You are on page 1of 94

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN HẢI YẾN

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI


TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG
(Khảo sát Báo Quân đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2
năm 2019)

Chuyên ngành : Báo chí học


Mã số : 8320101

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUANG HÒA

1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Quang Hòa. Các

thông tin, số liệu được sử dụng trong khóa luận là rõ ràng và xác thực. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận chưa từng được công bố

trong công trình khoa học nào trước đây. Thông tin trích dẫn trong luận văn ghi rõ nguồn. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính xác thực của nội

dung luận văn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2020

TẤC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hải Yến

2
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tạo điều kiện thuận lợi giúp

dỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn.

Đặc biệt tôi cin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Quang Hòa, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn

thiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Hải Yến

3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

LLVT: Lực lượng vũ trang

CCB: Cựu chiến binh

QĐNDVN: Quân đội nhân dân Việt Nam

4
DANH MỤC BẢNG, HÌNH, BIỂU ĐỒ

BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê nội dung tuyên truyền trên chuyên trang “Hậu phương của chúng ta”

Bảng 2.2. Bảng khảo sát thể loại báo chí trên chuyên trang “Hậu phương của chúng ta”

Bảng 2.3: Thống kê nội dung tuyên truyền trên chuyên trang “Hậu phương quân đội”

Bảng 2.4: Khảo sát thể loại báo chí trên chuyên trang “Hậu phương quân đội”

Bảng 2.5. Bảng khảo sát số lượng tin, bài có nội dung về công tác hậu phương quân đội trên báo Quân khu 2

Bảng 2.6. Bảng Khảo sát thể loại báo chí các tác phẩm có nội dung hậu phương quân đội trên báo Quân khu 2.

HÌNH

Hình 2.1. Mô hình tổ chức sản xuất chuyên trang “Hậu phương của chúng ta”

Hình 2.2. Mô hình tổ chức sản xuất báo in báo Quốc phòng Thủ đô

Hình 2.3. Mô hình tổ chức sản xuất báo in tại báo Quân khu 2

BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh tần suất xuất hiện nội dung trên 3 báo khảo sát năm 2019

5
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Nhu cầu thông tin – giao tiếp thực sự là nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội của con người nói chung, thông tin trở thành “cầu

nối” giữa báo chí và công chúng. Khi công chúng đến với một tờ báo có nghĩa là công chúng muốn tìm kiếm những thông tin mà tờ báo đó

cung cấp. Những tác phẩm có hàm lượng thông tin cao, chất lượng, hình thức trình bày đẹp sẽ mang đến cho độc giả sự hài lòng. Ngược

lại, những tác phẩm được viết dài nhưng không mang lại giá trị thông tin sẽ làm cho hiệu quả tác động kém và không còn công chúng,

nhiệm vụ của tờ báo không hoàn thành.

Các chuyên trang trên một tờ báo là bộ phận chủ lực trong kết cấu nội dung, hình thành bản sắc của tờ báo đó. Sự ổn định của

chuyên trang hình thành thói quen cho độc giả khi tiếp nhận thông tin từ các tờ báo. Chuyên trang còn tạo cho độc giả tiếp cận và có cái

nhìn sâu sắc hơn về một vấn đề hoặc sự kiện nào đó để có nhận thức, hành vị đúng đắn, phù hợp. Do đó, chuyên trang đóng vai trò quyết

định cho sự thành công của mỗi tờ báo, tạp chí.

Đặc biệt, đối với những cơ quan báo chí thuộc Bộ Quốc phòng là tiếng nói của lực lượng vũ trang với tôn chỉ mục đích tuyên

truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; phản ánh ý kiến,

thu hút trí tuệ của cán bộ chiến sỹ và các tầng lớp nhân dân đóng góp vào sự nghiệp đổi mới của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang

cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; nêu gương các điển hình tiên tiến trong phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,

đấu tranh chống các luận điệu sai trái; các hoạt động của các thế lực thù địch, giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia.

Ngay từ khi Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Phải có một Quân đội đánh giỏi

và một hậu phương vững chắc”. Thực hiện ý chí của Người, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng hậu phương

quân đội, coi đó là một mặt quan trọng để xây dựng Quân đội nhân dân ngày càng vững mạnh, làm nòng cốt trong củng cố quốc phòng, bảo

vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội là góp phần bảo đảm cho Quân đội trong quá trình xây dựng, trưởng thành, chiến

đấu và chiến thắng, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Quan tâm, chăm lo thực hiện tốt công tác hậu phương Quân đội là nhiệm vụ thường

xuyên, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là nét đẹp truyền thống, văn hóa, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Đẩy mạnh

thực hiện công tác này, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng Quân đội ngày càng vững mạnh.

Chính vì vậy, bên cạnh công tác quân sự, quốc phòng, việc tuyên truyền về công tác hậu phương quân đội là nhiệm vụ của các cơ

quan báo chí Bộ Quốc phòng. Mặc dù số lượng và chất lượng các bài báo về công tác hậu phương của các báo quân đội tăng lên, nhận

được sự quan tâm từ độc giả.Vậy nhưng, kể từ khi ra đời, việc xây dựng nội dung và hình thức của nội dung này chưa có sự thay đổi đáng

kể, còn đi theo lối mòn, đang dần mất đi lượng độc giả trung thành. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Để thu hút được độc giả

6
một cách thường xuyên, đông đảo cần phải tạo nên những đặc điểm riêng về nội dung, về hình thức thì không dập khuôn, rập khuôn thì tờ

báo khô khan, người xem dễ chán”.

Tuy nhiên, bất kỳ một kế hoạch, đề án hay một sự thay đổi nào cần có sự nghiên cứu chuyên sâu và khảo sát toàn diện để có nền

tảng lý luận chung, chỉ ra thực trạng đề xuất những giải pháp nhằm cải tiến, nâng cao hiệu quả. Tôi nhận thấy đề tài “Tổ chức sản xuất

chuyên trang Hậu phương quân đội trên báo in của Bộ Quốc phòng”, đây là đề tài mới, việc lựa chọn đề tài có ý nghĩa thực tiễn vừa khảo

sát thực trạng của các cơ quan báo chí Bộ Quốc phòng, vừa giúp cho bản thân có điều kiện vận dụng những kiến thức được học để nghiên

cứu, đánh giá vấn đề một cách có cơ sở khoa học, đồng thời sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nâng cao chất lượng nội dung, hình

thức nói chung và nâng cao chất lượng nội dung, hình thức chuyên trang hậu phương quân đội nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quá trình khảo cứu, tổng hợp tài liệu từ các đề án, sách, báo, internet tôi thấy có những tài liệu liên quan đến đề “Tổ chức sản

xuất chuyên trang Hậu phương quân đội trên báo in của Bộ Quốc phòng ”. Trước tiên, phải kể đến những đầu sách giáo trình, tài liệu

chuyên khảo về những vấn đề liên quan đến khái niệm, lý thuyết cơ bản của báo chí, những vấn đề về đạo đức, pháp luật, quản lý nhà nước

về báo chí... như:

Báo chí truyền thông hiện đại (Từ hàn lâm đến đời thường) của PGS. TS Nguyễn Văn Dững – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà

Nội.

Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in – TS. Hà Huy Phượng – Nhà xuất bản lý luận chính trị (Hà Nội – 2006.)

Lao động nhà báo lý thuyết và kỹ năng cơ bản – TS Lê Thị Nhã – Nhà xuất bản chính trị - hành chính (Hà Nội – 2010)

Viết báo như thế nào – PGS.TS Đức Dũng – Nhà xuất bản Dân Trí 2012

Giáo trình tác phẩm báo chí đại cương – TS. Nguyễn Thị Thoa (Chủ biên) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.

Tác phẩm báo chí (Tập I) - Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) – Nhà xuất bản giáo dục (1995).

Tác phẩm báo chí (Tập II) - PGS. TS Nguyễn Văn Dững (Chủ biên) – Nhà xuất bản lý luận chính trị.

Tác phẩm báo chí (Tập III) - PGS.TS. Trần Thế Phiệt (Chủ biên) – Nhà xuất bản giáo dục (1997).

Sách tham khảo nghiệp vụ hướng dẫn cách viết báo – (Jean-Luc Martin-Lagardette) Lê Tiến (Dịch) – Nhà xuất bản thông tấn

(2010).

Giáo trình thực hành Kỹ thuật và thể loại báo in – Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí Hội nhà báo Việt Nam (2007).

Thực hành thiết kế và trình bày báo - Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí Hội nhà báo Việt Nam (2007).

Tiếp theo là một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như:

7
Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 12/2018.

Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,

tháng 5-2015

PGS, TS. Trương Ngọc Nam, Hướng tới một nền báo chí chuyên nghiệp hơn, Tạp chí Người làm báo online, 12/07/2016, 16:49.

Bên cạnh đó, còn có một số đề tài khoa học, luận văn, luận án cũng nghiên cứu về vấn đề này như:

TS. Nguyễn Quang Hoà có công trình“Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban thư ký toà soạn trong cơ quan báo chí” (Luận án

Tiến sĩ Báo chí, Học viện Báo chí & Tuyên truyền, 2009), đề cập đến vấn đề lập kế hoạch, tổ chức các chuyên đề, sự kiện trên một số nhật

báo.

TS. Trần Bá Dung có công trình “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội” (Luận án Tiến sĩ Báo chí, Học

viện Báo chí & Tuyên truyền, 2008). Luận án làm rõ được thực trạng nhu cầu, thể hiện qua các mô thức tiếp nhận thông tin báo chí của

công chúng Hà Nội.

TS. Hà Huy Phượng có công trình nghiên cứu “Các loại hình báo chí hiện đại - lý luận và thực tiễn” (Đề tài khoa học cấp cơ sở,

Học viện Báo chí & Tuyên truyền, 2014) Đề tài cập nhật những nội dung cơ bản nhất, tạo nên một bức tranh chung về diện mạo các loại

hình báo chí hiện đại.

Ngoài ra, luận văn cũng đồng thời nghiên cứu những nghị quyết, quyết định của Đảng, Chính phủ và quy định pháp luật của Nhà

nước về vấn đề hậu phương quân đội như:

Nghị định số: 21/2009/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sĩ quan quân đội nhân

dân việt nam về chế độ, chính sách đối với sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ; sĩ quan tại ngũ hy sinh, từ trần; sĩ quan tại ngũ chuyển sang quân

nhân chuyên nghiệp hoặc công chức quốc phòng.

Nghị định số: 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có

công với cách mạng.

Nghị định số: 151/2016/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều về chế độ, chính sách của luật

quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng.

Quyết định số: 212/2006/QĐ-BQP của Bộ Quốc phòng, về việc thực hiện một số chế độ chính sách góp phần chăm sóc đối với cán

bộ quân đội nghỉ hưu

8
Quyết định số: 38/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 142/2008/QĐ-TTGNgày 27

tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng chính phủ, về việc thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có

dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương.

Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, về một số chế độ, chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia

kháng chiến chống pháp, chống mỹ, chiến tranh bảo vệ tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế.

Thông tư số: 09/2012/TT-BQP của Bộ Quốc phòng, Quy định chế độ trợ cấp khó khăn đột xuất đối với người hưởng lương trong

quân đội và mức hỗ trợ đối với cơ quan, đơn vị chủ trì tổ chức lễ tang đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng tại ngũ hy sinh,

từ trần.

Các công trình trên đều có liên quan một phần đến công tác Hậu phương quân đội, nhưng không có công trình nào trùng lặp đến

vấn đề tôi nghiên cứu: Chuyên trang Hậu phương quân đội trên Báo Quốc phòng Thủ đô.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Qua khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng, tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội của các cơ quan báo chí quân đội,

nêu quan điểm và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo chí

quân đội.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:

Một là, khai thác nghiên cứu tài liệu, sách, báo, các phương tiện truyền thông khác để nắm được những chức năng cơ bản của báo

chí, vai trò của chuyên trang, đối tượng, phương thức tác động, nội dung, hình thức của chuyên trang cùng với xu hướng phát triển hiện nay

của nó. Bên cạnh đó, tìm hiểu về các khái niệm có liên quan đến các thể loại báo chí, ngôn ngữ, trình bày báo.

Hai là, khai thác những thông tin liên quan đến chuyên trang, khảo sát thực trạng nội dung, hình thức của chuyên trang hậu

phương quân đội trên 3 tờ báo in Bộ Quốc phòng: báo Quân đội nhân dân hằng ngày, Quốc phòng Thủ đô và Quân khu 2 (khảo sát từ tháng

01 đến tháng 12 năm 2019). Từ đó đưa ra kết quả về thực trạng tổ chức và sử dụng thông tin, nội dung, hình thức ở chuyên trang. Tổng

hợp, phân tích, đánh giá kết quả đã khảo sát để rút ra mặt được - mặt hạn chế về nội dung, hình thức, quy trình tổ chức sản xuất ở chuyên

trang.

Ba là, phỏng vấn lấy ý kiến một số lãnh đạo cơ quan báo, phóng viên, biên tập viên nhận xét và đề xuất giải pháp tăng tính hiệu

quả công tác tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng nội dung, hình thức của chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng.

9
Bốn là, dựa vào các kết quả phân tích, đưa ra kiến nghị, giải pháp có tính chất tham khảo để nâng cao chất lượng nội dung, hình

thức chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là xem xét về nội dung và hình thức ở chuyên trang hậu phương quân đội trên 3 báo: báo Quân

đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô và Quân khu 2 (trong năm 2019).

Phạm vi nghiên cứu

Khi bàn đến chất lượng nội dung, hình thức của một tờ báo bao hàm rất rộng lớn và liên quan đến rất nhiều vấn đề từ tôn chỉ mục

đích, cơ sở hạ tầng trang thiết bị của tòa soạn, tài chính, con người, công chúng…Muốn nghiên cứu một cách toàn diện đòi hỏi có sự đầu tư

về thời gian, công sức, trí tuệ cũng như tập hợp kiến thức từ nhiều nguồn. Trong phạm vi khóa luận với thời gian ngắn nên khi khảo sát về

nội dung, hình thức của chuyên trang hậu phương quân đội trên các báo khảo sát tôi chỉ xin để cập đến vấn đề về chất lượng thông tin, sử

dụng các thể loại và thiết kế, trình bày của chuyên trang.

Đề tài được triển khai nghiên cứu, khảo sát các số báo từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Dựa trên cơ sở nhận thức các vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước về công tác báo chí. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo và mục tiêu cho công tác hậu phương quân đội; đồng thời bám sát những cơ sở lý

luận về báo chí đã được học tại Học viện Báo chí và tuyên truyền.

6. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu: được sử dụng để khảo sát các văn bản, các chỉ thị, nghị quyết; các tài liệu nghiên cứu,

tham khảo nhằm hệ thống hóa các vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của báo chí. Qua đó xây dựng khung lý thuyết cho đề tài.

Phương pháp Khảo sát thực trạng các tác phẩm trên chuyên trang hậu phương quân đội trên 3 báo: báo Quân đội nhân dân hằng

ngày, Quốc phòng Thủ đô và Quân khu 2 các số báo trong thời gian 1 năm, tiến hành tổng hợp, thống kê các số liệu về nội dung, hình thức.

Phương pháp phỏng vấn sâu: Trước khi đề xuất giải pháp tham khảo ý kiến nhiều người: Lãnh đạo báo, Phóng viên có nhiều kinh

nghiệm trong nghề báo, họa sỹ, dàn trang, Giảng viên báo chí… chủ yếu trả lời các câu hỏi nhận xét nội dung, hình thức của chuyên trang

và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nội dung, hình thức của chuyên trang.

Phương pháp phân tích và tổng hợp các dữ liệu từ đó rút ra những luận điểm chung nhất, khoa học nhất về đề xuất những giải pháp

nâng cao chất lượng của chuyên trang.

10
7. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn là môt công trình nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức sản xuất chuyên trang Hậu phương quân đội trên báo in của Bộ

Quốc phòng.

Qua nghiên cứu nhằm đánh giá đúng thực trạng về nội dung, hình thức của chuyên trang. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp

cụ thể, nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo quân đội.

Những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp việc đánh giá đúng thực trạng của công tác tổ chức sản xuất chuyên trang, từ đó đưa

ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, đưa chuyên trang phát triển đúng hướng. Là cơ sở để đội ngũ lãnh đạo, phóng viên, biên tập

viên có nhìn nhận sâu sắc hơn về việc cần thiết phải thay đổi nội dung, hình thức của chuyên trang nói chung.

8. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của khoá luận.

Ý nghĩa lý luận

Đề tài làm rõ những khái niệm và vấn đề lý luận liên quan đến tổ chức sản xuất chuyên trang trên báo chí nói chung, và chuyên

trang hậu phương quân đội trên báo Quân đội nói riêng.

Giá trị thực tiễn của khoá luận.

Với chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng: Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo hữu

ích cho cơ quan báo chí trong việc hoạch định và đưa ra những quyết sách hợp lý để đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả nội dung, hình

thức của chuyên trang.

Với Biên tập viên phụ trách chuyên trang: Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo để nghiên cứu, tổ chức lại nội dung chuyên

trang sao cho phù hợp với nhu cầu của độc giả. Qua đó, là cơ sở để các biên tập viên có các chiến lược phù hợp để xây dựng mạng lưới

cộng tác viên viết bài cho chuyên trang sát với mục đích, yêu cầu của chuyên trang.

Với người trực tiếp tham gia viết bài cho chuyên trang (phóng viên, cộng tác viên…): Kết quả nghiên cứu chỉ ra ưu và khuyết

điểm trong sử dụng thông tin trên chuyên trang, sử dụng các thể loại, ngôn ngữ… từ đó, giúp cho người viết lựa chọn đề tài và viết tác

phẩm ngày càng tốt hơn, phù hợp hơn.

9. Kết cấu khoá luận.

Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 03 chương, 06 tiết:

Chương 1: Một số lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Thực trạng tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in bộ quốc phòng

Chương 3: Giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng tổ chức sản xuất chuyên trang trang hậu phương quân

đội trên báo quân đội

11
12
Chương 1

MỘT SỐ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm về Tổ chức - Sản xuất.

Tổ chức: Theo từ điển tiếng Việt, Tổ chức là sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ, hoặc cùng một

chức năng chung. Tổ chức hiểu theo nghĩa thông thường là liên kết nhiều người lại để thực hiện một công việc nhất định. Tổ chức đặt ra để

thực hiện nhiệm vụ. Mỗi tổ chức đều có mục đích, nhiệm vụ riêng. [10, tr.157]

Sản xuất: Sản xuất là tạo ra của cải vật chất nói chung, hoạt động sản xuất, tạo ra vật chất cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao

động tác động vào đối tượng lao động. [10, tr.342]

Sản xuất là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài

người. Sản xuất là việc sử dụng sức lao động gồm trí lực và thể lực thông qua phương thức sản xuất tác động vào đối tượng để biến đổi nó

thành sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm phục vụ nhu cầu của con người. Sản xuất là quá trình con người dùng sức lao động của mình

thông qua công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động nhằm mục đích tạo ra sản phẩm có ích cho nhu cầu xã hội.

Theo cách tiếp cận của Các-Mác, hai mặt của nền sản xuất gồm có: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng

sản xuất gồm người lao động và tư liệu sản xuất (con người giữ vai trò quyết định), còn quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người

trong quá trình sản xuất. Đây là hai mặt có mối quan hệ biện chứng với nhau.

Tổ chức sản xuất: Nếu coi sản xuất là một quá trình thì tổ chức sản xuất là các biện pháp, các phương pháp, các thủ thuật để duy

trì mối liên hệ và phối hợp hoạt động của các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia vào quá trình sản xuất đó một cách hợp lý theo thời gian.

Nếu coi sản xuất là một trạng thái thì tổ chức sản xuất là các phương pháp, các thủ thuật nhằm hình thành các bộ phận sản xuất có

mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phân bổ chúng một cách hợp lý về mặt không gian.

Có thể hiểu tổ chức sản xuất là làm những gì cần thiết để liên kết nhân sự, các quy trình lao động để tạo ra vật phẩm, đáp ứng nhu

cầu thiết thực cho xã hội, bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động, trên cơ sở các quy tắc nghề nghiệp và theo quy

trình nhất định. Thực chất của quá trình tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình sản xuất phức tạp thành các quá trình thành phần (tức

là các bước công việc), trên cơ sở đó áp dụng những hình thức công nghệ, các biện pháp tổ chức phân công lao động và các phương tiện,

công cụ lao động thích hợp. Trong quá trình đó tìm biện pháp phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất để nhằm

mục đích đạt hiệu quả cao nhất.

13
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm chung nhất: Tổ chức sản xuất là tập hợp các nhóm người, các phương thức, cách thức tốt nhất,

phù hợp nhất và sử dụng sức lao động (chân tay, trí óc) với các tư liệu sản xuất hiện có (phương tiện, máy móc, trang thiết bị) để sản xuất

ra một sản phẩm đạt hiệu quả cao nhất theo đúng các yêu cầu đã định ra.

1.1.2. Khái niệm chuyên trang

Theo Thông tư số 33/2011/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết việc cấp giấy phép hoạt động báo chí

điện từ, giấy phép chuyên trang báo chí điện tử giải thích khái niệm: Chuyên trang báo chí điện tử là trang thông tin điện tử thuộc báo, tạp

chí điện tử có nội dung mang tính chuyên biệt phù hợp với tôn chỉ mục đích của báo, tạp chí điện tử đã được cấp phép.

Như vậy, theo ý kiến tác giả, chuyên trang trên báo chí có thể tóm gọn là: Nơi chứa đựng nhiều chuyên mục nhỏ, nhiều thể loại

trình bày như phỏng vấn, tin, phóng sự, điều tra, phản ánh...đề cập tới một lĩnh vực cụ thể nào đó, mà mỗi   sản phẩm báo chí đề cập đến

những đề tài mới và khác nhau của lĩnh vực ấy.

Đối với Báo in, chuyên trang là công tác trình bày, biểu hiện nội dung mỗi mặt của từng trang báo. Chuyên trang báo chí có sự thể

hiện phong phú, đa dạng về mặt hình thức và nội dung, bởi mỗi chuyên trang thường có một chủ đề riêng với phương thức phản ánh nhiều

chiều của mỗi phóng viên, biên tập viên và hoạ sĩ trình bày. Chuyên trang báo chí đòi hỏi sự cố định một hình thức, ổn định mặt cấu tạo nội

dung .

- Chuyên trang trên báo chí bao gồm những đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất: Chuyên trang là thuật ngữ dùng cho tất cả các loại hình báo chí, thường xuất hiện thành một trang riêng trên một tờ báo

in, một cate riêng trên báo điện từ hay một chương trình đối thoại với báo phát thanh, truyền hình. Chuyên trang thường mang tính chuyên

môn cao, luận bàn và làm sâu một lĩnh vực mà nó đảm nhiệm. Chính vì vậy nó có sức hấp dẫn đặc biệt với độc giả.

Thứ hai: Chuyên trang bao gồm nhiều mục nhỏ và thường có tính ổn định tương đối về mặt dung lượng, số lượng bài cần xuất bản

trong ngày và những tuyến bài đặc biệt theo kịp nhịp thời sự.

Thứ ba: Chuyên trang do một nhà báo phụ trách hoặc do một người đứng ra quản lý chung. Khi đó, phóng viên, biên tập viên được

định hướng cụ thể để các bài viết trong chuyên trang có phong cách thể hiện đa dạng, sinh động, mới mẻ và hấp dẫn bạn đọc.

- Đối tượng chuyên trang.

Các chuyên trang báo chí mặc dù phong phú về đề tài ví dụ như: huấn luyện - sẵn sàng chiến đấu; chính trị - xã hội; văn hoá - xã

hội; quốc phòng địa phương; hậu cần - kỹ thuật, đa dạng về phương thức phản ánh (tin, bài, phóng sự, điều tra, ảnh…) nhưng nhất thiết

phải tập trung vào nhiệm vụ trung tâm, chức năng tôn chỉ mục đích của tờ báo và nhất thiết phải thực tế, gần gũi với đối tượng bạn đọc của

tờ báo.

14
Vì vậy các chuyên trang trong một tờ báo phải đảm bảo hoạt động trong chức năng, nhiệm vụ của mình, hoạt động theo tôn chỉ

mục đích và phục vụ đúng đối tượng của tờ báo.

Mỗi tờ báo, chương trình phát thanh - truyền hình được cấu thành từ những chuyên trang (chương trình) cụ thể là từ những tin, bài,

điều tra, phóng sự... mỗi chuyên trang đảm bảo những chức năng khác nhau trong một tờ báo.

Ví dụ: Chuyên trang thời sự - chính trị là chức năng thông tin những vấn đề chính trị xã hội. Chức năng chuyên trang kinh tế - xã

hội đảm bảo được những thông tin kinh tế và các vấn đề xã hội. Chuyên trang quốc phòng - an ninh đề cập đến vấn đề quốc phòng - an

ninh và các chức năng đó hợp thành chức năng tổng hợp của tờ báo: thông tin tuyên truyền, diễn giải các diễn biến sự kiện triển ra trong

đời sống xã hội. Các chuyên trang này đảm bảo chất lượng và hấp dẫn cho mỗi tờ báo. Vì vậy, không có con đường nào khác là báo chí

nhất thiết phải có chuyên trang.

- Vai trò chuyên trang về mặt nội dung của tờ báo.

Trong một tổng thể sự vật, con người... hình thức mang ý nghĩa hỗ trợ nội dung, nhưng chính nội dung lại là cái quyết định hình

thức. Trình độ hiểu biết, tài năng ứng xử đó chính là mặt nội dung của con người và trong báo chí gọi là nội dung của tác phẩm báo chí, của

từng trang báo, số báo, chương trình phát thanh - truyền hình. Nói như thế không có nghĩa ở đây là sự so sánh giữa mặt hình thức và nội

dung mà chính là ý nghĩa khẳng định: con người bao giờ cũng đánh giá cao hơn về mặt nội dung so với hình thức. Từ đây có thể khẳng

định: Một hình thức của các chuyên trang đóng vai trò quan trọng đối với tờ báo, nhưng cái quan trọng hơn, quyết định hơn là vấn đề nội

dung của chuyên trang.

Nội dung mỗi chuyên trang chính là linh hồn của chuyên trang, là những nhân tố cấu thành nội dung và sự hấp dẫn của tờ báo.

Song, báo chí có tôn chỉ mục - đích riêng nhưng đều phải tuân thủ nguyên tắc: tuyên truyền, giáo dục định hướng dư luận xã hội.

Chính các chuyên trang hợp sức lại tạo thành sức mạnh kiến thức xã hội của tờ báo thu hút mọi đối tượng độc giả, điều đó không phủ nhận

được chuyên trang đã giúp tờ báo đi sâu, sát vào các vấn đề, đi toàn diện tổng quát vấn đề, giúp tờ báo có mối quan hệ rộng rãi với công

chúng và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trên mỗi tờ báo, mỗi chuyên trang là một chủ đề, vấn đề, tất cả hợp nhất tạo nên sự

đa dạng, phong phú và sinh động của báo chí, tạo nên sức hấp dẫn của mỗi tờ báo, từ đó tạo được tình cảm hơn đối với độc giả, từng độc

giá có thể tìm thấy được những lời khuyên, những bài học, những kinh nghiệm thực tế bổ ích cho mình.

- Vai trò chuyên trang với hình thức của tờ báo.

Chúng ta hãy tưởng tượng mặt hình thức chuyên trang như những món ăn đã được bày biện cụ thể, cẩn thận và rõ ràng trên bàn ăn,

khi các môn ăn được bày biện một cách rõ ràng như vậy nó sẽ kích thích nhu cầu ăn uống của con người hơn, và cũng như vậy, chuyên

trang tạo nên một cảm nhận của độc giả: tờ báo được trình bày một cách khoa học sẽ cuốn hút người đọc… Nếu   một tờ báo không có sự

phân định chuyên trang chắc chắn sẽ gây cảm giác khó chịu cho người đọc, bởi họ không biết tìm vấn đề mình quan tâm và ưa thích ở

15
trang, mục nào. Từ đó tạo nên cảm giác, suy nghĩ "mất thời gian, tốn công sức" cho người đọc, như vậy quan hệ giữa tờ báo và người đọc

khoảng cách ngày càng xa dần.

Tính ổn định của chuyên trang, nội dung chuyên sâu theo chủ đề, trình bày đẹp đưa đến cảm xúc gần gũi đối với người tiếp xúc.

Nó giống như một tủ sách, nếu được sắp xếp, bày biện một cách hợp lý, ổn định sẽ đưa đến cảm xúc ưa thích, quý trọng sự ngăn nắp, đẹp

mắt với người cầm sách và nó cũng giúp người tìm sách tiết kiệm thời gian khi tìm cuốn sách mình cần, đó chính là hiệu quả của chuyên

trang.

Tóm lại: Do bản chất của chuyên trang là cụ thể, cố định, ổn định, thường xuyên nên cách trình bày của nó cũng phải cụ thể, cố

định, ổn định và thường xuyên, tạo thói quen theo dõi của độc giả. Cách trình bày này tạo nên yếu tố khoa học cho báo chí và hiệu quả cuối

cùng là tạo nên cái đẹp thẩm mỹ cho tờ báo, tạo nên sự hấp dẫn của tờ báo đối với người đọc.

- Vai trò chuyên trang với người làm báo, với công chúng.

Công việc xây dựng, tổ chức chuyên trang đòi hỏi người thực hiện phải có tầm nhìn khái quát, có trình độ tri thức, trách nhiệm

trong khi thực hiện công việc tạo trang và đòi hỏi ngoài nghiệp vụ báo chí còn trình độ chuyên môn sâu, hiểu biết rộng đã giúp những

người làm báo - những người trực tiếp xây dựng trang sự rèn luyện giáo dục cho mình đức tính kiên trì, cần cù, chịu khó đối với nghề báo,

tạo cho họ trách nhiệm cao đối với ngành, với nghề và giúp họ đi sâu vào lĩnh vực mình đang phụ trách.

Đối với công chúng có ý nghĩa quyết định sự sống còn của một tờ báo. Vì vậy khi nói đến tờ báo là phải nói đến số lượng công

chúng. Một tờ báo dù đăng tin, bài, tranh ảnh nào cũng đều xuất phát từ nhu cầu của người đọc. Điều đó nói rằng: chuyên trang ra đời và

phát triển trong tờ báo xuất phát từ nhu cầu của người đọc và độc giả là linh hồn của tờ báo.

- Nội dung và hình thức chuyên trang.

Mỗi tờ báo đều có một phong cách hoạt động, sáng tạo nhưng báo nào cũng tiến tới mục đích phục vụ công chúng, phục vụ lợi ích

giai cấp, phục vụ sự phát triển của xã hội. Chuyên trang là những yếu tố cơ bản cấu thành và tạo nên sự phát triển sản phẩm báo chí. Công

tác của người làm chuyên trang không phải là dễ, "Nghề làm báo là nghề múa võ giữa chợ ” (Nhà báo Hữu Thọ) mà người xem mình múa

võ là độc giả đứng xung quanh mình, thấy rõ các thế mạnh, yếu các món nghề của mình ngay trong trận đấu. Cái nghề này sự chiến thắng

tính bằng hiệu quả thực tế từ dư luận xã hội. Chính vì vậy yêu cầu của  người làm chuyên trang rất cao, phải bám sát thông tin, phải có sự

trình bày tác phẩm về mặt nội dung đạt yêu cầu nhiệm vụ của chuyên trang, có sự thẩm định đúng đắn, chính xác. Mặt báo được cấu tạo

bằng những tin, bài, ảnh... và một số nội dung khác. Đó là những đề tài được chứa đựng bằng những sự kiện, những vấn đề viết theo yêu

cầu tuyên truyền cụ thể của từng số báo. Bởi vậy việc tập hợp những đề tài đó thành một thể thống nhất, trước hết không phải là việc sắp

xếp theo thứ tự hình thức mà theo yêu cầu tuyên truyền của báo. Công tác tổ chức xây dựng trang không thể lấy hình thức lấn át nội dung,

16
khi một bộ phận nào đó của trang, mục không phù hợp với nội dung tuyên truyền, người biên tập không thể chọn lấp cho đầy mặt báo. Đó

chính là yêu cầu hàng đầu và cũng là nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức, xây dựng trang.

