Một quan điểm về Triết học

You might also like

You are on page 1of 517

Một quan điểm về Triết học

TRẦN VĂN ĐỨC

MỘT QUAN ĐIỂM


VỀ TRIẾT HỌC

© Nhà xuất bản Tự Do

2
Một quan điểm về Triết học

Bản quyền cuốn sách này thuộc về tác giả và Nhà xuất bản Tự Do.
Cuốn sách này được phép sử dụng miễn phí cho những mục đích
phi lợi nhuận.

Biên tập: Mạnh Hùng

Thiết kế bìa: Park Bùi

Trình bày: Trần Khánh Lương

Xuất bản tháng 11/2020 bởi Nhà xuất bản Tự Do

3
Một quan điểm về Triết học

LỜI GIỚI THIỆU


CỦA NHÀ XUẤT BẢN TỰ DO

Trần Văn Đức là một tác giả trẻ và chưa được nhiều người biết
đến. Anh có những góc nhìn khác lạ về chính trị, về triết học đáng
được quan tâm. Nhà xuất bản Tự Do không có ý định bàn về đúng
– sai trong các quan điểm của anh, tuy nhiên, việc dám nghĩ, dám
viết, dám nói lên quan điểm cá nhân là một điều đáng được khích
lệ, nhất là với những người trẻ. Việc tự nghiên cứu, tự tìm tòi và
dám viết ra những quan điểm cá nhân sẽ thúc đẩy tiến trình mở
rộng không gian tự do về tư tưởng và khả năng tư duy độc lập.

Nhà xuất bản Tự Do xin giới thiệu tác phẩm “Một quan điểm về
triết học” của tác giả trẻ Trần Văn Đức đến với bạn đọc. Đây cũng
là một cách để khuyến khích sự quan tâm của độc giả đối với triết
học, nhất là triết học chính trị, vốn là một lĩnh vực khó khăn và xa
lạ với người Việt; khuyến khích việc tự nghiên cứu, tự khám phá
và nâng cao khả năng tư duy độc lập, cũng như khả năng viết ra
các quan điểm cá nhân để trình bày trước công chúng.

Có nhiều vấn đề mà cuốn sách này đề cập tới sẽ rất khó hiểu với
bạn đọc, như vấn đề lượng tử, vấn đề trí tuệ nhân tạo, … cũng như
có một số quan điểm của tác giả chắc sẽ gặp sự phản đối, như quan

4
Một quan điểm về Triết học

điểm về vô thần hay hữu thần, … Tuy nhiên, điều này cho thấy sự
nỗ lực và tâm huyết rất lớn của tác giả khi viết cuốn sách này, cũng
như tinh thần không ngại va chạm khi trình bày một quan điểm cá
nhân. Đây là những hạt mầm quý giá để ươm khu vườn tự do và
khai phóng.

Chúng tôi hy vọng rằng, độc giả sẽ chấp nhận cuốn sách này như
việc chấp nhận các quan điểm trái chiều trong một xã hội đa
nguyên và coi đây là một nguồn tài liệu tham khảo cho mỗi cá nhân
trong hành trình đi tìm một mô hình cho Việt Nam tương lai, như
mong muốn của tác giả.

Nhà xuất bản Tự Do

5
Một quan điểm về Triết học

LỜI MỞ ĐẦU

Quyển sách này được viết với mục đích là một tài liệu tham khảo,
giúp cho người đọc có thêm tài nguyên để suy tư, và tự thiết kế cho
mình một hệ thống tư duy nền tảng bao quát những vấn đề chính
yếu trong cuộc sống, từ đó định hướng hành vi của mình sao cho
đúng đắn.

Rất nhiều người vì thiếu kiến thức đã hành động sai trái mà vẫn
đinh ninh là mình đúng, và không thiếu những cá nhân cho đến khi
chết vẫn tự hào về việc mình đã làm là đúng đắn và giúp ích cho
nhân loại. Họ không biết rằng mình đã tạo nên một tai họa mà hậu
thế nhiều năm sau vẫn phải khắc phục hậu quả do các cá nhân đó
gây ra. Trong nội dung quyển sách này dù không trực tiếp nói ra
nhưng sẽ đề cập đến một vài cá nhân như vậy.

Chúng ta chưa thể chứng minh được là có linh hồn để chúng ta có


thể sống bất tử hay đầu thai kiếp sau và có cơ hội làm lại cuộc đời,
sửa chữa những sai lầm mà chúng ta đã gây ra hay không. Vậy nên
những thứ phía sau cái chết tạm thời nằm ngoài tầm hiểu biết của
chúng ta, nó không phải thứ chúng ta có thể kiểm soát và kỳ vọng.

6
Một quan điểm về Triết học

Thứ duy nhất mà chúng ta biết là chúng ta đang sống hiện tại, và
để cuối đời không hối tiếc về những việc chúng ta đã làm, thì chúng
ta phải có định hướng và hành động đúng ngay từ bây giờ.

Đương nhiên không ai có thể làm đúng tất cả mọi việc, kể cả những
người được phong tặng danh nhân. Ai cũng có những việc làm
khiến họ phải ôm hận trong cuộc đời. Thế nhưng ít nhất những
quyết định mang tính bước ngoặt lớn trong cuộc đời thì phải suy
nghĩ và hành động cẩn thận để tránh tối đa những sai lầm có thể
xảy ra, và kiến thức có thể giúp chúng ta điều đó.

Cá nhân tôi cho rằng, mọi thứ bắt đầu từ những điều đơn giản và
dần dần phát triển thành những thứ chúng ta thấy và cảm nhận hiện
giờ. Ví dụ: Muôn vàn màu sắc mà chúng ta thấy bắt nguồn từ sự
pha trộn theo tỉ lệ của ba màu cơ bản xanh lam, xanh lục, đỏ. Mọi
giai điệu của muôn vàn bài hát, được ghi lại chỉ bởi bảy nốt nhạc
đồ, rê, mi, fa, son, la. Gần như mọi ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng
hiện nay để tạo nên muôn vàn áng văn bất hủ, truyền tải triệu triệu
thông tin, đều bắt nguồn từ hai mấy chữ cái cơ bản tùy từng quốc
gia, dân tộc. Hai ký tự 0 và 1 tuy đơn giản nhưng lại tạo nên cuộc
đại cách mạng công nghệ thông tin làm thay đổi hẳn cách sống của
chúng ta như hiện nay.

7
Một quan điểm về Triết học

Cũng như vậy, thứ chi phối sự vận hành phức tạp của vũ trụ bao la
và kì bí kia, cũng được cấu tạo từ những hạt và quy luật cơ bản.
Thứ chi phối cách hành động của mỗi cá nhân cũng như cả xã hội
rộng lớn cũng chỉ là những quy luật đơn giản.

Hồi sinh viên tôi có mong ước có thể nói là khá ngây thơ, đó là,
cho đến lúc chết tôi có thể hiểu được chân lý của vũ trụ, tức là cách
thức mọi thứ vận hành. Tôi cho rằng vạn vật mà chúng ta nhìn
thấy, được kết nối với nhau bởi những sợi chỉ nhỏ mảnh, đó là
những định luật căn bản tạo thành vũ trụ. Và để đạt được điều đó
thì bắt buộc tôi phải tìm hiểu về nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ:
Vật lí, vật lí lí thuyết, sinh học, tâm lí học, kinh tế học, triết học,
sinh lí thần kinh cấp cao, trí tuệ nhân tạo… Những môn đó chỉ ở
mức căn bản, tôi không đi sâu vào vì tự thấy mình cũng không đủ
năng lực.

Nếu ví chân lí như một bức tranh toàn cảnh, thì những môn học
giống như những mảnh ghép rời rạc của bức tranh đó. Nếu ghép
những mảnh ghép đó một cách hợp lí và lùi ra ngắm nhìn, có thể
tôi sẽ lờ mờ nhận ra thứ mà tôi luôn tìm kiếm. Trùng hợp thay, đó
cũng chính là thứ mà những nhà triết học (siêu hình) nghiên cứu.

Triết học siêu hình chính là môn khoa học căn bản nhất, nó là đất,
là dinh dưỡng cho những môn khoa học kia có thể đứng vững và

8
Một quan điểm về Triết học

phát triển, hay nói cách khác, sâu thẳm trong các bộ môn kia, chúng ta
thấy hình bóng của triết học siêu hình.

Vậy nên nếu học các bộ môn kia đến một mức độ nào đó, rồi dùng nó
để soi sáng ngược lại vào triết học siêu hình, có thể chúng ta sẽ thấy
được điều mà chúng ta luôn đi tìm. Và tôi nghĩ rằng ở thời điểm hiện
tại, với sự đóng góp của rất nhiều trí tuệ vĩ đại, thứ mà chúng ta luôn
tìm kiếm đã dần hiện ra, cho dù vẫn còn những khúc mắc.

Có hai điều mà tôi muốn thống nhất với bạn trước, đó là:

Một: Mọi thứ chúng ta thấy hiện nay đều bắt nguồn từ những
điều đơn giản.

Hai: Thời gian chỉ chạy một chiều từ quá khứ đến tương lai. Đặt
mọi kiến thức, sự kiện mà con người khám phá ra được về vũ trụ,
con người, xã hội trên trục thời gian từ quá khứ đến tương lai,
chúng ta có thể thấy cái chúng ta muốn được thấy.

Nội dung quyển sách này chính yếu được chia làm 3 phần:

Phần một : Triết học siêu hình


Phần hai : Triết học chính trị

Phần ba : Nhận định về Việt Nam từ quá khứ tới hiện tại
cùng một số vấn đề khác.

9
Một quan điểm về Triết học

Nếu phần triết học siêu hình là do tôi suy nghĩ và tổng hợp nhiều nguồn
tư liệu, thì phần triết học chính trị tôi lại bị ảnh hưởng bởi bác Nguyễn
Gia Kiểng thông qua hai cuốn sách của bác là: Tổ Quốc Ăn Năn và
Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai. Nếu bạn muốn tìm hiểu rõ thêm thì có
thể tìm sách trên Google có định dạng PDF. Ở phần này tôi cũng đề
xuất một thể chế chính trị mà tôi cho rằng là tốt và phù hợp nhất với
nước Việt Nam trong tương lai. Còn phần ba sẽ giúp người đọc có được
một cái nhìn đúng về xã hội cũng như một số nhân vật Việt Nam thời
cận và hiện đại.

Cuối cùng có hai cuốn sách mà tôi giới thiệu đến các bạn: Một là “Phải
Trái, Đúng Sai” của tác giả Michael Sandel. Cuốn sách này hay đến nỗi
nó nên được đề xuất đưa vào chương trình giáo dục phổ thông (cấp 3)
thay cuốn giáo dục công dân nhàm chán. Nó sẽ cho bạn biết về lý thuyết
đạo đức thì việc gì nên làm và việc gì không nên. Cuốn thứ hai là: “Trại
Súc Vật” của tác giả George Orwell, quyển này cũng nên đưa vào giáo
trình dạy học sinh cấp hai, dưới dạng một bài văn hoặc một tiểu thuyết
bởi vì nó khá ngắn. Nó sẽ cho các bạn biết cách một chính quyền sẽ
chuyển biến từ tốt thành xấu như thế nào, nếu không có cơ chế kiểm
soát một cách đúng đắn. Và cuối cùng, hãy đảm bảo rằng bạn thuộc làu
nội dung câu chuyện: "Nếu là Cừu bạn sẽ chọn Sói hay Sư tử" (mà tôi
có trích trong quyển sách này). Tất cả chúng đều có định dạng PDF,
hãy lên Google tìm chúng.

Chúc bạn có những thông tin hữu ích từ cuốn sách này và những cuốn
sách tôi đã giới thiệu.
Trần Văn Đức
10
Một quan điểm về Triết học

MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NXB TỰ DO 4
LỜI MỞ ĐẦU 6

PHẦN I: TRIẾT HỌC SIÊU HÌNH 14


I, SƠ LƯỢC VỀ SIÊU HÌNH HỌC 15

- Định lí bất toàn của Kurt Godel 32

II, TỔNG QUAN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VŨ TRỤ VÀ CON 43


NGƯỜI

- Xét trường hợp: Vũ trụ tồn tại hoàn toàn theo luật nhân quả 62

- Xét hạt nhỏ nhất trong vũ trụ 63

- Xét toàn thể (rộng lớn nhất) vũ trụ 88

- Xét thời gian 101

- Xét căn nguyên tối hậu (cứu cánh) về lí do hình thành vũ trụ 108

- Xét trường hợp: Vũ trụ tuân theo một phần luật nhân quả 115

- Cái Không trong lượng tử (Phạm Xuân Yêm) 125

III, SINH LÝ THẦN KINH CẤP CAO VÀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO 157
(AI)

- Sinh lý thần kinh cấp cao 158

- Trí tuệ nhân tạo (AI) 186

11
Một quan điểm về Triết học

IV, QUY LUẬT CỦA VẬT CHẤT 195

- Quy luật của sinh vật 197

- Đạo 214

- Cảm nhận của tác giả 225

PHẦN HAI: TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ 246

- Vấn đề xã hội dân sự (XHDS) và chính đảng 250

- Khái niệm chung về bộ máy nhà nước 267

- Đạo đức và Luật 274

- Thể chế của các nước dân chủ 300

- Bầu cử 313

- Trích “Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2 – Tác giả: Nguyễn Gia 331
Kiểng”

- Lựa chọn thể chế chính trị cho Việt Nam tương lai (đại nghị, 348
tản quyền)

- Kinh tế 377

- Ba yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước 398

- Văn hóa – Giáo dục 409

- Chính sách 427

- Công bằng 448

12
Một quan điểm về Triết học

PHẦN 3: NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆT NAM TỪ QUÁ KHỨ TỚI 450


HIỆN ĐẠI, VÀ TƯƠNG LAI
- Mọi việc xảy ra đều hợp lí 451

- Bàn về Quốc Kì và Quốc Ca 495

- Di sản 502

- Viễn cảnh tương lai nhân loại 514

13
Một quan điểm về Triết học

PHẦN I

TRIẾT HỌC
SIÊU HÌNH

14
Một quan điểm về Triết học

I, SƠ LƯỢC VỀ SIÊU HÌNH HỌC

A, Định nghĩa: Siêu hình học

Theo Wikipedia thì siêu hình học là một nhánh triết học quan tâm
đến việc giải thích bản chất của thế giới là cái đằng sau các hình
thái vật chất cũng như biểu hiện của chúng được gọi là hiện tượng,
là căn nguyên tối hậu và là những nguyên lý đầu tiên và phổ quát
nhất của thực tại. Đây là một môn học về sự tồn tại hoặc sự thật.
Nó quan tâm đến các câu hỏi như: Bản chất của sự thật là gì? Đâu
là vị trí đầu tiên của con người trong vũ trụ? Thực tại là chủ quan
hay khách quan? Liệu thế giới có xuất hiện bên ngoài trí óc của
chúng ta hay không? Bản chất của vật thể, sự kiện, không gian là
gì?

Một nhánh trung tâm của siêu hình học là bản thể học, sự khảo sát
về những phạm trù của vật chất ở trên thế giới và những quan hệ
của chúng với nhau. Những nhà nghiên cứu siêu hình học cũng cố
gắng làm rõ những ý niệm mà con người hiểu được thế giới, bao
gồm sự tồn tại, thực thể, cấu hình, không gian, thời gian, thuyết
nhân quả, và xác suất.

Siêu hình học tìm những nguyên lý tối hậu và tổng quát nhất của
vũ trụ còn khoa học chỉ tìm những nguyên lý hay còn được gọi là
quy luật của một loại đối tượng nào đó trong thế giới khách quan
tùy vào từng môn khoa học.

15
Một quan điểm về Triết học

Triết học tự nhiên và khoa học vẫn có thể còn được xem như là
những chủ đề của siêu hình học, tùy vào việc có hay không những
giải thích qua trải nghiệm của những định nghĩa của thuật ngữ đó.

Vậy thì chúng ta cần tìm hiểu siêu hình học để làm gì?

Hiểu một cách giản đơn thì siêu hình học là cách mà chúng ta hiểu
thế giới vận hành, là hệ tư tưởng chạy ngầm bên trong điều khiển
cách chúng ta phản ứng với vấn đề mà mình đang gặp phải.

Vậy nên chúng ta phải đầu tư tìm hiểu sâu về các nguyên lí chi
phối sự vật hiện tượng, để hình thành nên một hệ tư tưởng thống
nhất, rõ ràng, từ đó suy nghĩ và hành động của chúng ta mới trở
nên đồng nhất. Tránh trường hợp, hễ gặp vấn đề khác nhau, lại
dùng những lí thuyết khác nhau để giải thích. Trong khi các lí
thuyết đó về sâu xa lại không ăn nhập (thậm chí đối nghịch) với
nhau. Như vậy là chúng ta đã tự mâu thuẫn với bản thân mình.

Thế nên, không những phải tìm hiểu triết học siêu hình mà còn
phải tìm hiểu sớm nhất có thể, có như vậy mới mong hạn chế đi
những hành động sai lầm, có thể có.

16
Một quan điểm về Triết học

B, Xây dựng hệ thống triết học siêu hình

Bất cứ một môn khoa học nào cũng đều được xây dựng bởi những
nguyên liệu ban đầu là những quy ước chung hoặc những quy luật
nền tảng, phổ quát. Từ những nguyên liệu đó nhân loại sẽ xây nên
những công trình nguy nga, tráng lệ.

Nhưng khác với các môn khoa học khác, siêu hình học nghiên cứu
những thứ mà con người gần như không thể khảo sát bằng thực
nghiệm. Vậy nên rất khó thống nhất chọn nguyên liệu đầu vào,
mặc dù vẫn có những trường phái triết học phổ biến và có sự tiếp
nối các công trình của các nhà triết học trong các trường phái đó.

Về đại thể thì việc chọn nguyên liệu đầu vào để xây dựng hệ thống
siêu hình học tùy thuộc vào từng cá nhân, họ cho rằng quy luật nào
với họ là đúng đắn, là phổ quát thì họ sẽ chọn nó làm quy luật nền
tảng (xương sống) để xây dựng nên hệ thống triết học siêu hình
của họ.

Chúng ta cứ hình dung rằng, trong một hệ trục tọa độ Oxyz (không
gian) trống rỗng, chúng ta sẽ thêm những vật chất, và các quy luật
cơ bản nào để từ đó suy luận mở rộng ra tất cả những thứ mà chúng
ta đang quan sát được như hiện nay và hơn thế nữa.

Để chọn một quy luật đúng đắn, phổ quát làm nguyên lý nền tảng,
từ đó xây dựng nên hệ thống triết học siêu hình, vấn đề đầu tiên
mà chúng ta phải giải quyết, đó là: Đâu là giới hạn tri thức của
con người?

17
Một quan điểm về Triết học

Để trả lời câu hỏi này, thì việc đầu tiên chúng ta phải thống nhất,
đó là: Tâm trí của chúng ta không hề trực tiếp tiếp thu thông tin,
mà nó phải thông qua các giác quan như thị giác, thính giác, vị
giác, xúc giác và khứu giác. Và đây là vấn đề.

Bởi vì tâm trí ta không thể cảm nhận trực tiếp sự vật, hay tín hiệu
về một sự vật không trực tiếp đến tâm trí ta, mà nó còn phải đi qua
môi trường trung gian, và phải nhờ các cơ quan cảm nhận. Vậy
nên, có khả năng các cơ quan cảm nhận sai sự vật, hoặc không thể
cảm nhận hết các tín hiệu mà sự vật phát ra. Ví dụ mắt bị mù màu
dẫn đến việc chúng ta nhìn thấy sự vật toàn màu xanh, tức là chúng
ta đã cảm nhận sự vật khác với người bình thường. Hay các sự vật
phát ra sóng âm thanh với tần số cao (siêu âm), hoặc thấp (hạ âm)
mà tai con người chúng ta không thể nghe được. Hay môi trường
trung gian bị ảnh hưởng dẫn đến việc tín hiệu bị biến đổi khi đến
cơ quan cảm nhận của chúng ta, thì cũng dẫn đến nhận thức của
chúng ta về sự vật bị sai lệch.

Cuối cùng, nếu bản thân sự vật không phát đầy đủ tín hiệu thì ta
cũng không cảm nhận được hết sự vật đó. Vậy nên khi ta cầm một
quả táo trên tay thì chưa chắc hình dạng thật của quả táo nó như
chúng ta cảm nhận, bởi vì chúng ta không chắc là đã tiếp nhận
được hết thông tin từ quả táo.

Tức là chúng ta chỉ hình dung vũ trụ dựa vào những tín hiệu chúng
ta cảm nhận được về vũ trụ. Vũ trụ thật sự chưa chắc đã như lâu
nay chúng ta đang tưởng tượng.
18
Một quan điểm về Triết học

- Nghịch lý chuỗi Grandi:

1-1+1-1 ... là một dãy số vô hạn. Theo suy nghĩ thông thường dãy
này có kết quả bằng 0 hoặc 1.

Nhưng nhà toán học và triết học người Ý - linh mục Guido Grandi
(1671 – 1742) - đã chứng minh dãy này có kết quả bằng 1/2.

Chứng minh:

Đặt S = 1-1+1-1+1-1+ ...

<=> 1- S = 1- (1-1+1-1+1-1+ ...)

<=> 1 - S = 1 - 1 +1 -1 +1 -1 +... = S

<=> 2S = 1 <=> S = 1/2

Đây là một kết quả nằm ngoài dự đoán của chúng ta, vốn dĩ cho
rằng kết quả chỉ có thể là 0 hoặc 1 theo logic thông thường. S=1/2
có nghĩa là kết quả nằm giữa 1 và 0, nếu ta gán 1 cho “có” và gán
0 cho “không” thì ta được kết quả nằm giữa có và không…

Tương tự, ta có thể gán 1 cho “tồn tại” và 0 cho “không tồn tại” và
cho 0, 1 luân phiên thay đổi vô số lần trong một khoảng thời gian
nhất định (hoặc chỉ cần tần số thay đổi nhanh đến mức con người
không thể đo đếm được) thì ta sẽ được kết quả là sự chồng chập
giữa tồn tại và không tồn tại (hay không thể phân biệt giữa tồn tại
và không tồn tại).

19
Một quan điểm về Triết học

Để làm rõ vấn đề này, chúng ta xét ví dụ sau: Cho một vật thể (A)
luân phiên xuất hiện (tồn tại) và biến mất (không tồn tại) tại một
khoảng không gian xác định, với tần số là vô số lần, trong một
khoảng thời gian xác định.

Ở đây xét hai trường hợp:

Trường hợp 1: Xét bản thân vật A, thì tồn tại vẫn là tồn tại và
không tồn tại vẫn là không tồn tại, không hề có sự lẫn lộn ở đây.
Tức là, bản thân vật A, khi nó xuất hiện khác hoàn toàn với khi
biến mất.

Trường hợp 2: Xét khoảng không gian chứa vật A, trong đó, vật
A xuất hiện và biến mất vô số lần vào một khoảng thời gian nhất
định bên trong khoảng không gian đó. Chúng ta không thể kết luận
được rằng, trong khoảng không gian đó vật A có xuất hiện hay
không, mà chỉ có thể kết luận được rằng nó là sự chồng chập giữa
xuất hiện và không xuất hiện.

Quay về với bài toán xác suất, việc khẳng định hay phủ định sự tồn
tại của một vật nào đó, chỉ là hai trường hợp đặc biệt của xác suất.
Khẳng định sự tồn tại có nghĩa là, xác suất tồn tại của vật đó là
100%. Phủ định sự tồn tại có nghĩa là, xác suất tồn tại của vật đó
là 0%.

Bây giờ hãy xét một vài sự vật quen thuộc hàng ngày với chúng ta
như cái quạt, cái bàn, tivi… Từ khi chúng ta mua những vật dụng
20
Một quan điểm về Triết học

đó về cho đến bây giờ chúng ta vẫn thấy chúng xuất hiện ở đó,
chúng không hề biến mất, ít nhất với cảm quan của chúng ta thì là
như vậy.

Ở đây xảy ra hai trường hợp:

Trường hợp 1: Từ trước tới nay nó không tự dưng biến mất, không
có nghĩa là tương lai nó cũng không tự dưng biến mất, có thể là tần
số luân phiên thay đổi hai trạng thái biến mất, xuất hiện (tồn tại,
không tồn tại) lâu hơn chúng ta dự kiến mà thôi.

Trường hợp 2: Có thể những vật dụng vẫn thay đổi trạng thái liên
tục, thế nhưng trạng thái biến mất của nó tồn tại với thời gian rất
ngắn, tức là vật dụng chỉ biến mất trong tích tắc sau đó xuất hiện
trở lại, khiến cho chúng ta không thể cảm nhận được là nó đã biến
mất, mặc dù đã quan sát rất kĩ.

Cả hai trường hợp này chúng ta đều không thể nào quan sát bằng
thực nghiệm được, vậy nên, không thể nào bác bỏ được nó. Tức là
không thể phủ nhận được nhận xét rằng mọi vật là sự chồng chập
giữa tồn tại và không tồn tại.

Vậy nên khi ta nhìn thấy một vật trong không gian chúng ta không
thể khẳng định được là vật đó đang tồn tại, đúng ra chúng ta chỉ có
thể nói xác suất tồn tại của vật đang quan sát là rất cao, ngược lại
khi chúng ta không thấy vật nào đó trong không gian, chúng ta

21
Một quan điểm về Triết học

cũng chỉ có thể nói rằng xác suất tồn tại trong không gian đang xét
của vật đó là rất thấp.

Tóm lại: Khi chúng ta khảo sát sự vật, chúng ta không thể kết luận
được gì ngoài một loạt thông tin mang tính xác suất. Đây là nguyên
lý nền tảng mà tôi chọn.

⇨ Chính vì vậy việc khảo sát sự vật (vũ trụ) trở nên rất phức
tạp, và bắt buộc chúng ta phải chia nhỏ sự vật (vũ trụ) thành
nhiều trường hợp nhỏ và khảo sát riêng từng phần nhỏ đó.

NGUYÊN LÝ BẤT MÂU THUẪN

Nguyên lý bất mâu thuẫn phát biểu như sau: “Không thể
(một vật) vừa có lại vừa không trong cùng một lúc và theo
cùng một phương diện”.

Khi chúng ta khẳng định rằng một sự vật đang ở trong một
cách thức riêng biệt, chúng ta giả định rằng không thể nào
cũng một sự vật đó vừa ở trong cách thức này lại vừa ở trong
cách thức khác.

22
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM: VẠN PHÁP DUY THỨC

(Dựa trên video gốc: The Secret Beyond Matter)

Con người ngay từ đầu cho rằng thế giới mình đang có, là một thực
tế tuyệt đối. Chúng ta lớn lên với ý nghĩ đó, và xây dựng cả đời
trên nó. Tất cả thông tin về thế giới vật chất, được tiếp nhận bởi
năm giác quan.

Chúng ta thấy qua cặp mắt, nghe bằng lỗ tai, ngửi bằng mũi, nếm
bằng lưỡi và cảm giác qua bàn tay. Bạn phụ thuộc vào năm thứ này
từ khi sinh ra, vì vậy bạn chỉ biết thế giới bên ngoài qua năm giác
quan này. Nhưng khoa học đã có cái nhìn khác về cái gọi là thế
giới “ngoại cảnh”.

Ngay giây phút bạn thấy một vật, một chùm tia sáng gồm nhiều
hạt photon đi từ vật đó đến mắt, xuyên qua võng mạc và phản chiếu
sau con mắt. Nơi đây nó biến thành tín hiệu dòng điện và truyền
làn sóng điện đó bởi các neuron, tới trung tâm thị giác phía sau
não. “Cái gọi là thấy” thực sự xảy ra ở trung tâm não bộ. Tất cả
hình ảnh bạn thấy trong đời, và trải nghiệm đã qua, đều thực sự
diễn ra tại nơi nhỏ bé và tối đen này.

Bây giờ chúng ta phân tách dữ kiện này cẩn thận hơn. Khi bạn nói
“tôi thấy”, thật ra là bạn thấy kết quả từ tia sáng đưa vào mắt rồi
hình thành trong não, qua sự biến đổi thành dòng điện. Khi bạn nói

23
Một quan điểm về Triết học

“tôi thấy”, là bạn đang khảo sát dòng điện trong não mình. Nhân
tiện, bạn cũng nên biết một điều, là não hoàn toàn tách biệt với ánh
sáng, và bên trong hoàn toàn là bóng tối. Cho nên “bộ não” không
thể tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Chúng ta có thể giải thích với
ví dụ sau: Ví dụ trước mắt là một cây nến đang cháy và cái chúng
ta thấy là ánh sáng, khi chúng ta nhìn thấy ánh sáng của cây nến
thì bên trong não bộ hoàn toàn tối mịt. Ánh sáng của cây nến chưa
bao giờ tỏa sáng trong não ta, nghĩa là chúng ta nhìn thấy màu sắc
tươi đẹp và chói lọi bên trong não bộ tối òm.

Điều này áp dụng với tất cả các giác quan còn lại như thính giác,
xúc giác, vị giác, khứu giác. Tất cả đều nhận từ não bộ qua tín hiệu
dòng điện. Cho nên, bộ não bạn suốt cuộc đời chưa bao giờ giáp
mặt với vật nguyên thủy từ bên ngoài, toàn là tiếp nhận bản sao

24
Một quan điểm về Triết học

của dòng điện thành hình trong não, và dẫn dắt sai lầm đến việc
chúng ta luôn cho rằng những bản sao (copy) này là vật chất thật
sự bên ngoài.

Những dữ kiện này đưa đến kết luận không thể tranh cãi được: Tất
cả những gì bạn thấy, đụng chạm, nghe, qua vật chất. Thế giới hay
vũ trụ… chỉ là dòng điện trong óc chúng ta mà thôi. Khi chúng ta
nghe tiếng chim hót của ngoại cảnh, thực tế con chim này không
phải là bên ngoài mà là trong óc chúng ta. Ánh sáng bên ngoài
đụng vào chim và dội vào mắt chúng ta và từ đó biến đổi thành
dòng điện, con chim bạn đang thấy thực ra là tín hiệu dòng điện
trong não.

Nếu cắt mạch dẫn điện đó, hình ảnh con chim sẽ biến mất tức khắc,
tương tự tiếng chim hót bạn nghe cũng nằm trong não, nếu cắt
mạch truyền điện đó thì sẽ không còn tiếng hót. Nói đơn giản, con
chim, hình thù sự vật bạn thấy, và âm thanh mà bạn nghe tất cả chỉ
là sự phiên dịch dòng điện từ não bộ.

Không gian cũng vậy, khoảng cách từ vật này đến vật khác, tất cả
chỉ là chùm ảnh nằm trong một điểm nhỏ trong não bạn. Ví dụ một
người xem sao trên trời, cho rằng mình cách xa hàng triệu năm ánh
sáng, vậy mà những ngôi sao nằm ngay trong anh ta, nơi trung tâm
thị giác của não. Bạn ngồi xem phim, bạn cho rằng mình đang
trong căn phòng, thật ra là căn phòng đang… bên trong bạn. Ngay
cả bạn nhìn thấy thân thể mình, thực ra bạn chỉ là hình ảnh đang
nằm trong não bạn.
25
Một quan điểm về Triết học

Câu hỏi là chúng ta chưa hề vươn ra thế giới bên ngoài, vậy làm
sao biết chúng ta thật sự hiện hữu? Chắc chắn là bạn không thể,
chỉ có một thực tế duy nhất mà bạn đã quen thuộc, đó là, thế giới
của sự nhận thức mà bạn đang sống trong trí óc mình. Bạn tin rằng,
mọi vật chất tồn tại vì bạn có thể thấy được, sờ mó được qua sự
nhận thức.

Tuy nhiên sự nhận thức chỉ là một quan niệm của trí óc mà thôi.
Vì vậy, sự vật bạn thu được bằng nhận thức chỉ là những ý tưởng,
và chúng chỉ hiện hữu trong đầu bạn, chứ không ở bất cứ đâu khác.
Bởi vì tất cả chỉ hiện hữu trong óc mình, nghĩa là bạn bị hướng dẫn
sai lạc bởi sự nhận thức. Khi bạn tưởng tượng vũ trụ, sự vật đang
hiện hữu bên ngoài, quả thật chỉ là sự nhận thức. Những gì bạn
nhận thức được ở bên ngoài có thể chỉ là một nguồn giả tạo.

Đây là một ví dụ: Trước hết chúng ta tưởng tượng lấy bộ óc của
mình ra khỏi cơ thể và bỏ vào một lồng kính và lấy một máy tính
(computer) rồi tải những tín hiệu dòng điện data của hình ảnh, âm
thanh, khứu giác, … vào máy. Sau đó nối dây dẫn tải tín hiệu vào
bộ não, rồi tải tín hiu đã thu sẵn vào bộ óc. Khi não nhận được
những tín hiệu này, não bộ sẽ thấy, hiểu và sống theo những gì
được cung cấp. Từ máy tính này, chúng tôi có thể gửi vào não của
bạn, những dòng điện chứa hình ảnh của bạn.

Giả sử sẽ gửi năm giác quan thấy, nghe, ngửi, xúc giác và vị giác,
y như khi bạn đang ngồi thực sự làm việc trên bàn. Lúc đó, bộ não
của bạn sẽ thấy rằng bạn là một thương gia (ví dụ) đang ngồi làm
26
Một quan điểm về Triết học

việc. Thế giới ảo này sẽ tiếp tục kéo dài một khi máy tính vẫn tiếp
tục cung cấp data (dữ liệu). Bạn không thể biết được rằng, bạn chỉ
là bộ não.

THẾ GIỚI CỦA CHIÊM BAO

Đối với bạn, thực tế là cái gì có thể thấy được, sờ được. Nhưng
trong giấc mơ bạn vẫn thấy được và sờ được. Trong thực tế, bạn
không có mắt hoặc tay lúc mơ và cũng không có bất cứ thứ gì có
thể thấy được, sờ được. Nếu dựa theo giấc mơ với vật chất và thực
tế trong đó, bạn đơn giản là đã bị lừa rồi.

27
Một quan điểm về Triết học

Ví dụ: Một người nằm ngủ, có thể thấy một thế giới hoàn toàn khác
trong giấc mơ, anh ta có thể mơ thấy mình là phi công, ngay cả
thấy mình khó khăn điều khiển máy bay. Sự thật là người này
không hề rời khỏi giường.

Nếu chúng ta có thể sống dễ dàng trong thế giới giả tạo của chiêm
bao, thì thế giới chúng ta đang sống cũng vậy. Vậy thì ý chí nào
nhận thức được cái thấy, nghe, cảm nhận mọi giác quan nếu nó
không phải từ bộ não? “Ai” đã thấy, nghe, cảm nhận được mùi vị?
“Ai” đó là ai mà biết suy nghĩ, suy tư, và tình cảm, và hơn nữa là
đã nói “tôi là tôi”.

Cái gọi là thế giới vật chất chỉ là cảm nhận từ bộ não, giống như
thể xác bạn đang mang, cũng giống như thế giới vật chất trong
chiêm bao đều không có thực thể vật chất. Vũ trụ chúng ta đang cư
ngụ và thể xác chúng ta đang mang đều không có một thực tại vật
chất (không có thật).

Tất cả sự thật này đưa đến một câu hỏi đáng ngại: Nếu cả thế giới
vật chất này là dữ liệu đưa đến cho tâm thức của chúng ta, vậy cái
nguồn của ảo ảnh đó đến từ đâu? Nên nhớ vật chất không thể tự nó
quản lí, mà chúng chỉ là hình ảnh.

Vì vậy, những hình ảnh đó chắc chắn đã đến từ một quyền lực
khác, có nghĩa là chúng đã được tạo dựng nên. Quan trọng nhất là
sự tạo dựng này phải được tiếp nối, nếu sự tạo dựng này không
được tiếp tục, cái mà chúng ta gọi là vật chất sẽ tan biến hết. Điều

28
Một quan điểm về Triết học

này giống như tivi tiếp tục có hình từ đài phát sóng, nếu đài này
ngừng phát sóng, hình ảnh trên tivi sẽ tan biến hết. NGUỒN PHÁT
SÓNG NÀY TỪ ĐÂU VÀ DO AI?

NHẬN XÉT

Tác giả bài viết này đã đưa ra một ý kiến giáo điều khi cho rằng
việc não bộ không cảm nhận trực tiếp được sự vật, là do sự vật bên
ngoài hoàn toàn không có thật, sự vật bên ngoài là do não bộ chúng
ta tự suy diễn ra hoặc do một ai đó đã cố tình truyền tải tín hiệu
khiến chúng ta nghĩ như vậy. Thực tế những khả năng trên hoàn
toàn có thể xảy ra, thế nhưng nó không thể bác bỏ được khả năng
là vật chất ngoài kia là hoàn toàn có thật, vậy nên chúng ta mới
cảm nhận được nó.

Tác giả bài này đã mắc một lỗi nghiêm trọng trong cách suy luận.

Ta sẽ khảo sát một ví dụ sau: Bởi vì chúng ta tiếp nhận thông tin
một cách gián tiếp, thông qua năm giác quan, vậy nên chúng ta
không cách nào biết được sự vật mà chúng ta đang quan sát có thực
sự tồn tại hay không? Giả sử rằng, chúng không tồn tại, không gian
xung quanh chúng ta thật sự trống rỗng không có gì?

Bạn có thể hỏi rằng “vậy tại sao, tôi lại thấy những cảnh vật xung
quanh tôi, những người gần gũi tôi từ hình ảnh, âm thanh cho đến
cảm giác đều sống động như thật?”.

29
Một quan điểm về Triết học

Trả lời rằng những thứ đó đều là do bạn tưởng tượng ra, những
người xung quanh bạn, kể cả công việc bạn đang làm hàng ngày
cũng vốn dĩ không tồn tại.

Cái cảm giác đau khi bạn di chuyển va chạm vào một vật gì đó
(bức tường chẳng hạn), để rồi phải tránh nó ra để đi, là do trí óc
bạn tưởng tượng ra để làm phong phú thêm cuộc sống của bạn mà
thôi. Bức tường vốn không tồn tại, mà thực ra bên ngoài bạn là một
khoảng không gian trống rỗng.

Bạn còn không có hình hài của con người, bạn không cần di
chuyển. Vậy bạn cần chân để làm gì? Tương tự vậy, không gian
bên ngoài làm gì có gì để cầm nắm, mà phải dùng đến tay? Hình
hài hợp lí nhất của bạn là một khối cầu hình tròn, không mắt, mũi,
miệng, chân, tay bởi bạn không cần dùng đến những thứ đó.

Bạn nghĩ mình là con người là để hòa nhập và trải nghiệm một xã
hội mà cũng do chính bạn tưởng tượng ra mà thôi.

Mọi phát minh vĩ đại của những bộ óc thiên tài từ trước tới nay,
thực ra đều là sản phẩm trí tưởng tượng của bạn. Do bạn gán nó
cho những nhân vật nổi tiếng đó, để xã hội vận hành một cách trôi
chảy và logic nhất có thể. Kể cả tôi và quyển sách này bạn đang
đọc đều là sản phẩm trí tưởng tượng của bạn, tôi không hề có thực.

Bạn chính là Chúa Trời mà lâu nay bạn đang tôn thờ và tìm kiếm.
Chỉ có điều bạn quên mất bản thân mình là ai, để hoàn toàn nhập

30
Một quan điểm về Triết học

vai trong một xã hội do bạn tưởng tượng ra (giấc mơ của bạn),
nhằm trải nghiệm một cuộc sống thật nhất trong giấc mơ đó.

Cái chết đối với nhân vật mà bạn hóa thân thành, thực chất là lúc
giấc mơ của bạn kết thúc và bạn tỉnh dậy, bởi bạn là đấng quyền
năng, bạn sống vĩnh hằng, không hề có khái niệm chết đối với cá
nhân bạn.

Và sau khi bạn tỉnh dậy, nếu muốn bạn lại có thể hóa thân thành
nhân vật khác để trải nghiệm một cuộc đời khác. Lần hóa thân này
có thể là một vị thần, một cái cây, cục đá, hay nhà vua, doanh nhân,
công nhân, hay một tên trộm, cũng có thể là một vũ trụ với tính
chất hoàn toàn khác với vũ trụ này tùy ý bạn thích…

Rất nhiều người cho rằng câu chuyện này hoàn toàn không có thật,
nhưng vấn đề là làm sao bạn có thể chứng minh được nó là giả?

31
Một quan điểm về Triết học

ĐỊNH LÝ BẤT TOÀN KURT GODEL

Tiếp tục để biết đâu là giới hạn tri thức của con người, chúng ta xét
đến: “Định lí bất toàn của Kurt Godel”

Định lí bất toàn của Kurt Godel được lấy cảm hứng từ nghịch lí
“Tôi nói dối” do Eubulides thế kỷ thứ tư TCN đặt ra, cụ thể như
sau: “Một người nói rằng, anh ta đang nói dối. Vậy anh ta nói thật
hay nói dối”. Nghịch lí này về sau được rút gọn thành “tôi nói dối”
(1).

Tôi nói dối có nghĩa là tôi nói không đúng sự thật, mà tự nhận mình
nói không đúng sự thật thì có nghĩa là tôi đang nói thật. Nhưng nếu
tôi đang nói thật, thì mệnh đề “tôi nói dối” đang thể hiện là tôi đang
nói dối. Mà tôi nói dối có nghĩa là tôi nói không đúng sự thật....

Quá trình cứ thế lặp lại không thể kết luận được là câu (1) đúng
hay sai. Bằng những biến đổi khéo léo, Godel đã chuyển Nghịch
lý Kẻ Nói Dối thành một công thức toán học, “Định lí bất toàn”.
Hay nói cách khác định lí bất toàn là trường hợp đặc biệt của
nghịch lí “tôi nói dối” được thể hiện trong toán học.

Kurt Godel (28/4/1906 - 14/1/1948) – một nhà toán học và logic


học người Áo - là tác giả của “định lí bất toàn” trong toán học.
Định lý này được các nhà toán học sánh ngang với “thuyết tương

32
Một quan điểm về Triết học

đối” của Einstein. Đặc biệt nó không chỉ ảnh hưởng lên toán học
mà nó còn ảnh hưởng lên cả triết học.

Định lí này khẳng định rằng: Bất kì một hệ tiên đề hình thức độc
lập đủ mạnh để miêu tả số học cũng hàm chứa những mệnh đề
không thể khẳng định cũng không thể phủ định.

Tức là bất kì một hệ thống lí thuyết kín nào đều không thể tự
chứng minh được nó là đúng.

(1) là nó phải dựa vào những tiên đề có trước, mà những tiên


đề đó chỉ được thừa nhận mà không thể chứng minh được nó.
Hoặc

(2) là chúng ta phải đi ra ngoài hệ thống lí thuyết đó và nhờ


một hệ thống lí thuyết khác chứng minh nó.

Ý nghĩa triết học:

Định lí bất toàn ra đời cũng đưa ra một lời khẳng định rằng, chúng
ta không thể nào đưa ra một câu trả lời toàn vẹn về mặt lí thuyết
cho vũ trụ của chúng ta.

Bởi chúng ta sinh ra ở trong vũ trụ này và vĩnh viễn không thể nào
đi ra ngoài nó; hoặc muốn giải thích vũ trụ này, chúng ta phải chấp
nhận những lý thuyết mà không thể nào chứng minh được nó (một
dạng tiên đề). Tức là lý thuyết về vạn vật mà Einstein từng mơ là
bất khả thi. Cũng có nghĩa là nó tiên đoán nhận thức của nhân loại
33
Một quan điểm về Triết học

đến một lúc nào đó sẽ đạt giới hạn của nó. Nó có nghĩa chúng ta
không thể nào biết hết mọi thứ được, chân lý cuối cùng mà con
người mong ước sẽ không bao giờ có!

Kể cả khi con người có thể tìm ra được một lý thuyết có thể mô tả


được vũ trụ thì chúng ta cũng không chắc rằng nó là lý thuyết duy
nhất có thể mô tả vũ trụ. Mặt khác, nó cũng chỉ có thể xác nhận lý
thuyết đó đúng trong quá khứ và hiện tại, chứ không ai dám chắc
nó có thể mô tả đúng vũ trụ trong tương lai dài.

Stephen William Hawking (08/01/1942 – 14/03/2018) là một nhà


vật lý lý thuyết, vũ trụ học, tác giả viết sách khoa học thường thức
người Anh. Sau khi tiếp nhận định lí bất toàn, ông đã viết: “Chúng
ta không phải là các thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài. Đúng ra,
cả chúng ta lẫn mô hình của chúng ta đều là những thành phần của
vũ trụ mà chúng ta mô tả. Một lí thuyết vật lí là một mô hình tự
quy chiếu, giống như trong định lí Godel. Do đó chúng ta có thể
nói rằng, hoặc không nhất quán hoặc không đầy đủ. Những lý
thuyết mà chúng ta nói vừa không nhất quán vừa không đầy đủ.
Một số người thất vọng nếu không có một lí thuyết cuối cùng được
trình bày chính xác dưới dạng một số hữu hạn các nguyên lí. Tôi
từng nằm trong số đó, nhưng tôi đã suy nghĩ. Tôi lấy làm vui mừng
rằng cuộc tìm kiếm của chúng ta đối với sự hiểu biết sẽ không bao
giờ kết thúc, và rằng chúng ta sẽ luôn có sự thách thức của khám
phá mới. Không có nó, chúng ta sẽ bị mụ mẫm trí óc. Định lí Godel

34
Một quan điểm về Triết học

đảm bảo rằng sẽ luôn có công việc cho các nhà khoa học. Tôi nghĩ
rằng lí thuyết M cũng sẽ làm điều tương tự đối với các nhà vật lí”.

Biểu đồ nhận thức của con người theo thời gian.

Định lý bất toàn chỉ ra rằng, chúng ta vĩnh viễn không bao giờ
chạm tới được chân lí, mà chỉ ngày một gần hơn (tiệm cận tới nó).
Vậy thì làm sao phân biệt được là chúng ta đang lại gần hơn hay
rời xa nó? Vâng, chân lí có để lại dấu vết, càng tiến lại gần chân lí
hơn thì nhân loại càng văn minh hơn.

Việc giới hạn hiểu biết cũng báo hiệu một điều, đó là nhân loại đến
một lúc nào đó không thể phát triển thêm nữa, chúng ta sẽ không
có những phát minh mới mang tính bước ngoặt nào nữa.... Không

35
Một quan điểm về Triết học

phải vì trí tuệ con người có giới hạn, mà là vì chúng ta hoàn toàn
không có đủ dữ liệu để tìm hiểu thêm nữa.

Lấy ví dụ để làm rõ hơn cho định lí bất toàn. Hãy tưởng tượng có
một con robot và bạn từ khi sinh ra đã nằm trong cơ thể nó. Bạn có
thể tìm hiểu và phát hiện ra các đặc tính, quy luật vận hành của
một số bộ phận bên trong cơ thể nó. Nhưng bạn không thể nào biết
được bên ngoài con robot đó có hình dạng như thế nào, đang làm
gì?... Ngược lại, một người ở bên ngoài con robot thì họ cũng
không hiểu bên trong con robot đó có những gì, cách nó vận hành
như thế nào?

Tóm lại, cả hai trường hợp đều không hiểu hết được con robot đó.
Để hiểu được con robot đó chúng ta phải vừa quan sát bên ngoài
vừa quan sát bên trong thân thể con robot.

Trên thực tế có hai thứ mà con người không thể nào quan sát được
trọn vẹn chúng:

(1) là những thứ rất nhỏ, nhỏ đến mức con người không thể nào
quan sát được bên trong nó có gì.

(2) là những thứ rất lớn, lớn đến mức con người không bao giờ đi
ra được khỏi nó.

Cả hai trường hợp này con người sẽ không bao giờ hiểu hết được
chúng, nếu chỉ đơn thuần quan sát chúng.

36
Một quan điểm về Triết học

Bản thân “nghịch lí tôi nói dối” và “định lí bất toàn” khẳng định
một điều rằng. Bản chất việc chúng ta tự đánh giá (nhận xét) về
bản thân mình mà không có sự tham khảo từ người khác để nhìn
vào là tự mâu thuẫn, không đáng tin cậy.

Mở rộng ra một tổ chức cũng vậy, để người trong tổ chức ấy tự


đánh giá về tổ chức của mình thì đều không đáng tin cậy. Bạn hãy
ghi nhớ kết luận này để đến phần triết học chính trị chúng ta sẽ còn
phải sử dụng nó.

Tuy nhiên tôi cũng phải nói với bạn rằng, trí tưởng tượng của con
người là vô hạn, và trong vô số kịch bản con người tưởng tượng
ra, có lẽ sẽ có kịch bản đúng về sự vận hành của vũ trụ. Thế nhưng
chúng ta không thể chứng minh được kịch bản đó là đúng. Bởi
chúng ta phải chấp nhận trong nội tại học thuyết đó, được cấu thành
bởi những giả thuyết khác, mà không thể chứng minh giả thuyết
đó (một dạng tiên đề). Đúng hơn chúng ta không có đủ công cụ
toán học và vật lí, cũng như bằng chứng ngoài thực tế để chứng
minh điều đó…

Những gì chúng ta có thể làm được là hình thành các học thuyết.
Ví dụ: Thuyết tiến hóa, thuyết tương đối, thuyết lượng tử, thuyết
dây, ... Nhưng với các công cụ toán học, vật lí, các quy luật đã
được chứng minh và hệ thống logic, chúng ta có thể ước lượng
được xác xuất mà một kịch bản về vũ trụ có thể xảy ra là cao hay
thấp. Bản thân tôi nghĩ đó là tất cả những gì chúng ta cần.

37
Một quan điểm về Triết học

Việc tiếp theo, để cho dễ xét, chúng ta sẽ chia vũ trụ thành nhiều
khả năng nhỏ. Vấn đề là cách chia như thế nào, để cho không bị
sót các khả năng có thể xảy ra. Chúng ta nên chọn một quy luật,
tính chất nào đó có khả năng xảy ra trong vũ trụ, sau đó gán vũ trụ
cho từng khả năng có thể xảy ra của tính chất, quy luật đó.

Công thức như sau:

Toàn vũ trụ = Vũ trụ tồn tại tuân theo hoàn toàn tính chất, quy
luật A + Vũ trụ tồn tại tuân theo một phần tính chất, quy luật A +
Vũ trụ tồn tại nhưng hoàn toàn không tuân theo tính chất, quy luật
A + Trạng thái trống rỗng hoàn toàn của vũ trụ (trạng thái không).

Tùy quan điểm của từng người mà chọn tính chất, quy luật với
những đặc điểm họ cho rằng dễ xét nhất khi dùng để chia nhỏ các
khả năng của vũ trụ. Với tôi, thì sẽ chọn luật nhân quả để tiến hành
chia nhỏ các khả năng có thể xảy ra của vũ trụ. Cụ thể như sau:

Toàn vũ trụ = Vũ trụ tồn tại hoàn toàn tuân theo luật nhân quả (1)
+ Vũ trụ tồn tại tuân theo một phần luật nhân quả (2) + Vũ trụ tồn
tại hoàn toàn không tuân theo luật nhân quả (3) + Trạng thái trống
rỗng hoàn toàn của vũ trụ (4).

(Cũng có thể sử dụng các công cụ khác để làm thước đo phân chia
vũ trụ, từ đó ta xét các trường hợp có khả năng xảy ra. Ví dụ: Định
luật bảo toàn năng lượng. Ta cũng có thể chia thành các trường
hợp tương tự trường hợp thuyết nhân quả, đó là trường hợp vũ trụ
tuân theo, không tuân theo hoặc tuân theo một phần định luật bảo

38
Một quan điểm về Triết học

toàn năng lượng. Tuy nhiên với trường hợp này ta khó xét hơn.
Hơn nữa, việc không tuân theo luật nhân quả cũng đã là vi phạm
(không tuân theo) định luật bảo toàn năng lượng rồi.)

Luật nhân quả phát biểu rằng mọi kết quả đều có nguyên nhân
gây ra nó.

Ở đây tôi muốn bổ làm rõ phần trên một chút về lí do vì sao


chúng ta lại chia vũ trụ theo cách như vậy.

Nếu xét vũ trụ mà xét tổng thể thì rất khó để kết luận điều gì,
bởi chúng ta thiếu thông tin. Cách duy nhất là phải gán cho
vũ trụ một đặc tính (quy luật) nào đó, thì mới xét được.

Ví dụ: Vũ trụ với quy luật A thì sẽ diễn biến như thế này,
nhưng với quy luật B thì sẽ diễn biến và vận hành theo kiểu
khác. Một điều nữa nếu gắn vũ trụ với những quy luật khác
nhau thì có thể gắn bao nhiêu quy luật cũng được, tùy trí
tưởng tượng của bạn.

Ví dụ: Vũ trụ tồn tại và bị chi phối bởi quy luật A, quy luật
B, quy luật C, ... Nó dẫn đến hệ quả là chúng ta không thể xét

39
Một quan điểm về Triết học

hết được các trường hợp của vũ trụ, mặc dù đã cố công xét
rất nhiều trường hợp như vậy. Cuối cùng là chúng ta chẳng kết
luận được gì về vũ trụ, trong khi đã mất rất nhiều công sức.

Vậy làm thế nào để xét hết được các khả năng của vũ trụ?

Chúng ta sẽ tham khảo ví dụ sau. Tập hợp số thực R là tập hợp


tất cả các số trên trục số, vậy nên với bất kì số hạng A tùy ý nào
đều thuộc tập R.

Ta có công thức: Tập số thực R = số A + tất cả các số không phải


là A.

Nếu gán công thức này cho việc xét các khả năng về vũ trụ thì nó
sẽ như sau.

Tất cả các khả năng của vũ trụ = vũ trụ tồn tại tuân theo quy
luật A + tất cả vũ trụ tồn tại không tuân theo quy luật A.

Tuy nhiên thực tế khác toán học ở chỗ, sự vật vốn dĩ không rõ
ràng như toán học, vậy nên nó sẽ tồn tại thêm khả năng tuân theo
một phần quy luật, tức là tồn tại thêm khả năng phủ định một
phần quy luật nào đó.

Dẫn đến công thức đúng nếu như vũ trụ có tồn tại sẽ là:

Tất cả các khả năng có thể có của vũ trụ = vũ trụ tồn tại tuân
theo quy luật A + vũ trụ tồn tại tuân theo một phần quy luật A +
vũ trụ tồn tại không tuân theo quy luật A.

40
Một quan điểm về Triết học

Như vậy, chúng ta giờ chỉ cần chọn một quy luật tùy ý và chia nó
thành các trường hợp như công thức trên, thì có thể xét hết các
khả năng của vũ trụ mà không sợ bị bỏ sót khả năng. Vậy tại sao
lại là tùy ý lựa chọn, đơn giản là trong vũ trụ này có rất nhiều
các quy luật, bao gồm cả những quy luật chúng ta chưa phát
hiện ra, thế nên nếu ai đó không lựa chọn quy luật này mà
lựa chọn quy luật khác để tiến hành xét vũ trụ thì cũng không
sao cả.

Với khả năng (4), trạng thái trống rỗng hoàn toàn của vũ trụ: Khả
năng này không thể xảy ra bởi vì tôi tồn tại, bạn tồn tại là chứng
cứ xác đáng nhất để khẳng định rằng vũ trụ không trống rỗng; khả
năng thấp nhất là chúng ta tồn tại dưới dạng một chuỗi thông tin,
chưa nói đến có khả năng tồn tại dưới dạng vật chất. Như vậy
chúng ta bác bỏ khả năng (4).

Với khả năng vũ trụ tồn tại nhưng không tuân theo luật nhân quả
(3): Bởi vì không tuân theo luật nhân quả, vậy nên vật chất, năng
lượng, thông tin, … trong vũ trụ đó hoàn toàn không chuyển động.
Như vậy vật chất, thông tin, năng lượng trong vũ trụ đó hoàn toàn
không tương tác với nhau. Chúng sinh ra, đứng trơ đó và rồi biến
mất, nhận thức hoàn toàn không thể xuất hiện trong vũ trụ này.
Vậy nên vũ trụ này nếu có tồn tại cũng không có ý nghĩa.

41
Một quan điểm về Triết học

Bây giờ chúng ta chỉ còn hai khả năng vũ trụ tồn hoàn toàn theo
luật nhân quả (1) và vũ trụ tuân theo một phần luật nhân quả (2).
Chúng ta sẽ lần lượt xét hai trường hợp này. Nhưng trước tiên
chúng ta hãy xem, khoa học cho đến nay đã khám phá ra được
những gì?

42
Một quan điểm về Triết học

II, TỔNG QUAN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VŨ TRỤ VÀ CON


NGƯỜI

(Dựa vào video: Lịch sử 13,7 tỉ năm của vũ trụ chỉ trong một
đoạn phim)

(Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=GRzGQJX-RzA)

Theo các nhà khoa học, vũ trụ của chúng ta hình thành cách đây
khoảng 13,7 tỉ năm, được đánh dấu bằng vụ nổ Big - Bang (BB).
Bỏ qua các khía cạnh khác của vấn đề làm sao vụ nổ lớn lại xảy
ra? Chúng ta chỉ xét từ vụ nổ lớn Big - Bang cho đến bây giờ.

Tại thời điểm xảy ra vụ nổ lớn, vũ trụ từ một điểm rất nhỏ, trong
chớp mắt đã nở rộng ra thành một vùng rộng lớn. Không gian nở
rộng ra dẫn đến nhiệt độ vũ trụ giảm xuống, tạo điều kiện cho sự
hình thành các hạt vật chất. Khi vũ trụ tiếp tục nở ra, nhiệt độ tiếp
tục được giảm xuống, các hạt vật chất đã kết hợp lại với nhau tạo
điều kiện cho việc hình thành nguyên tử đầu tiên là Hidro (𝐻2 ).

Dưới tác động của lực hấp dẫn, các nguyên tử Hidro bắt đầu tiến
lại gần nhau tạo thành những vùng khí Hidro và tạo thành những
thiên hà khí đầu tiên. Các thiên hà này dưới tác dụng của lực hấp
dẫn tiếp tục bị nén lại, tạo nên áp suất tại trung tâm của thiên hà.
Điều này khiến các nguyên tử Hidro kết hợp lại với nhau tạo thành
nguyên tử Heli và phát xạ ra năng lượng, đó là những tia sáng đầu

43
Một quan điểm về Triết học

tiên trong vũ trụ. Và những ngôi sao đầu tiên ra đời. Tại trung tâm
của các ngôi sao, dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất, các nguyên
tử tiếp tục kết hợp lại với nhau tạo thành các nguyên tử nặng hơn
(Li, 𝐶2 , 𝑂2 , Fe...) đồng thời tiếp tục phát xạ ra năng lượng.

Tuy nhiên với nhiệt độ và áp suất của các ngôi sao thì không đủ để
tạo ra các nguyên tố nặng hơn (đồng, kẽm, uranium...), thế nhưng
nếu các ngôi sao đó phát nổ thì lại hoàn toàn có thể. Những vụ nổ
này được các nhà khoa học gọi là các vụ nổ siêu tân tinh
(supernova). Các ngôi sao nổ tung rồi lại hồi sinh dưới tác động
của trọng lực như vậy trong suốt thời gian 8 tỉ năm. Lượng vật chất
đã đủ để hình thành nên hệ Mặt Trời của chúng ta. Có đủ các
nguyên tử để hình thành nên sự sống. Trái Đất của chúng ta hình
thành cách đây 4,5 tỉ năm.

Thời kì ban đầu mới hình thành, Trái Đất rất nóng và phải mất
hàng trăm triệu năm để nguội đi, tạo điều kiện cho các phân tử
nước trong khí quyển kết hợp lại với nhau và tạo thành những cơn
mưa đầu tiên. Có những cơn mưa kéo dài tới sáu tháng đã dẫn đến
việc hình thành các ao hồ và đại dương bao la. 3,8 tỉ năm về trước,
những dạng sống đơn giản đầu tiên ra đời dưới lòng đại dương.

Và sau một thời gian tiến hóa, có một số loài vi khuẩn đã có thể sử
dụng năng lượng từ ánh sáng mặt trời và tạo ra Oxy. Trong lòng
đại dương sâu thẳm chứa đầy tạp chất, mà một trong số chúng là
sắt, khi Oxy gặp sắt tạo thành gỉ sắt và tích tụ dưới đáy biển. Sau

44
Một quan điểm về Triết học

hàng triệu năm tích tụ như vậy chúng tạo thành mỏ sắt mà sau này
con người khai thác để phục vụ cuộc sống của mình.

Khi những tạp chất bị loại bỏ để lại một đại dương trong sạch, sẽ
kết hợp với việc một lượng lớn Oxy được hình thành. Đó là điều
kiện lí tưởng cho những dạng sống phức tạp xuất hiện. Với Oxy,
các loài sinh vật đã có thể tự cung cấp năng lượng, tức là đã có thể
tự chủ, không còn phụ thuộc vào môi trường. Những dạng sống
phức tạp hình thành cách đây 2 tỉ năm. 500 triệu năm trước loài cá
có xương sống lần đầu tiên xuất hiện.

Với việc Oxy tạo thành tầng Ozon bảo vệ chúng ta khỏi những bức
xạ nguy hiểm, các sinh vật đã có thể tiến lên mặt đất, dẫn đầu là
thực vật. Khi thực vật trên mặt đất phát triển, chúng trở thành thức
ăn và nơi trú ngụ cho các loài động vật. 400 triệu năm trước đây
loài lưỡng cư đầu tiên xuất hiện và với sự tiến hóa, một số loài giờ
đây đã có thể đẻ trứng với lớp màng bảo vệ, tức là chúng không
cần có nước để sinh sản (có thể sinh sản trên cạn). Điều này thể
hiện chúng đã tiến hóa từ lưỡng cư thành bò sát (bò sát có thể di
chuyển cách xa nguồn nước bao nhiêu cũng được, trứng của chúng
vẫn có thể nở), bằng cách này giúp cho các loài bò sát có thể tiến
sâu vào đất liền sinh sống.

