này chứa đựng nhiều
tư tưởng Nho giáo. Đó là các thuyết bát quái, ngũ hành, âm dương giải thích
nguồn gốc của thế giới. Đó là tư tưởng của Lão Tử, một học giả lớn, một bậc
thầy của Khổng Tử đã giải thích về nguồn gốc vũ trụ và các mặt đối lập
trong một sự vật, v.v..

1. MỞ ĐẦU Về kinh tế, đất nước Trung Quốc cổ đại thời kỳ


Có thể khẳng định bất kể tư tưởng, học thuyết nào này đã được lịch sử ghi lại sự kiện tiến bộ mới,
cũng được hình thành trong một hoàn cảnh, điều quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế là sự ra đời
kiện lịch sử nhất định. Hoàn cảnh, điều kiện lịch của đồ sắt. Thời Xuân Thu ứng với triều đại Đông
sử nào sẽ cho ra đời tư tưởng học thuyết tương tự Chu. Gọi là Đông Chu vì nhà Chu đóng đô ở phía
với nó. Tư tưởng học thuyết luôn mang tính lịch Đông. Gọi là thời đại Xuân Thu vì lịch sử Trung
sử cụ thể. Nho giáo, học thuyết của Khổng Tử Quốc thời này được phản ánh trong bộ sách mang
(sinh năm 551 trước Công nguyên, mất năm 479 tên là Xuân Thu do Khổng Tử biên soạn, đó là
trước Công nguyên), còn gọi là Khổng giáo, trong quyển lịch sử của nước Lỗ. Niên đại của thời
đó có bao hàm tư tưởng trị quốc cũng là sản phẩm Xuân Thu được tính từ năm 772 trước Công
tất yếu của lịch sử. Thủy tổ và những tác giả của nguyên và chấm dứt vào năm 481 trước Công
nó sinh trưởng trong thời đại Xuân Thu - Chiến nguyên (Lương Ninh, 2014). Khoảng giữa thời
quốc từ khoảng năm 770 đến năm 221 trước Công Xuân Thu đã có bằng chứng người Trung Quốc
nguyên (Hà Thúc Minh, 1999). Đấy là thời điểm làm nghề luyện sắt.
lịch sử xuất hiện học thuyết của thầy trò Khổng Đến thời Chiến Quốc là thời đại kế tiếp sau thời
Tử, còn gọi là Nho giáo, hoặc Khổng giáo trong đại Xuân Thu ở Trung Quốc. Sử liệu Trung Quốc
lịch sử. Mạnh Tử (sinh năm 372 trước Công coi năm 403 trước Công nguyên là thời điểm mở
nguyên, mất năm 289 trước Công nguyên) là đầu cho thời đại Chiến Quốc và năm 221 trước
người bổ sung, phát triển rất xuất sắc Nho giáo, vì Công nguyên là năm kết thúc thời đại lịch sử này.
thế Nho giáo này còn được gọi là Nho giáo Khổng Gọi là thời đại Chiến Quốc, bởi vì, trong giai đoạn
Mạnh, hoặc học thuyết Khổng Mạnh. Học thuyết lịch sử đó đất nước Trung Quốc nổ ra nhiều cuộc
chính trị, triết học nổi tiếng trong thời cổ đại chiến tranh giữa các nước nhỏ, nhằm thôn tính,
mang tên Khổng Mạnh của đất nước Trung Hoa thống trị lẫn nhau, các nước đánh nhau, tranh
và của toàn nhân loại được hình thành trên những giành đất đai liên miên, rất ác liệt (Lương Ninh,
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và những tiền 2014).
đề văn hóa, tư tưởng nhất định sau đây. Trong hoàn cảnh chiến tranh như thế, đồ sắt ở
2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ Trung Quốc cổ đại càng được sử dụng phổ biến,
HỘI nghề luyện sắt, chế tạo công cụ lao động bằng sắt
Những điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã phát triển. Người Trung Quốc cổ đại, một mặt, tiến
hội làm xuất hiện học thuyết Nho giáo trong hành chiến tranh, cướp bóc, ăn hiếp lẫn nhau; mặt
những năm cuối thời đại chiếm hữu nô lệ, đầu khác, họ còn tỏ ra là người thông minh chăm lo lao
thời đại phong kiến của Trung Quốc cổ đại là như động sản xuất, phát triển kinh tế để có thực túc
thế nào? binh cường, quân hùng tướng mạnh. Công cụ lao
động bằng sắt đã góp phần làm cho kinh tế, sản