Trình bày là việc sử dụng hình thức để thể hiện nội dung. Bởi vậy yêu cầu chính đặt ra ở đây là hình thức thể hiện cần thống nhất

với nội dung và luôn luôn tạo vẻ đẹp, thu hút được sự chú ý của đông đảo quần chúng. Do đó, việc trình bày trang báo cần rõ ràng, sáng

sủa, hài hòa, linh hoạt. Mỗi số cần gây được cảm xúc thẩm mỹ khác nhau. Có như vậy mới phù hợp với sự thực luôn tươi mới, gây thêm

cho bạn đọc hào hứng đón chờ tờ báo.

Tóm lại: Công tác tổ chức, xây dựng trang báo phải phối hợp nhịp nhàng với kế hoạch tuyên truyền của báo. Có như vậy mới đảm

bảo được yêu cầu hình thức thống nhất với nội dung, hình thức có tác động tích cực với nội dung. Các trang trên báo cần được bố trí tỉ mỉ

phân công rõ ràng. Đối với những phần đã được sắp xếp phù hợp, nên ổn định dài ngày, tránh xáo trộn tuỳ tiện. Khi cần sắp xếp, điều chỉnh

lại người biên tập mặt báo cần nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng.

1.1.3. Khái niệm về Hậu phương quân đội

Hậu phương quân đội là nơi nằm phía sau tiền tuyến; hậu phương phục vụ trực tiếp cho quân đội, bao gồm các yếu tố tiềm lực

vật chất, tinh thần tạo nền tảng trực tiếp cho mọi nhu cầu xây dựng huấn luyện, chiến đấu và đời sống của quân đội cả thời bình và thời

chiến, bảo đảm để quân đội luôn trưởng thành vững mạnh, chiến thắng và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Với ý nghĩa như vậy, gia đình cán bộ, chiến sĩ tại ngũ là thành tố trong hậu phương quân đội, tất cả những công tác gắn với phục

vụ cho những người tham gia trong quân đội mà đằng sau họ thì những công tác đó là hậu phương quân đội, bao gồm cả việc chăm lo cho

thân nhân của những người tham gia trong quân đội và những người đã tham gia trong quân đội sau khi trở về địa phương là hiểu theo

nghĩa rộng, còn trong phạm vi hẹp là từng chính sách cụ thể của Đảng, Nhà nước đã ban hành. 

Chính sách hậu phương quân đội là chính sách lớn bao gồm toàn bộ chủ trương, quan điểm, các quy định cán bộ và các hoạt

động chăm lo đời sống vật chất tinh thần đối với gia đình quân nhân, đối với cán bộ chiến sĩ nghỉ hưu, xuất ngũ, chuyển ngành, thương,

bệnh binh. Bên cạnh đó là chính sách dành cho những đối tượng đang tham gia làm nhiệm vụ quốc phòng tại địa phương như dân quân tự

vệ, các LLVT địa phương.

Từ quan điểm đó, công tác chính sách hậu phương quân đội chính là  lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng,

Nhà nước đối với các nhóm đối tượng: thương binh liệt sĩ; người có công với cách mạng; gia đình quân nhân; công nhân viên chức quốc

phòng; dân quân tự vệ, cán bộ chiến sĩ đã xuất ngũ, nghỉ hưu…

Chỉ thị 368-CT/QUTW, ngày 12/6/2016 của Quân ủy Trung ương đã nêu rõ chính sách hậu phương quân đội được cụ thể hóa

thông qua các chương trình, hoạt động:

17
- Chính sách góp phần chăm sóc đối với cán bộ quân đội đã nghỉ hưu. Ví dụ như các công tác xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ gia đình

các quân nhân có hoàn cảnh khó khăn về tài chính, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số

sinh sống, chú trọng đến đời sống đoàn viên và người lao động đang làm công tác, nhiệm vụ trong quân đội…

- Chính sách đối với gia đình Hạ sĩ quan - Binh sĩ đang tại ngũ. (Chính sách này được quy định cụ thể tại Điều 6 Nghị định số

27/2016/NĐ-CP của Chính phủ, theo đó thân nhân, gia đình của đối tượng Hạ sĩ quan - Binh sĩ đang tại ngũ được trợ cấp về kinh tế và bảo

hiểm y tế khi gặp khó khăn đột xuất trong các trường hợp theo quy định).

- Chính sách hỗ trợ bộ đội xuất ngũ học nghề. (Đề án “Dạy nghề, giới thiệu việc làm đối với thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự

giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”; Đề án “Tuyển chọn thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương để quy

hoạch đào tạo, bổ sung vào đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”)

- Chính sách về khám chữa bệnh đối với sĩ quan phục viên và hỗ trợ khám chữa bệnh đối với sĩ quan cấp Tướng, Anh hùng LLVT

nhân dân đã nghỉ hưu.

- Giải quyết việc làm cho vợ (chồng), con của quân nhân đã hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ.

- Các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” trong quân đội như phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; hỗ trợ xây dựng “Nhà tình

nghĩa”; thăm, tặng quà đối tượng chính sách và người có công với cách mạng nhân dịp lễ, Tết; tặng sổ tiết kiệm; thăm viếng, tu sửa, tôn tạo

nghĩa trang liệt sĩ; khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí; tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ tích cực đóng góp Quỹ “Đền ơn đáp

nghĩa”. 

- Chỉ đạo thực hiện chính sách đối với người tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế theo các

quyết định của Thủ tướng Chính phủ; chế độ, chính sách đối với người Việt Nam có công, tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ

quốc, làm nhiệm vụ quốc tế đang định cư ở nước ngoài (Theo quy định tại Nghị định số 102/2018/NĐ-CP, ngày 20/7/2018 của Chính phủ).

Chính sách đối với quân nhân bị thương, gia đình quân nhân hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. 

- Triển khai thực hiện các đề án: Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ (Đề án 1237) và Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu

thông tin (Đề án 150)

- Chính sách về trợ cấp, hỗ trợ cho các đối tượng quân nhân, công nhân viên quốc phòng, lao động hợp đồng mắc bệnh hiểm

nghèo, bệnh cần chữa trị dài ngày, huy động được các nguồn lực hỗ trợ điều trị hoặc nhận nuôi con nuôi đối với người hiếm muộn, vô sinh

đang công tác trong quân đội.

- Chính sách nhà ở, đất ở đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng.

- Chính sách đối với thân nhân, gia đình quân nhân đang thực hiện nhiệm vụ tăng cường các xã biên giới có điều kiện kinh tế, xã

hội đặc biệt khó khăn.

18
Như đã nói ở trên, bên cạnh thành tố là Chính sách hậu phương quân đội, hậu phương quân còn là hậu phương phục vụ trực tiếp

cho quân đội, bao gồm các yếu tố tiềm lực vật chất, tinh thần tạo nền tảng trực tiếp cho mọi nhu cầu xây dựng huấn luyện, chiến đấu và đời

sống của quân đội cả thời bình và thời chiến, bảo đảm để quân đội luôn trưởng thành vững mạnh, chiến thắng và hoàn thành mọi nhiệm vụ

được giao.

- Vì vậy, một mảng hoạt động không thể thiếu trong công tác hậu phương quân đội có thể kể đến chính là hoạt động dân vận của

các cơ quan, đơn vị quân đội.

Với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo "Dân vận" đăng trên báo Sự Thật số ra ngày 15/10/1949, với Người

“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành

những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. “Công tác dân vận luôn luôn gắn liền với những chặng

đường lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập dân tộc, xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.

Tại Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa

chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng

cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống

chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang”.

Tóm lại, để xây dựng được hậu phương quân đội vững mạnh thì trong đó, công tác dân vận đóng vai trò vô cùng quan trọng. Công

tác dân vận của lực lượng vũ trang không chỉ là những hoạt động mang cảm tính, mà là nhiệm vụ được đặt ngang hàng với nhiệm vụ quân

sự, quốc phòng của mỗi cơ quan, đơn vị. Có làm tốt công tác dân vận thì dân mới tin yêu, hậu phương bởi thế mà vững chắc, quân đội có

điểm tựa để phát triển vững mạnh.

Cụ thể, với lực lượng vũ trang Quyết định cũng nêu rõ “Lực lượng vũ trang phải thường xuyên giúp đỡ nhân dân phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo và các chính

sách xã hội; củng cố, tăng cường tình đoàn kết quân dân, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân... Đồng thời Phối hợp với

ban dân vận của cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân cùng cấp và các cơ quan liên quan làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy,

chính quyền về công tác dân vận trên địa bàn đóng quân”.

- CCB, Hội CCB Theo pháp lệnh số 27/2005/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành ngày 07/10/2005,

CCB Việt Nam là những người đã chiến đấu, trưởng thành trong các lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng thành lập, tổ chức và lãnh đạo;

được rèn luyện qua các cuộc kháng chiến oanh liệt, có những cống hiến rất to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc; là lực lượng cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng; có kinh nghiệm chiến đấu trong cách mạng và xây dựng đất nước.

19
Theo đó, CCB dù được định nghĩa rộng hay hẹp thì cũng đều là những người đã từng tham gia đơn vị vũ trang chiến đấu chống

ngoại xâm, giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ. Hội

CCB Việt Nam có chức năng đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của CCB. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn

kết, tổ chức, động viên các thế hệ CCB giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng

và hợp pháp của CCB, chăm lo giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

Như vậy, sau khi tìm hiểu tác giả xin thể tóm gọn, khi đề cập đến công tác Hậu phương quân đội với khái quát định nghĩa như đã

nêu ở trên, công tác này bao gồm các thành tố cơ bản cấu thành: Chính sách hậu phương quân đội, Công tác dân vận trong lực lượng vũ

trang; Công tác CCB và Hội CCB.

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác hậu phương quân đội.

“Phải có một Quân đội đánh giỏi và một hậu phương vững chắc", Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Lênin dạy”

đăng trên Báo Nhân dân, số 161, ngày 21/1/1954. Đây là thời điểm quân và dân ta đang mở các chiến dịch lớn tiến công địch trên các chiến

trường; kế hoạch Nava của thực dân Pháp đang trên đà phá sản; cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến giai đoạn

quyết định, cần phải có sức mạnh tổng lực của lực lượng quân sự hùng mạnh và nguồn hậu cần tiếp tế hùng hậu, để đáp ứng yêu cầu của

cuộc quyết chiến chiến lược giành thắng lợi.

Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại cho mọi người thấy rõ quan điểm lý luận của Lênin về tính tất yếu phải xây

dựng một Quân đội của giai cấp công nhân, cùng với hậu phương vững chắc, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.

Qua đó, Người chủ trương tập trung củng cố, tăng cường sức mạnh cho Quân đội; cả nước hợp sức, dồn lực, xây dựng hậu phương vững

chắc, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng".

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm ấy đã trở thành định hướng chiến lược về xây dựng sức mạnh lực lượng cách mạng; được toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân hưởng ứng tích cực; khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, ý chí quyết tâm giành

độc lập dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp tham gia xây dựng Quân đội và bảo đảm hậu phương cho tuyền tuyến, giành thắng lợi chiến

dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Chủ trương đó, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong lãnh

đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, cùng quân dân miền Nam thực

hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.

20
Vai trò của hậu phương quân đội đã được chứng minh qua các thời kỳ chiến tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Phải

khẳng định rằng, trong trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hậu phương quân đội luôn phải có vai trò quan trọng, là nhân tố thường xuyên tạo nền

tảng trực tiếp cho mọi nhu cầu xây dựng trong đời sống của quân đội cả trong thời bình và thời chiến. 

Xác định vai trò của hậu phương là bệ phóng, là nhân tố cơ bản để thường xuyên đảm bảo cho quân đội chiến thắng và hoàn thành

tốt mọi nhiệm vụ được giao. Ngay từ những ngày đầu sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chủ

trương cụ thể:

- Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL về chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ.

Đây là văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về chế độ chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đến tháng 6/1947, Người đề nghị

Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm Ngày Thương binh toàn quốc để đồng bào có dịp tỏ lòng kính trọng, yêu mến thương

binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị đã họp ở Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27/7 hàng năm làm Ngày Thương binh toàn

quốc và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.

- Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động các phong trào để nhân dân giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Theo đó, Người đề

xuất với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập các “Hội mẹ chiến sĩ”, “Hội ủng hộ thương binh”. Với các cháu thiếu nhi, Người gợi ý

thành lập những “Đội Trần Quốc Toản” nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ. Năm 1951, Người phát động phong

trào “Đón thương binh về làng” để Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân các làng, xã giúp đỡ thương binh những công việc phù hợp để

họ có thể tự tin sinh sống, hòa nhập với cộng đồng [11, tr.584]. Dù bận trăm công nghìn việc, nhưng hầu như năm nào Người cũng gửi thư,

tặng quà hoặc tới thăm thương binh và gia đình liệt sĩ. Người trích một phần lương của mình, các món quà của đồng bào kính tặng, để tặng

cho các đồng chí thương binh và gia đình liệt sĩ.

- Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện các chính sách lớn,

góp phần chấn chỉnh tổ chức lực lượng, giảm quân số; đồng thời, ban hành mới các chính sách phục vụ nhiệm vụ xây dựng Quân đội chính

quy, quy định định lượng ăn cơ bản của bộ binh và quân binh chủng kỹ thuật; chế độ tiền lương và phụ cấp thâm niên, khu vực, phụ cấp

đông con, phụ cấp chức vụ (năm 1958, 1960). Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu chiến tranh, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất

Đảng, Nhà nước từng bước mở rộng chính sách đối với các đối tượng làm nhiệm vụ trên các chiến trường; ban hành chính sách đi B (năm

1961, bổ sung năm 1965); chế độ đối với cán bộ, nhân viên đang công tác ở miền Tây (năm 1963). Đồng thời, ban hành và liên tục bổ sung

các chính sách đối với quân nhân dự bị, dân quân tự vệ, lực lượng tái ngũ, phục viên, chuyển ngành (các năm: 1961, 1965, 1969, 1970,

1974). Cùng với làm tốt công tác giáo dục, động viên, khen thưởng chiến trường, việc ban hành và không ngừng bổ sung, sửa đổi các chính

sách đối với cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên các chiến trường đã góp phần tạo nên động lực chính trị - tinh

thần to lớn cho bộ đội chiến đấu và chiến thắng.

21
- Ngay từ năm 1961, Chính phủ ban hành quy định việc quản lý và thực hiện chính sách đối với gia đình quân nhân làm nhiệm vụ

ở chiến trường B, C và tiếp tục bổ sung vào các năm: 1965, 1967 (lúc cao điểm có gần 540.000 gia đình với khoảng trên 1,6 triệu thân nhân

được hưởng chế độ trợ cấp B, C). Từ hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đến các vùng giải phóng, vùng địch hậu đều tăng cường

củng cố thế trận, xây dựng các tiềm lực: chính trị - tinh thần, kinh tế, tất cả đều hướng về tiền tuyến lớn miền Nam, cung cấp sức người,

sức của, tạo sự động viên to lớn và niềm tin chiến thắng mãnh liệt cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Thông

tư số 158-CP, ngày 14/10/1968 của Hội đồng Chính phủ đã nêu rõ: “Nhất thiết không để một gia đình quân nhân nào không được chăm

sóc, không một gia đình nào có khó khăn mà không được giúp đỡ thích đáng”; “Nhất thiết không để một người vợ quân nhân nào có khả

năng lao động mà không có việc làm”. Đảng và Chính phủ chỉ đạo động viên mọi nguồn lực, thực hiện tốt các chính sách đối với gia đình

quân nhân tại ngũ, xây dựng hậu phương Quân đội vững mạnh. Nhằm góp phần khắc phục khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. 

-  Nhân dịp quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia chuẩn bị rút hết về nước trong tháng 9/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

đã ký Chỉ thị số 105-CT ngày 29/4/1989 về việc: Tập trung chỉ đạo để giải quyết xong về cơ bản trong 3 năm 1989 - 1992 những vấn đề

tồn tại về chính sách ở hậu phương sau các cuộc chiến tranh như: bàn với Bạn tiếp tục đưa hài cốt liệt sĩ ở Campuchia, Lào về nước và

cùng bạn xây dựng một số nghĩa trang liệt sĩ, đài kỷ niệm ở một số nơi tiêu biểu trên đất Bạn; quy tập theo quy hoạch các khu vực mộ liệt

sĩ ở các vùng biên giới trong nước, bàn giao cho địa phương quản lý, và nghiên cứu triển khai xây dựng một số nghĩa trang tượng đài liệt sĩ

ở một số nơi có ý nghĩa lịch sử (không chủ trương đưa hài cốt các liệt sĩ quê ở các tỉnh phía Bắc từ phía Nam ra phía Bắc); xác minh, kết

luận và thực hiện nhanh gọn chính sách đối với một số mất tin, mất tích; giải quyết hết các trường hợp tồn đọng về khen thưởng đối với

những thương binh nặng tự nguyện về sống với gia đình thì được nâng mức sinh hoạt phí người phục vụ hiện nay lên bằng mức lương tối

thiểu đã được Nhà nước quy định; đối với số thương binh nặng quê ở các tỉnh phía Bắc chiến đấu ở các tỉnh phía Nam còn lại nếu hoàn

cảnh quá khó khăn, không có điều kiện về gia đình ở các tỉnh phía Bắc thì được tiếp nhận vào các cơ sở điều dưỡng của ngành thương binh

xã hội hoặc của Bộ Quốc phòng, bảo đảm được đăng ký hộ khẩu ở các địa phương nơi cư trú theo nguyện vọng.

Bộ Tài chính cùng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ Quốc phòng xúc tiến nghiên cứu việc xây dựng quỹ bảo trợ xã hội,

hình thức thu đảm phụ quốc phòng (theo Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 56-CT ngày 11-3-1989

của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) trình Hội đồng Bộ trưởng xem xét để cùng với chế độ trợ cấp tử tuất, trợ cấp thương tật của Nhà nước,

bảo đảm cho thân nhân liệt sĩ hưởng tuất mua đủ 10 kilôgam gạo mỗi tháng theo giá địa phương, đồng thời góp phần thực hiện tốt các

chính sách về hậu phương quân đội và củng cố quốc phòng địa phương.

 Có thể khẳng định, những thành tựu to lớn của công tác hậu phương quân đội trong thời kỳ này đã đóng góp quan trọng vào công

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. 

22
Những năm qua, cùng với nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, các cơ quan, đơn vị

trong toàn quân đã phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo, bằng nhiều biện pháp thiết thực, tập trung mọi nỗ lực làm tốt công

tác Hậu phương quân đội và Chính sách hậu phương quân đội:

- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã phối hợp với các Bộ, ngành đề xuất với Đảng, Nhà nước tiếp tục bổ sung hoàn thiện

chính sách đối với người có công với cách mạng. Trong đó, chủ trì đề xuất ban hành Pháp lệnh 05/2012/UBTVQH13 về sửa đổi, bổ sung

một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; phối hợp đề xuất ban hành Pháp lệnh số

04/2012/UBTVQH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng; đề xuất Chính phủ ban hành

Nghị định 56/2013/NĐ-CP, ngày 22/5/2013, Nghị định 31/2013/NĐ-CP, ngày 09/4/2013 và liên bộ, ngành ban hành các thông tư hướng

dẫn thực hiện. Từng bước pháp quy hoá và triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có

công với cách mạng; đề xuất ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới, phát động phong trào tình nghĩa sâu rộng trong toàn quân và xã

hội. Nhờ đó, tiến độ, kết quả giải quyết tồn đọng về chính sách sau các cuộc chiến tranh đã có những đổi mới, chuyển biến tích cực. Ngành

Chính sách và các cơ quan, đơn vị Quân đội đã chủ động chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện tốt việc xác lập, xác nhận, thẩm định chặt

chẽ, đúng đối tượng, bảo đảm quy trình, thủ tục và chi trả kịp thời chế độ cho đối tượng chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công

với cách mạng (phần thuộc trách nhiệm của các đơn vị Quân đội). Từ năm 2010 đến nay, Ngành đã lập hồ sơ, đề nghị xác nhận hơn 1.000

liệt sĩ; cấp giấy chứng nhận thương binh cho hơn 8.000 trường hợp và gần 5.600 bệnh binh. 

- Từ khi có Thông tư liên tịch 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng;

Thông tư liên tịch 03/2014/TTLT-BNV-BQP-BLĐTBXH của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và

Thông tư 202/2013/TT-BQP ngày 07/11/2013 của Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục xác nhận; tổ chức thực hiện chế độ ưu đãi

người có công với cách mạng thuộc trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, toàn quân đã tổ chức chặt chẽ, đẩy nhanh tiến độ lập hồ sơ xác nhận,

xét duyệt, thẩm định để thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ theo quy định của pháp luật; kịp thời khắc phục những sai sót, chấn chỉnh

những tiêu cực trong tổ chức thực hiện. Từ năm 2013 đến nay, toàn quân đã hoàn chỉnh thủ tục xác nhận đề nghị Thủ tướng Chính phủ truy

tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” cho trên 500 liệt sĩ; ra quyết định cấp giấy chứng nhận thương binh đối với gần 4.000 trường hợp; trên 400

bệnh binh; tham gia xác lập hồ sơ, đề nghị phong tặng, truy tặng trên 83.000 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các đơn vị, địa phương đang tiếp

tục đẩy nhanh tiến độ thẩm tra, xác minh, kết luận, giải quyết các trường hợp tồn sót về thương binh, liệt sĩ theo quy định của Chính phủ.

- Thực hiện Chỉ thị 24-CT/TW ngày 15/5/2013 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt

sĩ và Quyết định số 1237/QĐ-TTg ngày 27/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ

nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo; Ban Chỉ đạo quốc gia 1237 (nay là Ban Chỉ đạo quốc gia 515), Ban Chỉ đạo các quân khu, các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được củng cố; các đội chuyên trách và lực lượng lâm thời được kiện toàn; công tác thông tin, tuyên

23
truyền được quan tâm đẩy mạnh; từng bước kết luận địa bàn ở các địa phương, xác lập bản đồ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; công tác đối

ngoại được xúc tiến và mở rộng. Đến năm 2019, Quân đội đã tổ chức tìm kiếm, cất bốc, quy tập được trên 13.000 hài cốt liệt sĩ (trong nước

gần 6.000 hài cốt; ở Lào hơn 2.000 hài cốt, Campuchia hơn 5.000 hài cốt).

- Quán triệt và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; đặc biệt là Chỉ thị 14-CT/TW, ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng; Chỉ thị 368-CT/QUTW, ngày

12/6/2016 của Quân ủy Trung ương về tăng cường lãnh đạo công tác chính sách đối với Quân đội và hậu phương Quân đội giai đoạn 2016

- 2020, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp với nhiều nội dung,

hình thức phong phú, sáng tạo, thiết thực, phù hợp với thực tế của địa phương và nguyện vọng của đối tượng chính sách; tiếp tục đẩy mạnh

phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” phát triển sâu rộng trong toàn quân và xã hội và mang lại hiệu quả thiết thực. Hàng năm, Quân đội vận

động đóng góp xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” với ý thức trách nhiệm cao. Từ năm 2013 đến 2019 đã đóng góp được hơn 565 tỷ đồng.

Các đơn vị nhận phụng dưỡng 2.820 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; tuyển dụng tạo việc làm cho hơn 340 trường hợp là vợ, con liệt sĩ và

thương binh, bệnh binh nặng; xây dựng hơn 10.300 nhà tình nghĩa; tặng hơn 8.000 sổ tiết kiệm, với số tiền trên 16 tỷ đồng cho các đối

tượng chính sách là thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; đóng góp vật liệu xây dựng và hàng vạn ngày công để tu

sửa nghĩa trang liệt sĩ ở các địa phương nơi đóng quân; hỗ trợ trang thiết bị y tế đối với các Trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có

công; nhiều hình thức hoạt động trở về nguồn nơi căn cứ cách mạng, chiến khu; tổ chức đón tiếp trang trọng các đoàn đại biểu người có

công đến thăm đơn vị và Bộ Quốc phòng, thể hiện tình nghĩa thủy chung đối với người có công với cách mạng, với đất nước.

- Cùng với những việc làm trên, Quân đội đã chủ động đề xuất và tổ chức thực hiện chu đáo chính sách đối với các đối tượng tham

gia các cuộc kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. Đến nay cả nước có gần 1.600 đối tượng hưởng trợ cấp

hằng tháng; trên 1 triệu đối tượng hưởng chế độ trợ cấp 1 lần với số tiền trên 5.000 tỷ đồng (theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ); hơn 1 triệu đối tượng Dân công hỏa tuyến được hưởng trợ cấp 1 lần và chế độ bảo hiểm y tế (theo Quyết định

49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Đang triển khai thực hiện Nghị định 102/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách đối với

người Việt Nam có công định cư ở nước ngoài.

- Ngoài ra, đối với những đơn vị đặc thù, tại Thông tư liên tịch 2076/1998/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC: Hướng dẫn thực hiện

một số chế độ chính sách đối với Bộ đội Biên phòng, của Bộ Quốc phòng, mục IV đã nêu rõ: “Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công

nhân viên chức quốc phòng thuộc Bộ đội Biên phòng chuyển gia đình đến vùng cao, hải đảo được hưởng chế độ trợ cấp như hộ gia đình đi

xây dựng vùng kinh tế mới hoặc di dân ra đảo theo quy định hiện hành. Kinh phí bảo đảm trích từ nguồn vốn sự nghiệp di dân của ngân

sách Nhà nước. Các đơn vị Bộ đội Biên phòng có đối tượng hưởng chế độ trợ cấp này lập dự toán đề nghị duyệt, chi trả và quyết toán với

24
Bộ Quốc phòng”. Thể hiện những chính sách lớn của Bộ Quốc phòng không chỉ đối với cán bộ, chiến sĩ mà còn cả gia đình, hậu phương

của họ, từ đó đảm bảo tâm lý, đời sống cho bộ đội, yên tâm công tác, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao phó.

Bên cạnh đó, quán triệt sâu sắc Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25-2-2010 của Bộ Chính trị khóa X về “Quy chế Công tác dân

vận của hệ thống chính trị”, từ cuối tháng 2-2010, Tổng cục Chính trị đã tham mưu với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy

Trung ương) lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy các cấp trong toàn quân tổ chức quán triệt, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và quần chúng

nhận thức sâu sắc, đầy đủ về Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị; đồng thời, ban hành Quyết định số 03-QĐ/ĐU, ngày 4-1-

2011 về “Quy chế Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam” và nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận

trong quân đội.

Với phương châm hướng mạnh về cơ sở, công tác dân vận trong toàn quân đã tăng cường giúp đỡ Nhân dân phát triển kinh tế, văn

hoá - xã hội, nhất là trên các địa bàn trọng điểm Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã tham gia

hàng trăm chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các cuộc vận động, các phong trào, các chính sách xã hội, chính sách

hậu phương quân đội, giúp Nhân dân định canh, định cư, hỗ trợ giống vốn sản xuất, kết hợp quân dân y, xoá mù chữ và phổ cập giáo dục

tiểu học, xây dựng các điểm sáng văn hóa vùng cao biên giới, hải đảo, góp phần thực hiện có hiệu quả các chính sách về kinh tế của Chính

phủ…

Nhiều mô hình dân vận được tổ chức thực hiện thành công, mang lại hiệu quả to lớn, tạo hiệu ứng xã hội, có sức lan tỏa rộng rãi,

như: “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Hành trình quân đội chung tay vì sức khỏe cộng đồng”, “Gắn kết hộ người Kinh với

hộ đồng bào dân tộc thiểu số”, “Mái ấm cho đồng bào nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Bò giống giúp người nghèo biên giới”, “1000 nhà

tình nghĩa cho gia đình chính sách vùng căn cứ kháng chiến”, “Ngôi nhà 100 đồng”, “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo”, “Hũ gạo tình

thương”, “Hũ gạo vì người nghèo”, “Hũ gạo gắn kết”, “4 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc)...

Mặt khác, Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCB Việt Nam trong

giai đoạn cách mạng mới, đã nêu rõ quan điểm của Đảng về công tác CCB, Hội CCB; nhiệm vụ và cách thức tổ chức hoạt động của Hội.

Theo đó, Các cấp ủy Đảng đã chú trọng lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện tốt hơn công tác CCB, chăm lo xây dựng hội CCB. Pháp lệnh

CCB được ban hành tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của hội CCB, nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của các

CCB được quan tâm nâng cao và các chế độ, chính sách đối với CCB và hội CCB được thực hiện tốt. Sự phối hợp của chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc, các đoàn thể với hội CCB ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả hơn, phát huy được tiềm năng to lớn của CCB trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội CCB đã tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở

cơ sở; đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo trong CCB; tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã

hội, quốc phòng an ninh ở địa phương; đấu tranh chống các quan điểm sai trái với đường lối quan điểm của đảng, chính sách pháp luật của

25
Nhà nước; chống tham nhũng tiêu cực, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; tham gia giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ;

vận động, tập hợp, phát huy vai trò tích cực của cựu quân nhân ở cơ sở, thực hiện hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân...

26
Tiểu kết chương 1

Nghiên cứu đề tài “Tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng”, trong Chương 1 của luận

văn, tác giả đã hệ thống cơ sở lý luận về tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương đội trên báo in Bộ Quốc phòng. Trong đó, làm rõ các

khái niệm về tôt chức sản xuất, đưa ra khái niệm và những yếu tố cấu thành nên công tác hậu phương quân đội, đồng thời cũng khái quát

những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác hậu phương quân đội. Đây là những cơ sở quan trọng để tác giả dựa vào

đó làm tiền để tiếp tục triển khai nghiên cứu ở Chương 2

27
Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

2.1. Giới thiệu khái quát về các báo trong diện khảo sát

2.1.1. Sơ lược về sự ra đời và quá trình phát triển của báo Quân đội nhân dân hằng ngày

Báo Quân đội nhân dân trực thuộc Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng là cơ quan của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc

phòng Việt Nam, là tiếng nói của lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam.

Ngày 15-2-1947 Quân ủy Trung ương đã triệu tập Hội nghị Chính trị viên toàn quân lần thứ nhất. Dự Hội nghị, ngoài cán bộ Quân

ủy Trung ương, còn có các Chính trị viên Khu và Chính trị viên Trung đoàn. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, và

đồng chí Văn Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Chính trị Bộ Quốc phòng, chủ trì Hội nghị. Hội nghị quyết định cho ra báo Vệ quốc quân.

Tiền thân của Báo Quân đội nhân dân là Vệ Quốc Quân và Quân du kích được hợp thành vào tháng 7 năm 1950. Những ngày mới

thành lập, báo chủ yếu sử dụng bài của đội ngũ cộng tác viên, thông tin viên ở các đơn vị.

Do tình hình kháng chiến, Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định sáp nhập tờ Vệ quốc quân và Quân du kích

thành tờ Quân đội nhân dân, ra số đầu tiên ngày 20-10-1950. Đây là tờ báo được bạn đọc ngóng đợi nhất, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ quân

đội. Báo luôn theo sát tình hình chiến dịch, thông tin kịp thời. Ngoài việc đề cao những chiến công, báo rất chú trọng công tác phê bình và

tự phê bình. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với Báo Quân đội nhân dân tại hậu phương- Tòa soạn đóng tại ATK Định Hóa, còn có

Tòa soạn báo Báo Quân đội nhân dân tổ chức xuất bản và phát hành báo ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ; những tờ báo được hoàn thành

ngay khi khói lửa trận đánh chưa tan.

Sự phát triển của Báo Quân đội nhân dân gắn liền với lịch sử và sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Báo Quân đội

nhân dân bắt đầu trong thời điểm cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở vào giai đoạn quyết liệt nhất, Báo Quân đội nhân dân tuy không thể

phát hành vào miền Nam, song nhờ Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, qua mục giới thiệu báo và đọc báo, nội dung chủ yếu của báo vẫn

đến được trên các chiến trường.

Từ ngày đó đến nay, trải qua gần 70 năm phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, công nhân

viên Tòa soạn báo, được sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc

phòng, sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục Chính trị, Báo Quân đội nhân dân đã trưởng thành vượt bậc, trở thành một tờ báo có vị trí quan

trọng hàng đầu của đất nước trong việc tuyên truyền thực hiện đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước,

nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân ta trong sự nghiệp giải phóng đất nước, bảo vệ và xây dựng

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết quốc tế, đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái.

28
Tôn chỉ, mục đích

Ngay từ khi ra đời, báo Quân đội nhân dân đã xác định tốt tôn chỉ, mục đích và nhiệm vụ, nhất là lấy việc giáo dục chính trị, tư

tưởng, xây dựng Quân đội làm nhiệm vụ chính trị hàng đầu. Ngay từ số báo đầu tiên, ra ngày 20/10/1950, báo Quân đội nhân dân đã được

Bác Hồ huấn thị thật ân cần, sâu sắc: “Nói những điều thật thiết thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, vẽ dễ hiểu, trình

bày rõ ràng, ít tiếp sang trang khác...”. Lời Bác dạy đã định hướng, định hình, là phương châm xuyên suốt trong hoạt động và phong cách

của những chiến sĩ làm báo báo Quân đội nhân dân.

Tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phản ánh việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng

trong lực lượng vũ trang và trong mọi mặt đời sống xã hội; định hướng bạn đọc đối với những dư luận xã hội và những sự kiện chính trị,

kinh tế, xã hội, văn hóa; đồng thời cung cấp thông tin chính xác, kịp thời nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước.

Báo Quân đội nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, tiếng nói của LLVT và nhân

dân Việt Nam, là một trong những cơ quan báo chí hàng đầu của Đảng và Nhà nước, có chức năng tuyên truyền, phản ánh hai nhiệm vụ

chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng LLVT nhân dân, đồng thời tuyên truyền tất cả các

lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, Báo Quân đội nhân dân còn định hướng bạn đọc, dư luận trong,

ngoài nước, cung cấp những tư liệu nghiên cứu đáng tin cậy cho các học giả. Báo Quân đội nhân dân phát hành rộng rãi trong LLVT nhân

dân và các cấp bộ Đảng, chính quyền, các bộ, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân cả nước.

Báo tuyên truyền sâu rộng trong LLVT và toàn dân về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tập trung vào hai

nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, nhất là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; phổ biến các đường lối

của Đảng, đường lối đổi mới, cập nhật các Nghị quyết Trung ương, quan điểm của Đảng đối với các diễn biến, tình hình trong nước, khu

vực, quốc tế. Truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế

trong sáng của giai cấp công nhân, giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân

dân và các LLVT nhân dân; truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa loài người, góp phần xây dựng phẩm chất Bộ đội Cụ

Hồ, xây dựng con người mới Việt Nam; Phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với lực lượng

vũ trang nói chung, quân đội nói riêng, Điều lệnh, Điều lệ và các quy định của Quân đội; Tuyên truyền đường lối, chính sách đối ngoại của

Đảng, Nhà nước; góp phần mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn

vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

Thông tin kịp thời, chính xác và định hướng dư luận các vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... thực hiện tốt chính

sách hậu phương quân đội. Cổ vũ phong trào thi đua yêu nước ở các cấp, các ngành và toàn xã hội; phát hiện, biểu dương nhân tố mới, điển

29
hình tiên tiến, hướng suy nghĩ và hành động của cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và nhân dân vào mục tiêu cụ thể và thiết thực của công cuộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tham gia tổ chức các phong trào thi đua, các cuộc vận động trong LLVT và nhân dân.

 Hiện nay báo Quân đội nhân dân có tất cả 22 phòng ban và các đầu mối:

Văn phòng Phòng Cuối tuần

Thư ký Tòa soạn Phòng biên tập Báo Quân đội nhân dân Điện tử

Ban Tư liệu Phòng Phát hành và Truyền thông

Phòng Tài vụ Nhà In

Phòng Quảng cáo và phát hành Cơ quan tt tại TP. Hồ Chí Minh

Phòng Công tác Đảng- Công tác chính trị Cơ quan tt tại TP. Đà Nẵng

Phòng Quốc phòng An ninh Cơ quan tt tại TP. Cần Thơ

Phòng Kinh tế đời sống Cơ quan tt tại Đắk Lắk

Phòng Văn hóa Thể thao Cơ quan tt tại TP. Đà Lạt

Phòng Bạn đọc Cơ quan tt tại Quân khu 4

Phòng Thời sự Quốc tế Cơ quan tt tại Gia Lai

2.1.2. Sơ lược về sự ra đời và quá trình phát triển của báo Quốc phòng Thủ đô

* Giai đoạn thành lập tờ tin “Chiến sỹ thủ đô” (Tháng 3 năm 1979 đến tháng 8 năm 1999)

Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bộ Chính trị ra Quyết định số 35/QĐ-TW, Chủ tịch nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Sắc lệnh số 28/LCT thành lập Quân khu Thủ đô Hà Nội (trên cơ sở Bộ Tư lệnh Thủ đô)

Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Ngày 18 tháng 8 năm 1999, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định

số 1285/QĐ-QP chuyển giao Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây từ Quân khu III về trực thuộc Quân khu Thủ đô; ngày 20 tháng 8 năm 1999,

Bộ Quốc phòng tiếp tục ra Quyết định số 1307/QĐ-QP thành lập Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô. Đảng ủy

Quân khu Thủ đô tập trung lãnh đạo ổn định tổ chức biên chế, kiện toàn tổ chức chỉ huy, tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng, từng bước đưa

các hoạt động của cơ quan, đơn vị vào nền nếp, xác định rõ nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội và bổ sung nhiệm vụ Bộ

Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây và Tờ tin chiến sỹ thủ đô thuộc Phòng tuyên huấn nay thành lập cơ quan Báo quân khu thủ đô được Đảng ủy

bộ tư lệnh ủy nhiệm cho Cục chính trị trực tiếp quản lý với tôn chỉ mục đích tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà Nước; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương; phản ánh ý kiến, thu hút trí tuệ của cán bộ chiến sỹ và các tầng

30
lớp nhân dân đóng góp vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nâng cao sức mạnh chiến đấu, xây dựng nền quốc phòng địa phương vững

mạnh, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

* Giai đoạn đổi tên từ “Báo quân khu thủ đô” thành “Báo quốc phòng thủ đô” đến nay. (Ngày 01 tháng 8 năm 2008 đến nay)

Trong tiến trình thực hiện Nghị quyết số 15 của Quốc hội khóa XII ngày 16 tháng 7 năm 2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết

đã ký Lệnh số 16/2008/L-CTN về tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Ngày 25 tháng 7 năm 2008, Bộ trưởng

Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 2192/QĐ-BQP, 2194/QĐ-BQP hợp nhất Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây, Bộ Chỉ huy quân sự thành phố

Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô Hà Nội vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; Quyết định số vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Quyết định

2196/QĐ-QP sáp nhập Ban Chỉ huy quân sự huyện Mê Linh thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc/Quân khu II vào Bộ Tư lệnh Thủ đô

Hà Nội.

Kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2008 Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội bắt đầu hoạt động và cũng lấy mốc thời gian ngày 01 tháng 8 năm

2008 Bộ Thông tin-Truyền thông nhất trí cho đổi tên  “Báo quân khu thủ đô” thành “Báo quốc phòng thủ đô” với tôn chỉ mục đích và

nhiệm vụ mới tập trung tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước; nhiệm vụ quân sự,

quốc phòng địa phương; phản ánh ý kiến, thu hút trí tuệ của cán bộ chiến sỹ và các tầng lớp nhân dân đóng góp vào sự nghiệp đổi mới của

đất nước, thủ đô Hà Nội; xây dựng lực lượng vũ trang thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện

đại; nêu gương các điển hình tiên tiến trong phong trào xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đấu tranh chống các luận điệu sai trái; các hoạt động

của các thế lực thù địch, giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, bảo vệ, kiến thiết Thủ đô

ngày càng văn minh, hiện đại.

  Tôn chỉ, mục đích của báo

  + Báo quốc phòng thủ đô thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô nằm trong hệ thống báo chí Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Quân đội nhân dân Việt Nam, thành phố Hà Nội, là tiếng nói của Đảng ủy-Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, của lực lượng vũ trang và nhân dân

Thủ đô; là diễn đàn tin cậy của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng và

bảo vệ Thủ đô Hà Nội; là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống tinh thần của cán bộ chiến sỹ.

  + Báo quốc phòng thủ đô có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

Nước; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương; phản ánh ý kiến, thu hút trí tuệ của cán bộ chiến sỹ và các tầng lớp nhân dân đóng góp

vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, thủ đô Hà Nội; xây dựng lực lượng vũ trang thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội cách mạng, chính quy,

tinh nhuệ và từng bước hiện đại; nêu gương các điển hình tiên tiến trong phong trào xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đấu tranh chống các luận

điệu sai trái; các hoạt động của các thế lực thù địch, giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia.

31
  -  Đối tượng phục vụ: Cán bộ chủ chốt thành phố tới cơ sở xã, phường, thị trấn và cán bộ chiến sỹ trong lực lượng vũ trang thủ

đô.

  + Thành phố: Lãnh đạo thành phố, các cơ quan (Báo biếu)

  + Quận (huyện, thị xã): Bí thư huyện (Quận) ủy, Chủ tịch, các phó chủ tịch, Chủ tịch Hội CCB, đài phát thanh, Ban chỉ huy quân

sự (29 quận huyện, thị xã của thành phố Hà Nội)

  + Cấp xã (Phường, thị trấn): Bí thư, Chủ tịch, các phó chủ tịch, Chủ tịch Hội CCB, Ban chỉ huy quân sự xã, Chỉ huy trưởng quân

sự, Chính trị viên, Chính trị viên phó.

  + Ban chỉ huy quân sự tự vệ các công ty, nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Ban chỉ huy quân 10 trường Đại học

thuộc quản lý của Bộ tư lệnh Thủ đô gồm ( Đại học y Hà Nội, ĐH Bách khoa, ĐH giao thông vận tải, ĐH Hà Nội, ĐH Lâm nghiệp, ĐH

công nghiệp, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Dược, ĐH kiến trúc, ĐH Phương đông..)

  + Giáo viên giáo dục quốc phòng các trường phổ thông trung học trên địa bàn thủ đô Hà Nội.

  + Cán bộ chiến sỹ các đơn vị trong Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội

   - Hiện tại, báo Quốc phòng Thủ đô có tổng quân số 15 người trong đó có 1 chức danh Tổng Biên tập, 2 đồng chí Phó Tổng biên

tập, 1 Thư ký toà soạn, 8 phóng viên.

Cơ cấu không có các Phòng, Ban chuyên môn, Báo phân công các Phóng viên phụ trách các chuyên trang, phụ trách theo dõi các

địa bàn và đơn vị trong phạm vi Hà Nội.

2.1.3. Sơ lược về sự ra đời và quá trình phát triển của báo Quân khu II (Báo Quân khu 2)

Để kịp thời động viên, cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân các dân tộc trên địa bàn, ngày 19-8-1946, Khu ủy

Chiến khu I (Chiến khu I thời kỳ đó bao gồm các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang là các địa

phương thuộc Quân khu 2 và 6 tinh gồm Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Bắc Giang và Bắc Ninh thuộc Quân khu 1 ngày

nay) đã quyết định xuất bản tờ Báo “Chiến khu”. Đồng chí Tạ Xuân Thu, Chính trị ủy viên Chiến khu (sau này là Chính trị, ủy viên Chiến

khu X) làm chủ nhiệm và đồng chí Kỳ Ân làm chủ bút. Nhân sự kiện Báo ra đời, ngày 13-8, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư chúc

mừng. Trong thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Được tin báo Chiến khu “Chiến khu” ra đời, tôi xin gửi lời chào rất thân ái. Là một

người đã từng sống ở chiến khu, tôi rất mong mỏi nhà báo ra sức giúp cho chiến khu của chúng ta trở nên chiến khu hiện đại, dân chúng

giác ngộ, bộ đội hùng cường và bao giờ quân dân cũng nhất trí. Đó là lời mong mỏi của tôi và tất cả đồng bào toàn quốc. Chúng tôi tin

tưởng ở sự cố gắng của Ban khu và của Tòa soạn nhà báo. Tiện đây tôi xin nhờ nhà báo chuyển lời chào cố gắng cho tất cả anh em bộ đội

và dân chúng chiến khu”. Sự ra đời của Báo “Chiến khu” là mốc son quan trọng đánh dấu bước hình thành và phát triển của Báo Quân khu

2 và Báo Quân khu 1 hiện nay.

32
Kế thừa Báo “Chiến khu”, ngay sau ngày Chiến khu X được thành lập, Khu ủy đã cho xuất bản Báo “Vệ Quốc quân” và sau đó

năm 1947 đổi thành Báo “Sông Lô” phát hành mỗi tháng 2 kỳ, mỗi kỳ 1.500 tờ tới toàn thể các đơn vị bộ đội và nhân dân trên địa bàn; kịp

thời tuyên truyền đường lối kháng chiến Đảng, Nhà nước, cổ vũ, động viên quân dân Chiến khu X chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng.

Trải qua gần 70 năm xây dựng và trưởng thành, Báo Quân khu 2 được mang các tên gọi gắn liền với các sự kiện lịch sử của dân

tộc, của Quân đội và LLVT Quân khu từ tờ Chiến khu”, “Vệ Quốc quân”, “Sông Lô”, “Tây Bắc chiến thắng”, “Chiến sỹ Tây Bắc”, Tờ tin

“Quân khu 2” và nay là “Báo Quân khu 2”. Quá trình xây dựng và trưởng thành của Báo Quân khu 2 luôn gắn liền với chặng đường vẻ

vang xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Lực lượng vũ trang Quân khu II.

Mặc dù có giai đoạn thay đổi, biến động về tổ chức và cơ cấu hoạt động để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, nhưng trong mọi giai

đoạn lịch sử, tờ báo của Quân khu cũng luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị được giao, xứng đáng là cơ quan ngôn luận của

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu - tiếng nói của lực lượng vũ trang và nhân dân Tây Bắc và là người bạn gần gũi, thân thiết của cán bộ,

chiến sỹ và nhân dân các dân tộc trên địa bàn.

Phát huy truyền thống vẻ vang của Báo chí Cách mạng Việt Nam, bước vào thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ năm 2006 được Bộ Văn

hóa và Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) cấp giấy phép xuất bản cho Báo Quân khu 2 trên cơ sở nâng cấp từ Tờ tin Quân

khu 2 và năm 2008 được Hội Nhà báo Việt Nam chuẩn y thành lập Chi hội Nhà báo Quân khu đến nay, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo

của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 2 về công tác báo chí, tuyên truyền, nhất là các quy định của

Luật báo chí, Chỉ thị số 37 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về “Tiếp tục nâng cao vị trí, chất lượng hoạt động của Hội nhà báo

Việt Nam trong thời kỳ mới”, Nghị quyết lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí” và

Quy chế quản lý báo chí trong quân đội, Quy định quản lý báo chi, hoạt động báo chi trong LLVT Quân khu.

Ban biên tập Báo và Ban Thư ký Chi hội Nhà báo Quân khu thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng tổng hợp của tòa soạn,

tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, biên tập viên, phóng viên, hội viên học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp và nâng

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nếu như cách đây 10 năm, Báo Quân khu chỉ có 7 cán bộ, phóng viên, trong đó có 3 đồng chí được

đào tạo, bồi dưỡng về báo chí và 3 cán bộ, phóng viên được cấp thẻ nhà báo và là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.   Đến nay, Báo đã trở

thành cơ quan báo chí đa phương tiện, nằm trong hệ thống báo chí của Quân đội nhân dân Việt Nam được Bộ Thông tin và Truyền thông

cấp Giấy phép xuất bản số 100/GP-BTTTT ngày 26/01/2011 và Báo Quân khu 2 điện tử; được biên chế theo Quyết định số 2644/QĐ-TM

ngày 21/11/2013 của Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN. Hiện tại, báo Quân khu 2 có cơ cấu tổ chức: 1 chức danh Tổng Biên tập, 2 đồng

chí Phó Tổng biên tập, 1 Thư ký toà soạn. Đội ngũ “thực chiến” gồm có 07 phóng viên. “Đội quân hùng hậu” tăng trên 200%; Chi hội Nhà

báo tăng trên 700%; trong đó gần 80% cán bộ, phóng viên có trình độ cao đẳng, đại học (trên 50% chuyên ngành báo chí, truyền hình),

25% có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 43% được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp thẻ nhà báo.

33
Cơ cấu không có các Phòng, Ban chuyên môn, Báo phân công các Phóng viên phụ trách các chuyên trang, phụ trách theo dõi các

địa bàn và đơn vị trong phạm vi 9 tỉnh thuộc Quân khu 2 (Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, Sơn La, Điện

Biên, Lai Châu).

Từ chỗ mỗi tháng chỉ xuất bản một kỳ, in 2 mẫu (sau ngày tái lập năm 1994) với số lượng phát hành trên 3.000 tờ, đến nay Báo

Quân khu 2 đã xuất bản tuần báo, in 4 màu với số lượng gần 8.000 tờ/kỳ phát hành chủ yếu theo hệ thống bưu chính quốc gia. Chất lượng

tờ báo ngày càng được nâng cao, đẹp về hình thức, nhanh về thời gian, chính xác, phong phú về nội dung. Không chỉ phát hành phục vụ

cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ, dự bị động viên, Báo Quân khu 2 còn

phát hành phục vụ công tác nghiên cứu, tham khảo cho cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cấp từ tỉnh đến các xã, phường, thị trấn; lãnh đạo các

ban, sở, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị, trường học trong toàn Quân  khu và gửi trao đổi với trên 100 cơ quan báo chí trong và ngoài

Quân đội trên toàn quốc.

2.2. Thực trạng tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên các báo trong diện khảo sát (từ tháng 01/2019-

12/2019).

2.2.1. Thực trạng tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên Báo Quân đội nhân dân hằng ngày

Chuyên trang “Hậu phương của chúng ta” là một trang chuyên đề của Phòng Công tác Đảng - Công tác chính trị, báo Quân đội

nhân dân hằng ngày. Chuyên trang được đăng thường kỳ trên ấn phẩm báo Quân đội nhân dân hằng ngày số ra vào thứ bảy. Chuyên trang

không chỉ đề cập đến công tác Hậu phương quân đội mà trên chuyên trang còn được lồng ghép những tin tức, bài viết về công tác Đảng -

công tác chính trị có tính thời sự, dưới góc nhìn của ban biên tập tờ báo là cần tuyên truyền ngay trong số báo này.

Trong thời gian khảo sát từ tháng 01 đến tháng 12 năm 2019, báo Quân đội nhân dân hằng ngày đã phát hành 52 số báo số ra ngày

thứ 7. Trong đó, có 35 số báo có chuyên trang “Hậu phương của chúng ta”.

Kết cấu về nội dung

Việc xác định nội dung tuyên truyền của số báo được thực hiện tại các cuộc họp giao ban chuyên môn giữa các cán bộ chủ chốt

diễn ra đều đặn vào khoảng sáng đầu tuần. Tại cuộc họp, nội dung đầu tiên là kíp trực của tòa soạn sẽ báo cáo về tình hình thực hiện các số

báo đã xuất bản, sơ bộ đánh giá số báo xuất bản trong tuần có lỗi gì không và rút kinh nghiệm nếu có các sai sót, Lãnh đạo các ban chuyên

môn báo cáo tình hình thời sự đáng chú ý, đăng ký các tin bài mà phóng viên sẽ thực hiện trong tuần, dự kiến giờ sẽ nộp để Thư ký tòa

soạn bố trí diện tích trang chờ. Trên cơ sở đó, Ban biên tập sẽ góp ý, đưa ra chỉ đạo về cách thức thực hiện, yêu cầu về sự phối hợp giữa các

ban ra sao. Sau khi giao ban cán bộ chủ chốt, trưởng các phòng, ban sẽ trở lại giao ban nội dung công việc với cán bộ, phóng viên.

Chuyên trang “Hậu phương của chúng ta” hiện nay được được một đồng chí thuộc phòng Công tác đảng, công tác chính trị, chịu

trách nhiệm về nội dung. Ở đây, nội dung của chuyên trang cũng sẽ không thoát ly khỏi nguyên tắc tuyên truyền đúng tôn chỉ, mục đích

34
của tờ báo, đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực. Đồng thời, đối tượng mà nội dung phản ánh trên chuyên trang được phân bổ

đồng đều cho tất cả các đơn vị quân đội, LLVT trên cả nước; nội dung tập trung đúng, trúng vào những quy định về công tác Hậu phương

quân đội như đã nêu ở phần lý luận. Chính vì vậy, khi khảo sát, tác giả xin được chia các nội dung cần khảo sát trên chuyên trang “Hậu

phương của chúng ta” thành các hoạt động tuyên truyền, phản ánh của chuyên trang cụ thể như sau: Tuyên truyền các chủ trương của

Đảng, pháp luật của Nhà nước về Chính sách hậu phương quân đội; Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ quan, đơn

vị trong toàn quân; Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; Hoạt động của CCB và Hội CCB; Nêu gương tập thể, cá

nhân trong công tác chính sách.

Không đề cập đến những nội dung về Công tác Đảng-công tác chính trị, qua khảo sát 35 số báo từ tháng 01 đến tháng 12 năm

2019 trên chuyên trang Hậu phương của chúng ta trên báo Quân đội nhân dân hằng ngày:

Nội dung tuyên truyền, phản ánh 62 Tin 129 Bài Ghi chú

Tuyên truyền các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước 12 7

về Chính sách hậu phương quân đội 19% 6%

Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ 24 35

quan, đơn vị trong toàn quân 39% 27%

19 20
Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân
31% 15%

5 1
Hoạt động của CCB và Hội CCB
8% 1%

22
Nêu gương tập thể, cá nhân trong công tác chính sách 0
17%

2 44 Chuyên mục
Hoạt động khác
3% 34% chiếm đa số

Bảng 2.1: Thống kê nội dung tuyên truyền trên chuyên trang

“Hậu phương của chúng ta”

Tuy kết quả khảo sát thực tiễn chuyên trang thấy số lượng tin, bài về nội dung Tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước về Chính sách hậu phương quân đội còn ít, nhưng đó là các bài chuyên sâu về chủ trương, chính sách hay pháp luật

cụ thể về công tác quốc phòng quân sự địa phương, còn gần như tất cả các tin bài trên chuyên trang nói riêng đều đề cấp đến vấn đề chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác hậu phương quân đội, chính sách hậu phương quân đội dưới nhiều hình

thức.

35
Ví dụ, số báo 21005 ra ngày 28/9/2019, có bài “Thực hiện quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Nắm vững

chủ trương, tuyên truyền sâu rộng, giải quyết hiệu quả”. Bài viết có phần dẫn nhập từ trang một, nội dung đề cập chuyên sâu đến những

chủ trương, hoạt động cụ thể khi triển khai thực hiện Quyết định 49 của Thủ tướng Chính phủ, báo cáo một vài nét về thành tích toàn quân

đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời đề cập đến phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới.

Có thể thấy, tuyến tin, bài về Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ quan, đơn vị trong toàn quân chiếm đa

số về mặt nội dung: 39%, 27%. Nội dung này thường được xếp vào khung bài cố định trên chuyên trang. Đi đúng hướng tôn chỉ, mục đích

của tờ báo, nội dung Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đã góp phần tô thắm hình

ảnh “bộ đội cụ Hồ”, giúp độc giả có cái nhìn sâu sắc hơn về những hoạt động của LLVT toàn quân. 

Ví dụ 1, tuyên truyền về công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Trong số báo 20853, ra ngày 27/4/2019, có bài “Lắng sâu nghĩa tình đồng

đội”. Đây là phóng sự phản ánh về công tác đền ơn đáp nghĩa của Hội phụ nữ Phòng Hậu cần - Kỹ thuật ( Học viện Chính trị). Bài viết

phản ánh rõ những hoạt động của Hội: thăm hỏi, động viên, tặng quà hỗ trợ cho đồng đội công tác tại đơn vị, trong đó có cả những đồng

đội nay đã nghỉ hưu tại quê hương; tổ chức tặng quà con em hội viên mắc bệnh hiểm nghèo, gia đình khó khăn; ngoài ra còn kể đến những

hoạt động thiện nguyện thường niên của Hội. Những hoạt động có ý nghĩa thiết thực đã được ghi nhận và khẳng định thông qua câu trả lời

phỏng vấn của Phó phòng Hậu cần - Kỹ thuật của học viện. Qua đó, góp phần tuyên truyền sâu rộng về công tác Hậu phương quân đội của

phòng, của học viện, khẳng định ý nghĩa của công tác này không chỉ tác động đến cán bộ, nhân viên học viện mà còn mang ý nghĩa cộng

đồng sâu sắc, xây dựng hình ảnh tốt đẹp trong lòng nhân dân.

  Ví dụ 2, tuyên truyền về chính sách trợ cấp, hỗ trợ cho các đối tượng quân nhân, công nhân viên quốc phòng, lao động hợp đồng

mắc bệnh hiểm nghèo, bệnh cần chữa trị dài ngày. Trong số báo 20894, ra ngày 08/6/2019, có bài “Hạnh phúc trong gian khó”. Đây là bài

phóng sự khắc họa gia đình quân nhân thuộc nhà máy Z113 (tỉnh Tuyên Quang), gia đình thuộc diện khó khăn, chồng nguyên là nhân viên

nhà máy nay đã nghỉ do tai nạn, vợ hiện vẫn đang công tác tại nhà máy. Là lao động duy nhất trong gia đình, một mình người vợ gồng gánh

nuôi con thơ và chăm sóc người chồng nay đã mất khả năng sinh hoạt. Nhưng nhờ sự giúp đỡ, tạo điều kiện của cơ quan, đơn vị, thường

xuyên tặng quà, thăm hỏi, động viên đã tạo nghị lực cho chị vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất. Giờ đây cuộc sống gia đình đã ổn

định, tiếp nối cha mẹ, cô con gái lớn cũng vừa tốt nghiệp cao đẳng, tham gia công tác tại nhà máy Z113, niềm vui nhân đôi khi cô em nhỏ

cũng vừa đỗ Đại học. Bài báo đã khắc họa rõ nét công tác chính sách của cơ quan nhà máy Z113 đối với gia đình nhân viên còn khó khăn,

“không để ai bị bỏ lại phía sau” là thông điệp được tuyên truyền. Chi tiết “Ban Công đoàn Quốc phòng đến thăm và tặng quà gia đình” đã

khẳng định chủ trương này không chỉ được nhà máy Z113 thực hiện mà còn được các cấp, các ngành đặc biệt chú trọng, quan tâm sâu sắc.

Ví dụ 3, tuyên truyền về chính sách đối với thân nhân, gia đình quân nhân đang thực hiện nhiệm vụ tăng cường các xã biên giới.

Trong số báo 20873, ra ngày 15/5/2019 có bài “Đưa “hậu phương” lên miền biên giới”. Phóng sự phản ánh về sự quan tâm, chăm lo của

36
Ban chỉ huy quân sự huyện Mường Nhé đối với cán bộ, nhân viên cơ quan. Hầu hết cán bộ, nhân viên tại đây đều từ các địa phương khác

đến công tác. Để anh, em yên tâm công tác, ban chỉ huy quân sự huyện đã phối hợp cùng chính quyền địa phương tạo điều kiện cấp đất ở,

hỗ trợ về chính sách, trợ giúp tìm kiếm việc làm cho thân nhân. Nhờ vậy đã xây dựng được lòng tin yêu bền vững của cán bộ, nhân viên từ

đó yên tâm “bám đất”, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh.

Nội dung tuyên truyền về công tác dân vận của LLVT

Ví dụ 1, số báo 21012, ra ngày 05/10/2019, có bài “Đồng hành, chăm lo đời sống người lao động”. Phóng sự phản ánh về công tác

dân vận của LLVT Binh đoàn 16. Binh đoàn 16 được phân bổ thành nhiều trung đoàn trên khắp các địa bàn, làm công tác xây dựng các khu

kinh tế kết hợp với quốc phòng, khu dân cư xã hội trên địa bàn vùng sâu, xa, miền núi, dân tộc dọc tuyến biên giới Tây Nam Tổ quốc thuộc

tỉnh Bình Phước và tỉnh Đắk Lắk (cũ). Bài báo phản ánh những việc làm thiết thực của LLVT binh đoàn, vừa kết hợp làm nhiệm vụ, vừa

làm tốt công tác dân vận khéo, tặng quà chính sách, giúp đỡ nhân dân trên địa bàn đóng quân. Qua đó tô thắm nét đẹp hình ảnh “Bộ đội cụ

Hồ” trong lòng nhân dân.

Ví dụ 2, số báo 21096, ra ngày 28/12/2019, có bài “Bộ đội chăm lo búp trên cành”. Đề cập đến hoạt động chăm lo học sinh nghèo

dân tộc thiểu số của cán bộ, chiến sĩ Đoàn kinh tế-Quốc phòng 778, Quân khu 7.

Ví dụ 3, số báo 21026, ra ngày 19/10/2019, có bài “Giúp học sinh nghèo có xe đạp đến trường”. Đề cập đến hoạt động chăm lo cho

học sinh nghèo thông qua mô hình “Xe đạp cho em” của cán bộ, nhân viên Ban CHQS huyện Quỳ Châu.

Chuyên mục: trong giai đoạn khảo sát, trên chuyên trang có 3 chuyên mục hoạt động thường xuyên:

         + Chuyên mục “Chiến sĩ viết”: Là những đoạn văn, tản văn có tính cá nhân cao. Với nội dung chủ yếu để khắc hoạ

tâm tư, tình cảm, những trải nghiệm của tác giả đối với một sự vật, hiện tượng hay một vấn đề nào đó. Tác giả ở đây đúng tư tiêu đề của

chuyên mục là những chiến sĩ tại ngũ.

Ví dụ 1, ở số 20804 ra ngày 9/3/2019, chuyên mục có bài “Nhớ hàng dâm bụt tuổi thơ”. Bài viết về loài cây dâm bụt là nhân chứng

cho từng chặng đường đời của tác giả, từ lúc thơ ấu đến khi lên đường nhập ngũ. Cho đến khi nhận được thư gửi từ gia đình rằng hàng cây

ấy sẽ bị phá dỡ để phục vụ cho việc xây dựng đường làng, ngõ xóm. Anh chiến sĩ vừa tiếc vừa thương, nhưng đó cũng là minh chứng cho

sự phát triển của quê hương, là động lực để tiếp bước đường đi tương lai trong anh.

Ví dụ 2, ở số 20832 ra ngày 6/4/2019, chuyên mục có bài “Lớp học dưới rừng thông xanh”. Bài viết kể về một ngày hành quân tập

luyện chiến đấu của một đơn vị. Tác giả miêu tả từ quang cảnh, hoạt động hành quân đến người thầy hướng dẫn. Lối viết bình dị, không có

nhiều hình ảnh miêu tả ẩn dụ, hoán dụ, nhưng chân thật, khắc hoạ rõ nét tâm tư, tình cảm của người chiến sĩ khi đi hành quân, khi nghe

giảng, khi được thực hành chiến đấu. Đến cuối là cảm giác tự hào và “chiến thắng” khi thực hiện thử thách. “Dưới rừng thông xanh” tác giả

37
cảm nhận được ý chí, bài học từ người thầy đã truyền đạt, hiểu được ý nghĩa của những khẩu hiệu thao trường từ đó quyết tâm học tập, rèn

luyện.

Có thể thấy chuyên mục được viết dưới góc nhìn của người chiến sĩ đang tại ngũ, lối viết thường là bình dị, dễ hiểu, miêu tả rõ nét

những tâm tư, tình cảm, của tác giả. Chuyên mục không mang nặng tính tuyên truyền mà từ những câu chuyện nhỏ đem đến ý nghĩa lớn.

Là nơi gửi gắm tâm sự, từ đó cho độc giả cái nhìn về cuộc sống trong quân ngũ, đồng thời là lời động viên chiến sĩ đang tại ngũ yên tâm

công tác.

+ Chuyên mục “Lời nhắn gửi”: ngược lại với chiến sĩ viết, chuyên mục này được trích, biên soạn từ lời nhắn của gia

đình, mang ý nghĩa thông báo, động viên tinh thần đình những chiến sĩ đang tại ngũ.

Ví dụ 1, ở số 20839 ra ngày 13/4/2019, chuyên mục có bài “Có thẻ bảo hiểm mẹ bớt lo”. Bài viết trích dẫn cụ thể tên, địa chỉ người

gửi và người nhận. Nội dung được nhắn là lời chia sẻ của người mẹ về việc được nhận hỗ trợ chính sách Bảo hiểm Y tế vì có con đang thực

hiện nghĩa vụ quân sự.

Ví dụ 2, ở số 20846 ra ngày 20/4/2019, chuyên mục có bài “Bố tin và luôn ủng hộ quyết định của con”. Bài viết trích dẫn cụ thể

tên, địa chỉ người gửi và người nhận. Nội dung được nhắn là lời chia sẻ, tâm sự của người bố về suy nghĩ của mình, đồng thời khẳng định

ủng hộ việc con trai viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ.

+ Chuyên mục “Tổ ấm”, là những bài viết tự sự, câu chuyện nhỏ về gia đình có thành viên đang phục vụ trong quân

đội.