Các loài thực vật chết cách đây hàng trăm triệu năm bị chôn vùi
dưới lòng đất, theo thời gian đã trở thành những mỏ dầu mà ngày
nay con người đang sử dụng. Cách đây 200 triệu năm các lục địa
bắt đầu chia cách và các động vật có vú đầu tiên xuất hiện.
45
Một quan điểm về Triết học

65 triệu năm trước một vật thể rộng khoảng 10km đã đâm xuống
Trái Đất, khói bụi che lấp Mặt Trời, nhiệt độ Trái Đất giảm đột
ngột và làm cho các loài động vật có khối lượng lớn tuyệt chủng
do không thể thích nghi với môi trường mới, kết thúc thời kì khủng
long và mở ra kỷ nguyên cho các động vật có vú.

7 triệu năm trước đây, cỏ lần đầu tiên xuất hiện và chúng cạnh
tranh với các cây thân gỗ khiến số lượng cây thân gỗ giảm mạnh.
Điều này khiến khoảng cách giữa các cây ngày một lớn hơn, buộc
một số loài linh trưởng phải di chuyển xuống mặt đất.

2,6 triệu năm trước, vượn người lần đầu tiên xuất hiện và đã biết
sử dụng một số công cụ như đá. Đập vỡ những viên đá lấy cạnh
sắc đã giúp vượn người làm được nhiều việc hơn. Ví dụ: chiến đấu,
tự vệ, chặt cây... 800 nghìn năm trước, người tinh khôn đã biết sử
dụng lửa, dùng nó để sưởi ấm cơ thể, xua đuổi các loài động vật
và nấu chín thức ăn.

Việc dùng lửa để nấu chín thức ăn giống như việc bạn có thêm một
dạ dày nữa ở bên ngoài, giúp bạn có thể tiêu hóa tốt hơn, cung cấp
nhiều năng lượng hơn và giúp cho bộ não phát triển hơn. 200 nghìn
năm trước, người hiện đại đã hình thành. 100 nghìn năm trước, con
người đã có đủ công cụ để di chuyển và mở rộng nơi sinh sống.

12 nghìn năm trước nhiệt độ Trái Đất bắt đầu ấm lên, hình thành
các vùng đồng bằng và sông hồ, thực vật và động vật cũng phong
phú hơn. Con người đã có thể ngừng di chuyển và chuyển sang

46
Một quan điểm về Triết học

định cư lâu dài. Dân số bắt đầu phát triển, con người đã biết cách
trồng trọt, chủ yếu là các loài cỏ như lúa, ngô, mía... Một người
săn bắt hái lượm cần cho mình 16 km2 để có đủ thức ăn cho gia
đình tồn tại (bao gồm thực vật và thịt). Nhưng một người nông dân
chỉ cần một phần mười km2 đất. 6000 năm trước, con người đã
thuần phục được ngựa, sử dụng chúng như một công cụ di chuyển
(thúc đẩy di chuyển cũng như chiến tranh).

5000 năm trước, đã có một số thành phố đầu tiên với mật độ dân
số đông. Có một vấn đề khi trồng trọt là bạn chỉ thu hoạch một
hoặc hai lần trong năm, tức là nếu như bị mất mùa hay bị cướp thì
trong năm đó bạn sẽ bị đói. Thế nên con người phải bảo vệ mùa
màng. Việc phát triển chữ viết, tính toán, thành lập quân đội hay
thậm chí chính trị thì mục đích đầu tiên là để bảo vệ mùa màng.
Và thời kì này cũng hình thành việc buôn bán, kết nối thương mại,
giao lưu văn hóa giữa các nền văn minh.

4000 năm trước, loài người đã phát minh ra bánh xe kết hợp với
ngựa, giúp cải thiện đáng kể tốc độ di chuyển, mang vác cũng như
quân sự. 3000 năm trước con người đã sử dụng được sắt.

2600 năm trước kỵ binh xuất hiện, lần đầu tiên con người có những
trận chiến trên lưng ngựa. Những đế chế với đất đai rộng lớn được
hình thành. Các tôn giáo cũng bắt đầu hình thành: Do Thái giáo,
Kitô giáo, đạo Phật, đạo Hindu gần như bắt đầu từ thời kỳ này.

47
Một quan điểm về Triết học

Năm 100 trước Công nguyên, con đường tơ lụa hình thành, kết nối
các nền văn minh. Các kết nối thương mại cũng mang theo những
rủi ro là bệnh dịch và cũng mang theo sự truyền bá tôn giáo.

500 năm trước, Columbus vượt qua Đại Tây Dương kết nối hai
miền Bắc và Nam Mỹ.

300 năm trước con người phát minh ra máy móc, thay thế sức
người, khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp giải phóng sức lao
động của con người, phát triển kinh tế và bùng nổ dân số.

Năm 1969, lần đầu tiên có người đặt chân lên Mặt Trăng.

Ngày nay, với sự bùng nổ công nghệ thông tin đã kết nối mọi người
trên địa cầu. Sự lan truyền thông tin chưa bao giờ nhanh đến thế,
có thể được tính bằng giây. Internet kết hợp với các dịch vụ hỗ trợ
đã giúp cho những giao dịch xảy ra nhanh chóng. Cuộc chơi giờ
đây không chỉ gói gọn trong một phạm vi nhất định mà đã mang
tính toàn cầu. Con người đã chế tạo được ra những cỗ máy có khả
năng tự học và hứa hẹn tương lai cũng sẽ thông minh như con
người thậm chí còn vượt xa hơn thế. Tóm lại, ngày nay con người
đang đứng trước ngưỡng cửa của một thời đại mới.

48
Một quan điểm về Triết học

BỔ SUNG:

1) Việc phát minh ra chữ viết có một ý nghĩa lớn.

Thứ nhất, tuy ngôn ngữ có thể giúp con người dễ giao tiếp hơn,
kiến thức và kinh nghiệm được lưu trữ thông qua truyền miệng.
Thế nhưng, nó cũng có yếu điểm là nếu như người nghe không
hiểu được ý người nói, hoặc vì một lí do nào đó mà thông tin không
thể truyền đạt cho người khác thì thông tin đó sẽ biến mất.

Thứ hai, việc truyền tải thông tin qua truyền miệng bắt buộc người
nói và người nghe phải hiện diện cùng một lúc mới có thể giao tiếp
được với nhau, hoặc có một cách thay thế đó là nhờ một người
trung gian, truyền đạt lại thông tin cho người nghe. Nhưng hành
động này có thể xảy ra trường hợp là: nếu như người trung gian vì
lí do nào đó đã không nhớ được hết, hay hiểu sai thông tin đã nghe,
dẫn đến thông tin không đầy đủ hoặc bị bóp méo khi truyền đạt lại
cho người nghe. Trong trường hợp này việc người truyền đạt thông
tin thay vì nói, thì sẽ viết ra và nhờ người trung gian chuyển, thì rõ
ràng là đảm bảo, cũng như tăng tính bảo mật hơn nếu người viết
không muốn người trung gian được biết.

Do đó, việc phát minh ra chữ viết có thể khắc phục được những
điều này. Lần đầu tiên con người có công cụ lưu trữ thông tin trong
thời gian dài. Nó đảm bảo thông tin không bị mất đi và đến được
người cần đến. Chính vì vậy, những tư tưởng, kiến thức được kế
thừa và phát triển hoàn thiện hơn. Thực tế, với việc phát minh chữ

49
Một quan điểm về Triết học

viết đã thúc đẩy văn hóa xã hội, kỹ thuật phát triển một cách nhanh
chóng và bắt đầu xuất hiện những nền văn minh.

2) Chính trị, ngôn ngữ, chữ viết, toán học hình thành một cách tự
nhiên khi con người bắt đầu từ bỏ lối sống du mục và chuyển dần
sang chăn nuôi và trồng trọt.

Do trồng trọt nên con người phải sống định cư, bắt đầu có mùa
màng để bảo vệ. Khi của cải sản xuất ra dư thừa thì dân số tăng
nhanh, các nhóm người thường xuyên tiếp xúc trao đổi thông tin
với nhau, ngôn ngữ phát triển và xuất hiện mua bán trao đổi hàng
hóa (tiền đề của thương nghiệp). Để kiểm kê các sản phẩm do mình
sản xuất và sau các lần trao đổi với người khác nhằm tính toán điều
chỉnh cho các hoạt động sau này, chữ viết và toán học bắt đầu xuất
hiện (kí hiệu các sản phẩm phát sinh ra chữ viết, đếm số lượng các
sản phẩm phát sinh ra toán học).

Còn về chính trị, ngay các loài động vật sống theo đàn cũng phải
có con đầu đàn, con người cũng vậy, trong một nhóm người bao
giờ cũng có một người đứng đầu.

Sau khi sống định cư, dân số tăng lên, các nhóm người đó (bầy
đàn) phát triển thành các bộ tộc. Trong các bộ lạc bắt đầu hình
thành các dự án chung, ví dụ như đắp đê ngăn lũ lụt, xây đường,
cầu cống để dễ đi lại hay bảo vệ mùa màng trước sự cướp phá của
các bộ tộc khác. Từ đó, bắt đầu hình thành tầng lớp chuyên đôn

50
Một quan điểm về Triết học

đốc và quản lí các dự án chung đó (việc này các tộc trưởng quản lí
hoặc chỉ định các thuộc cấp làm), chính trị bắt đầu từ đây.

Sau đó các bộ tộc ở gần nhau bắt đầu hòa huyết với nhau (chủ yếu
là do chiến tranh) tạo thành những quốc gia nhỏ. Và để quản lí một
vùng đất rộng lớn thì giai cấp cai trị phải phân hóa thành nhiều
chức năng khác nhau, trong đó người đứng đầu đất nước được gọi
là Vua.

Theo thời gian các quốc gia nhỏ kết hợp lại với nhau tạo thành
những quốc gia lớn, thậm chí là hình thành các đế quốc thông qua
những cuộc chinh phạt các dân tộc khác. Ví dụ: đế quốc Mông Cổ
dưới thời trị vì của Thành Cát Tư Hãn.

3) Tín ngưỡng: Xuất phát điểm của nó là vào thời kì đầu của quá
trình manh nha hình thành xã hội, con người bắt đầu quan sát, tìm
hiểu các hiện tượng ngoài thiên nhiên. Ban đầu chỉ là một số hiện
tượng khiến họ chú ý. Ví dụ: Tiếng sấm, chớp làm họ bất ngờ và
sợ hãi. Đôi khi nó còn đánh trúng người khiến họ càng chú ý vì lo
sợ. Rồi lâu lâu lại có những cơn bão quét qua, rồi cả động đất, sóng
thần làm cho họ bị tổn thất nhiều về tính mạng và tài sản…

Họ bắt đầu đặt câu hỏi tại sao những hiện tượng này lại xảy ra.
Nhưng do thời đó hạn chế về khoa học, kỹ thuật, họ không thể nào
giải thích một cách đúng đắn cho những câu hỏi trên.

Hợp lí nhất là gán nó cho một thực thể có trí tuệ và năng lực siêu
nhiên, được gọi chung là các vị thần. Và lí do lâu lâu lại có động

51
Một quan điểm về Triết học

đất, sóng thần, sấm chớp, bão bùng là vì con người đã làm gì đắc
tội với các vị thần đó, khiến họ nổi giận nên đe dọa và trừng phạt
con người.

Để không bị các vị thần trừng phạt, con người phải tôn kính và thờ
cúng, dâng lễ vật cho các vị thần, để mong các vị thần chở che. Có
thể nói, đây là thời kì con người sợ hãi các vị thần hơn là tôn kính.

Từ một vài vị thần ban đầu, theo thời gian phát triển lên thành rất
nhiều vị thần. Ví dụ: Thần núi, thần cây, thần đất, thần bầu trời,
thần biển cả, thần mặt trời, thần mặt trăng, thần chết, thần tình yêu,
thần trí tuệ, thần sinh sản... Hầu như bất cứ lĩnh vực nào gắn với
đời sống con người đều được một vị thần quản lí. Đây được gọi là
thời kì đa thần.

Hầu như bất cứ một bộ tộc nào đều tôn thờ một vị thần riêng của
họ và thường gắn với lĩnh vực thiết yếu nhất của họ. Ví dụ: Gần
biển thì thờ thần biển cả, trên núi thì thờ thần núi, trong rừng thì
thờ thần rừng…

Cùng với đà phát triển của con người tiến vào thời kì phong kiến,
xã hội có sự phân cấp rõ ràng. Quan niệm về thần cũng thay đổi để
phù hợp với ý niệm về xã hội bây giờ của con người, tức là thần
cũng phân cấp và nhân cách hóa giống con người. Mỗi một vị thần
được con người sáng tạo một câu chuyện dành riêng cho mình.

52
Một quan điểm về Triết học

Con người không còn sợ các vị thần như trước nữa, con người tôn
kính, dâng lễ, thờ phụng các vị thần. Đổi lại các vị thần phải chở
che cho họ. Đây là một giao dịch công bằng, sòng phẳng.

Khi xã hội phát triển, thơ ca, hội họa, văn hóa cũng theo đó mà nở
rộ, con người cũng bắt đầu đi tìm ý nghĩa, mục đích sống cho cuộc
đời mình. Với việc con người rất sợ chết, nên họ sáng tạo ra học
thuyết linh hồn, theo đó khi con người chết đi, thì chỉ chết về mặt
thể xác, còn linh hồn vẫn mãi tồn tại.

Với việc tin vào thần linh đã được nhân cách hóa, cộng với việc
tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời, và tin vào sự tồn tại của linh hồn,
bạn biết đấy, đây là điều kiện cần và đủ để tôn giáo và triết học ra
đời. Và sự thật là cách đây khoảng 2500 năm, hàng loạt tôn giáo
và triết học gia ra đời.

=> Triết học, tôn giáo ra đời giống như một sự thống nhất các quan
niệm. Tức là trước đó đã có các tư tưởng, những quan niệm rời rạc
của từng cá nhân khác nhau, và theo thời gian con người bắt đầu
thống nhất các quan niệm, tư tưởng đó thành một hệ thống tư tưởng
mạch lạc được gọi là triết học, tôn giáo.

4) Thuyết tiến hóa không những đúng do các bằng chứng khảo cổ,
từng thời kỳ khác nhau có những loài vật đặc trưng khác nhau, phù
hợp với thuyết tiến hóa; mà nó còn đúng do là một phần logic của
lý thuyết tổng quát hơn về vũ trụ.

53
Một quan điểm về Triết học

Mọi thứ xảy ra đều hợp lí và đúng với trình tự của nó, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sỡ dĩ chúng ta có mặt ở đây là nhờ
một loạt trình tự sắp xếp một cách ngẫu nhiên. Tại sao loài người
là loài duy nhất trên Trái Đất có tư duy mà không phải là loài khác.

Thực tế, trên Trái Đất, nếu loài người bị tuyệt chủng thì loài động
vật tiếp theo thống trị Trái Đất phải có cấu tạo giống người, và tuân
thủ một quá trình tiến hóa gần giống như vậy. Bởi chỉ có đi bằng
hai chân loài vật đó mới có thể giải phóng đôi tay để làm những
công việc phức tạp, đòi hỏi tư duy như cầm, nắm, chặt, ném. Từ
đó dần nâng cao nhận thức của mình và dần tạo nên nền văn minh.

Tiếp tục chỉ có loài thú chuyên leo trèo trên cây thì hai chi trước
mới tiến hóa thành hai tay để tiện cho việc leo trèo, hái lượm. Cũng
chỉ có một lí do nào đó mà loài thú đó mới phải xuống định cư
dưới đất, giải phóng hai tay khỏi việc giúp di chuyển và chuyển
sang cầm nắm. Nên nhớ, loài người và loài khỉ có cùng chung tổ
tiên và có rất nhiều loài khỉ khác nhau, nhưng chỉ có duy nhất một
loài là tiến hóa thành con người chúng ta. Và tại sao nguồn gốc
loài người là ở châu Phi mà không phải ở các châu lục khác, chẳng
lẽ ở những châu lục khác không có loài khỉ sinh sống từ xưa sao?

5) Khi con người bước vào thời đại công nghiệp, dẫn đến sự phát
triển nhanh chóng của các lĩnh vực khác, là vì, do có sự trợ giúp
của máy móc nên năng suất lao động tăng. Mọi người không cần
mất nhiều thời gian để lao động, sản xuất, mà vẫn có thể nuôi sống
được gia đình. Thời gian rảnh đó một phần được dùng để suy nghĩ,
54
Một quan điểm về Triết học

giải quyết các vấn đề của xã hội, dẫn đến các lĩnh vực khác cũng
phát triển theo.

Ngày trước do chưa có khoa học kỹ thuật, năng suất lao động thấp,
người dân làm cả ngày không đủ ăn nói gì đến suy nghĩ về những
lĩnh vực khác. Vì vậy xã hội trong một thời gian dài phát triển khá
chậm so với bây giờ.

Ngày nay xã hội phát triển vượt bậc là do phát triển khoa học và
phân công lao động. % tỉ lệ người dân làm nông nghiệp trong một
nước là rất thấp, nhưng vẫn có thể nuôi sống cả đất nước, phần còn
lại tham gia vào những ngành nghề khác, bao gồm các ngành dịch
vụ và khoa học.

Đặc biệt, một bộ phận lớn tinh hoa của đất nước có thể nuôi sống
bản thân và gia đình chỉ bằng việc suy nghĩ giải quyết các vấn đề
của xã hội. Đây là nguyên nhân chính khiến xã hội hiện tại phát
triển bùng nổ.

Mặt khác, trong thế kỉ 18 con người đã chấp nhận những giới hạn
trong suy nghĩ của bản thân mình và bắt đầu tiếp nhận những ý
kiến, tư tưởng của người khác, từ đó sàng lọc các lí luận phù hợp.
Vì vậy các học thuyết nhanh chóng được phát triển và hoàn thiện,
tạo tiền đề cho sự phát triển khoa học kỹ thuật về sau.

55
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM

Nhiều người vì một số lí do đã phủ nhận thuyết tiến hóa. Họ còn


đưa ra các dẫn chứng nhiều nhà khoa học cũng không tin thuyết
tiến hóa, với hàm ý là, những nhà khoa học là những người thông
minh vậy mà họ còn không tin thuyết tiến hóa nữa là chúng ta (vốn
không đủ nhận thức bằng họ).

Việc đầu tiên, tôi muốn bạn hiểu rằng, việc tin hay không tin thuyết
tiến hóa không phụ thuộc vào có bao nhiêu người tin hay không
tin, mà là hệ thống lập luận của thuyết tiến hóa có đủ sức thuyết
phục bạn hay không.

Nếu bạn không tin thuyết tiến hóa thì việc đầu tiên là bạn phải hiểu
đúng thuyết tiến hóa phát biểu như thế nào, sau đó mới xem xét hệ
thống lập luận của nó có phù hợp hay không, chứ không phải chưa
gì đã vội kết luận. Đó là bạn đang tự cản trở sự nhận thức của mình
và nếu bạn tuyên truyền điều đó với những người xung quanh thì
bạn cũng đang cản trở nhận thức của họ (bởi bạn đang nhồi nhét
một niềm tin cố hữu không đúng vào đầu họ), tôi gọi đó là hành
động vô trách nhiệm.

Việc đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu về thuyết tiến hóa:

Thuyết tiến hóa là một học thuyết, vậy nên không có đúng hay sai
mà là bạn tin hay không tin.

56
Một quan điểm về Triết học

Thuyết tiến hóa của Charles Darwin.

Theo học thuyết này, mọi loài sinh vật sinh ra không phải do Chúa,
Trời hay Thần thánh, mà là xuất hiện và phát triển nhờ quá trình
chọn lọc tự nhiên. Trong quá trình này, những biến dị cá thể (nay
gọi là biến dị di truyền) nhỏ nhặt, nếu làm tăng khả năng cạnh
tranh, sinh tồn và sinh sản của cá thể thì sẽ được chọn lọc - với nội
dung là: giữ lại, củng cố và tăng cường - trở thành những đặc điểm
thích nghi.

Trong tự nhiên, số lượng cá thể con sinh ra sẽ nhiều hơn số cá thể


có thể sống sót (phần lớn bị chết đói hoặc bị ăn thịt). Vì vậy, những
cá thể mang đặc điểm không phù hợp với điều kiện sống khắc
nghiệt sẽ có ít cơ hội sống sót và sinh sản, nên các đặc điểm của
chúng sẽ không được di truyền cho thế hệ sau. Trong khi những cá
thể có đặc điểm phù hợp sẽ có tỷ lệ sống sót và sinh sản cao hơn,
các đặc điểm của chúng sẽ được di truyền cho thế hệ sau.

Kết quả là, các thế hệ hậu duệ của chủng loài đó có thể thích nghi
tốt hơn để tồn tại và sinh sôi trong môi trường mà sự chọn lọc tự
nhiên diễn ra. Quá trình này tạo ra và bảo tồn những cá thể mang
đặc điểm phù hợp cho sự sinh tồn trước điều kiện sống khắc nghiệt,
cũng như loại bỏ những cá thể mang đặc điểm không phù hợp.

Do đó, các cá thể của quần thể qua các thế hệ nối tiếp nhau sẽ dần
bị thay thế bởi con cháu được sinh ra bởi các bố mẹ mang những
đặc điểm đã giúp chúng có thể sống sót và sinh sản trong từng môi

57
Một quan điểm về Triết học

trường riêng biệt của chúng. Như vậy, cùng một loài nhưng có thể
tiến hóa thành nhiều loài khác nhau khi sinh sống trong các môi
trường khác nhau, do phải thích nghi trong môi trường mới đó.

Bây giờ tôi sẽ trả lời một số khúc mắc mà nhiều người vì không
hiểu thuyết tiến hóa thường đem ra tranh luận.

1) Nếu thuyết tiến hóa là đúng thì khỉ tiến hóa thành người hay
người tiến hóa thành khỉ (ý ám chỉ loài khỉ ngày nay).

Trả lời: Người và loài khỉ ngày nay có chung một nguồn gốc tổ
tiên, chứ không có chuyện người tiến hóa thành khỉ, hay ngược lại.
Loài khỉ tiến hóa thành người và loài khỉ ngày nay xuất hiện cách
đây khoảng ít cũng phải trên 3 triệu năm, tức là khoảng thời gian
xa lắc rồi.

2) Thuyết tiến hóa là vô thần, tiến hóa cổ vũ độc tài bởi vì theo
thuyết tiến hóa là mạnh được yếu thua.

Trả lời: Thuyết tiến hóa chưa từng phát biểu mạnh được yếu thua,
mà là “loài, cá thể nào thích nghi được với môi trường thì tồn tại
và ngược lại, không thích nghi được với sự khắc nghiệt của môi
trường thì bị đào thải” mấu chốt ở đây là chữ “thích nghi”.

3) Các tế bào trong cơ thể sinh vật có chức năng tìm và tự sửa chữa
lại các đoạn DNA bị lỗi, mà DNA không bị lỗi thì không thể gây
ra đột biến gen, mà không đột biến gen thì không hình thành tính
trạng mới, mà không xuất hiện tính trạng mới thì chọn lọc tự nhiên
không có tác dụng.
58
Một quan điểm về Triết học

Trả lời: Việc sửa chữa lại DNA tuy có thể khắc phục được đa số
các đột biến gen, nhưng nó không thể nào sữa chữa được đối với
những lỗi nghiêm trọng. Ta biết DNA xuất hiện dưới dạng chuỗi
xoắn kép, vì vậy khi một sợi đơn DNA bị hỏng thì tế bào sẽ dựa
vào sợi DNA còn lại để sửa chữa.

Thế nhưng nếu như vì một lí do nào đó mà chuỗi DNA bị hỏng


nặng dẫn đến cả hai sợi đều bị đứt gãy và mất đi một số nucleotide.
Thông tin di truyền của đoạn hỏng bị mất hoàn toàn nên không có
sợi khuôn mẫu để sửa chữa theo các cơ chế thông thường. Trong
trường hợp này, tế bào còn một giải pháp duy nhất để tăng khả
năng sống sót, đó là sửa chữa DNA một cách ngẫu nhiên với tỷ lệ
sai sót (đột biến) cao nhưng dù sao vẫn duy trì được sự sống. Và
nó là một trong những nguyên nhân tạo nên tính đa dạng của DNA.

Bây giờ đến lượt tôi sẽ đặt ra những vấn đề cho những bạn không
tin thuyết tiến hóa và cho rằng sinh vật là do một đấng toàn năng
nào đó tạo thành trả lời.

1) Theo các nhà khảo cổ học thì các sinh vật không xuất hiện cùng
một lúc, và phát triển dần từ đơn giản đến phức tạp theo thời gian.
Từ các loài sinh vật đơn bào => các loài chân đốt (bọ ba thùy) =>
các loài cá => các loài lưỡng cư => bò sát => chim, linh trưởng.
Từ các loài tảo => cây dương xỉ => cây thân gỗ, dây leo, …

Vậy tại sao lại có hiện tượng này? Đấng tạo hóa rảnh rỗi nên lâu
lâu đến Trái Đất, tạo ra một loài mới rồi lại đi hay sao? Mà các loài

59
Một quan điểm về Triết học

vật trên Trái Đất đâu có ít, nếu tính cả những loài đã tuyệt chủng
thì có khi lên đến hàng tỉ loài. Hay các nhà khảo cổ sai?

2) Nếu sinh vật là do một đấng toàn năng nào đó tạo ra thì đáng lí
ra cơ thể sinh vật phải trở nên hoàn hảo. Vậy tại sao lại xuất hiện
những bộ phận dư thừa trên cơ thể sinh vật. Ví dụ: Ruột thừa ở
người, các xương tứ chi ở loài rắn, chim hay cá voi. Hẳn các bạn
phải ngạc nhiên lắm khi các nhà khoa học kết luận cá voi từng là
loài vật sống trên cạn nhỉ?

Nếu giải thích bằng thuyết tiến hóa thì đây là bằng chứng cho quá
trình tiến hóa, khi sinh vật thích nghi trong môi trường mới vốn dĩ
không cần đến những bộ phận đó nữa, và các bộ phận đó đang dần
bị tiêu biến đi.

3) Đó là sự thích nghi của các sinh vật. Ở các sinh vật càng đơn
giản và có khả năng sinh sản với số lượng lớn thì sự thích nghi
càng nhanh. Biểu hiện như sự kháng một loại thuốc nào đó ở các
loài sâu bọ trên các đồng ruộng, sau một thời gian sử dụng thứ
thuốc đó để tiêu diệt chúng. Nếu cơ thể sâu bọ nhất nhất như nhau
thì chúng phải chết đồng loạt, chứ tại sao sau một thời gian đàn sâu
bọ lại hồi sinh và có khả năng kháng thuốc? Và rõ ràng hơn là sự
biến đổi quá nhanh của các loại virus. Tại sao lại như vậy?

Nếu giải thích theo thuyết tiến hóa thì đơn giản rồi. Sau khi phun
thuốc làm cho môi trường thay đổi nhanh chóng (trở nên độc hại

60
Một quan điểm về Triết học

đối với sâu bọ) và đương nhiên làm cho hàng trăm nghìn cá thể sâu
bị chết (thuốc sâu có hiệu quả ngay tức khắc).

Thế nhưng, trong đàn sâu có một vài cá thể do đột biến gen từ trước
đã thích nghi được với loại thuốc đó và sống sót (tỉ lệ có thể là một
trên hàng trăm nghìn). Với khả năng sinh sản nhanh của mình thì
sau một thời gian chúng sẽ sinh sản ra một đàn sâu có khả năng
kháng được loại thuốc đó. Lúc này người ta lại phải nghiên cứu ra
một loại thuốc khác để tiêu diệt loại sâu đó. Tương tự, virus cũng
như vậy.

61
Một quan điểm về Triết học

XÉT TRƯỜNG HỢP: VŨ TRỤ TỒN TẠI HOÀN TOÀN


THEO LUẬT NHÂN QUẢ.

“Luật nhân quả phát biểu rằng, mọi kết quả đều có nguyên nhân
gây ra nó.”

Bởi vì chúng ta đang xét trường hợp vũ trụ tồn tại hoàn toàn theo
luật nhân quả nên một vật không thể tự dưng xuất hiện, hoặc biến
mất, mà không có nguyên nhân. Tức là nếu một vật đã tồn tại trong
không gian, nếu không có ngoại lực nào tác động lên nó, thì nó vẫn
mãi đứng yên ở đó và cũng không biến mất.

Trong mục này chúng ta sẽ xét 4 trường hợp:

Trường hợp 1) Xét hạt nhỏ nhất trong vũ trụ.

Trường hợp 2) Xét toàn thể (rộng lớn nhất) vũ trụ.

Trường hợp 3) Xét thời gian.

Trường hợp 4) Xét căn nguyên tối hậu (cứu cánh) về lí do hình
thành vũ trụ.

62
Một quan điểm về Triết học

TRƯỜNG HỢP 1) XÉT HẠT NHỎ NHẤT TRONG VŨ TRỤ:

A) GIẢ THUYẾT VỀ ETHER

1, Sự tồn tại về Ether

Trả lời cho câu hỏi. Cái gì tạo nên vũ trụ này?

Nếu như những vật chất to lớn là do từ nhiều vật chất nhỏ hơn tạo
thành, thì đến lượt những vật chất nhỏ hơn đó, lại do những hạt
nhỏ hơn nữa tạo thành. Từ đây ta xét đến những hạt vô cùng bé,
những hạt cơ bản, được chia đến mức không thể nhỏ hơn được nữa.
Tức là chúng không thể do các hạt khác tạo thành. (Trước đây tôi
gọi những hạt này là hạt A. Nhưng sau khi tìm hiểu về thuyết tương
đối. Tôi biết các nhà khoa học đã giả sử tới trường hợp này, và đặt
tên cho chúng là những hạt Ether. Vậy ta hãy gọi những hạt này là
Ether).

Chúng ta đang sống trong thế giới vật chất, vậy vật chất từ đâu mà
ra. Hay các hạt Ether là những hạt vật chất nhỏ nhất, vậy thứ gì tạo
thành các hạt Ether đó? Đương nhiên nó không thể cấu thành từ
những hạt vật chất nhỏ hơn nữa, vì như vậy sẽ trái với giả thuyết
của chúng ta.

63
Một quan điểm về Triết học

Ở đây có hai giả thuyết:

Giả thuyết 1: Trước khi hình thành những hạt như vậy, vũ trụ vốn
trống rỗng. Tức là không có gì? Vậy làm cách nào từ chỗ không
có gì, lại trở thành những hạt cơ bản đầu tiên (Ether)? Đây là điều
vô lí, không thể nào xảy ra được.

Một trường hợp khác của giả thuyết này là: Các hạt Ether do những
thứ phi vật chất tạo thành (ví dụ: Năng lượng). Tuy nhiên những
thứ phi vật chất do đâu mà thành? Không thể nào từ chỗ không có
gì lại tạo thành những thứ phi vật chất đó được. Giả thuyết này trái
với luật nhân quả, vậy nên chúng ta có thể bỏ qua giả thuyết đầu
tiên này.

Giả thuyết 2: Các hạt Ether đó vốn dĩ đã tồn tại sẵn trong vũ trụ.
Điều này cũng nói rằng, có thể tồn tại thứ phi vật chất để tạo nên
các hạt Ether đó. Và giả thuyết này cũng có thể khẳng định sự tồn
tại của Chúa. Chúa ở ngoài vũ trụ của chúng ta, và Chúa tạo nên
vũ trụ của chúng ta. Tại sao lại có khả năng này. Bởi vì không gian
là một khoảng không rộng đến vô cùng. Và vũ trụ của chúng ta,
giả sử do Chúa tạo ra, thì vũ trụ dù rộng lớn nhưng số lượng vật
chất vẫn có hạn. Và khi có giới hạn, nó sẽ là rất nhỏ so với khoảng
không gian vô hạn kia. Tức là, bên ngoài vũ trụ vẫn có khoảng
không gian rộng lớn, và Chúa tồn tại trong khoảng không gian đó.

64
Một quan điểm về Triết học

=> Tóm lại, các hạt Ether là những hạt nhỏ nhất của vật chất, nên
ta khẳng định rằng chúng có tồn tại, bởi vì vật chất tồn tại. Vậy đặc
tính của nó là gì?

Tạm thời chúng ta có thể kết luận được là:

Chúng là những hạt nhỏ nhất do giả thuyết của chúng ta đặt ra. Do
chúng nhỏ nhất nên chúng không thể chia nhỏ hơn được nữa (bởi
nếu thế thì sẽ trái với giả thuyết). Từ đó dẫn đến hệ quả là, các hạt
Ether không thể bị biến dạng, tức là nó có độ cứng tuyệt đối (nếu
nó bị biến dạng thì tức là vật chất đó do nhiều hạt nhỏ hơn nữa tạo
thành, và hiện tượng biến dạng là do trật tự sắp xếp các hạt nhỏ đó
bị thay đổi, theo nhận thức thông thường thì là vậy).

Hãy lưu ý giả thuyết này vì nó trái với giả thuyết của lý thuyết dây
do các nhà khoa học đưa ra. Một điều nữa, do chúng là những hạt
cơ bản nhất cấu thành nên vũ trụ, nên các liên kết giữa các hạt
Ether cũng là những liên kết cơ bản nhất, cũng là mối liên kết bền
vững nhất trong vũ trụ. Nếu những hạt Ether có khối lượng, thì
khối lượng riêng của chúng là khối lượng riêng lớn nhất trong vũ
trụ, từ đó tạo thành lực hấp dẫn xung quanh chúng cũng là lực hấp
dẫn mạnh nhất. Điều này cũng khác với mô hình chuẩn mà các nhà
khoa học đưa ra, họ cho rằng, các hạt cơ bản vốn không có khối
lượng, mà chúng được một hạt khác cung cấp khối lượng cho và
hạt này được gọi là hạt Higgs.

65
Một quan điểm về Triết học

Lý thuyết dây cho rằng: Các hạt cơ bản cấu thành vũ trụ thực
chất là các dây không ngừng dao động, và mỗi dây dao động
với tần số khác nhau sẽ cho ra những đặc tính khác nhau dẫn
đến có vô vàn các hạt cơ bản cấu thành vũ trụ.
Hệ quả của lý thuyết dây là có vô vàn vũ trụ khác nhau, tức
lý thuyết dây ủng hộ cho thuyết đa vũ trụ.

2) Có bao nhiêu loại hạt Ether

Ta đã khẳng định sự tồn tại của các hạt Ether, vậy có bao nhiêu
loại hạt Ether. Tuy chúng là những hạt siêu nhỏ, nhưng chúng ta
không có cơ sở nào để khẳng định rằng nó chỉ có một loại hạt. Ta
giả sử hạt Ether A có tính chất khác hạt Ether B và hạt Ether C,…
điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Tuy nhiên với mỗi loại hạt Ether
khác nhau, chúng sẽ có ít nhất một tính chất khác nhau, vậy nên sẽ
phát sinh thêm các lực tương tác giữa chúng. Hai hạt Ether không
thể được xem là khác nhau khi tính chất của chúng giống nhau.

Ta giả sử các trường hợp xảy ra.

Trường hợp 1: Ether chỉ có một hạt duy nhất (hạt Ether A). Vậy
chúng sẽ có hai khả năng tương tác: Lực tương tác giữa hai cá nhân

66
Một quan điểm về Triết học

A-A; và lực tương tác bao trùm lên toàn bộ hạt A, cũng do hạt A
tạo ra.

Trường hợp 2: Tồn tại hai loại hạt Ether (A và B)

Chúng ta có tối thiểu 2 loại lực. Lực tương tác A – B và lực tương
tác chung A-A và B-B, tức là lực tương tác giữa A-A và B-B là
giống nhau. Có thể là cùng hút hoặc cùng đẩy, hoặc A không có
tác dụng gì với A và B không có tác dụng gì với B….

Và tối đa 4 loại lực khác nhau. A-A, B-B, A-B, và lực thứ 4 tác
dụng chung lên cả hai loại hạt. Có thể là lực hấp dẫn.

Trường hợp 3: Tương tự, với 3 loại hạt khác nhau (A, B, C) chúng
ta có tối thiểu 3 loại lực khác nhau tác dụng lên chúng.

Trường hợp 4: Có 4 loại hạt và có tối thiểu 4 loại lực khác nhau
tác dụng lên chúng.

Trường hợp 5, trường hợp 6...

Trên thực tế, nếu giả thuyết ban đầu là càng nhiều hạt và những
hạt đó liên kết với nhau theo một định luật phức tạp và ngặt nghèo,
thì càng dễ tin vũ trụ là do một ai đó tạo nên, hoặc có đa vũ trụ để
khỏa lấp đi xác suất các hạt liên kết với nhau một cách có trật tự.

Tuy nhiên ở đây có một vấn đề. Hai hạt Ether khác nhau sẽ tương
tác với nhau bằng cách nào? Các nhà khoa học giải thích hiện

67
Một quan điểm về Triết học

tượng tương tác giữa các hạt E (electron) và P (proton) là do việc


phóng và hút các hạt nhỏ hơn nhiều giữa chúng. Nhưng các hạt
Ether là những hạt nhỏ nhất, vì vậy chúng không thể hút và phóng
các hạt nhỏ hơn được. Vậy chúng tương tác bằng cách nào?

Chỉ có hai cách giải thích.

-1, Lực tương tác của chúng là lực tương tác do các hạt tiếp
xúc trực tiếp với nhau.

-2, Lực tương tác giữa chúng là lực tương tác phi vật chất,
tức là nó tác động vào không gian; cũng giống như việc lực
hấp dẫn là do hiện tượng uốn cong không gian theo Einstein.

Trường hợp 1: Lực tương tác của chúng là do các hạt tiếp xúc trực
tiếp với nhau tạo nên, tức là một hạt 𝐴1 nếu muốn liên kết với một
hạt 𝐴2 để tạo thành vật chất lớn hơn nó chỉ có một cách đó là va
chạm trực tiếp với hạt B. Nhưng lý thuyết này vướng phải một
nhược điểm là chúng vi phạm định luật bảo toàn năng lượng. Nếu
hai hạt 𝐴1 và 𝐴2 va chạm chính diện vào nhau thì lực va chạm đó
sẽ bị triệt tiêu đi (do hai hạt 𝐴1 và 𝐴2 là những hạt siêu cứng, không
thể biến dạng nên không thể đàn hồi tạo ra phản lực đẩy hai hạt 𝐴1
và 𝐴2 ngược lại).

68
Một quan điểm về Triết học

Đối với một vật cứng bình thường cho va chạm với nhau thì phần
lực bị triệt tiêu đó sẽ được chuyển thành nhiệt năng, tức là các
nguyên tử tạo nên vật đó sẽ dao động với tần số cao hơn để đảm
bảo tổng năng lượng trước và chạm và sau va chạm không thay
đổi. Nhưng các hạt Ether là những hạt nhỏ nhất không được cấu
thành từ những hạt nhỏ hơn nữa nên phần lực bị triệt tiêu đó không
được chuyển thành dạng năng lượng nào cả, tức là nó vi phạm định
luật bảo toàn năng lượng.

Vậy nên nếu giả thuyết các hạt Ether là những hạt siêu cứng thì
chúng không thể tương tác với nhau bằng cách va chạm trực tiếp,
do vi phạm định luật bảo toàn năng lượng.

Để khắc phục điều này, các nhà khoa học đã giả thuyết lý thuyết
dây, tức là các hạt cơ bản đó không phải là các hạt siêu cứng, mà
là những dây khá mềm và liên tục dao động, khi hai dây va chạm
vào nhau lực triệt tiêu do va chạm sẽ được chuyển thành dao động
của dây như vậy tổng năng lượng vẫn được bảo toàn.

69
Một quan điểm về Triết học

Định luật bảo toàn năng lượng: Năng lượng không tự sinh ra
cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng
khác hay truyền từ vật này sang vật khác.

Trường hợp 2: Lực tương tác giữa chúng là lực tương tác phi vật
chất, tức nó tác động vào không gian nơi không có bất kì hạt nào
để truyền lực giúp cho chúng.

Thuyết tương đối tổng quát của Einstein đã chứng minh rằng, lực
hấp dẫn thực chất là hiện tượng bẻ cong không gian của một vật
có khối lượng, và gần đây các nhà khoa học đã phát hiện ra sóng
hấp dẫn tức là không gian của chúng ta có khả năng co dãn.

Như đã giả thuyết về hạt Ether, chúng là những hạt có khối lượng
riêng lớn nhất, vậy nên khả năng bẻ cong không gian xung quanh
cũng lớn nhất, nhưng vì chúng có khối lượng xác định chứ không
phải vô hạn, nên lực hấp dẫn là có hạn chứ không phải là vô cùng
(do lực hấp dẫn tỉ lệ thuận với khối lượng). Vậy nên mức độ uốn
cong không gian là có hạn.

70
Một quan điểm về Triết học

Hãy ví dụ thế này, bạn đổ một ít nước lên một mặt bàn phẳng rồi
bạn rải lên đó một nắm gạo hoặc sỏi nhỏ. Sau đó quan sát, bạn sẽ
thấy tại vị trí hạt gạo (sỏi) tiếp xúc với nước, nước sẽ dâng cao lên
một chút (nguyên nhân là do sức căng bề mặt của nước) và nước
trên mặt bàn sẽ rút xuống một ít tùy thuộc số lượng gạo (sỏi) mà
bạn rải lên nhiều hay ít.

Tương tự như vậy, cho một không gian có kích thước xác định, khi
đặt các vật có khối lượng vào, không gian đó sẽ co hẹp lại một chút
tùy thuộc vào khối lượng vật đặt vào. Có nghĩa là, phần không gian
tiếp xúc trực tiếp với vật chất tuy nó bị co lại mạnh nhưng nó không
co đến vô cùng. Điều này có ý nghĩa rất lớn, bởi vì nhờ nó mà ta
có thể giả thuyết về phản hấp dẫn.

Nếu ta đặt một vật A nặng đến vô cùng vào không gian, thì ngay
lập tức, không gian xung quanh vật A sụp đổ co cụm vào vật chất.

71
Một quan điểm về Triết học

Thực tế nó sẽ co cụm không gian lại đến mức ta có cảm giác như
nó liên tục hút không gian lân cận vào trong bản thân nó.

Nếu đặt một vật chất B vào khoảng không gian đó thì ta sẽ thấy vật
B bị hút vào vật A. Vật B sẽ nhanh chóng bị kéo giãn ra (do không
gian ở đó bị vật A hút liên tục nên không gian bị kéo giãn) và thu
nhỏ lại rồi biến mất, không những thế bản thân vật chất A cũng bị
co nhỏ lại đến vô cùng. Cái này khác với hố đen, mặc dù hố đen
có khối lượng rất lớn nhưng không lớn đến vô cùng.

72
Một quan điểm về Triết học

B) PHẢN HẤP DẪN

Như đã giả thuyết ở trên, nếu một hạt cơ bản Ether siêu cứng thì
nó không thể tương tác do tiếp xúc trực tiếp được, bởi vì vi phạm
định luật bảo toàn năng lượng. Vì vậy nếu như hạt cơ bản Ether có
tồn tại, thì bắt buộc nó sẽ phải tương tác với các vật khác bằng phi
vật chất.

Ta giả thuyết rằng, vì một lí do nào đó mà bao bọc không gian lân
cận hạt Ether là hiện tượng giãn nở không gian, đối nghịch với hiện
tượng co cụm không gian do lực hấp dẫn gây ra. Ta đặt cho hiện
tượng giãn nở không gian này là hiện tượng phản hấp dẫn.

Vì một lí do nào đó mà lực phản hấp dẫn rất mạnh ở tâm hạt Ether
(mạnh hơn rất nhiều lực hấp dẫn ở tâm hạt), nhưng lại suy giảm
nhanh chóng khi càng xa hạt Ether và cân bằng với lực hấp dẫn ở
một khoảng cách xác định. Như vậy, hiện tượng phản hấp dẫn chỉ
biểu lộ ở những hạt cơ bản Ether mà thôi và chúng ta không thể
quan sát được lực phản hấp dẫn.

Lực hấp dẫn tạo ra lực hút giữa các vật, trong khi lực phản hấp dẫn
tạo ra lực đẩy giữa các vật. Khi hai hạt Ether hấp dẫn lẫn nhau,
chúng sẽ lao vào nhau, nhưng khi đến gần chúng sẽ bị đẩy bật ra.
Do quan tính chúng vẫn sẽ lao vào nhau. Nhưng khi đến gần quá
chúng sẽ bị lực đẩy của hạt Ether đẩy ra, và khi đi ra xa quá chúng
lại bị lực hấp dẫn hút lại.

73
Một quan điểm về Triết học

Cứ như vậy, hai hạt Ether sẽ dao động với nhau. Hay nói cách
khác, năng lượng của chúng không bị mất đi mà nó tích lũy ở dạng
dao động. Nếu khối Ether bao gồm nhiều hạt Ether, thì những hạt
Ether ở trung tâm sẽ di chuyển trong phạm vi nhỏ, do chúng bị giới
hạn bởi các hạt Ether bao quanh nó. Tuy vậy chúng sẽ dao động
với tần số cao hơn trong phạm vi đó, dẫn đến năng lượng vẫn được
đảm bảo, cũng có nghĩa là tần số càng cao thì mật độ năng lượng
càng lớn.

74
Một quan điểm về Triết học

Như vậy khối hạt Ether cũng đã phát ra tần số. Đó cũng là nguyên
nhân mọi vật phát ra được tần số. Khối vật chất thực ra là đang tích
trữ một lượng năng lượng rất lớn.

Một hệ quả của nó, đó là sự đối nghịch giữa lực hấp dẫn và phản
hấp dẫn tạo nên một vùng cân bằng bao bọc vật chất giống như lớp
màng vậy. Bạn hãy tưởng tượng nó giống như một quả bóng nước
vậy, khi bạn đụng vào quả bóng đó thì toàn quả bóng sẽ rung rinh.
Tương tự như vậy, khi các hạt Ether va chạm với nhau thì lớp màng
cân bằng đó sẽ liên tục dao động chứ nó không đứng yên. Và bởi
vì bản chất lớp màng đó là không gian, nên khi nó dao động, nó
cũng khiến không gian xung quanh dao động theo.

Vì vậy về lâu dài, lớp màng đó sẽ mất đi năng lượng, bởi nó đã


truyền vào không gian.

Hình ảnh lớp màng không gian bao quanh hạt vật chất (Ether)

75
Một quan điểm về Triết học

Điều này có nghĩa là không gian chứa vật chất sẽ liên tục dao động
(co giãn, có ẩn chứa năng lượng), chứ nó không đứng yên như ta
vẫn nghĩ. Khi không gian liên tục dao động, nó sẽ tác động ngược
lại khiến cho các hạt Ether liên tục dao động, bất kể hạt Ether đó
không tương tác với các hạt Ether xung quanh.

Vậy thì làm cách nào để vật chất gây ra hiện tượng giãn nở không
gian hay hiện tượng phản hấp dẫn.

Giả thuyết đặt ra là lực phản hấp dẫn phát sinh từ nội tại của vật
chất, mạnh hơn lực hấp dẫn tại tâm vật chất đó, nhưng lại phải
giảm theo khoảng cách từ điểm xét đến tâm vật chất nhanh hơn so
với lực hấp dẫn, mới có thể tạo được vùng cân bằng giữa hai lực
giống như trong hình vẽ trên. Vậy làm thế nào để nó giảm nhanh
hơn so với lực hấp dẫn?

Không có câu trả lời.

Ở đây tôi đặt ra một giả thuyết khác, đó là lực phản hấp dẫn không
phát sinh từ nội tại của vật chất (do khối lượng bẻ cong không gian
như lực hấp dẫn), mà phát sinh từ chuyển động của vật chất, cụ thể
ở đây là chuyển động quay.

Hãy tưởng tượng, lấy tốc độ di chuyển quãng đường gần với tốc
độ ánh sáng, đưa vào chuyển động quay của một vật với kích thước
lượng tử, thì tốc độ quay của vật đó lớn như thế nào? Chính tốc độ
quay khổng lồ đó đã làm cho kích thước vật chất và không gian lân
76
Một quan điểm về Triết học

cận giãn nỡ ra tạo thành lực phản hấp dẫn, ngược lại với lực hấp
dẫn là uốn cong không gian vào.

Tuy nhiên có hai hệ quả của giả thuyết này là:

+ Thứ nhất, nó giãn nở không gian không đồng đều, không


được như kì vọng. Và ta không biết được là không gian giãn
nở ra do chuyển động quay đó là xoáy hay đứng yên.

+ Thứ 2, đó là, nếu chuyển động quay gây ra hiện tượng giãn
nở không gian thì chuyển động thẳng đều cũng gây ra hiện
tượng co - giãn không gian tạo ra sóng không gian.

Nhược điểm của giả thuyết:

+ 1, Đó là tôi không nghĩ ra được giả thuyết nào hợp lí cho


hiện tượng giãn nở không gian, ngoài việc các hạt Ether
chuyển động tạo ra sự co giãn không gian, nhưng giả thuyết
này cũng đưa đến việc giãn nở không gian không đồng đều.

+ 2, Đó là chỉ dựa vào việc giãn nở không gian thì không đủ


để mô tả vũ trụ, nếu muốn nó hoàn chỉnh hơn, ta phải thêm
vào những giả thuyết khác.

77
Một quan điểm về Triết học

Hình trên mô tả sự giãn nở không


gian của vật chất hình tròn và hình trụ
khi xoay

1. là vật chất

2. là phần biên giới cân bằng giữa lực hấp dẫn và phản
hấp dẫn

Ví dụ: Các hạt Ether bị hấp dẫn di chuyển vào nhau rồi bị đẩy ra
bởi lực phản hấp dẫn và dao động. Trong quá trình dao động đó,
các hạt Ether không chuyển động tịnh tiến mà xoay tròn với nhau.
Khi thêm các hạt Ether khác nữa, chúng sẽ tạo nên một khối Ether
xoay tròn và tùy việc xoay trái hay phải mà là nguyên nhân của lực
điện từ.

Hai điện tích trái dấu thì hút nhau, cùng dấu thì đẩy nhau. Nếu liên
hệ đến sự quay của vật chất, ta thấy sự tương đồng. Với hai vật rắn
quay cùng chiều, nếu tiếp xúc sẽ xảy ra lực đẩy mạnh. Còn nếu sự

78
Một quan điểm về Triết học

quay của vật lỏng bao gồm nhiều vật chất nhỏ hơn tạo thành, thì
xoay cùng chiều lại hút nhau do chúng dễ hòa làm một, ví dụ: Hai
con xoáy nước.

Hình trên mô tả sự hút và đẩy do các vòng xoáy của đường


sức từ, khi cho dòng điện chạy qua sợi dây

79
Một quan điểm về Triết học

+ 3, Đó là nó trái với mô hình chuẩn trong vật lí, mô hình chuẩn


kết luận rằng, có tồn tại những vật chất không có khối lượng,
tức là không tồn tại lực hấp dẫn. Thực ra nó trái với thuyết
tương đối của Albert Einstein. Einstein cho rằng lí do tốc độ
ánh sáng là tốc độ nhanh nhất vũ trụ là vì chúng là những hạt
photon không có khối lượng.

Thuyết tương đối của Einstein cho rằng, một vật có khối lượng di
chuyển càng nhanh thì khối lượng của nó càng lớn, và khi nó di
chuyển đến tốc độ ánh sáng thì khối lượng của nó lớn đến vô cùng.
Vì vậy, để thúc đẩy một vật có khối lượng di chuyển với tốc độ
ánh sáng, thì ta cần một nguồn năng lượng lớn đến vô cùng, điều
này trong thực tế là không thể xảy ra. Vậy nên không tồn tại vật có
khối lượng di chuyển với tốc độ ánh sáng.

Thực tế lý thuyết của Albert Einstein vẫn có khuyết điểm của nó,
bởi nó không thể kết hợp được với cơ học lượng tử. Và trong cơ
học lượng tử có những thực nghiệm mà vật di chuyển nhanh hơn
tốc độ ánh sáng.

80
Một quan điểm về Triết học

Rối lượng tử
Hiểu theo nghĩa sơ khai nhất thì đây chỉ là cách mà các hạt
hạ phân tử "giao tiếp" với nhau.

Nhà vật lý Kaku Michio (1947 – nay) người Mỹ gốc Nhật, lý


giải với Big Think như sau:
"Nếu tôi đặt hai electron nằm rất gần nhau, chúng sẽ dao
động cùng tần số theo thuyết lượng tử. Nếu tôi lắc nhẹ một
electron, thì ngay lập tức electron còn lại sẽ 'cảm nhận' được
rung chấn, nhanh hơn so với tốc độ ánh sáng. Albert Einstein
cho rằng không có gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng, vậy nên
trong quá khứ, ông đã là một trong những người phản đối
thuyết lượng tử quyết liệt nhất".

Vậy thì, nếu ta giả thuyết rằng, mọi vật chất đều có khối lượng,
dẫn đến ánh sáng là những vật có khối lượng nhỏ hoặc là sóng. Với
các hạt khác như electron, proton… lí do mà chúng không thể di
chuyển nhanh với tốc độ ánh sáng là vì chúng vấp phải bức tường
ánh sáng, cũng giống như bức tường âm thanh vậy.

Nếu chúng ta thêm năng lượng cho vật chất (electron), thì đến một
mức năng lượng nào đó, chúng sẽ di chuyển nhanh hơn ánh sáng.
Vậy tại sao thực nghiệm lại không làm được điều này?

81
Một quan điểm về Triết học

Tóm lại

Nếu như các nhà vật lí chứng minh được sự tồn tại vật chất không
có khối lượng, thì ta chỉ còn biết trông đợi vào lý thuyết dây.
Nhưng lý thuyết dây là một lý thuyết vô cùng phức tạp, và để giải
thích cho các tính chất của các hạt cơ bản, nó đòi hỏi nhiều chiều
không gian.

Bản thân tôi không thể tưởng tượng được có thể tồn tại vật chất ở
không gian một chiều, hai chiều (thực ra theo tôi là không thể tồn
tại được) và cũng không thể tưởng tượng được không gian nhiều
hơn ba chiều. Trong khi lý thuyết dây lên tới 11 chiều không – thời
gian, (trong đó bao gồm 10 chiều không gian và 01 chiều thời gian,
lý thuyết siêu dây), quả thực quá phức tạp.

Bạn hãy tưởng tượng, không gian 3 chiều chính là hệ trục tọa độ
Oxyz của chúng ta. Trong đó không gian một chiều chỉ là một trục
Ox tức là một đường ống nhỏ vô cùng và dài đến vô cùng, như vậy
làm sao vật chất có thể tồn tại. Còn không gian hai chiều chính là
hệ trục tọa độ Oxy tức là nó chính là một mặt phẳng, nhưng một
mặt phẳng như vậy thì làm sao có chiều cao để tồn tại vật chất.

Các nhà khoa học cho rằng, các chiều không gian nhiều hơn ba
chiều đều bị cuộn tròn và trải dài trên không gian ba chiều, nhưng
như thế thì chúng sẽ bị đứt đoạn tức là chúng không liên tục.

82
Một quan điểm về Triết học

Lí do các nhà khoa học phải sử dụng nhiều chiều không gian là vì,
ở cấp độ hạ nguyên tử thì không gian ba chiều rất khó để giải thích
cách hoạt động của các hạt hạ nguyên tử. Thay vào đó, họ cần thêm
nhiều chiều không gian hơn. Thậm chí, họ còn đặt giả thuyết về vũ
trụ song song để có thể giải thích cách hoạt động của các hạt hạ
nguyên tử.

Có một điều mà chúng ta chắc chắn suy luận được từ giả thuyết về
hạt Ether là: Nếu hạt Ether cứng tuyệt đối, nó sẽ không thể tương
tác bằng cách va chạm trực tiếp với nhau, vì sẽ vi phạm định luật
bảo toàn năng lượng. Nếu nó va chạm trực tiếp nó phải không
cứng, tức là lý thuyết dây đúng.

Trên đây là tất cả những giả thuyết về các hạt cơ bản Ether cấu
thành nên vũ trụ.

83
Một quan điểm về Triết học

ÁNH SÁNG

Ta đã biết ánh sáng có tính chất sóng và hạt. Vì vậy bất kể nó là


sóng hay hạt thì chúng ta cũng phải công nhận có một loại năng
lượng di chuyển với tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên vật chất di chuyển
với tốc độ ánh sáng có khối lượng hay không? Với thuyết tương
đối của Einstein thì nó không có khối lượng. Bởi vì có khối lượng
nó đã không di chuyển với tốc độ ánh sáng.

Ta giả thuyết một ví dụ sau:

Vì một lí do nào đó mà hành tinh đã phóng ra một nguyên tử với


tốc độ tiệm cận tốc độ ánh sáng. Và vì để đẩy một nguyên tử đi với
tốc độ gần ánh sáng, chúng ta cần nguồn năng lượng hay một lực
vô cùng lớn. Chính vì vậy, nó đã tạo ra một phản lực vô cùng lớn
và phản lực này cũng đẩy hành tinh đi với vận tốc gần bằng vận
tốc ánh sáng.

Nghịch lí ở đây là hai vật chất có khối lượng chênh lệch vô cùng
lớn, chịu cùng một lực tác động, lại di chuyển với vận tốc gần như
bằng nhau. Về mặt logic theo Einstein thì nó vẫn đúng. Nhưng liệu
có một cách giải thích nào khác cho hiện tượng ánh sáng.

Giả thuyết của tôi là những hạt di chuyển với vận tốc ánh sáng vẫn
có khối lượng. Điều này có nghĩa là để nó di chuyển với vận tốc
ánh sáng, nó chỉ cần một mức năng lượng nhất định. Vậy tại sao

84
Một quan điểm về Triết học

chúng ta không thể gia tốc được các hạt di chuyển với vận tốc ánh
sáng? Giả thuyết của tôi cho rằng, các hạt vật chất chỉ nhận tối đa
một mức năng lượng nhất định đối với chúng, là chúng đã bứt ra
khỏi liên kết và di chuyển trong không gian.

Chỉ cần cung cấp cho chúng một nguồn năng lượng vừa tới ngưỡng
là chúng đã bứt ra khỏi liên kết. Vì vậy chúng ta không thể nào
cung cấp cho nó một nguồn năng lượng đủ để nó bay với vận tốc
ánh sáng. Thuyết tương đối vẫn đúng một phần, khối lượng của nó
có thể sẽ tăng lên nhưng không thể tăng lên đến vô cùng nếu vật di
chuyển với tốc độ ánh sáng.

Ta giả sử: Ta cho hai hành tinh va chạm vào nhau. Tại điểm hai
hành tinh bắt đầu tiếp xúc, năng lượng vô cùng lớn, nó đủ để hạt E
di chuyển gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng. Nếu học thuyết Einstein
không đúng, vậy tại sao hạt E vẫn không thể di chuyển với tốc độ
ánh sáng?

Ta thay thế hai hành tinh bằng hai thanh thẳng hạt E sắp xếp từ 1
đến N. Như vậy khối lượng vẫn đảm bảo bằng khối lượng hai hành
tinh và năng lượng thì tương tương. Tiến hành cho hai thanh thẳng
này va chạm vào nhau, khi đó hai hạt E đầu tiên sẽ va chạm nhau
với một mức năng lượng rất lớn. Tuy nhiên nó chỉ nhận một mức
năng lượng xác định và bay ra khỏi hai thanh đó.

(Trong trường hợp nguồn năng lượng quá lớn mà nó không kịp
truyền cho các hạt còn lại thì nó sẽ vỡ thành những hạt nhỏ hơn

85
Một quan điểm về Triết học

Ether và những hạt Ether này có thể bay nhanh hơn vận tốc hạt E.
Nếu vật chất là một hạt duy nhất không cấu thành từ những hạt nhỏ
hơn (có độ cứng tuyệt đối), thì khi ta truyền một năng lượng vào
nó ngay lập tức nó sẽ truyền ra ngoài. Tuy nhiên nếu vật chất là
một khối các hạt nhỏ hơn, thì khi ta truyền năng lượng vào một
đầu, nó sẽ cần một khoảng thời gian xác định để năng lượng có thể
đi qua nó. Nếu năng lượng quá lớn khiến nó không kịp truyền đi,
thì nó sẽ nhận năng lượng đó và có thể sẽ bị vỡ thành những hạt
nhỏ hơn nếu năng lượng quá lớn).

Phần năng lượng dư thừa sẽ ở trên hai thanh. Và tiếp tục hạt số hai
sẽ nhận một mức năng lượng xác định và bay ra khỏi hai thanh đó,
để lại phần năng lượng dư thừa trên hai thanh. Như vậy hạt E sẽ
bay ra ngoài với vận tốc xác định.

Nếu như một hạt là tập hợp những hạt nhỏ hơn, thì khi nguồn năng
lượng đi qua nó phải có thời gian trễ, do các hạt nhỏ cần thời gian

86
Một quan điểm về Triết học

tác động vào nhau mới cho nguồn năng lượng đi qua chúng. Mối
liên kết giữa các hạt nhỏ đó càng bền vững thì thời gian trễ càng
nhỏ. Ví dụ: Mối liên kết của các nguyên tử sắt rất bền vững nên
khi ta tác dụng vào đầu này của thanh sắt thì đầu kia gần như ngay
lập tức sẽ cảm thấy lực đó.