74
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78

xuất nông nghiệp ở Trung Quốc cổ đại phát triển của vua, vua ban cho quan chức, người nào có
trong hoàn cảnh chiến tranh là vì lý do đó. công thì người ấy được. Nay, nhiều người trở nên
Người Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc giàu có do sản xuất, buôn bán, cho vay lấy lãi phát
còn biết sử dụng sức kéo của súc vật, sử dụng súc triển, người có khả năng, có điều kiện mua đất đai
vật làm công cụ lao động sản xuất nông nghiệp. làm tài sản sở hữu riêng. Trước đây trong xã hội
Họ còn chú trọng làm thủy lợi phục vụ cho cấy có chế độ tỉnh điền, tức là ruộng đất được chia cắt
trồng, sản xuất ra của cải vật chất nói chung. Nhờ ra giống như chữ “tỉnh” gồm hai nét ngang, một
có công cụ lao động bằng sắt do nghề luyện, chế nét phẩy và một nét sổ, được chia ra thành 9 phần,
tạo từ sắt phát triển mà nghề thủ công nghiệp, thì 8 phần xấu xung quanh chia cấp cho thường
nghề mộc ở Trung Quốc thời cổ đại, giai đoạn dân, phần thứ 9 ở giữa tốt, đẹp nhất dân phải cấy,
Xuân Thu, Chiến Quốc cũng có bước phát triển trồng, thu hoạch rồi cống nộp cho các quan chức
đáng kể. trong xã hội, gọi là cho việc công.