Ví dụ, ở số 20936 ra ngày 20/7/2019, chuyên mục có bài “Âm nhạc gắn kết yêu thương” là câu chuyện về gia đình của một đồng

chí thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân.

Kết cấu về hình thức

Hình thức là biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung. Không có hình thức thì nội dung không có cơ sở tồn tại. Khi xét

chất lượng của chuyên trang hậu phương quân đội, ngoài việc xem xét về mặt nội dung, còn phải xem xét mặt hình thức bởi đây là hai yếu

tố có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ với nhau để tạo nên một trang báo hoàn chỉnh.

Trong tác phẩm báo chí, hình thức chính là tác động hợp thành của nhiều yếu tố gồm nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, các quy định

của thể loại, những biện pháp kết cấu và kỹ thuật trình bày. Nếu một bài viết tốt, có nội dung thông tin hay, hấp dẫn, lựa chọn thể loại phù

hợp, ngôn ngữ phổ biến, dễ hiểu và được trình bày một cách rõ ràng bắt mắt sẽ càng tăng lên giá trị của sản phẩm, tác động sâu sắc hơn đến

tình cảm, suy nghĩ của độc giả, khơi gợi cho độc giả hướng suy nghĩ theo hướng tích cực.

38
Kết cấu: Chuyên trang “Hậu phương của chúng ta” được xếp ở trang thứ 2, trình bày trọn vẹn trên khổ báo Quân đội nhân dân

hằng ngày, kích thước 420x594mm. Kết cấu thường thấy ở chuyên trang bao gồm: 1 bài chính cố định, 3 - 4 bài phụ/chuyên mục, cụm tin

vắn, tin sâu, tin/bài thời sự về công tác đảng, công tác chính trị (dẫn từ trang một).

+ Bài chính có tiêu đề lớn, nổi bật trên trang báo, số lượng từ 800-1200 từ, đảm bảo có ảnh minh họa. Bài chính được trình bày nổi

bật ở trên cùng, sát lề trái, chiếm 30% chuyên trang.

+ Tin, bài phụ được sắp xếp ngay dưới bài chính, không cố định vị trí. Tin, bài phụ thường có độ dài từ 500-800 chữ, không bắt

buộc có ảnh thể hiện.

+ Trong thời gian khảo sát, trên chuyên trang hiện có các chuyên mục: Chiến sĩ viết, Tổ ấm, Lời nhắn gửi. Các chuyên mục xuất

hiện được trình bày trong khung riêng có viền, có thể có ảnh, hoặc tranh vẽ minh họa đi cùng. Tên của từng chuyên mục được thể hiện

trong ô màu, xếp ở góc trên cùng bên cái khung chuyên mục. Vị trí của chuyên mục được đặt ngay dưới bài chính, không cố định tại một

chỗ trên trang báo. Số lượng từ <500 chữ.

+ Cụm tin vắn được xếp sát lề phải, theo khổ dọc, có thể kéo dài đến hết trang, tùy thuộc vào số lượng tin được tổng hợp. Cụm tin

được trình bày trong ô màu, để dễ dàng phân cách với các phần bài trong trang.

+ Tin/bài về công tác đảng – công tác chính trị được xếp ở cuối trang, thường chiếm khá nhiều diện tích chuyên trang.

Bên cạnh những bài phóng sự phản ánh, bài chính ở chuyên trang có thể là những tin sâu về một chương trình hay sự kiện tiêu

biểu diễn ra trong thời gian gần đây. 

Thể loại: Trong phạm vi khóa luận tôi không đề cập sâu phân tích về từng thể loại mà chủ yếu khảo sát các thể loại đã được sử

dụng ở chuyên trang. Qua khảo sát trong các loại thể: thông tấn, chính luận báo chí, thông tấn nghệ thuật, văn nghệ trên báo thì các tác

phẩm trên chuyên trang “Hậu phương của chúng ta” phần lớn thuộc thể loại thông tấn báo chí, cụ thể như sau:

Số lượng
Thể loại Tần suất xuất hiện
(35 số báo)

Tin  62 Xuất hiện trên tất cả các số báo

Bài phản ánh 63 Xuất hiện nhiều

Phỏng vấn 0 Không có

Phóng sự 0 Không có

39
Điều tra 0 Không có

Ghi nhanh 8 Xuất hiện ít

Gương điển hình 22 Xuất hiện nhiều

Tùy bút/
27 Xuất hiện nhiều (Chuyên mục “Chiến sĩ viết”)
Tản văn

Khác 9 Xuất hiện ít

Trung bình trong mỗi số báo có 4 tin + 2 bài

Bảng 2.2. Bảng khảo sát thể loại báo chí trên chuyên trang

“Hậu phương của chúng ta”

Nhìn vào bảng khảo sát có thể thấy thể loại sử dụng trong chuyên trang chủ yếu là tin, bài phản ánh, đây cũng là điều dễ hiểu bởi

đặc điểm của 2 thể loại này là thông tin sự kiện và vấn đề thời sự phù hợp với nội dung của chuyên trang.

Các bài phản ánh sử dụng trong chuyên trang với nhiều dạng phản ánh như: (Theo PGS.TS Đức Dũng) Phản ánh sự kiện, sự việc;

phản ánh về những quang cảnh, hiện trạng; phản ánh về các tình huống,vấn đề; phản ánh về người thật việc thật; phản ánh suy nghĩ, cảm

xúc…nó phản ánh những sự kiện, hiện tượng, vấn đề cụ thể trong hoạt động công tác hậu phương quân đội.

Ví dụ, số báo 20839, ra ngày 13/4/2019, có bài “Quan tâm chia sẻ thiết thực kịp thời”, phản ánh về việc thực hiện chính sách Bảo

hiểm y tế cho đồng đội của cán bộ, chiến sĩ Quân khu 4.

Ngoài ra, chuyên trang cũng thường sử dụng các bài ghi nhanh. Là phóng sự viết nhanh, nhằm phản ánh nhanh chóng kịp thời sự

kiện mới, liên quan đến dư luận và mang tính định hướng dư luận nhận thức đúng sự việc, sự kiện. Khác với phóng sự, ghi nhanh dừng ở

việc mô tả sự kiện chứ không đi sâu nghiên cứu để phân tích, bình luận sâu sắc vấn đề đặt ra của sự kiện. Bút pháp ghi nhanh có sự đan xen

linh hoạt giữa thông tin sự kiện nóng hổi kết hợp với mô tả sinh động cùng nhưũng nhận xét, phân tích ban đầu của sự kiện, sự việc đó.

Ví dụ 1, số báo 20747, ra ngày 05/1/2019, có bài “Kết nối những trái tim yêu thương”. Đây là Ghi nhanh về chương trình giao lưu

“Kết nối trái tim” được tổ chức bởi Sư đoàn 316 (Quân khu 2), thông tin cho độc giả về thời gian, nội dung chương trình, khắc họa đôi nét

về những người tham gia, sau đó có sự đánh giá từ phía lãnh đạo cơ quan đơn vị. Chương trình mang ý nghĩa hết sức đặc biệt, là giây phút

“giải lao” cho cán bộ, nhân viên, đồng thời cũng là hoạt động chính sách, chăm lo, động viên cho hậu phương của cán bộ, nhân viên cơ

quan, đơn vị.

40
Ví dụ 2, số báo 20922, ra ngày 06/7/2019, có bài “Nâng bước ước mơ cho con trẻ”. Đây là tin sâu về chương trình gặp mặt, tuyên

dương con em cán bộ nhân viên, người lao động có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong năm học 2018-2019 của Tổng Cục hậu cần. Chương

trình được diễn ra tại Bảo tàng hậu cần. Theo đó, tin đã khắc họa một vài đối tượng được nhận thưởng lần này, cùng với đó là ý kiến của

các em. Nhân chương trình này, lãnh đạo Tổng Cục đã trả lời phỏng vấn về công tác động viên, khen thưởng, chính sách hậu phương quân

đội của cơ quan đối với thân nhân, gia đình cán bộ, công nhân viên, người lao động đang công tác tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc Tổng

Cục.

Bên cạnh đó là các dạng bài viết tản văn/ tùy bút của chuyên mục “Chiến sĩ viết”, người viết dễ dàng mượn ngoại cảnh để thổ lộ

tâm tư của mình một cách có ý thức, có hệ thống, qua đó truyền tải đến người đọc niềm lạc quan, tin tưởng, có sức lay động lòng người

nhằm cổ vũ tinh thần và hành động để cuối cùng mang đến sự thuyết phục bằng cả lý lẽ và xúc cảm.

Tổ chức sản xuất chuyên trang

Hiện nay báo Quân đội nhân dân đã tối ưu hóa, thay đổi phương thức làm báo bằng “Giải pháp tòa soạn điện tử”. Phóng viên đi tác

nghiệp có thể chuyển thẳng bài viết của mình bao gồm cả hình ảnh, âm thanh, các đoạn video clip về tòa soạn qua môi trường Internet.

“Tòa soạn điện tử” là hệ thống phần mềm quản trị tòa soạn báo điện tử, trong đó việc quản trị nội dung được đặt lên hàng đầu, từ

các loại truyền thống như tin bài, chuyên mục cho tới các nội dung đa phương tiện. Ngoài ra, giải pháp tòa soạn báo điện tử còn có nhiều

tính năng được thiết kế đặc biệt bao gồm quy trình xuất bản động, chấm nhuận bút, tương tác độc giả (phản hồi, giao lưu trực tuyến, hỏi

đáp…) và quản lý phân quyền mạnh mẽ. Theo đó, quy trình sản xuất chuyên trang của báo Quân đội nhân dân được thể hiện như sau:

41
CỘNG
TÁC VIÊN
CÁN BỘ TRƯỞNG
PHỤ PHÒNG
TRƯỞNG TRÁCH CTĐ-CTCT
PHÓNG BAN ĐẠI TRANG Duyệt nội dung
VIÊN DIỆN
THƯỜNG
TRỰC
Duyệt nội
dung

NHÀ IN THƯ KÝ TÒA BAN BIÊN


Bản cuối được gửi
PHÁT HÀNH SOẠN TẬP
cho các ban đại diện
Kíp xuất bản báo Trực theo
in ấn tại nhà in tại
in, trực theo ngày tuần
chỗ.

HỌA SĨ

Hình 2.1. Mô hình tổ chức sản xuất chuyên trang

“Hậu phương của chúng ta”

Đứng đầu là Thủ trưởng cơ quan – Tổng Biên tập chịu trách nhiệm chung cả phần nội dung lẫn các công tác khác của tờ báo

(quảng cáo, hành chính, tổ chức - trị sự...), kế đến là 3 Phó Tổng Biên tập, trong đó có hai Phó Tổng Biên tập phụ trách các ấn phẩm báo in.

Nhờ đó, công việc trước hết từ trong ban lãnh đạo-Ban Biên tập đã có sự phân công rõ ràng, kể cả mạng nội dung cũng vì vậy mà có sự

phân chia, lãnh đạo và chỉ đạo công việc cụ thể, chuyên trách.

Phòng Thư ký toà soạn của tờ báo được chia thành từng kíp trực theo ngày, trong đó kíp trưởng mỗi ngày là Phó Phòng Thư ký toà

soạn, ngay sau đó là các phòng, ban thực hiện nội dung. Quy trình tổ chức sản xuất chặt chẽ thông qua hệ thống toà soạn điện tử. Quy trình

duyệt bài được phân cấp cụ thể, các bộ phận khác (ngay cả tổng biên tập hay phó tổng biên tập) đều không thể theo dõi phần công việc

không thuộc phạm vi phân quyền của mình.

Chuyên trang “Hậu phương của chúng ta” là một trang chuyên đề của Phòng Công tác Đảng - Công tác chính trị, Báo Quân đội

nhân dân hằng ngày. Chuyên trang hiện nay được Phòng Công tác Đảng-Công tác chính trị phân công cụ thể cho một cán bộ phòng phụ

trách. Theo đó, cán bộ phụ trách là người trực tiếp chịu trách nhiệm đảm bảo đủ số lượng và nội dung tin, bài được đăng tải trên trang báo. 

42
Cán bộ phụ trách lên kế hoạch tin, bài sẽ xuất bản trong tuần, sau đó đặt hàng cho các Ban đại diện, đồng thời đặt bài cho đội ngũ

cộng tác viên, hoặc tự sản xuất. Đối với những sự kiện đặc biệt, hoặc những vấn đề thời sự nóng hổi cần tuyên truyền, trưởng phòng sau

khi kết thúc giao ban với lãnh đạo cơ quan, sẽ quay trở lại bàn giao nhiệm vụ cho cán bộ phụ trách trang.

Tin, bài được cán bộ phụ trách trang đăng lên hệ thống N-4 ngày (N là ngày phát hành), sau đó trải qua các bước xét duyệt, biên

tập, dàn trang, in ấn, xuất bản và phát hành. Với trường hợp những tin, bài không được duyệt, .

+ Trường hợp bài viết thiếu thông tin, số liệu hay cần thay đổi cách diễn đạt. Để xử lý, tin, bài sẽ được đẩy trở lại theo phân cấp từ

cao xuống thấp. Cán bộ phụ trách chuyên trang có trách nhiệm liên hệ với nguồn thông tin (hoặc cộng tác viên) bổ sung thông tin, sửa lại

bài viết sao cho phù hợp với yêu cầu của toà soạn. Sau đó, tin, bài sẽ được đẩy lên lại hệ thống chậm nhất N-2 ngày.

+ Trường hợp tin, bài viết không được duyệt, bị xoá bỏ. Để bù lấp lại những tin, bài không được duyệt, thường thì cán bộ phụ

trách trang có kho “lương khô” trong hệ thống, thư ký toà soạn sẽ chọn lựa trực tiếp để đăng bài. Ngược lại nếu không còn bài dự trữ, cán

bộ phụ trách trang phải có tin, bài bù lấp, đăng tải lại trước ngày xuất bản N-1 ngày.

Nội dung sau khi được duyệt qua các cấp phòng, Thư ký tòa soạn, Ban biên tập, sẽ được trợ lý biên tập (thuộc phòng Thư ký tòa

soạn) phối hợp cùng họa sĩ thiết kế và dàn trang. Bản cuối được chuyển đến nhà in xuất bản (các ban đại diện sẽ nhận được bản mềm số

báo để in ngay tại chỗ) và sau đó phát hành theo hợp đồng.

Nguồn nhân lực

Trên thực tiễn cán bộ phụ trách trang chỉ có một đồng chí, thường trực tại trụ sở tòa soạn Hà Nội, mà tôn chỉ, mục đích của tòa

soạn là tuyên truyền, phản ánh công tác hậu phương quân đội trên cả nước. Chính vì vậy, nguồn nhân lực cung cấp tin, bài cho chuyên

trang là đội ngũ phóng viên thường trực tại các ban đại diện vùng miền. Tuy nhiên, quân số phóng viên thường trực trên cả nước cũng

không nhiều, chính vì vậy ngoài đội phóng viên cứng, tòa soạn cũng thường xuyên làm việc với cộng tác viên.

Ở mỗi tờ báo bên cạnh đội ngũ phóng viên - biên tập viên, còn có một lực lượng không nhỏ, đó là cộng tác viên. Những cộng tác

viên ấy được gọi là “cánh tay nối dài của báo chí”. Vì là người trong cuộc nên có những thông tin chi tiết, phản ánh kịp thời. Những tin bài

ấy phản ánh trung thực tình hình diễn ra ở địa phương, cơ sở, nhân lên những tấm gương bình dị trong cuộc sống cũng như phê phán những

thói hư tật xấu trong xã hội.

Hiện nay báo Quân đội nhân dân đã xây dựng được đội ngũ cộng tác viên khá đông đảo, được biết đến như là: Nhóm cộng tác viên

là cán bộ cơ quan chính trị tại các cơ quan, đơn vị trên toàn quân; Cộng tác viên đứng chuyên mục chiến sĩ viết (ví dụ như bút danh

Nguyễn Thế Lượng, Vũ Duy).

Ngoài ra báo Quân đội nhân dân còn có nhóm thông tin viên, là những người không tự viết bài mà thông tin về cho cán bộ phụ

trách/ phóng viên của tòa soạn về các sự kiện có liên quan quan đến công tác hậu phương quân đội để cán bộ phụ trách/ phóng viên triển

43
khai thực hiện nội dung. Có thể khẳng định nhờ nhóm thông tin viên này mà tòa soạn luôn có thông tin độc quyền trên mặt báo một cách

nhanh nhất, có giá trị lớn.

Đặc biệt đối với chuyên trang Hậu phương của chúng ta, thường xuyên có những tuyến bài đề cập đến gương điển hình tại cơ sở,

hay những tuyến bài trong chuyên mục “chiến sĩ viết”, “tổ ấm” đều là những bài viết dạng tự sự, tuỳ bút, được viết dưới góc nhìn của tác

giả đầy ắp tình cảm. Nhiều khi dưới ngòi bút của một nhà báo quen viết thể loại thông tấn thì khó có được những câu từ bay bướm, mà lại

mộc mạc, giản dị. Vì vậy từ lâu những bài viết tùy bút đăng trên báo Quân đội nhân dân đã ghi dấu ấn trong lòng độc giả.

Việc xây dựng đội ngũ cộng tác viên trở thành việc làm thường xuyên và liên tục của mỗi phóng viên.

Ví dụ số báo 20873 ra ngày 18/5/2019, có bài “Đưa hậu phương lên miền biên giới”. Bài viết đề cập đến chính sách hậu phương

quân đội đối với cán bộ, chiến sĩ đang thực hiện nhiệm vụ tại huyện Mường Nhé. Có thể thấy, tuy không có phóng viên thường trực tại các

tỉnh phía Bắc, nhưng cán bộ phụ trách trang có kết nối cùng cộng tác viên tại các quân khu, quân đoàn các tỉnh phía Bắc. Từ đó kịp thời

tuyên truyền đến bạn đọc những hoạt động từ các địa phương này.

Ưu điểm và hạn chế

Có thể nói đến thời điểm hiện tại báo Quân đội nhân dân là tờ báo áp dụng quy trình sản xuất hiện đại nhất so với các tòa soạn báo

chí khác của Bộ Quốc phòng. Chính từ quy trình chặt chẽ đó nên ấn phẩm Quân đội nhân dân hằng ngày nói chung và chuyên trang Hậu

phương của chúng ta nói riêng có kết cấu nội dung và hình thức chặt chẽ, chuyên nghiệp. Nội dung được phản ánh đa dạng, hình thức thể

hiện phong phú. Bên cạnh những bài phản ánh, tuyên truyền thông thường, trên báo đã có sự xuất hiện những thể loại khác như ghi nhanh,

tản văn/ tùy bút, và những chuyên mục có tính tương tác cao với độc giả (chuyên mục lời nhắn gửi). Bên cạnh đó hệ thống cộng tác viên

cũng được tổ chức khá hùng hậu, có quy trình quản lý chặt chẽ qua nhiều cấp nên đảm bảo được về tính trung thực, khách quan của nguồn

thông tin cũng như nội dung tuyên truyền.

Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những hạn chế nhất định. Nội dung vẫn xoay quanh việc tuyên truyền các mặt công tác nổi bật,

thành tích, chứ chưa xoáy sâu vào vấn đề, chưa có nhiều sự tương tác với độc giả, tính chiến đấu chưa cao. Về hình thức chuyên trang vẫn

còn bị chiếm nhiều “đất” cho phòng chủ quản (nhiều tin bài về Công tác Đảng - Công tác chính trị). Nhiều số báo phần nội dung chuyên đề

chỉ có một đến hai bài.

2.2.2 Thực trạng tổ chức sản xuất Chuyên trang Hậu phương Quân đội trên báo Quốc phòng Thủ đô

 Kết cấu về nội dung

Cũng giống như hầu hết các tờ báo khác, việc xác định nội dung tuyên truyền của số báo Quốc phòng Thủ đô được thực hiện tại

các cuộc họp giao ban chuyên môn diễn ra đều đặn vào khoảng sáng đầu tuần. Tuy nhiên khác với báo Quân đội nhân dân, báo Quốc phòng

Thủ đô hiện tại cơ cấu không có các Phòng, Ban chuyên môn, báo phân công các phóng viên phụ trách các chuyên trang, phụ trách theo dõi

44
các địa bàn và đơn vị trong phạm vi Hà Nội. Tại cuộc họp, nội dung đầu tiên là thư ký tòa soạn sẽ báo cáo về tình hình thực hiện các số báo

đã xuất bản, sơ bộ đánh giá số báo xuất bản trong tuần có lỗi gì không và rút kinh nghiệm nếu có các sai sót. Lãnh đạo báo – trực tiếp là

Tổng Biên tập sẽ cung cấp thông tin về tình hình thời sự đáng chú ý, sắp xếp các tin bài mà phóng viên sẽ thực hiện trong tuần, dự kiến giờ

sẽ nộp để Thư ký tòa soạn bố trí diện tích trang chờ. Trên cơ sở đó, Ban biên tập sẽ góp ý, đưa ra chỉ đạo về cách thức thực hiện, yêu cầu

về sự phối hợp giữa phóng viên ra sao.

Chuyên trang “Hậu phương quân đội” được giao chính cho hai đồng chí phóng viên luân phiên phụ trách về nội dung. Ở đây, nội

dung của chuyên trang cũng sẽ không thoát ly khỏi nguyên tắc tuyên truyền đúng tôn chỉ, mục đích của tờ báo, đảm bảo tính chính xác,

khách quan, trung thực. Đồng thời, đối tượng mà nội dung phản ánh trên chuyên trang được phân bổ đồng đều cho tất cả các cơ quan, đơn

vị trực thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, và LLVT Thủ đô. nội dung tập trung đúng, trúng vào những quy định về công tác Hậu phương

quân đội như đã nêu ở phần lý luận. Chính vì vậy, khi khảo sát, tác giả xin được chia các nội dung cần khảo sát trên chuyên trang “Hậu

phương quân đội” thành các hoạt động tuyên truyền, phản ánh của chuyên trang cụ thể như sau: Tuyên truyền các chủ trương của Đảng,

pháp luật của Nhà nước về Chính sách hậu phương quân đội; Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ quan, đơn vị

thuộc LLVT Thủ đô; Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn vị LLVT Thủ đô; Hoạt động của CCB và Hội CCB; Nêu gương tập thể, cá

nhân trong công tác chính sách.

Qua khảo sát số báo từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019 trên chuyên trang Hậu phương quân đội của báo Quốc phòng Thủ đô:

Nội dung tuyên truyền, phản ánh 72 Tin 149 Bài Ghi chú

Tuyên truyền các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước 22 9

về Chính sách hậu phương quân đội 30% 6%

Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ 17 17

quan, đơn vị thuộc LLVT Thủ đô 24% 11%

20 26
Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn vị LLVT Thủ đô
28% 17%

7 52
Hoạt động của CCB và Hội CCB
10% 35%

16
Nêu gương tập thể, cá nhân trong công tác chính sách 0
11%

45
6 29
Khác
8% 20%

Bảng 2.3: Thống kê nội dung tuyên truyền trên chuyên trang

“Hậu phương quân đội”

Dựa vào bảng khảo sát, có thể số lượng tin, bài về nội dung Tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước về Chính sách hậu phương quân đội còn ít, nhưng đó là các bài chuyên sâu về chủ trương, chính sách hay pháp luật cụ thể về công tác

quốc phòng quân sự địa phương, còn gần như tất cả các tin bài trên chuyên trang nói riêng đều đề cấp đến vấn đề chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác hậu phương quân đội, chính sách hậu phương quân đội dưới nhiều hình thức

  Ví dụ 1, số ra ngày 30/7/2019 có bài “Quan tâm, chăm lo tốt cho gia đình chính sách, người có công”. Bài viết nêu bật những chủ

trương, chính sách của Bộ Tư lệnh thủ đô Hà Nội trong phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ và

người có công với cách mạnh”. Với những việc làm cụ thể chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng chính sách, đã thể hiện

lòng biết ơn, sự tôn vinh của Đảng, Nhà nước và nhân dân Thủ đô đối với người có công, góp phần làm giàu truyền thống nhân văn của

dân tộc.

Ví dụ 2, số ra ngày 06/8/2019, có bài “Tăng cường vốn ủy thác qua Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội”. Bài viết tuyên

truyền về chính sách mới của Thành phố Hà Nội. Theo đó, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Công văn số 3270/UBND-KGVX về việc

tăng cường nguồn vốn ủy thác qua Chi nhánh ngân hàng Chính sách xã hội thành phố cho vay đối tượng chính sách trên địa bàn thành phố

Hà Nội.

Ví dụ 3, số ra ngày 10/9/2019 có bài “Đào tạo nghề cho 350 thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, công an, thanh niên tình

nguyện”, thông tin đến độc giả về chính sách mới của Thành phố. Theo đó Uỷ ban nhân dân Thành phố đã ban hàng kế hoạch số 194/KH-

UBND triển khai công tác đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện, góp phần

ổn định đời sống, phát triển kinh tế trên địa bàn Thành phố.

- Có thể thấy, tuyến tin, bài về Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách và Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn

vị thuộc LLVT Thủ đô chiếm phần nhiều về mặt nội dung. Nội dung này thường là dạng bài lớn, đi đúng hướng tôn chỉ, mục đích của tờ

báo, góp phần tô thắm hình ảnh “bộ đội cụ Hồ”, giúp độc giả có cái nhìn sâu sắc hơn về những hoạt động của LLVT Thủ đô.

Ví dụ 1, số ra ngày 11/1/2019 có bài “Ban CHQS huyện Phúc Thọ: Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội”. Bài viết phản

ánh việc thực hiện có hiệu quả công tác chính sách tại Ban CHQS huyện Phúc Thọ. Đặc biệt trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

đã ghi được nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh đó, tổ chức nhiều hoạt động tri ân người có công, “đền ơn đáp nghĩa”, chi trả chế độ chính

sách theo quyết định 49, 62, 142 của Thủ tướng Chính phủ cho các đối tượng chính sách trên địa bàn.

46
Ví dụ 2, số ra ngày 08/3/2019 có bài “Ban CHQS thị xã Sơn Tây và các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn: Phối hợp giữ

vững an ninh chính trị địa bàn”. Bài phản ánh về việc phối hợp giữa Ban CHQS thị xã Sơn Tây và các đơn vị quân đội đóng quân trên địa

bàn thực hiện có hiệu quả công tác dân vận trên địa bàn thị xã Sơn Tây: huy động lực lượng tham gia ứng trực các ngày lễ lớn, hiệp đồng

phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, tổ chức các phong trào dân vận, kết hợp thực hiện chính sách “Đền ơn đáp nghĩa”... Những kết

quả tích cực đã khẳng định vai trò của LLVT trên địa bàn, từ đó xây dựng được hình ảnh tốt đẹp trong lòng nhân dân.

Ví dụ 3, số báo ra ngày 24/5/2019 có bài “Ban CHQS huyện Thanh Oai: Khắc sâu dạo lý “Uống nước nhớ nguồn””. Bài viết phản

ánh về công tác chính sách hậu phương quân đội của Ban CHQS huyện Thanh Oai thông qua hoạt động cấp phát thuốc, khám bệnh miễn

phí cho đối tượng chính sách trên địa bàn huyện. Nội dung đi sâu vào những kết quả đã đạt được trong công tác chính sách của huyện năm

2018, phương hướng nhiệm vụ năm 2019 của cơ quan. Từ đó khắc sâu chủ trương lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của Ban CHQS huyện đặc

biệt chú trọng, giữ gìn truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đến từng cán bộ, nhân viên, từ đó dựng xây hình ảnh “bộ đội cụ Hồ”

trong lòng nhân dân.

- Công tác CCB, Hội CCB chiếm đến 52% nội dung chuyên trang (trong thời gian khảo sát) thường xuyên được tuyên truyền,

phản ánh trên chuyên trang.

Ví dụ 1, số báo ra ngày 15/10/2019 có bài “Hội CCB huyện Phú Xuyên: Tỏa sáng tinh thần kiên trung, gương mẫu”. Bài viết đề

cập đến những hoạt động, thành tích của Hội CCB huyện Phú Xuyên trong năm 2019.

Ví dụ 2, số báo ra ngày 06/8/2019 có bài “Hiệu quả từ phong trào CCB gương mẫu ở huyện Ba Vì”. Phong trào thi đua “CCB

gương mẫu” đã trở thành động lực lớn thúc đẩy hội viên Hội CCB huyện Ba Vì phát huy truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, tiếp tục phát huy,

cống hiến trí tuệ và sức lực góp phần xóa đói, giảm nghèo , xây dựng quê hương ngày càng phát triển.

- Đồng thời trên chuyên trang cũng thường xuyên tuyên truyền các nội dung khác: xây dựng nông thôn mới tại các địa phương

thuộc thành phố Hà Nội; chủ trương, chính sách của Thành phố về công tác đời sống nhân dân trên địa bàn. Ví dụ:

+ Số ra ngày 12/7/2019 có bài “Huyện Thanh Oai đẩy nhanh tiến độ về đích Nông thôn mới”

+ Số ra ngày 09/8/2019 có bài “Ba Vì nỗ lực xây dựng Nông thôn mới”

+ Số ra ngày 16/8/2019 có bài “Đổi thay từ xây dựng Nông thôn mới ở Kim Sơn”

Kết cấu về hình thức

Trong tác phẩm báo chí, hình thức chính là tác động hợp thành của nhiều yếu tố gồm nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, các quy định

của thể loại, những biện pháp kết cấu và kỹ thuật trình bày. Nếu một bài viết tốt, có nội dung thông tin hay, hấp dẫn, lựa chọn thể loại phù

hợp, ngôn ngữ phổ biến, dễ hiểu và được trình bày một cách rõ ràng bắt mắt sẽ càng tăng lên giá trị của sản phẩm, tác động sâu sắc hơn đến

tình cảm, suy nghĩ của độc giả, khơi gợi cho độc giả hướng suy nghĩ theo hướng tích cực.

47
- Kết cấu: Chuyên trang “Hậu phương quân đội” được xếp ở trang thứ 9, trình bày trọn vẹn trên khổ báo Quốc phòng Thủ đô. Kết

cấu thường thấy ở chuyên trang bao gồm: kết cấu một: 1 bài chính, 2-3 tin thời sự; hoặc kết cấu hai: 2 bài tương đương.

Kết cấu một

+ Bài chính có tiêu đề lớn, nổi bật trên trang báo, số lượng từ 800-1500 từ, đảm bảo có ảnh minh họa. Bài chính chiếm từ 50%-

60% trang báo

+ Tin, tin thời sự được sắp xếp không cố định vị trí. Tin, tin thời sự thường có độ dài từ 200-500 chữ, không bắt buộc có ảnh thể

hiện.

Kết cấu hai

Kết cấu này có 2 bài tương đương nhau trên một mặt báo, số lượng từ 800-1500 từ, đảm bảo có ảnh minh họa. Cả hai bài đều được

trình bày nổi bật như nhau, không có sự khác biệt về hình thức thể hiện.

- Thể loại: Trong phạm vi khóa luận tôi không đề cập sâu phân tích về từng thể loại mà chủ yếu khảo sát các thể loại đã được sử

dụng ở chuyên trang. Qua khảo sát trong các loại thể: thông tấn, chính luận báo chí, thông tấn nghệ thuật, văn nghệ trên báo thì các tác

phẩm trên chuyên trang “Hậu phương quân đội” cụ thể như sau:

Số lượng
Thể loại Tần suất xuất hiện
(số báo)

Tin  72 Xuất hiện nhiều

Bài phản ánh 128 Xuất hiện trên tất cả các số báo

Phỏng vấn 0 Không có

Phóng sự 0 Không có

Điều tra 0 Không có

Ghi nhanh 2 Xuất hiện ít

Gương điển hình 16 Xuất hiện nhiều

Tùy bút/
3 Xuất hiện ít
Tản văn

Trung bình trong mỗi số báo có 1 tin + 2 bài

48
Bảng 2.4: Khảo sát thể loại báo chí trên chuyên trang

“Hậu phương quân đội”

Nhìn vào bảng khảo sát có thể thấy thể loại sử dụng trong chuyên trang chủ yếu là tin, bài phản ánh, đây cũng là điều dễ hiểu bởi

đặc điểm của 2 thể loại này là thông tin sự kiện và vấn đề thời sự phù hợp với nội dung của chuyên trang.

Các bài phản ánh sử dụng trong chuyên trang với nhiều dạng phản ánh như: Phản ánh sự kiện, sự việc; phản ánh về những quang

cảnh, hiện trạng; phản ánh về các tình huống,vấn đề; phản ánh về người thật việc thật; phản ánh suy nghĩ, cảm xúc…nó phản ánh những sự

kiện, hiện tượng, vấn đề cụ thể trong hoạt động công tác hậu phương quân đội.