Mối liên kết càng lỏng lẻo thì thời gian trễ càng lớn. Ví dụ như
nước, mối liên kết giữa các phân tử nước rất lỏng lẻo nên khi tác
dụng vào một vùng nước thì chỉ vùng đấy thấy tác dụng của lực,
phần còn lại gần như không việc gì.

Như vậy, khi một nguồn năng lượng đi qua một vật thể thì bắt buộc
chúng phải có thời gian trễ. Và khi trong một vật thể có mối liên
kết yếu dẫn đến thời gian trễ lâu thì vật thể đó sẽ hấp thụ phần lớn
năng lượng đi qua nó. Nó sẽ bẻ gãy các liên kết bên trong vật thể
đó và vật thể đó sẽ nổ thành những hạt nhỏ hơn, nhưng có mối liên
kết bên trong vững chắc hơn. Và những hạt nhỏ hơn có mối liên
kết vững chắc hơn đó sẽ di chuyển càng nhanh trong không gian.

Tóm lại: Với ý tưởng này thì những hạt có thể di chuyển nhanh
hơn ánh sáng cũng là những hạt vô cùng nhỏ, nhỏ hơn rất nhiều so
với các hạt chúng ta phát hiện được hiện nay. Và đến những hạt
nhỏ nhất Ether, chúng có thể di chuyển với vận tốc rất nhanh, phụ
thuộc vào năng lượng chúng tiếp nhận.

87
Một quan điểm về Triết học

TRƯỜNG HỢP 2) XÉT TOÀN THỂ (RỘNG LỚN NHẤT) VŨ


TRỤ

Thuyết BIG-BANG:

Có một thắc mắc là tại sao vụ nổ lớn đó lại xảy ra cách đây 13.5 tỉ
năm mà không phải một mốc thời gian nào khác. Ví dụ: 135 tỉ năm
hay 135 triệu năm. Một vấn đề nữa là nó vi phạm luật nhân quả.
Không thể tự dưng xảy ra vụ nổ lớn được, mà phải có một nguyên
nhân trước đó. Từ đây chúng ta đặt ra một câu hỏi rằng, liệu chúng
ta có một vụ nổ BIG-BANG duy nhất?

Đồng thời cũng tồn tại một câu hỏi khác, đó là số lượng các hạt vật
chất Ether là hữu hạn hay vô hạn? Nếu nó là hữu hạn, ta giả sử
rằng, tất cả chúng ban đầu tạo thành một khối cầu Ether đặc, sau
đó, khối cầu đó nổ ra tạo thành vũ trụ đầu tiên, vũ trụ đó liên tục
giãn nở đến nỗi vật chất trở nên rất loãng.

Ở đây xảy ra hai trường hợp.

Trường hợp 1: Vũ trụ vẫn tiếp tục giãn nở mãi và ta có cái chết
vĩnh viễn của vũ trụ, tức là vũ trụ của chúng ta là vũ trụ đầu tiên
và cũng là vũ trụ cuối cùng.

Trường hợp 2: Các hạt Ether sau một thời gian giãn nở, cuối cùng
dưới tác động của lực hấp dẫn lại bắt đầu bị hút vào nhau. Những

88
Một quan điểm về Triết học

hạt Ether ở gần nhau sẽ bị hút vào nhau dẫn đến những khối cầu
Ether khác nhau và tạo nên những vũ trụ nhỏ khác nhau.

Tuy nhiên, với việc các hạt Ether vốn dĩ đã có sẵn trong vũ trụ
(phần hạt Ether có giải thích) thì tuổi thọ của nó đã là vô cùng (bởi
chúng là những hạt nhỏ nhất nên không thể có cái gì cấu thành hay
tạo nên nó được nữa, vậy nên cách duy nhất để giải thích phù hợp
với luật nhân quả về sự tồn tại của chúng là chúng vốn dĩ đã tồn
tại từ vô hạn năm về trước).

Câu hỏi là, tại sao hạt Ether tồn tại đã vô hạn năm, mà vũ trụ của
chúng ta mới xuất hiện cách đây 13,5 tỉ năm? Tức là, xác suất vũ
trụ của chúng ta không phải là vũ trụ đầu tiên là rất cao.

Nếu vũ trụ của chúng ta không phải vũ trụ đầu tiên, thì cũng có
nghĩa là, trong khoảng thời gian vô hạn năm đó, đã có vô số vũ trụ
sinh ra và chết đi.

Một điều rất thú vị là các hạt Ether có số lượng rất nhiều trong
không gian, nhưng chỉ cần số lượng các hạt Ether đó là hữu hạn,
nó sẽ chả là gì so với khoảng không gian rộng lớn nằm trên hệ trục
tọa độ Oxyz kéo dài đến vô tận.

Nếu như các hạt Ether tồn tại với số lượng vô hạn, thì không gian
hàm chứa các hạt Ether cũng dài và rộng đến vô hạn. Điều này có
nghĩa là, vũ trụ mà chúng ta đang sống nằm trong một vũ trụ tổng
quan có kích thước lớn vô cùng, và nó chứa vô số vũ trụ con đang
tồn tại cùng lúc với vũ trụ của chúng ta.

89
Một quan điểm về Triết học

Nguyên lý bất định của Heisenberg (1901 – 1976) – một nhà


vật lý lượng tử người Đức - thể hiện rằng, không gian không hề
trống rỗng mà nó mang năng lượng cực tiểu, và tổng thể không
gian lại mang năng lượng lớn đến vô cùng.

Nguyên lý này cũng thể hiện những điều như đã trình bày ở
trên.

Tóm lại: Chúng ta sẽ hình dung như thế nào về vũ trụ hoàn toàn
tuân theo luật nhân quả?

Có thể hình dung vũ trụ tổng thể có kích thước lớn đến vô cùng,
nó hàm chứa vũ trụ của chúng ta và vô số vũ trụ con khác tồn tại
cùng lúc, sự tồn tại này vĩnh viễn về mặt thời gian. Trong thời gian
vô hạn năm tồn tại, đã có vô số vũ trụ con sinh ra rồi chết đi mà
không tài nào có thể đoán trước được. Tức là chúng ta không biết
khi nào một vũ trụ ra đời, ở vị trí nào, khi nào nó sẽ kết thúc.

Bạn hãy tưởng tượng vũ trụ tổng thể như màn đêm thăm thẳm, và
vũ trụ con như những con đom đóm bay lập lòe trong màn đêm
đấy, bừng sáng lên ở nơi nào đó trong chớp mắt rồi vội vã tắt đi.

Với việc có vô số vũ trụ con dẫn đến một hệ quả là, sự vật hiện
tượng ở đâu đó xảy ra trong vũ trụ đều xảy ra lặp lại giống nhau (ở

90
Một quan điểm về Triết học

những thời điểm và địa điểm khác nhau), không những thế, nó còn
lặp đi lặp lại đến vô cùng.

Tức là, từ trước đến nay đã có vô số nền văn minh xuất hiện rồi
biến mất cùng với vũ trụ con mà họ đang sinh sống. Khi tôi đang
viết quyển sách này thì cũng có vô số những người giống tôi đang
viết quyển sách này cùng lúc, nhanh hoặc chậm hơn tôi, nằm rải
rác đâu đó trong vô số vũ trụ ngoài kia, và từ trước đến nay.

Về mặt triết học nó thể hiện một điều, xét thời gian cho vũ trụ tổng
thể chả có ý nghĩa gì cả, mặc dù thời gian vẫn tồn tại. Bởi vì cả quá
khứ lẫn tương lai của mọi sự vật đang diễn ra cùng lúc, mặc dù
không cùng một địa điểm.

91
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM

Định lý con khỉ vô hạn - Nguồn Wikipedia

Định lý con khỉ vô hạn nói rằng, nếu cho một con khỉ gõ lên một
bàn phím trong một thời gian vô hạn, một phần văn bản khỉ gõ ra
gần như chắc chắn sẽ có nghĩa, ví dụ tất cả các tác phẩm của
William Shakespeare.

Trong bài này, "gần như chắc chắn" là thuật ngữ toán học có nghĩa
rõ ràng, và "con khỉ" là một ẩn dụ về một thiết bị trừu tượng có thể
tạo ra chuỗi ngẫu nhiên ký tự và ký hiệu dài vô tận. Xác suất con
khỉ gõ ra các tác phẩm của Shakespeare như Hamlet trong thời gian
bằng tuổi vũ trụ thực ra rất nhỏ, nhưng vẫn khác không.

92
Một quan điểm về Triết học

Chứng minh

Có một chứng minh dễ hiểu cho định lý: Nếu hai sự kiện không
phụ thuộc trạng thái, xác suất hai sự kiện cùng xảy ra là tích xác
suất mỗi sự kiện. Ví dụ, khả năng mưa ở Hà Nội trong một ngày
cụ thể là 0.3, khả năng có động đất ở Sài Gòn trong cùng ngày là
0.008, vậy xác suất hai sự kiện cùng xảy ra trong ngày đó là 0.3 ×
0.008 = 0.0024.

Cho một máy đánh chữ có 50 phím, và từ cần gõ là banana. Giả sử


các phím được gõ ngẫu nhiên (xác suất được gõ của các phím bằng
nhau) và không phụ thuộc vào nhau, xác suất ký tự đầu tiên là 'b'
là 1/50, xác suất ký tự thứ hai là 'a' là 1/50...vì các sự kiện không
phụ thuộc lẫn nhau.

Từ đó, xác suất sáu ký tự đầu tiên khớp với banana là: (1/50) ×
(1/50) × (1/50) × (1/50) × (1/50) × (1/50) = (1/50)6 = 1/15 625 000
000, nhỏ hơn một phần mười lăm tỉ.

Tương tự, xác suất 6 ký tự tiếp theo khớp với banana cũng là
(1/50)6, và 6 ký tự tiếp sau đó....

Từ đó, xác suất không gõ ra từ banana trong một khối 6 ký tự là 1


− (1/50)6. Vì mỗi khối được gõ không phụ thuộc lẫn nhau, xác suất
Xn để không gõ ra từ banana trong n khối 6 ký tự là:

93
Một quan điểm về Triết học

Khi n tăng, Xn giảm. Với n bằng một triệu, Xn khoảng 0.9999,


nhưng với n bằng mười tỉ Xn chỉ còn khoảng 0.53, và với n là 100
tỉ con số đó là 0.0017.

Khi n tiến tới vô cực, Xn tiến tới không; nghĩa là bằng cách cho n
đủ lớn, ta có thể có Xn nhỏ như mong muốn, và khi đó xác suất có
một khối "banana" trong chuỗi gõ ra tiến tới 1. Hơn nữa vì từ có
thể xuất hiện giữa hai khối, khả năng xuất hiện từ banana còn lớn
hơn tính toán trên.

Lập luận tương tự chỉ ra tại sao có ít nhất một trong số các con khỉ
vô hạn sẽ gõ ra từ cần thiết bằng với tốc độ của một người đánh
máy bình thường. Trong trường hợp này, Xn = (1 − (1/50)6)n với
Xn biểu diễn xác suất n con khỉ đầu tiên không gõ đúng banana
trong 6 ký tự đầu tiên.

Khi xét 100 tỉ con khỉ, xác suất này là 0.17%, và khi số khỉ tăng
lên, xác suất này tiến về không.

Ở rất nhiều vũ trụ xa xa ngoài kia, có thể có rất nhiều vũ trụ có đầy
đủ điều kiện tự nhiên để cấu thành sự sống như chúng ta, nhưng
không có sự sống. Sở dĩ chúng ta có mặt ở đây và suy nghĩ những
vấn đề này là bởi vì vũ trụ của chúng ta vô cùng may mắn.

94
Một quan điểm về Triết học

Với việc có vô cùng vũ trụ đã khỏa lấp đi xác xuất các hạt nguyên
tử sắp xếp một cách trật tự để cấu thành dạng sống đầu tiên là vô
cùng thấp, mà các nhà triết học hữu thần hay đề ra để bảo vệ quan
điểm sự sống là do một đấng toàn năng của mình.

Đọc thêm

Các vũ trụ song song và lý thuyết đa thế giới

Có phải bạn là độc nhất vô nhị không? Theo nhận thức của bạn về
thế giới, câu trả lời thật đơn giản: bạn khác biệt với mỗi người khác
trên hành tinh này.

Nhưng vũ trụ của chúng ta có là độc nhất vô nhị không?

Khái niệm đa thực tại – hay các vũ trụ song song – làm phức tạp
câu trả lời này và thách thức cái chúng ta biết về thế giới và bản
thân chúng ta.

Một mô hình đa vũ trụ khả dĩ gọi là Lí thuyết Đa thế giới, nghe lạ


lẫm và phi thực tế đến mức nó nên xuất hiện trong phim viễn
tưởng, chứ không phải trong cuộc sống hiện thực. Tuy nhiên,
không có thí nghiệm nào có thể bác bỏ dứt khoát giá trị của nó.

95
Một quan điểm về Triết học

Nguồn gốc của giả thuyết vũ trụ song song có liên hệ chặt chẽ với
sự ra đời của quan niệm cơ học lượng tử vào đầu thế kỉ hai mươi.
Cơ học lượng tử, một ngành vật lí nghiên cứu thế giới vô cùng nhỏ,
dự đoán hành trạng của các vật hạ hiển vi.

Các nhà vật lí đã chật vật làm khớp một mô hình toán học với hành
trạng của vật chất lượng tử, bởi vì một số vật chất biểu hiện các
dấu hiệu của chuyển động dạng hạt lẫn dạng sóng. Ví dụ, photon,
một bó ánh sáng nhỏ xíu, có thể truyền lên xuống theo phương
thẳng đứng đồng thời di chuyển tới lui theo phương ngang.

Hành trạng như thế trái ngược hoàn toàn với hành trạng của các
vật mà mắt trần nhìn thấy; vạn vật mà mắt ta nhìn thấy chuyển
động hoặc giống sóng hoặc giống hạt. Lí thuyết này của lưỡng tính
vật chất được gọi là Nguyên lí Bất định Heisenberg (HUP), nó phát
biểu rằng tác dụng quan sát làm nhiễu các đại lượng như xung
lượng và vị trí.

Trong mối liên hệ với cơ học lượng tử, hiệu ứng nhà quan sát này
có thể tác động đến dạng thức – hạt hay sóng – của các vật lượng
tử trong các phép đo. Các lí thuyết lượng tử tương lai, ví dụ như
cách hiểu Copenhagen của Niels Bohr (1885 – 1962 - một nhà vật
lý lượng tử người Đức), sử dụng HUP để phát biểu rằng một vật
được quan sát không duy trì được bản chất lưỡng tính của nó và
chỉ có thể hành xử theo một trạng thái mà thôi.

96
Một quan điểm về Triết học

Vào năm 1954, một chàng sinh viên trẻ tại trường Đại học
Princeton (Mỹ) tên là Hugh Everett (1930 – 1982) đã đề xuất một
giả thuyết cơ bản khác với các mô hình thường gặp của cơ học
lượng tử. Everett không tin rằng tác dụng quan sát làm cho vật chất
lượng tử ngừng hành xử theo dạng thức bội.

Thay vậy, ông cho rằng việc quan sát vật chất lượng tử gây ra một
sự chia tách trong vũ trụ. Nói cách khác, vũ trụ tạo ra các bản sao
của chính nó để gây ra mọi khả năng và những bản sao này sẽ diễn
tiến độc lập với nhau. Mỗi lần một photon được đo, chẳng hạn, một
nhà khoa học trong một vũ trụ sẽ phân tích nó ở dạng sóng và cũng
chính nhà khoa học đó trong một vũ trụ khác sẽ phân tích nó ở
dạng hạt. Mỗi một vũ trụ này mang lại một thực tại duy nhất và
độc lập tồn tại đồng thời với các vũ trụ song song khác.

Nếu Lí thuyết Đa thế giới (MWT) của Everett là đúng, thì nó bao
hàm nhiều hệ quả làm biến chuyển hoàn toàn nhận thức của chúng
ta về cuộc sống. Mỗi tác dụng bất kì có nhiều hơn một kết quả khả
dĩ, đều tạo ra một sự chia tách trong vũ trụ. Do đó, có một số vô
hạn vũ trụ song song và có vô số bản sao của mỗi người chúng ta.

Những bản sao này có các đặc điểm nhân dạng và cơ thể y hệt,
nhưng không có tính cách y hệt (người này có thể là hung hăng còn
người kia thì rụt rè) bởi vì mỗi người trải nghiệm một kết cục độc
lập. Vô số thực tại thay thế cũng đề xuất rằng, không ai có thể đạt
tới những thành tựu duy nhất. Mỗi cá nhân – hay phiên bản nào đó

97
Một quan điểm về Triết học

của cá nhân đó trong một vũ trụ song song – đã làm hay sẽ làm
mọi việc.

Ngoài ra, MWT ngụ ý rằng mỗi cá nhân là bất tử. Tuổi già sẽ không
còn là tên sát thủ ghê gớm nữa, vì một số thực tại thay thế có thể
tiến bộ về mặt khoa học và công nghệ đến mức họ đã phát triển
một phương thuốc chống lão hóa. Nếu bạn thật sự chết trong một
thế giới nào đó, thì phiên bản kia của bạn trong một thế giới khác
sẽ còn sống.

Hàm ý rắc rối nhất của các vũ trụ song song là nhận thức của bạn
về thế giới là không bao giờ thực tế. “Thực tại” của chúng ta tại

98
Một quan điểm về Triết học

một thời khắc chính xác trong một vũ trụ song song sẽ hoàn toàn
không giống với thực tại của một thế giới khác; nó chỉ là một ảo
tưởng nhỏ xíu của một chân lí vô hạn và tuyệt đối.

Bạn có thể tin rằng bạn đang đọc bài báo này vào lúc này, nhưng
có nhiều bản sao của bạn không đọc nó. Thật vậy, thậm chí bạn là
tác giả của bài báo này trong một thực tại xa xôi nào đó. Như vậy,
việc giành giải thưởng và đưa ra quyết định có là vấn đề nếu chúng
ta có thể mất hết những giải thưởng đó và đưa ra những chọn lựa
khác? Cuộc sống có là quan trọng nếu chúng ta thật sự có thể chết
ở đâu đó khác?

Một số nhà khoa học, ví dụ như nhà toán học người Áo Hans
Moravec (1948 – nay) đã cố gắng chứng minh khả năng của các
vũ trụ song song.

Moravec đã phát triển một thí nghiệm nổi tiếng gọi là tự sát lượng
tử vào năm 1987, liên hệ một người có trong tay một món vũ khí
nguy hiểm và một cỗ máy xác định giá trị spin, hay momen động
lượng, của các proton. Cứ mỗi 10 giây, giá trị spin, hay quark, của
một proton mới được ghi nhận. Dựa trên phép đo này, cỗ máy sẽ
làm cho món vũ khí tiêu diệt hoặc phóng thích người đó với xác
suất 50% cho mỗi kịch bản.

Nếu Lí thuyết Đa thế giới không đúng, thì xác suất sống sót của
người làm thí nghiệm giảm sau mỗi phép đo quark, cho đến khi nó
cơ bản bằng không (một phân số nhỏ hơn một, lũy thừa với số mũ

99
Một quan điểm về Triết học

lớn, là một giá trị rất nhỏ). Mặt khác, MWT cho rằng người làm
thí nghiệm luôn luôn có xác suất 100% còn sống trong một vũ trụ
song song nào đó, và anh ta/cô ta là bất tử lượng tử.

Khi phép đo quark được xử lí, thì có hai khả năng: Món vũ khí có
thể hoặc đã khai hỏa hoặc chưa khai hỏa. Lúc này, MWT khẳng
định rằng vũ trụ phân tách thành hai vũ trụ khác nhau để lí giải cho
hai kết cục đó.

Món vũ khí sẽ khai hỏa trong một thực tại, nhưng không khai hỏa
trong thực tại kia. Vì lí do luân lí, các nhà khoa học không thể sử
dụng thí nghiệm của Moravec để bác bỏ hay chứng thực sự tồn tại
của các thế giới song song, vì đối tượng thử nghiệm có lẽ chỉ chết
trong một thực tại nhất định và vẫn sống trong một vũ trụ song
song khác.

Dù là trường hợp nào, thì Lí thuyết Đa thế giới kì lạ và các hàm ý


khiến người ta sửng sốt của nó vẫn làm thách thức mọi điều chúng
ta biết về thế giới.

Nguồn: Scientific American, Universe Today

Dịch bởi: Thuvienvatly.com

100
Một quan điểm về Triết học

TRƯỜNG HỢP 3) XÉT THỜI GIAN

Thời gian là khái niệm để diễn tả trình tự xảy ra của các sự kiện,
biến cố và khoảng kéo dài của chúng. Thời gian được xác định
bằng số lượng các chuyển động của các đối tượng có tính lặp lại
(sự lượng hoá các chuyển động lặp lại) và thường có một thời điểm
mốc gắn với một sự kiện nào đó.

Thời gian chỉ có tính tương đối: Thời gian chỉ mang tính tương đối
là một khái niệm cách mạng trong tư tưởng, lâu nay mọi người vẫn
nghĩ rằng thời gian là tuyệt đối, tức là thời gian của tôi và bạn đều
như nhau, nhưng trên thực tế không phải như vậy.

Theo Albert Einstein (1879 – 1955) – nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng
người Đức, cha đẻ của thuyết tương đối - thời gian của một vật trôi
nhanh hay chậm phụ thuộc vào vị trí của người quan sát vật đó.

Ví dụ: Tôi và bạn đứng ở hai vị trí khác nhau để quan sát một trái
bóng đang di chuyển, sẽ cảm nhận được thời gian di chuyển của
trái bóng đó là khác nhau. Một vật di chuyển càng nhanh thì trong
mắt của người quan sát, thời gian của vật đó càng chậm.

Nghịch lý anh em sinh đôi:

Nghịch lý anh em sinh đôi có thể được diễn tả như sau: Giả sử ta
có một cặp anh em sinh đôi. Người anh ở lại Trái Đất, còn người
em thì bay vào vũ trụ với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng. Đây
là lúc để Einstein áp dụng lý thuyết nổi tiếng của mình. Ông nói

101
Một quan điểm về Triết học

rằng, nếu người em càng di chuyển nhanh trong không gian, thì
anh ta sẽ càng di chuyển chậm trong thời gian.

Hệ quả của việc này, đó là dưới góc độ của mình, người anh sẽ
thấy thời gian mà người em đang sống sẽ chậm hơn thời gian của
người anh. Nói một cách khác, theo lý thuyết nổi tiếng trên, nếu
đồng hồ được đem vào không gian, nó sẽ chạy chậm hơn bình
thường. Và khi người em trở về Trái Đất thì người anh đã già.

Hệ quả của tính tương đối thời gian là, thời gian nếu xét trên hệ
quy chiếu toàn vũ trụ thì từng vùng khác nhau trong vũ trụ đó sẽ
có thời gian nhanh chậm khác nhau.

Thời gian có một hay hai chiều, tức là có thể đi ngược thời gian
được không?

Thông thường thì thời gian có tính đẳng hướng (một chiều từ quá
khứ đến tương lai). Lí do là vì, chúng ta có số cách phá hỏng một
vật nào đó nhiều hơn số cách để đưa vật đó trở về nguyên trạng
ban đầu.

Ví dụ như cái ly, số cách mà chúng ta có thể làm vỡ một cái ly


nhiều hơn rất nhiều cách mà chúng ta làm chiếc ly vỡ quay lại hiện
trạng ban đầu. Đúng hơn là chúng ta không thể nào khôi phục chiếc
ly trở nên lành lặn như lúc ban đầu.

Vậy nên mọi vật có xu hướng chuyển từ trạng thái này sang trạng
thái khác, mà gần như không thể khôi phục lại trạng thái trước đó.

102
Một quan điểm về Triết học

Tức là, thời gian gần như chỉ có một chiều duy nhất đi từ quá khứ
đến tương lai.

Để hiểu rõ hơn, chúng ta giả sử rằng, vật chất được cấu tạo bởi
những hạt vô cùng nhỏ, ta tạm gọi những hạt vô cùng nhỏ đó là
Ether. Và để tuân theo định luật bảo toàn năng lượng, ta giả sử các
hạt Ether có thể đẩy ngược lại nhau khi va chạm.

Bây giờ ta cho hai hạt Ether va chạm vào nhau, ta có thể thấy chỉ
có một trường hợp duy nhất để đưa hai hạt trở về vị trí ban đầu, đó
là va chạm chính diện, và hướng di chuyển của hai hạt phải ở trên
một đường thẳng. Thế nhưng, lại có vô số cách để hai hạt sau khi

103
Một quan điểm về Triết học

tương tác bị lệch vị trí so với ban đầu, chỉ cần phương di chuyển
của hai hạt không nằm trên một đường thẳng là được.

Trong khi những vật dụng chúng ta vẫn thấy hàng ngày chúng
được cấu tạo từ hàng tỉ tỉ hạt Ether đó, chỉ một hạt Ether trong số
hàng tỉ tỉ hạt đó bị lệch vị trí so với ban đầu thì vấn đề ngược thời
gian về mặt triết học mà nói đã không xảy ra. Như vậy chúng ta có
thể thấy xác suất để ngược thời gian thấp đến thế nào?

Lí do tôi nói “gần như” là vì, vẫn có xác suất để những hạt cấu
thành nên vật chất ban đầu khôi phục lại nguyên trạng của nó, mặc
dù xác suất là rất nhỏ.

Về mặt lý thuyết, ngược thời gian có thể xảy ra được nhưng nó chỉ
có thể xảy ra trong một vùng không gian kín, tức là toàn bộ vật
chất, năng lượng không được lọt ra khỏi vùng không gian đó và
ngược lại bên ngoài cũng vậy, và khi quay ngược thời gian thì sẽ
quay ngược lại cả vùng kín đó, chứ không riêng rẽ từng bộ phận
trong vùng kín đó.

104
Một quan điểm về Triết học

Nhưng như vậy việc ngược thời gian cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa
cả, bởi chúng ta đâu có thay đổi được điều gì? Để tôi lấy ví dụ cho
dễ hiểu, ta giả sử rằng, chúng ta muốn quay ngược thời gian Trái
Đất khoảng 2000 năm về trước, điều này có thể không?

Về mặt lý thuyết là có thể, nhưng với điều kiện trong khoảng 2000
năm trở lại đây, Trái Đất sẽ phải là một vùng không gian kín, hoàn
toàn tách biệt với vùng không gian còn lại bên ngoài và ngược lại.
Tức là trong 2000 năm trở lại đây, không có bất kì vật chất, năng
lượng (ánh sáng, lực hấp dẫn, hay một hạt lượng tử…) từ không
gian bên ngoài (ví dụ: Mặt trời, hành tinh, thiên hà) lọt vào Trái
Đất chúng ta. Và ngược lại, Trái Đất cũng không bị thất thoát bất
kì vật chất hay năng lượng nào ra bên ngoài.

Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể quay ngược thời gian vào bất kì
thời điểm nào trong khoảng 2000 năm. Bởi vì việc quay ngược thời
gian là quá trình đảo ngược trật tự vật chất và năng lượng, sao cho
chúng đi ngược lại một cách trùng khớp với quá trình phát triển
trước đó. Chỉ một sai sót nhỏ như thêm bớt một hạt lượng tử cũng
đủ để phá hỏng toàn bộ trật tự đó dẫn đến thời gian không thể quay
ngược, xét một cách toàn thể trên Trái Đất.

Bây giờ chúng ta xét tại sao nghịch lí ông nội lại không thể xảy ra:
Ta giả sử rằng, để người cháu có thể giết ông nội của mình trước
khi ông nội sinh ra người bố của người cháu, thì người cháu phải
quay ngược thời gian ít nhất 30 năm nữa (tức là khi đó người bố
chuẩn bị ra đời).
105
Một quan điểm về Triết học

Bây giờ ta xét hai trường hợp bao gồm các yếu tố: ông nội, bố,
người cháu.

Trường hợp 1. Đưa người cháu về quá khứ 30 năm cũng chính là
việc quay ngược thời gian của ông nội và bố đi 30 năm về quá khứ.
Tức là ông nội và bố sẽ phải là một hệ kín trong 30 năm.

Chúng ta thấy việc này không thể được, bởi vì một phần vật chất
vốn cấu tạo nên ông nội và bố, bây giờ người cháu đang nắm giữ.
Vậy nên chúng ta không thể quay ngược thời gian đi 30 năm mà
không có yếu tố người cháu.

Thực tế chúng ta có thể quay ngược thời gian cho ông nội và bố
cho đến khi yếu tố người cháu đã tách ra độc lập. Ta giả sử rằng
người cháu hiện nay đã năm tuổi, tức là chúng ta chỉ có thể quay
ngược thời gian cho ông nội và người bố đi tối đa là 5 năm, khi
người cháu đã ra đời. Vậy khi đó, nếu người cháu có vô tình giết
ông nội thì người cháu cũng đã ra đời, nó không hề vi phạm nghịch
lí ông nội.

Trường hợp 2. Để có thể quay ngược thời gian đi 30 năm, khi đó


bắt buộc phải thêm yếu tố người cháu, mà khi quay ngược thời
gian người cháu đi 30 năm, thì rõ ràng người cháu chưa ra đời, vậy
nên nó không thể giết ông nội.

Dựa vào cả hai trường hợp trên chúng ta có thể kết luận rằng
nghịch lí ông nội là không thể xảy ra ngoài thực tế.

106
Một quan điểm về Triết học

Nghịch lý ông nội:

Có một người đàn ông du hành thời gian về quá khứ và giết ông nội mình
trước khi ông nội cưới bà nội. Kết quả là cha của anh ta sẽ không được
sinh ra. Điều này dẫn tới người đàn ông đó sẽ không bao giờ được ra đời,
vậy thì làm sao anh ta có thể du hành về quá khứ.

Nhưng nếu anh không về quá khứ để giết ông nội mình, thì ông nội anh
phải còn sống. Điều đó nghĩa là anh vẫn được ra đời và có thể vượt thời
gian để giết ông nội mình.

Hai tình trạng trên đã phủ nhận sự tồn tại của cả hai trường hợp, đây là
một loại của nghịch lý logic.

107
Một quan điểm về Triết học

TRƯỜNG HỢP 4) XÉT CĂN NGUYÊN TỐI HẬU (CỨU


CÁNH) VỀ LÍ DO HÌNH THÀNH VŨ TRỤ.

SỰ MÂU THUẪN GIỮA DUY TÂM VÀ DUY VẬT

Hiện nay thế giới vẫn tồn tại hai trường phái duy tâm và duy vật,
mà bản chất của chúng chính là sự mâu thuẫn về quan niệm ý thức
có trước vật chất (duy tâm); hay vật chất có trước, ý thức có sau
(duy vật).

Khi Darwin công bố thuyết tiến hóa đã làm cho hệ tư tưởng thời
điểm đó trở nên sai lầm, vì mọi người nói Chúa tạo ra con người.

Tuy nhiên nó cũng không giải quyết được mâu thuẫn trên. Mà nó
chỉ dịch chuyển vấn đề đến những lý luận khác để bảo vệ quan
điểm cho cả hai bên. Đó là dời lí luận của họ đi hàng trăm triệu
năm, trở về thời điểm tạo ra những sinh vật đầu tiên.

Duy tâm (hữu thần) cho rằng không thể nào sắp xếp ngẫu nhiên
20.000 nguyên tử một cách có trật tự để tạo ra những sinh vật đầu
tiên được, theo toán xác suất thì nó gần bằng không. Vì vậy, sinh
vật đầu tiên phải do một ai đó tạo ra.

Còn theo duy vật (vô thần) thì đương nhiên là có thể với một vài
giả thuyết xúc tác để giảm xác suất đó xuống mức có thể xảy ra.

Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, việc tạo ra những sinh vật đầu tiên
(đang lấy cho trường hợp Trái Đất của chúng ta) cũng có thể là do
108
Một quan điểm về Triết học

một sinh vật ngoài hành tinh đi ngang qua và có lưu lại những sinh
vật bám trên những vật dụng mà họ mang theo. Hoặc có một giả
thuyết khác, các sinh vật đầu tiên đó do thực thể có siêu năng lực,
siêu ý thức tạo ra. Tôi kí hiệu bản thể có siêu năng lực, siêu ý thức
này là A. Thì nó cũng không thể giải quyết được sự mâu thuẫn giữa
2 trường phái này. Câu hỏi được đặt ra là, ai đã tạo ra những sinh
vật ngoài hành tinh hay vị A ấy.

Chúng ta chuẩn bị bước vào những suy luận mang tính chất hồi
quy, nếu câu trả lời là một vị có siêu năng lực, siêu ý thức khác.
Tôi tạm gọi là bố của A. Câu hỏi tiếp theo, ai tạo ra vị bố của A
đó. Nếu câu trả lời là ông của A, câu hỏi tiếp, ai tạo ra vị ông của
A đó. Và nếu như chúng ta có N câu trả lời thì chúng ta cũng có N
câu hỏi.

Vậy cuối cùng ai tạo ra thứ siêu năng lực siêu ý thức đầu tiên vậy?
Chúng ta lại quay lại về những giả thuyết đầu tiên!

Tuy nhiên ở đây có 4 giả thuyết đặt ra là:

1) Vũ trụ vốn không tồn tại mà do một thực thể có siêu năng lực
(Chúa) tạo ra (hợp với quan điểm của người hữu thần). Trường hợp
này phải trả lời một số câu hỏi:

Chúa là ai?

-Thứ nhất: Chúa có ý thức, thế nên cấu tạo cơ thể Chúa rất
phức tạp và có tính quy luật? Liệu không gian bắt đầu từ
không có gì, lại có thể bất ngờ tạo ra một dạng sự sống với
109
Một quan điểm về Triết học

cấu trúc cơ thể phức tạp và có trật tự như vậy? Xác suất này
so với việc tạo ra các hạt vật chất đơn giản thấp gấp hàng tỉ
lần.

Bạn nên nhớ, không gian từ không có gì mà tạo ra vật chất là


đã trái quy luật nhân quả rồi, mà bởi vì vật chất có tồn tại nên
chúng ta bắt buộc phải thừa nhận nó.

Không cần biết Chúa được cấu tạo từ vật chất, năng lượng
hay thông tin gì, nhưng chắc chắn phải có trật tự. Và việc
Chúa gần như toàn năng, thì việc sắp xếp thông tin, năng
lượng hay vật chất phải tuân theo một trật tự nghiêm ngặt,
phức tạp.

Không những thế, phải có vật chất mới có thông tin, bởi
thông tin chỉ được thể hiện qua trật tự sắp xếp, tương tác
của vật chất.

-Thứ hai: Chúa không cần trao đổi chất hay năng lượng, vẫn
có thể tồn tại và hoạt động trong không gian. Hay nói cách
khác Chúa là động cơ vĩnh cửu.

110
Một quan điểm về Triết học

-Thứ ba: Bởi vì trước khi hình thành, vũ trụ không hề tồn tại
vật chất, nên Chúa bắt buộc phải dùng tới sức mạnh phi vật
chất để tạo ra vũ trụ.

2) Vũ trụ vốn là những vật chất hỗn độn và sau một thời gian,
những vật chất này tạo ra các sinh vật (có thể Trái Đất là hành tinh
đầu tiên của vũ trụ chúng ta có sự sống cũng nên).

3) Cả thực thể có siêu năng lực lẫn vật chất đều sinh ra cùng một
lúc và tồn tại độc lập với nhau. Trường hợp này xác xuất thấp hơn
(1) và (2).

4) Vũ trụ vốn là một hệ ý thức khổng lồ. Mà mỗi hệ hành tinh (ví
dụ: hệ Mặt Trời) chỉ đóng vai trò như một nguyên tử tạo ra cơ thể
sống đó. Với nhân là Mặt Trời, còn những hành tinh xoay quanh
nó đóng vai trò electron.

Giả thuyết này có vẻ ít có xác suất xảy ra, rất khó để có một sinh
vật khổng lồ, mà vũ trụ hay các sao chỉ đóng vai trò như những
nguyên tử cấu tạo nên cơ thể sống đó. Tại vì nó bị giới hạn bởi tốc
độ ánh sáng. Như chúng ta biết, hiện nay chưa có thứ gì di chuyển
nhanh hơn tốc độ ánh sáng (thực ra, tốc độ truyền thông tin giữa
các hạt hạ nguyên tử nhanh hơn, nhưng cũng có giới hạn, theo
thuyết tương đối của Albert Einstein thì ánh sáng là nhanh nhất
trong vũ trụ).

Thế nên những sinh vật khổng lồ như thế sẽ bị giới hạn bởi tốc độ
xử lí và truyền tải thông tin. Ta giả sử khoảng cách giữa hai ngôi

111
Một quan điểm về Triết học

sao lân cận là một năm ánh sáng. Một tế bào chứa đến hàng tỉ
nguyên tử, ta biết với một sinh vật có ý thức như người chúng ta
cần khoảng 100 tỉ tế bào não để xử lí thông tin.

Như vậy thì, một sinh vật mà ngôi sao chỉ đóng vai trò như tế bào
não của người, cần bao nhiêu năm để truyền tải thông tin, chưa tính
đến việc xử lí nó? Trong khi con người cần chưa tới một giây để
phản ứng với các kích thích. Một sinh vật với suy nghĩ chậm như
vậy khó có thể tồn tại, chưa nói đến các điều kiện khác.

Tóm lại: Dù là giả thuyết nào đi nữa thì nó cũng quá sức để chứng
minh một cách toàn vẹn cho chúng ta. Và hai trường phái này (duy
tâm và duy vật) sẽ không bao giờ hết mâu thuẫn, bởi vì những lý
luận đưa ra chỉ mang tính giả thuyết, không có thực nghiệm. Nên
luôn tồn tại những khả năng khác nhau.

Kể cả khi phái vô thần tạo ra được những sinh vật đầu tiên trong
phòng thí nghiệm bằng những chất xúc tác có sẵn trong tự nhiên,
thì cũng không khỏi khiến người ta phải nghi ngờ.

Bởi vì đây là chứng minh và bác bỏ lý thuyết của đối phương một
cách tuyệt đối. Chỉ cần một phần tỷ % vẫn còn khả năng khác xảy
ra. Họ vẫn không chứng minh được là mình đúng.

Tuy thế, dù không chứng minh được cái nào là đúng thì cũng
không có nghĩa là ta chọn trường phái nào cũng được. Niềm tin
khác nhau dẫn đến những hành động khác nhau, kéo theo các giá

112
Một quan điểm về Triết học

trị khác nhau. Có nghĩa là một trường phái sẽ tốt hơn trường phái
còn lại.

ĐỌC THÊM

Một số nhà khoa học cho rằng không gian ban đầu không có, mà
phải có vật chất mới có không gian. Tức là, không tồn tại không
gian bên ngoài vật chất, dẫn đến không tồn tại không gian cho Chúa
ở bên ngoài vật chất để tạo nên vật chất.

Tôi nghĩ nếu xét theo lập luận này mà chứng minh Chúa không tồn
tại là chưa đủ.

Bởi vì: Không có mối liên hệ nào giữa việc vật chất có thể uốn
cong không gian với việc không có vật chất thì không gian không
tồn tại.

Nếu như tồn tại đa vũ trụ thì có thể tồn tại một thực thể rất mạnh,
được tạo ra từ những vũ trụ cổ xưa và cuối cùng thực thể đó tạo ra
một vũ trụ mới nhỏ hơn, tức là vũ trụ của chúng ta. Điều này cũng
không thể không tồn tại khả năng.

Ta lấy ví dụ như sau:

113
Một quan điểm về Triết học

Ta đặt vũ trụ của chúng ta vào một cái hộp có kích thước là N. Do
vũ trụ của chúng ta vốn đang giãn nở, tức là nó có kích thước giới
hạn, vậy nên nó hoàn toàn đặt được vào trong cái hộp có kích thước
là N, nếu như N đủ lớn.

Bây giờ ta giả sử rằng, nhìn thì vũ trụ đang nở rộng ra nhưng thực
chất nó đang thu nhỏ lại. Chính vì nó đang thu nhỏ lại nên những
thứ cấu tạo nên nó cũng đang thu nhỏ lại, với một tốc độ thu nhỏ
như nhau, tức là tôi và bạn cũng đang thu nhỏ lại. Dẫn đến không
gian mà vũ trụ đặt trong hộp N nhìn như nở rộng ra.

Vì vũ trụ đang thu nhỏ lại một cách đồng đều nên chúng ta không
có cảm giác như thế, bởi vì không thể lấy vật gì làm mốc để đối
chiếu. Tôi và bạn đều đang thu nhỏ lại với một vận tốc như nhau
nên tôi không hề thấy bạn nhỏ đi và ngược lại bạn cũng thế.

Các quan sát từ đài thiên văn cho thấy, các thiên hà đang ngày càng
cách xa nhau, dẫn đến kết luận vũ trụ đang ngày càng mở rộng ra.
Nhưng thực tế vũ trụ vẫn mãi không thể lớn hơn được cái hộp có
kích thước N cố định và mãi mắc kẹt trong chiếc hộp đó.

Điều này dẫn đến một hệ quả là, nếu chiếc hộp có chứa vũ trụ đó
có kích thước bằng bàn tay Chúa. Thì Chúa có thể cầm chiếc hộp
có kích thước N đó đi đâu tùy thích.

114
Một quan điểm về Triết học

TRƯỜNG HỢP 5) VŨ TRỤ TUÂN THEO MỘT PHẦN LUẬT


NHÂN QUẢ

Với trường hợp này thì các hạt vật chất không còn tồn tại vĩnh viễn
nữa, mà có thể ngẫu nhiên xuất hiện hoặc biến mất trong không gian,
không kể là vật chất phức tạp hay đơn giản. Tức là cả thiên hà có thể
bất thình lình xuất hiện, vận động trong một khoảng thời gian, rồi tự
dưng biến mất mà không để lại dấu vết.

Bởi vũ trụ chỉ tuân theo một phần luật nhân quả, nên sự vận động của
vật chất, thông tin, năng lượng không cần phải vận động liền mạch, mà
có thể đứt đoạn.

Trong trường hợp này một thực thể có trí tuệ, có sức mạnh to lớn có
thể bất thình lình xuất hiện trong không gian, và thậm chí, có thể có vô
số thực thể như thế xuất hiện trong không gian. Những thực thể này có
thể có sức mạnh to lớn đến mức, tạo ra cả vũ trụ con (vũ trụ của chúng
ta), thế nhưng những thực thể này không toàn năng. Bởi vì những thực
thể này không tồn tại vĩnh viễn, thậm chí còn không thể biết mình biến
mất khi nào. Những thực thể này có thể đang mải mê suy nghĩ, hay
đang làm một việc gì đó, đột ngột cơ thể tan rã và biến vào hư không,
chẳng còn dấu vết.

Việc xét trường hợp vũ trụ tuân theo một phần luật nhân quả cho phép
điều này có thể diễn ra. Quan trọng hơn, vũ trụ mà chúng ta đang sống,
hoặc cá nhân tôi và bạn cũng có thể tự dưng biến mất mà không cần
nguyên nhân, điều này thực sự không tốt với chúng ta.

115
Một quan điểm về Triết học

Tóm lại xét cả trong trường hợp này, nó cũng không có lợi cho việc
bảo vệ luận điểm Chúa có tồn tại.

ĐỌC THÊM

Có một giả thuyết mà nó tạo ra mâu thuẫn cho trường hợp vũ trụ
không tuân theo luật nhân quả và tuân theo một phần luật nhân
quả, đó là:

Sự chồng chất vật chất.

Ta giả sử rằng có một vật chất xuất hiện ở không gian A và chưa
biến mất, xét theo trường hợp trên thì nó hoàn toàn xuất hiện một
vật chất B cũng xuất hiện tại không gian đó, chồng lên vật chất A
chưa biến mất.

Vậy thì trường hợp trên phải xử lí thế nào? Nếu không giải quyết
được trường hợp này, thì khả năng tồn tại vũ trụ chỉ tuân theo một
phần hoặc hoàn toàn tuân theo luật nhân quả là rất thấp (gần như
không có).

116
Một quan điểm về Triết học

KẾT LUẬN

Xác suất để một thực thể xuất hiện đầu tiên trong không gian, và
thực thể đó dùng sức mạnh của mình để tạo ra vũ trụ là cực kì thấp.
Thậm chí với việc ứng dụng hệ quả định lí bất toàn của Kurt Godel,
tôi có thể chỉ ra rằng, không thể tồn tại một thực thể có toàn trí,
toàn năng.

Hệ quả của định lí bất toàn: Một vật tự đánh giá về mình mà không
dùng các công cụ ngoài bản thân là tự mâu thuẫn.

1) Không có thực thể toàn trí:

Đặt vấn đề, nếu như có một thực thể toàn trí, vậy thực thể đó có
biết tương lai bản thân mình nghĩ gì không? Nếu không biết, vậy
thực thể đó không toàn trí. Còn nếu suy nghĩ để cố đoán xem tương
lai mình nghĩ gì, thì thực thể đó sẽ bị chìm trong suy nghĩ đó mãi
không thoát ra được.

Bởi vì:

Một: Những suy nghĩ trong đầu chỉ là những khả năng suy diễn
không có thật, không tuân theo bất kì định luật nào, nên khả năng
xảy ra của những suy diễn đó sẽ là vô cùng. Vậy nên thực thể đó
không thể nào suy nghĩ hết các khả năng của việc mình nghĩ gì
trong tương lai được, dù tốc độ suy luận của thực thể đó có nhanh
cỡ nào đi chăng nữa.

117
Một quan điểm về Triết học

Hai: Nếu trong một khoảng thời gian nhất định, thực thể đó chỉ suy
nghĩ một vấn đề. Thế nhưng thời gian trong tương lai là kéo dài vô
tận, vậy nên những khả năng có thể xảy ra trong tâm trí là nhiều
vô tận, thế thì Chúa cũng không thể nào suy nghĩ hết được những
khả năng đó.

Kết luận: Không thể có thực thể toàn trí.

2) Không có thực thể toàn năng:

Nếu có một đấng toàn năng thì liệu người đó có thể tạo ra một tảng
đá mà không ai có thể nhấc nổi, kể cả chính ông ta! Vấn đề đặt ra
ở đây lại xảy ra một sự mâu thuẫn, đó là:

1. Nếu ông ta là đấng toàn năng, thì ông ta sẽ dễ dàng tạo ra một
tảng đá như thế (một hòn đá không ai, kể cả chính ông ta có thể
nhấc lên).

2. Nhưng cũng chính nhờ sự toàn năng ấy mà chắc chắn ông ta


cũng sẽ nhấc được hòn đá ấy (nếu không thì không còn là đấng...
toàn năng nữa), đúng không nào?

118
Một quan điểm về Triết học

Như vậy, đấng toàn năng là người có thể làm mọi điều, kể cả ngăn
chặn chính quyền năng của mình. Nhưng khi ông ta ngăn chặn
quyền năng của chính mình, thì ông ta đã bị hạn chế và không còn
toàn năng nữa!

Còn nếu ông ta cũng không ngăn chặn được chính quyền năng của
mình, thì ông ta cũng không phải là người quyền năng.

Nghịch lý này chứng minh rằng, trên đời này không thể tồn tại
người hay thứ gì đó gọi là "toàn năng".

119
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM: TÔN GIÁO

Tôi không tin một ngày nào đó, tôn giáo và mê tín sẽ kết thúc,
nhưng ít nhất nó sẽ bị hạn chế đến một mức hữu hạn nào đó, do
nhận thức của nhân loại ngày một tăng lên, và có thể nhận thức rõ
ràng về cách vận hành của sự vật, hiện tượng.

Nó không biến mất hoàn toàn, bởi vì mỗi người là một cá thể riêng
biệt, sinh ra ở những nền văn hóa và có cuộc sống khác nhau, dẫn
đến thế giới quan mỗi người một khác. Cho nên, luôn có một số
người ảo tưởng về một điều kì diệu (một thứ siêu nhiên nào đó) có
thể giải thoát họ khỏi những vấn đề mà thực tế họ gần như không
giải quyết được (bế tắc).

Hoặc họ sợ chết, sợ rằng đến một lúc nào đó mình không còn bên
cạnh những người thân thiết, không thể hưởng thụ cuộc sống,
không thể nhận thức thế giới được nữa…

Hoặc họ là nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội,


thường xuyên bị những nhóm người khác bắt nạt mà không biết
trông cậy vào ai. Những lúc như thế, để có thể tiếp tục cuộc sống,
họ buộc phải tưởng tượng ra và tin vào một đấng nào đó có thể
giúp đỡ và đòi lại công bằng cho họ. Và nếu như nhóm người bắt
nạt họ không phải trả giá ở kiếp này, thì cũng sẽ bị trừng phạt sau
khi chết, vì những việc mình đã làm trên trần thế. Với cách suy

120
Một quan điểm về Triết học

nghĩ này, sẽ giúp cho những người bị bắt nạt kia cảm thấy được an
ủi phần nào.

Ở đây, tôi không hề có ý khinh miệt những người đó, bởi trong quá
khứ những người bị bắt nạt kia chính là những người nông dân, nô
tì, thuộc tầng lớp dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, thấp cổ bé
họng vốn dĩ kêu không tới trời xanh.

Nhưng thế giới hiện đại ngày nay cùng với khoa học kĩ thuật phát
triển, chất lượng cuộc sống được cải thiện rất nhiều. Mọi công dân
trong một đất nước đều được đối xử, cũng như có nghĩa vụ giống
nhau, không hề có ngoại lệ với ai, những bất công trong xã hội vốn
dĩ còn tồn tại rất ít.

Vậy nên, tôn giáo sẽ không biến mất, mà giảm dần và phân rã ra
thành nhiều nhóm tôn giáo nhỏ khác nhau, phục vụ nhu cầu riêng
của từng nhóm người đó. Nhưng nó sẽ hạn chế đến một số lượng
nhất định rồi dừng lại ở đó.

Bởi vì mỗi người có một quan điểm riêng không ai giống ai, vì sự
công bằng tuyệt đối trong xã hội là không bao giờ có, và vì áp lực
cuộc sống luôn đè nặng lên mỗi cá nhân chúng ta… Rất nhiều
người cảm thấy hối hận vì những quyết định trong lúc nhất thời
của mình, và ước rằng nếu được làm lại cuộc đời, họ sẽ không làm
như vậy nữa. Quan trọng hơn, những trường hợp như tôi vừa kể

121
Một quan điểm về Triết học

trên không thời nào là không có, vậy nên tôn giáo sẽ không bao
giờ biến mất.

Thực tế tôn giáo cũng có nhiều ưu điểm, khi nó là sự kết hợp giữa
đạo đức và tín ngưỡng, khi nó khuyên răn các tín đồ của mình làm
điều thiện, không được làm điều sai trái.

Tôn giáo cũng là chỗ dựa tinh thần cho các tín đồ, khi họ gặp những
lúc khó khăn vẫn có thứ gì đó để tin tưởng, làm động lực để vươn
lên thoát khỏi nghịch cảnh. Tuy nhiên, khi bạn tin vào một thứ
hoàn toàn dựa trên trực giác và cảm xúc của con người, tức là bạn
đang chối bỏ cơ hội cho bản thân và những người đi theo bạn cơ
hội đến với chân lí thật sự, dựa trên khoa học và logic. Về khía
cạnh nào đó, đó cũng là hành vi sai trái.

Ở một góc nhìn khác, vì bản chất của tôn giáo là hữu thần, tức là
công nhận và tôn thờ một vài vị thần nào đó. Điều này thực chất
không có gì là xấu cả. Mặt trái ở đây là các mê tín dị đoan cũng
nhờ việc sùng bái các vị thần mà tồn tại. Nếu bạn tin rằng, có một
người toàn trí toàn năng che chở cho bạn, thì làm sao bạn có thể
bác bỏ được việc mọi người tin rằng, có Hà Bá ở dưới sông và
hàng năm mọi người phải dâng một cô gái xinh đẹp cho ông ta,
nếu không ông ta sẽ gây hại cho người dân?

Nếu bạn phản biện giả thuyết này bằng việc tại sao lâu nay không
thấy ông ấy làm hại người dân, từ đó phản biện giả thuyết của tôi,

122
Một quan điểm về Triết học

thì tôi sẽ dễ dàng phản biện lại là, Hà Bá hiện đang rất tức giận và
không quên kèm theo lời đe dọa, đó là “nếu không làm gì để Hà
Bá bớt giận, thì trong tương lai gần (không rõ thời gian) Hà Bá sẽ
chút giận xuống đầu người dân, khi đó người dân sẽ chịu rất nhiều
khổ cực”.

Bạn sẽ làm gì để chứng minh những lời tôi nói là sai trái?

Hay nói cách khác giữa tôn giáo và mê tín dị đoan có cùng một
gốc. Để xóa bỏ hoàn toàn mê tín dị đoan chúng ta phải loại bỏ
thuyết hữu thần, cũng là loại bỏ luôn cái gốc tồn tại của tôn giáo.
Thế nên nếu lúc nào đó tôn giáo không tồn tại nữa chúng ta nên
xem đó như một sự hi sinh đáng trân trọng để xã hội phát triển.

123
Một quan điểm về Triết học

TỔNG KẾT

Như vậy chúng ta không bao giờ có thể chứng minh được vũ trụ,
bởi định lí bất toàn của Kurt Godel không cho phép điều đó có thể
diễn ra. Thế nhưng bằng trí tưởng tượng và logic chúng ta có thể
hình dung được kịch bản nào của vũ trụ là có khả năng xảy ra cao
hơn, trong tất cả các kịch bản mà con người có thể nghĩ tới.

Và như đã lập luận trên đây, giả thuyết về các hạt vật chất với số
lượng vô cùng, tồn tại từ vô hạn năm về trước, vĩnh hằng về mặt
thời gian, dẫn đến hệ quả là có vô số vũ trụ nhỏ đang tồn tại cùng
với vũ trụ của chúng ta, và cũng có vô số vũ trụ đã từng tồn tại
trong quá khứ, tương lai, nằm trong một vũ trụ tổng thể có kích
thước lớn đến vô cùng. Có lẽ là hợp lí hơn cả, ít nhất với cá nhân
tôi cho đến hiện giờ là như vậy.

************

Để kết thúc phần về VŨ TRỤ LUẬN này, xin gửi các bạn bài viết
của tác giả PHẠM XUÂN YÊM.

Giáo sư Phạm Xuân Yêm là một nhà vật lý người Pháp gốc Việt,
nguyên giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Quốc gia Nghiên
cứu Khoa học (ngành Vật lý lý thuyết), đại học Pierre & Marie
Curie, Paris, giáo sư đại học Paris VI.

124
Một quan điểm về Triết học

Cái Không trong lượng tử


Phạm Xuân Yêm

Tóm tắt:

Chân không lượng tử (viết gọn thành Không) là trạng thái cơ bản
tận cùng của vạn vật, nó vô hướng, trung hòa, mang năng lượng
cực tiểu, trong đó chẳng hề vẩn gợn chút vật chất kể cả điện từ
trường (ánh sáng nói riêng). Do những nhiễu loạn của năng lượng
trong Không mà vật chất (cùng phản vật chất) nảy sinh, tương tác,
biến chuyển, phân rã và trở về với Không, cứ thế tiếp nối vòng sinh
hủy. Tuy vậy năng lượng của Không lại vô hạn theo nguyên lý bất
định Heisenberg. Cực tiểu nhưng vô hạn, nghịch lý này hẳn đòi hỏi
một cuộc cách mạng trong nhận thức? Dẫu sao có ít nhất hai biểu
hiện của Không đã được kiểm chứng thành công bởi thực nghiệm.
Ðó là hiệu ứng Casimir và các hằng số tương tác cơ bản không cố
định mà biến đổi. Nhưng mặt khác vì năng lượng vô hạn, vai trò
của Không trong sự dãn nở của Vũ trụ chưa tìm thấy lời giải đáp,
minh họa sự mâu thuẫn căn bản giữa hai trụ cột của vật lý hiện đại:
thuyết Lượng tử trong thế giới vi mô và thuyết Tương đối rộng
trong thế giới vĩ mô.

Kỳ thú thay khi ngược dòng thời gian tìm về một thế kỷ đã trôi qua
với hai cột mốc 1900 và 1905, vì chính hai năm đó, Max Planck
(1858 – 1947 – nhà vật lý lượng tử người Đức) và Albert Einstein
lần lượt theo thứ tự trên đã mang đến cho nhân loại hai kho tàng

125
Một quan điểm về Triết học

tri thức tuyệt vời gọi là thuyết lượng tử và thuyết tương đối hẹp
trong vật lý, chắt chiu vun tròn qua hai phương trình E = hν và
E=mc2 ngắn gọn mà đẹp biết bao.

Không gì hơn, hai lý thuyết ấy chẳng những ảnh hưởng lan tràn
sang nhiều địa hạt khác của khoa học, từ toán đến sinh qua hóa,
thậm chí cả nhân văn nghệ thuật, cũng là cội nguồn và chiếc nôi
nuôi dưỡng triển khai của biết bao công nghệ cao hiện đại.

Ngoài ra còn khơi dậy nhiều nhận thức sâu sắc về bản thể của sự
vật, câu hỏi từ buổi bình minh của loài người về tự tính, tại sao, từ
đâu và về đâu của thế giới hiện tượng ngoại cảnh, nó có hoàn toàn
khách quan độc lập với ý thức nội tâm con người không? Những
tia sáng mà hai lý thuyết trên rọi vào cho khoa học cơ bản, công
nghệ và triết lý đã vô hình trung thoảng dần thay đổi nếp sống cũng
như suy tư của mỗi chúng ta trong quá trình tiến hóa của loài người.
Vấn đề mênh mông, bài này chỉ đề cập đến một khái niệm then
chốt của vật lý hiện đại gọi là Chân không lượng tử mà hai hệ quả
đã được thực nghiệm kiểm chứng thành công: Hiệu ứng Casimir,
hằng số tương tác cơ bản không hằng mà biến chuyển. Nhưng mặt
khác liên quan đến thuyết tương đối rộng, vì có năng lượng vô hạn
nên câu hỏi về vai trò của Không trong sự dãn nở của Vũ trụ chưa
biết giải quyết ra sao. Vấn đề này sẽ được nói qua ở đoạn cuối, liên
đới đến lý thuyết siêu dây/lý thuyết M.

126
Một quan điểm về Triết học

Vật lý đương đại và Công nghệ cao

Trước hết chúng ta hãy tạm kể mấy thành quả mới lạ mà vật lý
hiện đại mang đến cho đời sống hàng ngày:

1- Công nghệ thông-truyền-tin với ba chữ W (world-wide-web)


hay mạng lưới toàn cầu được sáng tạo và dùng đầu tiên bởi các nhà
vật lý ở CERN (Centre Européen de Recherche Nucléaire) chuyên
về nghiên cứu hạt cơ bản, mũi nhọn của vật lý hiện đại. Ðặt ở biên
giới Pháp-Thụy Sĩ gần thành phố Genève với máy gia tốc hình
tròn, chu vi hai mươi bảy cây số nằm sâu hơn trăm thước dưới mặt
đất, trong đó công nghệ siêu dẫn của điện từ được tận dụng, tạo
nên những từ trường rất mạnh để đẩy những hạt electron, positron,
proton cho đạt tới vận tốc gần bằng ánh sáng, nhờ đó mà thăm dò
được bản chất của các hạt cơ bản cấu tạo nên vạn vật và khám phá
các định luật tương tác của chúng. Vì hàng ngàn nhà vật lý ngành
năng lượng cao này đều sinh hoạt ở nhiều quốc gia tản mát khắp
địa cầu, không phải lúc nào cũng có thể thường xuyên làm việc
bên CERN, để dễ dàng cộng tác và trao đổi rất nhiều dữ liệu, cùng
nhau phân tích tổng hợp nhanh chóng các kết quả nghiên cứu,
khoảng năm 1990 đã xuất hiện www. Chưa đầy mười năm sau,
internet đã nhanh chóng tràn ngập thị trường thông-truyền-tin quốc

127
Một quan điểm về Triết học

tế mà điển hình là động cơ truy cập Google, qua đó ta có thể tham


khảo tức thì muôn vàn thông tin, tài liệu, sách báo.

2- Cuộc cách mạng số trong những phương tiện truyền thanh,


truyền hình, quay phim, điện thoại v.v. được phát triển nhờ những
khám phá về laser và chất bán dẫn, mà đại diện là các linh kiện vi
tính, vi điện tử, quang điện tử. Những kỳ công nói trên khởi nguồn
từ vật lý lượng tử!

3- Hệ thống GPS (Global Positioning System) để xác định tức khắc


các địa điểm trên hoàn cầu đang dần dần trang bị các phương tiện
vận tải trên trời dưới biển. Hệ thống đó tùy thuộc căn bản vào máy
đo thời gian vô cùng chính xác (đồng hồ nguyên tử khai thác sự
dao động tuần hoàn của các nguyên tử vi mô) được làm ra với mục
tiêu khoa học thuần túy để kiểm chứng thuyết tương đối rộng. Theo
thuyết này nhịp độ của đồng hồ thay đổi với sức hút của quả đất,
trọng lực giảm thì tần số dao động cũng giảm theo, hay thời gian
trôi nhanh lên.

4- Công nghệ liên quan đến y tế dùng máy gia tốc của các hạt
proton hay electron; laser ánh sáng dùng trong giải phẫu; máy chụp
hình nổi như MRI (magnetic resonance imaging), PET (positron
emission tomography) là những ứng dụng trực tiếp của nhiều công
128
Một quan điểm về Triết học

trình nghiên cứu cơ bản về lượng tử. Ðặc biệt với PET, hạt positron
(tức phản hạt của electron, bản giao hưởng tuyệt vời giữa lượng tử
và tương đối hẹp), được tận dụng để dõi theo sự biến chuyển của
tế bào.