Hoạt động thương nghiệp, buôn bán trong thời Đến đời Xuân Thu, Chiến Quốc nhất là đến giai
Xuân Thu, Chiến Quốc của Trung Quốc cổ đại đoạn lịch sử Trung Quốc cổ đại mang tên Chiến
cũng phát triển. Vì thế, trong xã hội đã có đội ngũ Quốc thì chế độ tỉnh điền nói trên đang đi đến chỗ
nhà buôn lớn rất nhiều tiền. Tiền tệ đã làm xuất tan rã hoàn toàn. Lúc này, ruộng đất ngày một vào
hiện nạn cho vay nặng lãi, trao đổi hàng hóa, trả tay những địa chủ lớn tiền của nhiều, thế lực,
công lao động bằng tiền, nộp thuế bằng tiền. quyền hành mạnh, nông dân càng lúc càng mất
dần ruộng đất, có người không còn thước đất cắm
Kinh tế thời Xuân Thu, Chiến Quốc phát triển còn
dùi. Xã hội Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu,
làm xuất hiện nhiều thành phố lớn phồn hoa, đông
Chiến Quốc đã có sự phân hóa rõ và trở nên đối
đúc ở Trung Quốc thời cổ (Lương Ninh, 2014).
cực như vậy (Lương Ninh, 2014).
Kinh tế ở đâu, bao giờ cũng là nhân tố có vai trò
Trước đây cùng là hạng người dân lao động, vai
quyết định, nền tảng cho sự nảy sinh các nhân tố
trò, vị trí ngang bằng nhau, thì bây giờ số đông
khác của đời sống xã hội, bất kể người ta nhận
dân chúng trở nên cùng đinh; nhiều người có sự
thức đến vai trò đó của kinh tế sớm hay muộn,
thay đổi cực lớn và nhanh, họ thành những đại địa
thậm chí là chưa hoặc không nhận thức được vai
chủ, do thông thạo, khéo mua bán đất, và trao đổi
trò quan trọng đó của kinh tế.
hàng hóa, họ còn là những thương nhân thật sự,
Nền kinh tế, sản xuất phát triển trong thời Xuân làm thành tầng lớp địa chủ kiêm thương nhân
Thu, Chiến Quốc như vậy đã dẫn đến quan hệ xã trong xã hội. Số đông dân nghèo không có ruộng
hội, giai cấp ở nơi đấy vào thời gian đó có sự biến đất phải lĩnh canh đất của địa chủ để cấy trồng,
đổi to lớn. Thời Tây Chu, đất đai dưới gầm trời phải phụ thuộc vào giai cấp, tầng lớp địa chủ kiêm
Trung Quốc, đâu đâu cũng là đất của vua. Nhưng thương nhân ấy.
do sản xuất kinh tế phát triển, nhiều thế lực xã hội
Sản xuất, kinh tế phát triển, hàng hóa nhiều lên.
giàu mạnh lên, không hoàn toàn chịu sự ban cấp
Đấy là tiền đề dẫn đến lưu thông hàng hóa phát
đất đai của vua nước lớn hoặc vua chư hầu như
triển, do đó, xuất hiện tầng lớp những nhà buôn
trước nữa. Họ đã có đất đai tư riêng của họ ngoài
lớn trong xã hội. Nghề buôn bán ở Trung Quốc cổ
phần được vua phong cấp cho. Có những vua chư
đại phải nói là đã phát triển đến mức đặc biệt, tiêu
hầu thế lực suy yếu dần, các đại phu có thế lực nổi
biểu trên toàn thế giới. Ở đây không chỉ có buôn
lên tranh giành đất đai làm thành đất đai riêng của
bán sản vật, hàng hóa, gia súc, mà còn buôn bán
họ.
cả con người, hơn nữa, buôn bán đến con người
Chế độ, luật về đất đai trong xã hội cũng có sự có địa vị tối cao trong xã hội, đó là buôn vua!
thay đổi lớn do nền sản xuất, kinh tế trong xã hội “Cuối thời Chiến Quốc, nhà buôn kiêm địa chủ
phát triển. Trước đây, như trên nói, ruộng đất là