Ví dụ 1, số ra ngày 14/1/2019 có bài “Thắm tình đoàn kết quân dân”. Bài phản ánh về công tác dân vận của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà

Nội năm 2018.

Ví dụ 2, số ra ngày 27/8/2019 có bài “Nỗ lực chăm sóc sức khỏe thương, bệnh binh”. Bài phản ánh quá trình hình thành và phát

triển của Trung tâm điều dưỡng thương binh Duy Tiên (tỉnh Hà Nam), bên cạnh đó là những hoạt động và thành tích đã đạt được của trung

tâm trong suốt thời gian vừa qua.

Ví dụ 3, số ra ngày 03/9/2019 có bài “Ban CHQS huyện Đông Anh: Tham mưu thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội”

thông tin cho độc giả những kết quả, thành tích đã đạt được công tác hậu phương quân đội của Ban chỉ huy quân sự huyện Đông Anh trong

năm. Qua đó phản ánh việc nỗ lực tham mưu cho chính quyền địa phương của ban chỉ huy quân sự huyện thực hiện có hiệu quả công tác

chính sách hậu phương quân đội.

Dạng bài viết về gương điển hình cũng được tận dụng tối đa khi đưa vào khai thác trên chuyên trang. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi

nói về nhân tố mới, điển hình tiên tiến thường diễn đạt dưới hình tượng cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ - gương “người tốt, việc tốt”. Nhân tố mới,

gương điển hình tiên tiến không tự nhiên hình thành, mà là kết quả của quá trình lao động sáng tạo, tích tụ học hỏi không ngừng, đấu tranh

quyết liệt với cái cũ kỹ, lạc hậu, với sức ỳ cố hữu, mà mỗi con người phải biết cách vượt lên để phát triển. Chính vì vậy, báo chí không chỉ

dừng lại ở phản ánh, mà cao hơn phản ánh là định hướng tư tưởng thông qua biểu dương những nhân tố mới, gương điển hình tiên tiến để

giúp mọi người nhận thấy giá trị của hành động tốt đẹp mà tiếp tục phấn đấu. Từ đó, những bài về “Gương điển hình” hay “Gương người

tốt-việc tốt” đã trở thành một thể loại báo chí mới.

Ví dụ 1, số báo ra ngày 02/7/2019, có bài “Người mẹ bước ra từ câu chuyện cổ tích”, khắc họa chân dung một người mẹ nghèo có

con trai chết não. Vượt qua nỗi đau tột cùng, người mẹ ấy đã dũng cảm hiến mô, tạng của con trai mình để ghép cho 5 người khác. Bài viết

khắc họa hoàn cảnh gia đình của người mẹ, cùng với đó là những người may mắn được nhận hiến mô, tạng. Tấm gương được phóng viên

49
khai thác từ thông tin của Bệnh viện Quân y 103, câu chuyện không tìm kiếm sự cảm thông từ độc giả, mà mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc

về tấm lòng của một người mẹ với tâm nguyện “cho đi là còn mãi”.

Ví dụ 2, số báo ra ngày 12/7/2019 có bài “Ông Sỹ âm thầm chăm sóc nghĩa trang liệt sỹ quê nhà”, khắc họa chân dung một người

CCB ở Ba Vì. 11 năm âm thầm chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ quê nhà, nhiều vất vả khó khăn, không được nhận bất cứ hỗ trợ nào nhưng ông

không chùn bước. Bởi với ông đó là niềm tự hào và là trách nhiệm của mỗi người dân đối với những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập

tự do của Tổ quốc.

Một số thể loại khác như phóng sự, phỏng vấn, điều tra đều không xuất hiện trên chuyên trang. Các thể loại ghi nhanh, tản văn/ tùy

bút có xuất hiện nhưng rất ít so với tổng số báo xuất bản.

Tổ chức sản xuất chuyên trang

Như đã nói ở trên, hiện nay báo Quốc phòng Thủ đô cơ cấu không có các Phòng, Ban chuyên môn. Báo phân công các Phóng viên

phụ trách các chuyên trang, phụ trách theo dõi các địa bàn và đơn vị trong phạm vi Hà Nội.

Theo đó, hàng tuần vào sáng thứ hai, cơ quan tổ chức giao ban phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng phóng viên. Đầu mục công

việc của từng trang là cố định, bên cạnh đó có bảng phân công công việc hàng ngày. Từ đó, phóng viên theo dõi được lượng công việc của

mình, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.

50
Hình 2.2. Mô hình tổ chức sản xuất báo in báo Quốc phòng Thủ đô

Đứng đầu là Tổng Biên tập chịu trách nhiệm chung cả phần nội dung lẫn các công tác khác của tờ báo (quảng cáo, hành chính, tổ

chức - trị sự...), kế đến là hai Phó Tổng Biên tập phụ trách công tác hành chính và sản xuất báo in. Nhờ đó, công việc trước hết từ trong ban

lãnh đạo đã có sự phân công rõ ràng, kể cả mảng nội dung cũng vì vậy mà có sự phân chia, lãnh đạo và chỉ đạo công việc cụ thể, chuyên

trách.

Phóng viên đăng ký đề cương tuần với Phó Tổng biên tập phụ trách báo in, chuyển về Thư ký tòa soạn góp ý và ban hành vào buổi

giao ban cơ quan sáng thứ 2 hàng tuần. Bài, ảnh của phóng viên, cộng tác viên chuyển về tòa soạn hàng ngày được Thư ký chọn lọc chuyển

cho biên tập viên. Biên tập viên trực xử lý tin, bài chuyển lại cho Thư ký tòa soạn duyệt và thiết kế dàn trang.

Thư ký tòa soạn dựa trên quỹ bài tổ chức maket số báo trước 2 ngày, để trống các khung tin, bài thời sự (hoặc có thể thay thế các

bài cần thiết cho phù hợp dòng thời sự chủ lưu tùy chỉ đạo của Ban Biên tập sau phiên họp vào 8 giờ sáng hàng ngày).

Tin, bài được phóng viên, cộng tác viên gửi về toà soạn trước xuất bản hai ngày. Trường hợp tin, bài không được duyệt, Thư ký

toà soạn sẽ làm việc trực tiếp với phóng viên phụ trách, góp ý và yêu cầu cần bổ sung hay chỉnh sửa tuỳ vào chất lượng bài viết. Phóng viên

ngay lập tức sửa bài và gửi lại muộn nhất trước xuất bản 1 ngày. Trường hợp bài viết có chất lượng quá kém, hoặc có hướng đi không phù

hợp, cần phải xoá bỏ, khi đó Thư ký toà soạn sử dụng kho “lương khô” đã được đặt hàng từ trước. Trong trường hợp số lượng lương khô

không còn, hoặc bài Thư ký toà soạn bắt buộc phải sử dụng phương án tình thế bằng cách đăng lấp lỗ hổng bằng những tin tức đời sống, xã

hội.

Ví dụ số báo ra ngày 22/10/2019, có tin “Các mẫu nước sạch sông Đà xét nghiệm đạt chuẩn về Styren”, phần tin liên quan đến đời

sống-xã hội, cụ thể ở đây là Sở Y tế Hà Nội báo cáo về kết quả kiểm tra chất lượng nước sạch của Nhà máy Nước sông Đà . Đây là tin được

sưu tầm theo dòng thời sự xã hội, không có liên quan đến nội dung của chuyên trang hậu phương quân đội. Tuy nhiên để lấp khoảng trống

trên trang, Thư ký toà soạn bắt buộc phải sử dụng những dạng tin này để thay thế cho phần lỗ hổng, vẫn đảm bảo tin có tính thời sự, không

xa rời tôn chỉ, mục đích của toàn soạn.

Nguồn nhân lực

Hiện nay, quân số của báo Quốc phòng Thủ đô là 15 đồng chí, trong đó có 3 đồng chí thuộc Ban Biên tập, 1 đồng chí Thư ký tòa

soạn, 2 đồng chí công tác hành chính trị sự, 1 đồng chí phụ trách kỹ thuật hậu kỳ truyền hình, số lượng phóng viên thực chiến là 8 đồng chí.

Phóng viên được phân bổ đồng đều phụ trách theo chuyên trang. Tuy nhiên trên thực tế, khi phân công nhiệm vụ phóng viên không chỉ phụ

trách đúng chuyên trang mà còn đảm nhiệm các sự kiện, hoặc bám theo hoạt động của thủ trưởng cơ quan, đơn vị (cụ thể là Thủ trưởng Bộ

51
Tư lệnh), số lượng thực chiến tưởng nhiều nhưng để gắn bó sâu sát với địa phương là chưa có. Chính vì vậy phối hợp với cộng tác viên là

điều cần thiết.

Có thể thấy hầu hết trên tất cả các chuyên trang Hậu phương quân đội đều có sự xuất hiện của một bài (thậm chí là hai bài) về

CCB, Hội CCB. Báo Quốc phòng Thủ đô xây dựng được mối quan hệ gắn kết với Báo CCB Thủ đô, phóng viên hai bên thường xuyên có

cơ hội giao lưu và trao đổi chuyên môn cũng như sản phẩm báo chí với nhau. Bài đăng được Thư ký toà soạn đặt hàng với cộng tác viên

(Báo CCB Thủ đô) trước 1 tuần, bài gửi về cho toà soạn trước 2 ngày xuất bản, trải qua các công đoạn và cấp duyệt nội dung theo đúng

trình tự.

Ưu điểm và Hạn chế

Báo Quốc phòng Thủ đô đã có sự phân chia chuyên trang cụ thể. Nội dung, hình thức trên chuyên trang về cơ bản đáp ứng đúng

tôn chỉ mục đích của tòa soạn. Bộ máy tổ chức sản xuất báo Quốc phòng Thủ đô tuy còn đơn giản, số lượng nhân lực còn ít nhưng trước

mắt đã có quy trình sản xuất ổn định, đảm bảo được số lượng và chất lượng đầu ra của tờ báo.

Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn một vài điểm hạn chế. Khi khảo sát có thể thấy nội dung trên chuyên trang nhiều khi đang quá

nghiêng về một nội dung nhất định, chưa có sự phân bổ đồng đều cho các nội dung khác. Hình thức thiết kế, dàn tin bài trên chuyên trang

chưa có sự sáng tạo, vẫn đi theo mô hình bài truyền thống một tin bài, một ảnh. Số lượng trang có kết cấu hai bài lớn còn nhiều, không hấp

dẫn được độc giả.

Khi phân công phóng viên chuyên trách cho chuyên trang thì dễ dẫn đến việc các bài báo phong cách viết lặp đi lặp lại, thiếu sự

sáng tạo về đề tài khai thác. Thể hiện rõ nét qua cách thể hiện thông tin qua cách lựa chọn thể loại. Hầu hết là bài báo phản ánh, các thể loại

khác ít xuất hiện hoặc không xuất hiện.

Bên cạnh đó, ngoài nhóm cộng tác viên thường xuyên đứng trang, thì báo Quốc phòng Thủ đô vẫn chưa xây dựng được đội ngũ

cộng tác viên ngoài ngành, cũng như chưa có nhóm thông tin viên độc quyền của tòa soạn.

2.2.3 Thực trạng tổ chức sản xuất Chuyên trang Hậu phương Quân đội trên báo Quân khu 2

Giống như hầu hết các tờ báo cấp Quân khu, Quân đoàn, Binh chủng, Quân chủng, báo Quân khu 2 hiện tại cơ cấu không có các

Phòng, Ban chuyên môn, báo phân công các Phóng viên phụ trách theo dõi các địa bàn và đơn vị trong phạm vi 9 tỉnh thuộc Quân khu 2.

Tại cuộc họp, nội dung đầu tiên là thư ký tòa soạn sẽ báo cáo về tình hình thực hiện các số báo đã xuất bản, sơ bộ đánh giá số báo xuất bản

trong tuần có lỗi gì không và rút kinh nghiệm nếu có các sai sót. Lãnh đạo báo – trực tiếp là Tổng Biên tập sẽ cung cấp thông tin về tình

hình thời sự đáng chú ý, sắp xếp các tin bài mà phóng viên sẽ thực hiện trong tuần, dự kiến giờ sẽ nộp để Thư ký tòa soạn bố trí diện tích

trang chờ. Trên cơ sở đó, Ban biên tập sẽ góp ý, đưa ra chỉ đạo về cách thức thực hiện, yêu cầu về sự phối hợp giữa phóng viên ra sao.

52
Báo in Quân khu 2 hiện nay được xuất bản dưới dạng tuần báo, phát hành vào thứ 5 hàng tuần, báo in có 8 trang không phân chia

chuyên trang. Trong quá trình khảo sát, khi đặt câu hỏi về vấn đề chia chuyên trang trên báo in Quân khu 2, Thư ký tòa soạn đã chia sẻ:

Trên thực tế, địa bàn 9 tỉnh do Quân khu 2 quản lý rất rộng lớn, mà đối với báo Quân khu 2 nói riêng thời lượng xuất bản ít 1 tuần một số,

đất để trình diễn tin, bài thì không nhiều chỉ có 8 mặt báo, chính vì vậy ngay từ khi xuất bản số báo đầu tiên Ban Biên tập đã thống nhất

không phân chia chuyên trang. Thay vào đó, tòa soạn đăng tin, bài có tính chất thời sự, tuyển chọn những sự kiện, bài viết điển hình nhất,

nổi bật nhất, đáp ứng đúng tôn chỉ, mục đích của báo Quân khu 2.

Ví dụ, khảo sát các số báo trong tháng 1 năm 2019, đây là dịp cận Tết Nguyên đán, các cơ quan, đơn vị thường đẩy mạnh hoạt

động về công tác hậu phương quân đội. Nắm chắc tình hình tại các cơ quan, đơn vị thuộc Quân khu, các số báo 1023, 1024, 1025 (3 kỳ báo

tháng 1) tập trung tuyên truyền rõ nét các hoạt động liên quan đến chính sách hậu phương quân đội, công tác dân vận trên địa bàn.

- Số báo 1023 ra ngày 03/1/2019.

Theo cuốn “Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in” của PGS. TS Hà Huy Phượng “Để có thể chuyển tải thông tin rõ ràng

và ngay lập tức, trang Nhất phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc về cấp độ. Trong mỗi trang Nhất luôn có một chủ đề chính, được đặt trên

nhiều cột, làm nổi bật với tít in bằng cỡ chữ to, hình ảnh minh họa lớn và thường được đặt cao hơn các chủ đề khác”. Khi "quy hoạch"

trang Nhất, Ban Biên tập báo Quân khu 2 dành riêng cho những bài nổi bật, phần diện tích cho tin dẫn nhập vào bài chiếm 30% trang báo,

nằm sát chân trang, nổi bật bởi ảnh lớn và tít chữ to màu sắc.

Tại số báo này, trang nhất có 4 tin dẫn nhập vào các tin, bài công tác hậu phương quân đội: “Truy điệu và an táng hài cốt liệt sĩ”;

“Gặp mặt cán bộ cao cấp Quân đội nghỉ hưu, nghỉ công tác trên địa bàn”; “Sơ kết thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và Đề án

xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin”; Tuyến bài nổi bật “Đón các Anh về ấm lòng đất Mẹ. Bài 1: Hành trình đón các anh về”. Đồng

thời trong số báo này các tin, bài liên quan đến công tác hậu phương quân đội, công tác dân vận cũng xuất hiện với tần suất nhiều: 5 tin, 4

bài.

- Số báo 1024 ra ngày 10/1/2019. Tại trang nhất số báo khảo sát có 2 tin dẫn nhập “Bộ CHQS tỉnh Vĩnh Phúc: Bàn giao nhà tình

nghĩa tại huyện lập thạch”; tuyến bài “Đón các Anh về ấm lòng đất Mẹ. Bài 2: Những ngôi nhà ấm tình đồng đội” với tít chữ, ảnh lớn nổi

bật. Đồng thời trong số báo này các tin, bài liên quan đến công tác hậu phương quân đội, công tác dân vận cũng xuất hiện với tần suất

nhiều: 2 tin, 3 bài, 1 gương điển hình.

Có thể nói, tuy không chia chuyên trang cụ thể, nhưng nhìn chung trên báo Quân khu 2 những nội dung về công tác Hậu phương

quân đội vẫn được tòa soạn quan tâm và tuyên truyền theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng; nguyên tắc tuyên

truyền đúng tôn chỉ, mục đích của tờ báo, đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực. Đồng thời, đối tượng mà nội dung phản ánh trên

chuyên trang được phân bổ đồng đều cho tất cả các cơ quan, đơn vị trực thuộc Quân khu 2, và LLVT thuộc 9 tỉnh Quân khu 2. Nội dung

53
tập trung đúng, trúng vào những quy định về công tác Hậu phương quân đội như đã nêu ở phần lý luận: Tuyên truyền các chủ trương của

Đảng, pháp luật của Nhà nước về Chính sách hậu phương quân đội; Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ quan, đơn

vị thuộc LLVT Quân khu 2; Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn vị LLVT Quân khu 2; Hoạt động của CCB và Hội CCB; Nêu gương

tập thể, cá nhân trong công tác chính sách.

Qua khảo sát 41 số báo từ tháng 1 đến tháng 12/2019 trên báo Quân khu 2

Nội dung tuyên truyền, phản ánh 42 Tin 73 Bài Ghi chú

Tuyên truyền các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về 5 6

Chính sách hậu phương quân đội 12% 8%

Tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách tại cơ quan, 20 14

đơn vị thuộc LLVT Quân khu 2 48% 19%

12 39
Hoạt động dân vận của các cơ quan, đơn vị LLVT Quân khu 2
28% 50%

3 6
Hoạt động của CCB và Hội CCB
7% 8%

3
Nêu gương tập thể, cá nhân trong công tác chính sách 0
4%

2 5
Khác
5% 7%

Bảng 2.5. Bảng khảo sát số lượng tin, bài có nội dung về công tác hậu phương quân đội trên báo Quân khu 2

- Sau khi khảo sát, có thể số lượng tin, bài về nội dung Tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

về Chính sách hậu phương quân đội còn ít, nhưng đó là các bài chuyên sâu về chủ trương, chính sách hay pháp luật cụ thể về công tác hậu

phương quân đội, còn gần như tất cả các tin bài trên chuyên trang nói riêng đều đề cập đến vấn đề chủ trương, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước về công tác hậu phương quân đội, chính sách hậu phương quân đội dưới nhiều hình thức:

+ Giải đáp, tìm hiểu pháp luật. Ví dụ, số báo 1064 tháng 11/2019 có bài “Chính sách đối với các đối tượng công tác ở vùng đặc

biệt khó khăn”. Nằm trong chuyên mục “Pháp luật và đời sống”, bài viết cung cấp cho độc giả thông tin về Nghị định số 76/2019/NĐ-CP

của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ

trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

+ Bài tuyên truyền.

54
Ví dụ 1, số báo 1030 kỳ 4 tháng 2/2019 có bài “Công trình thắm tình anh em”. Thông qua việc bàn giao, khánh thành các công

trình xây dựng mà Quân khu 2 đã giúp đỡ thực hiện trên địa bàn các tỉnh Bắc Lào, bài viết đã phản ánh chính sách hữu nghị đoàn kết giữa

Quân khu 2 và một số đơn vị Quân đội nơi đây, qua đó tô thắm mối quan hệ tốt đẹp giữa 2 đất nước.

Ví dụ 2, số báo 1057 kỳ 3 tháng 9/2019 có bài “Thẩm định chặt chẽ, đảm bảo dân chủ, công khai, công bằng”. Bài báo tuyên

truyền về việc thực hiện Quyết định 49 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn Quân khu 2. Theo đó từ khi nhận Quyết định, Bộ Tư lệnh

Quân khu 2 đã ban hành nhiều Chỉ thị, kế hoạch, cũng như hướng dẫn để thực hiện xét duyệt hồ sơ cho các đối tượng chính sách đảm bảo

dân chủ, công khai, công bằng. Nhờ đó, việc thực hiện chi trả chế độ cho đối tượng chính sách theo Quyết định 49 của Thủ tướng Chính

phủ đã đạt được những kết quả tích cực. Đồng thời bài báo cũng tuyên truyền về phương hướng, nhiệm vụ của Quân khu trong thời gian

tới, với quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Các nội dung liên quan đến công tác dân vận trên địa bàn quân khu cũng được đặc biệt chú trọng, khai thác triệt để, chiếm đến

48% nội dung trên tổng số bài đã xuất bản tại các số báo.

Ví dụ 1, số báo 1042 kỳ 4 tháng 5/2019 có bài “LLVT huyện Lục Yên chung sức xây dựng nông thôn mới”. Nội dung đề cập đến

phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng NTM” tại huyện Lục Yên. Khắc họa những chủ trương, hoạt động của LLVT nơi đây,

đồng thời nêu bật những kết quả và thành tích đạt được trong thời gian qua. Qua đó khẳng định vai trò của LLVT huyện trong công tác

giúp đỡ nhân dân, làm nòng cốt góp phần xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã

hội của địa phương.

Ví dụ 2, số báo 1044 kỳ 2 tháng 6/2019 có bài “Đoàn 379 chắp cánh ước mơ đến trường”. Bài báo phản ánh công tác dân vận của

Đoàn Kinh tế - Quốc phòng (Đoàn 379) thông qua việc giúp đỡ, đầu tư xây dựng trường mầm non tại xã Ma Thì Hồ, huyện Mường Chà,

tỉnh Điện Biên. Không chỉ đầu tư xây dựng, Đoàn 379 đã phối hợp cùng chính quyền địa phương chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất, vật

dụng, đồ chơi dạy học cho cô và trò nơi đây. Hành động nhỏ mà mang ý nghĩa lớn, chắp cánh ước mơ đến trường cho các em nhỏ vùng

biên ải.

Bên cạnh đó là những nội dung tuyên truyền việc triển khai các hoạt động chính sách hậu phương quân đội tại cơ quan, đơn vị

thuộc LLVT Quân khu.

Ví dụ, số báo 1049 kỳ 3 tháng 7/2019 có bài “Đồng lòng giúp nhau vượt khó”, đề cập đến chương trình chính sách của Hội Phụ nữ

Xưởng X78, Cục Kỹ thuật, Quân khu 2, gửi đến những hội viên có hoàn cảnh khó khăn. Hội phụ nữ của Xưởng đã và đang duy trì, thực

hiện có hiệu quả nhiều phong trào chính sách “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”, “Chương trình đồng hành cùng phụ nữ biên cương”...

góp phần động viên, giúp đỡ những hội viên có hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, từ đó xây dựng hội vững mạnh.

Kết cấu hình thức

55
Như đã nói ở trên, báo Quân khu 2 không phân chia chuyên trang nên việc theo dõi, tìm kiếm chủ đề tin, bài là khá khó khăn.

Thể loại: Trong phạm vi khóa luận tôi không đề cập sâu phân tích về từng thể loại mà chủ yếu khảo sát các thể loại đã được sử

dụng đối với các tin, bài mang nội dung hậu phương quân đội. Qua khảo sát trong các thể loại: thông tấn, chính luận báo chí, thông tấn

nghệ thuật, văn nghệ trên báo thì các tác phẩm có đề cập đến nội dung hậu phương quân đội phần lớn đều thuộc thông tấn báo chí. Cụ thể

như sau:

Số lượng
Thể loại Tần suất xuất hiện
41 (số báo)

Tin  42 Xuất hiện nhiều

Bài phản ánh 63 Xuất hiện trên tất cả các số báo

Phỏng vấn 1 Xuất hiện ít

Phóng sự 0 Không có

Điều tra 0 Không có

Ghi nhanh 1 Xuất hiện ít

Gương điển hình 3 Xuất hiện ít

Tùy bút/
5 Xuất hiện ít
Tản văn

Bảng 2.6. Bảng Khảo sát thể loại báo chí các tác phẩm có nội dung hậu phương quân đội trên báo Quân khu 2.

Nhìn vào bảng khảo sát có thể thấy thể loại sử dụng chủ yếu là tin, bài phản ánh, đây cũng là điều dễ hiểu bởi đặc điểm của 2 thể

loại này là thông tin sự kiện và vấn đề thời sự phù hợp với nội dung của chuyên trang.

Các bài phản ánh sử dụng trong chuyên trang với nhiều dạng phản ánh như: Phản ánh sự kiện, sự việc; phản ánh về những quang

cảnh, hiện trạng; phản ánh về các tình huống,vấn đề; phản ánh về người thật việc thật; phản ánh suy nghĩ, cảm xúc… nó phản ánh những sự

kiện, hiện tượng, vấn đề cụ thể trong hoạt động công tác hậu phương quân đội.

Ví dụ 1, số báo 1033 kỳ 3 thansg/2019 có bài “Góp sức mở đường cho quê hương”. Bài phản ánh về công tác dân vận của Đoàn

Kinh tế-Quốc phòng 313, giúp người dân Hà Giang mở đường giao thông.

56
Ví dụ 2, số báo 1041 kỳ 3 tháng 5/2019 có bài “Đường vào lòng dân”. Bài phản ánh công tác dân vận của Trung đoàn 174, Sư

đoàn 316, giúp đỡ huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xây dựng nông thôn mới.

Đặc biệt báo Quân khu 2 thường xuyên có Tuyến bài phản ánh nhiều kỳ.

Theo tìm hiểu, việc tổ chức tuyến bài nhiều kỳ tại một số cơ quan báo đang là xu hướng tất yếu trong cuộc cạnh tranh gay gắt với

các loại hình báo chí - truyền thông mới hiện nay. Về nội dung, tuyến bài nhiều kỳ thường hấp dẫn bởi nó theo đuổi sự kiện, bám sát câu

chuyện để thỏa mãn nhu cầu của công chúng. Ngoài ra, về hình thức, bên cạnh các bài phản ánh, tuyến bài nhiều kỳ còn có thể là các phóng

sự ngắn có xen kẽ nội dung phỏng vấn, ý kiến công chúng, tăng sự hấp dẫn độc già.

Trong giai đoạn khảo sát, với nội dung hậu phương quân đội, trên báo Quân khu 2 xuất hiện 2 tuyến bài dài kỳ:

- Tuyến bài “Đón các Anh về ấm lòng đất Mẹ” bao gồm 2 bài. “Bài 1: hành trình đón các anh về” trên số báo 1023 kỳ 1 tháng

1/2019; “Bài 2: Thành kính tri ân các Anh hùng liệt sĩ” trên số báo 1024 kỳ 2 tháng 1/2019. Đây là tuyến bài phản ánh về hành trình tìm

kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã hi sinh ở Bắc Lào được cán bộ, chiến sĩ Quân khu 2 đưa về Việt

Nam an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Tông Khao (Tỉnh Điện Biên).

- Tuyến bài “Sức trẻ tình nguyện nơi rẻo cao Tây Bắc” bao gồm 2 bài. “Bài 1: Nhọc nhằn gieo chữ nơi bản xa” trên số báo 1044

kỳ 2 tháng 6/2019; “Bài 2: Góp sức trẻ xây dựng bản làng ấm no” trên số báo 1045 kỳ 3 tháng 6/2019. Đây là tuyến bài phản ánh về công

tác dân vận của Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 326, giúp đỡ người dân ở những xã vùng biên giới huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Bên cạnh đó, báo Quân khu 2 có bài viết dưới thể loại phỏng vấn. Ví dụ số báo 1052 kỳ 2 tháng 8/2019 có bài “LLVT Quân khu 2

phòng chống bão lũ, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai”. Bài phỏng vấn đồng chí Phó Tư lệnh Quân khu 2 về công tác phòng chống

thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cũng như những hoạt động dân vận giúp nhân dân khắc phục hậu quả trên địa bàn Quân khu.

Quy trình tổ chức sản xuất báo in tại báo Quân khu 2

57
BIÊN TẬP VIÊN
Thiết kế, dàn trang

PHÓNG VIÊN

THƯ KÝ TÒA SOẠN BAN BIÊN TẬP


- Phân bổ bài
-Duyệt nội dung Duyệt báo xuất bản
CỘNG TÁC
VIÊN

NHÀ IN PHÁT HÀNH

Hình 2.3. Mô hình tổ chức sản xuất báo in tại báo Quân khu 2

Tương tự với quy trình sản xuất ở báo Quốc phòng Thủ đô. Báo Quân khu 2 cơ cấu không có các Phòng, Ban chuyên môn. Báo

phân công các Phóng viên phụ trách các chuyên trang, phụ trách theo dõi các địa bàn và đơn vị trong phạm vi 9 tỉnh.

Đứng đầu là Tổng Biên tập chịu trách nhiệm chung cả phần nội dung lẫn các công tác khác của tờ báo (quảng cáo, hành chính, tổ

chức - trị sự...), kế đến là một Phó Tổng Biên tập giúp việc cho Tổng biên tập tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của tòa soạn.

Do hiện tại tờ báo in Quân khu 2 không phân chia chuyên trang, như đã nói ở trên, báo Quân khu 2 chia nội dung theo dòng thời

sự, sự kiện nên việc thống nhất nội dung tuyên truyền sẽ do Ban Biên tập và Thư ký tòa soạn bàn bạc và đưa ra kế hoạch tin, bài theo tuần,

tháng, năm. Sau khi thống nhất, Thư ký tòa soạn là người chịu trách nhiệm chính tập hợp, biên tập tin, bài, ảnh của phóng viên, đảm bảo

phân bổ nội dung trên số báo.

Theo đó Phóng viên đăng ký viết bài dựa trên đề cương tuần với Thư ký tòa soạn góp ý và thông qua Ban Biên tập, kế hoạch viết

bài sẽ được ban hành vào buổi giao ban cơ quan sáng thứ 2 hàng tuần. Bài, ảnh của phóng viên, cộng tác viên chuyển về tòa soạn hàng

ngày được Thư ký chọn lọc, biên tập nội dung, chuyển cho biên tập viên. Hiện tại cơ quan có một đồng chí Biên tập viên chịu trách nhiệm

thiết kế dàn trang cho số báo.

Thư ký tòa soạn dựa trên quỹ bài tổ chức maket số báo trước 1 ngày phát hành, để trống các khung tin, bài thời sự (hoặc có thể

thay thế các bài cần thiết cho phù hợp dòng thời sự chủ lưu tùy chỉ đạo của Ban Biên tập). Tin, bài được phóng viên, cộng tác viên gửi về

58
toà soạn trước xuất bản hai ngày. Tin, bài thời sự đột xuất, cần tuyên truyền ngay trên số báo tuần, được quy định nộp muộn nhất vào 16:30

trước ngày phát hành. Trường hợp tin, bài không được duyệt, Thư ký toà soạn sẽ làm việc trực tiếp với phóng viên phụ trách, góp ý và yêu

cầu cần bổ sung hay chỉnh sửa tuỳ vào chất lượng bài viết. Phóng viên ngay lập tức sửa bài và gửi lại muộn nhất trước xuất bản 1 ngày.

Trường hợp bài viết có chất lượng quá kém, hoặc có hướng đi không phù hợp, cần phải xoá bỏ, khi đó Thư ký toà soạn sử dụng kho “lương

khô” đã được đặt hàng từ trước.

Nguồn nhân lực

Hiện nay, quân số của báo Quân khu 2 là 15 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí thuộc Ban Biên tập, 1 đồng chí Thư ký tòa soạn, 2

đồng chí công tác hành chính trị sự, 2 đồng chí biên tập viên thiết kế, dàn trang, 1 đồng chí phụ trách kỹ thuật hậu kỳ truyền hình, số lượng

phóng viên thực chiến là 7 đồng chí. Phóng viên được phân công nhiệm vụ theo kế hoạch tuần của Ban Biên tập.

Do diện tích trải dài 9 tỉnh phía Tây miền Bắc là Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái, Điện Biên, Phú Thọ, Vĩnh

Phúc, Sơn La, nên phạm vi hoạt động của Quân khu là rất lớn. Bên cạnh đó, quân số phóng viên thực tế hoạt động lại ít, gây ra khó khăn rất

lớn cho việc thu thập thông tin, tiếp cận sự kiện để viết tin, bài. Chính vì vậy hầu hết nội dung thông tin được đăng tải trên báo là tổng hợp

từ cộng tác viên gửi về.