5- Hiện tượng siêu dẫn điện từ ở nhiệt độ thấp là một đặc trưng của
vật lý lượng tử. Thực là kỳ lạ, dòng điện truyền qua một dây siêu
dẫn tồn tại rất lâu dài dẫu ta cắt bỏ nguồn điện đi. Vật liệu siêu dẫn
không có điện trở, chúng không bị nóng lên, như vậy điện không
bị thất tán nếu được truyền tải bằng dây siêu dẫn. Hơn thế nữa, một
thanh nam châm để gần một vật liệu siêu dẫn sẽ bị nâng bật ra
ngoài, khác hẳn với điện từ ở điều kiện thường. Với những đặc tính
trên và còn nhiều điều chưa kể đến như từ trường cực kỳ mạnh
duới trạng thái siêu dẫn, rất nhiều người nhìn thấy ở đấy triển vọng
cho công nghiệp tương lai của thế kỷ 21, đặc biệt trong sự sản xuất,
tích trữ và chuyển vận năng lượng. Một thí dụ là khả năng điều
chỉnh được sự tổng hợp nhiệt hạch thường xuyên xảy ra trong Mặt
Trời từ hơn bốn tỷ năm qua. Ðó là lò phản ứng nhiệt hạch quốc tế
ITER (International Thermonuclear Experimental Reactor) đang
được xây dựng ở Cadarache miền nam nước Pháp để nghiên cứu
việc sản xuất năng lượng sạch. Lò ITER dùng từ trường siêu dẫn
cực kỳ mạnh để giam hãm plasma hạt nhân nguyên tử, điều kiện
tiên quyết để khởi động sự tổng hợp nhiệt hạch. Ngoài ra còn phải
kể đến khả năng chủ yếu của siêu dẫn trong các ngành liên quan

129
Một quan điểm về Triết học

đến điện tử (với máy tính và dữ kiện dùng vật liệu siêu dẫn), đến
sinh học (với thiết bị sensor cực kỳ nhạy bén), đến vận tải (với tàu
hỏa tốc hành nâng lên bởi từ trường siêu dẫn, không chạm đường
ray nên tàu chạy rất nhanh lại an toàn).

Ðôi điều tản mạn về thế giới vi mô, lượng tử và hạt cơ bản:

Ðể làm quen với lượng tử, chúng ta bắt đầu bằng công thức Planck:
E = hν, theo đó sự trao đổi năng lượng E của một vật thể vi mô với
môi trường chung quanh không liên tục, mà được thực hiện bằng
từng đơn vị (hay gói) như một hν, hai hν, ba hν, ... n hν, với n là
một số nguyên. Hơn nữa năng lượng E lại gắn liền với tần số dao
động ν của vật thể vi mô ấy, và hệ số tỉ lệ h được gọi là hằng số
Planck. Danh từ lượng tử (gốc chữ La tinh là quantum: bao nhiêu)
hàm nghĩa số lượng, mang tính chất rời rạc. Ký hiệu h viết tắt hilfe
(phụ khuyết), một chữ bình thường chọn từ tiếng Ðức, chi tiết đó
nói lên lòng khiêm tốn của một nhà bác học lớn, mặc dầu trong
thâm tâm ông biết mình vừa phát hiện ra một công trình phi
thường. Trong lúc vui mừng khôn xiết, ông thổ lộ với con trai
Erwin năm ấy mới lên bảy tuổi: Hôm nay bố vừa khám phá được
một điều vĩ đại chẳng kém Newton (1643 – 1727 – nhà vật lý học
nổi tiếng người Anh), trước sự ngỡ ngàng của cậu con không rõ
cha nói gì.

130
Một quan điểm về Triết học

Do tính toán qua hằng số rất nhỏ h mà ra, danh từ vi mô trong khoa
học tự nhiên được hiểu như những vật chất kích thước bằng hay
nhỏ hơn một phần tỷ mét, hay nanomet. Như vậy một nguyên tử
rộng dài khoảng nanomet có thể được coi như ngưỡng cửa bắt đầu
đi sâu xuống thế giới vi mô trong đó bao gồm những hạt nhỏ hơn
nữa, như hạt nhân nguyên tử và hai thành phần của chúng tức là
hạt proton và hạt neutron. Thế giới vi mô vận hành theo những
định luật của vật lý lượng tử. Nhưng ảnh hưởng của lượng tử vượt
rất xa ra ngoài thế giới vi mô, chính là vì thế giới vĩ mô lớn rộng
(thiên hà tinh tú, mặt trời, sinh, thực, khoáng vật ở trái đất), tất cả
đều được tạo thành bởi những hạt vi mô cơ bản gọi là quark và
lepton, đặc biệt là lepton e hay electron. Điểm then chốt mà Planck
giả thiết là một vật vi mô chỉ có thể tiếp nhận hay mất đi những
đơn vị năng lượng hν. Ngạc nhiên thay, ta hình dung sức nóng -
một dạng của năng lượng - phun ra từng gói, từng chùm chứ không
tuôn chảy đều đặn. Giả thuyết của ông vào thời điểm ấy là cả một
ý niệm cực kỳ cách mạng, vì định kiến cho rằng năng lượng phát
tỏa ra phải liên tục đã ăn sâu vào tiềm thức con người, đến nỗi ta
tin đó là hiển nhiên như vậy. Nhiều phát minh vượt bậc trong khoa
học thường khởi đầu bằng một tỉnh ngộ, để từ bỏ định kiến đã bám
rễ vào tư tưởng con người trong bấy nhiêu thế hệ. Trăm năm qua,
cái ý niệm muôn vàn tinh tế đó ngày càng thấm đượm: Mọi vận
hành, tương tác của vật chất, thoạt tưởng là đều đặn liên tục như
hương bay nước chảy, thực ra chỉ là những nhận thức thô sơ ở trạng
thái lớn vĩ mô của một thực tại phong phú sống động hơn, kỳ diệu
131
Một quan điểm về Triết học

hơn, với tưng bừng hợp âm trong vùng sâu khuất [1] của thế giới
vi mô.

Thực ra không có gì mới lạ cái quan điểm, theo đó, tất cả mọi vật
chất ở thang mức vĩ mô mà hàng ngày chúng ta nhận thức, đều
được tạo ra bởi một số hạt cơ bản vi mô, số ấy ít thôi không nhiều.
Mời bạn đọc hiểu hạt cơ bản qua một ẩn dụ sau đây: Giả sử ở nước
ta, các mái của nhà chùa, nhà thờ, nhà ở, lâu đài thành quách v.v...
tất cả đều được lợp bằng bốn loại ngói: bát tràng, lái thiêu, âm
dương và huyền thạch, và chỉ có bốn loại ngói đó thôi để dựng nên
các mái nhà trên đất nước. Vậy bốn loại ngói đó là bốn hạt cơ bản
của mái nhà Việt. Cũng như hạt cơ bản của từ ngữ là hai mươi sáu
mẫu tự a, b, c… để viết lên bao tác phẩm văn chương thơ phú tuyệt
vời, của âm thanh là bảy nốt đô, rê, mi… để hòa điệu trăm ngàn
bản nhạc mê ly, của màu sắc là ba màu xanh, đỏ, vàng cơ bản, từ
đó vẽ ra các họa phẩm huyền diệu. Trong thiên nhiên, hạt cơ bản
của vật chất bất động hay sinh động là quark và lepton!

Thực là một bước nhảy vọt vĩ đại trong kiến thức của loài người ở
đầu thiên niên kỷ thứ ba này! Chúng tương tác, gắn kết để tạo thành
vật chất, hơn nữa còn dựng nên cả cấu trúc cong xoắn của không-
thời gian trong vũ trụ, vì theo thuyết tương đối rộng, vật chất và
không-thời gian được thống nhất, cái trước tạo nên (và là) cái sau.
Như một lần Einstein đã viết cho Schwarzschild (người đầu tiên
năm 1916 giải được chính xác phương trình Einstein của thuyết
tương đối rộng): Xưa kia người ta nghĩ rằng nếu mọi vật trên đời

132
Một quan điểm về Triết học

biến mất thì sẽ còn lại thời gian và không gian, nhưng theo thuyết
tương đối rộng thì không - thời gian cũng biến mất theo vật chất
mà thôi.

Thuyết tương đối hẹp và rộng, gần như do một mình Einstein sáng
tạo. Trái lại, vì thế giới vi mô vô cùng phong phú, bao quát nhiều
địa hạt khác nhau, nên vật lý lượng tử là một công trình tập thể với
những đóng góp của nhiều nhân vật lịch sử như Bohr, De Broglie
(1892 – 1987 – nhà vật lý người Pháp), Schrödinger (1887 – 1961
– nhà vật lý người Áo), Heisenberg, Dirac (1902 – 1984 – nhà vật
lý người Anh), Pauli (1900 – 1958 – nhà vật lý người Áo), Fermi
(1901 – 1954 – nhà vật lý người Ý) nối tiếp cho mãi đến ngày nay
bởi các tài năng đến từ mọi miền trên Trái Đất qua vài khuôn mặt
quen thuộc, tạm kể như Bose (1894 – 1974 – nhà vật lý người Ấn
Độ), Gell-Mann (1929 – 2019 – nhà vật lý người Mỹ), Landau
(1908 – 1968 – nhà vật lý người Liên Xô), Salam (1926 – 1996 –
nhà vật lý người Pakistan), Yang (1922 – nay – nhà vật lý người
Mỹ gốc Trung Quốc), Yukawa (1909 – 1981 – nhà vật lý người
Nhật) ...

Ngược dòng thời gian, quan niệm về hạt sơ đẳng (nghĩa là những
đơn vị vi mô nhỏ bé nhất không sao chia cắt cho nhỏ hơn được
nữa) cấu tạo nên vật chất trong vũ trụ đã từ lâu tiềm ẩn trong ý thức
nhân loại. Cái được hiểu là sơ đẳng đó biến đổi với thời gian như
ta thấy. Mới cách đây trăm năm, phân tử được coi là hạt cơ bản
nhỏ nhất của vật chất, rồi phân tử lại do nhiều nguyên tử gắn bó

133
Một quan điểm về Triết học

với nhau qua sự trao đổi các điện tử electron của chúng mà thành.
Sau đó nguyên tử cũng do hạt nhân và electron dao động chung
quanh tạo lập, rồi đến hạt nhân cũng chẳng qua là một phức hợp
của hai thành phần nhỏ hơn là proton và neutron, cuối cùng proton
và neutron cũng được tạo ra bởi hai hạt cơ bản gọi là quark u, d
(viết tắt up, down) gắn bó với nhau qua sự trao đổi keo (gluon) mà
nên. Ðịnh luật tương tác mạnh của các quark để gắn bó chúng trong
proton và neutron mang tên Sắc động lực học lượng tử (quantum
chromodynamics, QCD), vay mượn chữ Ðiện động lực học lượng
tử (quantum electrodynamics, QED), cái này diễn tả tương tác điện
từ trong thế giới vi mô của electron. Hai danh từ sắc và điện để chỉ
định hai tính chất lượng tử riêng biệt, sắc tích của quark và điện
tích −e của electron. Trong Sắc động lực có tám gluon mang sắc
tích trao đổi giữa quark, còn trong Ðiện động lực chỉ có một quang
tử (photon) trao đổi giữa electron. Tóm lại vạn vật đều được cấu
tạo bởi các hạt cơ bản, bốn thôi không nhiều, hai quark u, d và hai
lepton: electron, neutrino [2]. Ngoài sắc tích ra, hai quark u, d còn
mang điện tích +(⅔)e cho u và –(⅓)e cho d, cũng như electron
mang điện tích âm –e, còn neutrino thì trung hòa, cả hai lepton
(electron và nơtron) đều không có sắc tích. Là hạt cơ bản kỳ lạ nhất
trong bốn hạt, neutrino vì tương tác quá ư nhỏ yếu với vật chất nên
bay trong vũ trụ với vận tốc ánh sáng c như vượt chân không,
xuyên suốt Trái Đất gần như chẳng để lại một dấu ấn gì. Thực là
một sứ giả độc đáo, nối cầu giữa thế giới vĩ mô vô cùng lớn rộng
của thiên hà vũ trụ, với thế giới vi mô muôn vàn nhỏ bé của hạ tầng
134
Một quan điểm về Triết học

nguyên tử. Neutrino nhẹ nhất trong bốn hạt cơ bản (khoảng một
phần tỷ khối lượng electron) và nhiều nhất trong trời đất, hằng hà
sa số, mỗi giây đồng hồ trên diện tích một cm² của làn da chúng ta
có chừng sáu mươi tỷ hạt neutrino từ Mặt trời bay tới, không kể từ
muôn vàn vì sao khác! Nếu như từng ấy những hạt quang tử mà
chạm tới chúng ta, chắc hẳn con người không thể sinh tồn dưới
trạng thái hiện hữu. May thay, neutrino là hạt cơ bản chỉ có tương
tác yếu [3] với quark u, d và electron, và chúng ta cũng như mọi
vật thể khác đều do ba (trong bốn) hạt cơ bản u, d và electron tạo
thành. Hai quark cơ bản u, d nói trên là những phần tử sơ đẳng
nhất, qua tương tác mạnh [3], cấu tạo nên proton (tập hợp của ba
quark u, u, d) và neutron (tập hợp của ba quark d, d, u) rồi chính
hai hạt này lại gắn bó nhau để tạo thành hạt nhân của tất cả các
nguyên tử, từ khinh khí nhẹ nhất đến những hóa chất nặng nhất
trong trời đất. Hạt nhân và electron tạo thành các nguyên tử, mỗi
nguyên tử có một hạt nhân riêng của nó với một số electron dao
động chung quanh. Sau rốt những nguyên tử khác nhau lại gắn bó
(qua sự trao đổi các electron với nhau) để tạo thành những vật lớn
hơn gọi là phân tử, và acid DNA trụ cột của gen sinh vật là một đại
phân tử, thí dụ này kể ra để chúng ta có một ý niệm về kích thước
của các vật thể.

135
Một quan điểm về Triết học

Trong bốn loại tương tác cơ bản của vạn vật [3], hằng số tương tác
mạnh αs của quark lớn nhất, gấp khoảng trăm lần hằng số tương
tác điện từ αem = 1/137, còn hằng số trọng lực G của Newton thì
quá nhỏ, khoảng 10-42 lần so với lực điện từ ở điều kiện bình
thường (hiện nay và ở đây), nhưng ở lúc khai thiên lập địa (Big
Bang) lại là chuyện khác. Có thể nói là tất cả các hiện tượng điện
từ (cơ bản cũng như ứng dụng) đều có thể tính toán, diễn tả bằng
một thông số thôi, đó là hằng số tương tác điện từ αem để thấy rõ
tính chất phổ quát của nó. Cũng như tất cả các hiện tượng hấp dẫn
có thể diễn tả qua hằng số tương tác trọng lực Newton G.

Trường, lưỡng tính sóng - hạt, E2=m2c4 hay vật chất và phản vật
chất, hạt ảo:

Quan điểm độc đáo mà Planck tặng cho nhân loại là, cũng có
những gói hay hạt sơ đẳng của năng lượng trao đổi giữa các vật thể
vi mô. Hơn nữa, năng lượng E lại trực tiếp gắn liền với tần số dao
động ν của chúng. Trường lượng tử của vật thể vi mô diễn tả lưỡng
tính sóng-hạt của nó, đó là hàm tuần hoàn trong không gian [4] x
và thời gian t, tuân theo những định luật của các tương tác cơ bản

136
Một quan điểm về Triết học

từ đó ta suy diễn ra mọi vận hành của vật thể. Công thức E = mc 2
(m là khối lượng của vật và c ≈ 300.000 km/s là vận tốc của ánh
sáng) diễn tả năng lượng E là một dạng của vật chất và khối lượng
m đồng nghĩa với hạt. Khi liên kết với E = hν và tần số ν đồng
nghĩa với sóng, ta cảm nhận cái lưỡng tính sóng-hạt của thế giới vi
mô qua sự trung gian của năng lượng E. Vật chất mang điện tích
khi chuyển động chính là nguồn gốc tạo ra sóng điện từ trường,
biểu hiện qua sự dao động của hạt quang tử. Nhưng photon lại
không có khối lượng (m = 0), vậy tính chất hạt của nó ở đâu? Chính
xung lượng |k|=E/c diễn tả dạng hạt của photon. Thực vậy, trong
thuyết tương đối hẹp, E2=|k|2c2 + m2c4 là phương trình chính xác,
còn E2 = m2c4 chỉ là dạng riêng lẻ của phương trình trên, khi hạt
có khối lượng m ≠ 0 đứng yên (|k|= 0). Trái lại, vì m = 0, quang tử
luôn luôn chuyển động với vận tốc c, nó có năng lượng E và xung
lượng |k| = E/c, vậy phương trình hν=E=|k|c diễn tả lưỡng tính
sóng-hạt của sóng điện từ. Ánh sáng mắt ta nhìn thấy là sóng điện
từ với tần số ν khoảng triệu tỷ (1015) vòng trong một giây đồng hồ.

Công thức E2 = |k|2c2 + m2c4 của thuyết tương đối hẹp và chùm
năng lượng hν của thuyết lượng tử là điểm khởi đầu mà Dirac kết
hợp được để khám phá ra một chân trời mới: Sự xuất hiện của phản
hạt có cùng khối lượng với hạt, nhưng tất cả các đặc trưng khác
(điện tích, spin, sắc trong quark) của hạt và phản hạt đều ngược
dấu. Sự thống nhất cơ học lượng tử với thuyết tương đối hẹp là
điều tối cần thiết, vì thế giới vi mô của lượng tử luôn dao động với

137
Một quan điểm về Triết học

vận tốc rất cao, mà trường hợp này chỉ thuyết tương đối hẹp của
cơ học mới diễn tả được chính xác. Ðể chứng minh phản hạt, Dirac
đi từ nhận xét sau đây: vì E = ± (|k|2c2 + m2c4)1/2, nên E = ± mc2
với một vật không di động. Trong vật lý cổ điển, hiển nhiên E > 0
nên ta chỉ có E = mc2 thôi. Trái lại, trong thế giới vi mô của vật lý
lượng tử, năng lượng của một hạt có thể mất đi hay nhận được từng
gói hν, vậy không có gì ngăn cản hạt khi mất đi quá nhiều gói hν
có thể mang năng lượng âm, hay ngược lại một hạt với E < 0 khi
nhận được nhiều gói hν có thể trở về trạng thái bình thường với
năng lượng dương. Thí dụ trong đại dương của muôn vàn hạt
electron (điện tích âm -e) mang E < 0, nếu ta có đủ sức để kéo một
hạt trong đại dương ấy ra ngoài, tức là đại dương ấy mất đi một
electron mang E < 0, -e. Nhưng mất đi (tượng trưng bằng dấu -)
cái âm thì cũng như nhận được cái dương, -(-) = +, vậy kết cục là
ta thấy xuất hiện một hạt có điện tích dương +e và mang năng
lượng E > 0. Ðó là hạt phản electron hay proton. Tóm lại, hạt và
phản hạt đều có E > 0, chúng có chung khối lượng nhưng mọi đặc
trưng khác (điện tích, spin, sắc) đều ngược dấu. Ta có phản quark,
phản lepton, phản nguyên tử. Như vậy có vật chất thì cũng có phản
vật chất, khi giao tụ chúng tự hủy để biến thành năng lượng, và
ngược lại nếu cung cấp đủ năng lượng thì các cặp vật chất-phản
vật chất được tạo ra.

Sự tương trùng giữa năng lượng với cặp vật chất-phản vật chất đưa
đến khái niệm vật ảo trong lượng tử, đó là những vật mà năng

138
Một quan điểm về Triết học

lượng E và xung lượng k không tuân theo phương trình E2 = |k|2c2


+ m2c4 nữa. Một hạt thực khối lượng m, năng lượng E và xung
lượng k, ba đại lượng đó ràng buộc bởi phương trình m = (E 2 –
|k|2c2)1/2 ⁄c2. Hạt ấy khi thành ảo có khối lượng bình phương m*2 ≠
m2. Khối lượng m* của hạt ảo thay đổi liên tục chứ không giới hạn
trong một vài trị số m nhất định của hạt thực. Thí dụ sau đây cho
ta rõ photon ảo là gì. Như ta biết, khi electron chuyển động nó phát
ra photon. Ðể một electron và một positron đi ngược chiều va chạm
nhau, xung lượng của chúng là +k và -k, mỗi hạt có năng lượng
bằng 𝐸𝑒 = (|k|2c2 + 𝑚𝑒 2c4)1/2, 𝑚𝑒 là khối lượng chung của electron
và positron. Gặp nhau, chúng biến thành một photon ảo nên năng
lượng Ē và (xung lượng K) của photon ảo này là tổng năng lượng
và (tổng xung lượng) của electron và positron, Ē = 2𝐸𝑒 , K = k –
k = 0. Vậy photon ảo có khối lượng (𝐸𝑒 – |K|2c2 )1/2 ⁄c2 = (2𝐸𝑒 )1/2⁄c2
khác 0. Cũng thế ta có quark, lepton, gluon ảo. Tương tác điện từ
của electron được diễn tả qua sự trao đổi photon ảo giữa electron
với nhau, cũng như tương tác mạnh của quark là do sự trao đổi các
gluon ảo giữa quark, tương tác yếu của neutrino qua sự trao đổi
các boson ảo W±, Z0. Những photon, gluon, W±, Z0 ảo theo thứ
tự chính là những sứ giả truyền tin làm trung gian cho các tương
tác điện từ, mạnh, yếu để tạo ra các lực thích ứng. Thí dụ hai điện
tích đứng yên trao đổi một photon ảo, hàm truyền Feynman của
photon ảo này sinh ra lực Coulomb giữa chúng. Các hạt ảo dựa vào
năng lượng E vay mượn của chân không lượng tử (xem định nghĩa
và đặc tính phần dưới) mà sinh ra, chúng tồn tại trong thời gian
139
Một quan điểm về Triết học

ngắn ngủi t ~ ћ/E (nguyên lý bất định 𝐸𝑡 ~ ћ ~ 2|k||x|), rồi trả lại E
để ra đi, như nhà vật lý kỳ tài Feynman từng hài hước: Từ chân
không sinh ra rồi lại hủy, ôi biết bao thời gian phí phạm!

Trở về với Chân không:

Chân không lượng tử được định nghĩa như trạng thái cơ bản tận
cùng của vạn vật, nó vô hướng, trung hòa, mang năng lượng cực
tiểu; trong đó, vật chất, tức là tất cả các trường lượng tử, bị loại bỏ
hết. Nhưng không phải vì Không chẳng chứa trường vật chất nào
mà năng lượng của nó bằng 0. Theo nguyên lý bất định (nguồn gốc
của sự thăng giáng lượng tử), năng lượng của bất cứ trạng thái vi
mô nào là chuỗi (1/2)hν, (3/2)hν, (5/2)hν... chứ không phải là 0hν,
1hν, 2hν... Cũng dễ hiểu thôi, nguyên lý bất định bảo ta rằng, nếu
xung lượng |k| được xác định rõ rệt bao nhiêu thì vị trí trong không
gian |x| lại mơ hồ rối loạn bấy nhiêu, vậy năng lượng tối thiểu ε =
(1/2)hν ≠ 0 chính là một thỏa hiệp tối ưu bình đẳng cho cả hai bên
|k| và |x|. Thực thế, nếu ε = 0, |k| = 0, vậy |x| không sao được xác
định nổi. Phản ánh nguyên lý này, thế giới vi mô luôn luôn dao
động ngay ở nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất (năng lượng cực tiểu) và
đó là ý nghĩa của sự thăng giáng lượng tử. Bởi năng lượng tối thiểu
khác 0 và vì tần số ν có thể là bất cứ con số nào từ 0 đến vô tận,
nên Không có năng lượng phân kỳ khi ta lấy tích phân tất cả các

140
Một quan điểm về Triết học

mode dao động ν. Làm sao ước tính được năng lượng của Không,
mặc dầu vô hạn? Phép phân tích thứ nguyên cho ta cách trả lời.
Với ba đại lượng cơ bản phổ cập trong vật lý là h = 2πћ hằng số
Planck, G hằng số trọng lực Newton và c vận tốc ánh sáng, ta chỉ
có một cách duy nhất để lập nên những đại lượng mang thứ nguyên
chiều dài (L), khối lượng (M), và thời gian (T). Ðó là chiều dài
Planck 𝐿𝑝 = [Gћ/c3]1/2 = 1.6×10-35 m, khối lượng Planck 𝑀𝑝 =
ћ/(c𝐿𝑝 ) = 2.2 × 10-8 kg, và thời gian Planck 𝑇𝑝 = 𝐿𝑝 /c = 5.4×10-44
s. Từ đó, năng lượng Planck 𝐸𝑝 = 𝑀𝑝 c2 = 2×109 joule. Mật độ
năng lượng của Không được ước tính theo (27/16π2)𝐸𝑝 /𝐿𝑃 3 =
8.4×10112 joule/m3, với những đóng góp của các trường ảo tràn
đầy trong Không: photon trong tương tác điện từ, ba boson W±,
Z0 của tương tác yếu, và tám gluon trong tương tác mạnh. Ðóng
góp của quark và lepton cũng chẳng thể thay đổi công thức trên
bao nhiêu.

Tuy nhiên, chính vì vô hướng, trung hòa, lại có năng lượng vô hạn,
nên cái Không lượng tử mang ẩn dụ một hư vô mênh mang tĩnh
lặng. Từ đó do những kích thích nhiễu loạn của năng lượng, mà
vật chất được tạo thành, để rồi chúng tương tác, biến đổi, phân rã
rồi trở về với Không, tiếp nối bao vòng tục lụy! Cái Không lượng
tử thực là trạng thái cơ bản, là cội nguồn và chốn trở về cũng như
ra đi của vạn vật [5]. Nó không rỗng tuếch chẳng có gì, mà là cái
thế lắng đọng của tất cả [6]. Chân không - Vật chất - Không gian -
Thời gian chẳng sao tách biệt, cái này có là cái kia có, cái này

141
Một quan điểm về Triết học

không thì cái kia không [7], đó là hệ quả của Lượng tử và Tương
đối! Thực thế, thuyết Tương đối hẹp liên kết Không gian và Thời
gian, còn Tương đối rộng nối Vật chất với Không-Thời gian và
cuối cùng Lượng tử mang Chân không về với Vật chất và như vậy
kết nối cả bốn khái niệm cơ bản trên. Dưới một khía cạnh nào, ta
cảm nhận cái Không qua câu nói đáng yêu đầy ẩn dụ của đồng bào
miền Nam, “dzậy mà không phải dzậy”, không mà chẳng là không.
Mặc dầu Không là trạng thái không sao nắm bắt, chẳng có cái nào
của nó mà ta định lượng nổi, nhưng rõ ràng khác với hư không
trong công nghệ, về mặt định tính ta có thể kể ba đặc trưng của
Không. Ðó là sự thăng giáng lượng tử, sự tràn đầy hạt và phản hạt
kết thành các cặp ảo trong Không và sự phân cực chân không, gây
ra bởi các cặp này. Phản ánh tác động của Không, hai hệ quả sau
đây được phát hiện và đo lường được:

1- Hằng số di động: Không lượng tử tự nó thì vô hướng tĩnh lặng,


nhưng khi có vật chất vào (mà làm sao chẳng có vật chất được vì
trong Không tràn đầy năng lượng và trường ảo?) thì lập tức bị phân
cực, do đó hằng số tương tác của các trường không còn hằng nữa
mà thay đổi với năng lượng. Tính chất này mang tên hằng số di
động, cách tính toán sự biến đổi của hằng số dựa vào lý thuyết
trường lượng tử qua những đóng góp của các cặp ảo. Khi năng
lượng thay đổi từ 1 đến 100 GeV, hằng số tương tác điện từ αem
tăng lên từ 1/137 đến 1/129, trong khi hằng số tương tác mạnh αs
của quark lại giảm đi từ 0.4 xuống 0.12. Một cách định tính thôi,

142
Một quan điểm về Triết học

ta hiểu sơ lược tại sao trong điện động lực học lượng tử, hằng số
αem lại tăng lên khi ta thám dò nó ở chiều càng sâu thẳm. Muốn
gần electron bao nhiêu (x nhỏ) để đo lường tính chất của nó thì ta
cần nhiều xung lượng (k lớn) bấy nhiêu, theo nguyên lý bất định
2‫׀‬k‫׀׀‬x‫ ~ ׀‬ћ. Vì trong Không có muôn vàn cặp ảo positron-electron,
những positron ảo này vì điện tích khác dấu với electron nên bị hút
lại gần làm thành hàng rào vây quanh electron thực mà ta muốn
quan sát, sự bao bọc đó làm cho chân không bị phân cực. Hằng số
tương tác điện từ tăng lên vì phải vượt qua cản trở của hàng rào
các cặp positron-electron ảo nên đo lường nó càng khó ở kích
thước càng sâu. Mặt khác, sắc động lực học lượng tử diễn tả quark
gắn chặt với nhau để cấu tạo nên các hạt nhân nguyên tử. Trái với
điện từ, hằng số tương tác mạnh lại giảm đi khi đo lường quark ở
chỗ sâu thẳm. Tính chất này gọi là sự tự do tiệm cận [8], hàm ý khi
năng lượng tăng vô hạn (tiệm cận) thì αs giảm xuống đến 0 (tương
tác ràng buộc hết rồi, quark được tự do). Tính toán nhọc nhằn
chứng minh được αs(E) → 0 khi E → ∞ là cả một kỳ công của ba
nhà vật lý lý thuyết [8], tính chất này đặt nền tảng cho các định luật
vận hành của quark. Các hằng số tương tác tăng (hay giảm) rất
khoan thai như hàm logE (hay 1/logE). Kết quả đo lường sự biến
đổi của hai hằng số điện động lực và sắc động lực đều được thực
nghiệm kiểm chứng nhiều lần. Tương tác của quark thực là kỳ lạ
trái ngược với điện từ, quan sát chúng ở xa (cần năng lượng nhỏ)
thì cực kỳ khó khăn vì αs rất lớn, càng gần sát chúng (cần năng
lượng lớn) thì chúng lại dễ dàng. Lý do là không như điện từ chỉ
143
Một quan điểm về Triết học

có một photon, trong tương tác mạnh, ta còn có ba gluon gắn kết
tương tác với nhau mà đặc tính của chúng là hỗ trợ (chứ không cản
trở như cặp quark-phản quark) khi ta đo lường tính chất quark ở
chiều sâu thẳm. Trong khi lực điện tĩnh và trọng lực đều giảm đi
theo tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách r, tính chất tự do
tiệm cận làm cho lực của quark tăng với r khiến quark ở nhiệt độ
thấp (năng lượng nhỏ) bị giam hãm trong proton và neutron, kéo
được chúng ra ngoài không nổi vì lực ràng buộc quark mạnh lên
khi kéo chúng xa nhau.

Mô tả nổi ba lực cơ bản (mạnh và điện - yếu) một cách vô cùng


chính xác bằng trường lượng tử, tóm tắt trong lý thuyết chuẩn, là
một thành công kỳ diệu với không dưới hai chục nhà vật lý hạt đoạt
giải Nobel trong ba mươi năm gần đây! Biết bao nhiêu tiên đoán
của lý thuyết này đều vững vàng vượt qua tất cả các trắc nghiệm,
đặc biệt khối lượng của quark top được ước tính chính xác trước
khi thực nghiệm phát hiện ra năm 1995. Mô hình chuẩn có nghĩa
là mọi phát triển sau này phải dùng nó làm nòng cốt để dựa vào mà
cải tiến (thí dụ như định luật vạn vật hấp dẫn của Newton là mô
hình chuẩn của trọng trường, rồi sau thuyết tương đối rộng của
Einstein dựa vào đó mà cải tiến). Trong bốn lực cơ bản, chỉ còn cái
cuối cùng là luật cổ điển hấp dẫn (thuyết tương đối rộng) hãy còn
chưa hòa nhịp tương thích nổi với lượng tử, nhưng biết đâu với lý
thuyết siêu dây/ lý thuyết M [9]?

144
Một quan điểm về Triết học

2- Hiệu ứng Casimir [10]. Trong một chân không kín rỗng, không
ánh sáng không chút vật chất, ta đặt hai phiến gương mỏng song
song. Mặc dầu năng lượng của Không giữa hai phiến và ngoài hai
phiến đều phân kỳ như ta biết, nhưng năng lượng của Không ở giữa
nhỏ hơn ở ngoài hai phiến, sự khác biệt hữu hạn đó gây nên một
áp suất làm chúng hút lẫn nhau. Ðó là lực Casimir, một đặc trưng
của Không lượng tử. Lực hút đó ông tính được ra bằng 𝐹𝑐 =
(πℎ𝑐 /120) (L2/d4) với L2 là diện tích của gương và d khoảng cách
giữa hai phiến. Nguồn gốc lượng tử của 𝐹𝑐 được biểu hiện rõ ràng
qua h (hằng số Planck) trong công thức trên. Ở khoảng cách d ≈ na
nô-mét trong công nghệ tương lai, lực này có thể đóng vai trò quan
trọng. Các phòng thực nghiệm ở Riverside (California), Padova,
Stockholm đã đo 𝐹𝑐 với độ sai biệt khoảng 1% so với tính toán.
Các nhà vật lý trong nhóm Kastler-Brossel của trường Cao đẳng
sư phạm Paris [11] đang xúc tiến việc tính toán đo lường với chủ
đích tăng độ chính xác lên nhiều lần hơn nữa
(http://www.spectro.jussieu.fr/Vacuum/). Trong hư không (của vật
lý ứng dụng/công nghệ) tất cả đều vắng bóng, chẳng có điện từ,
ánh sáng, vật chất, khối lượng, điện tích, sắc tích... chi cả, kỳ lạ
thay đột khởi một lực mà gốc nguồn rút tỉa từ năng lượng cực tiểu
(nhưng vô hạn) của chân không lượng tử!

3- Liên quan đến thiên văn vật lý, câu hỏi cực kỳ quan trọng về vai
trò của Không trong sự giãn nở Vũ trụ được đặt ra nhưng chưa biết
giải đáp ra sao, báo hiệu một điều mới lạ đang đón chờ chúng ta ở

145
Một quan điểm về Triết học

chân trời. Thực vậy, năng lượng vô hạn của Không (còn gọi là tai
họa chân không) phản ánh sự tương phản mâu thuẫn căn bản giữa
hai trụ cột của vật lý hiện đại: Thuyết lượng tử của thế giới vi mô
và Thuyết tương đối rộng của thế giới vĩ mô. Thuyết này diễn tả
luật hấp dẫn của trọng trường là do sự cong xoắn của không-thời
gian làm mọi vật rơi lại gần nhau chứ chẳng có lực nào hút chúng
cả, mà cái cấu trúc cong xoắn này là do vật chất tạo nên. Những
kết quả đo lường gia tốc dãn nở của Vũ trụ cần đến lực phản hấp
dẫn (lực đẩy xa thay vì hút vào của lực hấp dẫn) để chống lại sự co
rút của vũ trụ bởi trọng trường. Lực phản hấp dẫn này (liên quan
đến câu chuyện hằng số vũ trụ học trong phương trình Einstein về
thuyết tương đối rộng) có thể xuất phát bởi một loại vật chất không
bức xạ, chỉ tác động lên cách vận hành và dãn nở của vũ trụ, khác
lạ với vật chất bình thường của những thiên hà sáng ngời mà ta
quan sát được hàng ngày. Các nhà thiên văn gọi cái vật chất khác
lạ này là vật tối, mang năng lượng tối mà bản chất chưa được xác
định. Nhưng quan trọng hơn cả, mật độ năng lượng cực kỳ lớn của
Không mà ta đã ước tính ở trên vượt xa quá nhiều năng lượng cần
thiết để giải thích gia tốc dãn nở của vũ trụ mà các nhà thiên văn
đo lường. Về mặt cơ bản, cái tai họa chân không này là nỗi trăn trở
hàng đầu của các nhà vật lý đương đại, nhưng đầy lý thú và thách
thức cho thế hệ tương lai. Lý thuyết siêu dây/lý thuyết M9 (với
không gian mười chiều, bảy chiều quá nhỏ lại bị cuốn tròn khiến
ta khó nhận thức được) có thể cho ta chìa khóa trả lời không? Trong
không gian nhiều hơn ba chiều, lực hấp dẫn giảm đi theo tỉ lệ
146
Một quan điểm về Triết học

nghịch với bình phương khoảng cách r sẽ không còn chính xác nữa,
và việc kiểm chứng bằng thực nghiệm sự sai biệt với luật Newton
ở kích thước r ≈ milimet đang là một đề tài vật lý sôi nổi. Cần biết
thêm rằng lý thuyết M (M tượng trưng Mẹ, Màng, Mật mã, Ma
trận tùy hứng mỗi người) cũng chưa biết giải quyết cái tai họa chân
không ra sao. Phải chăng cũng như Planck và Einstein trước thời
Lượng tử và Tương đối, ngày nay có lẽ còn cái gì đang thiếu sót
trong cách nhận thức các hiện tượng thiên nhiên của Con Người?

Gửi bạn thay lời kết:

Hơn trăm năm trước đây, ở Âu châu có nhiều nhà khoa học khá bi
quan, cho rằng các đề tài nghiên cứu cơ bản trong vật lý gần như
cạn kiệt. Như Von Jolly (1809 – 1884) - giáo sư vật lý ở đại học
Berlin - đã khuyên cậu sinh viên trẻ Planck, mới đậu cử nhân xong
muốn học thêm, nên đi vào đường khác nhiều triển vọng hơn, đừng
nghiên cứu về vật lý lý thuyết làm gì vì mọi điều căn bản đã được
khám phá hết cả rồi, chỉ còn vài điểm phụ chẳng quan trọng gì mà
xây nền đắp móng. Lại thêm Lord Kelvin (1824 – 1907 – nhà vật
lý người Scotland), người của nhiệt độ tuyệt đối, với câu tuyên bố
năm 1892 nổi tiếng: “Vật lý đã hoàn chỉnh cả rồi về mặt căn bản,
cái mà ta còn có thể đóng góp chỉ là xác định thêm vài thập phân
sau dấu phẩy cho các đo lường, tính toán mà thôi”. Ngay sau đó

147
Một quan điểm về Triết học

ông thêm: “Tuy nhiên còn có hai vấn đề nho nhỏ nhưng sớm muộn
chúng sẽ được giải quyết, dẫu sao lòng tin của chúng ta về sự hoàn
tất của Vật lý không hề lay chuyển...” [12]. Hai tiểu tiết ông nêu
lên là: Thứ nhất, hai nhà vật lý Michelson (1852 – 1931 – người
Mỹ gốc Phổ) và Morley (1838 – 1923 – người Mỹ) chẳng tìm thấy
chất liệu ê-te tràn ngập vũ trụ để truyền đi dao động sóng điện từ
(cũng như sóng nước di chuyển được là vì có nước, sóng âm thanh
truyền đi là vì có không khí, vậy chắc phải có một chất liệu gì tạm
gọi là ê-te để chuyên chở sóng điện từ, chứ không làm sao chúng
truyền đi được?). Thứ hai, các đo lường ngày càng chính xác về
cường độ bức xạ nhiệt của vật đen [13] không phù hợp với công
thức Wien. Sau đó Lord Rayleigh và Jeans cải thiện công thức trên
được một phần nhưng lại mang nghịch lý là tổng năng lượng phát
ra tăng lên vô hạn!

Hai vấn đề mà Lord Kelvin tuy khá tinh để nhận ra, nhưng tưởng
là thứ yếu, ngờ đâu lại hệ trọng vô chừng. Trong đêm tối mông
lung ràng buộc bởi định kiến siêu hình, đó là hai ngôi sao rọi sáng
cho vật lý vượt trùng dương khai phá những chân trời mới lạ. Vì
giải thích nổi việc thứ nhất (ê te) chính là thuyết tương đối hẹp và
việc thứ nhì (vật đen) chính là thuyết lượng tử!

Rõ ràng trăm năm sau năm 1905, vật lý hãy còn biết bao câu hỏi
từ cơ bản (tương phản giữa lượng tử với tương đối rộng diễn tả qua
tai họa chân không, năng lượng và vật chất tối, không gian nhiều
chiều...) đến ứng dụng (khoa học công nghệ nano, thông tin học

148
Một quan điểm về Triết học

lượng tử, sản xuất và tiết kiệm năng lượng...) chưa biết trả lời ra
sao và đang trông chờ những lời giải đáp bởi các thế hệ trẻ mới
lên, trong cảnh hài hòa giữa người với người và với môi trường
thiên nhiên.

Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà cuộc hội thảo về “Vật lý hiện đại
với văn hóa và phát triển’’ có sự tham gia tích cực của trường Ðại
học đang thành lập mang tên Phan Châu Trinh. Nhà sĩ phu có tầm
nhìn vượt xa thời đại là người đầu tiên ở nước ta chủ trương dân
quyền, chống bạo động, dấy lên phong trào duy tân “chấn dân khí,
khai dân trí, hậu dân sinh’’. Vì ông thấy dân trí cùng tư duy khoa
học của người mình còn quá thấp, nên trước hết cần ‘‘tự lực khai
hóa’’ đã, rồi mới từng bước phục hồi chủ quyền quốc gia. Trăm
năm nhìn lại, những lời Tây Hồ hằng nhắc nhở như vẫn còn sang
sảng đâu đây [14] để chúng ta cùng nhau suy ngẫm.

149
Một quan điểm về Triết học

Sơ lược vài thuật ngữ:

Lượng tử (quantum): Ðơn vị vật lý nhỏ nhất mà một đại lượng


(quantity) nào đó bị phân hoạch thành từng phần riêng lẻ. Thí dụ
lượng tử của năng lượng (energy) là đơn vị hν. Vật lý lượng tử diễn
tả sự vận hành của thế giới vi mô như nguyên tử, hạt nhân của
chúng và các hạt cơ bản như quark, electron, neutrino, photon.

Trường (field): Môi trường vật chất trong đó các lực (force) truyền
đi tác dụng của chúng. Trường được mô tả bởi một hàm số F(x,t)
tại mỗi điểm trong không gian x và thời gian t, phản ánh cường độ
(intensity) và hướng (direction) của lực tại bất cứ một điểm không-
thời gian (space-time) x, t nào đó. Trọng trường (mô tả lực hấp
dẫn), điện từ trường (lực điện từ) là hai thí dụ khá quen thuộc.
Photon là lượng tử của điện từ trường. Ánh sáng mà ta nhìn thấy
chỉ là một dạng của điện từ trường do Maxwell suy tính ra và Hertz
minh chứng bằng thực nghiệm.

Lưỡng tính sóng hạt (wave-particle duality): đặc điểm cơ bản của
thế giới vi mô nói rằng các vật đều thể hiện dưới hai tính chất vừa
sóng vừa hạt. Photon và electron là hai thí dụ thường xuyên mang
lưỡng tính sóng hạt. Sóng được diễn tả bởi tần số (frequency) của
sự dao động tuần hoàn (periodic oscillation) trong cả không gian
lẫn thời gian. Tính chất sóng của điện từ thì quá quen thuộc từ thế
kỷ 17 (Huygens (1629 – 1695 – nhà vật lý người Hà Lan), Young
(1773 – 1829 – nhà vật lý người Anh)) với hiện tượng giao thoa
ánh sáng, còn tính chất hạt photon của điện từ được minh chứng
150
Một quan điểm về Triết học

qua hiệu ứng điện quang (photoelectric) bởi Einstein. Giải Nobel
Vật lý năm 1921 tặng thưởng ông vì công trình này, chứ không
phải vì lý thuyết tương đối hẹp hay rộng.

Nguyên lý bất định (undetermination principle): Nguyên lý cơ


bản của vật lý lượng tử do Heisenberg phát hiện ra, nói rằng có
những đặc trưng của thế giới vi mô, theo đó vị trí và vận tốc (hay
đúng ra xung lượng momentum) của hạt chẳng hạn không thể được
xác định đồng thời. Những khía cạnh bất định như thế sẽ càng trở
nên nghiêm trọng khi các thang khoảng cách và thời gian càng nhỏ.
Ðiều này mang tới hiệu quả là thế giới vi mô luôn luôn dao động
sôi sục với những thăng giáng lượng tử (quantum fluctuation).

Vô Hướng (scalar): Trong toán hình học, một vài đối tượng
nghiên cứu tiêu biểu là vô hướng (scalar), vec-tơ (vector), ten-sơ
(tensor), spin-nơ (spinor). Vật giản dị nhất là vật vô hướng, sau đó
là vec-tơ có ba thành phần trong không gian ba chiều (lực trong cơ
học thường được diễn tả bằng vec-tơ).

Trung hòa (neutral): không mang điện tích, sắc tích chi cả. Hoặc
nếu là tập hợp của nhiều thành phần mang điện hay sắc tích thì
chúng triệt tiêu nhau để trung bình tổng hợp vẫn trung hòa.

Spin: khám phá bởi Dirac là một đặc trưng của vật lý lượng tử khi
hòa nhịp với thuyết tương đối hẹp. Spin miêu tả việc tự quay vòng
của hạt vi mô cơ bản (như Trái Đất tự quay chung quanh trục Bắc
Nam của nó, nhưng spin không phải hoàn toàn như thế mà tinh tế

151
Một quan điểm về Triết học

hơn). Những hạt cơ bản như electron, neutrino, quark có spin bằng
h/4π = ћ/2 nghĩa là hạt phải quay hai vòng (tức 4π hay 720o) mới
quay lại vị trí ban đầu, điều không tưởng trong cơ học cổ điển.
Những hạt có spin ћ/2 được gọi chung là fermion. Những hạt mà
spin là một con số nguyên của ћ (như 0ћ, 1ћ, 2ћ) gọi là boson. Dĩ
nhiên những gì vô hướng phải không quay và mang spin 0ћ. Những
boson với spin 1ћ là: photon trong tương tác điện từ (điện động
lực học lượng tử, quantum electrodynamics, QED), tám gluon
trong tương tác mạnh (sắc động lực học lượng tử, quantum
chromodynamics, QCD), và ba boson yếu W±, Z trong tương tác
yếu (điện-yếu động lực học lượng tử, quantum electroweak,
QEW).

Tương đối hẹp (special relativity): đó là lý thuyết cơ học Einstein


thay thế cho cơ học Newton cổ điển. Với Newton, không gian và
thời gian là những hệ thống quy chiếu tuyệt đối, không chút liên
quan với nhau. Theo trực giác thông thường bắt rễ từ cơ học cổ
điển, nếu ta đuổi theo ánh sáng với vận tốc c của nó, ta sẽ thấy ánh
sáng bất động, dùng phép cộng trừ vận tốc theo Galileo. Tuy nhiên
theo thuyết điện từ Maxwell, ánh sáng luôn luôn chuyển động với
vận tốc c cố định trong bất kỳ hệ thống quy chiếu nào (đứng yên
hay di chuyển). Không ai có thể nắm chặt ánh sáng trong tay dù
chạy theo nó nhanh đến mấy. Sự đối nghịch nói trên giữa cơ học
cổ điển với điện từ được Einstein giải thích bằng thuyết tương đối
hẹp, mà công thức E = mc2 là hậu quả kỳ diệu nhất.

152
Một quan điểm về Triết học

Theo Einstein, không gian và thời gian chẳng còn là hai thực thể
độc lập như con người thường cảm nhận thô thiển trong đời sống
hàng ngày, chúng liên đới quyện sát nhau, thời gian thay đổi tùy
theo vị trí trong không gian và vận tốc của người quan sát, ngược
lại cũng vậy với không gian. Cụ thể là đối với người quan sát đứng
yên, thời gian dãn nở ra và không gian co cụm lại trên một con tàu
di chuyển. Ta không cảm thấy thế chỉ vì chúng ta, hoả tiễn, máy
bay đều chuyển động với vận tốc quá nhỏ so với vận tốc ánh sáng.

Tương đối rộng (general relativity): định luật hấp dẫn theo đó mọi
vật hút nhau là do chúng nằm trong một không gian cong xoắn nên
rơi vào nhau. Cấu trúc cong xoắn của không gian vũ trụ là do vật
chất tạo nên.

Chú thích:

[1] Chép mượn nhan đề Hợp âm trong vùng sân khuất, tập truyện
ngắn bàng bạc thi tính của nhà vật lý và văn nữ Mai Ninh, nhà xuất
bản Thời mới, Toronto (2000).

[2] Thực ra có mười hai hạt cơ bản chia ra làm ba họ, mỗi họ bốn
hạt. Họ thứ nhì (hai quark c (charm), s (strange) và hai lepton μ,
νμ) và họ thứ ba (hai quark t (top), b (bottom) và hai lepton τ, ντ)
đều có khối lượng lớn, thời gian sống lại vô cùng ngắn ngủi vì bị
phân rã bởi tương tác yếu β (xem phụ chú ngay dưới), thành ra chỉ
còn bốn hạt (hai quark u, d và hai lepton: electron, neutrino) bền
vững để tạo thành vật chất như ta thấy.

153
Một quan điểm về Triết học

[3] Các hiện tượng trong thiên nhiên vận hành qua bốn lực cơ bản,
vâng chỉ có bốn thôi, đó là trọng lực, điện từ, tương tác ‘yếu’ chủ
trì sự phân rã β (quark d → quark u + electron + phản hạt neutrino)
của các hạt nhân nguyên tử, cội nguồn của sự tổng hợp nhiệt hạch
trong Mặt Trời, tinh tú; và sau hết là tương tác ‘mạnh’ (sắc động
lực học lượng tử) của quark u, d gắn bó chặt chẽ trong proton,
neutron làm cho vật chất bền vững. Hai tương tác mạnh và yếu chỉ
vận hành trong thế giới vi mô. Hơn nữa hai lực điện từ và yếu có
rất nhiều điểm đồng quy nên thực chất chỉ là hai dạng của một
tương tác duy nhất gọi là điện-yếu (electroweak interaction). Lý
thuyết chuẩn thống nhất và diễn tả chính xác bản tính của ba tương
tác lượng tử (mạnh, điện-yếu) là một thành công tuyệt vời của vật
lý hạt.

[4] Những véc-tơ như k, x, được in đậm, và |k|, |x| là chiều dài của
k, x.

[5] Ðâu đây Một cõi đi về với Trịnh Công Sơn.

[6] Xem Le Vide, Univers du tout et du rien, Revue de l’Université


de Bruxelles, Editions Complexe (1998), với các bài của R.J.
Adler, M. Bitbol, H.B. Casimir, N. Deruelle, E. Gunzig và S.
Diner, J.W. van Holden, C. Isham, M. Lachièze-Rey, P. Marage,
R. Mills, M. Paty, I. Prigogine và T. Petrosky, C. Schiller.

[7] Có cái gì không quá xa lạ với Giáo lý duyên khởi của đạo Phật,
với Sắc Không trong Bát nhã tâm kinh? Xem M. Bitbol trong Le

154
Một quan điểm về Triết học

Vide, Univers du tout et du rien đã dẫn, và Trịnh Xuân Thuận trong


Science et Bouddhisme: A la croisée des chemins
http://chimviet.free.fr

[8] Giải Nobel vật lý 2004 tặng thưởng D. Gross, H. Politzer, F.


Wilczek đã khám phá ra tính chất tự do tiệm cận (asymptotic
freedom) của sắc động lực học lượng tử.

[9] Xem Giai điệu dây và bản giao hưởng Vũ trụ, Tia sáng của nhà
xuất bản Trẻ (2003) do Phạm Văn Thiều dịch theo cuốn The
Elegant Universe của Brian Greene, Vintage books (1999).

[10] Xem bài của H. B. Casimir và một số bài khác của R. J. Adler,
S. Diner trong Le Vide, Univers du tout et du rien đã dẫn. Hiệu
ứng này được trình bày trong P. W. Miloni, The quantum vacuum,
Academic Press (1994). Nhà vật lý Hà lan Casimir sau khi công
bố năm 1948 lực mang tên ông, đã giữ chức vụ tổng giám đốc
nghiên cứu đại tập đoàn công kỹ nghệ quốc tế Philips.

[11] Tập hợp nghiên cứu giảng dạy đại học uy tín hàng đầu nước
Pháp.

[12] Max Planck et les quanta, J. C. Boudenot et G. Cohen-


Tannoudji, Ellipses (2001).

[13] Vật đen là một lò kín mà thành lò hấp thụ hết các bức xạ.
Nung nóng lò lên ở nhiệt độ T và đục một lỗ nhỏ trên thành lò, ta
nghiên cứu tính chất của ánh sáng phát ra. Sự phân phối (theo tần
số) của cường độ ánh sáng chỉ phụ thuộc vào T thôi chứ không vào
155
Một quan điểm về Triết học

bất cứ chất liệu nào ở trong lò, chứng tỏ bức xạ chỉ phụ thuộc vào
sự dao động của các thành phần cơ bản chung cho các chất liệu.

[14] Trích phần Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX, trang 290 trong sách
Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa, Vĩnh Sính, nhà xuất bản
Văn Nghệ (2001). Theo Yoshikawa Yasuhisa thuyết trình trong
cuộc Hội thảo về giao lưu văn hóa giữa Pháp với bốn nước Viễn
đông (Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam) tại Thư
viện quốc gia François Mitterand (2004), người Nhật thời Minh
Trị Thiên Hoàng vì ý thức được khoảng cách quá xa về tư duy khoa
học của họ so với Âu châu nên mấy cuốn sách được họ chuyển ngữ
trước tiên là của Jules Verne về khoa học viễn tưởng, rồi sau mãi
mới đến khoa học nhân văn, triết lý, xã hội với Jean-Jacques
Rousseau, Victor Hugo, Emile Zola…

156
Một quan điểm về Triết học

III, SINH LÝ THẦN KINH CẤP CAO VÀ TRÍ TUỆ


NHÂN TẠO (AI)

Phần này ngoài việc cung cấp kiến thức về cách chúng ta nhận thức
và phản ứng lại với các kích thích ra, nó còn giải quyết một vấn đề
rất quan trọng đó là lý thuyết về “linh hồn”.

Nếu linh hồn là có thật thì nó xuất hiện ở đâu, và từ khi nào thì linh
hồn xuất hiện, nguyên nhân khiến nó xuất hiện là gì?

Nếu như các cơ quan của não bộ có thể tự nhận thức (tư duy), thì
đâu cần tới linh hồn, tức là linh hồn sinh ra để làm gì? Ngược lại
nếu linh hồn giúp chúng ta nhận thức thế giới, thì não bộ con người
đâu cần phức tạp đến thế?

Khái niệm về linh hồn liệu có thể giải quyết các vấn đề về bệnh lý
thần kinh. Ví dụ: Mất trí nhớ, tay ảo hay chân ảo, bệnh Parkinson,
hay đơn giản là người có nhận thức thấp (có linh hồn nào bị điên
không?).

Mọi người hãy đọc và tự tìm câu trả lời cho mình.

157
Một quan điểm về Triết học

SINH LÝ THẦN KINH CẤP CAO

Theo Pavlov, hoạt động thần kinh cấp cao là hoạt động của hệ thần
kinh trung ương nhằm đảm bảo cho cơ thể thích ứng được với
những biến động của môi trường sống hay đảm bảo được mối quan
hệ phức tạp giữa cơ thể với thế giới bên ngoài.

Hoạt động thần kinh cấp cao bao gồm ba phần chính:

- Phản xạ
- Ức chế phản xạ
- Ghi nhớ

I) PHẢN XẠ

Phản xạ là phản ứng của cơ thể đối với những kích thích của môi
trường bên ngoài cũng như bên trong cơ thể.

Năm thành phần của cung phản xạ:

+ Bộ phận cảm thụ (receptor).

+ Dây thần kinh hướng tâm (dây cảm giác).

+ Trung tâm phản xạ (thần kinh trung ương).

+ Dây thần kinh ly tâm (dây vận động).

+ Bộ phận đáp ứng (cơ, gân…)

158
Một quan điểm về Triết học

Phản xạ được nhà khoa học Pavlov (cha đẻ của sinh lý thần kinh
cấp cao) chia ra làm hai loại:

+ Phản xạ không điều kiện

+ Phản xạ có điều kiện

1. Phản xạ không điều kiện (PXKĐK)

Là loại phản xạ có cung phản xạ cố định, có tính bản năng, tồn tại
vĩnh viễn suốt đời và có khả năng di truyền sang đời sau. Khi có
một kích thích nhất định tác động lên một bộ phận cảm thụ nhất
định sẽ gây một phản ứng nhất định của cơ thể, không cần thêm
một điều kiện nào khác.

Phản xạ không điều kiện phụ thuộc vào tính chất của tác nhân kích
thích và bộ phận nhận cảm, ví dụ: Ánh sáng chiếu vào mắt gây co
đồng tử nhưng tiếng động không gây co đồng tử, trong khi đó chiếu
ánh sáng vào da không gây đáp ứng gì nhưng chạm tay vào lửa thì
tay rụt lại.

Phản xạ không điều kiện là phản xạ cơ bản, nó giống một chương


trình đã được cài đặt sẵn để phản ứng với một số kích thích từ bên
ngoài, (hoặc tự thân sinh vật vận động) trong hệ thần kinh của sinh
vật. Không có PXKĐK sinh vật không thể tồn tại, bởi sinh vật
không thể phản ứng lại với các kích thích từ môi trường. Các phản
xạ phức tạp hơn đều phải dựa trên phản xạ không điều kiện này.

159
Một quan điểm về Triết học

Sau này nếu ai có ý định viết một chương trình trí tuệ nhân tạo
(AI), thì cũng phải viết một chương trình phản xạ không điều kiện
cho (AI) của mình, đây là điều không thể tránh khỏi.

2) Phản xạ có điều kiện (PXCĐK)

Phản xạ có điều kiện không phải là phản xạ bẩm sinh đã có, mà nó


được hình thành trong quá trình sống của động vật. Muốn có
PXCĐK thì phải dựa trên tác nhân củng cố là phản xạ không điều
kiện, và PXCĐK thường không bền, cần phải củng cố liên tục.

Ví dụ: Pavlov đã làm thí nghiệm: trước khi cho chó ăn thì sẽ rung
chuông, sau một thời gian làm như vậy. Chỉ cần rung chuông là
con chó đã tiết nước bọt. Đây là một phản xạ có điều kiện. Và nó
được hình thành dựa trên ba điều kiện sau:

1) Nó phải dựa trên tiền đề là phản xạ không điều kiện,


khi ăn chó sẽ tự tiết nước bọt, đây là phản xạ bản năng
(không điều kiện).
2) Phản xạ dễ hình thành khi con chó có nhu cầu ăn (đang
đói), thực hiện thí nghiệm này khi con chó không có nhu
cầu ăn (đang no) sẽ rất khó hình thành phản xạ.
3) Muốn gây được phản xạ có điều kiện phải có sự kết hợp
của hai tác nhân kích thích không điều kiện và có điều kiện
và tác nhân có điều kiện bao giờ cũng đi trước và trình tự

160
Một quan điểm về Triết học

này được lặp đi lặp lại nhiều lần. Phải rung chuông trước
khi cho chó ăn.

2.1 Cơ chế thành lập phản xạ có điều kiện

- Mỗi bộ phận cảm thụ đều có điểm đại diện trên vỏ não, bộ phận
cảm thụ thị giác có điểm đại diện ở thuỳ chẩm, bộ phận cảm thụ
đau nóng có những điểm đại diện ở thuỳ đỉnh...

161
Một quan điểm về Triết học

- Các quá trình hưng phấn tại mỗi điểm trên vỏ não đều lan tỏa ra.
Khi hai điểm đại diện cùng hưng phấn, sự lan tỏa sẽ gặp nhau và
tạo thành đường liên hệ tạm thời. Điểm hưng phấn mạnh sẽ thu hút
điểm hưng phấn yếu về phía mình.

Lập lại nhiều lần, đường liên hệ sẽ được củng cố. Cuối cùng hưng
phấn ở điểm này có thể dẫn đến hưng phấn ở điểm kia.

Như vậy, phản xạ có điều kiện được xây dựng trên cơ sở một
đường liên hệ tạm thời giữa hai điểm hưng phấn trên vỏ não do
một kích thích có điều kiện và một kích thích không điều kiện gây
ra. Các tính chất của đường liên hệ tạm thời làm một đường chức
năng, tồn tại tạm thời trên vỏ não và chuyển động hưng phấn theo
hai chiều.

2.2 Phản xạ có điều kiện cao cấp

Sau khi hình thành PXCĐK rung chuông chó sẽ tự tiết nước bọt
(PXCĐK cấp 1), chúng ta có thể hình thành cung PXCĐK cao hơn
cho chó. Ví dụ: Bật đèn => rung chuông => cho chó ăn. Sau khi
cung phản xạ này được hình thành thì được gọi là PXCĐK cấp 2.

Ở người có thể hình thành PXCĐK đến cấp 6,7. Ngôn ngữ là một
dạng PXCĐK cấp cao.

162
Một quan điểm về Triết học

II) ỨC CHẾ

Ức chế là quá trình ngược với phản xạ, ức chế làm giảm cường độ
hoặc xóa bỏ những PXCĐK. Quá trình ức chế giúp cơ thể phân
biệt các kích thích, chọn lọc các kích thích, loại bỏ các kích thích
không cần thiết hoặc có hại cho đời sống.

Ức chế cũng được chia làm hai loại:

+ Ức chế không điều kiện (UCKĐK)

+ Ức chế có điều kiện (UCCĐK)

1) Ức chế không điều kiện (UCKĐK)

Ức chế không điều kiện (UCKĐK) là những ức chế có tính chất


bẩm sinh, bao gồm:

- Ức chế ngoài (phản xạ “cái gì thế?”): Khi có một kích thích


mới và lạ, tác động cùng một lúc với kích thích gây PXCĐK thì
PXCĐK đó không diễn ra được. Ví dụ: Khi rung chuông để cho
chó ăn, nhưng đột ngột có âm thanh lớn tự nhiên xuất hiện phía
sau con chó. Con chó sẽ ngừng tiết nước bọt, ngay lập tức hướng
tới âm thanh kia để tìm hiểu xem âm thanh đó là gì!