75
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78

nổi tiếng nhất là Lã Bất Vi ở nước Triệu, một trương, mưu kế vào hạng cao siêu. Ông tăng
người đã bỏ ra một nghìn cây vàng để buôn vua, cường trật tự trị an, khuyến khích sản xuất nông
và về sau trở thành thừa tướng của nước Tần” nghiệp, có trật tự trị an, có của cải vật chất nhiều,
(Lương Ninh, 2014). giàu lên nhờ khuyến khích sản xuất nông nghiệp,
Thời kỳ Xuân Thu, Chiến Quốc, giai cấp nô lệ ở đó là những điều kiện, nhân tố làm cho quốc gia
Trung Quốc cũng ít nhiều thay đổi. Nô lệ phạm ngày một cường thịnh, phát triển. Thêm nữa, vua
tội hoặc phá sản phải bán vợ con, hoặc bản thân Tần còn tỏ ra có phẩm chất chính trị theo cách
mình làm nô lệ. Nô lệ vẫn bị áp bức, bóc lột, bị riêng của ông. Ông khuyến khích quân, tướng lập
đánh đập tàn nhẫn như trước, nhưng hiện tượng công. Bất cứ ai chém lấy được một đầu phía giặc,
chôn sống nô lệ theo chủ chết vào thời này bị cho địch thủ thì đều được thưởng tước một cấp, muốn
là phi lý nên đã giảm đi nhiều, giá nô lệ cũng đắt làm quan thì được cấp lương. Ông cho quan,
hơn thời trước (Lương Ninh, 2014). tướng được nô lệ, được hưởng nhiều hay ít, cao
hay thấp, mặc quần áo sang, đẹp như thế nào đều
Về chính trị, thời Xuân Thu, Chiến Quốc trên đất
dựa vào chức tước. Pháp lệnh của vua cuối cùng
nước Trung Quốc cổ đại cũng có những biến cố, sự
được thi hành nghiêm minh (Lương Ninh, 2014).
kiện trọng đại. Nhà Chu trong khoảng 4 thế kỷ, từ
thế kỷ XI trước Công nguyên đến năm 771 trước Trên đây là những nhân tố, chủ trương có tác
Công nguyên đóng đô ở phía Tây là thời kỳ cường dụng làm cho nước Tần trở nên lớn mạnh. Đấy
thịnh của nó. Đến thời Xuân Thu, Chiến Quốc, nhà cũng là nguyên nhân làm cho nhiều nước lo sợ sự
Chu đóng đô ở phía Đông đã ngày càng suy yếu đi. phát triển ấy của Tần. Nhiều nước nhỏ yếu hơn đã
Ngược lại, một số nước chư hầu của nhà Chu trước bàn, liên hợp lại với nhau để chống Tần.
đây vốn nhỏ yếu buộc phải thần phục, triều cống Nước Chu nhỏ bé trong quá trình phát triển đã
nhà Chu, thì nay ngày một lớn mạnh lên, do đó, họ phân chia thành hai nước Tây Chu và Đông Chu.
tiến hành chiến tranh giữa những nước chư hầu để Đến giữa thế kỷ III trước Công nguyên, hai nước
nhằm giành quyền làm bá chủ Trung Quốc. Từ đầu nhỏ bé này cùng với nhiều nước nhược tiểu khác
thế kỷ VII trước Công nguyên đến đầu thế kỷ V như Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề đều bị nước
trước Công nguyên, trên vũ đài chính trị Trung Tần hùng mạnh tiêu diệt. Đến năm 221 trước
Quốc đã diễn ra nhiều tấn tuồng giữa các nước nhỏ Công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã thống nhất
cấu thành Trung Quốc bao la rộng lớn. Các nước Trung Quốc, kết thúc một thời đại mang tên Chiến
ấy đánh giết lẫn nhau để tranh giành quyền bá chủ. Quốc tranh giành, đánh giết nhau rất ác liệt
Nước Trịnh là nước đi tiên phong thực hiện mưu (Lương Ninh, 2014).
đồ ấy. Nhưng, Tề mới là nước đầu tiên giành được Những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính
quyền làm bá chủ thiên hạ. Nước Tề hùng mạnh, trị nói trên đều có ảnh hưởng cho sự ra đời của
vua Tề được mấy lần hội nghị các nước chư hầu Nho giáo - học thuyết của Khổng Tử - trong đó
công nhận là bá chủ ở miền hạ lưu Hoàng hà bao hàm tư tưởng trị quốc.
(Lương Ninh, 2014). Đến thế kỷ IV trước Công
3. NHỮNG TIỀN ĐỀ VĂN HÓA, TƯ
nguyên, các nước nhỏ trong Trung Quốc đấu tranh,
TƯỞNG
thôn tính lẫn nhau rất ác liệt. Nước Tề từ hùng
mạnh nhất một thời, nay dần dần suy yếu, một số Văn hóa của xã hội, văn hóa trong xã hội là thuộc
nước khác, trái lại, trở nên cường thịnh trong các về con người và do con người sáng tạo ra. Do vậy,
cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ thiên hạ. nó chuyển tải, thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan
niệm của con người. Quan niệm, tình cảm, tư
Lịch sử có sự diễn tiến theo quy luật của nó. Nước
tưởng của con người biểu hiện thông qua hoạt
Tần trước đây đến đầu thời Chiến Quốc còn là
động của con người nói chung và sản phẩm, kết
nước tương đối lạc hậu nhưng vua Tần có chủ
quả của hoạt động văn hóa, của chủ thể văn hóa