Thực tế cho thấy đội ngũ cộng tác viên của toà soạn hầu hết là cán bộ, nhân viên đang trực tiếp hoạt động, làm việc tại các đơn vị

trực thuộc Quân khu 2. Các bài báo chủ đề như xây dựng nông thôn mới, dân vận tại các địa bàn vùng xâu vùng xa, biên giới, thì cần có

những góc nhìn của người trong cuộc, cần sự có mặt tác nghiệp tại chỗ ngay lập tức. Chính vì vậy vai trò của cộng tác viên trong các tình

huống này là hết sức quan trọng. Nhờ đội ngũ cộng tác viên hùng hậu, mà công tác xuất bản báo chí của báo Quân khu 2 thuận lợi hơn rất

nhiều.

Tuy nhiên ở báo Quân khu 2 hầu hết cộng tác viên là cán bộ, nhân viên thuộc phòng chính trị của các cơ quan, đơn vị trực thuộc

Quân khu, chưa xây dựng được đội ngũ cộng tác viên bên ngoài quân đội.

Ưu điểm và hạn chế

Về cơ bản nội dung trên báo Quân khu 2 đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích của tòa soạn. Những bài viết có nội dung về công tác

hậu phương quân đội tuy chưa nhiều nhưng đã phần nào phản ánh được quan điểm, chủ trương, chính sách của các cơ quan, đơn vị thuộc

LLVT Quân khu 2.

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế lớn nhất là báo hiện chưa phân chia chuyên trang cụ thể cho

từng mặt công tác: quân sự, quốc phòng; hậu phương quân đội; thời sự, chính trị... dẫn đến việc độc giả khó đọc, khó tìm kiếm, định vị nội

dung thông tin mình cần. Nội dung phản ánh về hậu phương quân đội còn tập trung về một hướng (công tác dân vận), trong khi đó Quân

59
khu 2 có phạm vi quản lý rộng lớn vì vậy nội dung tuyên truyền trên cơ bản là chưa đáp ứng được nhu cầu của LLVT quân khu. Hình thức

thể hiện tin bài đi theo lối mòn, chỉ tập trung một thể loại phản ánh là chính, không có sự sáng tạo qua các thể loại khác.

Bên cạnh đó, giống như ở báo Quốc phòng Thủ đô, cho đến hiện tại ngoài nhóm cộng tác viên thường xuyên đứng trang là cán bộ,

nhân viên chính trị thuộc các cơ quan đơn vị trực thuộc Quân khu, thì báo Quân khu 2 vẫn chưa xây dựng được đội ngũ cộng tác viên ngoài

ngành, cũng như chưa có nhóm thông tin viên độc quyền của tòa soạn. Chính vì vậy tin bài được xuất bản trên các số báo còn nghèo về thể

loại, thông tin một chiều theo hướng tuyên truyền, chưa có sự sâu sát vào thực tế đời sống. Những gương điển hình được khắc họa tuy có

tính thuyết phục nhưng họ đều là những người “quen mặt” tại các chương trình trao thưởng hay tuyên dương. Chính vì vậy chưa tạo được

sức hút cũng như sự hấp dẫn của bài báo.

60
Tiểu kết chương 2

Trên cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu và những yêu cầu tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in

Bộ Quốc phòng, tác giả luận văn đã thực hiện khảo sát trên ba báo Quân đội nhân dân hằng ngày, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 trong

thời gian một năm (từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019). Từ kết quả khảo sát trực tiếp của tác giả đối với từng tác phẩm trên chuyên trang

hậu phương quân đội của ba tờ báo, trong Chương 2, tác giả đã đưa ra những phân tích sâu về nội dung, hình thức, tổ chức sản xuất. Từ đó

đưa ra những nhận định cơ bản về ưu điểm, hạn chế của từng tờ báo. Kết quả nghiên cứu của chương này là căn cứ để tác giả tiếp tục triển

khai các bước nghiên cứu tiếp theo trong Chương 3. Lấy đó làm cơ sở để phân tích những vấn đề còn tồn tại, từ đó đưa ra các giải pháp,

khuyến nghị nâng cao chất lượng tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng.

61
Chương 3

VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN

TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

3.1. Những vấn đề đặt ra

3.1.1. Về nội dung phản ánh

Như đã nêu ở phần lý luận, trang là bộ phận cấu thành tờ báo. Mỗi sổ báo đều có số lượng trang xuất bản nhất định theo giấy phép

quy định. Việc phân định việc định vị các chuyên trang, các trang nội dung của tờ báo là góp phần định hình khu vực thông tin cho độc giả.

Đồng thời vị trí các trang của một tờ báo có tầm quan trọng khác nhau, nó chỉ phối mức độ quan trọng của từng sự kiện, vấn đề trong mỗi

tác phẩm mà người tổ chức nội dung sẽ đưa vào.

Định hình các trang theo từng chủ đề, lĩnh vực cụ thể sẽ giúp bạn đọc không mất quá nhiều thời gian tìm kiếm thông tin, đồng thời

cũng góp phần hình thành thói quen tiếp nhận thông tin ổn định theo vị trí trên báo cho độc giả.

Sau khi khảo sát ba tờ báo in của Bộ Quốc phòng: báo Quân đội nhân dân hằng ngày, báo Quốc phòng Thủ đô, báo Quân khu 2.

Riêng báo Quân khu 2 không xây dựng trang, mà đưa tất cả tin, bài, ảnh vào theo kiểu "thập cẩm". Dẫn đến tình trạng khi khảo sát, tác giả

luận văn khó nắm bắt được đối tượng bài viết trong diện khảo sát, cụ thể ở đây là các bài có nội dung về công tác hậu phương quân đội.

Thứ nhất, không có chuyên trang đồng nghĩa với việc không định vị được vị trí của những bài viết có nội dung về hậu phương

quân đội khi tìm kiếm. Các bài viết về nội dung chuyên đề đó không có tính ổn định tại một vị trí trên tờ báo. Ví dụ, 2 số báo 1032, 1033

(kỳ 1,2 tháng 3/2019), ở trên cùng trang 6, Số 1032 có bài “Một bảy tư giúp Tân Hương làm đường nông thôn mới” đây là bài phản ánh,

tuyên truyền công tác dân vận của đơn vị, được xếp vào nội dung hậu phương quân đội. Tuy nhiên khi tìm đọc số ngay tiếp theo 1033,

cũng tại vị trí bài của số trước lại là bài có tiêu đề “Công ty HTQT 705 đẩy mạnh tăng gia, sản xuất” đây là bài phản ánh, tuyên truyền

nhiệm vụ hậu cần của công ty HTQT 705, không có liên quan đến nội dung hậu phương quân đội.

Thứ hai, không có chuyên trang đồng nghĩa với việc tuyên truyền về chuyên đề đó dễ dàng bị đứt đoạn. Ví dụ số báo 1035 kỳ 1

tháng 4/2019, không có bài viết tuyên truyền về công tác hậu phương quân đội.

Thứ ba, việc đưa thông tin một cách thập cẩm và ồ ạt lại càng dễ làm độc giả cảm thấy “bội thực” với lượng thông tin xuất hiện

trên tờ báo. Bạn đọc sẽ rất khó tiếp nhận thông tin khi họ không biết đâu là thông tin chính, thông tin phụ mà mình cần đọc.

Thứ tư, khó xác định đối tượng, vấn đề phản ánh thuộc nội dung nào. Nếu không có kiến thức nền về quân đội thì khi gặp các bài

báo có tiêu đề “từa tựa” như nhau, hay nội dung “hơi” có nét tương đồng thì rất dễ nhầm lẫn đối tượng hay vấn đề mà bài báo muốn hướng

tới.

62
Có thể nói, tuy thiếu hụt về mặt xây dựng chuyên trang, tuy nhiên báo Quân khu 2 qua quá trình khảo sát vẫn đảm bảo có những

nôi, nhưng nhìn chung trên báo Quân khu 2 những nội dung về công tác Hậu phương quân đội vẫn được tòa soạn quan tâm và tuyên truyền

theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng.

Nhìn chung, các báo trong diện khảo sát đã thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ xây dựng nội dung thông tin về hậu phương

quân đội. Thông tin được xuất bản đều đảm bảo có tính định hướng, đúng tôn chỉ, mục đích của toàn soạn. Nhờ vậy nội dung được lên kế

hoạch sát với yêu cầu nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của độc giả. Cụ thể, thường xuyên thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác hậu phương quân đội. Qua khảo sát cho thấy đa số các tin, bài thông tin nhanh nhạy, kịp thời,

nhất là các sự kiện lớn, các hoạt động tiêu biểu. Qua đó, tích cực tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và

toàn dân về vai trò, ý nghĩa của công tác hậu phương quân đội và các chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước liên quan, giúp nâng cao

nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ cũng như giúp cán bộ, chiến sĩ, nhân dân hiểu sâu sắc hơn vai trò của

công tác hậu phương quân đội.

Bá o Quân Khu 2 Báo Quố c Phò ng Thủ Đô


5%
6% 9% 6%
20% 11%
9% 13%

11% 17%

58% 35%

Báo Quâ n độ i nhân dâ n


Tuyên truyền các chủ trương về chính sách HPQĐ
6% Tuyên truyền triển khai hoạt động trong LLVT

34% Hoạt động dân vận trong LLVT


27%
Hoạt động của CCB và Hội CBB
Nêu gương tập thể, cá nhân

17% 15% Khác

1%

Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh tần suất xuất hiện nội dung trên ba báo khảo sát năm 2019

63
Qua biểu đồ so sánh, có thể thấy số lượng bài viết về Tuyên truyền các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính

sách Hậu phương quân đội còn chưa nhiều trên cả 3 báo. Tuy nhiên có thể hiểu rằng công tác này vẫn giữ vững ổn định trong suốt những

năm qua, không có nhiều sự biến động cần phải công bố rộng rãi trên báo chí. Hầu hết đều là những bài tuyên truyền để người đọc hiểu rõ

thêm, nắm bắt rõ thêm thông tin về nội dung hậu phương quân đội.

Những nội dung còn lại trên 3 báo đều có sự khác biệt rõ rệt. Đặc biệt rõ ràng nhất là nội dung Tuyên truyền về CCB, Hội CCB

xuất hiện dày đặt trên báo Quốc phòng Thủ đô chiếm đến một phần ba nội dung được đăng tải trong năm 2019. Trong khi đó trên báo Quân

đội nhân dân thì số lượng bài về nội dung này lại chỉ chiếm 1%. Tương tự như vậy nội dung về tuyên truyền công tác dân vận cũng được

chú trọng trên báo Quân khu 2, chiếm đến hơn 50% nội dung xuất hiện.

Có thể nói, với báo Quân đội nhân dân việc phân chia các nội dung trên chuyên trang là khá đồng đều. Với mục tiêu phản ánh

công tác hậu phương quân đội trên toàn quân, báo đã thực hiện tốt nhiệm vụ, đề cập đến mọi mặt trong công tác hậu phương quân đội. Chất

lượng thông tin trong các bài viết khá tốt, phong phú, nội dung được khai thác sâu sắc, các bài viết thường có sự tương tác nhiều phía để

chắt lọc đưa vào bài. Với chuyên trang thì số lượng từ trong một bài càng ít thì bài càng chất lượng. Nghĩa là bài viết tập trung vào chất

lượng chứ không phụ thuộc vào độ dài, vì càng dài là càng lan man, không đi sâu vào chủ đề. Hơn nữa diện tích của từng bài trên trang rất

hạn chế nên càng đòi hỏi năng lực của nhà báo trong việc chọn lọc và biên tập thông tin.

Ngược lại khi so sánh với chuyên trang “Hậu phương quân đội” của báo Quốc phòng Thủ đô, và tổng thế các bài khảo sát ở báo

Quân khu 2 có thể thấy nội dung các bài qua các số báo khá trùng lặp, chất lượng thông tin trong các bài viết còn chưa nhiều, chưa phong

phú; phương pháp, cách thức truyền tải thông tin còn cứng nhắc, dập khuôn khá nặng nề, lặp lại nhất là đối với các bài tuyên truyền chính

sách hay tuyên truyền dân vận. Nội dung thông tin còn chung chung chưa thấy rõ các chủ trương, chính sách đó tổ chức thực hiện và đi vào

cuộc sống như thế nào, tính chiến đấu các thông tin trong các tác phẩm chưa nhiều chủ yếu là tuyên truyền, phản ánh.

Ngoài ra các nội dung trên 2 báo Quốc phòng Thủ đô và Quân khu 2 đều bị tập trung vào tuyên truyền chính về một đối tượng, ở

báo Quân khu 2 số lượng bài về dân vận chiếm đến 50% nội dung, báo Quốc phòng Thủ đô số lượng bài về CCB cũng chiếm đến một phần

ba số lượng bài trong thời gian khảo sát.

Tựu chung lại, trên cả 3 báo tính chiến đấu của thông tin trong các tác phẩm chưa nhiều, chủ yếu là tuyên truyền, phản ánh những

nội dung làm tốt, chưa có bài đấu tranh phê phán những cái còn tồn tại hạn chế, những cái lạc hậu đi ngược lại với chủ trương, chính sách.

Về thông tin góp ý, phản biện và tạo ra diễn đàn đóng góp ý kiến cho các nội dung của chuyên trang nói riêng chưa nhiều, chưa giải quyết

được những vướng mắc của cán bộ chiến sỹ, của nhân dân đặc biệt là việc triển khai thực hiện các chính sách cho các đối tượng. Có nhiều

64
bài chỉ là phản ánh hoạt động đơn thuần chưa có những chi tiết tiêu biểu (Như cách làm mới hiệu quả, rút ra bài học chưa sâu sắc, sát thực

tế, định hướng tư tưởng chưa hiệu quả...)

3.1.2. Về hình thức

Theo giáo trình “Tổ chức sản xuất báo in” của PGS.TS. Hà Huy Phượng: “Tờ báo, tạp chí thiết kế, trình bày đúng, hợp lý và đẹp

sẽ thể hiện được mục đích, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền của tờ báo, tạp chí”.

Khi xây dựng kế hoạch xuất bản báo, các ban biên tập đều có ý đồ rõ ràng về kết cấu nội dung cho từng số báo, trang báo. Nội

dung mỗi số báo, trang báo được sắp đặt theo từng chủ đề cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động. Thiết kế, trình bày báo

phải làm nổi bật được ý đồ nội dung thông qua hình thức. Tờ báo trình bày đúng, hợp lý và đẹp sẽ giúp độc giả tiếp nhận thông tin thuận

tiện, chính xác.

Chính vì vậy việc thiết kế và sản xuất được chuyên trang hậu phương quân đội trước mắt đã là một thành công với báo Quân đội

nhân dân và Quốc phòng Thủ đô trong việc định hình vị trí thông tin, thu hút được độc giả. Tuy vậy khi xét về kết cấu hình thức của từng

tờ báo thì lại thấy được những điểm còn thiếu hụt. Báo Quân đội nhân dân hằng ngày có lợi thế nhờ khổ giấy lớn (420x594mm) nên chuyên

trang có lợi thế về mặt diện tích. Các bài xuất hiện trên báo được sắp xếp theo bố cục ổn định, hợp lý. Tuy nhiên hệ thống cụm tin vắn được

thiết kế dày đặc, khô khan, ít có hình ảnh minh hoạ nên khó theo dõi. Ngoài ra, đôi khi số lượng tin, bài về nội dung hậu phương quân đội

lại hoàn toàn bị lấn át bởi các tin, bài Công tác Đảng-Công tác chính trị.

Về phía báo Quốc phòng Thủ đô, tuy khổ báo nhỏ hơn (297x420mm) nhưng báo cũng đã có nhiều cố gắng biến tấu các cách trình

bày cho hợp lý, tuy nhiên vẫn chưa có sự sáng tạo gây được đột phá.

Đối với các báo trong diện khảo sát, nhìn chung các bài xuất hiện phù hợp với tôn chỉ mục đích của báo, quy định nội dung của

chuyên trang, ngôn ngữ chính thống, dễ hiểu, giọng điệu đơn giản, gần gũi với công chúng của báo, trình bày bảo đảm được nguyên tắc,

bảo đảm tính chính trị, đúng tôn chỉ mục đích của tờ báo. Tuy nhiên, thể loại các bài viết xuất hiện với tần suất không đều hoặc thiếu. Một

số thể loại qua khảo sát trên chuyên trang chủ yếu là tin và bài phản ánh, thể loại bài khác không đáng kể (hoặc không có). Trên báo Quân

đội nhân dân hằng ngày các thể loại bài đa dạng hơn hết, đặc biệt xuất hiện các chuyên mục tạo nét đột phá cho toàn thể chuyên trang. Báo

Quốc phòng Thủ đô đi theo lối mòn, hầu hết là các bài phản ánh, số lượng bài về Gương điển hình cũng có xuất hiện nhưng đặt trên tổng

thể số lượng bài viết là ít. Hơn nữa những số báo có kết cấu 2 bài thường là những bài dài, thông tin khô khan, không có sự hấp dẫn độc

giả. Về phía báo Quân khu 2 có sự xuất hiện thêm của các tuyến bài dài kỳ.

 Tổ chức tuyến bài nhiều kỳ tại một số cơ quan báo chí đang là xu hướng tất yếu trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các loại hình

báo chí - truyền thông mới hiện nay. Đó chính là những sản phẩm báo chí chất lượng cao, được đầu tư thực hiện công phu và trình bày hấp

dẫn, lôi cuốn.

65
Tuy nhiên, qua khảo sát việc tổ chức triển khai tuyến bài nhiều kỳ trên các báo vẫn còn chưa được chú trọng; thực hiện chưa bài

bản, khoa học. Cụ thể ở các báo Quân đội nhân dân và Quốc phòng Thủ đô trên chuyên trang chưa thấy xuất hiện những tuyến bài dài kỳ.

Đối với báo Quân khu 2 có xuất hiện tuy nhiên số lượng tuyến bài về nội dung hậu phương quân đội còn ít, nhiều vấn đề được lựa chọn để

thực hiện tuyến bài có nội dung chưa “trúng”.

Ví dụ, tuyến bài “Đưa các Anh về ấm lòng đất Mẹ” (2 kỳ) như đã phân tích ở trên. Toàn bộ bài 1 trong tuyến bài chỉ là nội dung

phản ánh khái quát khó khăn trong quá trình tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, phần lớn nội dung đề cập đến chủ trương chính sách của Đảng

và Nhà nước. Nhưng so với tiêu đề “Hành trình đón các anh về” nội dung chưa thỏa mãn được sự tò mò của độc giả. Với tiêu đề đưa ra tác

giả cần khai thác sâu sắc và đặt phần nhiều nội dung hơn cho quá trình gian khó của cán bộ, chiến sĩ khi tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Nội dung bài 2 là phản ánh quá trình đưa các anh về Nghĩa trang liệt sĩ Tông Khao, tuy nhiên nội dung còn mang tính kể, chưa cụ

thể. Nội dung thông tin trong tuyến bài nhiều kỳ vẫn mang tính một chiều, ít có sự giám sát, chưa có nội dung phỏng vấn, hay đưa ý kiến

công chúng vào bài viết.

Thời gian qua, các báo đều dành dung lượng nhất định của số báo hoặc xây dựng chuyên mục phản ánh với tần suất khác nhau để

biểu dương, tôn vinh các tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Tuy vậy, so với mục tiêu, yêu cầu và các bài viết

phản ánh vấn đề tiêu cực trong xã hội thì số lượng bài viết biểu dương gương điển hình tiên tiến, nhân tố mới còn ít, còn thiếu những tác

phẩm có chất lượng cao, đòi hỏi các báo cần quan tâm và đầu tư hơn nữa cho mảng đề tài này.

3.1.3. Về tổ chức sản xuất chuyên trang

Trên cơ sở tìm hiểu thực tế hoạt động của một số bộ phận, phòng ban, đặc biệt là phụ trách chuyên trang hậu phương quân đội của

3 tờ báo nằm trong phạm vi khảo sát của Luận văn, chương 2 đã đưa ra những thông tin khá đầy đủ, chi tiết về bộ máy nhân sự, mối quan

hệ giữa các phòng ban và từng công đoạn trong quy trình sản xuất tại mỗi báo. Qua đó cũng cho thấy, mỗi báo với những tôn chỉ, mục đích,

đối tượng bạn đọc phục vụ khác nhau, quy mô lớn bé khác nhau, sẽ tiến hành hoạt động tổ chức sản xuất theo một quy trình mang nhiều nét

đặc thù.

Có thể thấy so với các báo quân khu (Quân khu 2, Quốc phòng Thủ đô), báo Quân đội nhân dân đã áp dụng công nghệ hiện đại

hơn, đưa mô hình tòa soạn điện tử vào quy trình sản xuất, chính vì vậy các bước xét duyệt tin, bài chặt chẽ hơn so với hai báo còn lại.

Cũng ở báo này, tòa soạn luôn chủ động điều chỉnh, sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp trong từng thời kỳ, áp dụng triệt để cơ

chế khoán theo nguyên tắc: quyền lợi gắn chặt với nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ được giao, góp phần làm cho việc quản lý, điều hành thông

tin chủ động và sát với tình hình thực tế hơn; chất lượng, nội dung thông tin sâu hơn, mảng đề tài đa dạng hơn. Trong quản lý, điều hành,

Ban biên tập chủ động trao quyền tự chủ cho các phòng, bộ phận, thực hiện dân chủ hóa quá trình quản lý, khai thác tốt trí tuệ, sức mạnh

tập thể cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Qua đó, số lượng và chất lượng tin bài tăng lên rõ rệt.

66
Trong khi đó, hai báo còn lại do cơ cấu tổ chức đơn giản hơn, thay vì công việc được chia cho nhiều người thì một cán bộ sẽ phải

chịu trách nhiệm cho nhiều nội dung công việc hơn. Vì vậy, dễ dẫn đến việc giảm chất lượng tin, bài nói riêng cũng như chất lượng tờ báo

nói chung.

Cụ thể hơn, với báo Quân khu 2, Thư ký tòa soạn làm cùng một lúc nhiều đầu mục công việc: Phân bổ nội dung, biên tập tin bài,

sắp xếp tin bài. Hay như ở báo Quốc phòng Thủ đô, Thư ký tòa soạn cũng cùng lúc: phân bổ tin bài, lên kế hoạch nội dung, sắp xếp tin bài,

thiết kế dàn trang.

“Người thiết kế, trình bày báo, tạp chí là người làm nên một nửa tờ báo. Trong một tòa soạn báo in, người thiết kế, trình bày báo,

tạp chí có vị trí quan trọng như phóng viên viết nội dung”.[30, tr. 96]

Có thể thấy từ quy trình tổ chức sản xuất 2 báo Quốc phòng Thủ đô và Quân khu 2, vai của người thiết kế-họa sĩ chuyên môn đang

bị khuyết thiếu. Báo Quốc phòng Thủ đô công tác này đang được kiêm nhiệm bởi Thư ký biên tập, còn ở báo Quân khu 2 thì do một đồng

chí biên tập viên đảm nhiệm.

Nguồn nhân lực

Về cơ bản đội ngũ phóng viên của các báo khảo sát đều có trình độ Cao đẳng, Đại học trở lên, có chuyên môn cơ bản về báo chí

nhưng không đồng đều. Tuy nhiên sau khi khảo sát về nội dung có thể thấy nhiều phóng viên bám sát ngành, bám sát lĩnh vực, có kinh

nghiệm và tích lũy được nhiều kiến thức trong lĩnh vực này nhưng chưa có tác phẩm hay vì năng lực thể hiện vẫn còn hạn chế. Phóng viên

hiểu vấn đề nhưng để làm nổi bật, đi sâu phân tích cái đúng, cái sai, nhân tố điển hình, hạn chế trong quá trình phát triển, lại kém vì trình

độ lý luận chưa tốt, cách thể hiện chưa tinh, không sáng tạo, lười tư duy. Khi phân công phóng viên chuyên trách cho chuyên trang thì dễ

dẫn đến việc các bài báo phong cách viết lặp đi lặp lại, thiếu sự sáng tạo về đề tài khai thác.

Xét về tổng thể, đội ngũ người làm báo có chuyên môn không đồng đều, nhiều người thiếu đào tạo cơ bản về báo chí nên trong

cách thể hiện tác phẩm và trong quá trình tác nghiệp vẫn còn bộc lộ một số hạn chế.

“Bên cạnh đó khi đề cập đến vấn đề nhân lực không thể thiếu đội ngũ cộng tác viên, họ là cánh tay nối dài của các cơ quan báo chí

và góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và phát triển một tờ báo. Nhiều bài viết của cộng tác viên thực sự có vấn đề, tạo sức hấp dẫn

đối với bạn đọc; buộc nhiều sở, ngành phải ngồi lại bàn bạc tìm cách tháo gỡ, khắc phục hậu quả (nhất là các vấn đề liên quan đến tiêu cực,

mặt trái của đời sống xã hội). Nhiều tác giả văn thơ tầm cỡ, được giới văn thơ nước nhà biết đến, cũng đều đặn xuất hiện trên các trang báo

cuối tuần. Các bài ký, bài thơ, truyện ngắn thấm đẫm nhân tình thế thái và sáng lên tinh thần nhân văn, khiến cho các số báo không nhạt, tẻ

mà bay bổng, nhiều sức hút hơn. Chính điều đó, đã giúp cho các số báo có sức nặng”. [Trích phỏng vấn sâu]

67
Theo khảo sát, báo Quân đội nhân dân là cơ quan duy nhất trong 3 báo có sự sát sao trong việc xây dựng đội ngũ cộng tác viên và

thông tin viên. Hai cơ quan báo còn lại tuy có sự đóng góp đáng kể của đội ngũ cộng tác viên, tuy nhiên chưa có những quy định hay cơ

chế đặc thù cho họ.

3.2. Một số giải pháp và khuyến nghị nâng cao chất lượng chuyên trang

3.2.1. Giải pháp về nguồn nhân lực

Đây là giải pháp hàng đầu vì mọi vấn đề đều bắt đầu từ con người. Con người là chủ thể vận hành của mỗi tờ báo. Chỉ có nguồn

nhân lực tốt mới có thể nâng cao hiệu quả của quy trình, ở bất cứ khâu nào.

Trong những năm qua, đội ngũ người làm báo không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Về cơ bản, đội ngũ phóng

viên, biên tập viên của cả 3 tờ báo trong phạm vi khảo sát của luận văn nói riêng có chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo đúng chuyên

ngành; bản lĩnh chính trị vững vàng, quan điểm về chính trị rõ ràng, có ý thức trước công việc, yêu nghề, năng động.

Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới, đội ngũ làm bảo còn bộc lộ những yếu kém. Trong giai đoạn hiện nay, những người làm báo

không chỉ cần giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nhanh nhạy tiếp cận với thông tin mới, công nghệ mới mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững

vàng, nhạy bén và tỉnh táo trong xử lý thông tin và đưa thông tin. Do đó, đội ngũ những người làm báo cần được đào tạo về trình độ chính

trị, luôn được bồi dưỡng, bổ túc kiến thức.

Đối với Ban Biên tập

Trước tiên, để nâng cao hiệu quả trong công tác tuyên truyền một trong những vấn đề quan trọng là phải nâng cao nhận thức của

lãnh đạo tờ báo về vai trò, chức năng và khả năng tác động lớn của chuyên trang. Có thể thấy rằng, việc nâng cao nhận thức của Ban Biên

tập về vai trò, chức năng của chuyên trang sẽ góp phần quyết định sự ra đời, tồn tại và thay đổi định hướng phát triển của cả tờ báo. Từ đó

có sự đầu tư thích đáng về nhân lực, vật lực. Đồng thời nâng cao nhận thức sẽ dẫn tới có những sự chỉ đạo sát sao, cụ thể, có kế hoạch theo

thời gian (tháng, quý, năm) một cách khoa học, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng chuyên trang nói riêng và tờ báo nói chung

Nhưng để làm được việc này, trước hơn hết là nâng cao năng lực công tác cho từng thành viên của lãnh đạo, Ban Biên tập tòa soạn

báo chí. Tại mỗi cơ quan báo chí, đội ngũ lãnh đạo có vị trí rất quan trọng. Từ Tổng Biên tập, phó Tổng Biên tập, Thư ký tòa soạn, các

trưởng ban đều cùng phóng viên tham gia vào sản xuất, tạo nên linh hồn cho tờ báo của mình. Tổng Biên tập có thể quản lý tổng thể công

việc của tòa soạn, còn bài vở có Tổng Biên tập phụ trách. Ban Biên tập sẽ phân cho từng ban thực hiện các đề tài liên quan đến bạn mình.

Trưởng ban sẽ phân công cho phóng viên theo dõi màng, lĩnh vực thực hiện.

Đối với đội ngũ phóng viên

Coi trọng xây dựng đội ngũ nhà báo “vừa hồng, vừa chuyên”. Thực tiễn chỉ ra rằng, chất lượng của tác phẩm báo chí phụ thuộc

trước hết vào phẩm chất chính trị, năng lực nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ phóng viên, biên tập viên. Ở đâu và khi nào có đội

68
ngũ nhà báo “tay nghề vững”, thì ở đó, chất lượng, hiệu quả hoạt động báo chí sẽ được đảm bảo; uy tín, vị thế của cơ quan báo chí được

nâng lên; ấn phẩm báo chí thu hút được đông đảo độc giả, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Bởi vậy, đây là việc làm có ý nghĩa chiến

lược nhằm đáp ứng yêu cầu cả trước mắt cũng như lâu dài, mà trách nhiệm trước hết thuộc về các cơ quan chủ quản và các cơ quan báo chí.

Việc xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên cần tập trung vào nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ,

năng lực, phương pháp, tác phong công tác…; bảo đảm trong mọi hoàn cảnh, họ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, nêu cao trách nhiệm

xã hội và nghĩa vụ công dân của người làm báo, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Các cơ quan chủ quản báo chí

cần làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, phóng viên, biên tập viên đảm bảo sự ổn định vững chắc giữa hiện tại, kế cận và kế tiếp, tránh để

hụt hẫng. Phải coi trọng khâu tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ về công tác đáp ứng các tiêu chí quy định; đồng thời, có cơ chế, chính sách thu

hút tài năng trẻ, nhất là với những lĩnh vực đặc thù.

Đặc biệt, phải hết sức chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phóng viên, biên tập viên; gắn đào tạo cơ bản với đào tạo tại

chức, đào tạo trong nước với bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm quản lý, nghiệp vụ báo chí ở nước ngoài. Các cơ quan báo chí cần chú trọng

gửi cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành do Quân đội, Hội Nhà báo Việt Nam,

Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức.

Mặt khác, tích cực bồi dưỡng bằng hình thức: cấp trên bồi dưỡng cấp dưới, người có kinh nghiệm bồi dưỡng người mới vào nghề;

kết hợp với phát huy vai trò của các chi hội, liên chi hội nhà báo; động viên tinh thần tích cực, tự giác, tự học, tự bồi dưỡng của đội ngũ

phóng viên, biên tập viên. Nội dung bồi dưỡng phải toàn diện, thiết thực, đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt và lâu dài; kết hợp chặt chẽ

giữa bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là tấm gương đạo

đức, phong cách làm báo của Người.

Để tạo điều kiện cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên có nhiều chất liệu thực tiễn trong tác nghiệp báo chí, các CQBC phải làm

tốt công tác luân chuyển, đưa phóng viên, biên tập viên đi thực tiễn cơ sở, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, những

nơi khó khăn, nguy hiểm; tạo điều kiện cho họ “đắm mình” vào cuộc sống, sinh hoạt của bộ đội; trên cơ sở đó có những tác phẩm báo chí

thực sự mang hơi thở của thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất, công tác… của người chiến sĩ Quân đội nhân dân

Việt Nam.

Tăng cường vai trò của cộng tác viên

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, cộng tác viên là bộ phận không thể thiếu của bất kỳ một toà báo nào. Hay nói cách khác,

không có tòa soạn nào lại không cần và không có cộng tác viên. Tuy nhiên, cho đến nay, Ban biên tập các báo khảo sát cũng chưa có một

“sách lược” bài bản nào về công tác cộng tác viên, việc tổ chức cộng tác viên chủ yếu vẫn là công việc hằng ngày của các phòng chức năng

69
và mối quan hệ của từng phóng viên, biên tập viên. Do vậy, lượng tin, bài, ảnh của cộng tác được sử dụng cũng dao động, có lúc chiếm tới

50% tin, bài đăng trên báo; có lúc lại chưa được tới 20%.

Việc xác định xây dựng mạng lưới cộng tác viên một cách bài bản, khoa học sẽ tạo điều kiện để báo không chỉ mở rộng khả năng

bao phủ thông tin trên diện rộng, mà còn có thể kéo về cho báo những bài vở có chất lượng với những cây bút có tên tuổi. Chính vì vậy mỗi

tòa soạn cần xây dựng các nhóm cộng tác viên ruột cho mình. Theo đó cộng tác viên có thể là nhóm người trong ngành: Họ là cán bộ, nhân

viên thuộc phòng, ban chính trị của các cơ quan, đơn vị LLVT, có khả năng viết bài ở mức căn bản hoặc tốt.