- Ức chế trên giới hạn: Kích thích có điều kiện mà vượt quá
một cường độ nhất định thì PXCĐK không xuất hiện. Ví dụ: Rung

163
Một quan điểm về Triết học

chuông với âm thanh quá lớn khiến con chó khó chịu, nó cũng sẽ
không tiết nước bọt.

2) Ức chế có điều kiện

Ức chế có điều kiện là những ức chế được hình thành trong đời
sống, bao gồm:

- Ức chế dập tắt: Kích thích có điều kiện mà không được


củng cố bằng kích thích không điều kiện sẽ mất dần tác dụng và
không gây được PXCĐK nữa. Ví dụ: Rung chuông mà không cho
chó ăn, lâu dần rung chuông chó sẽ không tiết nước bọt nữa.

- Ức chế phân biệt: Khi hai kích thích có điều kiện gần giống
nhau nhưng chỉ một kích thích được củng cố thì lâu dần chỉ kích
thích nào được củng cố mới gây được phản xạ.

- Ức chế làm chậm phản xạ: Kích thích có điều kiện và kích
thích không điều kiện cách xa nhau một thời gian nhất định thì
PXCĐK cũng chậm lại đúng thời gian ấy.

- Ức chế có điều kiện: Nếu cho kèm theo kích thích có điều
kiện một kích thích thứ hai và mỗi lần như thế đều không củng cố
bằng kích thích không điều kiện thì lâu dần kích thích thứ hai sẽ
trở thành tác nhân gây ức chế có điều kiện. Ví dụ: Khi bật đèn, sau
đó rung chuông thì sẽ không cho chó ăn, lâu dần chó thấy ánh đèn
sáng mà rung chuông chó cũng sẽ không tiết nước bọt nữa. Ánh
đèn trở thành tác nhân gây ức chế.

164
Một quan điểm về Triết học

3) Ý nghĩa của quá trình ức chế

Quá trình ức chế là một quá trình tích cực giúp cơ thể phân biệt
các kích thích, chọn lọc các kích thích, loại bỏ các kích thích không
cần thiết hoặc có hại cho đời sống, do đó giảm những hoạt động
không cần thiết của vỏ não. Như vậy, quá trình ức chế góp phần
làm thay đổi phản ứng của cơ thể cho phù hợp với điều kiện luôn
biến đổi của môi trường sống.

III) CÁC QUY LUẬT HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CAO CẤP

Trong hoạt động thần kinh cao cấp có hai quá trình cơ bản là hưng
phấn và ức chế. Sự vận chuyển của các quá trình hưng phấn và ức
chế diễn ra theo một số quy luật.

1) Qui luật tương quan giữa cường độ kích thích và cường độ


đáp ứng

- Cường độ kích thích càng mạnh thì cường độ đáp ứng càng
mạnh và ngược lại.

Lưu ý: Nếu cường độ kích thích dưới ngưỡng sẽ không có đáp


ứng, nếu cường độ kích thích quá cao sẽ gây ức chế trên giới hạn.

2) Qui luật khuếch tán và tập trung

165
Một quan điểm về Triết học

- Khuếch tán: Các kích thích gây hưng phấn và ức chế đều
có điểm đại diện trên vỏ não. Từ điểm này các quá trình hưng phấn
và ức chế có xu hướng lan tỏa ra xung quanh và càng xa càng càng
yếu dần.

- Tập trung: Sau khi khuếch tán, các quá trình hưng phấn và
ức chế sẽ tập trung trở lại điểm xuất phát và cuối cùng biến mất.

3) Qui luật cảm ứng

- Cảm ứng trong không gian: Khi hưng phấn xuất hiện tại
một điểm trên vỏ não thì các điểm quanh đó liền xuất hiện quá
trình ức chế và ngược lại.

- Cảm ứng trong thời gian: Khi hưng phấn xuất hiện tại một
điểm trên vỏ não thì ngay sau khi nó kết thúc ức chế sẽ xuất hiện
tại điểm đó và ngược lại.

4) Qui luật phân tích và tổng hợp

- Phân tích: Vỏ não có khả năng phân chia một kích thích
phức tạp thành những yếu tố đơn giản hơn để giúp ta nhận định
được các khía cạnh khác nhau của kích thích.

- Tổng hợp: Sau khi phân tích, vỏ não có khả năng tổng hợp
các kết luận, tìm ra ý nghĩa sinh học của kích thích để điều khiển
cơ thể đáp ứng lại các kích thích đó.

5) Qui luật động hình

166
Một quan điểm về Triết học

- Các quá trình hưng phấn và ức chế xuất hiện trên vỏ não
sau khi kết thúc đều để lại “dấu vết” ở vỏ não. Các phản xạ cũng
để lại “dấu vết”. Nhiều phản xạ liên tiếp diễn ra cũng để lại dấu vết
của trình tự diễn biến các phản xạ. Tuy nhiên “khuôn trình tự” đó
không cố định mà có tính chất động, có thể thay đổi được. Pavlov
gọi đó là định hình động học, viết tắt là động hình.

- Động hình chính là các thói quen trong đời sống. Nó góp
phần quyết định tạo ra nếp suy nghĩ, tác phong và phản ứng của
con người.

Ví dụ: Trong một dây chuyền sản xuất, công nhân làm công việc
theo thứ tự A=>B=>C=>D=>E. Lâu dần, chỉ cần người công nhân
làm việc A thì cơ thể người công nhân đó sẽ làm tiếp công việc
B,C,D,E một cách tuần tự, hết sức tự nhiên. Nó giống như một dây
chuyền phản ứng vậy, người ta gọi đó là quy luật động hình.

IV) MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CAO CẤP Ở LOÀI


NGƯỜI

Quá trình nhận thức ở vỏ não bao gồm:

1) Tiếp nhận thông tin từ ngoại biên

- Các vùng cảm giác ở vỏ não: Vùng cảm giác thân nằm ở
thùy đỉnh, vùng cảm giác nhìn nằm ở thùy chẩm, vùng cảm giác
167
Một quan điểm về Triết học

nghe nằm ở thùy thái dương. Mỗi vùng gồm 2 vùng nhỏ: vùng cấp
I (vùng sơ cấp) và vùng cấp II (vùng thứ cấp).

- Hoạt động:

+ Vùng cấp I: Nhận thông tin từ ngoại biên đưa về. Vùng
này có chức năng cho biết các đặc điểm của tín hiệu cảm giác.

+ Vùng cấp II: Nằm cạnh vùng cấp I và nhận thông tin từ
vùng cấp I. Vùng này có chức năng rút ra nghĩa của tín hiệu cảm
giác (nâng cấp nhận thức).

2) Tiếp tục nâng cấp nhận thức toàn diện hơn

Các vùng liên hợp ở vỏ não có vai trò tập hợp và phân tích
tín hiệu từ nhiều vùng của vỏ não và dưới vỏ.

* Một số vùng liên hợp của vỏ não:

- Vùng tọa độ thân thể: Nhận thông tin thị giác và cảm giác
thân, xử lí thông tin để tính toán tọa độ các chi, tọa độ thân mình
đang ở phương vị, cự ly nào.

- Vùng xử lí chữ viết: Xử lý hình ảnh nhìn do thuỳ chẩm thu


được từ trang sách đọc, rút ra ý nghĩa của chữ, rồi đưa sang vùng
Wernicke. Tổn thương vùng này thì vẫn hiểu tiếng nói nhưng đọc
thì không hiểu, trở lại thành mù chữ.

- Vùng tên gọi các vật: Lưu giữ tên gọi các vật.

168
Một quan điểm về Triết học

- Vùng liên hợp trước trán: Có vai trò đặt kế hoạch cho hành
động và hình thành tư duy. Vùng này có khả năng gọi các thông
tin (ký ức) từ các kho “nhớ”.

- Vùng lời nói Broca: Có chức năng tạo lời nói.

- Vùng liên hợp viền (vỏ não viền): Có chức năng hành vi,
động cơ và xúc cảm.

- Vùng nhận mặt: Nhận diện những người quen biết.

- Vùng nhận thức tổng hợp Wernicke: Là vùng nhận cảm


giác cuối cùng sau nhiều lần nâng cấp cho biết những nhận thức
tổng hợp, toàn diện về vật. Ở người sự nhận thức này còn được hỗ
trợ bởi các kiến thức thu được từ học tập cho biết thêm các thuộc
tính, bản chất của vật. Tổn thương vùng nay có một đời sống như
mất trí. Kích thích điện vùng này có thể tạo một tư duy phức tạp
như ảo thanh, ảo thị.

- Trao đổi thông tin giữa hai bán cầu: Thông qua hồi thể trai.

Trên thực tế não người có đến hàng trăm vùng, mỗi vùng đảm
nhiệm một chức năng khác nhau (một số chức năng do một số liên
hợp các vùng đảm nhiệm, chức năng ngôn ngữ chẳng hạn). Tại
mỗi vùng đó các tế bào thần kinh được sắp xếp chuyên biệt, sao
cho chúng ta có thể học tập, vận dụng chức năng mà vùng đó đảm
nhiệm một cách tốt nhất.

169
Một quan điểm về Triết học

Ví dụ: Vùng chịu trách nhiệm chỉ huy cử động của cơ thể, sẽ có
cấu trúc tế bào thần kinh được sắp xếp chuyên biệt (do gen quy
định), sao cho chúng ta có thể học tập cách điều khiển chân tay
mình một cách dễ dàng, thuần thục nhất bao gồm cầm, nắm, ném,
gắp, bò, đi, … nếu so với các vùng khác đảm nhiệm nhiệm vụ này.

Với số lượng lớn các vùng vỏ não được chuyên biệt như vậy có thể
đảm bảo cho hoạt động sống của con người.

3) Vậy thì về chi tiết chúng ta phản ứng với các kích thích thế
nào?

Như đã biết, vỏ não của con người được chia thành nhiều vùng,
mỗi vùng đảm nhiệm một chức năng khác nhau. Trong đó có cả
phần nhận diện những thứ liên quan đến bản năng của chúng ta,
mà đi cùng đó là các phản ứng không điều kiện.

170
Một quan điểm về Triết học

Ví dụ: Vùng đảm nhiệm chức năng dinh dưỡng có chức năng kiểm
duyệt xem thức ăn mà chúng ta ăn vào có lợi hay hại cho sức khỏe,
có những món ăn mà mới nếm chúng ta thấy ngon hoặc thấy buồn
nôn là do vùng này chịu trách nhiệm.

Có vùng đảm nhiệm sự an toàn cho chúng ta, có chức năng cảnh
báo những nguy cơ tiềm tàng, đã bao giờ bạn cảm thấy mình ghê
sợ điều gì chưa, là do vùng này làm đấy.

Giả sử một trường hợp thế này:

Bạn đang đứng ở một nơi vắng vẻ, tự nhiên có một âm thanh lớn
phát ra sau lưng bạn. Ngay lập tức bạn quay người lại nhìn, đây là
phản xạ dựa trên bản năng (không điều kiện) của bạn. Nó do vùng
chịu trách nhiệm an toàn cho bạn ra lệnh phản ứng như vậy, nó
muốn thu thập thêm thông tin về âm thanh lạ đó để đánh giá tình
hình.

Nếu nó đánh giá tình hình không an toàn, nó sẽ làm cho bạn có
cảm giác sợ hãi, để bạn di chuyển ra xa tác nhân gây tiếng động
đó, hoặc ít nhất là đưa cơ thể vào trạng thái phòng bị. Như vậy mỗi
một phản ứng với các kích thích sẽ do mỗi vùng hoặc liên hiệp các
vùng chịu trách nhiệm với chức năng tương ứng xử lí.

Câu hỏi được đặt ra tiếp theo là, não bộ có nhiều vùng hoạt động
độc lập như vậy thì làm thế nào cơ thể biết để ưu tiên cho hoạt
động của vùng nào trước.

171
Một quan điểm về Triết học

- Giả thuyết 1: Các vùng sẽ gửi xung điện về bộ xử lí trung


tâm. Để tiến hành so sánh, bộ xử lí trung tâm sẽ ưu tiên
xung điện có cường độ lớn hơn hành động trước. Tùy các
vùng mà cường độ xung điện được quy định khác nhau.
Ví dụ: Vùng chịu trách nhiệm dinh dưỡng cho cơ thể, sẽ
có dải xung điện trải dài từ thấp rồi cao dần lên, xung điện
gửi cao tức là cơ thể đang rất đói. Trong khi bộ phận chịu
trách nhiệm an toàn cho cơ thể sẽ gửi xung điện đến vùng
xử lí trung tâm thường sẽ là rất cao, để được ưu tiên hành
động, bởi vì tình huống rất cấp bách có thể đe dọa đến tính
mạng của bản thân.
- Giả thuyết 2: Các vùng sẽ tiết ra Hormone (hoặc hoạt chất)
lẫn vào máu để gửi đến các vùng khác.

Giả thuyết 2 này dựa trên cơ sở các thí nghiệm sau:

Đầu tiên thí nghiệm của Mc.Connel (1962 – nhà sinh học người
Mỹ) tiến hành trên con đỉa phiến (Planarium turbil) còn gọi là con
giun dẹp.

Ông chiếu sáng rồi cho điện giật gây phản ứng co cuộn con giun.
Sau một số lần củng cố ánh sáng bằng điện giật, thì phản xạ có
điều kiện được thành lập. Sau đó chỉ có ánh sáng con giun đã co
cuộn lại.

Ông cắt đôi con giun, hai nửa tái sinh vẫn đều có phản xạ có điều
kiện đó. Nghiền giun lấy dịch làm thức ăn cho con giun chưa bị
172
Một quan điểm về Triết học

điện giật, thì các con giun mới này đều có phản xạ có điều kiện co
cuộn với ánh sáng.

Vậy đường liên lạc tạm thời cơ sở của phản xạ có điều kiện là có
ở hai nửa con giun, hơn nữa có ở tất cả các mảnh nhỏ của dịch
nghiền con giun đầu tiên đã thành lập phản xạ có điều kiện co cuộn
với ánh sáng. Thí nghiệm này gợi ý rằng “đường liên lạc tạm thời”
cơ sở của phản xạ có điều kiện co cụm với ánh sáng, là một chất
gì đó tan trong khắp cơ thể con giun.

Ungar (1972) thực nghiệm trên chuột. Loài này có bản năng tự
nhiên là tránh sáng, thích lẩn vào chỗ tối (sợ mèo bắt, sợ người).
Ông cho chuột ở trong môi trường thường xuyên có ánh sáng, và
hễ cứ tắt đèn tối om là chuột bị điện giật. Sau một số lần “củng cố”
bóng tối bằng điện giật như vậy thì thành lập phản xạ có điều kiện
sợ tối ở chuột. Chiết xuất não con chuột đó thu được một peptit 15
gốc axit amin đó là scotophobia tức là chất sợ tối (chữ Hylạp scotos
là tối, phobos là sợ).

Những thí nghiệm này gợi ý cho ta là cơ sở vật chất của phản xạ
có điều kiện, có thể là một hoá chất, có thể ở não (chuột) hoặc ở
khắp cơ thể (giun dẹp), có thể có bản chất là peptid, hoặc là một
phân tử khác.

Giả thuyết 3: Các vùng sẽ liên lạc trực tiếp với nhau thông qua các
đường dẫn truyền thần kinh.

173
Một quan điểm về Triết học

Chúng ta sẽ minh họa việc sinh vật phản ứng với các kích thích
thông qua ví dụ sau:

Khi con chó nhìn thấy một vật lạ (A), thông tin về vật A sẽ thông
qua hai cơ quan mắt (hình ảnh) đến vùng thị giác, mũi (mùi) đến
vùng khứu giác nằm trong não bộ. Hai vùng này sẽ truyền tải thông
tin thành các xung điện chạy khắp vùng vỏ não, nhằm cung cấp
thông tin cho các vùng khác nhau của não bộ.

Nếu không có vùng nào nhận ra nó là thông tin gì, thì vùng chịu
trách nhiệm đảm bảo an toàn cho con vật sẽ được kích hoạt, bởi
vật A đó chưa được xác minh là gì, nó có thể là cái gì đó rất hữu
ích, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho con vật. Con chó sẽ
tiếp cận vật A với thái độ dò xét, thận trọng.

Sau quá trình dò xét thấy an toàn và ăn thử, vùng chịu trách nhiệm
dinh dưỡng xác định đây là thứ cần thiết cho cơ thể, nó sẽ lưu các
thông tin của vật A mà các bộ phận cảm nhận khác gửi đến, đồng
thời kích hoạt các thông tin đó ở dưới dạng các thông tin tích cực,
ví dụ: Hình ảnh vật đó sẽ bắt mắt hơn, mùi thơm, vị ngon…

Nếu sau này con chó gặp vật tương tự vật A, xung điện tín hiệu từ
các cơ quan cảm nhân được gửi đến vùng chịu trách nhiệm dinh
dưỡng, vùng này ngay lập tức gửi trả tín hiệu dưới dạng xung điện
(hoặc chiết xuất một loại chất nào đó) đến các vùng khác trong não
bộ, ức chế vùng cảm giác an toàn, thay thái độ thận trọng bằng thái
độ nhanh chóng tiếp cận thức ăn.

174
Một quan điểm về Triết học

Ở đây có một lưu ý là: Với việc mới gặp vật A lần đầu và sau khi
ăn thử biết đó là thức ăn, con chó sẽ có xu hướng ăn tất cả vật mà
nó nghĩ rằng gần giống vật A đó. Lí do là vì vùng chịu trách nhiệm
dinh dưỡng chưa có nhiều thông tin, nhưng sau nhiều lần ăn như
vậy nó bắt đầu có thể phân loại được, sự thay đổi màu sắc, hay mùi
dẫn đến vị và giá trị dinh dưỡng khác nhau, từ đó có thái độ khác
nhau với các vật thể đó.

Từ ví dụ trên, ta có thể suy luận rằng, tất cả các vùng khác nhau
của não bộ đều có khả năng tiếp nhận, xử lí, và lưu trữ thông tin
một cách độc lập. Chúng cũng có thể truyền đạt thông tin với các
vùng khác nhau của não bộ. Đồng thời cũng có thể các vùng chức
năng này, do sự chuyên hóa và di chuyển đã lưu những thông tin
mẫu, ngay từ khi hình thành.

Ví dụ: Chó con không hề biết thịt ăn được, khi lần đầu cho nó một
miếng thịt nó sẽ không ăn, nhưng khi ăn thử miếng thịt ngay lập
tức nó ăn ngấu nghiến miếng thịt (vì ngon), và lần sau cứ thấy
miếng thịt là nó lao vào ăn, phản xạ có điều kiện khi nhìn thấy
miếng thịt được thiết lập rất nhanh.

Tại sao vậy? Có thể giả thuyết rằng vùng não bộ chịu trách nhiệm
dinh dưỡng vốn dĩ đã được cài đặt các thông tin về miếng thịt thông
qua vị giác và khứu giác, có thể các thông tin này có chút sai lệch
với thực tế nhưng nhìn chung là khớp, chính vì vậy mà vùng não
chịu trách nhiệm dinh dưỡng cho cơ thể ngay lập tức biết được
miếng thịt ăn được không những thế còn rất bổ dưỡng cho cơ thể.
175
Một quan điểm về Triết học

Tuy vậy vẫn chưa thể hiểu sinh vật có thể tưởng tượng, suy luận
và nhận thức bằng cách nào, nhưng có thể ước đoán rằng chúng
thuộc vùng xử lý trung tâm của não bộ, có khả năng xử lý và lưu
trữ một khối lượng lớn thông tin.

Có thể minh họa các vùng như những chiếc máy tính, vừa độc lập,
vừa tương tác với nhau xung quanh một máy tính trung tâm vậy.

176
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM:

Ta lấy ví dụ để làm rõ các đường liên hệ thần kinh


hoạt động như thế nào

Khi chúng ta tiến hành tiếp nhận thông tin về một vật thể, thông
tin vật thể đó có thể đi theo 5 con đường khác nhau (tương ứng với
5 giác quan xúc giác, vị giác, thính giác, thị giác, khứu giác), đi về
5 vùng khác nhau của não bộ để tiến hành phân tích.

Ví dụ: Thính giác sẽ thu thập âm thanh và chuyển nó thành các tín
hiệu điện. Tín hiệu điện này không phải là một chuỗi dài liên tục
mà nó được cắt ngắn thành các đoạn. Giả dụ cứ 0,01s là vùng thính
giác lại đo được cường độ dòng điện do tai gửi đến và mã hóa nó
dưới dạng thông tin mà não bộ có thể ghi nhớ được. (Thời gian đo
càng ngắn thì âm thanh nhận được càng chi tiết và chính xác, tuy
nhiên nó sẽ tăng dung lượng lưu trữ lên. Thời gian đo ngắn đi một
nửa thì dung lượng lưu trữ để nhớ hết được âm thanh đó sẽ tăng
lên gấp đôi).

Sau khi nhận dữ liệu, chúng sẽ tiến hành so sánh độ trùng khớp với
các dữ liệu (thông tin về âm thanh) đã lưu sẵn trong vùng xử lí âm
thanh. Nếu thông tin trùng khớp, vùng xử lí âm thanh đã lưu trữ nó
sẽ kích hoạt đoạn thông tin đó và thông tin sẽ chạy theo đường liện
hệ thần kinh đến các vùng não khác. Còn nếu thông tin không có
trong phần dữ liệu lưu trữ, nó sẽ tạo xung điện chạy khắp não bộ
177
Một quan điểm về Triết học

và tạm thời kích hoạt vùng não chịu trách nhiệm an toàn cho con
vật, phản ứng lại với âm thanh đó dưới dạng “cái gì đây?”.

Bốn giác quan còn lại cũng làm tương tự. Ví dụ: Cơ quan cảm giác
sẽ chịu trách nhiệm về thông tin độ cứng, nhiệt độ, độ ẩm, trọng
lượng, cảm giác (đau) của vật thể và cũng phân loại lần lượt từ thấp
đến cao.

Giả dụ rằng, tai ta vừa nghe hai tiếng “gâu gâu”, ngay lập tức vùng
thính giác sẽ tiến hành thu thập và chia nhỏ, so sánh độ tương thích
với thông tin đã được lưu trữ. Khi so sánh, nếu đoạn thông tin nào
lưu trữ trùng khớp hoặc có độ tương thích cao, ngay lập tức các
đoạn thông tin đó sẽ được kích hoạt tạo ra các xung điện chạy dọc
theo các đường liên hệ thần kinh đến các vùng khác (lưu ý rằng
các đoạn dữ liệu liên quan đến hai từ “gâu gâu” là rất nhiều, vậy
nên nó kích hoạt rất nhiều đường liên hệ thần kinh chạy đến các
vùng khác của não).

Khi đoạn thông tin tại các vùng não này được kích hoạt, nó tiếp
tục kích hoạt thông tin đến các vùng cảm giác khác, thông qua các
đường liên hệ thần kinh tạm thời mà nó liên kết. Giả dụ là thị giác
và kích hoạt các đoạn dữ liệu được lưu trữ tại đây. Bạn sẽ hình
dung ra hình ảnh một con chó (thường thì đó sẽ là hình ảnh những
con chó mà bạn hay nhìn thấy). Tại đây, vùng thị giác tiến hành
tìm kiếm tất cả dữ liệu và các hình ảnh khác liên quan đến nó. Ví
dụ: Lông mao màu vàng, răng nanh, … và những đoạn thông tin
này chạy qua vùng cảm giác sẽ cho bạn biết là lông nó có cảm giác
178
Một quan điểm về Triết học

thế nào, nếu bị nó cắn thì cảm giác ra sao,… dựa vào những đoạn
dữ liệu được lưu trữ trong vùng cảm giác. Cũng hoàn toàn tương
tự nếu nó chạy qua các đường liên hệ thần kinh đến vùng khứu
giác, vị giác.

Tóm lại chỉ với hai từ “gâu gâu” nhưng nó đã kích hoạt rất nhiều
thông tin trong quá khứ nhằm giải nghĩa cho từ “gâu gâu” nghĩa là
gì. Tương tự, chỉ cần nhìn thấy đầu một con chó hay một con châu
chấu, não bộ cũng có thể khôi phục toàn bộ hình ảnh về con chó
hay con châu chấu đó, dựa vào dữ liệu mà bạn đã có trong quá khứ.

Ta lấy ví dụ con chó con lần đầu thấy miếng thịt: Vùng thị giác
nhìn thấy miếng thịt => phát xung điện khắp não bộ (1)

179
Một quan điểm về Triết học

Sau đó chó con ăn thử miếng thịt.

Ăn thử => vùng vị giác phát xung điện (2) => vùng não chịu trách
nhiệm dinh dưỡng ngay lập tức phản hồi => phát xung điện (3) =>
tạo đường liên hệ thần kinh (3)(2) do các xung điện gặp nhau.
Đồng thời cũng tạo thành đường liên hệ thần kinh (3)(1) do dư âm
xung điện từ vùng thị giác vẫn đang phát.

TƯ DUY

Tư duy là quá trình não bộ giải quyết một vấn đề, mà vấn đề đó
thông thường sẽ có nhiều hướng suy luận khác nhau. Não bộ bắt
buộc phải tư duy để tìm ra phương án giải quyết vấn đề một cách
tối ưu nhất, trong khả năng của nó.

Quá trình tư duy được chia thành hai giai đoạn

1) Đầu tiên não bộ dựa trên vấn đề cần tư duy để đánh giá sơ bộ
các khả năng (có thể thông qua trí tưởng tượng). Tức là trước một
vấn đề đang giải quyết nó có các trường hợp: 1,2,3,4….

2) Dựa trên quy tắc nếu - thì, não bộ giả định thay đổi các điều kiện
đầu vào (các trường hợp), tiến hành suy luận đánh giá kết quả, và
lựa chọn kết quả tốt nhất trong các giả định được đưa ra. Não bộ

180
Một quan điểm về Triết học

tiến hành suy luận dựa trên những tài nguyên sẵn có (suy luận trước
đó, kinh nghiệm bản thân được lưu trữ lại).

Suy luận là một hành động hay quá trình mà các kết luận logic phát
sinh từ các tiên đề được biết hay được giả định là chân lý. Thế
nhưng các tế bào não suy luận bằng cách nào? Trong não bộ con
người cũng có các vùng thực hiện các phép logic (giống như máy
tính), nó có hàng trăm triệu tế bào đảm bảo chức năng tính toán
liên kết với nhau như vậy.

Vậy thì làm thế nào não bộ lại có thể tinh chỉnh được các điều kiện
đầu vào, để có thể suy luận ra các kết quả tương ứng? Vấn đề ở
chỗ, các tế bào não nếu được tách riêng thì nó không hề có ý thức,
tức hoạt động rất máy móc. Vậy tại sao những tế bào hoạt động
máy móc như vậy, khi kết hợp với nhau lại tạo thành tư duy hay ý
thức?

Có hai giả thuyết được đưa ra là:

Các tế bào não có thể tinh chỉnh giả định là do cấu trúc của tế bào
não được cài đặt như vậy. Tức là từng tế bào não khi nhận tín hiệu
(dòng điện) từ các tế bào não khác, sẽ tinh chỉnh dòng điện (tín
hiệu) đầu ra dựa vào những quy luật đã được định sẵn (có thể là
trọng số mà phần AI tôi sẽ nói đến).

Hoặc nó có thể được tinh chỉnh do sự sai sót nào đó trong quá trình
truyền đạt thông tin giữa các tế bào não (đột biến tín hiệu).
181
Một quan điểm về Triết học

Ví dụ: Bạn chuẩn bị tham gia một cuộc thi chạy mà cái đích bạn
cần đến nằm ở bờ hồ đối diện. Có hai con đường để cho bạn đến
đích, một là chạy men theo bờ hồ và một là chạy qua cây cầu bắc
qua hồ chỉ bằng một thân cây. Bạn sẽ phải lựa chọn một trong hai
con đường đó. Chạy men theo bờ hồ sẽ an toàn hơn nhưng thời
gian sẽ lâu hơn, còn đi qua cầu có thể sẽ không mất nhiều thời gian
nhưng bạn sẽ rất dễ rơi xuống hồ và cuộc thi với bạn sẽ kết thúc.
Sự suy nghĩ để lựa chọn cách đến đích như vậy gọi là tư duy.

Vậy não bộ tư duy trong trường hợp này như thế nào.

Việc đầu tiên là đánh giá sơ bộ các khả năng có thể có, trong trường
hợp này thì chỉ có hai khả năng:

Một là: chạy men theo bờ hồ

Hai là: chạy qua cây cầu bắc qua hồ chỉ bằng một thân cây

Việc tiếp theo là suy luận và đánh giá độ hiệu quả của các khả năng
đó, dựa trên quy ước các chỉ số, ví dụ: Tốc độ chạy, thời gian, mức
độ rủi ro… Sau đó chọn phương án thích hợp.

Lấy ví dụ khác: Một con báo đang săn một con linh dương, và con
linh dương chạy vòng qua một tảng đá lớn. Bằng khả năng suy
luận, con báo đã không đuổi theo con linh dương mà chạy vòng
theo hướng ngược lại để đón đầu và tạo tính bất ngờ, qua đó nâng
cao khả năng bắt được con linh dương.

182
Một quan điểm về Triết học

Giả dụ rằng con báo chưa thực hiện hành động như vậy trước đây,
tức là nó không có kinh nghiệm thực hiện việc đó. Vậy tại sao não
bộ lại ra lệnh cho con báo thực hiện hành động như vậy?

Giả thuyết hợp lí nhất là não bộ con báo có khả năng mô phỏng
không gian bên ngoài, đương nhiên chỉ ở mức giản lược nhất, não
bộ càng mạnh thì khả năng mô phỏng không gian bên ngoài càng
rộng càng chi tiết. Tức là não bộ con báo đã mô phỏng tình huống
nó đuổi theo con linh dương, và con linh dương chạy vòng qua
tảng đá lớn trong đầu. Tại đây con báo hình dung các trường hợp
có thể xảy ra tiếp theo, nếu nó chạy đuổi theo con linh dương sẽ
thế nào và việc nó chạy vòng ngược lại đón đầu con linh dương sẽ
thế nào, sau đó lựa chọn phương án có kết quả tối ưu hơn.

Vậy con báo hình dung (tưởng tượng) bằng cách nào? Đương
nhiên chúng ta có thể chắc chắn rằng con báo lấy dữ liệu làm
nguyên liệu để mô phỏng môi trường bên ngoài là nhờ những thông
tin mà nó lưu trữ trong não bộ, cụ thể là năm vùng lưu trữ thông
tin của năm giác quan.

Nhưng nó mới chỉ là những thông tin thô, cụ thể:

(1) Con báo đã từng chạy rất nhiều trên đồng cỏ, có những
tảng đá lớn và nó đã đi vòng vòng để có thể biết địa hình ở
đồng cỏ đó, thế nhưng nó lại chưa bao giờ đuổi bắt một con
linh dương trên đó.

183
Một quan điểm về Triết học

(2) Con báo đã đuổi bắt linh dương rất nhiều lần, đã thử rất
nhiều kiểu chạy truy đuổi khác nhau và được kết quả khác
nhau, từ đó cũng đã tối ưu được cách truy đuổi trên địa hình
phẳng. Thế nhưng nó lại chưa bao giờ đuổi một con linh
dương trên địa hình có những tảng đá lớn che khuất tầm nhìn
về con mồi của nó.

Làm thế nào con báo lại có thể kết hợp được cả hai kinh nghiệm
tách rời nhau (1) (2) vào một, để hình dung ra các khả năng khác
nhau nhằm đưa lại lựa chọn tối ưu nhất?

Để làm rõ ý trên bạn hãy tưởng tượng về một hình ảnh con ong
đang đậu trên lưng một con bò, bạn chưa từng thấy tình huống đó
đúng không, vậy nhưng bạn vẫn có thể tưởng tượng ra được hình
ảnh đó.

Vậy thì khi nào con người tư duy, hay nói đúng hơn động cơ thôi
thúc con người tư duy là gì?

Động cơ khiến con người tư duy không thể nào là một cái gì đó có
ý thức, bởi như vậy không khác gì chúng ta có một bộ não nằm
trong bộ não của chúng ta. Nó phải là thứ gì đó không có ý thức,
tức là nó có tính chất máy móc, quy luật.

184
Một quan điểm về Triết học

Tôi cho rằng động cơ thôi thúc con người tư duy là bản năng.

Quá trình tư duy giúp cho con người có thể thích ứng tốt hơn với
điều kiện ngoại cảnh bên ngoài, từ đó gia tăng khả năng sinh tồn
và nhân rộng nguồn gen của mình. Bản năng tức là các nhu cầu rất
tự nhiên của cơ thể: Như nhu cầu sinh lí: ăn, ngủ, tình dục… Hoặc
nhu cầu tâm lí: chứng tỏ bản thân, cảm thấy ý nghĩa, hay thỏa mãn
trí tò mò…

Vậy thì các tế bào thần kinh đã hoạt động như thế nào để các vùng
có thể xử lý thông tin được như vậy? Một phần câu trả lời có thể
được giải đáp thông qua các thuật toán của trí tuệ nhân tạo.

185
Một quan điểm về Triết học

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (AI)

Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo (Artificial intelligence
– viết tắt là AI) là một ngành thuộc lĩnh vực khoa học máy tính
(Computer science). Đây là ngành mô phỏng lại cách thức con
người xử lí các vấn đề, với mong muốn rằng máy móc cũng sẽ
thông minh như con người.

Giống như con người, AI cũng có 3 phần chính

+Nhận thông tin (đầu vào, input)

+Xử lý thông tin (hidden)

+Trả kết quả (đầu ra, output)

Cấu tạo đơn giản một mạng nơ-ron nhân tạo (nơ-ron được biểu
diễn bằng hình tròn).

186
Một quan điểm về Triết học

Ảnh biểu diễn một mạng nơ-ron nhân tạo

Nếu con người xử lý vấn đề thông qua các mạng nơ-ron sinh học
thì AI cũng vậy, nó xử lý vấn đề thông qua mạng nơ-ron nhân tạo.

Vậy thì làm thế nào mạng nơ-ron có thể tính toán được?

Mỗi một kết nối giữa nơ ron được liên kết với một trọng số (weight,
viết tắt là w). Trọng số khởi tạo được chọn ngẫu nhiên.

187
Một quan điểm về Triết học

Các trọng số được gán cho mỗi nơ-ron

Quá trình tính toán ở 1 nút mạng (nơ-ron):

Các hệ số a, b, c gọi là giá trị inputs ở các nút mạng của lớp trước.

Ta tính được giá trị x = ∑(inputs. w).

188
Một quan điểm về Triết học

Sau khi có giá trị x, thì giá trị x được đưa qua hàm chuyển đổi
(activation function) để có giá trị y. Giá trị y trở thành giá trị output
của lớp này, nhưng đồng thời cũng là giá trị input của lớp kế tiếp.

Các hàm activation function có rất nhiều loại và công việc tính toán
lựa chọn các hàm activation cũng rất phức tạp. Có thể nói việc lựa
chọn sử dụng hàm chuyển đổi nào, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
huấn luyện AI (kết quả sau quá trình học tập có sát với thực tế yêu
cầu không).

Thế nhưng mọi thứ chưa dừng lại ở đó, sau khi lựa chọn được hàm
chuyển đổi, việc tiếp theo là làm thế nào để các kết quả đầu ra càng
ngày càng chính xác. Tức là sai số giữa kết quả mẫu và kết quả cho
ra từ máy ngày càng nhỏ.

Ta có thể tạo một hàm hiển thị độ sai của đầu ra của AI so với đầu
ra thực tế. Hàm này được gọi là Cost Function. Một cách hiểu đơn
giản rằng, ta muốn Cost Function của ta sẽ trả về 0, khi đó đầu ra
của AI cũng sẽ giống với đầu ra thực tế từ tập dữ liệu.

Làm thế nào để làm giảm cost function?

Đó là việc sử dụng các thuật toán tối ưu, mà điển hình là Gradient
Descent.

Gradient Descent là một thuật toán tối ưu lặp cho phép ta tìm giá
trị nhỏ nhất của một hàm. Trong trường hợp của ta, chúng ta đang

189
Một quan điểm về Triết học

tìm giá trị nhỏ nhất cho cost function. Nó hoạt động bằng cách thay
đổi một giá trị rất nhỏ cho trọng số sau mỗi lần lặp trong tập dữ
liệu. Bằng cách tính toán đạo hàm của cost function ở một tập trọng
số, ta có thể tìm được hướng của cực tiểu.

Các bạn có thể tìm hiểu thêm về Gradient Descent tại các
link dưới đây:
https://machinelearningcoban.com/2017/01/12/gradientdesce
nt/?fbclid=IwAR3AGk_3skmBchsT7IBnaTn8wwcwOGCrh
XIhjkHlF2pAHEOeU6GpRE91x8

https://machinelearningcoban.com/2017/01/16/gradientdesce
nt2/?fbclid=IwAR0sAt_lTMP0WsOQ7gr8uRA6Hv3GiLgxT
PMdnIgRuGJZvHeW0y0NjVw3r1k

Để giảm tối đa cost function, bạn phải lặp rất nhiều lần trong tập
dữ liệu. Đây là lý do tại sao phải cần một khả năng tính toán rất
lớn. Cập nhật trọng số sử dụng gradient descent được hoàn thành
một cách tự động. Chính việc tính toán và cập nhật trọng số một
cách tự động mà máy tính, có thể tự học hỏi và đưa ra câu trả lời
ngày càng chính xác.

190
Một quan điểm về Triết học

Việc học (huấn luyện) của AI được chia làm hai loại:

+ Học có giám sát

+ Học không có giám sát

+ Học có giám sát là việc bạn nạp vào AI các tập dữ liệu có dán
nhãn (tức là đầu vào và đầu ra đều đã có kết quả).

Khi bạn huấn luyện một AI sử dụng phương pháp học giám sát,
bạn phải đưa vào một đầu vào và chỉ cho nó chính xác đầu ra là gì.
Nếu AI cho đầu ra sai, nó sẽ tự điều chỉnh sự tính toán của nó (các
trọng số được gán vào các nơ-ron). Quá trình lặp lại trong tập dữ
liệu sẽ hoàn thành cho đến khi AI không đưa ra kết quả sai nữa.

191
Một quan điểm về Triết học

Như vậy học có giám sát chỉ sử dụng được khi chúng ta có sẵn
lượng dữ liệu lớn, để có thể huấn luyện AI.

Ví dụ: Một cửa hàng bán quần áo, và họ có sẵn một lượng lớn dữ
liệu về chiều cao, cân nặng của khách hàng, và cũng có dữ liệu
khách hàng mặc quần áo cỡ gì. Giả sử là khách hàng nam.

Chiều cao (cm) Cân nặng (kg) SIZE (Cỡ) quần áo


163 48 S
167 56 M
172 65 L
168 55 M
175 68 L
… … …

Dựa vào một lượng lớn dữ liệu đầu vào và đầu ra đã biết trước máy
tính sẽ dần dần dự đoán kết quả đầu ra ngày càng chính xác.

+ Còn học không giám sát là việc bạn nạp vào AI một lượng lớn
kết quả đầu vào nhưng lại không cho nó biết kết quả đầu ra (không
dán nhãn). Thế nhưng giữa các kết quả đầu vào ấy có một mối liên
hệ nhất định, nhiệm vụ của AI là tự tìm ra mối liên hệ đó và tiến
hành phân loại các dữ liệu đầu vào.

192
Một quan điểm về Triết học

Kết luận:

Qua phần trên, ta đã biết cơ bản một mô hình trí tuệ nhân tạo (AI)
có cấu tạo, và cách hoạt động ra sao. Và với các khả năng mà AI
đã làm được trong những năm qua như nhận diện khuôn mặt, giọng
nói, phân loại khách hàng…

Đặc biệt với sự ra đời của AlphaGo đã cho thấy tiềm năng của AI
lớn tới mức nào, khi đánh bại kiện tướng Lee Sedol trong bộ môn
cờ vây, với tỉ số 4-1. Cờ vây được xem là có độ phức tạp cực kỳ
cao với tổng số nước đi là xấp xỉ 10761, so với cờ vua là 10120, và
tổng số nguyên tử trong toàn vũ trụ là khoảng 1080!

Vì vậy, thuật toán phải chọn ra 1 nước đi tối ưu trong số hàng nhiều
tỉ tỉ lựa chọn, và tất nhiên, không thể áp dụng các phương pháp
máy móc (ví dụ như thuật toán vét cạn (vét hết tất cả các bước đi)
nhờ cậy vào một bộ vi xử lí mạnh), AlphaGo phải đề ra các chiến
thuật cho nó.

Nhưng như thế vẫn chưa là gì! AlphaGo Zero vốn là phiên bản tốt
hơn của AlphaGo, không cần học các chiến thuật của các kì thủ cờ
vây thế giới giống như AlphaGo, nó chỉ tự đánh với chính mình,
và sau 3 ngày tự học nó đã đánh bại AlphaGo 100 ván không gỡ!

193
Một quan điểm về Triết học

TỔNG KẾT

Từ phần sinh lí thần kinh cấp cao chúng ta có thể kết luận được
rằng, não bộ không phải là một khối đồng nhất. Thực tế nó là một
cơ quan phức tạp được phân hóa thành nhiều vùng, tương ứng với
nhiều chức năng khác nhau. Chúng ta cũng đã biết cách thức mà
não bộ phản ứng lại với môi trường.

Phần trí tuệ nhân tạo cũng cho chúng ta biết tại sao từ các tế bào
thần kinh đơn giản, vốn dĩ hoạt động rất máy móc lại có thể học
tập được khi liên kết với nhau. Tuy nhiên, như đã nói, não bộ là
một cơ quan rất phức tạp, các nhà khoa học về nhận thức (nói
chung) vẫn chưa thể nào hiểu hết được não bộ. Ví dụ như cách thức
não bộ suy luận, dự đoán trước vấn đề.

Cũng từ hai phần trên, chúng ta có thể hình dung rằng, để việc sản
xuất một con robot tương lai có trí tuệ như con người, thì ngoài
việc trang bị cho nó một bộ xử lí phần cứng và một phần mềm (AI)
tốt ra, ta phải lưu ý hai điều sau:

1) Đó là lập trình cho nó các phản ứng không điều kiện. Đây là việc
tối quan trọng, giúp cho con robot có thể phản ứng, đáp trả lại các
kích thích từ môi trường, cho dù là phản ứng còn máy móc, nhưng
nó là điều kiện tiên quyết để con robot thiết lập các phản ứng không
điều kiện sau này.

2) Tạo ra nhu cầu bản năng cho nó, con robot chỉ hành động khi nó
bị thôi thúc bởi một cái gì đó, ví dụ: Sợ chết, sợ đau…
194
Một quan điểm về Triết học

IV, QUY LUẬT CỦA VẬT CHẤT

Có một giả thuyết mà buộc chúng ta phải thừa nhận rằng, mọi vật
chất đều có thuộc tính. Hay nói đúng hơn, mọi vật chất ngay từ khi
hình thành đã tồn tại thuộc tính, bất kể nó được cấu tạo giản đơn
hay phức tạp. Và chúng chỉ biến mất khi vật chất đo biến mất.

Dưới đây là những hệ quả của vật chất:

1) Đã là vật chất thì phải có thuộc tính, không có thuộc tính đồng
nghĩa với không tồn tại vật chất. (Tôi tin rằng trong vũ trụ vẫn còn
những vật chất mà con người chưa biết đến. Bởi vì con người chưa
phát hiện được các thuộc tính của chúng).

2) Mỗi loại vật chất đều tồn tại thuộc tính cố định của nó, không
thể thay đổi. Nếu thay đổi thuộc tính của nó, thì đơn giản nó không
còn là vật chất ban đầu nữa.

3) Khi những vật chất kết hợp với nhau chúng sẽ tạo ra những vật
chất mới, với thuộc tính mới. Tuy nhiên những vật chất cấu thành
vật chất mới đó vẫn giữ nguyên thuộc tính của mình.

>> Chính những thuộc tính của vật chất giúp chúng ta biết rằng
nó đang hiện hữu và phân biệt nó với những thứ khác.

195
Một quan điểm về Triết học

Vì vậy con người không thể thay đổi được thuộc tính của sự vật.
Nhưng có thể lợi dụng những thuộc tính đó như một đòn bẩy để
phục vụ lợi ích của con người và thiên nhiên.

Thế nên chúng ta cần tích cực tìm hiểu sự vật, hiện tượng để phục
vụ lợi ích của chính chúng ta.

Ví dụ: Thuộc tính của nước là luôn chảy về chỗ trũng.

Con người dù làm cách nào cũng không thay đổi được thuộc tính
trên của nước. Mà chỉ lợi dụng quy luật đó để dẫn nước về tưới
tiêu, xây nhà máy thủy điện, ... để phục vụ lợi ích con người.

Con người cũng nhiều lần vì một lý do nào đó mà đắp đập ngăn
nước. Tuy việc này ngăn được dòng nước tạm thời. Nhưng ngược
lại, nó cũng tích lượng nước ngày một lớn. Đến một ngày, nó tích
một lượng nước đủ lớn thì nó sẽ phá vỡ con đập hoặc tràn qua để
chảy xuống thấp. Bởi vì đặc tính của nước là không thay đổi.

Quyền con người cũng giống như vậy. Đó là thuộc tính ngay từ khi
con người được sinh ra. Không ai có thể thay đổi được nó. Nếu cứ
cố tình ngăn cản nó thì đến một ngày, tức nước sẽ vỡ bờ.

196
Một quan điểm về Triết học

QUY LUẬT CỦA SINH VẬT

Sự hình thành và phát triển của sinh vật.

Việc đầu tiên ta phải xác định là, trong tự nhiên, những phân tử có
liên kết cấu trúc bền hơn sẽ có xu hướng tồn tại lâu hơn. Điều này
tất yếu là hiển nhiên.

Trước sự thay đổi của môi trường, bản thân các nguyên tử của vật
chất cũng có sự sắp xếp lại để thích nghi với môi trường mới xung
quanh. Điển hình là Cacbon, trước sự thay đổi bởi nhiệt độ và áp
suất, bản thân các phân tử Cacbon cũng có sự thay đổi về cấu trúc
để thích nghi với môi trường, ví dụ: Cacbon vô định hình, than chì
và kim cương...

Bây giờ bạn hãy tưởng tượng, trong một căn nhà không có sự hiện
diện của sinh vật hay những tác động từ ngoại lực tự nhiên, ngoài
tiếng vang đến từ một cái trống được gõ ở một nơi rất xa.

Nếu tiếng vang đủ mạnh, chúng ta sẽ thấy bàn ghế, cốc chén, ...
rung lên và di chuyển. Hay nói cách khác, trật tự sắp xếp các đồ
vật trong căn phòng bắt đầu thay đổi, và sau một khoảng thời gian
như vậy, sự thay đổi chậm dần.

Nếu thời gian đủ dài, chúng ta sẽ thấy trật tự các đồ vật trong phòng
gần như không thay đổi nữa. Những chiếc cốc, chén, hạt bụi, ...
dưới sự ảnh hưởng của tiếng trống vẫn sẽ nảy lên, tức là nó vẫn

197
Một quan điểm về Triết học

phản ứng với tiếng trống. Thế nhưng sau khi nảy lên nó lại rơi
xuống vị trí cũ, điều này có thể xem như là nó đã thích nghi với
tiếng trống.

Vậy nếu các đồ đạc có thể thích nghi với tiếng trống, thì ta tự hỏi,
liệu các phân tử cấu tạo nên những đồ đạc ấy có thích nghi không?

Ai cũng biết những tấm kính dưới tác động của âm thanh, nếu âm
thanh đủ lớn, những tấm kính đó có thể bị vỡ. Tuy nhiên nếu ta
điều chỉnh âm lượng của tiếng trống xuống dưới mức gây vỡ kính
một chút và duy trì đủ lâu, rồi sau đó nâng âm lượng lên mức đổ
vỡ ban đầu, thì tấm kính đó có còn vỡ nữa không? Không ai biết,
nhưng hãy xem lại phân tử Cacbon.

- Trong tự nhiên, các phân tử sẽ cố gắng thích nghi với các


điều kiện bên ngoài, để làm sao chúng có thể tồn tại lâu
dài nhất.
Điều này có nghĩa là, khi một phân tử ở bên một thác nước
thì không những phải thích nghi với nhiệt độ, áp suất ở đó,
mà nó còn phải thích nghi với âm thanh do thác nước phát
ra một cách đều đặn. Vậy nên các phân tử dưới thác nước
cũng sẽ biến đổi một cách đều đặn có chu kì.
Hay như trên biển, các phân tử chịu tác động của những
con sóng biển một cách đều đặn và chịu đựng ánh sáng
Mặt Trời, đến một lúc nhất định, những phân tử đó có tiến
hành trao đổi chất lần đầu tiên.

198
Một quan điểm về Triết học

Việc này giống như chiếc máy nổ vậy, nếu để yên chúng
sẽ không hoạt động, chỉ là một vật dụng bình thường giống
như bao vật dụng khác. Tuy nhiên khi ta quay bánh đà cho
chúng, đến một lúc chúng sẽ tự quay, hay nói cách khác
chúng đã tự hoạt động.
Rất có thể những tác động với chu kì đều đặn của môi
trường chính là chiếc bánh đà cho những phân tử hình
thành những cơ thể sống đầu tiên.
Khi vật chất đã biến đổi để thích nghi với môi trường xung quanh,
rồi được đặt trong các điều kiện môi trường khác nhau. Nó lại tiếp
tục biến đổi để thích nghi với môi trường mới. Đại đa số vật chất
biến đổi theo hướng trở về dạng tự nhiên vô tri vô giác. Nhưng
cũng có một số phát triển tiếp trên con đường trở thành dạng sống
đầu tiên.

Có thể có nhiều dạng bán sự sống khác nhau, nhưng có thể hình
thành do chung một cơ chế, dẫn đến có nhiều sinh vật đầu tiên
được hình thành mang ADN hoàn toàn khác nhau. Tức là, cây sự
sống khởi nguồn của nó không phải cùng chung một loài. Trong
quá trình tiến hóa và phát triển, một vài loài đã trở nên chiếm ưu
thế và phát triển thành sự sống sau này.

Sau khi hoàn toàn trở thành những sinh vật sống đầu tiên. Các phân
tử đã trải qua quá trình bán sự sống. Tức là các phân tử này sẽ hoạt
động khi nhận tác động một cách đều đặn từ môi trường bên ngoài
(một dạng cung cấp năng lượng).

199
Một quan điểm về Triết học

Ta có các giai đoạn sau:

- Giai đoạn 1: Khi nhận một tác động từ bên ngoài, phân tử
chỉ thực hiện được một lần biến đổi (hoạt động). Ở đây phân tử
vẫn sẽ biến đổi nhưng quá trình xảy ra rất chậm.

- Giai đoạn 2: Khi nhận một tác động từ bên ngoài, các phân
tử thực hiện được nhiều hơn một lần hoạt động. Do cấu trúc phân
tử đã được hoàn thiện dần, và càng hoàn thiện thì chúng càng thực
hiện được nhiều lần hoạt động hơn khi nhận được một lần tác động
từ bên ngoài môi trường. Hay nói cách khác chúng càng ít phụ
thuộc vào môi trường bên ngoài hơn. Ở giai đoạn này các phân tử
đã ở giai đoạn bán sự sống.

- Giai đoạn 3: Sau một thời gian biến đổi cấu trúc. Các phân
tử đã gần như hoạt động độc lập với các tác động từ bên ngoài.
Đến đây ta có thể xem vật chất đó là một dạng sống đơn giản.

>> Quá trình biến đổi từ các phân tử đơn giản đến các dạng sống
đầu tiên đã xảy ra trong nhiều triệu năm.

Địa điểm sự hình thành và phát triển của sinh vật sơ khai.

Chúng ta đã phát hiện các phân tử có cấu trúc của sự sống ngoài
vũ trụ, mặc dù đó là những phân tử nhỏ có cấu tạo đơn giản.

Điều này thể hiện trên Trái Đất cũng tồn tại những phân tử như
vậy. Lưu ý là nó có cấu trúc của sự sống, chứ nó không phải là một
200
Một quan điểm về Triết học

dạng sống. Các dạng sống này không thể ở trên mặt đất, bởi vì Trái
Đất thủa sơ khai chưa có bầu khí quyển nên không thể cản được
những tia bức xạ có hại cho sự sống đến từ Mặt Trời.

Vậy nên chúng chỉ có thể ở dưới đáy biển, nơi ảnh hưởng của các
tia bức xạ Mặt Trời là không đáng kể. Chúng ta cũng phát hiện các
loài vi khuẩn có thể sống mà không cần đến ánh sang hay oxy. Vì
bản thân các dạng sống ban đầu là bán dạng sống, nên chúng không
thể tự động đi tìm các nguồn năng lượng và hấp thụ nó được. Tức
là nó chỉ hấp thu và chuyển đổi các nguồn năng lượng một cách bị
động. Thế nên chúng phải tồn tại ở nơi dồi dào nguồn năng lượng.

Suy luận hợp lí nhất là chúng tồn tại ở các miệng núi lửa dưới đáy
biển. Lí do, đáy biển là nơi lắng đọng những lớp trầm tích, tức là
mật độ các phân tử hữu cơ ở đây rất cao. Miệng núi lửa là nơi cung
cấp nguồn năng lượng dồi dào với tần số ổn định và nhiệt độ thích
hợp. Các dòng đối lưu ở miệng núi lửa đã gia tăng sự tiếp xúc giữa
các phân tử sống tự do dưới đáy biển, tạo thành phân tử dạng sống
có cấu trúc phức tạp hơn.

Cũng giống như vật chất, ngay từ khi sinh ra, sinh vật cũng đã có
thuộc tính của nó. Và là sinh vật nên nó cũng có những thuộc tính
của một cơ thể sống.

Đó là: Mọi sinh vật từ đơn giản đến phức tạp, từ thực vật đến động
vật, đều mong muốn được sống và phát triển (đây là điều hiển

201
Một quan điểm về Triết học

nhiên, bởi những cá thể nào không muốn sống thì đều không thể
duy trì nguồn gen cho thế hệ sau, dẫn đến không thể tiến hóa thành
loài mới).

Từ mong muốn này, nó sinh ra một hệ quả, đó là: Mọi sinh vật đều
muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân. Đầu tiên là lợi ích của bản thân,
sau đó là tới đồng loại, rồi xa hơn nữa ...

Nó được biểu hiện bằng việc, sinh vật loại bỏ dần những hành động
mang lại ít lợi ích cho cá nhân, tập thể, mà mang lại nhiều rủi ro.
Và gia tăng dần những hành động mang lại nhiều lợi ích cá nhân
và đồng loại mà ít phải gặp rủi ro.

202
Một quan điểm về Triết học

CON NGƯỜI

Con người là động vật cao cấp nhất trên Trái Đất.

Do bắt nguồn từ sinh vật, bản thân con người cũng tuân theo những
quy luật sinh tồn của sinh vật.

1) Bản năng quan trọng nhất cho sự tồn tại của mỗi cá thể là bản
năng duy trì và phát triển giống loài. Trong thế giới động vật, với
bản năng này, các cá thể luôn tìm mọi cách, thậm chí hi sinh cả
bản thân, để sinh sản và bảo vệ sự sinh tồn cho các thế hệ con cháu
của mình.

Đây chính là một trong những hành động có ý nghĩa lớn nhất, vĩ
đại nhất đối với cuộc đời mỗi cá thể, bên cạnh bản năng tìm hiểu
và khám phá thế giới.

2) Để duy trì được giống nòi, thì mục tiêu thứ hai là duy trì sự tồn
tại của bản thân. Có nghĩa là, mỗi cá thể trong một chừng mực cho
phép, sẽ cố gắng tận dụng những gì tốt nhất dành cho mình.

Để làm rõ hơn chúng ta xét từng trường hợp sau:

(1) Ở những động vật có cấu tạo cơ thể đơn giản, đặc biệt là những
sinh vật có khả năng sinh sản vô tính, thì chúng không cần quan
tâm nhiều đến đồng loại.

203
Một quan điểm về Triết học

- 1, Là nó không đủ phức tạp để có thể nhận biết đồng loại.

- 2, Chỉ cần bản thân chúng có thể sống sót thì chúng có thể
tự nhân bản và tăng nhanh về mặt số lượng. Tức là sự tồn tại
của giống loài, phụ thuộc rất nhiều vào từng cá thể riêng biệt.

Ở những sinh vật này chúng ta thấy biểu hiện của việc tối đa
hóa lợi ích cá nhân là rõ nhất.

(2) Ở những sinh vật mà sự tồn vong của giống loài, phụ thuộc vào
sự góp sức của từng cá thể, và các cá thể cũng sẽ không thể duy trì
sự tồn tại của bản thân hoặc duy trì nòi giống khi sống một mình.
Tức là từng cá thể cũng phụ thuộc vào những cá thể khác, thì ta sẽ
thấy rõ bản năng bảo vệ và duy trì nòi giống, chúng thể hiện ngay
xung quanh ta.

Ví dụ: Các loài động vật nuôi nấng và bảo vệ con cái của mình,
hoặc bảo vệ các thành viên trong đàn. Nhất là khi sự tồn vong của
giống loài bị đe dọa, thì sự hi sinh đùm bọc giữa các cá thể với
nhau càng thể hiện rõ.

(3) Ở người do sự tồn vong của giống loài được đảm bảo. Một lần
nữa chúng ta lại thấy chủ nghĩa cá nhân lên ngôi (tối đa hóa lợi ích
cá nhân).

Trao cho họ quyền lực mà không có cơ chế giám sát, thì đại đa số
sẽ lạm quyền để làm lợi cho bản thân và gia đình. Một nguyên
nhân nữa là con người luôn phát sinh những nhu cầu mới, vậy nên
sự tham lam của con người sẽ không bao giờ là đủ.
204
Một quan điểm về Triết học

GIẢI THÍCH:

Tối đa hóa lợi ích cá nhân là bản chất sâu xa của con người cũng
như những sinh vật sống nói chung, nên không thể thay đổi. Tất cả
để phục vụ cho mục đích duy trì và phát triển giống loài.

Để duy trì giống loài của mình, thực vật, động vật cấp thấp do rất
hạn chế về việc bảo vệ thế hệ sau của mình nên chúng thường sinh
sản rất nhiều, ở đây chúng ta thấy rõ ràng của thuyết tối đa hóa lợi
ích cá nhân.

Còn ở động vật cấp cao chúng thường có xu hướng sống theo bầy
đàn, bảo vệ con non cho đến khi chúng trưởng thành và có thể sinh
sống độc lập. Chúng ta chứng kiến rất nhiều trường hợp, con
trưởng thành liều mạng của mình để bảo vệ con non.

Rõ ràng ở đây, thuyết tối đa hóa lợi ích cá nhân không thể giải
thích hiện tượng này, nó chứng tỏ tối đa hóa lợi ích cá nhân thực
chất là để duy trì giống loài (đứng sau mục đích duy trì giống loài).

Vậy thì, tối đa hóa lợi ích cá nhân có lợi gì cho việc duy trì và phát
triển giống loài?

Chúng ta biết rằng, để có thể duy trì và phát triển giống loài của
mình, thì thế hệ sau phải có nhiều ưu điểm hơn thế hệ trước, để có
thể thích nghi với môi trường hiện tại. Tức là những cá thể của thế
205
Một quan điểm về Triết học

hệ trước có nhiều ưu điểm hơn những cá thể còn lại, sẽ được ưu


tiên sinh sản để cho ra đời những thế hệ sau tốt hơn.

Nhưng làm cách nào mà các loài động vật có thể nhận biết ai là cá
thể có nhiều ưu điểm hơn trong đàn, để ưu tiên sinh sản?

Cách hay nhất là cho các cá thể đều có ham muốn tình dục và cho
các cá thể lao vào một cuộc đua sinh tồn ngoài môi trường. Cá thể
nào tồn tại và phát triển tốt nhất sẽ được quyền giao phối với nhiều
cá thể khác để nhân rộng nguồn gen của mình.

Và để từng cá thể có thể tồn tại và phát triển hơn so với các cá thể
khác, thì bắt buộc chúng phải ưu tiên cho mục đích cá nhân của
mình trước. Vì vậy song song với việc duy trì và phát triển giống
loài (ở cấp độ loài) thì ở cấp độ cá thể các loài động vật cũng cố
gắng tối đa lợi ích cho cá nhân mình nhất có thể.

Con người cũng là một sinh vật, nên việc tối đa hóa lợi ích cá nhân
nhất có thể cũng là bản chất của con người và chẳng có gì phải xấu
hổ về điều đó cả.

Tuy nhiên là loài có tư duy bậc cao, nên họ sống thành cộng đồng
để gia tăng lợi ích cho họ từ cộng đồng mang lại.

Thế nhưng để được cộng đồng bảo vệ và giúp đỡ, bản thân họ cũng
phải hi sinh một phần lợi ích cá nhân, bằng việc những hành động
cá nhân của họ không được xung đột với lợi ích chung của cộng
đồng, nếu không sẽ bị cộng đồng đó xử phạt hoặc khai trừ.

206
Một quan điểm về Triết học

Tối đa hóa lợi ích cá nhân là bản chất của con người, vậy nên đừng

bao giờ tin tưởng hoàn toàn vào một người, giao quyền lực cho anh

ta, mà không có cơ chế kiểm soát nó.

Bởi bạn không biết khi nào thì một người tốt bạn hằng tin tưởng, sẽ

bị cám dỗ bởi quyền lực và phản bội lại bạn. Cách tốt nhất là giao

quyền lực cho một nhóm người và dùng nhiều nhóm người khác để

kiểm soát nhóm người đó.