76
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78

nói riêng. Văn hóa và tư tưởng gắn kết và gần như tài của nước Tần” (Khổng Tử, 2004); phê phán
song hành với nhau. kịch liệt một vị vua nước Tề lấy cớ đến thông dâm
Thể loại văn học phát triển sớm nhất ở Trung với “phu nhân của Lỗ Hoàn công” (Khổng Tử,
Quốc thời cổ đại là thơ ca. Tác giả của nó là 2004); “Khen thục nữ lập gia đình” như “Cây đào
những người dân lao động. Lao động làm nảy sinh tơ xinh tươi/ Hoa nhiều rậm/ Nàng ấy đi lấy chồng/
văn học nghệ thuật. Tác giả của loại hình văn học Thì ắt thuận hòa êm ấm cảnh gia đình” (Khổng Tử,
này còn là những người có học trong giai cấp 2004); ca ngợi đấng nam nhi “Dáng vũ phu uy vũ/
thống trị. Vua chúa và các vua nước chư hầu là Có thể dùng làm thuẫn làm thành cho công hầu để
người chú trọng hoạt động văn học nghệ thuật, che chở cho nhân dân và bờ cõi” (Khổng Tử,
thường sai các vị quan phụ trách về âm nhạc của 2004); v.v.. Như vậy, từ văn hóa, tức là từ văn học,
triều đình sưu tầm thơ ca từ các địa phương trong nghệ thuật truyền thống, tất nhiên là trong đó có
nước về phổ nhạc, Vì thế, từ đầu thời Tây Chu chứa đựng tư tưởng của dân tộc Trung Hoa cổ đại,
đến giữa thời Xuân Thu, thơ ca dân gian Trung Khổng Tử đã biên soạn, phổ nhạc Kinh thi, qua đó,
Quốc cổ đại đã được sưu tập lại thành một tác thể hiện nhiều tư tưởng tích cực, có thể nói là tư
phẩm gọi là Thi. Người Trung Hoa rất tự hào về tưởng vĩ đại như trọng dân, phản đối quan niệm
tác phẩm văn học dân gian ấy của họ. Trên cơ sở trung quân mù quáng, phi lý, vô nhân đạo, v.v..
tác phẩm văn học dân gian có giá trị đó, Khổng Tử Ở Trung Quốc cổ đại, từ thế kỷ IX, VIII trước
đã chỉnh lý lại một lần nữa, san định, phổ nhạc làm Công nguyên, người ta đã “giải thích nguồn gốc
thành tác phẩm Kinh thi - một trong những bộ kinh của thế giới” bằng cách “nêu các thuyết bát
điển của Nho giáo. Về vấn đề này, kết quả nghiên quái, ngũ hành, âm dương” (Lương Ninh, 2014).
cứu của GS Bửu Cầm đã làm rõ. Theo GS, “những Từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII trước Công nguyên,
bài ca dao trong Kinh thi đã được các nhà cầm xã hội Trung Quốc cổ đại còn tương đối ổn định.