Cộng tác viên cho các tòa soạn cũng có thể là những người ngoài ngành:

- Họ là cán bộ các sở, ban, ngành của tỉnh và các Đài Truyền thanh huyện, thị xã; hay giáo viên các trường, cán bộ xã, xóm… Họ

nắm bắt kịp thời từng khoảnh khắc đời sống, tìm kiếm những tấm gương ẩn mình trong dân.

- Cộng tác viên là các cây bút chuyên nghiệp, có tên tuổi. Họ vừa là nguồn bài viết nòng cốt đứng chân cho các chuyên mục, vừa

là cố vấn cho các đề tài mới, đề tài khoa học đang được xây dựng trên chuyên trang.

- Cộng tác viên ảnh (chuyên nghiệp) cung cấp thêm cho chuyên trang những thước ảnh chuyên nghiệp, tăng tính nghệ thuật, sức

hấp dẫn cũng như làm phong phú cho chuyên trang.

Ngoài ra còn có một nhóm cộng tác viên được gọi là thông tin viên – họ là những người gần nhất, sát sao nhất với nguồn tin, thông

tin về tòa soạn các sự kiện hữu ích, những tin tức mới. Họ có thể không thể tự viết bài mà chỉ gửi thông tin về tòa soạn để phóng viên phụ

trách biên tập tin bài cho phù hợp với tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Xây dựng được đội ngũ thông tin viên đồng nghĩa với việc gia tăng tính

độc quyền, tính thời sự cho tờ báo.

Bên cạnh việc lên kế hoạch xây dựng đội ngũ cộng tác viên, thông tin viên, các tòa soạn cũng cần có cơ chế hỗ trợ cũng như

những chính sách đặc biệt để giữ chân họ. Đồng thời cũng cần tạo sự gắn kết với cộng tác viên bằng những hoạt động thiết thực như: thiết

lập một số điện thoại “nóng”, do một biên tập viên phụ trách để sẵn sàng tiếp nhận những tin tức mới nhất của các cộng tác viên, đặc biệt là

với nhóm thông tin viên. Thường xuyên liên lạc với cộng tác viên qua điện thoại hoặc email để giữ mối liên hệ hoặc đặt bài. Tổ chức những

buổi tập huấn nghiệp vụ báo chí cho nhóm cộng tác viên ruột. Tổ chức hội nghị, gặp mặt cộng tác viên để gia tăng sự gắn kết với tòa soạn...

3.1.2. Giải pháp trong việc tổ chức sản xuất chuyên trang

Kiện toàn hệ thống cơ quan báo chí theo hướng cơ bản, chính quy, hiện đại, có tính chuyên nghiệp cao.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, báo chí nước ta đang tiếp cận và chuyển mình theo xu hướng chuyên nghiệp và hiện đại. Do đó,

việc hiện đại hóa hệ thống cơ quan báo chí trong Quân đội là chủ trương đúng đắn nhằm đảm bảo cho các tòa soạn hoạt động có hiệu quả.

Xây dựng kế hoạch, đề cương, thể hiện lối làm việc chuyên nghiệp

70
Tổng Biên tập hoặc phó Tổng Biên tập phụ trách nội dung nên chỉ đạo Ban Biên tập xây dựng để cương chi tiết nội dung cho mỗi

số báo. Đề cương có thể thay đổi do nhiều yếu tố khách quan nhưng nó giúp mỗi số báo có định hướng đúng đắn, nội dung tốt và cách thức

thể hiện hợp lý. Việc xây dựng đề cương là cần thiết vì nó thể hiện rất cao tính chuyên nghiệp, làm việc có kế hoạch của mỗi tòa soạn.

Một tờ báo muốn có uy tín phải có kế hoạch tuyên truyền rất cụ thể và chi tiết, có khả năng kiểm soát mọi nguồn thông tin, đáp

ứng kịp thời các yêu cầu của bạn đọc. Từ nhiệm vụ và dự báo các sự kiện quan trọng sẽ xảy ra, từ nhu cầu, thị hiếu của bạn đọc, tờ báo lên

kế hoạch chung từng tháng, quý, năm. Các Ban chuyên môn, phóng viên lên kế hoạch cụ thể, chi tiết. Cuối cùng thành kế hoạch chi tiết của

tờ báo. Ngoài kế hoạch tuyên truyền những nhiệm vụ lớn, trọng tâm, tờ báo còn cần có kế hoạch và chuẩn bị lực lượng viết về các sự kiện

đột xuất. Lập kế hoạch cho các tình huống này sẽ giúp tờ báo không bị động, có tin tức nhanh nhất và đầy đủ nhất.

Ở bất kỳ tòa soạn nào, Ban Biên tập và phóng viên có mối quan hệ khăng khít. Việc tranh luận giữa Ban Biên tập và phóng viên là

điều khó tránh khỏi ở Việc tranh luận này để giúp báo có những bài viết tốt hơn, ý tưởng đúng hướng hơn. Để mỗi số báo được xuất bản

thuận lợi, hàng ngày, giữa Ban Biên tập và phóng viên luôn có sự trao đổi với nhau thông qua buổi họp giao ban. Tại hầu hết các nhật bảo

đều có giao ban đầu giờ sáng. Với những nhật báo lớn, có nhiều cơ quan thường trú, đại diện trên khắp cả nước thì việc thiết kế các phần

mềm giao ban trực tuyến là yêu cầu tất yếu để các cuộc họp được được diễn ra thuận lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí. Vào đây, Ban Biên tập

và phóng viên ở các tỉnh, thành có thể trao đổi trực tiếp với nhau đề tài, đề xuất. Từ đó, Ban Biên tập tổng hợp lại và quyết định phóng viên

sẽ làm gì trong ngày hôm đó, cho số báo ngày mai ra.

Biên tập viên, Ban biên tập cần phải sáng suốt trong việc lựa chọn thông tin để đăng tải, chính từ việc sử dụng thông tin chính xác

sẽ giúp cho chất lượng nội dung bài viết được nâng cao. Các thể loại phải đảm bảo yêu cầu đặt ra, đúng tiêu chí, không dài dòng, thông tin

đầy đủ, có vấn đề, định hướng cho người đọc.

Đồng thời việc lên kế hoạch chi tiết cũng góp phần giúp tòa soạn tự chủ về nguồn tin. Đây là yêu cầu cấp thiết để tiến tới xây dựng

quy trình chuẩn sản xuất chuyên trang trên tờ báo. Qua khảo sát và phỏng vấn sâu, hai báo Quốc phòng Thủ đô và Quân khu 2 hiện nay,

hằng tuần, phóng viên đăng ký đề tài, sau khi được Ban Biên tập phê duyệt, phóng viên đi cơ sở khai thác thông tin về viết bài, và chuyển

về tòa soạn. Chưa kể còn có tình trạng, phóng viên thu thập được gì thì viết nấy. Điều này dẫn tới sự bị động trong việc cung cấp thông tin,

cá biệt có trường hợp, tác phẩm không đảm bảo được chất lượng, làm ảnh hướng tới việc duy trì sự ổn định của chuyên trang cũng như tiến

độ xuất bản.

Trong khuôn khổ luận văn, tác giả xin đưa ra gợi ý về một quy trình chuẩn theo một cơ chế linh động sẽ khắc phục được bất cập,

nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công tác hậu phương quân đội như sau:

Bước 1, Ban Biên tập căn cứ nhiệm vụ chính trị, chỉ đạo của cơ quan chủ quan và dự báo các vấn đề, sự kiện diễn ra trong một

năm để xây dựng kế hoạch khung tuyên truyền cho cả năm, từng quý, từng tháng.

71
Bước 2, ban chuyên môn và phóng viên, trên cơ sở bám sát đời sống, các sự kiện, đề phát hiện các đề tài, chủ động xây dựng kế

hoạch tuyên truyền từng tuần, tháng, quý, trình Ban Biên tập. Trên cơ sở 2 kế hoạch này, Thư ký tòa soạn có trách nhiệm cụ thể hóa thành

một kế hoạch tuyên truyền thống nhất, vừa bảo đảm tính thời sự, linh hoạt vừa nâng cao được hiệu quả tuyên truyền, chủ động cung cấp

thông tin cần thiết nhất cho công chúng.

Áp dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào hệ thống tổ chức sản xuất

Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên thiếu, trình độ có hạn, đầu việc nhiều thì đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin, phương

pháp quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý báo chí là việc làm cấp thiết. Điều đó vừa tinh giản được biên chế theo chủ trương chung của

Bộ Quốc phòng hiện nay, vừa quán xuyến công việc một cách có hiệu quả. Đồng thời, cần trang bị cho bộ máy phóng viên, biên tập trang

thiết bị hiện đại (máy ảnh, máy tính, máy ghi âm), thực hiện hiệu quả các bước trong quy trình sản xuất sản phẩm báo chí của tòa soạn.

Bên cạnh đó, đổi mới cách thức theo dõi, xử lý thông tin phản hồi. Thông tin phản hồi được tiếp nhận qua phòng bạn đọc, qua mục

bình luận dưới mỗi tin bài, mạng xã hội, điện thoại, email.

3.2.3. Giải pháp đổi mới nội dung, hình thức

Nghiên cứu nhu cầu thông tin của người đọc

Công chúng quyết định vai trò, vị thế và sức mạnh xã hội của báo chí và nhà báo. Vì vậy, mỗi cơ quan báo chí cần xác định rõ

công chúng của mình là ai, họ mong muốn gì, hy vọng gì và chờ đợi điều gì từ tờ báo của mình, để từ đó có phương án, kế hoạch, phục vụ

công chúng của mình một cách hữu hiệu nhất.

Đổi mới phương thức khai thác thông tin

Bên cạnh đó, các báo đặc biệt là báo Bộ Quốc phòng cũng cần đổi mới phương thức thông tin, nhất là những bài viết tuyên truyền

về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác hậu phương quân đội đề tác phẩm trở nên sinh động, bớt khô cứng. Điều này

buộc việc thu thập, khai thác thông tin của phóng viên đòi hỏi cao hơn, toàn diện hơn, tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Những

thông tin nóng hổi tính thời sự, những bình luận, phân tích thấu đáo về công tác hậu phương quân đội chắc chắn sẽ thuyết phục được công

chúng và tạo sức hấp dẫn cho tờ báo. Muốn vậy, nhà báo phải bám sát thực tế, lăn lộn với cơ sở, tôn trọng sự thật, đưa tin khách quan và

dũng cảm đương đầu với khó khăn, thách thức.

Tăng cường tính hấp dẫn cho sản phẩm báo chí

Trước tiên, nội dung thông tin phải mới và cần cho bạn đọc, giúp bạn đọc là tiếp thu, giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực

trong quá trình họ thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng thời nâng cao trình độ cho họ. Mới về nội dung ở đây, không phải là những sự kiện,

chi tiết giật gân, mà là ở tính vấn đề. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thế mạnh của mình, sẽ rất hiệu quà nếu các báo ưu tiên hơn cho những

bài báo, bài nghiên cứu lý luận có chiều sâu về công hậu phương quân đội, những bài viết có luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính

72
sách, chuyển tải những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước từ đó phản ánh việc thực hiện trong cuộc sống, tìm ra những cách làm

hay để nhân rộng, cũng như phê phán cách làm hình thức, kém hiệu quả.

Để hấp dẫn, mới về nội dung cần: đi thẳng vào những vấn đề về công tác hậu phương quân đội mà mọi người đang hết sức quan

tâm, muốn tìm lời giải đáp hoặc muốn nghe ý kiến cụ thể của những cơ quan có thẩm quyền cao nhất. Là làm mới thông tin cũ, các bài viết

đưa ra không chỉ dừng ở cách chỉ thông tin sự kiện, phản ánh lại thông tin đó diễn ra như thế nào mà thông tin đó được nhìn một cách tổng

hợp, đầy đủ và toàn diện nhất. Là đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý để cấp ủy các cấp học tập, vận dụng vào địa phương mình.

Là những bài viết đi sâu điều tra, phân tích thực tiễn về công tác hậu phương quân đội, dám nói, dám đưa ra dẫn chứng cụ thể để có những

kết luận, đánh giá chính xác về những sai phạm; về những bức xúc của người dân... Nâng cao bản lĩnh và tính chiến đấu của báo chí cách

mạng là vấn đề mấu chốt để nâng cao sức hấp dẫn của chuyên trang hậu phương quân đội nói riêng và báo chí quân đội nói chung.

Tóm lại, việc đổi mới nội dung để chuyển tải thông tin tới bạn đọc hiệu quả nhất, không chỉ thuần túy đưa thông tin mà phải có

phân tích, bình luận, có định hướng để giúp người đọc hiểu rõ cái đúng, cái sai, qua đó giúp mọi người biết bảo vệ lẽ phải, bảo vệ cái đúng,

làm theo cái tốt, cái đẹp, biết ghét thói hư tật xấu và hướng tới những giá trị nhân văn cao cả, vì cuộc sống bình yên, tốt đẹp của mọi người,

mọi nhà và cả xã hội.

Đổi mới phương thức - hình thức thể hiện

Qua khảo sát cho thấy chỉ có báo Quân đội nhân dân xây dựng những chuyên mục riêng cho chuyên trang hậu phương quân đội.

Những chuyên mục này được duy trì nền nếp, phục vụ đúng đối tượng mục đích thì sẽ tạo nên được sức hấp dẫn cho chuyên trang cũng

như “giữ chân” độc giả cho tờ báo. Chính vì vậy việc xây dựng những chuyên mục riêng để tăng sức hấp dẫn cho chuyên trang là điều cực

kỳ cần thiết.

Cùng với đó là đa dạng hóa về thể loại báo chí, việc sử dụng nhiều thể loại báo chí sẽ làm phong phú cách thức thể hiện thông tin,

đa dạng trong sáng tạo tác phẩm. Trong đó ưu tiên những thể loại như phỏng vấn, giải đáp thắc mắc, hay nhắn gửi tin, thư (như chuyên

mục “lời nhắn gửi” của báo Quân đội nhân dân), nhằm nâng cao tính tương tác của tờ báo, khiến những bài viết không còn mang nặng tính

tuyên truyền, tạo sự gần gũi cho độc giả.

Đồng thời đối với hình thức, cách thức trình bày các bài viết cũng nên có sự đổi mới, nâng cấp. Người đọc ngày nay được tiếp cận

một cách nhanh chóng với thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau, họ có nhiều cơ hội để lựa chọn thông tin nhưng thời gian dành cho việc

đọc thì ngày càng bị rút ngắn do áp lực của công việc. Việc phải đọc những bài viết dài, tốn nhiều thời gian sẽ làm độc giả “ngại”, do đó

hiệu quả thông tin của báo sẽ bị giảm. Tóm lại là phải làm trang báo sinh động và hấp dẫn hơn trên tinh thần: “thông tin tối đa trong lượng

chữ tối thiểu”, nghĩa là chữ viết trong bài cần được thu gọn một cách tối đa, nhiều ảnh, cách bố trí trang báo tạo ấn tượng về sự đơn giản,

dễ dàng cho người đọc...

73
Trong đó tuân thủ các tiêu chí: ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, sinh động; bài viết ngắn, cô đọng, súc tích, chọn lọc thông tin; tăng

cường ảnh minh họa, chú thích, hộp thông tin. Theo đó mỗi tòa soạn nên có cách thức tự nâng cấp cách thức trình bày như:

Thứ nhất: hay đổi kỹ thuật viết. Với lối viết truyền thống thì: Tít + sa-pô + ảnh thường nhỏ; Lối viết hiện đại sa-pô ngắn gọn,

nhiều tít phụ, ảnh lớn + hộp thông tin... Trong đó, việc đầu tư cho tít bài là rất cần thiết, tít bài nói chung nên ngắn gọn, chặt chẽ, nội dung

tít phải độc đáo, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nhờ đó, việc trình bày tít bài một cách ấn tượng sẽ dễ dàng hơn, tính thẩm mỹ cũng vì

thế mà cao hơn.

Bên cạnh đó, sự dài dòng của bài viết dễ làm cho người đọc cảm thấy chán, ngại đọc. Thiết lập sapo và hộp thông tin chính là để

mở ra nhiều cửa sổ giúp bạn đọc tiếp cận bài báo một cách nhanh nhất, xóa đi cảm giác nhàm chán khi đọc, góp phần làm tăng tính sinh

động khi trình bày trang bảo.

Thứ hai, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, không đánh đố bạn đọc, phải phù hợp với đại đa số. Thậm chí, khi đưa ngôn ngữ

khoa học vào tác phẩm báo chí cũng phải chọn góc tiếp cận, chọn ngôn ngữ phù hợp để chuyển tài, để độc giả dễ dàng hiểu được các khái

niệm khoa học trong tác phẩm báo chí... Cân bằng giữa thông tin tư vấn, chỉ dẫn với thông tin khách quan nhằm đáp ứng được các tiêu chí

quan trọng của việc đưa thông điệp như: đem lại lợi ích cho công chúng, có khả năng tác động mạnh tới công chúng.

Thứ ba, Giảm thiểu phần chữ, tăng cường hình ảnh (có thể là hình vẽ, biểu đồ, bảng biểu, số liệu...). Thông tin hình ảnh luôn đến

với bạn đọc nhanh hơn rất nhiều thông tin chữ viết. Do đó, bên cạnh việc rút gọn nội dung bài viết, đặt tít ngắn gọn, ấn tượng... thì ngược

lại, hình ảnh trên trang báo ngày càng cần phải nhiều hơn, diện tích lớn hơn, rõ ràng hơn, tính cập nhật phải cao hơn. Sự kết hợp giữa ảnh,

minh hoạ và tít bài là mối quan hệ hữu cơ không thể thiếu, giúp nâng cao giá trị của bài viết.

3.2.4. Một số khuyến nghị

Đặc trưng của các tòa soạn báo chí quân đội là trực thuộc cơ quan chủ quản như: Tổng Cục Chính trị (báo Quân đội nhân dân),

Quân khu 2 (báo Quân khu 2), Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội (Báo Quốc phòng Thủ đô)...các Quân khu, Quân đoàn, Binh chủng, Quân chủng

thuộc Bộ Quốc phòng. Nhìn chung, hầu hết các tòa soạn đều được áp dụng những cơ chế đặc thù của đơn vị quân đội. Chính vì vậy để nâng

cao chất lượng cho chuyên trang hậu phương quân đội nói riêng, báo chí quân đội nói chung thì trước tiên cần có những khuyến nghị với cơ

quan chủ quản của tòa soạn:

Thứ nhất, tăng cường nguồn nhân lực phục vụ cho các tòa soạn. Mặc dù trong giai đoạn hiện nay Bộ Quốc phòng đang có chủ

trương tinh giảm biên chế tuy nhiên với đặc thù ngành nghề báo chí có thể thấy việc thiếu khuyết cán bộ đã gây ra không ít khó khăn cho

các tòa soạn. Theo biểu biên chế các toàn soạn báo chí thuộc các Quân khu, Quân đoàn chỉ có 9 cán bộ, phóng viên. Nhiều tòa soạn các cán

bộ phải kiêm nhiệm từ hai đến ba công việc cùng một lúc dễ dẫn đến việc không làm “tròn vai”, cũng như gây áp lực về tâm lý khi sáng tạo

tác phẩm. Đội ngũ phóng viên thực chiến còn ít nên việc phân bổ đi cơ sở, đặc biệt là với những cơ quan có địa bàn rộng, là công việc “cân

74
não” với Ban Biên tập. Để có những đề tài hay, bài viết đột phá, phóng viên phải “ăn, nằm” cùng địa bàn, nhưng quân số ít, sự kiện nhiều,

có đôi lúc Ban Biên tập phải hi sinh chất lượng để đổi lấy số lượng thông tin. Chính vì vậy, việc khuyến nghị tăng cường quân số cho các

cơ quan báo chí (đặc biệt là các báo trực thuộc quân khu, quân đoàn) là việc quan trọng, cần làm sớm nhất.

Thứ hai, có những chính sách đặc thù cho cơ quan báo chí. Có thể khẳng định, ngoài bản chất hoạt động chính trị – xã hội, cơ chế

can thiệp xã hội của báo thông qua quá trình cung cấp thông tin, kiến thức, tạo diễn đàn chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm trong công chúng,

từ đó góp phần mở rộng và làm phong phú thêm vốn kiến thức, hiểu biết, làm thay đổi nhận thức, trước hết là nhận thức chính trị. Báo chí

là kênh quan trọng để người dân thực hiện quyền giám sát, quyền phản biện một cách hiệu quả. Hệ thống báo chí – truyền thông có tác

dụng thúc đẩy quan trọng đối với phản biện xã hội cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Chính vì vậy, cơ quan báo chí cần có những cơ chế đặc

thù khi tham gia tác nghiệp.

Thứ ba, hỗ trợ thêm nguồn kinh phí hoạt động cho các cơ quan báo chí. Nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị tác nghiệp

cho đội ngũ nhà báo.

Ngoài ra, trong khuôn khổ luận văn, tác giả xin đưa ra một số khuyến nghị đối với cơ quan báo chí Bộ Quốc phòng:

- Xây dựng đề án nâng cấp tờ báo cho phù hợp với thời đại. Đặc biệt cần có sự nhìn nhận đúng đắn trong công tác xác định nhu

cầu của độc giả, từ đó xây dựng hệ thống chuyên trang, chuyên mục cho phù hợp với từng tòa soạn.

Các cơ quan báo chí cần có chủ trương kịp thời, chính xác tăng cường đầu tư vật lực, phương tiện, kinh phí, tạo điều kiện cho

phóng viên tham gia hoạt động nghiệp vụ (chính sách cho phóng viên khi đi cơ sở, bài chất lượng cao...)

- Đối với cơ quan báo chí trung ương (báo Quân đội nhân dân) là tòa soạn đi đầu trong việc áp dụng công nghệ hiện đại vào quy

trình tổ chức sản xuất, có đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhân viên dày dặn kinh nghiệm thì cần thường xuyên tổ chức hội nghị, tọa đàm trao

đổi với các cơ quan báo chí khác. Cùng với đó, tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ phóng viên, cộng tác viên.

- Tổ chức thêm các giải báo chí với giải thưởng có sức hút từ cấp thấp đến cấp cao, giành cho cả phóng viên, cộng tác viên trong

và ngoài ngành, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cho tờ báo. Đồng thời tạo động lực cho đội ngũ phóng viên có tính cạnh tranh trong

thực hiện nhiệm vụ, nâng cao năng lực bản thân. Đây cũng là diễn đàn giao lưu với đội ngũ người ngoài ngành, từ đó tạo thêm mối quan

hệ, sự liên kết với nhóm cộng tác viên mới.

75
Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực tế chuyên trang hậu phương quân đội trên ba báo Quân đội nhân dân hằng ngày, Quốc phòng

Thủ đô, Quân khu 2, tác giả luận văn đã đặt ra những vấn đề còn tồn tại về các mặt nội dung, hình thức, tổ chức sản xuất của chuyên trang.

Đây là cơ sở để từ đó rút ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo

in Bộ Quốc phòng. Trong đó có những nhóm giải pháp lớn: giải pháp về nguồn nhân lực; giải pháp về đổi mới nội dung, hình thức; giải

pháp về tổ chức sản xuất chuyên trang. Đồng thời từ đặc trưng của các cơ quan báo chí quân đội, tác giả đã nêu một vài khuyến nghị với cơ

quan chủ quản cấp trên. Tất cả nhằm mục tiêu xây dựng và nâng cao chất lượng chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc

phòng.

76
KẾT LUẬN

Hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước

tiến lên chính quy, hiện đại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp vẻ vang đó, có phần đóng góp tích cực, to lớn của báo chí quân đội, tạo nên một

“lực lượng vật chất” quan trọng cùng với quân đội ta đi đến bách chiến bách thắng. Đó là điều không ai có thể phủ nhận và là niềm tự hào

to lớn của những người làm báo - những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng trong quân đội nhân dân anh hùng.

Báo chí quân đội không chỉ đáp ứng nhu cầu thông tin, giáo dục chính trị tư tưởng, chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các

thế lực thù địch, mà còn là kênh tuyên truyền, giáo dục phòng, chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, xây dựng niềm tin, lý

tưởng cách mạng trong quân nhân. Bên cạnh đó, báo chí quân đội còn là cầu nối giữa cán bộ, chiến sĩ LLVT với hậu phương nơi quê nhà

và ngược lại. Chính vì vậy, việc tuyên truyền về công tác hậu phương quân đội là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của các cơ quan báo chí Bộ

Quốc phòng.

Tuy nhiên, trong cùng hệ thống cơ quan báo chí Bộ Quốc phòng hiện nay, công tác tuyên truyền về hậu phương quân đội của từng

tòa soạn lại có những nét khác nhau. Để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng cho công tác tuyên truyền hậu phương quân đội luận văn đã

đi sâu khảo sát ba tờ báo đặc trưng của Bộ Quốc phòng để đưa ra những nhận định đúng đắn nhất. Từ đó đưa ra những giải pháp xây dựng

một chuyên trang chuyên đề tập trung tuyên truyền công tác hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng.

Với đề tài “Tổ chức sản xuất chuyên trang Hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng”, ở chương 1, tác giả đã hệ thống cơ

sở lý luận về tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương đội trên báo in Bộ Quốc phòng. Trong đó, làm rõ các khái niệm về tôt chức sản

xuất, đưa ra khái niệm và những yếu tố cấu thành nên công tác hậu phương quân đội, đồng thời cũng khái quát những quan điểm, chủ

trương của Đảng và Nhà nước về công tác hậu phương quân đội.

Đây là tiền đề, là các nghiên cứu cơ sở cho chương 2 khi thực hiện khảo sát chi tiết trên ba báo Quân đội nhân dân hằng ngày,

Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 trong thời gian một năm (từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2019). Từ kết quả khảo sát đối với từng tác phẩm

trên chuyên trang hậu phương quân đội của ba tờ báo, tác giả đã đưa ra những phân tích sâu về nội dung, hình thức, tổ chức sản xuất. Kết

quả khảo sát cho ra những nhận định cơ bản về ưu điểm, hạn chế của từng tờ báo khi tuyên truyền về công tác hậu phương quân đội. Kết

quả này đồng thời là cơ sở quan trọng để giúp người đọc càng thêm khẳng định về mục đích của luận văn.

Chương 3 cũng là chương quan trọng của luận văn. Dựa trên quá trình khảo sát cụ thể, đã đặt ra những vấn đề còn tồn tại về các

mặt nội dung, hình thức, tổ chức sản xuất của chuyên trang. Đây là cơ sở để từ đó rút ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ

chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng. Trong đó có những nhóm giải pháp lớn: giải pháp về nguồn

nhân lực; giải pháp về đổi mới nội dung, hình thức; giải pháp về tổ chức sản xuất chuyên trang. Đồng thời từ đặc trưng của các cơ quan báo

77
chí quân đội, tác giả đã nêu một vài khuyến nghị với cơ quan chủ quản cấp trên. Tất cả nhằm mục tiêu xây dựng và nâng cao chất lượng

chuyên trang hậu phương quân đội trên báo in Bộ Quốc phòng.

Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian và địa bàn nghiên cứu rộng, luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả mong

rằng, những kết quả khảo sát, phân tích cũng như những giải pháp, khuyến nghị sẽ giúp ích cho ba báo nói riêng, cũng như báo in Bộ Quốc

phòng nói chung trong quá trình tiếp tục nỗ lực thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Từ đó tiếp tục phát huy vai trò to lớn của nền

báo chí cách mạng trong mặt trận tư tưởng, chính trị, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Hội Nhà báo Việt Nam, Tư tưởng HCM về báo chí cách mạng, NXB Chính trị quốc

gia, 2004.

2. Claudia Mast, Công tác biên tập, NXB Thông tấn, 2003.

3. Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc trong tình hình mới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 12/2018.

4. Đinh Văn Hường, Các thể loại báo chí thông tấn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.

5. Đinh Văn Hường, Tổ chức và hoạt động của tòa soạn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.

6. Đỗ Thị Thu Hằng, Giáo trình tâm lý học báo chí, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2013.

7. Đỗ Thị Thu Hằng, Tâm lý học ứng dụng trong nghề báo, NXB Thông tấn, 2013.

8. Hà Huy Phượng, Các loại hình báo chí hiện đại, Lý luận và thực tiễn, Đề tài cấp cơ sở trọng điểm năm 2014.

9. Hà Huy Phượng, Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in, NXB Lý luận chính trị, 2006.

10. Hoàng Phê (chủ biên), 2008, Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin

11. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011.

12. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 372.

13. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị Quốc gia, 2009.

14. Lê Thanh Hoa, Nguyễn Hoàng Sáu (tuyển chọn và biên soạn), Sáng mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ, NXB Quân đội nhân dân,

2010.

15. Loic Hervonet, Viết cho độc giả, Hội Nhà báo Việt Nam, 1999.

16. Lương Khắc Hiếu (chủ biên), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo, quản lý, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.

17. Nghị định số: 151/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

18. Nghị định số: 21/2009/NĐ-CP của Chính phủ.

19. Nghị định số: 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ.

20. Nguyễn Quang Hoà, Biên tập báo chí, NXB Thông tin & Truyền thông, 2016.

21. Nguyễn Quang Hoà, Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban thư ký toà soạn trong cơ quan báo chí, Luận án Tiến sĩ Báo

chí, Học viện Báo chí & Tuyên truyền, 2009.

22. Nguyễn Quang Hoà, Nghệ thuật ứng xử của nhà báo, con đường ngắn nhất tới thành công, NXB Thông tin & Truyền thông,

2017.

79
23. Nguyễn Quang Hoà, Phóng sự báo chí, Lý thuyết - Kỹ năng - Kinh nghiệm, NXB Thông tin & Truyền thông, 2016.

24. Nguyễn Quang Hòa, Phóng viên và tòa soạn, NXB Văn hóa - Thông tin, 2002.

25. Nguyễn Quang Hoà, Tổ chức hoạt động cơ quan báo chí, NXB Thông tin & Truyền thông, 2016.

26. Nguyễn Văn Dững, Báo chí giám sát, phản biện xã hội ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017.

27. Nguyễn Văn Dững, Báo chí và dư luận xã hội, NXB Lao động, 2011.

28. Nguyễn Văn Dững, Báo chí, truyền thông hiện đại - Từ hàn lâm đến đời thường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.

29. Nguyễn Văn Dững, Cơ sở lý luận Báo chí, NXB Lao động, 2013.

30. Nguyễn Văn Dững, Hữu Thọ, Nguyễn Thị Thoa, Tác phẩm báo chí, NXB Lý luận Chính trị, 2006.

31. PGS, TS. Hà Huy Phượng, 2015, Tổ chức sản xuất sản phẩm báo in, , Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

32. PGS, TS. Trương Ngọc Nam, Hướng tới một nền báo chí chuyên nghiệp hơn, Tạp chí Người làm báo online, 12/07/2016,

16:49.

33. Phạm Văn Đồng, Đào tạo thế hệ trẻ của dân tộc thành những người chiến sĩ cách mạng dũng cảm thông minh sáng tạo,

NXB Sự thật, 1969.

34. Philippe Gaillard, Nghề làm báo, NXB Thông tấn, 2004.

35. Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ.

36. Quyết định số: 212/2006/QĐ-BQP của Bộ Quốc phòng.

37. Quyết định số: 38/2010/QĐ-TTG của Thủ tướng chính phủ.

38. Thông tư số: 09/2012/TT-BQP của Bộ Quốc phòng.

39. Thùy Long - Hương Thư (chủ biên), Kỹ năng thu thập thông tin và viết bài, NXB Thông tấn, 2012.

40. Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Phát huy vai trò của báo chí Quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,

Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 6/2013

41. Trần Quang, Các thể loại chính luận báo chí, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.

42. Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, Tạp chí Quốc phòng

toàn dân, tháng 5/2015

43. TS. Hà Huy Phượng, “Các loại hình báo chí hiện đại - lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Báo chí &

Tuyên truyền, 2014.

44. TS. Nguyễn Quang Hoà,“Nâng cao chất lượng hoạt động của Ban thư ký toà soạn trong cơ quan báo chí”,Luận án Tiến sĩ

Báo chí, Học viện Báo chí & Tuyên truyền, 2009.

80
45. TS. Nguyễn Thị Trường Giang, 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới, NXB Chính trị quốc gia, 2014.