Ý của tôi là, hãy giao quyền lực cao nhất nước cho quốc hội và dùng

các đảng để kiểm soát quyền lực lẫn nhau.

Một trong những biểu hiện của tối đa hóa lợi ích cá nhân (luôn tìm

cách để chứng minh mình là vượt trội hơn những cá thể khác), là tâm

lí chúng ta thích được khen, tức là thích được người khác công nhận

mình, hay ảo tưởng cá nhân vượt trội hơn những người khác.

207
Một quan điểm về Triết học

Cũng phải nói thêm rằng, con người ngoài những nhu cầu về vật
chất để đảm bảo lợi ích sinh học ra, họ còn có nhu cầu về tinh thần.
Nhu cầu về tinh thần gần như chỉ những sinh vật có khả năng tư
duy cao như con người mới có.

Từ xuất phát điểm là tối đa hóa lợi ích cá nhân được đặt trong
khuôn khổ cộng đồng mà con người đang sinh sống. Vì vậy những
hành động mang lại lợi ích cá nhân cho họ, đồng thời cũng mang
lại lợi ích cho cộng đồng mà họ đang sinh sống, sẽ được cộng đồng
đó hưởng ứng và khích lệ. Và ngược lại, những hành động mang
lại lợi ích cho cá nhân, nhưng lại gây tổn hại đến cộng đồng thì sẽ
bị phê phán và lên án.

Cứ như vậy, dần dần con người khái quát những hành động đó lên
thành những chuẩn mực đạo đức và định hình nên những tính cách
tiêu biểu để mọi người học tập và làm theo.

Từ đây những nhà tư tưởng bắt đầu xuất hiện. Và những hệ tư


tưởng lớn hình thành nên những tôn giáo. Chính vì vậy, tôn giáo
là nơi truyền tải đạo chứ tôn giáo không phải là đạo.

Ví dụ: Chữ viết là nơi truyền tải thông tin, chứ chữ viết không phải
là thông tin. Thông qua việc đọc và hiểu những chữ đó, chúng ta
hiểu được những thông điệp mà người viết muốn truyền tải đến
chúng ta. Chứ bản thân chữ viết không mang ý nghĩa gì cả. Nó đơn
giản chỉ là công cụ, một dạng đòn bẩy giúp con người giao tiếp dễ
dàng hơn mà thôi.

208
Một quan điểm về Triết học

Nếu chỉ tối đa hóa lợi ích cá nhân sẽ không giải thích được vì sao
một số người lại hi sinh lợi ích của mình vì những người khác. Ví
dụ: Liều mạng sống của mình để cứu một ai đó. Câu trả lời là họ
đang muốn bảo vệ giống loài của mình. Còn hiểu theo nghĩa sinh
học thì đây là một phần của bản năng nhằm bảo vệ nguồn gen của
giống loài để nó có cơ hội tồn tại và phát triển trong tương lai.

Đây có lẽ là lí thuyết nhiều người hoài nghi nhất.

Nếu con người là động vật cao cấp có suy nghĩ, thì hành động cứu
người có thể giải thích rằng có sự can thiệp của lí trí. Thì ở các loài
động vật, do không có khả năng tư duy nên hành động đó hoàn
toàn mang tính bản năng. Ví dụ: Các loài động vật bảo vệ con của
nó trước các tác nhân gây nguy hiểm, chỉ được giải thích bằng việc
chúng đang cố gắng bảo vệ nguồn gen của loài. Chúng không có lí
trí nên không cảm thấy ý nghĩa của hành động đó, về mặt logic thì
rõ ràng chúng sẽ không làm như vậy. (Hay như con người, có
những trường hợp hành động rất nhanh để cứu những người bị hại
mà không có thời gian suy nghĩ, chứng tỏ nó hoàn toàn bản năng
mà không có sự can thiệp của lí trí).

Vậy tại sao lại tồn tại bản năng đó?

Chỉ có thể nói nó là quá trình tích lũy lâu dài của việc thích nghi
và tiến hóa.
209
Một quan điểm về Triết học

Giống như việc cây cối không có hệ thống thần kinh, nên nó không
có khả năng suy nghĩ và đương nhiên về mặt bản chất chúng không
thể cảm nhận sự tồn tại của các loài động vật.

Tuy nhiên một số bộ phận của chúng lại được phát triển để thu hút
sự chú ý của các loài động vật, nhằm phục vụ sự sinh tồn của
chúng. Ví dụ: Hoa của chúng chứa phấn để thu hút các loài côn
trùng, hay hoa quả của chúng có vị ngọt, bổ dưỡng để thu hút các
loài chim, thú.

Lý giải của việc này là kết quả của quá trình tiến hóa và thích nghi
với môi trường, để giúp giống loài có thể tồn tại và phát triển. Đây
là tối đa hóa lợi ích giống loài.

210
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM

- Quy luật của sự thích nghi

Bộ não rất nhanh chóng thích nghi với môi trường bên ngoài.
Khi đã thích nghi với môi trường cũ, bộ não luôn cần những
kích thích mới để kích hoạt và duy trì sự hoạt động bình
thường của cơ thể.

Có lẽ những kích thích cũ luôn tác động vào cùng một nơi
trên bộ não, vì vậy khi kích thích cũ tác động nhiều lần sẽ
dẫn đến ức chế vượt hạn, hoặc cũng có thể các kích thích cũ
không gây được chú ý của bộ não dẫn đến không thể duy trì
được trạng thái thức tỉnh của não bộ, nên gây ra chán nản.

Vòng tròn thích nghi: Có nhu cầu mới => Nỗ lực để thỏa
mãn nhu cầu => Não bộ thích nghi với sự thỏa mãn => Có
nhu cầu mới.

Quy luật này nói lên rằng, trong cuộc sống hàng ngày phải
biết vừa đủ, nhất là trong quan hệ giữa người với người, tình
cảm nam nữ...

211
Một quan điểm về Triết học

Nếu bạn thỏa mãn yêu cầu đối phương nhiều quá, sẽ khiến
họ dễ có cảm giác thỏa mãn. Lâu dần dẫn đến chán nản và
phát sinh nhu cầu mới, như cảm thấy không còn yêu bạn nữa
mà thích một người con gái, con trai khác.

Để đảm bảo cho mối quan hệ bền vững, hãy biết đáp ứng nhu
cầu của đối phương vừa đủ, để họ luôn có cảm giác không
thỏa mãn và thèm muốn mối quan hệ đó.

Đặc biệt phải đòi hỏi đối phương đáp ứng lại những mong
muốn của bạn, tức là đầu tư cho mối quan hệ đó. Bởi theo
tâm lí, con người ta thường trân trọng những gì họ đầu tư
vào, ví dụ: Công sức, tiền bạc, thời gian, tình cảm, …

- Việc con người và các loài động vật hay tò mò tìm hiểu khám
phá xung quanh, đầu tiên cũng là vì sự sinh tồn của giống
loài mình, chứ không phải vì sở thích cá nhân đơn thuần.
Việc hay khám phá tìm tòi giúp con người và các loài động
vật nhanh chóng thích nghi với sự biến đổi của môi trường.
Sau khi khám phá môi trường, một cách tương đối, nó giúp
con người lý thuyết hóa các hiện tượng mà họ nhìn thấy.
Xâu chuỗi các lý thuyết đó giúp con người hình thành nên
các học thuyết giải thích các hiện tượng đó một cách chi tiết.
Ưu điểm của các học thuyết là, nó giúp con người có thể dự
đoán trước các hiện tượng có thể xảy ra trong tương lai. Và

212
Một quan điểm về Triết học

cũng dựa vào học thuyết đó, nó giúp con người hình dung
trước các phương án có thể đối phó với các hiện tượng đó.
Tóm lại, các học thuyết sơ khai cũng chỉ có tác dụng giúp
con người chủ động đối phó với các khó khăn xảy ra, không
còn bị động như trước, cho nên có thể sinh tồn tốt hơn ngoài
môi trường.
Chỉ khi sự sinh tồn của giống loài được đảm bảo, họ mới suy
tư đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, phát triển dựa trên những
học thuyết sẵn có. Chung quy lại, tính tò mò của con người
và động vật cũng để phục vụ sự sinh tồn của giống loài.

- Người ta bắt đầu một học thuyết bằng các kinh nghiệm.
Để làm được A thì phải làm B (nhiều lần thử làm nhiều cách
khác nhau và rút ra kinh nghiệm). Nhưng người ta lại tự hỏi
tại sao phải làm B thì mới làm được A, và bắt đầu đi tìm lời
giải thích cho nó. Đó là nơi tri thức bắt đầu.
Nhưng tri thức lại vượt lên trên kinh nghiệm. Bằng cách liên
tưởng, xâu chuỗi các sự kiện, kết hợp với trí tưởng tượng,
người ta bắt đầu hình thành các học thuyết. Và chính các học
thuyết này cho phép người ta có thể dự đoán các tình huống
mà thực tế họ chưa từng gặp.

Đây cũng là lúc tri thức đã vượt qua kinh nghiệm.

213
Một quan điểm về Triết học

ĐẠO

Trong quá trình phát triển của nhân loại kéo dài hàng nghìn năm,
đã sinh ra rất nhiều nhà tư tưởng cũng như những tôn giáo lớn nhỏ
khác nhau.

Nội dung chung nhất mà các tư tưởng, tôn giáo thể hiện là, bản
tính con người hiện tại, vốn chỉ là bản tính tầm thường của con
người (phần bản năng, con vật), mà theo đó, nó gây ra vui, buồn,
yêu, ghét (dục vọng), dẫn đến sự trì trệ, hỗn loạn trong xã hội. Đó
là những thứ chúng ta nên vứt bỏ và hướng đến một bản tính tốt
hơn (phần con người, lý trí), mà theo đó nó sinh ra nhân, lễ, nghĩa,
trí, tín, giúp cho cá nhân và xã hội ngày một tốt đẹp hơn.

Để đạt được nó, con người phải trải qua quá trình tu luyện bản
thân, mà điều đầu tiên là phải hiểu, việc gì nên làm hay không nên
làm. Từ đó mới từ từ điều chỉnh hành vi của mình.

Tuy nhiên để biết việc gì nên làm, hay không nên làm, đòi hỏi
người tu luyện phải có một lượng kiến thức nhất định.

214
Một quan điểm về Triết học

1) Chia sẻ với mọi người bài viết sưu tầm trên facebook.

Đức Phật có đi đái không? Tác giả AlexPhong

Thuở nhỏ, câu hỏi đầu tiên của tôi về Phật là liệu khi Đức Phật
uống nhiều nước thì ngài có đi đái hay không. Lớn lên, rồi cuộc
sống cơm áo, rồi ân oán tình thù cứ xoay vần làm cản trở nhiều lần
định tiếp cận Phật của tôi. Tôi chỉ muốn tiếp cận để tìm hiểu xem
thực sự nếu ngài uống nhiều nước, thì ngài có đi đái hay không.

Mới đầu tiếp cận, thì bạn cũng quá hiểu, Phật là một sự khủng
khiếp, quyền năng vô thượng. Đến Tôn Ngộ Không là anh hùng
trong mắt bọn chúng tôi, mà Phật lật tay phát úp gọn. Một mảnh
bùa dán lên là năm trăm năm người anh hùng chỉ có nằm ăn viên
sắt và uống nước gỉ đồng mà sống qua ngày. Rồi thiên hạ triệu
triệu người triều bái, cúng hàng trăm vạn lượng hoàng kim để cầu
khẩn Ngài. Ngài là thần trên muôn thần, đến Ngọc Hoàng thượng
đế bá đạo anh hùng như vậy mà vẫn dưới quyền ngài bảo kê.

Nói chung, tiếp cận Ngài chỉ thấy dân gian mô tả quyền năng vô
hạn lượng, và lòng từ bi cũng lượng vô hạn. Tôi không cách nào
hỏi được, thế thực sự ngài có đi đái hay không.

Rồi đến những ngày gần đây, khi bạn tôi, nhà khoa học Gấu Phệ
cũng theo Phật, ngày ngày cúi lạy Ngài, bề ngoài là xin giác ngộ
nhưng tôi biết, mong muốn thực sự của Gấu Phệ là giảm cân mà

215
Một quan điểm về Triết học

không phải ăn kiêng. Tôi lại càng muốn tiếp cận Ngài để hỏi Ngài
có đi đái hay không.

Rồi kì duyên đến, đến kì lạ một cách khó tả, giúp tôi tìm được câu
trả lời. Tất cả những gì nhân gian họ nói về Phật, kể cả những
người tu hành, đa phần là sai lạc và ngụy tạo. Những gì Đức Phật
để lại truyền dạy đã bị bóp méo, thậm chí bóp méo nhiều lần.

Thứ nhất, Phật không phải vị thần, cũng không phải thượng đế
hay cũng chẳng phải giáo chủ gì hết. Phật là trạng thái tỉnh, còn
chúng sinh hiện nay đang trong trạng thái mê. Phật là người đã giác
ngộ. Giác là tỉnh, Ngộ là nhận ra. Còn chúng sinh là những người
chưa tỉnh. Đức Phật là người tỉnh, truyền cách tỉnh lại cho nhân
gian. Đơn giản vậy thôi. Tớ tỉnh rồi, tớ nhận ra và muốn giúp các
bạn tỉnh. Không phải sáng lập phái, cũng không áp đặt. Loài người
mới tiến bộ tới mức chấp nhận sự bình đẳng của mọi người từ màu
da sắc tộc đến xuất thân.

Phật thì bá đạo hơn, Phật coi vạn vật đều bình đẳng, từ cỏ cây hoa
lá chim muông bình đẳng như con người hết. Không phân biệt,
thậm chí không phân biệt ta và ngoài ta luôn. Đức Phật là người,
cái ngài tìm thấy gọi là Đạo.

Đạo vốn hằng có và tự có như vậy. Ngài không sáng tạo ra, cũng
chẳng chuyển dời, mà chỉ đơn giản là thấy. Cho nên không có
chuyện Đức Phật di chuyển bốn biển hay hô mưa gọi gió. Ngài chả

216
Một quan điểm về Triết học

làm được cái gì, thậm chí còn không khỏe bằng tôi. Và Ngài cũng
chẳng trừng phạt được ai, vì tội xếch mé hay nói xấu Ngài. Có tu
sĩ Bà La Môn đến xúc xiểm, Ngài cũng chỉ dùng lời mà đáp, ông
kia nghe thì nghe, không nghe thì không nghe. Ngài cũng chẳng có
Như Lai Thần Chưởng đánh sấp mặt mấy thằng bật Ngài.

Đơn giản, Ngài chỉ là người, và người này đặc biệt là đã tỉnh ngộ.
Đạo đơn giản là các quy luật tự nhiên mà Ngài thấy. Nghĩa là gì,
ra mưa Ngài vẫn ướt. Gai đâm, Ngài vẫn đau. Và tôi tìm được câu
trả lời, đó là uống nhiều nước Ngài vẫn đi đái, mà có khi đái như
sứa luôn.

Tất cả những gì quyền năng và sự khủng khiếp nhân gian nói về


Đức Phật là họ gán như vậy. Và tôi cũng biết luôn rằng, Ngài chẳng
cho ai được cái gì. Làm gì có mà cho. Một xu dính túi cũng không.
Những gì cầu khẩn từ một vị thần ban phát là người đời tự tưởng
vậy. Họ kính, họ cầu, và họ tự nghĩ vậy.

Đức Phật tuy không cho đời một xu. Nhưng cái cho đời chính là
một con đường. Nôm na, ông là bậc thầy và chỉ vẽ. Làm hay không
là do thằng nghe, ông không liên quan, không cấp vốn, không gò
ép, không chiêu dụ, không tiếp tay. Cái thấy và cái biết của Đức
Phật không được ngài nói hết kể hết, vì theo ngài, đó là vô nghĩa.
Sau này, chúng sinh ngộ sẽ tự biết. Cái mà Đức Phật truyền duy
nhất, đó là: con đường diệt Khổ.

217
Một quan điểm về Triết học

Đầu tiên, Ngài xác định đối tượng cần giải quyết. Đó là Khổ. Chiết
nghĩa được từ này chắc cả vạn quyển không xong. Đơn giản, ta cứ
gọi là khổ đã. Tiếng Anh dịch là suffering (sự chịu đựng). Sau này,
bạn sẽ hiểu khổ không phải khổ đau ta hay dùng, mà khổ đơn giản
là sự sai lệch giữa kì vọng và thực tế. Thực tế mưa, bạn muốn nắng,
đó là khổ. Thực tế nóng, bạn muốn lạnh, đó là khổ. Khi nào, thực
tế mưa bạn thấy vui, nắng cũng thấy vui, đi qua đống rác thấy thối,
nhưng vẫn vui và chấp nhận rác thì phải thối, thì bạn là Phật.

Phật không dạy Cân Đẩu Vân, không dạy biến hình, không dạy
thần thông. Ngồi thiền 49 ngày, rồi quyết định theo con đường
Trung Đạo và soạn ra Tứ Diệu Đế cho đời. Xác định được Khổ,
ngài viết là Khổ Đế. Tiếp theo, Ngài dạy nguyên nhân Khổ tức Tập
Đế. Khi biết nguyên nhân Khổ, lại dạy diệt Khổ rồi thì sẽ như nào,
tức là Diệt Đế. Diệt Đế nôm na là mục đích muốn tới, là mười quả
bóng bowling đã thấy rõ. Cuối cùng, nắm rõ mục đích, Ngài mới
dạy cách đi tới đích tức Đạo Đế, cách diệt Khổ. Và cách diệt Khổ
có 8 cách, tức Bát Chánh Đạo. Cực kì rõ ràng và khúc chiết. Không
à uôm loằng ngoằng.

Đức Phật biết rất nhiều, nhưng không nói hết vì không liên quan.
Phật chỉ truyền cho nhân gian bốn điều trên, tức Tứ Diệu Đế, bốn
chân lý kỳ diệu. Chúng sinh nắm được bốn điều kì diệu trên là đạt
con đường tiệm tu đắc quả A La Hán. Tuy chậm nhưng chắc chắn.

218
Một quan điểm về Triết học

Tức là trước khi ngộ, chẻ củi gánh nước. Sau khi ngộ, cũng chẻ củi
gánh nước. Không có biến hình, không có bay lượn, không có siêu
giàu. Tất cả vẫn y nguyên, chỉ là trước đây Vô Minh, tức ngu, giờ
sáng, biết và hiểu quy luật nó thế. Trước khi ngộ, sờ tay bị điện
giật. Sau khi ngộ, sờ tay điện vẫn giật, chỉ là biết rồi nên không sờ
nữa. Vũ trụ đất trời vẫn vận hành như trước, chỉ là kẻ ngộ rồi không
còn khổ vì thấy nó bình thường, quy luật nó phải thế. Không còn
ái li biệt khổ, cái khổ vì xa cách người mình yêu. Không còn oán
tăng hội khổ, cái khổ vì gặp kẻ mình ghét. Không còn cầu bất đắc
khổ, là cái khổ vì cầu không được, ước không thấy.

Tức là nếu Đức Phật uống nhiều nước, Ngài vẫn đi đái, nhưng Ngài
hiểu điều đó.

Tất cả những gì nhân gian huyền hoặc về Phật về Pháp là bịa đặt.
Thậm chí cản đường những người truy cầu chính đạo đến với Phật
Pháp. Phật Pháp quá đơn giản, tới mức nói vài câu đã hết. Nhưng
thế giới tự vẽ rắn thêm chân, rết cười nắc nẻ, ra cả một mớ loạn xạ
rườm rà, pháp khí rồi đạo môn. Cái chân lý thì không nắm, chỉ
chạy theo thần thông với chả hư hoa. Đức Phật gọi chúng sinh là
kẻ mê cũng đúng. Đưa thuốc giải cho mấy thằng mê thì chúng nó
cũng chỉ gây mê thêm những thằng khác mà thôi.

Đức Phật nói rằng nếu yêu quý ngài, noi theo ngài, thì cũng chỉ
làm được người khôn, chứ không tự tu thì không thành được kẻ
ngộ. Tất cả những hình tượng lập ra để thờ Phật là do đời sau yêu
mến, suy tôn và tưởng nhớ nên lập ra, chứ Đức Phật không mong
219
Một quan điểm về Triết học

cái đó, cũng không tạo dựng cái đó. Tất cả đều bình đẳng, và phải
tự ngộ, ta chỉ là người vẽ chút kinh nghiệm, các người thấy ta sai
thì cứ bỏ mà tự tìm đúng, đừng lạy ta để xin ta.

Ngàn năm Mặt Trời vẫn thế, là bản thể Mặt Trời. Nhưng nhận thức
về Mặt Trời của con người luôn thay đổi, ngày càng sáng rõ hơn.
Thay đổi mãi, đổi mãi để tiệm cận đến bản thể thực sự của Mặt
Trời. Cho dù nhận ra rồi, thì Mặt Trời vẫn thế, chỉ là con người đỡ
khổ vì ngu vì vọng tưởng Mặt Trời thôi. Chứ đừng mong có thể
dịch chuyển hay bắn rụng Mặt Trời.

Có nghĩa là gì? Nghĩa là nếu không làm thì không bao giờ có.
Không làm thì Việt Nam không thành siêu cường được đâu, ngồi
đó mà lạy Phật. Chỉ là nếu làm, thì hãy làm theo quy luật vận hành
tự nhiên thì sẽ thành công. Nhắm mắt làm bừa làm ẩu thì chỉ có
xuống hố. Vì khi Đức Phật uống nhiều nước, Ngài cũng phải đi đái
mà thôi.

220
Một quan điểm về Triết học

2) Giới thiệu với mọi người bài thơ của thiền sư Hương Hải

(1626 – 1715 – một thiền sư Việt Nam sống vào đời


Hậu Lê)

Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Dịch:

Sông dài cánh Nhạn bay qua,

Ảnh chìm đáy nước vệt nhòa lung linh.

Nhạn không để dấu của mình,

Nước nào lưu bóng giữ hình làm chi!

Cái đặc điểm của con người là hay muốn nắm giữ, muốn theo đuổi
một cái gì không bao giờ nắm giữ được. Nhìn con nhạn lướt qua
với chiếc bóng lung linh trên mặt nước, mà đã muốn lưu lại bóng
hình trong phim ảnh, trong tranh vẽ, trong lời thơ.

221
Một quan điểm về Triết học

Trong khi đó, nhạn chỉ bay qua, không có ý để lại dấu vết, nước
chỉ phản ánh lại, không có tâm giữ lại bóng hình. Bóng hình đó có
hay không cũng chỉ là trong ánh mắt của người nhìn, là trong tâm
của người thưởng ngoạn. Nói là không có thì cũng không đúng.
Có, nhưng sự thật là không có gì khác, không có gì để nắm bắt, để
ghi lại, để tiếc nuối.

Điều đắc ý nhất của Hương Hải là “vô tâm” – không có nghĩa là
thờ ơ, không chú ý. Nhưng ngược lại, đây có những công năng siêu
việt hơn, không để bất cứ những tư duy, tương quan nào có thể
dính mắc, không bị những sai sử của sai biệt, không khởi lên những
khuynh hướng đối lập, nhị nguyên.

Như một sự rỗng suốt thanh thoát ở trong tâm, chưa một lần khởi
lên những phân biệt, tâm, cảnh, chủ thể, khách thể. Đến đi trong
cuộc đời, tiếp xúc với trần thế, nhưng không bao giờ đắm nhiễm,
ung dung tự tại, làm tất cả nhưng tất cả không làm hề hấn được cái
tâm không này.

222
Một quan điểm về Triết học

3) Trích “Ngũ luân thư”. Tác giả Miyamoto Musashi (1584 –


1645 – triết gia người Nhật)

Tôi thường tự hỏi: "Người đánh ta, giận ta, là tại người hay tại ta
làm cho ta giận". Nhưng nếu ta biết người đánh ta là người điên,
ta có còn giận người ấy nữa không? Chắc hẳn là không, nếu ta là
người biết xét. Trái lại, nếu ta biết người đánh ta là người tỉnh, thì
ắt ta không khỏi phải nổi cơn giận dữ.

Ở đời, hễ có sanh thì có tử, có lợi tất có hại, có nên tất có hư. Muốn
có lợi mà không có hại, có nên mà không có hư, có sanh mà không
có tử, là người hết sức mê loạn. Nhưng mà con người thường chỉ
muốn có nên, có lợi mà không có hư, có hại, cho nên đối với sự
đời không thể giữ gìn đặng sự điềm tĩnh. Đặng thì sướng, mất phải
khổ. Nên mà vui, thì hư tất phải buồn... Tâm trí con người bị mắc
trong cái vòng lẩn thẩn của cái sợ, làm gì không sanh ra khiếp
nhược được. Chưa ắt đặng mà mừng, là họ thật sướng. Trong cái
sướng ấy đã có cái khổ rồi: Sợ mất, nên phải kiên cố giữ gìn... Họ
cũng tưởng đã tìm được cái yên tĩnh cho lòng rồi. Nhưng họ nào
có dè... Họ phải đau khổ vì mảng lo sợ cho tương lai. Tương lai đã
báo cho họ biết: Không có cái gì là trường cửu cả. Cái ý tưởng ấy
nó giày xé tâm can họ, họ phải lo nghĩ đủ điều để gìn giữ củng cố,
cương với lẽ sinh diệt lạnh lùng của Tạo hóa. Cho nên: Đặng cũng
khổ, mà mất cũng khổ. Tâm hồn họ không bao giờ yên tĩnh. Những
223
Một quan điểm về Triết học

kẻ sống đài các nơi lâu đài dinh thự mà vẫn xem thường, như lúc
cùng khổ ở chốn nhà tranh vách đất; những kẻ đang ngồi trên thiên
hạ mà vẫn không xem là vinh, cầm gọng xe làm thân trâu ngựa,
cũng không cho là nhục, những kẻ ấy bao giờ cũng giữ được tấm
lòng thanh cao siêu thoát. Ở đời, họ không còn có cái gì sợ nữa cả.

224
Một quan điểm về Triết học

PHẦN KẾT, CẢM NHẬN CỦA TÁC GIẢ

Khi đọc đến đây, chắc có lẽ bạn đã biết rằng, tôi là người theo chủ
nghĩa duy vật (tức vô thần), tôi không tin vào một đấng toàn năng
đã sáng tạo ra vũ trụ, tôi cũng không tin về linh hồn, và những thứ
phức tạp sau khi chúng ta chết đi.

Ở đây mong người đọc lưu ý cho rằng, tôi theo chủ nghĩa duy vật
không có nghĩa là tôi chứng minh được chủ nghĩa duy tâm là sai.
Thực ra, trong mức độ hiểu biết và khả năng suy luận của bản thân
(tức là có thể có những thứ mà tôi chưa biết, hoặc khả năng suy
luận còn thiếu sót, không bao quát được hết vấn đề), cá nhân tôi
cho rằng chủ nghĩa duy vật có xác suất xảy ra cao hơn chủ nghĩa
duy tâm, nó cũng giải thích các sự vật, hiện tượng một cách rõ
ràng, hợp lí hơn…

Cũng chính vì là người vô thần nên tôi không tin vào thuyết linh
hồn (đối với tôi chết là hết), cá nhân tôi phủ nhận thuyết nhân quả
và luân hồi trong Đạo Phật.

Thuyết nhân quả - luân hồi của Đạo Phật có thể giải thích ổn thỏa
khi giải thích số phận riêng rẽ của từng cá nhân nào đó. Thế nhưng
nó lại tỏ ra hoàn toàn yếu thế khi xét đến những trường hợp vĩ mô

225
Một quan điểm về Triết học

hơn. Ví dụ: Những trận động đất, sóng thần, bệnh dịch gây thiệt
hại cho hàng vạn, thậm chí hàng triệu người dân vô tội cùng lúc.

Ví dụ: Bệnh dịch hạch đã từng giết hàng trăm triệu người dân châu
Âu, thuyết nhân quả sẽ giải thích hiện tượng này như thế nào?
Những người dân vô tội đó không lẽ trong tiền kiếp đã gây nhiều
nghiệp cùng lúc, nên kiếp này mới đồng loạt chịu chung số phận
cùng lúc như vậy?

Còn chế độ nô lệ thì sao? Những người nô lệ không lẽ trong quá


khứ cũng gây rất nhiều nghiệp chướng, nên ngày xưa những người
nô lệ mới nhiều đến vậy? Quan trọng hơn, hệ thống phân loại người
tốt xấu sau khi chết để quyết định nhân quả của một người, bắt đầu
xuất hiện khi nào? Và những người chịu trách nhiệm giám sát và
phân loại đó, ai đã bầu họ vào chức đấy vậy?

Thực sự với thuyết nhân quả - luân hồi trong đạo Phật nếu truy
xuất đến cùng thì chúng ta có quá nhiều câu hỏi nghi vấn hơn là
câu trả lời.

226
Một quan điểm về Triết học

Nhân quả nghiệp báo là một giáo lý phổ quát căn bản trong
đạo Phật.

Đạo Phật chủ trương tất cả mọi hành vi tạo tác của ba nghiệp
thân, miệng, ý con người đều tạo thành những nghiệp nhân và
nghiệp nhân đó sẽ thành nghiệp quả hiện hành báo ứng ở ba
thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai.

Rất nhiều người sau khi biết quan điểm vô thần của tôi đã nói, nếu
đã không tin vào linh hồn thì còn thờ cúng ông bà tổ tiên, hay làm
giỗ người thân để làm gì? Xin trả lời rằng, đúng là tôi không tin
những người thân của tôi nếu chết thì hương hồn họ sẽ vẫn tồn tại
và theo dõi, phù hộ mình ở bên kia thế giới.

Thế nhưng, chỉ vì lí do đó mà bỏ đi phong tục thờ cúng ông bà tổ


tiên thì lại là sai lầm. Việc thờ cúng ông bà là một truyền thống
văn hóa tốt đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta, và nó cần
được gìn giữ và lưu truyền mãi về sau.

Việc thờ cúng ông bà chỉ thể hiện một điều rằng, là con cháu chúng
ta không bao giờ quên công ơn sinh thành, dưỡng dục của ông-bà,
bố-mẹ. Bởi vì nếu không có họ, đã không có chúng ta trên cuộc
đời này, và chúng ta luôn ghi nhớ công lao đó trong lòng.

227
Một quan điểm về Triết học

Vậy nên thờ-cúng, giỗ-chạp chỉ cần đơn giản không cần rườm rà,
nhất là việc đốt vàng mã. Rất nhiều người vì thiếu hiểu biết đã đốt
rất nhiều hương vàng với hi vọng các cụ sẽ phù hộ thật nhiều cho
mình. Đây không khác gì là một hình thức đút lót ngay cả với người
thân đã khuất của mình.

Riêng đối với ngày giỗ thì không mong gì, chỉ mong con cháu có
thể tề tựu đầy đủ. Đối với hương hồn người đã khuất (nếu có) thì
có lẽ cũng không mong gì hơn thế. Bản thân tôi đi đình chùa thì
cũng vậy, thực ra tôi rất ít khi đi, nhưng nếu đi thì cũng chỉ muốn
tìm cảm giác bình an trong lòng, chứ tôi không cầu xin gì ở nơi
đấy cả.

Nhiều người khác lại cho rằng, những người theo chủ nghĩa vô
thần dễ bị tha hóa, bởi vì họ không tin bị báo ứng, thế nên dễ sống
theo hướng hưởng thụ và tham nhũng nếu có cơ hội. Người hữu
thần vì tin nhân quả sau khi chết, nên nếu có cơ hội để tham nhũng
cũng không dám, bởi vì sợ báo ứng.

Thực sự cách tư duy như vậy cũng có những nhược điểm của nó,
khi mà bạn sống mà có cảm giác ai đó vô hình đang giám sát ghi
lại những sự việc bạn làm hàng ngày, liệu sinh hoạt của bạn có còn
tự nhiên nữa không? Một điều nữa, sống kiếp này chưa xong đã
phải lo cho kiếp sau, thứ mà bạn không thể cầm nắm được, nghe
thật buồn cười. Vậy nên sống một đời hãy nên biết một đời.

228
Một quan điểm về Triết học

Sự thật là người vô thần thì họ cũng có những nỗi sợ của riêng


mình, cũng chính những nỗi sợ đó ngăn cản họ làm những việc sai
trái. Với nhiều người không hiểu thì họ cho rằng người vô thần chỉ
sợ chết, điều này không hoàn toàn đúng.

Chết thì ai mà chả sợ, cá nhân tôi thấy những người hữu thần họ
cũng sợ chết có khác gì tôi đâu. Thế nhưng ngoài sợ chết ra, họ
còn sợ một điều khác nữa, đó là họ sợ trong dòng chảy nhận thức
của nhân loại tưởng chừng dài như vô tận đó, họ không đóng góp
được một chút giá trị gì cả.

Tức là trong xã hội đông đúc này, sự tồn tại của họ không có ý
nghĩa (tồn tại như không tồn tại), có họ cũng được mà không có họ
thì cũng chả sao, như vậy khác gì sống mà như không sống. Thật
mỉa mai khi nghĩ rằng, trong sự vận động gần như vô cùng vô tận
của xã hội, sự tồn tại của chúng ta lại không đóng góp được một
chút gì trong đó. Bởi vì như vậy cũng có nghĩa là một sự xác nhận,
rằng chúng ta không tồn tại trong xã hội này. Như vậy so với việc
không được sinh ra chưa chắc đã hơn bao nhiêu, chứ chưa nói là
sợ cái chết (bởi cái chết là một sự xác nhận rằng ít nhất chúng ta
từng tồn tại, từng sống).

Nhiều người cho rằng, bởi vì những người tin mình chỉ sống một
lần duy nhất, nên họ dễ dung túng cho bản năng, sống theo lối
hưởng thụ là chủ yếu, tức là sợ chết, sợ đau, sợ khổ, thích ăn ngon,
mặc đẹp, cuộc sống nhàn hạ, nhiều người khen… Tôi buồn cười,
ai mà chả muốn vậy, nếu có cơ hội. Bạn nên nhớ rằng, bản năng là
229
Một quan điểm về Triết học

thứ được cài đặt sẵn trong não bộ của mỗi cá nhân, mục đích của
nó là giúp cho cá nhân đó có thể tồn tại, tồn tại khỏe mạnh, và duy
trì nguồn gen của mình cho thế hệ sau.

Chính vì vậy bản năng tạo ra nỗi sợ hãi để ngăn cản một hành vi
mà nó cho rằng không có lợi cho sự tồn tại của cá nhân đó, và tạo
ra ham muốn nếu có lợi cho sự tồn tại, cũng như duy trì nguồn gen
của cá nhân đó. Vậy nên, bản năng không xấu, nó chỉ hoạt động
một cách máy móc mà thôi, vì thế con người mới có lý trí (là phần
bù khuyết của bản năng) là để xem xét có nên hành động theo bản
năng hay không.

Tóm lại, bản năng là thứ được cài đặt cho mỗi cá nhân, không ai
không có và không bị thôi thúc bởi bản năng cả, còn nghe theo bản
năng hay không thì đó lại tùy thuộc vào nhận thức cũng như khả năng
kiềm chế cảm xúc của bạn.

Cá nhân tôi còn một nỗi sợ khác lớn hơn, đó là sợ sự phán xét của thế
hệ tương lai, của chính con cháu mình sau này. Bởi xét đến cuối cùng,
thì chính con cháu của chúng ta mới là người quyết định xem chúng ta
có phải đã từng sống hay không, bằng cách tưởng nhớ hay lãng quên
chúng ta. Và cũng chính con cháu chúng ta mới có quyền phán xét xem
chúng ta đã từng sống như thế nào, bằng cách lấy chúng ta ra làm gương
để răn dạy thế hệ sau nữa.

Mà tôi thì không muốn bị chúng lôi tôi ra chỉ trích, xem sự tồn tại của
tôi như một sự lãng phí tài nguyên hay kéo lùi sự phát triển xã hội. Ai

230
Một quan điểm về Triết học

rồi cũng phải chết, một đời người sống được mấy chục năm, chỉ là một
cái chớp mắt so với vận mệnh trường tồn của dân tộc.

Đổi một cuộc sống ăn sung mặc sướng mấy chục năm của một cá nhân,
lấy sự chỉ trích, kinh miệt cả nghìn năm của một dân tộc với số dân cả
trăm triệu người là một cái giá quá đắt, tôi sẽ không bao giờ làm như
vậy. Nếu bạn là người biết xét, chắc hẳn cũng sẽ suy nghĩ và hành động
như tôi thôi.

Tóm lại, khi đọc phần triết học siêu hình này, bạn đã biết vì sao tôi lại
chọn theo chủ nghĩa duy vật. Những dẫn chứng biện luận trên hoàn
toàn khách quan, không hề thiên vị một trường phái triết học nào. Đơn
giản, tôi là một người suy nghĩ và hành động hoàn toàn dựa trên logic
và xác xuất, cái gì phù hợp với logic và có xác suất xảy ra cao hơn, tôi
theo cái đó. Vậy nên nếu bạn chỉ ra được lỗi sai trong lập luận của tôi,
tôi sẽ nghe theo bạn.

SỐNG - CHẾT

Ta mở đầu chủ đề này với một giả thuyết rằng, con người phát
minh ra một cỗ máy dịch chuyển tức thời, có thể dịch chuyển ngay
lập tức một người từ vị trí này tới vị trí khác.

Bằng cách quét thông tin vị trí và liên kết các nguyên tử cấu tạo
nên người cần dịch chuyển, sau đó truyền thông tin đã quét đến nơi
mà người này cần dịch chuyển đến. Tại đây cũng có một cỗ máy
231
Một quan điểm về Triết học

tổng hợp các nguyên tử, và dựa vào thông tin được gửi đến, nó sẽ
sắp xếp lại các nguyên tử (đã được chuẩn bị sẵn) theo trật tự giống
hệt như người kia. Như vậy, người đó đã được dịch chuyển đến
nơi mà mình muốn.

Ở đây có một vài vấn đề:

1) Tuy rằng người này đã được dịch chuyển tức thời, mang theo
cả kí ức và suy nghĩ của mình. Thế nhưng những nguyên tử
cấu tạo nên người mới (kí hiệu người mới là A’ để phân biệt
với người cũ lúc chưa tiến hành dịch chuyển A) lại không

232
Một quan điểm về Triết học

phải là những nguyên tử cấu tạo nên người cũ kia. Như vậy,
người A’ có được xem là người A không?
2) Trong quá trình dịch chuyển, vì một lỗi nào đó mà người A
không bị hủy ngay lập tức thành những nguyên tử tự do.
Trong khi đó, ở nơi cần dịch chuyển đến, người A’ đã được
hình thành (do thông tin quét đã được truyền đến). Như vậy
chúng ta phải nhìn nhận người A và A’ như thế nào, khi cả
hai đều mang hình hài, kí ức, tính cách, lối suy nghĩ giống
hệt nhau?

Nhận xét: Với vấn đề 1 ta có thể xem như người A đã chết và


người A’ chỉ là một bản sao chép của người A mà thôi.

Nhận xét này vẫn đúng khi ta xét các ví dụ sau:

1) Một người A vì muốn sống lâu hơn nên đã truyền kí ức, nhận
thức của mình vào một con robot, đồng thời cơ thể người A
cũng chết. Con robot này sau đó suy nghĩ và hành động y hệt
người A kia.
2) Bạn A bị tai nạn chết, gia đình rất thương tiếc bạn A. Chính
tay gia đình đưa bạn A vào lò thiêu và lấy tro cốt đem về.
Thế nhưng vài ngày sau đó, có một vị thần xuất hiện và nói
rằng sẽ phục sinh A. Vị thần đã làm phép khiến A' xuất hiện
với đầy đủ hình hài, cũng như kí ức của A trước kia. Vậy ta

233
Một quan điểm về Triết học

có thể kết luận là A' chính là A đã sống lại hay không, khi
mà tro cốt của A vẫn còn trong kia?

Ta giả thuyết một trường hợp khác. Đó là nhận thức thay đổi, thế
nhưng cơ thể không thay đổi.

Giả dụ một người không có bố mẹ hay họ hàng thân thiết, không


có một mối liên hệ nào với xã hội, tự nhiên bị mất hoàn toàn trí
nhớ không có khả năng phục hồi (giả dụ sau một vụ tai nạn chẳng
hạn). Tức là người đó vẫn sống bình thường, nhưng không nhớ
những gì xảy ra trước vụ tai nạn đó, phải học lại tất cả mọi thứ như
một đứa trẻ sơ sinh, tính cách và thói quen cũng thay đổi hoàn toàn.

Vậy thì có thể xem khoảnh khắc vụ tai nạn đó là họ đã chết rồi và
giờ đang sống một kiếp khác được không?

Một trường hợp khác, nếu cho chúng ta cuộc sống bất tử, nhưng
cứ 100 năm lại mất hoàn toàn trí nhớ một lần thì có khác so với
một người sống 100 tuổi và chết?

Bây giờ chúng ta sẽ xét trường hợp của chính chúng ta.

Bất kì ai đang sống thì đều cần phải ngủ để cơ thể được nghỉ ngơi
lấy lại năng lượng, và đây cũng là lúc ý thức của chúng ta không
còn. Hay nói cách khác, ý thức của chúng ta bị đứt đoạn khi chúng
234
Một quan điểm về Triết học

ta ngủ. Ngày hôm sau chúng ta vẫn sinh hoạt như bình thường, vẫn
nhớ những chuyện đã xảy ra trong quá khứ.

Bây giờ giả thuyết rằng khi bạn (A) và mọi người xung quanh đang
ngủ, tức là ý thức của bạn và mọi người không còn, không biết
chuyện gì đang xảy ra, thì có một thế lực nào đó bắt và giết bạn,
sau đó thay thế bằng một người giống hệt bạn (A’). Cả hai người
đều có kí ức và nhận thức giống nhau.

Người đó (A’) và những người xung quanh sau khi ngủ dậy không
hề biết chuyện gì xảy ra trong đêm qua. Họ vẫn sinh hoạt như bình
thường, và người đó (A’) đương nhiên vẫn nghĩ mình là bạn (A).
Về mặt triết học chúng ta đương nhiên phải công nhận bạn (A) đã
chết, và người kia (A’) chỉ là người thay thế.

Thế nhưng đây mới là vấn đề, đó là khi chúng ta ngủ, chúng ta
không có cách nào để xác nhận là, chúng ta có bị thay thế bởi một
người y hệt chúng ta hay không? Tức là khi bạn đang ngủ, bạn
hoàn toàn có thể bị giết và bị thay thế bởi một người y hệt bạn, và
chuyện đó có thể xảy ra hàng đêm.

Việc mỗi sáng mai thức dậy với suy nghĩ rằng, tôi của ngày hôm
qua đã chết và tôi của ngày hôm nay là hoàn toàn mới, chỉ là mang
kí ức, nhận thức của tôi của ngày hôm qua, thật điên rồ, nhưng lại
không có cách nào phủ nhận khả năng đó.

235
Một quan điểm về Triết học

Vậy đấy, sự sống và cái chết về mặt triết học mà nói có thể là một
quá trình đan xen liên tục hàng ngày. Cái chết về mặt sinh học chỉ
xảy ra khi chúng ta không tạo ra được một bản sao thay thế cho
chúng ta của ngày hôm trước mà thôi, kể ra thì nó có vẻ cũng không
đáng sợ lắm.

ĐÔI ĐIỀU VỀ CÁCH LẬP LUẬN

1) Ngụy biện

Socrates, một triết gia Hy Lạp cổ đại (khoảng 400 năm TCN), được
mệnh danh là bậc thầy về lý luận và truy vấn. Ông có một phương
pháp biện luận rất hay là đưa ra một loạt câu hỏi, từ đó rút ra chân
lý. Những câu hỏi của Socrates thoạt nghe có vẻ rất đơn giản, ví
dụ như: “Một người rất sạch sẽ, một người thì rất dơ dáy. Tôi mời
hai người họ đi tắm, thử hỏi ai sẽ đi tắm trước?”.

Ngụy biện là gì?

Đang lúc lên lớp triết học, các học sinh thỉnh giáo nhà hiền triết
Socrates: “Thưa thầy, thầy có thể lấy ví dụ thực tế để nói rõ một
chút, rốt cuộc cái gì gọi là ngụy biện được không ạ?”.

236
Một quan điểm về Triết học

Socrates suy nghĩ một lúc, sau đó nói: “Giả sử có hai người đến
nhà thầy làm khách, một người rất sạch sẽ tươm tất, còn người kia
thì rất bẩn thỉu xuề xòa. Thầy mời hai người này đi tắm, các em
thử nghĩ xem, hai người họ ai sẽ đi tắm trước?”.

“Điều này còn phải hỏi, tất nhiên là người bẩn thỉu kia rồi”. Một
em học sinh lớn tiếng nói.

“Sai rồi, là người sạch sẽ kia”. Socrate phản bác nói, “Bởi vì người
sạch sẽ kia đã dưỡng thành thói quen thích tắm gội, còn người bẩn
thỉu lại cho rằng không cần phải đi tắm gì cả. Hãy nghĩ thử đi, rốt
cuộc ai sẽ đi tắm trước đây?”.

“Là người sạch sẽ kia”. Hai em học sinh nói tiếp.

“Không đúng, là người bẩn thỉu. Bởi vì người bẩn thỉu càng cần
phải tắm gội hơn người sạch sẽ kia”. Socrates lại phản bác nói.

Sau đó, Socrates lại hỏi thêm lần nữa: “Như vậy xem ra, trong hai
người khách rốt cuộc ai sẽ đi tắm trước đây?”.

“Là người bẩn thỉu!”. Ba em học sinh lớn tiếng lặp lại câu trả lời
lần thứ nhất.

“Lại sai nữa rồi. Đương nhiên là cả hai người đều sẽ đi tắm”.
Socrates nói, “Bởi người sạch sẽ có thói quen tắm gội, còn người
bẩn thỉu kia thì cần phải đi tắm. Thế nào, rốt cuộc ai sẽ là người đi
tắm trước đây?”.

237
Một quan điểm về Triết học

“Thế thì xem ra hai người đều sẽ đi tắm”. Bốn em học sinh lưỡng
lự trả lời.

“Không đúng, cả hai đều sẽ không tắm”. Socrates giải thích, “Bởi
vì người bẩn thỉu không có thói quen tắm gội, còn người sạch sẽ
kia thì vốn không cần phải tắm”.

“Lời thầy nói đều có đạo lý cả, nhưng chúng em rốt cuộc phải hiểu
thế nào đây?”. Các học sinh bất mãn nói, “Mỗi lần thầy nói đều
không như nhau, nhưng lại đều luôn đúng cả!”.

Socrates nói: “Chính là như vậy. Các em xem, ở bề ngoài, ở hình


thức dường như là vận dụng thủ đoạn suy luận chính xác, nhưng
trên thực tế lại là trái với quy luật khách quan, đưa ra kết luận nghe
thì thấy giống thật nhưng lại là sai, đấy chính là ngụy biện! Thủ
đoạn ngụy biện thường thấy là có thay đổi luận đề, ngụy tạo căn
cứ, luận chứng vòng vo, cưỡng từ đoạt lý, cắt câu lấy nghĩa…”.

Sai lầm khách quan trong ngụy biện

Các học sinh lại thỉnh giáo Socrates: “Thưa thầy, ngụy biện chính
là cố ý làm luận chứng cho lý lẽ sai trái nào đó, sai lầm khách quan
tinh vi trong đó thật không dễ phát hiện. Thầy có thể dùng ví dụ để
làm rõ một chút làm sao mới có thể nhìn thấy được sai lầm khách
quan trong ngụy biện đó đây?”.

238
Một quan điểm về Triết học

Socrates suy nghĩ một hồi, rồi đưa ra một ví dụ kiểm tra trí khôn
như sau:

“Có hai người công nhân cùng nhau chui vào sửa chữa ống khói
đã nhiều năm chưa từng lau chùi. Khi họ chui từ ống khói ra, một
người thì rất sạch sẽ, còn người kia thì muội than nhem nhuốc khắp
người. Thế thầy hỏi các em: ai sẽ đi tắm trước đây”.

Một em học sinh nói: “Đương nhiên là người công nhân bị lấm bẩn
khắp người sẽ đi tắm trước”.

Socrates nói: “Thật như vậy ư? Mong các em hãy chú ý, người
công nhân sạch sẽ thấy người kia lấm bẩn khắp người hết cả, anh
ta chắc chắn sẽ cho rằng từ trong ống khói chui ra thật sự rất là
bẩn; còn người kia nhìn sang thì thấy đối phương rất sạch sẽ, lúc
đó anh ta khẳng định sẽ không nghĩ như vậy nữa, mà cho rằng bản
thân nhất định cũng rất sạch sẽ. Bây giờ thầy hỏi các em, ai sẽ là
người đi tắm trước?”.

Hai em học sinh rất phấn khích tranh nhau trả lời: “Ồ! Em biết rồi!
Khi người công nhân sạch sẽ trông thấy người công nhân kia toàn
thân nhem nhuốc lấm bẩn, tất nhiên sẽ cho rằng bản thân mình
cũng bẩn y như vậy. Còn người công nhân nhem nhuốc bởi thấy
đối phương sạch sẽ, nên sẽ tưởng rằng mình cũng sạch sẽ như vậy!
Vậy nên nhất định là người công nhân sạch sẽ đó sẽ chạy đi tắm
gội trước rồi”.

239
Một quan điểm về Triết học

Socrates nhìn nhìn những em học sinh khác, dường như tất cả họ
đều đồng ý với câu trả lời này.

Chỉ thấy Socrates chậm rãi nói: “Câu trả lời này cũng không đúng.
Hai người cùng chui từ trong ống khói đó ra, làm sao có thể có
chuyện người này thì sạch sẽ, còn người kia thì nhem nhuốc bẩn
thỉu được? Đây chính gọi là trái với quy luật khách quan, cũng
chính là sai lầm khách quan trong ngụy biện”.

Các em học sinh lại thỉnh giáo Socrates: “Thưa thầy, vậy ta nên
nhìn nhận tác dụng trong ngụy biện thế nào đây?”.

Socrates trả lời: “Kẻ giỏi nói không bằng người biết phân tích lắng
nghe. Ngụy biện nhìn ngoài thì hiệu nghiệm thật, nhưng không
cao. Xảo trá chi bằng hãy sống chân thành, muôn nghìn diệu kế
chẳng bằng sống đúng đạo làm người”.

3) Quy luật bình trà Trung Hoa.


Russell (1872 – 1970 – một triết gia người Anh) thừa nhận rằng,
ông tin có một chiếc bình trà Trung Hoa nhỏ đang quay giữa Trái
Đất và sao Hỏa. Nó quá nhỏ để có thể nhìn thấy bởi các kính thiên
văn cỡ lớn hiện nay. Ông khuyên nên xây dựng một đài thiên văn
lớn hơn để tìm ra nó.

Sau khi đài thiên văn được xây dựng, người ta tiến hành quan sát
nhưng chẳng tìm thấy bằng chứng nào của cái bình trà. Tuy nhiên
Russell vẫn khẳng định rằng chiếc bình trà vẫn ở đó, có điều, nó
240
Một quan điểm về Triết học

nhỏ hơn trông đợi một chút, và ông lại khuyên nên xây dựng một
đài thiên văn lớn hơn nữa để tìm nó. Đây được gọi là thay đổi điều
kiện, mặc dù cái bình trà chưa từng được tìm thấy, nhưng theo
Russell, nó là một khẳng định không thể chối cãi.

Ý nghĩa của câu chuyện là việc nghĩ ra một lí thuyết mà không thể
chứng minh hay bác bỏ được bằng lí thuyết, cũng như quan sát
được bằng thực nghiệm, đều là vô nghĩa. Bởi lẽ nó không dạy cho
bạn bất cứ điều gì, cho dù bạn có tin tưởng vào nó bao nhiêu đi
chăng nữa.

Bạn có thể phát minh ra bất kì vật gì, hay bất kì khái niệm nào bạn
thích, nhưng nếu không có cách quan sát nó hoặc hệ quả của nó,
thì bạn chẳng có đóng góp gì cho nhận thức của nhân loại.

Nhà vật lí vĩ đại người Mỹ - Richard Feynman (1918 – 1988) -


từng nói rằng: “Cho dù lý thuyết của anh có đẹp nhường nào chăng
nữa hay tên tuổi của anh có to bự cỡ nào chăng nữa, nhưng nếu lý
thuyết của anh mâu thuẫn với thực nghiệm thì nó sai”. Trong phát
biểu này có cái cốt lõi của khoa học. Diễn đạt phát biểu này thêm
một chút, “Nếu một lý thuyết không thể kiểm tra được bởi thực
nghiệm thì chúng ta chẳng thể nào xác định nó đúng hay là sai.
Đơn giản là nó chẳng còn ý nghĩa nữa”.

Tuy nhiên điều đó có nghĩa là chúng ta vẫn có thể giả định một
khái niệm là đúng, cho dù nó không thể kiểm tra được. Nhưng cái

241
Một quan điểm về Triết học

nguy hiểm của việc làm như thế là nguy cơ chúng ta đang cản trở
sự tiến bộ trong tương lai bởi vì chúng ta bảo lưu một ý kiến không
cần thiết.

(Trích 360.thuvienvatly.com)

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay chúng ta có hàng vạn lý thuyết,
học thuyết của nhiều tác giả khác nhau, nhất là trên hai địa hạt tôn
giáo và khoa học. Thế nhưng có những học thuyết trong đó không
đúng, lý do thì có nhiều, nhưng chủ yếu là do các tác giả chưa đủ
nhận thức (suy xét tới tận cùng) về lĩnh vực mà học thuyết đó đề
cập. Nhất là thời kì xa xưa khi con người chưa có công cụ quan sát
hiện đại như bây giờ, những học thuyết của họ thường mang tính
chất sáng tạo hơn là tính logic và tiên đoán thực nghiệm.

Cái tai hại của học thuyết sai là nó làm cho bạn tốn thời gian với
nó và qua đó cản trở bạn tiếp cận với những học thuyết đúng đắn
có tính thực nghiệm cao.

Vậy thì làm thế nào để biết một học thuyết là đúng đắn hay sai lầm.

Một: Bất kì học thuyết nào cũng đều phải dựa trên những quan sát
thực nghiệm từ đó rút ra quy tắc, định luật, tiên đề làm nền tảng để
xây dựng nên học thuyết của mình. Vậy nên, nếu học thuyết đó
dựa trên những nguyên tắc, định luật, hay tiên đề sai lầm (mang

242
Một quan điểm về Triết học

tính chất giáo điều) thì học thuyết đó rõ ràng là sai, chúng ta không
cần mất thời gian để học những thứ như vậy.

Hai: Một học thuyết phải giải được phần đa các hiện tượng nằm
trong lĩnh vực của nó, đồng thời có thể đưa ra những tiên đoán, có
thể kiểm nghiệm thực tế thì càng tốt.

Có một lý thuyết mà tôi muốn bác bỏ, mà nó đã ăn sâu vào tâm


khảm người Đông Á chúng ta, đó là thuyết ngũ hành.

Người xưa cho rằng vạn vật được cấu thành từ năm nguyên tố:
kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và dùng nó như nền tảng để xây dựng các
học thuyết của mình. Thế nhưng, ngày nay khoa học đã chứng
minh rằng vạn vật được cấu thành từ những hạt lượng tử, vậy nên
thuyết ngũ hành kia là sai, và những học thuyết lấy nền tảng từ ngũ
hành cũng không đúng.

Có hai học thuyết lấy ngũ hành làm nền tảng, đó là Kinh Dịch và
y học phương đông (Đông Y). Đây là lí do tôi không bao giờ đọc
Kinh Dịch, đương nhiên những người tin vào Kinh Dịch hay Đông
Y sẽ cố gắng lí giải các hiện tượng thực nghiệm dựa vào các học
thuyết trên. Thế nhưng quá trình lí giải sẽ trở nên vòng vo, rối rắm
và trong quá trình lí giải vòng vo đó, chắc chắn sẽ có một lỗi sai
nhỏ nào đó trong cách lập luận, dẫn đến lí giải được các hiện tượng.

Chúng ta hãy xét đến trường hợp học thuyết của Đông Y trong lĩnh
vực lí giải căn nguyên của các bệnh và cách chữa.

243
Một quan điểm về Triết học

Đầu tiên bằng quan sát thực nghiệm, người xưa nhận ra rằng có
một số loại thảo dược, hay một tổ hợp các thảo dược có thể chữa
được một số bệnh tương ứng. Đây là mối liên hệ đầu tiên, sau thời
gian, danh sách các loại thảo dược nhiều lên, người xưa bắt đầu
nhóm các loại thảo dược có cùng công hiệu lại, đây hoàn toàn là
dựa trên quan sát thực nghiệm (kinh nghiệm).

Thế nhưng để xây dựng một lý thuyết hoàn chỉnh nhằm phát hiện,
chẩn đoán bệnh và bào chế thuốc (gia giảm các loại thảo dược, để
tăng công hiệu chữa bệnh), người xưa bắt buộc phải kết hợp giữa
kinh nghiệm thực tế và nguyên lý nền tảng lúc bấy giờ họ có
(thuyết âm-dương, ngũ hành). Hay nói đúng hơn là dựa trên âm
dương ngũ hành để lí giải các kinh nghiệm thực tế mà họ quan sát
được, đây là tiền đề của lý thuyết về Đông Y.

Vậy nên muốn xây dựng một lý thuyết Đông Y hiện đại, bắt buộc
phải lấy những quy luật, tiên đề đúng đắn làm nền tảng để lý giải
các kinh nghiệm quan sát được. Đây không phải là việc dễ, và nó
cũng không phải là công việc của tôi, nó là trách nhiệm của những
người yêu quý lĩnh vực Đông Y này.

Tôi lấy Đông Y cũng là để nói đến những học thuyết khác, nếu bạn
yêu quý học thuyết nào đó, hãy chỉnh sửa nó dựa trên những
nguyên lý nền tảng đúng đắn.

244
Một quan điểm về Triết học

245
Một quan điểm về Triết học

PHẦN HAI

TRIẾT HỌC
CHÍNH TRỊ

246
Một quan điểm về Triết học

Chúng ta sẽ bàn luận từng vấn đề cụ thể, trong một xã hội mà quyền
con người bình đẳng thì liệu chúng ta có cần lãnh đạo hay không?

Rất nhiều người cổ vũ cho chủ nghĩa vô chính phủ (không cần nhà
nước, hay cá nhân nào quản lí, lãnh đạo). Quan sát các loài động
vật sống theo bầy, chúng ta thấy rằng, trong bầy luôn luôn có con
đầu đàn, lãnh đạo. Tại sao lại như vậy, khi mà con đầu đàn luôn
được ưu tiên phần hơn, thức ăn, bạn tình… rõ là bất công cho
những con còn lại nếu đem ra so sánh với con đầu đàn. Để trả lời
câu hỏi, hãy liên hệ đến chúng ta.

Giả sử rằng, có một nhóm 10 người có quyền như nhau, tham gia
tranh luận để đi đến thống nhất xử lý một vấn đề nào đó phục vụ
công việc chung. Vì quyền như nhau nên họ không đồng ý cho ai
đứng ra điều hành buổi tranh luận đó, thì liệu họ có thể đi đến kết
luận phương án xử lý cho vấn đề đó được không?

Có thể, những việc này khó khăn hơn nhiều so với việc họ bầu một
người am hiểu về lĩnh vực đó nhất trong nhóm đứng ra điều hành
buổi họp. Đương nhiên lời nói của người điều hành là có trọng
lượng hơn, dưới sự góp ý của những người còn lại trong nhóm.

Tại sao lại như vậy?

Lí do là mỗi người chúng ta đều có một thế giới quan khác nhau,
không ai giống ai. Cùng một sự việc có thể với người này là đúng
với người kia lại là sai, dẫn đến khó thống nhất trong việc ra quyết
247
Một quan điểm về Triết học

định và thường sẽ chậm trễ trong hành động. Số người càng lớn thì
càng khó thống nhất. Ở quy mô lớn như quốc gia thì hoàn toàn
không thể thống nhất được ý kiến của tất cả mọi người.

Việc có người lãnh đạo giải quyết được vấn đề này, bởi vì mọi
người đều nghe theo người lãnh đạo nên vấn đề được thông qua
nhanh. Vậy nên nhóm có thể phản ứng kịp thời với các vấn đề xuất
hiện trong quá trình hoạt động, và nhóm có cơ hội tồn tại nếu giải
quyết đúng hướng.

Khác hoàn toàn với trường hợp không có lãnh đạo bởi vì việc chậm
trễ, không thể phản ứng kịp thời với vấn đề đang đặt ra, thì cũng
xem như là giải quyết sai hướng của vấn đề, và nhóm sẽ không thể
tồn tại được. Tuy nhiên, nhược điểm của việc có lãnh đạo là nó
không đại diện được cho nhiều người, khi mà những người có ý
kiến khác lại bắt buộc phải nghe theo người lãnh đạo.

TÓM LẠI: Khác biệt giữa xã hội không cần lãnh đạo hay cần lãnh
đạo, đó là sự đánh đổi giữa tính đại diện lấy tốc độ phản ứng với
vấn đề. Và tự nhiên đã chứng tỏ rằng, thà chọn lãnh đạo để lấy tốc
độ phản ứng nhanh với vấn đề, thì còn có khả năng tồn tại nếu lựa
chọn đúng, còn hơn là phản ứng chậm trễ với vấn đề, và chắc chắn
là không thể tồn tại được. Đó là lí do vì sao các loài động vật sống
theo nhóm thường có con đầu đàn.

248
Một quan điểm về Triết học

Vậy chúng ta cần thống nhất rằng, xã hội luôn cần lãnh đạo (cá
nhân, hoặc tập thể) để phản ứng kịp thời với các thách thức được
đặt ra nhằm duy trì sự sống còn của xã hội đó.