quyền ở Trung Quốc sưu tầm trước đời Khổng Tử. Nhưng các nước chư hầu ngày một phát triển
Nguyên nhan đề sách ấy là Thi chứ không phải là mạnh, vì thế, đến thời Xuân Thu, từ thế kỷ thứ
Kinh; người sau thêm vào chữ Kinh là vì cho rằng VIII đến thế kỷ V trước Công nguyên đã có biểu
sách đó đã được Khổng Tử san định” (Khổng Tử, hiện, hành động chống lại nước lớn, quyền hành
2004). Tìm hiểu Sử ký của Tư Mã Thiên, GS Bửu của vị vua nước lớn được mệnh danh là thiên tử,
Cầm đã chú ý, dẫn ra câu của Tư Mã Thiên nói trong xã hội có nhiều hoạt động tranh giành, chém
“Khổng Tử đã đem ba trăm lẻ năm thiên trong giết nhau để đoạt được ngôi vị, bổng lộc. Những
Kinh thi ra mà đàn ca”, rồi GS Bửu Cầm đi đến kết hiện tượng như bề tôi giết vua, con giết cha, em
luận mang tính khẳng định: “Thế là Khổng Tử đã giết anh thường xuyên xảy ra. Đây là thời kỳ trật
từng nghiên cứu âm nhạc và đem thi ca phổ thành tự xã hội có nhiều biến đổi, đảo lộn, đạo đức
xuống cấp nghiêm trọng, các quy chế của xã hội
nhạc khúc. Việc Khổng Tử san định Kinh thi cũng
thời Tây Chu bị phá hoại. Đời sống của nhân dân
có thấy chép trong thiên “Khổng Tử thế gia” sách
trong một đất nước bất ổn định về chính trị, xã hội
Sử ký” (Khổng Tử, 2004). Kinh thi là tác phẩm văn
và đạo đức như thế, đã trở nên vô cùng cực khổ.
học nghệ thuật vĩ đại, thể hiện, chuyển tải nhiều nội
“Chính hoàn cảnh lịch sử xã hội ấy đã sản sinh ra
dung tư tưởng lớn, quan trọng của Nho giáo. Trong
những nhà tư tưởng muốn làm thay đổi tình hình,
đó bao hàm không ít quan niệm, tư tưởng tích cực, trong đó tiêu biểu nhất là Lão Tử và Khổng Tử”
tiến bộ, phản đối chủ trương, hành động trung quân (Lương Ninh, 2014).
một cách mù quáng như: chôn sống người hiền tài
Lão Tử là một nhà tư tưởng lừng danh không chỉ
theo vua lúc vua chết để hầu hạ vua tại cõi âm,
trong đất nước Trung Hoa, mà còn trên phạm vi
chẳng hạn, bài ca dao được Khổng Tử san định,
toàn thế giới, nhưng tên tuổi của ông, cho đến nay
phổ nhạc nói về vua “Tần Mục công chết, ba người
còn chưa được xác định, vẫn tồn tại nhiều cách
con họ Tử Xa bị chôn sống theo đều là người hiền
giải thích, trình bày khác nhau. Theo nhiều nguồn