46. TS. Nguyễn Thị Trường Giang, Sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử, NXB Chính trị quốc gia, 2014.

47. TS. Trần Bá Dung,“Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà Nội”, Luận án Tiến sĩ Báo chí, Học viện Báo

chí & Tuyên truyền, 2008.

48. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2014.

49. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2014.

50. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

81
PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 01

PHỎNG VẤN SÂU

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

1. THÔNG TIN CHUNG

Người thực hiện phỏng vấn: Nguyễn Hải Yến

Học viên lớp Cao học Báo chí học K24.2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Phỏng vấn nhà báo: Trần Thị H.

Chức vụ: Phó Tổng Biên tập báo Quốc phòng Thủ đô

Thời gian phỏng vấn: Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2020

2. NỘI DUNG

Hiện nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận văn cấp thạc sĩ với đề tài: Tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên

báo in Bộ Quốc phòng. (Khảo sát các báo Quân đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 năm 2019). Để có thêm thông tin phục vụ

nghiên cứu luận văn, rất mong đồng chí bớt chút thời gian trả lời những câu hỏi sau đây. 

Câu 1: Có thể nói công tác Hậu phương quân đội là công tác quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc

biệt. Vậy theo đồng chí, để tuyên truyền có hiệu quả công tác này, thì phải dựa những nội dung hay tiêu chí nào? (hay có thể nói

cách khác tuyên truyền về hậu phương quân đội là nói về những khía cạnh nào)?

Hậu phương quân đội ngay cái tên đã chỉ rõ đó là những gì nơi hậu phương liên quan đến người lính bộ đội cụ Hồ như: Cha mẹ,

vợ, con cái, quê hương của người lính và chính người lính-những người đã không tiếc máu xương, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn các nghĩa vụ

quốc tế, dũng cảm chiến đấu, hy sinh xương máu cho dân tộc; trực tiếp tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc… Hoặc hiểu cụ

thể hơn đó chính là chính sách với gia đình và bản thân quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị, người xuất ngũ (về hưu, thương binh, bệnh

binh), gia đình liệt sĩ…Mục đích làm điều đó để họ có chính sách tốt hơn ổn định, góp phần thiết thực động viên quân nhân tại ngũ yên tâm

phục vụ công tác; thanh niên cũng hăng hái lên dường nhập ngũ. Nó bao gồm các chính sách: khen thưởng, cấp tiền tuất, tìm công ăn việc

làm cho thương binh, bệnh binh, khám chữa bệnh đối với con cái quân nhân-Đây là chính sách xã hội của Nhà nước nhằm mục đích cao

nhất là nâng cao sức chiến đấu của Quân đội.

Vậy chính sách hậu phương quân đội có thể hiểu rộng ra là: Việc đền ơn đáp nghĩa (xây nhà tình nghĩa, nhà đồng đội, tặng phương

tiện, trang bị y tế cho các trung tâm điều dưỡng thương binh) thực hiện các chế độ liên quan đến thương binh, liệt sỹ, thân nhân của thương

binh liệt sĩ (quy tập, thông tin liệt sỹ; chế độ an táng từ trần, tại nạn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phòng chống

82
thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, đền ơn đáp nghĩa…); giải quyết việc làm cho con liệt sĩ, thương binh nặngm thăm hỏi, tặng quà, khám chữa

bệnh, cấp thuốc miễn phí, quyên góp tặng sổ tiết kiệm cho các gia đình chính sách, tu sữa nghĩa trang liệt sĩ); chế độ an điều dưỡng, phục

hồi sức khoẻ, chính sách nhà đất, nhà ở, bảo hiểm y tế với cán bộ, nhân viên, trường hợp hợp chính sách, thân nhân gia đình chính sách, mẹ

Việt Nam Anh hùng, Lão thành cách mạng… Ngoài ra thì còn là việc chăm lo các chế độ, chính sách đối với gia đình quân nhân, công

nhân, viên chức quốc phòng tại ngũ

Câu 2: Bên cạnh những thành tích đã đạt được, đồng chí có thể cho biết một vài hạn chế đối với ấn phẩm báo in hiện nay

của Báo Quốc phòng Thủ đô? (khách quan và chủ quan?)

Nằm trong xu thế chung của báo chí hiện nay, đó là hướng tới tính thời sự, nhanh, lạ và tiện lợi, rõ ràng báo in đang bị thụt lùi so

với những loại hình báo chí khác như điện tử, truyền hình, phát thanh… Qua nhiều khảo sát, tỉ lệ độc giả lựa chọn báo viết (kể cả với

những tờ báo lớn trên thế giới) những năm vừa qua cũng giảm hơn trước rất nhiều. Hình ảnh đi đến sạp báo để mua một tờ báo nào đó nó

sẽ nhiều thời gian so với bỏ ra một số tiền nhỏ để mua và đọc báo trên mạng. Trong khi đó, Báo Quốc phòng Thủ đô không phải là báo

ngày mà là báo định kỳ 1/2 số. Điều này thêm một lần nữa là một bất lợi cho tính thời sự của tờ báo. Ngoài ra báo loại nhỏ, về dung lượng

của mỗi trang cũng hạn chế so với các tờ báo lớn như Nhân dân, Quân đội… Song đó là những yếu tố khách quan.

Còn yếu tố chủ quan, hiện tờ báo đã phản ánh toàn diện đến mọi khía cạnh của chính sách hậu phương quân đội song có một

thực tiễn, cán bộ, phóng viên, nhân viên của Báo trình độ không đồng đều, có đồng chí chưa qua cơ sở nhiều hoặc từ các lĩnh vực khác

chuyển sang làm báo, do đó cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng tin, bài cũng như phương pháp thể hiện. Bên cạnh đó, do yêu cầu về

biên chế, hiện nay, mỗi phóng viên của Báo phải đảm nhiệm nhiều lĩnh vực khác nhau, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc

chuyên sâu và chất lượng tin, bài nói chung…Từ những yếu tố đó có thể thấy, hiện Báo Quốc phòng Thủ đô đã phản ánh diện rộng, đa

chiều tới mọi mặt của hậu phương quân đội nhưng thể loại còn những hạn chế nhất định. Đa số các thể loại dừng lại ở phản ánh, phỏng vấn

mà chưa có những loạt bài chuyên sâu như bình luận, phóng sự…

Câu 3: Ban biên tập đã có những giải pháp hay đề xuất cụ thể nào để tăng cường hoạt động tuyên truyền cho công tác hậu

phương quân đội?

Chính sách hậu phương quân đội đó là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và như đã nói ở trên thực hiện tốt nhiệm vụ này chính

là nâng cao sức chiến đấu, sức mạnh tổng hợp cho Quân đội, do đó hơn bao giờ hết, Báo Quốc phòng Thủ đô luôn chú trọng đầu tư và quan

tâm hơn nữa đến mảng nôi dung này. Ví dụ trước đây, báo chưa phân công cụ thể các phóng viên chuyên trách thì dần đã đi theo hướng

phan công những phóng viên cụ thể chuyên theo dõi, viết bài về các nội dung này. Điều này mục đích để các tin bài có chiều sâu, toàn diện.

Ngoài ra trong các buổi giao ban tăng thẳng thắn phê bình, rút kinh nghiệm những tin, bài nói chung và mảng chính sách hậu phương quân

83
đội nói riêng để mỗi đồng chí tự rút kinh nghiệm, không ngừng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ, Cùng

với đó, báo cũng phối hợp với cac cơ quan Báo Quân đội… cử phóng viên thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, từ đó có kiến thức, kỹ

năng viết tin, bài tốt hơn. Đặc biệt, ngoài đăng tin, bài ở 4 loại hình báo chí của Báo: Truyền hình, báo viết, phát thanh và báo ảnh, Báo còn

chủ động phối kết hợp với các báo Trung ương, Quân đội và Hà Nội để tuyên truyền rộng rãi hơn những hoạt động của LLVT và nhân dân

Thủ đô, qua đó tuyên truyền đến mọi người dân hiểu rõ, nắm sâu đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với quân nhân

nói chung, những đối tượng chính sách, từ đó thực hiện tốt hơn nghĩa vụ của mình với Tổ quốc.

Câu 4: Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, báo điện tử ngày càng có xu hướng "chiếm lĩnh" thị trường thông tin,

vậy nhưng với đặc điểm của đơn vị quân đội, ấn phẩm báo in là không thể thay thế được. Vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng báo

in, Báo Quốc phòng Thủ đô có những định hướng thế nào cho tương lai?

Như đã nói, để nâng cao vị thế của Báo in, ngoài những giải pháp trên, Báo Quốc phòng sẽ tăng cường hơn nữa các thể loại tin, bài

trên cả 4 loại hình; không ngừng đổi mới, chú trọng tới phương pháp viết trình bày cũng như tính thời sự của tin bài; thường xuyên biểu

dương những điển hình tiên tiến trong cơ quan, mục đích nhằm nhân rộng những cách làm hay, tấm gương nhiệt huyết với nghề, tạo sự lan

toả trong toàn cơ quan. Cùng với đó, hạn chế tối đa những mảng đề tài không còn mang tính thời sự… Thường xuyên tổ chức các cuộc thi,

bình chọn tác phẩm trong chính cơ quan, cao hơn là tham gia các cuộc thi do các cấp tổ chức, từ đó tạo tính cạnh tranh, góp phần nâng cao

chất lượng của tờ báo…

Xin trân trọng cảm ơn nhà báo!

84
PHỤ LỤC 02

PHỎNG VẤN SÂU

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

1. THÔNG TIN CHUNG

Người thực hiện phỏng vấn: Nguyễn Hải Yến

Học viên lớp Cao học Báo chí học K24.2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Phỏng vấn nhà báo: Đào Dâng T.

Chức vụ: Thư ký toàn soạn báo Quân khu 2

Thời gian phỏng vấn: Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2020

2. NỘI DUNG

Hiện nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận văn cấp thạc sĩ với đề tài: Tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên

báo in Bộ Quốc phòng. (Khảo sát các báo Quân đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 năm 2019). Để có thêm thông tin phục vụ

nghiên cứu luận văn, rất mong đồng chí bớt chút thời gian trả lời những câu hỏi sau đây.

1. Có thể nói công tác Hậu phương quân đội là công tác quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Với

đặc điểm QK2 bao trọn 9 tỉnh phía Tây miền Bắc, là khu vực rộng, hầu hết là các tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn. Công tác Hậu

phương quân đội đã được Quân khu 2 triển khai có hiệu quả trong suốt những năm qua. Là đại diện, tiếng nói của Quân khu, báo

Quân khu 2 đã có những hoạt động tuyên truyền cụ thể ntn?

Với chức năng nhiệm vụ của mình, Báo Quân khu 2 - Cơ quan ngôn luận của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, tiếng nói của LLVT

và nhân dân Tây Bắc, đã chủ động bám sát tình hình thực tiễn, tuyên truyền có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Xuất phát điểm từ

một tờ tin phát hành theo quý, rồi đến báo phát hành 1 tháng 1 số những ngày đầu thành lập, quy trình làm báo từ khâu tác nghiệp của

phóng viên đến biên tập tin, bài đều rất lạc hậu, ít người biết đến thì đến nay, đội ngũ cán bộ phóng viên Báo Quân khu có thể tác nghiệp

được ở cả 4 loại hình báo chí (Báo in, báo điện tử, truyền hình, phát thanh). 

Nội dung tuyên truyền nhiệm vụ Quân sự - Quốc phòng (QS-QP) trên địa bàn tương đối toàn diện. Trong đó trọng tâm là tuyên

truyền, phản ánh công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, kết quả thực hiện ba khâu đột phá về tổ chức biên chế, xây dựng chính quy, rèn

luyện kỷ luật và cải cách hành chính quân sự... Các nội dung: Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, kết quả Phong trào

thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”; công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, giúp dân xóa đói, giảm

nghèo, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, công tác cứu hộ, cứu nạn; vai trò của Quân đội trong

85
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân" cũng được Báo Quân khu 2 nói riêng, các cơ quan báo chí

nói chung chú trọng phối hợp tuyên truyền sâu đậm.

Đội ngũ phóng viên “3 trong 1”, “4 trong 1” đã bám sát lĩnh vực, địa bàn được phân công theo dõi; đồng thời phát huy hiệu quả

đội ngũ thông tin viên, cộng tác viên phản ánh kịp thời các hoạt động, không để sót lọt thông tin

2. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, đồng chí có thể cho biết một vài hạn chế đối với ấn phẩm báo in hiện nay của

báo Quân khu 2? (khách quan và chủ quan?)

-Không trả lời

3. Hiện tại trên ấn phẩm báo in vẫn chưa có những chuyên trang hay chuyên mục cụ thể cho công tác hậu phương quân

đội. Vậy nguyên nhân là do đâu?

Trên thực tế, địa bàn 9 tỉnh do Quân khu 2 quản lý rất rộng lớn, mà đối với báo Quân khu 2 nói riêng thời lượng xuất bản ít 1 tuần

một số, đất để trình diễn tin, bài thì không nhiều chỉ có 8 mặt báo, chính vì vậy ngay từ khi xuất bản số báo đầu tiên Ban Biên tập đã thống

nhất không phân chia chuyên trang. Thay vào đó, tòa soạn đăng tin, bài có tính chất thời sự, tuyển chọn những sự kiện, bài viết điển hình

nhất, nổi bật nhất, đáp ứng đúng tôn chỉ, mục đích của báo Quân khu 2.

4. Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, báo điện tử ngày càng có xu hướng "chiếm lĩnh" thị trường thông tin, vậy

nhưng với đặc điểm của đơn vị quân đội, tờ ấn phẩm báo in vẫn không thể thay thế được. Vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng báo

in, báo Quân khu 2 có những định hướng thế nào cho tương lai?

Về loại hình báo chí, báo Quân khu 2 đã mang tính chất cơ quan báo chí đa phương tiện: Xuất bản Báo in, Báo điện tử theo Giấy

phép của Bộ TT-TT và phối hợp với Đài PT-TH tỉnh Phú Thọ xuất bản Chương trình Truyền hình. Báo Quân khu 2 điện tử có giao diện

trang trọng và thân thiện; có phiên bản cho máy tính bảng và điện thoại di động với gần 20 chuyên mục cập nhật thông tin 24/24 giờ.

Với thế mạnh là cơ quan báo chí đa phương tiện, thời gian qua, Báo Quân khu 2 hoạt động đúng định hướng chính trị, thực hiện

tốt công tác tuyên truyền giáo dục, góp phần tạo chuyển biến quan trọng trong trong hệ thống chính trị. Báo Quân khu 2 đã phản ánh kịp

thời mọi mặt của đời sống xã hội một cách trung thực, sinh động cũng như ý chí, tâm tư nguyện vọng chính đáng, tiếng nói của các tầng

lớp nhân dân. Trong đó, hoạt động phối hợp tuyên truyền nhiệm vụ quân sự - quốc phòng được Báo Quân khu 2 phối hợp chặt chẽ với các

cơ quan báo chí Trung ương, địa phương quan tâm, coi trọng, đạt kết quả tốt, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự kết hợp với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội gắn với quốc phòng, an ninh. Công tác phối hợp có

sự đổi mới, số lượng tin, bài phản ánh đa dạng, phong phú, có chất lượng cao không chỉ tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng,

Nhà nước về nhiệm vụ quân sự - quốc phòng mà còn kịp thời động viên, cổ vũ cho cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu 2 phấn đấu hoàn thành

tốt nhiệm vụ theo chức trách nhiệm vụ được giao.

86
Xin trân trọng cảm ơn nhà báo!

PHỤ LỤC 03

PHỎNG VẤN SÂU

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

1. THÔNG TIN CHUNG

Người thực hiện phỏng vấn: Nguyễn Hải Yến

Học viên lớp Cao học Báo chí học K24.2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Phỏng vấn nhà báo: Nguyễn Thị K.A.

Chức vụ: Cán bộ phụ trách chuyên trang Hậu phương của chúng ta trên báo Quân đội nhân dân

Thời gian phỏng vấn: Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2020

2. NỘI DUNG

Hiện nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận văn cấp thạc sĩ với đề tài: Tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên

báo in Bộ Quốc phòng. (Khảo sát các báo Quân đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 năm 2019). Để có thêm thông tin phục vụ

nghiên cứu luận văn, rất mong đồng chí bớt chút thời gian trả lời những câu hỏi sau đây.

1. Xin đồng chí cho biết những nét khái quát nhất về chuyên trang Hậu phương của chúng ta?

Báo Quân đội nhân dân trực thuộc Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng là cơ quan của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc

phòng Việt Nam, là tiếng nói của lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam. Chuyên trang “Hậu phương của chúng ta” là một trang chuyên

đề của Phòng Công tác Đảng - Công tác chính trị, báo Quân đội nhân dân hằng ngày. Chuyên trang được đăng thường kỳ trên ấn phẩm báo

Quân đội nhân dân hằng ngày số ra vào thứ bảy. Chuyên trang không chỉ đề cập đến công tác Hậu phương quân đội mà trên chuyên trang

còn được lồng ghép những tin tức, bài viết về công tác Đảng - công tác chính trị có tính thời sự, dưới góc nhìn của ban biên tập tờ báo là

cần tuyên truyền ngay trong số báo này.

2. Đồng chí có thể mô tả về quy trình tổ chức sản xuất của chuyên trang?

Hiện nay thì báo Quân đội nhân dân đã áp dụng tòa soạn điện tử vào quy trình sản xuất. Cụ thể hiện nay tôi là người trực tiếp phụ

trách chuyên trang. Sau khi tổng hợp bài từ cộng tác viên, từ các cơ quan thường trực tôi sẽ biên tập lại toàn bộ về nội dung, hình thức (ảnh

minh họa), cũng như chọn lựa bài chính trên chuyên trang. Sau đó bài được đẩy trên hệ thống duyệt qua các cấp trưởng phòng Công tác

Đảng-Công tác chính trị. Nội dung được trưởng phòng đẩy tiếp lên kíp trực xuất bản báo ngày hôm đó. Thường thì bài khi thông qua được

thủ trưởng phòng thì đã ổn về cả nội dung và hình thức nên mình có thể yên tâm làm việc khác rồi. Nhưng cũng có đôi lúc bài bị đẩy về khi

87
lên đến kíp trực. Những bài bị đẩy về có thể là do thừa bài (hết chỗ dàn), hoặc bài lỗi thông tin, trường hợp nặng nhất là sai phương hướng,

tôn chỉ. Nhưng rất hiếm khi xảy ra trường hợp này.

3. Cộng tác viên đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong mỗi tòa soạn. Vậy đối với báo Quân đội nhân dân đã có những cơ

chế nào để tuyển dụng cũng như giữ chân cộng tác viên cho mình?

Khi đề cập đến vấn đề nhân lực không thể thiếu đội ngũ cộng tác viên, họ là cánh tay nối dài của các cơ quan báo chí và góp phần

không nhỏ trong việc xây dựng và phát triển một tờ báo. Nhiều bài viết của cộng tác viên thực sự có vấn đề, tạo sức hấp dẫn đối với bạn

đọc; buộc nhiều sở, ngành phải ngồi lại bàn bạc tìm cách tháo gỡ, khắc phục hậu quả (nhất là các vấn đề liên quan đến tiêu cực, mặt trái của

đời sống xã hội). Nhiều tác giả văn thơ tầm cỡ, được giới văn thơ nước nhà biết đến, cũng đều đặn xuất hiện trên các trang báo cuối tuần.

Các bài ký, bài thơ, truyện ngắn thấm đẫm nhân tình thế thái và sáng lên tinh thần nhân văn, khiến cho các số báo không nhạt, tẻ mà bay

bổng, nhiều sức hút hơn. Chính điều đó, đã giúp cho các số báo có sức nặng.

Trên chuyên trang Hậu phương của chúng ta thì có đến 30% số bài là dựa vào cộng tác viên. Chúng tôi luôn có chính sách tuyển

dụng liên tục cộng tác viên cho tòa soạn. Họ có thể là những người trong ngành đang công tác tại các cơ quan, đơn vị quân đội, hoặc cũng

có thể là từ các đài truyền thanh, truyền hình ở các địa phương. Đặc biệt là những cây bút chuyên nghiệp có thể là về lĩnh vực văn học,

nghệ thuật, hoặc khoa học... thậm chí chúng tôi còn ưu tiên những bác CCB đã về hưu viết bài cho chuyên trang. Bạn có thể thấy ngay trên

chuyên trang bây giờ, những chuyên mục đứng trang như “Chiến sĩ viết”, “Lời nhắn gửi” đây đều là những chuyên mục do cộng tác viên

viết. Họ viết rất thật vì những gì họ thấy đều là “thật”, không bị áp lực như người trong ngành như chúng tôi. Đặc biệt là những câu chuyện

kể, những bài tản văn đều mang ngôn từ trong sáng, dễ hiểu, gần gũi nhưng lại rất sáng tạo và có ý nghĩa cực kỳ sâu sắc.

Đối với việc “giữ chân” hay đào tạo cộng tác viên “ruột” hiện nay tòa soạn cũng đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ. Chúng

tôi cũng thường xuyên tổ chức những cuộc thi viết thuộc quy mô tòa soạn để khuyến khích phóng viên, cộng tác viên tham gia. Đây là cơ

hội để tìm kiếm cây bút mới, cũng như là cơ hội để phóng viên tự trau đồi, nâng cao bản lĩnh của mình.

3. Đồng chí nhận xét thế nào về chuyên trang hậu phương quân đội trên các báo cấp quân khu, quân đoàn hiện nay?

Có thể nói là những tờ báo này “nhỏ” hơn báo Quân đội nhân dân về mặt quy mô phản ánh. Tuy nhiên về cơ bản họ cũng đã làm

“tròn vai” của mình, đảm bảo về nội dung và hình thức.

4. Trong đó cũng có nhiều tờ báo không phân chia chuyên trang. Đồng chí đánh giá thế nào về vai trò của chuyên trang

trên báo chí?

Thực tế cho thấy không phải cơ quan nào cũng xây dựng được cho mình ấn phẩm nhật báo. Phần nhiều là tuần báo, hoặc nhiều

nhất là xuất bản hai số một tuần. Đây cũng là mặt hạn chế cho các cơ quan cấp quân khu, quân đoàn. Họ sẽ phải cân nhắc trong việc đăng

cái gì và đăng như thế nào, chính vì vậy có thể hiểu được việc những tờ báo này không phân chia chuyên trang. Tuy vậy, theo quan điểm

88
của tôi chuyên trang vẫn có vai trò cực kỳ quan trọng. Thứ nhất, chuyên trang định vị nội dung tin bài, giúp độc giả tìm kiếm thông tin dễ

dàng hơn. Thứ hai, chuyên trang làm tăng sức hấp dẫn của tờ báo. Thứ ba, chuyên trang thể hiện sự chuyên nghiệp trong công tác tổ chức

của tòa soạn. Từ đó phóng viên, biên tập viên, ban biên tập biết mình phải làm gì, làm như thế nào, đối tượng độc giả hướng tới là ai... Vậy

nên nếu có đủ điều kiện, mỗi tòa soạn nên xây dựng cho ấn phẩm của mình những chuyên trang cụ thể.

Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!

89
PHỤ LỤC 04

PHỎNG VẤN SÂU

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

1. THÔNG TIN CHUNG

Người thực hiện phỏng vấn: Nguyễn Hải Yến

Học viên lớp Cao học Báo chí học K24.2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Phỏng vấn nhà báo: Nguyễn Mạnh Q.

Chức vụ: Cộng tác viên báo Quân đội nhân dân

Thời gian phỏng vấn: Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2020

2. NỘI DUNG

Hiện nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận văn cấp thạc sĩ với đề tài: Tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên

báo in Bộ Quốc phòng. (Khảo sát các báo Quân đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 năm 2019). Để có thêm thông tin phục vụ

nghiên cứu luận văn, rất mong đồng chí bớt chút thời gian trả lời những câu hỏi sau đây.

Câu hỏi 1: Anh, chị đã làm cộng tác viên cho toàn soạn này lâu chưa?

Trả lời: Tôi đã làm công tác viên được 3 năm

Câu hỏi 2: Cách thức hoạt động của cộng tác viên trong toà soạn như thế nào?

Trả lời: Tôi thường làm việc trực tiếp với đồng chí phụ trách trang. Toà soạn sẽ gửi kế hoạch bài viết cho tôi theo tháng, sau đó tôi

sẽ nhận kế hoạch trả bài theo tuần.

Câu hỏi 3: Đề tài mà Anh, chị đảm nhiệm viết trong toà soạn là gì? Anh chị thường viết bài theo thể loại nào?

Trả lời: Tôi được đặt hàng viết bài cho chuyên đề công tác hậu phương quân đội. Là một nhà văn không chuyên, các bài viết của

tôi thường là thể loại tùy bút/ tản văn. Cũng đã từng trải qua những năm tháng trong quân ngũ nên các bài viết hầu hết là dưới góc nhìn cá

nhân, những kỷ niệm đã đi qua. Cũng có bài là khi trò chuyện cùng đồng đội cũ nảy sinh cảm hứng sáng tác. Tôi cũng thường xuyên có

những chuyến đi thực tế để tìm cảm hứng cho mình.

Câu hỏi 4: Các bài viết của Anh, chị có được đăng thường xuyên trong mỗi số báo không?

Trả lời: Cũng khá thường xuyên. Hầu hết các bài viết đặt hàng đều được đăng lên chuyên mục “Chiến sĩ viết”. Đôi khi tôi cũng

viết những bài về CCB.

Câu hỏi 5: Vậy nhuận bút cho cộng tác viên được tính như thế nào?

90
Trả lời: Nhuận bút được tính theo số lượng bài viết, ngoài ra toà soạn còn tính theo chất lượng bài viết, các bài viết chất lượng cao

sẽ được toà soạn hỗ trợ thêm.

Câu hỏi 6: Anh, chị có được nhận báo khi báo phát hành không?

Trả lời: Có

Câu hỏi 7: Anh, chị có nhận xét gì về chuyên trang hậu phương quân đội của toà soạn?

Trả lời: Chuyên trang này ra đời từ khá lâu, từ lúc trang thành lập thì tôi đã muốn được thử sức. Rất vui là sau khi gửi bài lên báo

thì được các bạn mời về cộng tác ngay. Về cơ bản thì chuyên trang có nội dung khá bao quát, các chuyên mục có chủ đề hay, đánh đúng

vào những gì độc giả quan tâm. Hình thức cũng hợp lý. Giá mà trang được in màu thì hình ảnh minh họa còn đẹp hơn nữa.

Câu hỏi 8: Có khi nào Anh, chị phản hồi về toà soạn về cách thức làm việc chưa?

Trả lời: Thường thì không. Tôi cũng làm việc được một thời gian khá lâu rồi và cũng chưa gặp phải vướng mắc gì cả.

Câu hỏi 9: Toà soạn có bao giờ tổ chức họp cộng tác viên hay không? và có bao giờ tổ chức những lớp học bồi dưỡng nghiệp vụ

báo chí không?

Trả lời: Thi thoảng toà soạn sẽ tổ chức họp cộng tác viên để gặp mặt, nắm bắt tư tưởng anh em cộng tác viên, còn về lớp học bồi

dưỡng thì tôi cũng đã được tham gia nhưng lâu rồi chưa thấy tòa soạn tổ chức tiếp.

Xin trân trọng cảm ơn anh!

91
PHỤ LỤC 05

PHỎNG VẤN SÂU

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN TRANG HẬU PHƯƠNG QUÂN ĐỘI TRÊN BÁO IN BỘ QUỐC PHÒNG

1. THÔNG TIN CHUNG

Người thực hiện phỏng vấn: Nguyễn Hải Yến

Học viên lớp Cao học Báo chí học K24.2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền

Phỏng vấn nhà báo: Trương Mạnh H.

Chức vụ: Phóng viên báo Quốc phòng Thủ đô

Thời gian phỏng vấn: Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2020

2. NỘI DUNG

Hiện nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận văn cấp thạc sĩ với đề tài: Tổ chức sản xuất chuyên trang hậu phương quân đội trên

báo in Bộ Quốc phòng. (Khảo sát các báo Quân đội nhân dân, Quốc phòng Thủ đô, Quân khu 2 năm 2019). Để có thêm thông tin phục vụ

nghiên cứu luận văn, rất mong đồng chí bớt chút thời gian trả lời những câu hỏi sau đây.

Câu hỏi 1: Có văn bản quy định quy trình sản xuất sản phẩm báo chí của cơ quan báo chí nơi anh, chị công tác?

Trả lời: Không có văn bản nào quy định quy trình nào cả. Công việc của biên tập viên, phóng viên được Tổng Biên tập trực tiếp

giao nhiệm vụ hàng tuần qua những buổi giao ban phòng. Tin, bài được chuyển trực tiếp cho Thư ký tòa soạn biên tập, dàn trang trước

ngày xuất bản 2 ngày. Nếu có vấn đề thì Thư ký sẽ trao đổi trực tiếp với phóng viên và sửa ngay tại chỗ hoặc phóng viên sẽ gửi lại trước

ngày xuất bản 1 ngày. Tổng Biên tập là người duyệt bản cuối cùng trước khi báo được xuất bản.

Câu hỏi 2: Toà soạn có kế hoạch cho cả năm hay cho từng tháng?

Trả lời: Có cả kế hoạch năm và kế hoạch tháng. Vào đầu năm mới, Tổng Biên tập sẽ giao nhiệm vụ cho trợ lý lập ra một kế hoạch

chung những công việc trọng điểm cần thực hiện trong năm đó coi như đó là mục tiêu của năm của toà soạn. Hàng tháng sẽ phải làm báo

cáo tháng để nắm được những công việc đã hoàn thành và chưa hoàn thành.

Theo anh, chị việc làm kế hoạch năm và kế hoạch tháng có thực sự phát huy tác dụng?

Việc xây dựng kế hoạch năm, kế hoạch tháng giúp Tổng Biên tập có thể chủ động kiểm soát công việc một cách tốt hơn, nó cũng

thể coi là một bản đánh giá thành tích vào cuối năm. Điểm hạn chế của phương pháp này là người lập kế hoạch là trợ lý sẽ rất khó nắm

được hết công việc của toà soạn, đồng thời phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác dẫn đến thời gian dành cho những công việc chuyên môn

cũng bị giới hạn, ảnh hưởng đến chất lượng công việc.

Câu hỏi 3: Toà soạn có cũng cấp đầy đủ trang thiết bị cho phóng viên không?

92
Trả lời: Khá đầy đủ với những phóng viên lâu năm, còn phóng viên trẻ thì cơ sở vật chất được cấp chưa bảo đảm cho công việc (cũ

và kém chất lượng).

Câu hỏi 4: Vậy nhuận bút toà soạn có bảo đảm cho phóng viên đầy đủ?

Trả lời: Các mức nhuận bút sẽ được tính toán và cấp đầy đủ vào mỗi tháng, theo đúng quy định.

Câu hỏi 5: Bài viết của cộng tác viên chiếm bao nhiêu phần trăm số lượng bài đăng của tạp chí mỗi số? Có trường hợp nào anh,

chị nhận được phản hồi tiêu cực từ cộng tác viên?

Trả lời: Bài viết của cộng tác viên chiếm từ 40% - 50% số bài của báo hàng tháng. Mỗi phóng viên thường từ viết 1-2 bài chính.

Số lượng tin tuỳ thuộc vào phân công nhiệm vụ của Ban Biên tập. Cũng có trường hợp toà soạn nhận được phản hồi từ công tác viên

(không nhận được báo, bài chưa được đăng…)

Câu hỏi 6: Nếu được thay đổi, anh chị mong muốn có sự đổi mới hay cải thiện gi với quy trình sản xuất hiện giờ?

Trả lời: Thay đổi nhân sự phụ trách chuyên trang theo quý. Một hoặc hai phóng viên chuyên trách quá lâu dễ dẫn đến việc đi vào

lối mòn, chủ đề bài viết không còn điểm sáng tạo. Ban Biên tập có kế hoạch phân công phóng viên tại cơ sở thời gian dài hơn để tiếp cận

thông tin một cách sâu sát, chính xác hơn. Cải thiện về mặt tài chính, có chế độ hỗ trợ tốt hơn, đầu tư trang thiết bị cho phóng viên cũng

như là có thêm chính sách về mặt tài chính cho các bài viết có chất lượng cao .

Xin trân trọng cảm ơn anh!

93
PHỤ LỤC 06

Đánh giá của độc giả về những tác phẩm tùy bút trên Báo Quân đội nhân dân, thông qua phản hồi từ báo điện từ qdnd.vn

94

You might also like