Vấn đề tiếp theo là làm thế nào để phản ứng vừa nhanh vừa có độ
chính xác cao để tăng độ sống còn của xã hội, hay nói rõ hơn là bộ
phận lãnh đạo xã hội (đất nước) làm thế nào để tăng độ chính xác
trong phản ứng với các thách thức được đặt ra. Đây là câu hỏi khó
đồng thời cũng là nhiệm vụ của phần hai này thông qua việc lựa
chọn thể chế phù hợp.

249
Một quan điểm về Triết học

Vấn đề xã hội dân sự (XHDS) và chính đảng:

Trong một đất nước dân chủ, mọi cá nhân có quyền tự do


ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do hội họp, tự do tổ chức và
thành lập các hội dưới nhiều hình thức khác nhau của tổ chức
phi chính phủ.

Những người có cùng điểm tương đồng, cùng sở thích, cùng lợi
ích, cùng tư tưởng… sẽ có xu hướng tập hợp nhau lại thành lập các
hội nhóm để tiện cho việc sinh hoạt, trao đổi, phục vụ cho lợi ích
của mình. Những hội nhóm này được gọi chung là xã hội dân sự,
chúng ta thấy sự đa dạng trong các mục đích và kích cỡ của hội
nhóm. Khi những người có cùng mục đích tập hợp lại với nhau,
tiếng nói của họ sẽ gây được nhiều ảnh hưởng hơn trong xã hội.
Thông qua đó, họ có thể bảo vệ mình trước các áp lực trong xã hội.
Ví dụ: Chống lại sự bất công, độc đoán…

Alexis De Tocqueville, nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng người
Pháp thế kỉ 19 đã viết: “Không có một đất nước nào mà sự đòi hỏi
cấp thiết phải có các hiệp hội để chống lại sự chuyên chế, bè cánh
và sự độc đoán lãnh đạo như một đất nước được xây dựng theo
kiểu dân chủ”.

250
Một quan điểm về Triết học

Tập hợp những người có cùng mục tiêu chính trị tạo thành hội
nhóm với mục đích chính trị thì ta gọi là chính đảng, như vậy chính
đảng chính là trường hợp đặc biệt của xã hội dân sự.

Chính đảng: Là một tập hợp có mục đích chính trị, một tập
thể cùng theo đuổi, thực thi một lý tưởng, một đường lối, một
chủ nghĩa chính trị. Hay nói một cách khác, những thành viên
trong cùng một chính đảng đều có chung một tín ngưỡng
chính trị.

Như vậy chúng ta thấy:

Trong một đất nước tự do, việc thành lập chính đảng là việc hết
sức bình thường, và vì có nhiều tư tưởng, mục đích chính trị khác
nhau, cũng như đề ra nhiều chương trình hành động để đạt được
mục đích là khác nhau, nên cũng hình thành nhiều đảng phái khác
nhau.

Lợi ích của chính đảng

1) Bởi vì đây là các tổ chức với mục đích là chính trị, nên đây
là môi trường chuyên nghiệp để đào tạo các chính trị gia
chuyên nghiệp, phục vụ đất nước.

251
Một quan điểm về Triết học

2) Các chính trị gia lãnh đạo đất nước thường sẽ bị giới hạn
nhiệm kì, thế nhưng là đảng viên thì không bị giới hạn thời
gian. Hơn nữa các tổ chức chính đảng lớn thường có thời gian
tồn tại rất dài, vậy nên kinh nghiệm của các chính trị gia khi
lãnh đạo đất nước sẽ không bị mất đi, mà được lưu giữ thông
qua việc truyền đạt lại kinh nghiệm cho các đảng viên khác
trong đảng của họ.

Như vậy chính đảng có ưu điểm là nơi lưu giữ lâu dài và
truyền đạt lại các kinh nghiệm quản trị đất nước của các chính
trị gia.

3) Đảng phái là nơi tập hợp những người có chung mục đích
chính trị, nên phải có mục đích, cương lĩnh chính trị, chương
trình hành động rõ ràng, bởi nếu không sẽ không thu hút được
đảng viên. Đây là sự ràng buộc rõ ràng giữa đảng và các đảng
viên của mình.
Vậy nên, một đảng phái, về cơ bản không thể lừa được người
dân nhằm gia tăng số phiếu ủng hộ cho mình. Điều này khác
hoàn toàn với việc bầu cho cá nhân, bởi cá nhân không bị
ràng buộc gì nên hoàn toàn có thể lừa người dân nhằm gia
tăng số phiếu ủng hộ.

252
Một quan điểm về Triết học

Bầu cử lãnh đạo nên bầu cho cá nhân hay tập thể
(chính đảng)

STT Cá nhân Chính đảng


Cử tri (người dân) có thể bầu Việc bầu cho chính đảng,
1 cho một cá nhân, mà cá nhân người dân chỉ có thể bầu cho
đó chiếm được cảm tình của một đảng phái có chương
cử tri. Việc chiếm được tình trình hành động tốt.
cảm không nhất thiết đòi hỏi Loại bỏ hoàn toàn việc cử tri
cá nhân đó là người giỏi về bầu lãnh đạo theo cảm tính.
chính trị mà có thể là ở
nguyên nhân khác. Ví dụ là
một người đẹp trai, hay một
ngôi sao giải trí ….
Với việc bầu một người
không giỏi về chính trị lên
làm lãnh đạo đất nước, việc
này có thể gây ra những hậu
quả nghiêm trọng
Nhiệm kì của một cá nhân Với chính đảng thì không
2 thường có giới hạn. Ví dụ: xuất hiện trường hợp như ở
Tổng thống thường chỉ có tối cá nhân lãnh đạo.
đa hai nhiệm kì, mỗi nhiệm kì Bởi vì số nhiệm kì mà chính
khoảng 4 năm. đảng có thể đảm nhiệm là rất

253
Một quan điểm về Triết học

Trong và sau nhiệm kì đó, nhiều. Vậy nên, để có thể lấy


người dân hoàn toàn không lòng cử tri và trúng cử các
thể làm gì được vị tổng thống, nhiệm kì sau, chính đảng buộc
trừ trường hợp phát hiện vi phải thực hiện lời hứa của
phạm pháp luật. mình.

Như vậy sẽ phát sinh trường Ngược lại, với thời gian hoạt
hợp, người lãnh đạo sẽ hứa động lâu dài của chính đảng, cử
suông, để lấy phiếu cử tri mà tri cũng đã rõ văn hóa, tổ chức
không thực hiện lời hứa đó, bởi của chính đảng đó như thế nào.
cử tri không làm được gì lãnh Từ đó có thể đánh giá chính xác
đạo sau khi đã mãn nhiệm. các chính đảng, và chọn ra
chính đảng phù hợp nhất lãnh
đạo đất nước.
Bởi vì cá nhân lãnh đạo không Với chính đảng, một khi trúng
3 liên quan đến chính đảng, vậy cử lãnh đạo đất nước, người
nên sẽ không được chính đảng lãnh đạo sẽ được đảng của
hỗ trợ các kinh nghiệm đã gặp mình hỗ trợ các kinh nghiệm
phải trong lịch sử. Từ đó lúng lãnh đạo mà đảng đó đã có
túng không biết giải quyết thế trong các nhiệm kì trước, như
nào gây mất thời gian, còn có vậy công việc sẽ trôi chảy hơn.
thể gây thiệt hại cho đất nước. Kinh nghiệm lãnh đạo đất nước
Ngược lại, những kinh nghiệm nhiệm kì này cũng sẽ được
trong thời gian cá nhân lãnh đạo chính đảng lưu giữ.
gặp phải, cũng không biết Như vậy, chính đảng còn có
truyền lại cho ai, xem như chức năng lưu giữ các kinh

254
Một quan điểm về Triết học

những kinh nghiệm quý báu đó nghiệm lãnh đạo đất nước,
bị mất. không để nó bị thất thoát.

Như đã phân tích, chúng ta có thể thấy rằng, việc bầu chính đảng
lãnh đạo đất nước sẽ tốt hơn rất nhiều, so với việc bầu một cá nhân
lãnh đạo đất nước.

Đơn đảng, hay đa đảng lãnh đạo đất nước?

Đây là vấn đề khá phức tạp, đầu tiên ta phải nhớ rằng tối đa hóa
lợi ích cá nhân (hay thói tư lợi) là bản chất của con người nói riêng,
và của các loài động vật nói chung, sau hàng tỉ năm tiến hóa. Vấn
đề này tôi đã viết rất rõ ở phần triết học siêu hình.

Chính trị lại là trường hợp đặc biệt, nó cung cấp cho người lãnh
đạo rất nhiều đặc quyền, lợi ích, khiến cho người lãnh đạo dễ bị
cám dỗ và suy thoái đạo đức. Đúng ra chúng ta không nên tin vào
đạo đức của người lãnh đạo, khi cung cấp cho họ nhiều đặc quyền
như vậy.

Chính đảng cũng là tổ chức do con người tạo ra, vậy nên, lí do tồn
tại của chính đảng cũng không nằm ngoài bản chất của con người.
Nói đúng hơn thì chính đảng cũng chỉ là công cụ của con người
mà thôi.

Vậy đã không tin vào con người thì cách duy nhất là phải kiểm
soát nó, làm sao cho người lãnh đạo không có khe hở để lợi dụng
tham nhũng. Người lãnh đạo muốn có lợi ích cho mình, cách duy
255
Một quan điểm về Triết học

nhất là người đó phải làm lợi cho đất nước của anh ta. Những người
chỉ làm lợi cho mình, mà gây tổn hại cho đất nước phải bị phát hiện
và loại bỏ, tránh trường hợp các lãnh đạo có kẽ hở để bao che dung
túng tội ác cho nhau.

Vậy đơn đảng, hay đa đảng lãnh đạo đất nước, thực ra là để xem
trường hợp nào có cơ chế kiểm soát tốt hơn.

Từ định lí bất toàn của Kurt Godel mà tôi đã viết ở phần triết
học siêu hình chúng ta có các hệ quả sau:

Định lí này khẳng định rằng: Bất kì một hệ tiên đề hình thức
độc lập đủ mạnh để miêu tả số học cũng hàm chứa những
mệnh đề không thể khẳng định cũng không thể phủ định.

Tức là bất kì một hệ thống lí thuyết kín nào đều không thể tự
chứng minh được nó là đúng.
(1) là nó phải dựa vào những tiên đề có trước, mà những tiên
đề đó chỉ được thừa nhận mà không thể chứng minh được
nó. Hoặc
(2) là chúng ta phải đi ra ngoài hệ thống lí thuyết đó và nhờ
một hệ thống lí thuyết khác chứng minh nó.

256
Một quan điểm về Triết học

Bản thân “nghịch lí tôi nói dối” và “định lí bất toàn” khẳng định
một điều rằng, bản chất việc chúng ta tự đánh giá (nhận xét) về bản
thân mình, mà không có sự tham khảo từ người khác là tự mâu
thuẫn, không đáng tin cậy. Mở rộng ra một tổ chức cũng vậy, để
người trong tổ chức ấy tự đánh giá về tổ chức của mình thì đều
không đáng tin cậy.

Điều này có nghĩa là, bản thân người trong đảng không thể nào
đánh giá đúng về đảng của mình được, cũng như không thể nào
kiểm soát được nó. Mà phải nhờ người, tổ chức bên ngoài nhìn vào
đánh giá, mới có thể cho kết quả khách quan, chính xác được. Mà
người hoặc tổ chức bên ngoài có thể là người dân, tổ chức xã hội,
hoặc các chính đảng đối lập.

Chúng ta sẽ tìm hiểu mối quan hệ giữa người dân và các chính
đảng thông qua câu chuyện:

“Phải sống cùng sói hoặc sư tử, cuối cùng bầy cừu đã lựa chọn
ra sao?”

Bầy cừu phải chọn sống chung với một loại thiên địch của mình,
chúng có hai lựa chọn: Sống chung với sói hay sống chung với sư
tử? Và kết quả thực sự khiến chúng ta phải suy ngẫm.

Trên một vùng thảo nguyên có hai bầy cừu, Thượng đế đã an bài
một bầy sống ở phía Nam, một bầy sống ở phía Bắc. Thượng đế

257
Một quan điểm về Triết học

còn cho hai bầy cừu tự tìm kiếm hai loại kẻ thù tự nhiên (thiên
địch), một là sư tử, một nửa là sói.

Thượng đế nói với bầy cừu rằng: “Nếu như các ngươi chọn sói thì
ta sẽ cấp cho các ngươi một con và nó có thể tùy ý cắn giết các
ngươi. Còn nếu như các ngươi chọn sư tử, thì ta sẽ cấp cho các
ngươi hai con, các ngươi có quyền lựa chọn sống cùng một con
trong số chúng và tùy thời điểm mà hoán đổi”.

Nếu như là bạn, thì bạn sẽ chọn sói hay chọn sư tử? Rất dễ dàng
để lựa chọn phải không nào? Lựa chọn xong rồi, bạn hãy nhớ kỹ
lựa chọn của mình và theo dõi tiếp để biết lựa chọn của bầy cừu.

Bầy cừu ở phía Nam nghĩ rằng, sư tử thì dũng mãnh hơn sói rất
nhiều, hay là chúng ta chọn sói đi! Thế là, chúng chọn một con sói.

Bầy cừu ở phía Bắc nghĩ rằng, mặc dù sư tử dũng mãnh hơn sói rất
nhiều, nhưng chúng ta lại có quyền hoán đổi một trong hai con sư
tử nên chúng ta chọn sư tử đi! Thế là chúng chọn hai con sư tử.

Ở phía Nam, sau khi con sói tiến vào bầy cừu, nó liền bắt đầu ăn
thịt chúng.

Thân thể sói nhỏ, sức ăn cũng nhỏ, cho nên một con cừu cũng đủ
cho nó ăn mấy ngày. Và như thế, bầy cừu vài ngày mới bị truy đuổi
một lần.

Bầy cừu ở phía Bắc chọn một con sư tử, con sư tử còn lại được lưu
lại ở nơi của Thượng đế. Sư tử sau khi tiến vào bầy cừu, nó cũng

258
Một quan điểm về Triết học

bắt đầu ăn chúng. Sư tử không những dũng mãnh hơn sói, mà sức
ăn của nó cũng kinh người. Mỗi ngày nó đều phải ăn một con cừu.
Như vậy, bầy cừu phía Bắc ngày ngày bị truy sát nên cũng vô cùng
hoảng loạn.

Bầy cừu phía Bắc đã vội vã xin Thượng đế đổi con sư tử kia.
Nhưng thật không ngờ rằng, con sư tử kia khi lưu lại chỗ Thượng
đế đã không hề được ăn gì, đói khát không chịu được, nên đã nhào
vào bầy cừu mà cắn giết còn điên cuồng hơn con lúc trước.

Bầy cừu phía Bắc suốt ngày chỉ lo trốn chạy để khỏi chết, ngay cả
cỏ cũng không kịp ăn.

Bầy cừu phía Nam may mắn khi đã lựa chọn đúng kẻ thù thiên
địch, lại cười nhạo bầy cừu phía Bắc không có con mắt tinh tường
khi lựa chọn.

Bầy cừu phía Bắc thấy hối hận vô cùng và thống thiết kể khổ với
Thượng đế, cầu mong được thay đổi thiên địch – đổi thành sói.

Thượng đế nói: “Một khi đã lựa chọn thiên địch rồi thì không thể
thay đổi được, nhiều đời sau cũng phải tuân theo, các ngươi chỉ có
quyền lợi duy nhất là ở cùng hai con sư tử đã lựa chọn đó mà thôi”.

Bầy cừu phương Bắc đành phải không ngừng hoán đổi chung sống
với hai con sư tử.

Nhưng hai con sư tử đều hung tàn như nhau, hoán đổi con nào thì
cũng bị thê thảm hơn bầy cừu phương Nam rất nhiều. Chúng dứt

259
Một quan điểm về Triết học

khoát không hoán đổi nữa, khiến cho một con ăn đến béo mập, cơ
thể cường tráng, con còn lại thì bị đói bụng đến gầy còm.

Khi con sư tử gầy đói kia sắp chết, bầy cừu liền lên Thượng đế xin
đổi sang ở cùng với nó.

Con sư tử gầy trải qua thời gian dài đói khát dần dần hiểu ra một
đạo lý: Bản thân tuy dũng mãnh phi thường, 100 con cừu cũng
không là đối thủ, nhưng vận mệnh của nó là nằm trong tay bầy cừu
điều khiển. Bầy cừu bất cứ lúc nào cũng có thể đưa nó trở về chỗ
Thượng đế, cho nó chịu đủ sự dày vò, hành hạ của đói khát, thậm
chí có thể bị chết đói.

Sau khi nghĩ thông suốt đạo lý đó, con sư tử gầy gò đối xử với bầy
cừu rất khiêm nhường, nó chỉ ăn con cừu chết hoặc con cừu bị
bệnh, mà không ăn con cừu khỏe mạnh nào nữa.

Bầy cừu mừng rỡ, có mấy con cừu nhỏ muốn đề nghị ở cố định với
con sư tử gầy, không muốn con sư tử mập kia nữa.

Một cừu già liền nhắc nhở: “Con sư tử gầy này là sợ chúng ta trả
nó lại nơi Thượng đế để nó chịu đói chịu khát nên mới đối tốt với
chúng ta như thế. Nhưng ngộ nhỡ con sư tử mập kia chẳng may
chết đói thì chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào nữa, lúc đó con
sư tử gầy này sẽ rất nhanh chóng khôi phục lại bản tính hung tàn
của nó”.

Bầy cừu cảm thấy con cừu già nói rất có lý, vì không muốn cho
con sư tử mập kia chết đói, chúng vội vàng đổi nó về sống cùng.
260
Một quan điểm về Triết học

Con sư tử béo tốt trước kia bây giờ cũng đã đói bụng, đến nỗi chỉ
còn lại da bọc xương, hơn nữa cũng đã hiểu được đạo lý rằng, số
mệnh của mình là nằm trong sự điều khiển của bầy cừu. Để có thể
sống trên thảo nguyên lâu hơn, nó lại tìm mọi cách để nịnh nọt bầy
cừu. Còn con sư tử bị trả về nơi Thượng đế thì khổ sở đến chảy
nước mắt.

Bầy cừu phía Bắc sau khi đã trải qua trùng trùng điệp điệp những
trắc trở, cuối cùng chúng đã vượt qua và sinh sống tự do tự tại.

Tình cảnh của bầy cừu phía Nam thì càng ngày càng bi thảm, con
sói kia vì không có đối thủ cạnh tranh, bầy cừu lại không có cách
gì thay thế nó, nó lại được thể làm xằng làm bậy. Mỗi ngày đều
muốn cắn chết mấy chục con cừu. Con sói từ sớm đã không thèm
ăn thịt cừu nữa, nó chỉ uống máu của cừu, còn không cho phép con
cừu nào được kêu. Con cừu nào mà kêu thì sẽ bị nó cắn chết ngay
lập tức.

Bầy cừu phía Nam lúc này chỉ có thể than thở trong lòng: “Sớm
biết như thế này, chi bằng lựa chọn hai con sư tử còn hơn!”

Câu chuyện nhỏ nhưng mang lại cho chúng ta thật nhiều bài học
sâu sắc.

Bạn muốn được sống một cuộc đời vui vẻ thoải mái, thì ngoài khả
năng mạnh yếu bên ngoài, còn cần tự mình “nắm giữ quyền quyết
định” nữa. Cuộc đời mỗi người đôi khi phải đứng trước nhiều sự

261
Một quan điểm về Triết học

lựa chọn, vì vậy chúng ta phải chọn phương án giúp nắm chắc vận
mệnh của mình.

Cuộc sống có thể vui vẻ, hoặc khổ đau, nhưng hãy để tự mình quyết
định mang đến những điều chúng ta khao khát.

Nếu không nắm trong tay quyền quyết định, thì dù bạn có mạnh
đến đâu cũng không thắng được số phận. Bầy cừu phương Nam
chọn sói vì nghĩ nó ít hung hãn hơn, và với sức ăn của sói, chúng
ngỡ rằng mình sẽ không bị ăn thịt nhanh chóng. Thế nhưng, quyền
làm chủ thuộc về sói nên bầy cừu phương Nam phải chịu một kết
cục thương tâm.

Ngược lại, hai chú sư tử tưởng mạnh mẽ, dữ dằn, có thể điều khiển
được bầy cừu phương Bắc, nhưng cuối cùng, khi nhận ra, nó không
điều khiển được số phận của mình, nó đã phải nhượng bộ.

Có nhiều người nghĩ mình tài giỏi, và chỉ cần có sức mạnh là có
thể làm được mọi thứ, nhưng khi quyền quyết định không nằm ở
bạn, thì mọi “vật ngoại thân” ấy đều không có nghĩa lý gì.

Trong chính trị thì con sói trong bài viết này tượng trưng cho chế
độ độc đảng. Mặc dù triết lí của đảng đó có tốt đẹp đến đâu nhưng
nếu như không có cơ chế kiểm soát nó, thì cuối cùng, nó cũng sẽ
thoái hóa về mặt đạo đức và quay lưng lại với nhân dân. Khi đó
người dân sẽ phải chịu kiếp sống lầm than, khổ sở.

262
Một quan điểm về Triết học

Còn hai con sư tử kia tượng trưng cho hai đảng cạnh tranh với nhau
để điều hành đất nước. Sư tử tuy mạnh nhưng quyền kiểm soát số
phận của nó lại thuộc về bầy cừu (tức nhân dân). Nếu làm sai,
chúng sẽ phải chịu trừng phạt (bỏ đói). Đối với đảng phái thì đó là
sự giảm sút tín nhiệm của nhân dân, kết quả là phải nhường quyền
lãnh đạo đất nước cho một đảng khác được nhân dân tín nhiệm
hơn. Để không bị bỏ đói sư tử phải nịnh bợ bầy cừu. Chúng chỉ
dám ăn những con sắp chết, thậm chí còn làm mọi cách để đàn cừu
sinh sản với số lượng lớn, mà thông qua đó mới có nhiều con cừu
già sắp chết để chúng ăn.

Với con người, trong một hệ thống đa đảng, các đảng phải ra sức
để chăm sóc, nịnh bợ công dân của mình, nhằm giữ được tín nhiệm
của nhân dân đối với họ trước các đảng khác. Và thông qua đó có
thể lãnh đạo đất nước được lâu dài hơn (tức không bị bỏ đói).

Thông qua câu chuyện trên, chắc bạn cũng đủ hiểu việc chọn đơn
đảng hay đa đảng thì sẽ tốt hơn.

Chọn đơn đảng thì người dân mất quyền kiểm soát đảng đó, chọn
đa đảng thì quyền kiểm soát đảng thuộc về người dân. Có nhiều
đảng tự do cạnh tranh nhau để giành quyền lãnh đạo đất nước, cách
kiểm soát ở đây là cho các đảng kiểm soát lẫn nhau.

Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh, đây là cách kiểm
soát tốt nhất (khi một đảng nắm quyền lãnh đạo, những đảng khác

263
Một quan điểm về Triết học

vì muốn thay thế sẽ tìm những lỗi của đảng lãnh đạo để chỉ trích,
nhằm làm giảm uy tín của đảng đó trong mắt người người dân. Vậy
nên đảng lãnh đạo chỉ còn cách làm thật tốt để không bị các đảng
khác thay thế). Điều này cũng dẫn đến chế độ dân chủ.

Thêm nữa, đừng bao giờ nghe những người trong đảng nói về đảng
của mình.

Tóm lại: Chúng ta có sơ đồ về nhà nước như sau:

Đất nước không có lãnh đạo < đất nước có lãnh đạo

Đất nước cá nhân trị < đất nước đảng phái trị

Đất nước đơn đảng < đất nước đa đảng

264
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM

Bàn một chút về lý luận Marx - Lenin.

Thứ nhất: Karl Marx cho rằng giai cấp công nhân nên là giai cấp
lãnh đạo đất nước.

Quan điểm này là sai lầm, bởi vì, một khi công nhân lên làm lãnh
đạo đất nước, thì những người lãnh đạo đất nước đó, họ đã không
còn là công nhân nữa. Như vậy, mong ước giai cấp công nhân lên
làm lãnh đạo đất nước là không bao giờ có.

Quan trọng hơn, lí luận này dẫn tới một hệ quả, đó là những người
làm công nhân họ vốn chỉ biết làm công việc chân tay, họ không
quen với những công việc mang tính học thuật, nhiều nhất là những
công việc mang tính vĩ mô.

Vậy nên khi lên làm lãnh đạo đất nước, họ đã không đủ năng lực
để thực hiện nghĩa vụ của mình, dẫn đến những quyết sách sai lầm
gây thiệt hại rất lớn cho đất nước, mà có những thiệt hại mà phải
mất nhiều năm sau mới có thể khắc phục được.

Thứ hai: Ông cho rằng giai cấp công nhân lên làm lãnh đạo đất
nước, cũng đồng nghĩa ông tán thành cho chế độ độc đảng. Nếu
không, ông có thể giải thích thêm, như giai cấp công nhân nên chia
thành hai đảng thay nhau lãnh đạo đất nước. Nhưng không có bất
cứ tài liệu nào của ông ấy viết như vậy cả.

265
Một quan điểm về Triết học

Có thể ông cho rằng, những người công nhân là những người lao
động khổ cực, nên khi lên làm lãnh đạo đất nước, họ sẽ thông cảm
và đấu tranh cho tầng lớp ở dưới của xã hội.

Tôi khẳng định luôn, đây là sai lầm lớn nhất đời ông, mà nó đã
gieo chết chóc tang thương lên nhân loại. Ông đã bỏ quên điều cơ
bản nhất, đó là bản chất của con người.

Tôi xin nhắc lại, trong một xã hội ổn định thì tối đa hóa lợi ích cá
nhân là bản chất của con người. Việc một người nghiên cứu triết
học chính trị mà lại không tìm hiểu về bản chất con người, thông
qua nhiều lĩnh vực, trong đó có tâm lí học thì đó rõ ràng là một
thiếu sót nghiêm trọng.

266
Một quan điểm về Triết học

KHÁI NIỆM CHUNG

VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ trung ương
tới địa phương, hợp thành hệ thống được tổ chức, hoạt động theo
những nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ nhằm thực
hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.

Cấu tạo bộ máy nhà nước cơ bản theo chiều ngang bao gồm: Hành
pháp, tư pháp, lập pháp. Còn theo chiều dọc là từ trung ương đến
địa phương.

Sơ đồ mô hình tổng thống chế, mà đại diện là Mỹ.

267
Một quan điểm về Triết học

Ba cơ quan chủ yếu cấu thành nhà nước:


+ 1, Hành pháp (chính phủ): Thực thi chính sách, pháp luật.
+ 2, Lập pháp (quốc hội): Ban hành luật pháp.
+ 3, Tư pháp (tòa án): Duy trì công lý trong xã hội.

LẬP PHÁP (QUỐC HỘI)

Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành
những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Quyền lập pháp do quốc hội tiến hành.

Cơ quan lập pháp (quốc hội) là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có
quyền thông qua các luật. Những người làm trong quốc hội được
gọi chung là nghị sĩ hoặc dân biểu, họ được người dân bầu lên, đại
diện cho nhân dân để làm luật.

Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện
và quốc hội (có thể là quốc hội lưỡng viện (thượng viện, hạ viện)
hoặc nhất viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng
khác nữa. Trong hệ thống nghị viện của chính phủ (đại nghị), cơ
quan lập pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định cơ quan
hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ quan lập pháp được xem là
phân nhánh quyền lực tương đương và độc lập với cơ quan hành
pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ quan lập pháp còn có quyền
tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác.
268
Một quan điểm về Triết học

HÀNH PHÁP (CHÍNH PHỦ)

Cơ quan hành pháp là cơ quan thi hành hiến pháp và các đạo luật
do quốc hội ban hành.

Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính nhà nước thực thi để
đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình.

Quyền hành pháp bao gồm hai quyền: Quyền lập quy và quyền
hành chính.

Quyền lập quy là quyền ban hành những văn bản pháp quy dưới
luật, để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lý tất cả các mặt, các quan
hệ xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước. Quyền hành
chính bao gồm các quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành
chính, quyền tổ chức thực thi và áp dụng pháp luật trong các mối
quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức và giữa các
cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.

Bộ máy hành chính bao gồm chính phủ (nội các) và các cơ quan
hành chính công.

269
Một quan điểm về Triết học

Hành chính và hành pháp – (Trích chính trị bình dân - Phạm Đoan
Trang.)

Theo Austin Ronney hành pháp là những cơ quan được bầu cử hay
được chỉ định làm việc trong những nhiệm kì có giới hạn để khởi
xướng các chính sách, định hướng, hướng dẫn công việc của cơ
quan hành chính. Còn hành chính là những cá nhân được chỉ định
để thực hiện công việc thực thi pháp luật, thực thi các chính sách.
Nhiệm kì và sự thăng tiến của họ phụ thuộc vào công trạng, thành
tích chuyên môn hơn là những liên hệ đảng phái. Điểm khác biệt
quan trọng là, nhân viên hành chính hay công chức không phải là
chính trị gia, nghĩa là họ không tìm cách gây ảnh hưởng, tự mình
hoặc thông qua đảng phái để giành và giữ quyền lực nhà nước. Họ
không được tranh cử và bầu chọn bằng lá phiếu cử tri, họ là người
được chỉ định làm công ăn lương (cụ thể là nhận lương từ ngân
sách nhà nước) để làm công việc rất cụ thể nhằm triển khai và thực
thi chính sách.

Việc tuyển dụng và thăng tiến của nhân viên hành chính phụ thuộc
vào thành tích chuyên môn của họ chứ không phải dựa vào khả
năng “làm chính trị” “gây ảnh hưởng” của họ và các đảng của họ.
Đó là chưa nói đến chuyện nhân viên hành chính cần phải giữ địa
vị trung lập, phi đảng phái. Cũng đòi hỏi giống như tư pháp (tòa
án và công tố viên). Nhân viên hành chính phải thực hiện chức
năng của mình một cách tận tụy và công bằng đối với tất cả mọi
270
Một quan điểm về Triết học

người. Để làm được điều đó môi trường công việc của họ phải bình
yên, ổn định, họ không phải chịu sức ép chính trị nào như mất việc,
bị trừ lương hoặc bị tống cổ ra đường khi chính quyền thay đổi,
hay nội các thay đổi, đảng này lên đảng kia xuống.

Nói chung một nền hành chính tốt cần phải trung lập, tức là phi
đảng phái và tận tụy, công bằng với tất cả. Do vậy ở nhiều nước
công chức bị hạn chế hoặc không được khuyến khích tham gia
chính trị. Ở Mỹ chẳng hạn, công chức không được làm thuê cho
đảng nào, không được gây quỹ hay vận động cho đảng nào.

TƯ PHÁP (TÒA ÁN)

Quyền tư pháp là quyền bảo vệ luật pháp, đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện và chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Quyền
tư pháp do tòa án và viện kiểm sát tiến hành.

Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ


thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi
công lý, một cơ chế để giải quyết các tranh chấp.

Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan tòa ở các
cấp, những người thiết lập nền móng cho một bộ máy tư pháp và
cả những người trợ giúp cho hệ thống này hoạt động tốt. Tòa án là
271
Một quan điểm về Triết học

nơi diễn giải luật nhưng không được tạo ra luật. Vì vậy, tòa án
không được ban hành các quyết định bao quát các vụ án thực có
thể được xét xử.

Trong chế độ đại nghị hành pháp và lập pháp có thể vừa độc lập
vừa ít nhiều có ảnh hưởng lẫn nhau. Thế nhưng để đảm bảo công
bằng trong việc thực thi công lí, không thiên vị cho bất cứ cá nhân
hay tổ chức nào, tư pháp bắt buộc phải đứng độc lập hoàn toàn với
hai cơ quan còn lại.

Để thể hiện tính độc lập của mình, các thẩm phán không được phép
tham gia bất cứ đảng phái nào. Các thẩm phán phải là người hiểu
rõ luật pháp, đạo đức cũng như văn hóa, phong tục của các vùng
miền khác nhau trong cả nước, để đảm bảo tính khách quan trong
các quyết định của mình.

Chính vì vậy, thẩm phán phải là người có nhiều năm hoạt động
trong ngành tư pháp, trước khi được mời làm thẩm phán. Thẩm
phán làm việc cho đến khi về hưu (không có nhiệm kì) cũng như
không phải chịu trách nhiệm của mình trong và sau xét xử. Những
ưu tiên này giúp cho thẩm phán không phải chịu áp lực tâm lí nào
trong quá trình xét xử, để có thể ra quyết định một cách khách quan
và công tâm nhất.

Thẩm phán cũng còn gọi là quan tòa, là người thực hiện quyền xét
xử chính trị tại một phiên tòa. Có thể là chủ tọa một mình hoặc là
một thành phần trong hội đồng xét xử gồm nhiều thẩm phán. Thẩm

272
Một quan điểm về Triết học

phán thực hiện xét xử một cách không thiên vị tại các phiên tòa
công khai. Thẩm phán nghe những người làm chứng và các bên
trong vụ án trình bày chứng cứ, đánh giá mức độ xác thực của các
bên, và sau đó đưa ra phán quyết về các vấn đề đã trình bày, dựa
trên việc giải thích pháp luật và đánh giá chủ quan của mình.

Để đảm bảo tính khách quan, thẩm phán có người nhà liên quan
tới vụ việc hoặc thẩm phán có tham gia quá trình điều tra, sẽ không
được quyền tham gia xét xử vụ án đó.

273
Một quan điểm về Triết học

ĐẠO ĐỨC và LUẬT:

Định nghĩa:

Đạo đức là hệ thống các quan điểm được đúc kết qua quá trình tiếp
thu thông tin (kiến thức) từ bên ngoài của cá nhân. Với cộng đồng
thì đó là một hệ thống các quan điểm (quy tắc) chung được đúc kết
sau một thời gian dài chung sống. Nó có tác dụng điều chỉnh hành
vi cá nhân sao cho đúng với lương tâm của mình, cũng như đúng
với quan điểm (chuẩn mực) chung của cộng đồng.

Đạo đức điều chỉnh hành vi bằng cách cộng đồng bày tỏ thái độ,
vui mừng, tức giận… đối với hành vi của các cá nhân trong cộng
đồng đó. Vậy nên đặc điểm của đạo đức là khá chung chung và
không rõ ràng.

Luật là một hệ thống quy tắc xử sự chung do tổ chức, cộng đồng


đặt ra để điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc tổ chức, cộng
đồng đó. Nó điều chỉnh hành vi bằng cách xử phạt theo quy định
do tổ chức, cộng đồng đó đặt ra.

Đặc điểm của pháp luật là sự rõ ràng, chặt chẽ cho từng hành vi cụ
thể, không giống như đạo đức, luật sẽ vô hiệu nếu cá nhân tìm được
kẽ hở trong các quy tắc đó để lách luật.

Một đặc điểm khác là không ai có thể quy định hết các hành vi
trong từng trường hợp cụ thể, vì chúng quá nhiều. Vậy nên, đôi khi

274
Một quan điểm về Triết học

luật được áp dụng một cách máy móc, không uyển chuyển được
như đạo đức.

Ngược lại, đạo đức điều chỉnh hành vi dựa trên thái độ của cộng
đồng dành cho cá nhân, vậy nên nhiều khi nó không đủ sức răn đe.
Đặc biệt với những cá nhân có hệ thống quan điểm khác với quan
điểm của cộng đồng, thì đạo đức gần như không có tác dụng. Đây
lại là ưu điểm của luật. Nếu áp dụng mức xử phạt thích đáng, thì
khả năng điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong tổ chức, cộng
đồng là khá cao.

Đây chính là sự bù khuyết giữa đạo đức và luật, một bên có sự


uyển chuyển nhưng khả năng điều chỉnh hành vi không cao, một
bên có sự điều chỉnh hành vi cao nhưng lại không uyển chuyển.
Vậy nên, trong việc điều chỉnh hành vi của cá nhân trong tổ chức,
cộng đồng, người ta luôn phải đan xen giữa đạo đức và luật.

Pháp luật ngăn cản chúng ta làm điều xấu, phân định các hành vi
phạm tội một cách rõ ràng, và áp dụng cho tất cả mọi người, tức
mọi tầng lớp trong xã hội. Người có ý đồ muốn phạm tội phải cân
nhắc giữa lợi ích của mình và cái giá phải trả, được quy định rõ
trong luật pháp, nếu bị phát hiện và xác suất có thể bị phát hiện.
Nếu cái giá phải trả đủ lớn, thì về mặt lí trí, họ phải từ bỏ hành vi
của mình.

Đạo đức giúp khuyến khích những hành động tốt đẹp của một cá
nhân hay tập thể, bằng cách ghi nhận công lao và tôn vinh họ.

275
Một quan điểm về Triết học

Nhưng đạo đức rất khó có thể hạn chế những hành vi xấu, bởi quan
điểm đạo đức của mỗi cá nhân hay tập thể là khác nhau. Thứ duy
nhất mà cộng đồng có thể làm là bày tỏ thái độ với đối tượng, mà
cộng đồng cho rằng đối tượng đó hành động không đúng về mặt
đạo đức. Điều này trong nhiều trường hợp không đủ sức răn đe đối với
đối tượng mà cộng đồng cho rằng hành vi của họ là trái với đạo đức.

Ví dụ: Khi bạn nhìn thấy một người mẹ đang đánh con của mình giữa
đường, bạn muốn ngăn cản người mẹ đó thì bạn phải làm thế nào.

Nếu bạn nhân danh đạo đức rằng đánh đập bạo hành con cái là xấu, họ
sẽ trả lời bạn rằng họ đang giáo dục con cái của họ và hành vi này
không liên quan đến bạn. Rõ ràng ở đây đạo đức bộc lộ yếu điểm của
mình, bởi vì quan điểm đạo đức của bạn và họ khác nhau.

Còn nếu bạn nhân danh pháp luật, nói rằng người mẹ kia đánh đập con
của mình là phạm pháp, và nếu bạn tố giác thì người mẹ sẽ bị xử lí theo
pháp luật. Ở đây, nếu khung hình phạt đủ mạnh, thì rất có thể bạn sẽ
ngăn cản được hành vi xấu này.

Qua ví dụ trên, ta có thể thấy rằng, đạo đức và pháp luật là hai phạm
trù tương hỗ bổ sung, không thể tách rời nhau, một mặt hạn chế hành
vi xấu, một mặt khuyến khích hành vi tốt. Vậy nên, trong một quốc gia
có các giá trị đạo đức - pháp luật hợp lí, phổ quát, công bằng, đất nước
đó nhất định phát triển.

Hợp lí có nghĩa là hình phạt hay phần thưởng phải tương xứng với thiệt
hại hay lợi ích mà họ gây ra cho cộng đồng. Không thể quy định một
người phạm tội đánh người khác với thương tích nhẹ lại bị tử hình,

276
Một quan điểm về Triết học

trong khi giết người lại phải đi tù vài tháng. Nếu quy định như thế này
được đưa ra, chắc chắn nó sẽ đưa đến những hành vi lệch lạc của công
dân trong xã hội.

NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT

Có bao giờ bạn thắc mắc là tại sao con người chúng ta không sống
riêng rẽ mà lại sống thành cộng đồng?

Câu trả lời thực ra rất đơn giản, khi sống thành cộng đồng mặc dù
cũng có một số mất mát, nhưng về tổng quan, sống thành cộng
đồng mang lại cho cá nhân nhiều lợi ích hơn so với việc tách ra
sống đơn lẻ.

Vậy mất mát đó là gì?

Để cộng đồng có thể tồn tại và phát triển, thì cộng đồng cũng có
những quy tắc chung dành cho các cá nhân trong cộng đồng đó.
Mất mát của cá nhân là phải tuân theo những quy tắc do cộng đồng
đặt ra, nếu không sẽ bị phạt theo quy định.

Quy tắc mà cộng đồng đặt ra cũng đơn giản. “Bất cứ cá nhân nào
có hành vi gây tổn hại đến sự tồn tại và phát triển của cộng đồng,

277
Một quan điểm về Triết học

thì đều sẽ bị phạt, và ngược lại, nếu cá nhân nào đóng góp cho sự
phát triển của cộng đồng thì sẽ được cộng đồng đó thưởng”.

Đây chính là nguồn gốc của đạo đức và luật.

Như chúng ta đã biết, đạo đức hoàn toàn là một hệ thống quan điểm
của một cộng đồng nào đó, vậy nên các quan điểm về đạo đức của
cộng đồng đó chưa chắc đã đúng, nếu so với cộng đồng khác. Tức
là các quan điểm ngẫu nhiên về đạo đức của nhiều cộng đồng
không thể làm tiêu chuẩn để tạo thành luật, vốn luôn đặt nặng tính
công bằng.

Để làm nền tảng tạo thành luật, người ta phải khái quát hóa các
quan điểm đạo đức, hình thành các hệ thống lý thuyết chặt chẽ dựa
trên quy tắc gốc mà cộng đồng đặt ra cho từng cá nhân. Người ta
đã hình thành nên hai chủ thuyết đạo đức chính, đó là thuyết vị lợi
và chủ nghĩa tự do cá nhân.

Chủ nghĩa vị lợi cho rằng, hành động tốt nhất là hành động đạt
được một cách cao nhất những gì được cho là hữu ích, lợi ích với
cùng mức chi phí bỏ ra. “Lợi ích” được định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau, thường là theo thuật ngữ “cảm xúc tích cực của các sinh
vật sống”, như là con người hay các động vật khác.

Chủ nghĩa vị lợi giải thích một cách đơn giản thì đó chính là vấn
đề “chi phí – lợi ích”, tức là bất cứ phương án giải quyết nào mà

278
Một quan điểm về Triết học

lợi ích nhiều hơn chi phí bỏ ra thì đều nên làm. Chủ nghĩa này được
áp dụng rộng rãi trong kinh doanh.

Thoạt nhìn thì chủ nghĩa này có vẻ hoàn toàn đúng, nhưng thực ra
nó vẫn có nhược điểm.

Ví dụ: Giả sử rằng có 5 người bị tai nạn giao thông và phải nhập
viện, mỗi người bị hỏng một cơ quan nội tạng khác nhau trong cơ
thể. Bệnh viện hoàn toàn không có các cơ quan nội tạng dự trữ để
thay thế. Điều này có nghĩa là 5 bệnh nhân này đang đối mặt với
nguy cơ tử vong. Tuy nhiên vẫn có một giải pháp khác, đó là giết
một người trong số 5 người và lấy nội tạng thay thế cho 4 bệnh
nhân còn lại, và nhờ vậy, 4 bệnh nhân đó sẽ được cứu sống.

Theo thuyết vị lợi thì điều này hoàn toàn nên làm, còn bạn sẽ chọn
nên hay không nên làm vậy? Vì sao?

Chúng ta xét chủ thuyết thứ hai, đó là thuyết tự do cá nhân. Nhưng


trước tiên chúng ta phải tìm hiểu tự do là gì, thông qua trích đoạn
trong bài viết “Tự do và Tự do cá nhân” sau đây:

Tự do là một chữ bao hàm rất nhiều ý nghĩa, có thể gợi


lên những tình cảm mãnh liệt và sự nhiệt thành hăng hái
của quần chúng, ngay cả những lúc họ chưa rõ nghĩa. Chữ
ấy đã được bao nhiêu dân tộc cương cường nêu cao:
“Sống tự do hay là chết”. Đó là lời thề của các chiến sĩ
trong cuộc Cách mạng Pháp. Đó là lời thề chung của
279
Một quan điểm về Triết học

những tâm hồn khí khái mong thoát ly ra ngoài vòng áp


chế, nô lệ. Tự do là một lý tưởng đẹp đẽ của loài người,
một ngôi sao dẫn đường cho nhân loại, cao quý và sáng
láng, từ ở bên Tây phương theo văn minh Âu châu đến
chiếu rỗi hang cùng ngõ hẻm của Viễn Đông, làm sôi nổi
tâm can hàng ức triệu người đương chìm đắm trong giấc
mơ ngàn năm.

Một chữ có sức mạnh như thế, ta cần phải phân tách giảng
giải cho rõ nghĩa.

Có nhiều người vô tình dùng sai nghĩa, khiến cho nhiều kẻ


cố ý mạt sát, vịn vào đấy để chê bai ý tưởng tự do, mà họ
cho là cùng một nghĩa với sự phóng túng.

Theo nghĩa đen thì tự do là quyền muốn làm gì thì làm,


không có gì ngăn cản được.

Nhưng sự tự do hoàn toàn, tuyệt đích như vậy không có.


Là vì, trước sự tự do của người này, còn có sự tự do của
người khác, những quyền tự do ấy làm giới hạn lẫn cho
nhau. Ta có quyền làm nảy nở bản năng của ta, nhưng sự
nảy nở ấy không được phương hại đến bản năng của
người cạnh ta. Đó là một nguyên tắc hợp với công lý và
với sự kính trọng nhân phẩm của “con người”.

280
Một quan điểm về Triết học

Làm khác đi, nghĩa là chỉ nghĩ đến sự tự do riêng của


mình, cố mà phát triển ra, dẫu có hại đến sự tự do của
người khác cũng mặc, ấy là sự phóng túng. Sự phóng túng,
mà nhiều người lầm với tự do, lẽ tự nhiên là một điều bỉ
ổi. Mà sự phóng túng, trong lịch sử, dễ thường ta chỉ kiếm
ra được hai ví dụ: Một là người Bản cổ, ăn lông ở lỗ, sống
một mình, tự do một cách triệt để; hai là những ông hoàng
đế chuyên chế, uy quyền vô hạn, có thể dùng sự tự do của
họ cho đến phóng túng, mặc cho việc sử dụng ấy làm hại
đến tự do, đến sinh mệnh của thần dân.

Tự do của một người thích hợp với sự tự do của người


khác đã đành, lại còn phải thích hợp cả với sự sống còn
của xã hội nữa. Người ta sinh ra trong xã hội, được xã hội
bảo vệ cho quyền lợi, hẳn là cần phải bảo vệ lại xã hội.
Nếu sự phát triển của tự do riêng một người có phương
hại cho cả xã hội, thí dụ như vấn đề vệ sinh chung, thì sự
phát triển ấy không thể có được.

Nói tóm lại, tự do là quyền làm hết mọi việc không có


phương hại đến người khác và xã hội. Đó là nghĩa của sự
tự do, theo tờ tuyên ngôn của Đại Cách Mệnh Pháp. Giới
hạn của tự do người này, chính là sự tự do của người khác,
và giới hạn ấy, chỉ có một đạo luật, do toàn thể xã hội ưng
chuẩn, mới có thể định được, cho nên “Tất cả mọi điều
281
Một quan điểm về Triết học

mà luật không cấm là không ai ngăn không cho làm được,


và không ai có thể bị buộc phải làm những điều mà luật
không bắt làm”.

Nguồn: Tự Lực Văn Đoàn –

Báo Ngày Nay, số 169 ngày 8/7/1939

Tác giả: Hoàng Đạo

www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tu-do-va-tu-do-ca-
nhan.html#

Vậy thì tự do cá nhân là gì? Các nhà triết học theo chủ nghĩa tự do
cá nhân tin rằng cá nhân mới là tối cao, chứ không phải nhà nước
hay bất cứ tổ chức nào.

Như vậy có nghĩa rằng, ngoài việc xâm phạm đến quyền tự do của
người khác, thì bạn có quyền được làm bất kể việc gì mình muốn.
Ngược lại, nếu người ngoài muốn xâm phạm vào quyền tự do của
bạn phải được sự đồng ý của bạn.

282
Một quan điểm về Triết học

Trích dẫn

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền

của Liên Hợp Quốc

Điều 1:

Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân


phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và
lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu.

Điều 3:

Mọi người đều có quyền sống, tự do và an toàn cá nhân.

Điều 10:

Mọi người, với tư cách bình đẳng về mọi phương diện, đều có
quyền được một toà án độc lập và vô tư phân xử công bằng và công
khai để xác định quyền, nghĩa vụ hoặc bất cứ một lời buộc tội nào
đối với người đó.

283
Một quan điểm về Triết học

Điều 19:

Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm; kể


cả tự do bảo lưu ý kiến, không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp
nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, tryền bá thông tin và ý
kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không
giới hạn về biên giới.

Điều 20:

1. Mọi người đều có quyền tự do họp hành và tham gia hiệp hội
một cách hoà bình.

2. Không ai bị bắt buộc phải tham gia một hiệp hội nào.

Quay lại ví dụ về 5 người bị tai nạn giao thông và phải nhập viện
mà tôi đã nêu ở phần trên, với quan điểm về chủ nghĩa tự do cá
nhân, chúng ta thấy rằng, bởi vì cá nhân là tối thượng, vậy nên nếu
không được sự đồng ý của riêng cá nhân nào đó, thì không ai được
quyền giết cá nhân đó để cứu 4 người còn lại.

Mặc dù chúng ta biết rằng, nếu không được cứu thì 5 người sẽ cùng
chết, tổn thất rất lớn nếu so với một người chết.

Tóm lại, nền tảng của đạo đức và luật được đặt trên hai chủ
thuyết là “thuyết vị lợi” và “thuyết về tự do”.

284
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM

Chúng ta có sở hữu bản thân mình không?

Chúng ta sở hữu chính bản thân mình, nhưng đồng thời chúng ta
cũng không sở hữu chính bản thân mình. Ví dụ: chúng ta có được
quyền tự sát hay tự ý bán nội tạng hay không?

Nói dễ hiểu hơn, chúng ta được quyền sử dụng bản thân nhưng
cũng phải có nghĩa vụ chăm sóc tốt bản thân mình, và không được
quyền hủy hoại bản thân. Như vậy chúng ta không hoàn toàn sở
hữu bản thân mình. Khác xa với việc chúng ta sở hữu một đồ vật
nào đó, đơn giản chúng ta có toàn quyền quyết định số phận của
món đồ vật mình sở hữu.

Bản thân con người có thể được tách thành hai phần “thân thể” và
“tâm trí”. Thân thể của chúng ta với tâm trí của chúng ta tuy có
mối liên hệ mật thiết, thế nhưng tâm trí của chúng ta không sở hữu
thân thể của chúng ta, bởi thân thể nằm ngoài tâm trí của chúng ta,
nếu sở hữu thì thân thể phải nằm trong tâm trí.

Và vì tâm trí không sở hữu thân thể nên tâm trí không có quyền
quyết định vận mệnh của nó. Vậy tâm trí có quyền chết bằng cách
tắt suy nghĩ trong tâm trí không? Xin thưa là không, bởi vì tâm trí
tuy không sở hữu thân thể, nhưng lại có mối liên quan mật thiết
với thân thể, vậy nên cũng phải chịu trách nhiệm với thân thể.

285
Một quan điểm về Triết học

Khi chúng ta cất tiếng khóc chào đời thì thân thể và tâm trí đã ngầm
thỏa thuận với nhau để tạo nên một cơ thể hoàn chỉnh và thống
nhất, nhằm đi đến một mục đích chung, đó là cá thể đó sinh tồn và
phát triển khỏe mạnh. Và để thực hiện được mục đích chung đó,
thân thể sẽ đồng ý để tâm trí điều khiển, đổi lại tâm trí sẽ làm những
gì tốt nhất cho thân thể trong giới hạn nhận thức của mình. Ví dụ:
Ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, luyện tập thể dục, ngủ đúng giờ, ...
Vậy nên việc tự sát chính là vi phạm thỏa thuận ngầm đó.

Cơ thể cũng có những đòi hỏi của riêng nó, được thể hiện ra dưới
dạng bản năng. Ví dụ: Cơ thể thèm ăn món nọ món kia; hay khi ta
làm việc quá sức khiến cơ thể mệt mỏi nó sẽ đòi hỏi được nghỉ
ngơi; hay khi một người khác giới đi qua chúng ta bất giác nhìn
họ… Tất cả đó đều là những đòi hỏi của cơ thể, những đòi hỏi đó
đều là những đòi hỏi mang tính bản năng, và phần đa có lợi cho cá
nhân ta.

Thế nhưng vì đó là những đòi hỏi bản năng, vô thức nên không có
suy nghĩ (phân biệt nên làm hay không nên làm). Ví dụ: Thuốc
đắng nên cơ thể không thích uống, nhưng vì nó chữa được bệnh
nên tâm trí bắt nó phải uống. Hay như khi thấy một vườn trái cây
chín mọng, cơ thể ta thèm muốn. Thế nhưng vì nó là vườn trái cây
của người khác, nếu chúng ta tự tiện ăn mà không hỏi ý kiến chủ
vườn cây, tức là đã cướp một phần công sức lao động của chủ vườn
cây đó. Điều này là không công bằng, nếu ta lấy những trái cây đó

286
Một quan điểm về Triết học

sẽ là việc sai trái. Tâm trí biết vậy nên sẽ không làm mặc dù cơ thể
đang rất thèm muốn.

Những đòi hỏi của cơ thể đa số là những đòi hỏi có lợi cho cơ thể
ta, vậy nên nếu thấy không ảnh hưởng gì thì nên nghe theo cơ thể.
Ví dụ: Bạn được chọn miễn phí một trong hai loại quả, (giả định
rằng hai loại quả này hoàn toàn bình thường), thì hãy chọn loại quả
nào cơ thể thích ăn hơn, bởi vì bản năng biết loại quả nào tốt cho
cơ thể, hay đúng hơn là cơ thể đang cần dưỡng chất có trong loại
quả đó hơn quả kia.

Vậy thì những quyết định của bạn là những ham muốn của cơ thể
mang tính bản năng, có sự can thiệp của lý trí để phục vụ chúng ta
có thể tồn tại và phát triển lâu nhất. Nghe theo cơ thể thì ngay lập
tức được thỏa mãn trước mắt, có thể về lâu dài phải trả giá, nhưng
cuộc sống lại cần có những phút giây hưởng thụ đó.

Ở phần trên tôi có viết rằng “thuyết vị lợi” và “thuyết tự do” là hai
học thuyết làm nền tảng cho đạo đức và pháp luật, nhưng nó chỉ
đúng khi xã hội tương đối ổn định, không gặp phải sự đe dọa diệt
vong nào!

Bây giờ ta giả sử rằng: Trái Đất vì một lí do nào đó, ví dụ bị một
thiên thạch va chạm, vụ nổ gây nên khói bụi che phủ bầu khí quyển
dẫn đến ánh sáng xuống mặt đất bị giảm, nhiệt độ giảm đột ngột,
gần như toàn bộ thực vật, động vật bị tiêu diệt, loài người cũng

287
Một quan điểm về Triết học

đang đứng trước nguy cơ tồn vong vì bị mất đi nguồn thức ăn của
mình. Nguồn thức ăn ngoài tự nhiên đã mất, nguồn thức ăn dự trữ
thì đang vơi đi nhanh chóng, trong khi chưa biết đến khi nào khói
bụi trong bầu khí quyển sẽ tan.

Con người chỉ còn hai lựa chọn:

1) Con người vẫn tôn trọng quyền tự do của nhau, và dẫn đến
nhân loại sẽ diệt vong vì thiếu thức ăn.
2) Con người sẽ ăn thịt đồng loại của mình, hơn nữa, phải ăn
thịt một cách có trình tự, chứ không phải chém giết một cách
hỗn loạn, mới đảm bảo cơ hội sống sót ở mức cao nhất.
Đầu tiên là sẽ ăn thịt người già, bởi nếu để người già sống sót
thì sau này cũng không còn khả năng sinh sản để duy trì nòi
giống.
Nếu ăn hết người cao tuổi, sẽ chuyển sang ăn thịt những đứa
trẻ, từ nhỏ tuổi nhất ăn dần lên, bởi nếu người lớn chết hết thì
những đứa trẻ ấy cũng sẽ chết vì không có khả năng tự chăm
sóc mình.
Cứ như vậy sẽ ăn, và thu hẹp lứa tuổi xuống độ tuổi thanh
niên, bởi đây là độ tuổi khỏe mạnh, cũng như có khả năng
sinh sản tốt nhất, để đảm bảo có khả năng gây dựng lại loài
người sau khi đại nạn đi qua.
Tuy nhiên, nếu ăn hết trẻ em, lỡ như đại nạn kéo dài quá, thì
nhân loại sẽ không có người kế tục. Mà tuổi thanh niên cũng
288
Một quan điểm về Triết học

sẽ già, sẽ dẫn đến sự diệt vong của loài người. Như vậy phải
cân nhắc hết sức chặt chẽ, nên ăn ở những lứa tuổi nào, trai
hay gái, ăn số lượng bao nhiêu…
Vấn đề là, trong số những người bị giết có người tự nguyện
(không tính trường hợp này), nhưng cũng có người không tự
nguyện. Nhất là những đứa trẻ, chúng hoàn toàn bị động
trước vấn đề.
Vậy thì giết họ là đang tước đoạt đi quyền tự do vốn có của
họ, có nên làm hay không?

Nếu bạn là lãnh đạo trong hai trường hợp trên bạn sẽ lựa chọn
trường hợp nào?

Với cá nhân tôi thì sẽ chọn trường hợp hai.

Lí do cũng rất đơn giản, nếu nhân loại biến mất sẽ không còn ai
biết về loài người nữa, mọi thứ chấm hết. Thế nhưng, nếu như
chúng ta làm mọi thứ để nhân loại có tương lai, thì dù con cháu
chúng ta có nghiệt ngã khi đọc những trang sử đen tối đó, mọi thứ
đều có thể được sửa chữa, bù đắp, nếu tương lai còn tiếp diễn.

Nếu tương lai không còn, cơ hội sửa chữa bằng không.

Cũng như vậy đối với nòi giống, dân tộc, không cần biết bạn nhân
danh điều gì, chính nghĩa gì, nhưng đưa bất kì dân tộc nào vào sự

289
Một quan điểm về Triết học

đe dọa tồn vong thì đều là sai, nhất là trong thời hiện đại ngày nay.
Cái sai đó không thể sửa chữa được.

Hãy nhớ rõ điều này, trong việc tìm ra một con đường cho Việt
Nam tương lai, mà phần sau chúng ta cũng sẽ có bàn đến.

HIẾN PHÁP

Hiến pháp là văn bản mang tính pháp lí tối cao, là linh hồn của một
đất nước. Bạn nên biết rằng, các chính sách do thủ tướng hoặc tổng
thống ban ra thì không được trái với luật pháp hiện hành của đất
nước đó, mà luật pháp do quốc hội thông qua thì không được trái
với hiến pháp của đất nước đó.

Tức là mọi hoạt động trong đất nước đều không được trái với hiến
pháp của đất nước đó.

Hiến pháp > luật > chính sách, nghị quyết.

HIẾN PHÁP: Chính là bản khế ước xã hội cơ bản nhất,


là nền tảng cho tất cả các thỏa ước khác của cộng đồng.
Thông qua hiến pháp, con người chính thức đánh đổi
quyền tự do tự nhiên để trở thành một công dân. Chính

290
Một quan điểm về Triết học

thức đánh đổi một phần quyền tự do quyết định của mình
vào tay một số người cầm quyền để có được sự che chở
của xã hội, đại diện bởi luật pháp.

Để cho bản hợp đồng trao đổi này được công bằng, trong
khế ước xã hội cần phải định rõ nguyên tắc chọn người
cầm quyền. Nguyên tắc bình đẳng thể hiện ở chỗ ai cũng
có thể lên nắm quyền miễn là được đa số thành viên ủng
hộ. Về phía người cầm quyền, đối trọng với quyền lực anh
ta có, là những ràng buộc về trách nhiệm với cộng đồng.
Nếu người cầm quyền không hoàn thành trách nhiệm của
mình, bản hợp đồng của anh ta với cộng đồng phải bị coi
như vô hiệu, và cộng đồng phải có quyền tìm ra một người
thay thế mới. Việc hình thành nên hiến pháp một cách dân
chủ, tức là người dân có quyền tham gia, thảo luận, đóng
góp ý kiến và phê chuẩn hiến pháp hay còn gọi là quyền
phúc quyết hiến pháp thông qua trưng cầu dân ý…

Hiến pháp phải là sự kết tinh của trí tuệ, đạo đức, văn hóa,
tâm linh của cả một dân tộc, do chính người dân tạo ra thì
người dân sẽ tự nguyện tuân thủ và bảo vệ bản hiến văn
đó. Tuy nhiên quyền lực là một thứ đáng sợ nếu không
được kiểm soát. Bất cứ đâu có quyền lực, thì đều xảy ra

291
Một quan điểm về Triết học

nguy cơ lạm quyền, chuyên quyền, dù cho người nắm


quyền có là ai, đạo đức đến đâu, chính quyền ở đó có một
lý tưởng tốt đẹp thế nào. Do vậy, khi nhà nước được người
dân trao quyền quản lý xã hội, hiến pháp phải ghi rõ giới
hạn quyền lực của nhà nước, và cơ chế giám sát những
quyền lực đó, nhằm tránh việc tập trung quyền lực vào tay
một cá nhân hay một nhóm người sẽ dẫn đến lạm quyền,
chuyên quyền.

(Trích: Con đường Việt Nam –

Tác giả: Trần Huỳnh Duy Thức)

292
Một quan điểm về Triết học

Trích bài viết:

Đại Hiến chương Magna Carta:

Một món quà của nước Anh dành cho nhân loại

Tác giả: Vũ Công Giao.

Trích báo: Tia Sáng.

https://tiasang.com.vn/-dien-dan/Dai-Hien-chuong-Magna-Carta-
Mot-mon-qua-cua-nuoc-Anh-danh-cho-nhan-loai-12815

Đại Hiến chương Magna Carta là văn bản đầu tiên ghi rõ giới hạn
quyền lực của giới cầm quyền, và được đánh giá là điểm mốc cực
kỳ quan trọng không chỉ với lịch sử nước Anh hay châu Âu mà
trên toàn cầu. Những nguyên tắc về pháp quyền được xác lập trong
Magna Carta đã được kế thừa và phát triển trong hiến pháp của hầu
hết quốc gia.