77
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 73 – 78

tài liệu thì Lão Tử là học giả đồng thời với Khổng trò xuất sắc của Khổng Tử - trình bày một hệ vấn
Tử, Khổng Tử đã từng theo học Lão Tử. “Khổng đề đã bổ sung, phát triển và nâng lên giá trị học
Tử học hỏi ở nhiều thầy: về lễ có Lão Tử” (Dương thuyết, tư tưởng của Nho giáo. Kinh thư là bộ sách
Hồng, 2003). Tác phẩm của học giả này là quyển do Khổng Tử san định chuyên bàn về lịch sử. Mới
Đạo đức kinh. Lão Tử đã giải thích về nguồn gốc đầu Kinh thư cũng chỉ gọi là Thư… Thư ra đời có
của vũ trụ, bàn về các mặt đối lập trong thế giới tính chất huyền bí, nhưng thực chất Thư chỉ là các
khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, yếu văn bản về chính sự các triều Nhị Đế - Tam
và mạnh, nhiều và ít, trên và dưới, trước và sau, Vương. Đến thời nhà Chu, các tài liệu này đã được
thực và hư, vinh và nhục, khôn và dại, v.v.; hơn Khổng Tử chỉnh lại. “Kinh thư với 4 quyển, 58
nữa, ông thấy rằng những mặt đối lập ấy có sự thiên, các thiên đều có gốc gác, xuất xứ; các xuất
chuyển hóa lẫn nhau chứ không phải là nhất thành xứ ấy đều là những sự kiện lớn lao, những tư liệu
bất biến. Ví dụ, trong họa có phúc, trong cái gọi là về địa chí, cương vực thời Nghiêu - Thuấn - Hạ -
phúc có mầm hậu họa. Lão Tử chủ trương, kỳ Thương - Chu, có giá trị lịch sử và ý nghĩa xã hội
vọng giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sâu sắc và lâu dài” (Khổng Tử, 2004b). Kinh thi là
sống của nhân dân. Nhưng Lão Tử lại chủ trương tác phẩm đã nói sơ bộ ở trên. Tác phẩm ấy của
làm cho dân ngu, vì theo ông, “dân có nhiều trí Khổng Tử với nội dung phong phú, sâu sắc, có giá
khôn, thì khó cai trị” (Lương Ninh, 2014). Như trị cao về tư tưởng triết học, chính trị, văn học nghệ
vậy, tư tưởng của Lão Tử đã được Khổng Tử học thuật, v.v. là sự phản ánh hoàn cảnh lịch sử và tiếp
tập, tìm hiểu, từ đó góp phần hình thành Nho giáo. thu, kế thừa, phát triển các tư tưởng mang tính tiến
Khổng Tử học tập Lão Tử một cách sáng tạo, hình bộ, tích cực, có sức sống trường cửu mà nhân loại
thành nên tư tưởng tiến bộ, chứ không tiếp thu đã sản sinh ra.
những quan điểm, chủ trương phản tiến bộ của 4. KẾT LUẬN
Lão Tử. Thí dụ, Lão Tử chủ trương “làm cho dân
Bàn sơ bộ như trên về Khổng Tử để nhấn mạnh tư
ngu”, nhưng Khổng Tử chủ trương trọng dân,
tưởng của Khổng Tử, tư tưởng Nho giáo nói
dưỡng dân, giáo dân, phú dân. Ngoài Lão Tử,
chung, trong đó bao gồm tư tưởng trị quốc của Nho
Khổng Tử còn học tập nhiều người khác, như: “về
giáo nói riêng được hình thành trên cơ sở kinh tế,
chính sự có Đàm Tử, về nhạc có Tranh Hoằng,
xã hội, chính trị, lịch sử, văn hóa, tư tưởng nhất
gảy đàn có Sư Tương và nhiều danh sư khác nữa”
định, chứ không thể từ một cõi hư vô.
(Dương Hồng, 2003). Những bậc thầy nói trên của
Khổng Tử là cơ sở tư tưởng của Nho giáo, học TÀI LIỆU THAM KHẢO
thuyết của Khổng Tử. Dương Hồng & cs. chú dịch. (2003). Tứ thư. Hà Nội:
Khổng Tử là người ham học, có hiểu biết, học vấn NXB Quân đội Nhân dân.
uyên thâm đã từng làm quan. Nghiên cứu tác phẩm Hà Thúc Minh. (1999). Lịch sử triết học Trung
kinh điển của Khổng Tử thì sẽ thấy học giả này Quốc, t.II: TP.HCM: Nhà xuất bản Thành phố
không chỉ quan tâm đến vấn đề như đạo đức, chính Hồ Chí Minh.
trị, văn hóa. Ông còn bàn nhiều về kinh tế, quân sự,
Khổng Tử. (2004a). Kinh thi, t.I. Hà Nội: Nhà xuất
công tác giáo dục, triết học, văn học, nghệ thuật, tư
bản Văn học.
tưởng trọng dân, chủ trương đổi mới, bàn về lịch
sử, v.v.. Các bộ kinh điển của Nho giáo như Đại Khổng Tử. (2004b). Kinh thư. Hà Nội: Nhà xuất
học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, Kinh thư, bản Văn hóa - Thông tin.
Kinh thi, v.v. đã chứng minh cho nhận xét khái Lương Ninh chủ biên và các cộng sự. (2014). Lịch
quát nói trên về Khổng Tử là chính xác chứ không sử thế giới cổ đại. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo
mang tính võ đoán. Đại học, Trung Dung, Luận dục Việt Nam.
ngữ là các tác phẩm do học trò của Khổng Tử ghi
lại lời của thầy Khổng Tử và bàn luận về lời của
thầy. Mạnh Tử là tác phẩm của Mạnh Tử - một học

78

You might also like