Vào ngày 15/06/1215, tại Runnymede, sau một thời gian xung đột
gay gắt, vua John của nước Anh đã rơi vào thế yếu và phải chấp
nhận ký kết một văn bản thoả hiệp với các lãnh chúa nước này, mà
sau đó được gọi là Magna Carta, hay “Đại Hiến chương”.

Magna Carta đầu tiên bao gồm lời mở đầu và 63 điều khoản. Với
tính chất là một hiệp ước hoà bình, mục đích khởi nguyên của
Magna Carta là thể hiện sự cam kết của vua Anh tôn trọng quyền
293
Một quan điểm về Triết học

lợi của giáo hội và của giới quý tộc phong kiến nước này thời kỳ
ấy. Tuy nhiên, ý nghĩa của văn kiện nổi tiếng này đã vượt xa mục
tiêu hạn hẹp đó, chủ yếu qua các nội dung chính, đó là:

1) Mọi người trong xã hội, kể cả nhà Vua, đều phải tuân thủ
pháp luật. Vua cũng không được đứng trên pháp luật, cụ thể là
không được tùy tiện tăng thuế, bắt giữ người.
2) Không một công dân tự do nào bị bắt, giam giữ, trừ khi việc
đó là do việc xét xử và kết tội của một tòa án được lập ra bởi các
công dân khác.
3) Một người bị bắt giữ cần phải được nhanh chóng đưa ra toà
án để xét xử và phán quyết. Không ai bị từ chối quyền và công lý
bởi toà án.
4) Giáo hội Anh được tự do, không chịu sự kiểm soát bởi bất kỳ
thế lực nào, kể cả nhà Vua và Tòa Thánh Vatican.
Cả bốn nội dung nêu trên đều có ý nghĩa là nền tảng cho sự phát
triển của chế độ dân chủ ở nước Anh về sau, tuy nhiên ba nội dung
đầu tiên có giá trị nổi bật hơn cả.
Nội dung thứ nhất phản ánh tinh thần thượng tôn pháp luật, theo
đó pháp luật là thiêng liêng và tối thượng, là cơ sở xác lập và bảo
hộ cho mối quan hệ hài hoà giữa người với người trong xã hội.
Thượng tôn pháp luật chính là khởi nguồn và nền tảng của tư tưởng
pháp quyền (rule of law) – một tư tưởng cột trụ của các nền dân
chủ. Trong Magna Carta, luật pháp là quy tắc cư xử chung mà
chính nhà vua cũng bị ràng buộc và phải tôn trọng. Điều này trên

294
Một quan điểm về Triết học

thực tế đã xoá bỏ nhận thức về vị trí và quyền lực tuyệt đối, đứng
trên pháp luật của vua chúa phong kiến.

Bức tranh vua John ký Magna Carta năm 1215

Theo nhận định của một tác giả: “Không có điều gì trong Đại Hiến
chương Magna Carta ngăn cản việc ban hành và thực thi các điều
luật không công bằng, nhưng nó đưa luật pháp lên một tầng cao
mới, vượt qua giới hạn ý chí của những người cai trị”.

Không chỉ vậy, nội dung đầu tiên của Magna Carta còn bao hàm ý
nghĩa kiểm soát quyền lực. Đây là “văn bản đầu tiên” ghi rõ bằng
giấy trắng mực đen về giới hạn quyền lực của “giới cầm quyền”,

295
Một quan điểm về Triết học

và điều này được đánh giá là “điểm mốc cực kỳ quan trọng không
chỉ với lịch sử nước Anh hay châu Âu mà trên toàn cầu”.

Lần đầu tiên trong chế độ phong kiến của nước Anh (và có lẽ là
trên toàn thế giới), quyền lực chuyên chế của nhà vua bị giới hạn
và bị kiểm soát một cách công khai. Cụ thể, trong Magna Carta có
một quy định rằng nhà vua không được tùy tiện tăng thuế, và các
đạo luật về thuế mà nhà vua dự định ban hành phải có sự nhất trí
của một Hội đồng quý tộc (sau này mở rộng thành cơ quan đại diện
gồm không chỉ lãnh chúa, quý tộc mà cả thị dân). Bên cạnh đó,
Magna Carta cũng thiết lập cơ chế để bảo đảm văn kiện này được
thực thi, theo đó trong trường hợp nhà vua không tự nguyện tuân
thủ, Hội đồng quý tộc có quyền ra lệnh chiếm giữ đất đai và lâu
đài của nhà vua cho tới khi nhà vua phải chấp nhận và khắc phục.

Nội dung thứ hai phản ánh tinh thần bảo vệ quyền con người khỏi
những hành xử tuỳ tiện của vua chúa phong kiến. Trong thời kỳ
phong kiến, việc thách thức quyền năng tuyệt đối của vua chúa với
thần dân là rất khó khăn, vì vậy, việc bắt buộc vua chúa phải tôn
trọng các quyền của người dân thật sự là một bước tiến nhảy vọt.

Điều 39 Magna Carta quy định: “Không có bất cứ một người tự do


nào có thể bị giam cầm hay bỏ tù, bị tước quyền hoặc tịch thu tài
sản, bị đặt ngoài vòng pháp luật hoặc bị tước địa vị dưới bất kỳ
hình thức nào, chúng ta cũng không thể dùng vũ lực để ép buộc
người đó hoặc khiến người khác làm như vậy, trừ khi có phán

296
Một quan điểm về Triết học

quyết hợp pháp của những người ngang hàng với người đó hoặc
bởi pháp luật nơi người đó cư ngụ quy định như vậy”.

Mặc dù ở thời kỳ đầu, quy định trên chỉ áp dụng với tầng lớp lãnh
chúa, quý tộc, song đây chính là tiền đề để sau này Nghị viện Anh
đã ban hành các đạo luật bảo vệ các quyền và tự do của tất cả mọi
người, trong đó bao gồm Luật cấm bắt giam người trái pháp luật
(Habeas Corpus, hay còn gọi là Luật bảo thân), năm 1679 - quy
định một người bị bắt có quyền được nhanh chóng đưa ra một toà
án để xác định tính chất hợp pháp của việc bắt giữ họ; Luật khiếu
nại về quyền (Petition of Right), năm 1628 - quy định một người
chỉ có thể bị tống giam khi có phán quyết của Tòa án hoặc lệnh bắt
giữ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Bộ luật về quyền của
nước Anh (English Bill of Rights) năm 1689 - quy định về quyền
bầu cử, quyền tự do ngôn luận và một số quyền con người khác…

Nội dung thứ ba đề cao công lý và vai trò của tòa án trong việc
bảo vệ công lý. Thực chất nội dung này đã tước bỏ quyền xét xử
của nhà vua và trao cho một thiết chế chuyên môn độc lập là toà
án. Lịch sử hiện đại của nhân loại đã chứng minh rằng hướng tiếp
cận này là hoàn toàn hợp lý và có ý nghĩa đặc biệt to lớn trong việc
bảo vệ công lý, bảo vệ nhân quyền.

Không chỉ vậy, nội dung thứ ba còn hàm ý thúc đẩy cơ chế xét xử
công bằng trong hoạt động tư pháp. Cụ thể, cụm từ “[…] trừ khi
có phán quyết hợp pháp của những người ngang hàng với người
đó” ở Điều 39 của Magna Carta phản ánh triết lý xét xử phải dựa
297
Một quan điểm về Triết học

trên nền tảng công lý (question of justice), chứ không chỉ bám vào
luật (question of law). Quy định này cũng được xem là nền tảng
cho chế độ bồi thẩm đoàn (trial by jury) ở nước Anh và các nước
khác theo hệ thống thông luật (common law) về sau.

Tư tưởng về công lý ở Điều 39 còn được củng cố bằng quy định ở


Điều 40 của Magna Carta, trong đó nêu rõ rằng: “Sẽ không ai bị
bán cho người khác; quyền hay công lý của bất kỳ ai cũng đều
không bị từ chối.” Đoạn thứ hai của quy định này đã đặt ra một
nguyên tắc rất quan trọng trong tố tụng, đó là, ngay cả khi vụ việc
chưa có luật quy định, thẩm phán cũng vẫn phải thụ lý và xét xử,
bởi “công lý bị trì hoãn cũng có nghĩa là công lý bị từ chối” (Justice
delayed is justice denied).

Với những ý nghĩa tích cực nêu trên, Magna Carta không chỉ có
ảnh hưởng đến sự phát triển của nền dân chủ ở nước Anh, mà còn
ở rất nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt là những nước theo hệ
thống thông luật. Những nguyên tắc về pháp quyền được xác lập
trong Magna Carta đã được kế thừa và phát triển trong hiến pháp
của hầu hết mọi quốc gia. Mười tu chính án đầu tiên của Hiến pháp
Hoa Kỳ thực tế là sự kế thừa các quy định của Magna Carta, đặc
biệt là nguyên tắc quy trình tố tụng chuẩn tắc (due process of law)
và nguyên tắc mọi người được bảo vệ một cách bình đẳng về luật
pháp (equal protection of the law). Trong khi đó, những nguyên
tắc về nhân quyền trong Đại Hiến chương đã khơi gợi cảm hứng
và được sử dụng như là nền tảng trong tất cả những văn kiện nhân

298
Một quan điểm về Triết học

quyền nổi tiếng về sau của thế giới, trong đó có Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người năm 1948. Không chỉ vậy, Magna
Carta còn được sử dụng như là một vũ khí hiệu quả để chống lại
sự lạm dụng và vi phạm nhân quyền trong thực tế. Lịch sử đã ghi
nhận ở nước Anh, ngay từ thế kỷ 16, những người nông dân đã biết
trích dẫn Đại Hiến chương trong các cuộc đấu tranh chống lại sự
bất công. Còn trong những năm 1640, các nghị sĩ Anh đã coi
Magna Carta là một cơ sở pháp lý để lật đổ vua Charles I. Nhiều
nhà cách mạng lớn của thế giới sau này, bao gồm Nelson Mandela,
đã biện minh cho những hành động của mình bằng việc dựa vào
Đại Hiến chương Magna Carta.

Tóm lại

Có tính chất ban đầu là một hiệp định hoà bình thể hiện mối quan
hệ giữa một vị quân chủ và các nhà quý tộc nước Anh từ hơn 800
năm trước đây, song với nội dung hàm chứa những tư tưởng tiến
bộ và khai phóng vượt qua tầm thời đại (trung cổ), Magna Carta
đã trở thành một biểu tượng đầy sức mạnh trong tiến trình xây dựng
dân chủ và nhân quyền ở nước Anh, châu Âu, châu Mỹ trước đây
và trên toàn thế giới hiện nay. Văn kiện này đã và sẽ còn được nhắc
đến như một tài liệu có tầm ảnh hưởng rộng rãi nhất về tư tưởng
trong lịch sử nhân loại. Chính vì vậy, có thể xem Magna Carta là
một trong những báu vật góp phần tạo lên “quyền lực mềm” của
nước Anh, là một “món quà của nước Anh dành cho nhân loại”.
299
Một quan điểm về Triết học

THỂ CHẾ CỦA CÁC NƯỚC DÂN CHỦ

“Thể chế tốt là thể chế giúp cho nhân cách con người tốt lên, còn
thể chế xấu là thể chế làm tha hóa con người ta”

Đầu tiên chúng ta cần phân biệt, như thế nào thì được gọi là nước
dân chủ, và như nào thì được gọi là nước độc tài.

Thực ra cũng rất dễ hiểu, nước dân chủ là nước mà nhân dân có
thể kiểm soát được chính quyền. Ngược lại, nếu nhân dân không
thể kiểm soát được chính quyền thì được gọi là nước độc tài.

Thông qua “định lý bất toàn” và câu chuyện “Phải sống cùng sói
hoặc sư tử, cuối cùng bầy cừu đã lựa chọn ra sao?”, chúng ta biết
rằng, chế độ độc đảng thì nhân dân không thể kiểm soát được đảng
đó, và như vậy nó tương ứng với chế độ độc tài.

Ngược lại chế độ đa đảng cho phép người dân (có thể có cơ hội)
kiểm soát được các đảng, và như vậy nó là điều kiện tiên quyết để
tiến tới chế độ dân chủ (để tiến tới dân chủ chúng ta cần thêm nhiều
điều kiện khác nữa).

Hãy khảo sát một ví dụ nữa để hiểu tại sao đa đảng lại giúp đất
nước phát triển so với độc đảng.

300
Một quan điểm về Triết học

Tại tập đoàn Microsoft, nhân viên được phục vụ cả bữa trưa lẫn
bữa tối. Tuy nhiên, số lượng người ăn trưa luôn đông hơn ăn tối,
bởi lẽ không phải ai cũng phải làm việc ngoài giờ. Do đó, nhà cung
cấp bữa trưa sẽ có lợi hơn.

Nhưng có một vấn đề phát sinh, nhân viên Microsoft phàn nàn
rằng, chất lượng bữa trưa ở đây rất tệ.

Nhiều người yêu cầu nhà bếp đổi công thức nấu ăn, thay đầu bếp
thường xuyên ... Nhưng Microsoft cho rằng chúng không phải là
giải pháp hiệu quả. Thay vào đó, tập đoàn này đã lựa chọn 2 nhà
cung cấp khác nhau cho bữa trưa và bữa tối. Cứ 3 tháng một lần,
họ sẽ khảo sát xem nhân viên thích bữa trưa hay bữa tối hơn. Nếu
câu trả lời là "bữa tối" nhiều hơn, tập đoàn sẽ đổi nhà cung cấp bữa
tối lên bữa trưa.

Kể từ ngày đó, các nhà cung cấp đều cố gắng cải thiện để đáp ứng
khẩu vị nhân viên. Do đó, sự hài lòng của nhân viên cũng tăng lên
rất nhiều.

Bài học rút ra: Khi gặp phải vấn đề này, người bình thường sẽ
nhắc nhở hoặc đổi hẳn nhà cung cấp. Tuy nhiên, những bộ óc hàng
đầu ở Microsoft lại tư duy khác hẳn: Họ tạo ra cơ chế cạnh tranh
giữa 2 nhà cung cấp bữa trưa và bữa tối, để họ giám sát lẫn nhau.
Nhờ đó, dịch vụ cũng trở nên tốt hơn nhiều.

301
Một quan điểm về Triết học

Như vậy đa đảng có hai tác dụng:

1) Đa đảng cho ta có nhiều lựa chọn thay thế, nếu đảng này làm
không tốt sẽ có đảng khác lên thay.
Khác hẳn với độc đảng, chúng ta hoàn toàn không có lựa
chọn để thay thế. Vậy nếu đảng đang lãnh đạo làm không tốt,
thì cũng đành chịu để họ lãnh đạo đất nước. Như vậy sẽ kéo
lùi sự phát triển của đất nước và chính người dân chúng ta
phải chịu khổ chứ không phải ai khác.
2) Đa đảng thì các đảng sẽ tự giám sát lẫn nhau, vì quyền lợi,
lợi ích của mỗi đảng.
Người dân lúc này đóng vai trò như ông chủ, dựa vào kết quả
thực tế và kết quả các đảng phái tố giác lẫn nhau, để lựa chọn
đảng phái hợp với ý mình lãnh đạo đất nước trong nhiệm kì
kế tiếp.
Còn với độc đảng, người dân không được quyền lựa chọn
đảng, vì vậy việc giám sát đảng trở thành một công việc nhọc
nhằn hơn nhiều, so với việc lựa chọn đảng. Một vấn đề nữa
là, người dân giám sát đảng cũng chẳng được lợi gì, mà nhiều
khi còn chịu thiệt vào thân. Vậy nên nói dân giám sát nhưng
thực tế là không bao giờ có, bởi vì “cha chung không ai
khóc”.
Tóm lại, đa đảng giúp cho người dân chuyển từ giám sát sang
lựa chọn đảng, một công việc dễ dàng, hiệu quả hơn nhiều.

302
Một quan điểm về Triết học

Như vậy, chúng ta đã hiểu là các nước dân chủ là như thế nào và
ích lợi của nó. Thế nhưng, thể chế của các nước dân chủ cũng hết
sức đa dạng, mỗi nước có một đặc thù riêng, phù hợp với lịch sử
hình thành và văn hóa con người tại các nước ấy.

Nhìn chung, chế độ dân chủ đi theo ba dạng khác nhau:

+ 1, Chế độ tổng thống, điển hình là Mỹ.

+ 2, Chế độ đại nghị, điển hình là Nhật Bản, Singapo, Anh,


Đức, ...

+ 3, Chế độ bán tổng thống là một dạng lai giữa chế độ đại
nghị và tổng thống. Điển hình là Pháp.

Tất cả các chế độ dân chủ đều có hai đặc điểm không thể thiếu về
cấu tạo bộ máy nhà nước sau đây:

+ 1, Chúng đều do hệ thống đa đảng tạo thành.

+ 2, Hệ thống tư pháp (tòa án) của các nước dân chủ hoạt
động độc lập với hai nhánh còn lại là lập pháp (quốc hội)
và hành pháp (chính phủ).

Để làm được điều này các thành viên của cơ quan tư pháp
bắt buộc phải trung lập, khách quan và không là thành viên
của bất cứ đảng phái nào.

303
Một quan điểm về Triết học

Thực ra, không phải chỉ mình tư pháp mới không được tham gia
đảng phái, mà toàn bộ cơ quan hành chính, trừ chính phủ (do thủ
tướng và các bộ trưởng thành lập ra hay gọi nội các cũng được),
phần còn lại đều phải giữ lập trường trung lập, không được tham
gia bất kì đảng phái nào. Nhằm đảm bảo rằng, bất kì đảng nào lên
lãnh đạo đất nước họ đều hết sức phục vụ, không thiên vị đảng phái
nào cả. Quân đội, cảnh sát cũng vậy, tuyệt đối không được tham
gia vào đảng phái, hoàn toàn trung lập. Họ được giao trách nhiệm
bảo vệ tổ quốc và an ninh trật tự, chứ không phải phục vụ, cung
phụng cho bất kì đảng nào.

Thiếu một trong hai điều trên thì không còn là chế độ dân chủ nữa,
mà nó sẽ chuyển dần sang chế độ độc tài, tùy từng mức độ. Đối
với các nước độc đảng, họ độc tài bằng cách bắt ép các thành viên
của cơ quan tư pháp phải là đảng viên của đảng cầm quyền, để nó
có thể thao túng cơ quan tư pháp.

Bạn hãy tưởng tượng thế này, trên một sân bóng, một bên là nhân
dân, một bên là cơ quan nhà nước (người đứng sau điều hành cơ
quan nhà nước này là thành viên của đảng cầm quyền), bây giờ
trọng tài cũng là người thuộc đảng đó, tức là họ có quyền vừa đá
bóng vừa thổi còi. Vậy thì trận đấu có còn công bằng nữa không.
Chắc chắn nhân dân sẽ là người chịu thiệt thòi.

304
Một quan điểm về Triết học

Đặc điểm của từng chế độ

Chế độ tổng thống:

Ba cơ quan lập pháp (quốc hội), hành pháp (cơ quan hành chính
đứng đầu là tổng thống), tư pháp (tòa án) hoạt động hoàn toàn độc
lập với nhau, tức là tam quyền phân lập. Và ba cơ quan này cũng
có tác dụng kiềm chế lẫn nhau, mục đích là để không cho cơ quan
nào trở nên quá mạnh và dẫn đến lạm quyền.

Lý thuyết là vậy nhưng thực ra nó cũng không hiệu quả lắm.

Đặc thù: Tổng thống được toàn dân bỏ phiếu bầu ra nên có quyền
lực rất lớn và mang tính biểu tượng cho đất nước rất cao. Các chính
sách được tổng thống quyết định một cách nhanh chóng.

Trong thời kì đất nước có biến động lớn, chế độ tổng thống tỏ ra
khá hiệu quả.

Chế độ đại nghị:

Hai cơ quan lập pháp, hành pháp (đứng đầu là thủ tướng) không
độc lập với nhau như chế độ tổng thống, trong khi cơ quan tư pháp
hoàn toàn độc lập với hai cơ quan kia. Bạn có thể hiểu chế độ đại
nghị là chế độ lưỡng quyền phân lập cũng được.

305
Một quan điểm về Triết học

Đặc thù: Người đứng đầu cơ quan hành pháp là thủ tướng do quốc
hội bầu ra. Nhưng đảng có số ghế nhiều nhất trong quốc hội nắm
quyền quyết định. Nói một cách dễ hiểu thì đảng có số ghế nhiều
nhất trong quốc hội, sẽ chỉ định người làm thủ tướng, và thường
thì thủ tướng cũng chính là người lãnh đạo đảng.

Do đó, gần như chính sách gì của nhà nước cũng phụ thuộc vào
quốc hội, vậy nên có tính dân chủ cao.

Nhưng ngược lại, việc thông qua chính sách khá chậm so với chế
độ tổng thống. Chế độ đại nghị thường phù hợp với một đất nước
hòa bình và ổn định.

Một điều nữa, thủ tướng là người điều hành cơ quan hành chính do
đảng bầu ra, nên không mang tính đại diện cho đất nước. Thông
thường thì ở những nước theo thể chế đại nghị, một hội đồng sẽ
chịu trách nhiệm bỏ phiếu bầu ra một người đại diện cho đất nước
nhưng không có thực quyền, hoặc người đại diện này theo thể thức
cha truyền con nối.

Người đại diện cho đất nước là tổng thống, ví dụ: Singapo, Đức,…
hoặc người đại diện là quốc vương theo thể thức cha truyền con
nối (chế độ quân chủ lập hiến, một dạng của chế độ đại nghị), ví
dụ: Nhật hoàng của Nhật Bản, Nữ hoàng của nước Anh,…

Ở Việt Nam, người nắm quyền là thủ tướng, người đại diện là chủ
tịch nước, khá giống với chế độ đại nghị. Tôi nói là khá giống thôi,
bởi vì ở Việt Nam chỉ có một đảng hoạt động và cơ quan tư pháp

306
Một quan điểm về Triết học

bị khống chế bởi đảng cộng sản, vi phạm cả hai điều cơ bản của
một thể chế dân chủ nên nó không thể là chế độ đại nghị.

Chế độ bán tổng thống:

Đây là chế độ lai giữa chế độ tổng thống và chế độ đại nghị. Tổng
thống do dân bầu lên, thủ tướng do quốc hội bầu, cả hai đều có
quyền lực ngang nhau và cơ chế cân bằng quyền lực khá phức tạp.
Tuy phức tạp nhưng độ hiệu quả lại không tương xứng với độ phức
tạp đó, vậy nên chúng ta sẽ bỏ qua chế độ này.

Nhược điểm của chế độ dân chủ:

Chế độ dân chủ, mặc dù là kết quả sau hàng nghìn năm đấu tranh
của nhận thức nhân loại, với biết bao nhà tư tưởng vĩ đại đã góp
sức tạo nên nó, nói không ngoa, chế độ dân chủ là chế độ tốt nhất
mà chúng ta có được đến bây giờ. Thế nhưng nó cực kì mỏng
manh, chỉ cần cơ chế kiểm soát có một chút bất ổn, ví dụ: Nội chiến
chẳng hạn, thì ngay lập tức lạm quyền có thể xảy ra và đưa đất
nước trở lại thời kì độc tài. Vậy nên để đất nước có dân chủ là một
phần, bảo vệ được nền dân chủ đó lại là chuyện khác.

307
Một quan điểm về Triết học

Chế độ tổng thống có nhược điểm như sau:

Đó là quyền lực của chức vụ tổng thống quá lớn, rất khó để kiểm
soát. Chỉ cần trong nước có một chút bất ổn, tổng thống có thể lợi
dụng điều đó để gia tăng quyền lực cho mình, để tiến đến độc tài.
Vậy nên nó không thích hợp với những nước mới chuyển từ độc
tài sang dân chủ.

Bởi vì dưới sự bưng bít thông tin của chế độ độc tài cũ, nhận thức
về dân chủ của người dân là rất thấp, và thường thờ ơ với chính trị.
Người lãnh đạo mới của đất nước hoàn toàn có thể lợi dụng sự thờ
ơ đó để chiếm quyền lực, đưa đất nước trở lại độc tài một lần nữa.

Trên thực tế, chế độ tổng thống chỉ hoạt động ổn định ở những
nước có nền dân chủ lâu đời, ví dụ như Mỹ chẳng hạn. Trên thế
giới, có rất nhiều tổng thống lợi dụng quyền lực của mình để tham
quyền cố vị, để trở nên độc tài, ví dụ tổng thống Putin của Nga.
Ông làm tổng thống Nga từ năm 2000 – 2008, sau đó lại tiếp tục
làm tổng thống từ 2012 và dự định đến năm 2024 mới kết thúc.
Tức là nếu không có gì thay đổi, Putin có thể làm tổng thống 20
năm. Một điều nữa, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm của ông năm nào
cũng cao đến mức khó tin. Trong khi nước Mỹ, đa số các tổng
thống chỉ làm tổng thống không quá 8 năm.

Một nhược điểm nữa là nhiệm kì tổng thống thường kéo dài từ 4 -
6 năm, và trong khoảng thời gian đó rất khó để thay thế hay lật đổ
họ, bởi quyền lực của họ rất lớn. Vì vậy nên, nếu như đất nước bầu

308
Một quan điểm về Triết học

lên một tổng thống ngu dốt và bất tài, thì đất nước đó sẽ phải chịu
đựng trong ít nhất 4- 6 năm mới có thể thay thế được họ. Chừng
đó thời gian là đủ để một tổng thống bất tài phá nát đất nước mà
nhiều năm sau chưa chắc đã có thể khắc phục được.

Tổng thống Philippines Duterte là một ví dụ điển hình, những câu


phát ngôn của ông khiến ai cũng phải bật cười và tự hỏi, đó có phải
là một lãnh đạo quốc gia hay không? Còn chính sách của ông thì
chỉ khiến cho đất nước Philippine thụt lùi.

Nếu một đất nước dưới sự lãnh đạo của tổng thống độc tài và ngu
dốt, thì đó là một thảm họa cho đất nước. Venezuela là một ví dụ
khác, dưới sự lãnh đạo của tổng thống Hugo Chavez và sau này là
Nicolas Maduro, Venezuela từ một đất nước phát triển hàng đầu
thế giới, trở thành đất nước mà người dân phải bới rác để ăn qua
ngày. Một đất nước mà chỉ số lạm phát có thể lên tới 1.000.000%
một năm (một triệu %) thì đất nước đó làm sao có thể phát triển
được?

Trên thế giới cũng có một vài nhà lãnh đạo độc tài tận tâm vì đất
nước, nhưng tỉ lệ này cực kì thấp. Nếu áp dụng chế độ độc tài để
mong chờ vào một minh quân như thế, thì tỉ lệ rủi ro quá lớn, đến
mức không thể chấp nhận được.

Cựu tổng thống Hàn Quốc Park Chung-hee là một ví dụ, tuy là
người độc tài, nhưng trong vòng 20 năm ông đã đưa Hàn Quốc từ
một đất nước nghèo nàn trở thành một đất nước hàng đầu Châu Á.

309
Một quan điểm về Triết học

Ông nổi tiếng với câu nói: “Tôi sẽ bắn chết kẻ nào ăn trộm của
công dù chỉ một đồng”.

Và bạn đừng mong chờ Việt Nam sẽ có một người như vậy xuất
hiện.

Vì những khuyết điểm trên, chúng ta không nên chọn chế độ tổng
thống làm chế độ áp dụng cho đất nước sau này.

Nhược điểm của chế độ đại nghị:

Trong chế độ đại nghị xảy ra hai trường hợp.

+ 1, Đó là, nếu không có một đảng nào chiếm ưu thế để thành lập
chính phủ và điều hành đất nước, tình trạng bế tắc chính trị có thể
xảy ra.

Tức là, có nhiều đảng mà mỗi đảng chỉ chiếm 15 – 20% số ghế
quốc hội, không đủ điều kiện để thành lập chính phủ. Như vậy sẽ
tạo nên một chính phủ yếu, rất dễ sụp đổ, không thể điều hành đất
nước.

+ 2, Một đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội, tức là quyền lực
của đảng đó rất lớn và có thể lợi dụng điều đó để chèn ép các đảng
khác, không cho họ có ghế quốc hội trong những lần bầu cử sau.

Tức là, nếu một đảng nào đó chiếm ưu thế quá lớn, cũng rất dễ có
xu hướng độc tài.

310
Một quan điểm về Triết học

Đất nước Campuchia cũng vừa trải qua một cuộc bầu cử quốc hội
vào giữa năm 2018. Trong đó có khoảng 20 đảng tham gia tranh
cử. Thế nhưng, đảng của thủ tướng Hun Sen chiếm trọn 100% ghế
quốc hội, bạn hiểu như vậy là thế nào rồi đấy.

Việc có một đảng nào đó chiếm số ghế vừa đủ để thành lập chính
phủ, để điều hành đất nước, khá khó xảy ra. Vậy nên các đảng
trong chế độ đại nghị có xu hướng liên minh lại với nhau để thành
lập chính phủ, nhưng theo tôi đây cũng chỉ là phương pháp tạm
thời. Bởi vì khi liên minh tức là phải ràng buộc, ràng buộc trong chính
sách điều hành đất nước, ràng buộc trong đường lối của đảng ...

Trong quyển sách này, tôi đề nghị một phương pháp khác, nhưng sẽ
được trình bày ở phần sau.

Chúng ta hiện tại đang là một đất nước độc tài, tương lai sẽ
có dân chủ. Khi đó chúng ta sẽ phải lựa chọn thể chế của
mình.

Là một nước nghèo nàn lạc hậu do chế độ độc tài gây ra,
tương lai để đuổi kịp các nước phát triển, bắt buộc chúng ta
phải lựa chọn thể chế tốt nhất mà hiện tại con người có thể
nghĩ ra. Bởi một khi đã lựa chọn thể chế cho đất nước mình,
bạn sẽ không thể thay đổi hoặc phải đợi rất lâu để thay đổi
thể chế đó. Vì vậy nếu lựa chọn sai sẽ là một mất mát rất lớn
cho dân tộc.

311
Một quan điểm về Triết học

Thế nhưng, là một nước đi sau, nó cho phép mọi người có thể
bình tâm suy nghĩ, để lựa chọn chế độ nào phù hợp nhất cho
dân tộc mình.

Nhưng nếu không suy nghĩ sớm thì cũng sẽ là quá muộn.

Với mất mát hiện tại của Việt Nam, chúng ta không thể thay
thế cái sai này bằng một cái sai khác được nữa. Vì vậy tôi
mong mọi người đọc quyển sách này của tôi, hãy sớm suy
nghĩ, bàn bạc và lựa chọn sớm chế độ tương lai cho chúng ta
bằng những lí luận logic cũng như thực tiễn.

Thao trường đổ mồ hôi thì chiến trường bớt đổ máu, đừng
để đến khi cần đến rồi mới lo chuẩn bị.

312
Một quan điểm về Triết học

BẦU CỬ

Có rất nhiều cách bầu cử khác nhau, mỗi cách lại đem đến hiệu
quả riêng biệt. So với việc lựa chọn thể chế, thì lựa chọn cách bầu
cử cũng đóng vai trò quan trọng không kém.

Định nghĩa: Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định


của người dân để chọn ra một cá nhân nắm giữ các chức
vụ thuộc chính quyền. Đây là cơ chế thông thường mà các
nền dân chủ hiện dùng để phân bổ chức vụ trong bộ máy
lập pháp, thỉnh thoảng ở bộ máy hành pháp, tư pháp, và
ở chính quyền địa phương. Bầu cử là một trong những chế
định quan trọng trong ngành Luật Hiến pháp, là cơ sở
pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho
quyền lực của nhà nước.

Trong Luật Hiến Pháp, thuật ngữ "bầu cử" được hiểu là
thủ tục thành lập cơ quan nhà nước hay chức danh nhà
nước, thủ tục này được thực hiện bởi sự biểu quyết của cử
tri (đại cử tri, đại diện cử tri) với điều kiện để bầu một đại
biểu (chức danh) phải có từ hai ứng cử viên trở lên. Định
nghĩa trên cho phép phân biệt bầu cử với phương pháp
khác, thành lập cơ quan nhà nước như bổ nhiệm.

Theo Wikipedia.

313
Một quan điểm về Triết học

Các nguyên tắc bầu cử

- Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu: Miễn là công dân đất của
nước, đủ số tuổi quy định, thì đều có quyền đi bầu cử, không
phân biệt.

- Nguyên tắc bình đẳng: Mọi công dân đều có quyền lợi ngang
nhau, khi tham gia bầu cử.

- Nguyên tắc bầu cử trực tiếp: Bầu cử trực tiếp có nghĩa là


công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu; công
dân trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không thông qua
một cấp đại diện cử tri nào.

- Nguyên tắc bầu cử gián tiếp: Theo nguyên tắc này, cử tri
không trực tiếp bầu ra người đại diện cho mình mà bầu ra
thành viên của tuyển cử đoàn, sau đó tuyển cử đoàn mới bầu
ra cơ quan đại diện hay chức danh nhà nước.

- Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai,
không bầu ai đều được bảo đảm bí mật.

Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được đến gần, kể cả cán
bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được

314
Một quan điểm về Triết học

biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết
phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện ở việc loại trừ sự theo dõi
và kiểm soát từ bên ngoài sự thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của
cử tri, nhưng mặt khác lại dễ bị thao túng kết quả do sự thiếu
minh bạch.

Bài viết:

So sánh một số hệ thống bầu cử trên thế giới

Tác giả: Bùi Hải Thiêm - Viện Nghiên cứu Lập pháp

Đối với một công dân bình thường ở tuổi trưởng thành của một
quốc gia dân chủ hiện đại, bầu cử đã trở thành một khái niệm quen
thuộc và thường xuyên được nhắc đến. Ở nghĩa gốc nguyên thủy,
“bầu cử” được hiểu đơn giản là “lựa chọn” hoặc “ra quyết định”.
Trên thực tế, trong các nền dân chủ đại diện hiện đại, bầu cử là cơ
chế phổ biến nhất để chọn lựa ra người đại diện vào nắm giữ vị trí
công quyền, thực thi quyền lực nhà nước. Do đó, bầu cử có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với các công dân. Trong “Tinh thần pháp
luật”, Montesquieu cho rằng trong bầu cử, cử tri thay đổi vị trí từ
người bị cai trị thành người cai trị, tức là thông qua hành vi bầu
315
Một quan điểm về Triết học

cử, người dân thực hiện chủ quyền của mình với tư cách là người
chủ để lựa chọn ra chính quyền của mình.

Với ý nghĩa đó, hệ thống bầu cử là một trong những thiết chế quan
trọng hàng đầu đối với bất cứ nền dân chủ nào. Hơn nữa, hệ thống
bầu cử được coi là một thiết chế chính trị vô cùng quan trọng, bởi
lẽ nó tạo lập ra luật chơi trong các nền dân chủ. Nhưng cũng chính
vì vậy mà hệ thống bầu cử lại là thiết chế chính trị dễ bị điều khiển
và lợi dụng nhất. Thông qua bầu cử, những lá phiếu của người dân
được chuyển thành những ghế trong cơ quan quyền lực nhà nước,
nên kiểm soát hệ thống bầu cử tức là hình thức trực tiếp kiểm soát
quyền lực. Ngày nay, để tránh sự lạm quyền và thao túng quyền
lực, các hệ thống bầu cử dân chủ hiện đại được thiết kế nhằm đạt
hai giá trị cơ bản đồng thời là phổ quát của bầu cử, trên thế giới
là “tự do” và “công bằng”, đó cũng là những giá trị mơ ước của
mỗi con người nói chung. Trong sự phát triển của nhân loại, mục
tiêu chiến lược của các cải cách hệ thống bầu cử trên thế giới phải
để phát huy dân chủ ngày càng mạnh mẽ, tạo điều kiện cho nhân
dân thực hiện chủ quyền của mình hiệu quả hơn và hiệu lực hơn.
Và chỉ có như vậy mới đạt được hai giá trị cơ bản là “tự do” và
“công bằng”.

Xét tổng quan trên thế giới, các hệ thống bầu cử rất đa dạng và
khác nhau tùy theo từng quốc gia. Tuy nhiên, dù có sự đa dạng như
vậy, nhưng về đại thể, các hệ thống bầu cử có thể được phân loại
thành hai nhóm lớn là hệ thống bầu cử theo quy tắc tỷ lệ đại diện

316
Một quan điểm về Triết học

và hệ thống bầu cử theo quy tắc lấy đa số. Lẽ dĩ nhiên trên thực tế,
có sự giao thoa lẫn nhau và tồn tại hệ thống hỗn hợp hai loại trên.
Để có một cách nhìn so sánh toàn diện, cần phân tích các hệ thống
bầu cử phổ biến trên thế giới hiện nay.

1. Hệ thống bầu cử theo quy tắc số nhiều/đa số

Đặc điểm nổi bật nhất để phân biệt hệ thống bầu cử này là, người
chiến thắng là người giành nhiều phiếu nhất, hoặc giành được đa
số phiếu. Ở những nước phân chia khu vực/đơn vị bầu cử với quy
định mỗi khu vực/đơn vị bầu cử chỉ được bầu lấy một đại diện duy
nhất, thường áp dụng phổ biến nhất là hệ thống bầu cử theo quy
tắc ai nhiều phiếu nhất là thắng (First Past the Post - FPTP).
Nguyên tắc “ai nhiều phiếu nhất là thắng” chỉ có thể được áp dụng
đối với đơn vị bầu cử chỉ bầu lấy một đại diện và người chiến thắng
là người nhận được nhiều phiếu bầu hợp lệ nhất, bất kể là có đạt
đa số hay không (trong khái niệm “đa số” phiếu, có “đa số
thường”, tức là lớn hơn 50%, và “đa số tuyệt đối”- lớn hơn 75%).
Đây là nguyên tắc đơn giản nhất và dễ dàng nhất để chọn được
người đại diện, bởi cách thức bỏ phiếu lấy người ứng cử viên làm
trung tâm. Mỗi cử tri được nhận một lá phiếu trên đó có ghi tên
của tất cả các ứng cử viên và cử tri chỉ được chọn lấy một cái tên
duy nhất trong đó. Ngày nay, hệ thống bầu cử theo nguyên tắc “ai
nhiều phiếu nhất là thắng” thuần túy chủ yếu còn tồn tại ở Vương
quốc Anh và các quốc gia vốn từng là thuộc địa của Anh như
317
Một quan điểm về Triết học

Canada, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Theo thống kê về hệ thống bầu cử các


nước do một tổ chức của Liên hợp quốc tiến hành, ở châu Á hiện
nay có tất cả 5 nước thực hiện hệ thống bầu cử theo nguyên tắc
“ai nhiều phiếu nhất là thắng”, gồm có Bangladesh, Myanmar,
Malaysia, Nepal và Ấn Độ; còn ở châu Phi, có 15 nước. Trong
tổng số 213 quốc gia và vùng lãnh thổ được điều tra, thì có 22%
số nước sử dụng hệ thống bầu cử theo nguyên tắc “ai nhiều phiếu
nhất là thắng”. Tính phổ biến của hệ thống bầu này bắt nguồn từ
những lợi thế của nó, chủ yếu là từ sự đơn giản và xu hướng chọn
người chiến thắng là đại diện theo khu vực địa lý. Một số điểm lợi
của hệ thống này là, trong các nước theo chế độ đa đảng, hệ thống
này giúp tạo lập chính phủ một đảng cầm quyền ổn định trong suốt
nhiệm kỳ mà không phải liên minh với các đảng nhỏ khác. Hệ
thống này là một trong những nhân tố góp phần tạo ra, hình thành
hai đảng lớn thay nhau cầm quyền tại Mỹ (Cộng hòa và Dân chủ),
hay tại Anh (Công đảng và Bảo thủ), góp phần loại bỏ đại diện các
đảng cực hữu ra khỏi cơ quan lập pháp. Do hệ thống này bầu ra
người chiến thắng đại diện cho một khu vực địa lý nhất định, nên
nó cũng tạo ra mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa đại biểu được
bầu với cử tri của khu vực bầu cử. Một số nhà bình luận cho rằng,
đây là đặc tính “giải trình trách nhiệm theo khu vực địa lý”, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng ở các xã hội nông nghiệp và các nước
đang phát triển.

318
Một quan điểm về Triết học

Tuy nhiên, hệ thống bầu cử theo nguyên tắc “ai nhiều phiếu nhất
là thắng” cũng có nhiều khiếm khuyết, thường bị chỉ trích vì thiếu
sự “công bằng” và thiếu tính chính đáng. Trong các chế độ đa
đảng, hệ thống này loại bỏ các đảng nhỏ ra khỏi cuộc chơi quyền
lực, và các đảng nhỏ không có được tỷ lệ đại diện công bằng mà
họ đáng được có trong cơ quan lập pháp. Ví dụ như trong cuộc
bầu cử liên bang năm 1993 của Canada, Đảng Bảo thủ tiến bộ
giành được 16% số phiếu bầu nhưng chỉ có được 0,7% số ghế
trong Quốc hội. Hệ thống này còn có xu hướng loại bỏ tỷ lệ đại
diện công bằng của các nhóm sắc tộc thiểu số và của phụ nữ ra
khỏi quốc hội. Theo thống kê năm 2004 của Liên minh Nghị viện
thế giới, các bằng chứng cho thấy hệ thống này làm giảm khả năng
thắng cử của phụ nữ và tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan dân cử tại
những nước theo hệ thống bầu cử này thấp hơn so với các nước
theo hệ thống bầu cử tỷ lệ. Ngoài ra, hệ thống này lại tạo điều kiện
cho các đảng chính trị phát triển dựa trên sự cố kết về dòng họ,
sắc tộc, tôn giáo, có nguy cơ tạo ra các “lãnh địa” riêng, khiến
các đảng nhỏ hơn, các nhóm thiểu số, yếu thế khó có cơ hội chen
chân vào cơ quan quyền lực. Thêm nữa, hệ thống này còn có điểm
yếu là tình trạng phân tán phiếu bầu, khiến ứng cử viên thắng cử
thường khó có thể có được đa số phiếu, làm giảm tính chính đáng
đối với việc nắm quyền của người đó. Một điểm yếu cơ bản nữa
của hệ thống này là sự phụ thuộc quá lớn vào cách phân chia ranh
giới địa lí khu vực bầu cử. Hệ quả chính trị là lực lượng nào thao
túng được việc phân chia ranh giới khu vực bầu cử thì sẽ chiến
319
Một quan điểm về Triết học

thắng, điều này khiến mục đích tìm kiếm sự “công bằng” sẽ khó
đạt được. (1)

Giải thích (1): “Mình lấy ví dụ thế này, một đất nước được
chia thành 100 vùng, mỗi vùng được bầu một đại biểu
quốc hội, và đảng nào có nhiều đại biểu quốc hội hơn sẽ
là đảng chiến thắng và được thành lập chính phủ. Bây giờ
mỗi vùng lại có nhóm người ủng hộ đảng A và nhóm
người ủng hộ đảng B. Nếu như đảng A được quyền
khoanh vùng bầu cử đại biểu quốc hội, họ sẽ không dại gì
khoanh các vùng tập trung những người có tỉ lệ ủng hộ
mình rất cao (gần như tuyệt đối) lại thành một vùng, và
khoanh những người ủng hộ đảng B cao lại thành một
vùng. Mà để tối ưu số lượng đại biểu quốc hội, nhằm mục
đích giành chiến thắng, họ sẽ khoanh vùng sao cho số
người ủng hộ đảng mình cao hơn số người ủng hộ đảng B
một chút, và khoanh những vùng có tỉ lệ người ủng hộ
đảng B rất cao lại thành một vùng. Như vậy đảng A sẽ tối
ưu được số lượng đại biểu quốc hội và có cơ hội giành
được chiến thắng cao hơn.”

Trong hệ thống bầu cử theo quy tắc đa số, còn có một nguyên tắc
ít phổ biến hơn, được áp dụng cho những nước, những vùng cho
phép mỗi khu vực/đơn vị bầu cử được bầu lấy nhiều hơn một đại
biểu, đó là nguyên tắc bầu theo cả khối (Block Vote). Theo nguyên
tắc này, cử tri có thể bầu tối đa số lượng đại biểu theo hạn mức số

320
Một quan điểm về Triết học

ghế được phân chia cho đơn vị bầu cử của mình, thường là tự do
bỏ phiếu cho cá nhân các ứng cử viên mà ít quan tâm đến đảng
phái của họ. Do đó, trong các nước theo chế độ đa đảng, nguyên
tắc bầu cử này chỉ được áp dụng tại một số nước mà đảng chính
trị yếu, ví dụ như Liban, Kuwait, Lào và một số quốc đảo ở Thái
Bình Dương. Một số nước khác như Jordan, Mông Cổ, Philippines
và Thái Lan cũng đã từng sử dụng nhưng sau đó đã thay đổi.
Chẳng hạn như ở Thái Lan, nguyên tắc bầu cử này đã tạo ra tình
trạng chia rẽ trong đảng, tình trạng tham nhũng, vì trong một đơn
vị bầu cử, các đảng viên của cùng một đảng phải cạnh tranh lẫn
nhau để giành giật sự ủng hộ của cử tri, nảy sinh tình trạng mua
phiếu và dẫn đến sự phát triển không lành mạnh của các đảng
chính trị.

Ngoài hai nguyên tắc trên, trong hệ thống bầu cử theo số nhiều
hoặc đa số, còn có một số nguyên tắc khác cũng có nơi, có thời
điểm áp dụng như bầu theo khối đảng (Party Block Vote) được
dùng ở một số nước như Senegal, Tunisia, Singapore, Djibouti;
hoặc bầu thứ tự thay thế (Alternative Vote) được áp dụng ở
Australia, Phigi, Papua New Guinea; và nguyên tắc bầu cử hai
vòng (Two-round system).

Trong các nguyên tắc đó, đáng chú ý phân tích nhất là nguyên tắc
bầu cử hai vòng, vẫn nằm trong hệ thống bầu cử theo số nhiều
hoặc đa số, cho phép tổ chức cuộc bầu cử vòng hai, nếu một ứng
cử viên hoặc một đảng nào đó đạt được một số phiếu nhất định

321
Một quan điểm về Triết học

trong vòng bầu cử đầu tiên, nhưng chưa đủ quá bán để thắng ngay
vòng đầu, thì vòng hai, người nào cao phiếu nhất sẽ chiến thắng,
không cần phải giành được đa số quá bán trở lên nữa. Vòng một
được thực hiện giống như cách bầu “ai nhiều phiếu nhất là thắng”,
ứng cử viên nào hoặc đảng nào (nếu bầu theo danh sách đảng)
nhận được một số phiếu nhất định theo quy định thì thắng cử ngay
vòng một, mà không cần bỏ phiếu lần hai nữa. Tỷ lệ phiếu quy định
này thường là quá bán, mặc dù có một số nước quy định các tỷ lệ
khác nhau. Nếu không có ứng cử viên nào hoặc đảng nào được
quá nửa số phiếu hợp lệ thì tiến hành vòng bầu cử thứ hai. Phổ
biến nhất cho cách bầu ở vòng hai là chọn ra hai ứng cử viên cao
phiếu nhất tại vòng một để bỏ phiếu, người thắng cử sẽ chắc chắn
đạt được quá bán số phiếu. Phương pháp khác là tại vòng hai chọn
nhiều hơn hai ứng cử viên, với quy định tỷ lệ phiếu tối thiểu một
ứng cử viên phải đạt được để vượt qua vòng một. Ví dụ, bầu cử cơ
quan lập pháp ở Pháp, ứng cử viên nào nhận được nhiều hơn
12,5% số phiếu hợp lệ ở vòng một là được vào vòng hai. Tại vòng
hai, ứng cử viên nào được cao phiếu nhất thì thắng cử, bất kể là
có giành được quá bán hay không. Phương pháp bầu cử hai vòng
được sử dụng cho bầu cử nghị viện tại 22 nước và là phương pháp
được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới cho bầu cử tổng thống
trực tiếp. Ngoài Pháp, còn các quốc gia trước đây là thuộc địa của
Pháp hoặc chịu ảnh hưởng của Pháp sử dụng cách bầu cử hai
vòng, ví dụ Cộng hòa Trung Phi, Congo, Gabon, Ai cập… và một

322
Một quan điểm về Triết học

số nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ như Belarus, Kyrgyzstan,


Turkmenistan, Uzbekistan.

Phương pháp bầu cử hai vòng có những điểm lợi và bất lợi. Những
điểm lợi đó là: Cho phép cử tri có cơ hội lựa chọn lần hai, khuyến
khích sự thỏa thuận giữa các đảng phái và nhóm lợi ích để đạt
được kết quả phù hợp ở vòng hai, giảm thiểu vấn đề phân tán
phiếu. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những khiếm khuyết
như: Gây áp lực đối với cơ quan tổ chức bầu cử vì phải tiến hành
hai cuộc bầu cử trong một khoảng thời gian ngắn, tăng chi phí,
tăng sự bất định và dễ mất ổn định; gây cả áp lực đối với cử tri,
dễ dẫn đến tỷ lệ cử tri đi bầu sụt giảm ở vòng hai. Trên thực tế,
khiếm khuyết nghiêm trọng nhất đối với phương pháp bầu cử này
được quan sát và phân tích ở các nước kém phát triển như Angola,
Congo và Algéri, với hệ lụy là xã hội bị chia rẽ sâu sắc, thậm chí
là nội chiến.

2. Hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện (Proportional


Representation-PR)

Nguyên lý chung của hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện là việc


chuyển số phiếu mà một đảng chính trị nhận được trong bầu cử,
thành số ghế tương ứng trong cơ quan lập pháp cho đảng đó. Có
hai phương pháp bầu cử phổ biến theo tỷ lệ đại diện là phương

323
Một quan điểm về Triết học

pháp tỷ lệ đại diện theo danh sách (List PR) và phương pháp bầu
cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (Single Transferable
Vote -STV). Một nguyên tắc chung đối với hệ thống bầu cử theo tỷ
lệ đại diện là mỗi khu vực bầu cử phải được bầu nhiều hơn một
đại biểu. Ở một số nước nhỏ, dân số ít, như Israel và Hà Lan, cả
nước là một đơn vị bầu cử, được bầu nhiều đại biểu. Ở một số nước
khác, ví dụ như Argentina và Bồ Đào Nha, đơn vị bầu cử được lấy
căn cứ theo tỉnh. Hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện được nhiều
nước Mỹ Latinh, châu Phi và châu Âu sử dụng, và đại bộ phận
những nước đó áp dụng phương pháp tỷ lệ đại diện theo danh sách.
Có một số yếu tố quan trọng tác động đến hiệu quả hoạt động trên
thực tế của hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện như số lượng đại
biểu được phân bổ cho mỗi đơn vị bầu cử, phạm vi lựa chọn của
cử tri giữa các đảng phái chính trị và cá nhân các ứng cử viên. Hệ
thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện có nhiều điểm thuận lợi và cả điểm
bất lợi.

Điểm thuận lợi là: Kết quả bầu cử sẽ cho phép có một cơ quan lập
pháp có tính đại diện cao hơn hệ thống bầu cử theo quy tắc số
nhiều hay đa số. Lợi ích rõ ràng của nó là tại những nước vốn có
sự chia rẽ xã hội sâu sắc, việc bao gồm các nhóm xã hội khác nhau,
không loại trừ nhóm yếu thế trong cơ quan lập pháp, là điều kiện
cần thiết để đảm bảo hòa hợp dân tộc và ổn định. Hệ thống này
được nhiều nhà phân tích ca ngợi là tránh được kết quả bất công
hay nguy cơ bất ổn, do giảm thiểu khả năng chi phối tuyệt đối của

324
Một quan điểm về Triết học

các đảng lớn, vẫn tạo cơ hội tiếp cận quyền lực nhà nước cho các
đảng nhỏ. Để làm được như vậy, đòi hỏi phải có sự nhất trí của
các đảng chính trị khi nộp danh sách ứng cử viên của đảng, những
người thể hiện ý chí và tư tưởng của đảng. Hệ thống này cũng
tránh được lãng phí phiếu bầu, bởi lẽ, bất kỳ lá phiếu nào cũng
đóng góp vào kết quả cuối cùng và có khả năng làm thay đổi kết
quả bầu cử, dù là nhỏ. Do hệ thống này khuyến khích tính đại diện,
tính bao gồm, nên các đảng nhỏ, các lực lượng thiểu số đều có cơ
hội, nó hạn chế được đáng kể tình trạng “lãnh địa bầu cử”, dẫn
đến tính liên tục và ổn định cao hơn của chính sách, khuyến khích
hoạt động chia sẻ quyền lực giữa các đảng phái chính trị và các
nhóm lợi ích.

Tuy nhiên, hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện cũng có những điểm
bất lợi đáng kể. Hệ thống này có xu hướng dẫn đến các chính phủ
liên hiệp và hệ thống đảng phái bị manh mún, bất ổn định. Hệ
thống này cũng tạo điều kiện cho các đảng cực hữu hoặc cực tả có
đất sống. Kết quả của hệ thống bầu cử này thường là có một chính
phủ liên hiệp, nhưng lại thiếu cơ sở liên minh vững chắc là những
điểm đồng thuận về chính sách, tư tưởng và cơ sở ủng hộ, nên hay
mất ổn định và dễ đổ vỡ. Thêm vào đó, hệ thống này cũng tạo ra
nhiều quyền lực cho các đảng nhỏ trong cuộc mặc cả thành lập
chính phủ liên hiệp với các đảng lớn, gây áp lực lớn đối với các
đảng lớn và cử tri, rất khó có thể loại bỏ hoàn toàn được đảng nào
ra khỏi quyền lực nhà nước.

325
Một quan điểm về Triết học

Trong hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện, như đã nêu trên, có hai
phương pháp phổ biến là tỷ lệ đại diện theo danh sách và bầu cử
lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng. Điểm phân biệt giữa hai
phương pháp này là một bên lấy trọng tâm là bầu theo đảng phái,
một bên lấy trọng tâm là bầu theo ứng cử viên cụ thể. Phương pháp
bầu cử tỷ lệ đại diện theo danh sách cho phép mỗi đảng được trình
một danh sách các ứng cử viên tại mỗi đơn vị bầu cử, cử tri bỏ
phiếu cho một đảng nào đó và đảng này nhận được số ghế tương
ứng với tỷ lệ phiếu bầu mà họ nhận được. Người thắng cử được
lấy từ danh sách theo trật tự thứ tự của danh sách. Số ghế được
phân bổ được tính toán theo công thức lấy trị số trung bình cao
nhất hoặc tính số dư lớn nhất. Công thức tính toán thế nào ảnh
hưởng khá lớn đến tỷ lệ ghế của mỗi đảng. Rõ ràng, lợi thế lớn
nhất của phương pháp bầu cử tỷ lệ đại diện theo đảng phái tạo cơ
hội lớn cho các đảng nhỏ, nhóm thiểu số, và đặc biệt là gia tăng
cơ hội trúng cử của phụ nữ. Tuy nhiên, vì tập trung vào tính đại
diện và danh sách đảng, nên điểm yếu cơ bản của nó là mối quan
hệ thiếu gắn bó và tương đối lỏng lẻo giữa đại biểu được bầu và
khu vực bầu cử của họ, cử tri biết rất ít về cá nhân các ứng cử viên
mà chỉ bỏ phiếu theo đảng phái mà họ yêu thích. Điều này dễ tạo
ra quyền lực chi phối của giới lãnh đạo cao cấp trong đảng chính
trị, vì họ quyết định danh sách đảng đưa ra bầu cử. Chính vì vậy,
cơ hội được thắng cử của một ứng cử viên phụ thuộc nhiều hơn
vào việc được lãnh đạo đảng đề cử vào danh sách, chứ không phải

326
Một quan điểm về Triết học

là cử tri, nên rõ ràng, mối quan hệ đại biểu - cử tri có ít sự liên kết
gắn bó.

Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng


(STV) được giới học giả hàn lâm và khoa học chính trị đưa ra để
thiết kế hệ thống bầu cử, nhưng việc áp dụng lại tương đối hạn
chế. Phương pháp này được nhà khoa học chính trị người Anh tên
là Thomas Hare và người Đan Mạch Carl Andrea đưa ra từ thế kỷ
thứ 19, được áp dụng tại Cộng hòa Ireland bắt đầu từ năm 1921,
tại Malta từ năm 1947, áp dụng cho bầu cử thượng viện liên bang
Australia và một số bang của nước này. Phương pháp bầu này
cũng tương tự như bầu thứ tự thay thế (AV) của hệ thống bầu cử
theo quy tắc số nhiều/đa số, tức là cử tri lựa chọn ứng cử viên theo
thứ tự ưu tiên từ trên xuống và ứng cử viên nào đạt được số phiếu
bầu chọn ưu tiên số 1 nhiều nhất sẽ thắng cử ngay. Sau đó, từ
người thắng cử thứ hai sẽ tính số phiếu bầu được phân phối lại từ
người có số phiếu được ưu tiên thấp nhất và số phiếu dư từ người
đã thắng cử trước người đó. Theo phương pháp đó, lấy người
thắng cử cho đủ số hạn mức đại biểu được bầu của đơn vị bầu cử
đó. Phương pháp này do các học giả chính trị đưa ra, nên tính
toán kiểm phiếu tương đối phức tạp và đòi hỏi cử tri phải có hiểu
biết, ở trình độ dân trí nhất định, do đó mức độ áp dụng tương đối
hạn chế.

327
Một quan điểm về Triết học

3. Hệ thống bầu cử hỗn hợp hoặc song song

Có thể thấy, hai hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới đều có điểm
lợi thế và khiếm khuyết nhất định. Do đó, nhiều nước đã cố gắng
thiết kế hệ thống bầu cử của mình bằng cách khai thác tối đa những
lợi thế của cả hai hệ thống và giảm thiểu điểm khiếm khuyết của
chúng. Các hệ thống bầu cử - nếu không nằm hoàn toàn vào một
trong hai hệ thống đã đề cập - thì sẽ là loại hỗn hợp, phái sinh từ
hai loại cơ bản trên. Hệ thống song song cũng là một dạng hệ
thống hỗn hợp, cử tri lựa chọn bầu đại biểu của mình thông qua
hai hệ thống bầu cử tỷ lệ đại diện theo danh sách và hệ thống bầu
cử theo số nhiều/đa số.

4. Một số nhận xét và gợi ý cho thiết kế hệ thống bầu cử.

Có thể thấy, việc thiết kế hệ thống bầu cử như thế nào ảnh hưởng
to lớn đến hoạt động quản trị quốc gia, ra chính sách và ổn định
chính trị. Mỗi một hệ thống bầu cử khác nhau đều có những hệ lụy
khác nhau, đều có điểm lợi và các khiếm khuyết, chưa thể có một
hệ thống hoàn hảo ở bất kỳ nước nào. Tuy nhiên, để hướng đến
một hệ thống bầu cử tốt hơn, ít khiếm khuyết hơn, khiến cho người
dân phát huy được quyền làm chủ của mình lớn hơn, cần phải lưu
ý một số kinh nghiệm đã được các chuyên gia quốc tế đúc rút từ
việc thiết kế các hệ thống bầu cử trên thế giới để áp dụng cho hệ
thống bầu cử tại Việt Nam:

328
Một quan điểm về Triết học

- Thiết kế hệ thống bầu cử sao cho đơn giản và rõ ràng, như vậy
sẽ tăng tính hiệu quả và bền vững, dễ được cử tri và các nhà chính
trị chấp nhận. Hệ thống bầu cử càng phức tạp thì càng khó hiểu,
và do đó, làm cử tri thiếu tin tưởng vào kết quả.

- Khi thiết kế hệ thống bầu cử, phải khuyến khích tư duy đổi mới,
thay đổi cách làm cũ đối với những vấn đề khiếm khuyết cụ thể đã
được xác định rõ ràng; chú ý các nhân tố thuộc về hoàn cảnh cụ
thể và tạm thời;

- Cần chú ý tính bao gồm và đại diện của các nhóm sắc tộc thiểu
số, yếu thế và phụ nữ để được bầu vào cơ quan lập pháp, đặc biệt
tại những nước đang phát triển, những nước nghèo bởi hệ quả trực
tiếp của việc loại bỏ các nhóm này ra khỏi quyền lực nhà nước tại
những nước kém phát triển là chia rẽ xã hội, gây xung đột.

- Hệ thống bầu cử phải được thiết kế sao cho cử tri thấy rằng, bầu
cử đem lại cho họ một biện pháp gây ảnh hưởng đối với chính phủ
và các chính sách của chính phủ, rằng lá phiếu của họ thực sự có
ý nghĩa tác động đến đời sống chính trị và quyền lực nhà nước,
trực tiếp thông qua kết quả bầu cử. Điều đó thể hiện tính dân chủ
và chủ quyền của nhân dân được thực thi.

- Hệ thống bầu cử có ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống chính trị,


giúp tạo lập sự ổn định, tăng cường trách nhiệm giải trình của
chính phủ… nhưng cũng không phải là thần dược để chữa tất cả
các căn bệnh của hệ thống chính trị. Những khiếm khuyết lớn của

329
Một quan điểm về Triết học

hệ thống bầu cử hiện tại không phải có thể dễ dàng sửa đổi, bởi hệ
lụy của việc sửa đổi đó là sự thay đổi cả môi trường chính trị và
những hệ quả ngoài mong muốn (phản ứng phụ). Do đó, bất cứ sự
thay đổi nào cũng cần tìm kiếm những kinh nghiệm quốc tế của
các nước láng giềng, các nước có hoàn cảnh tương tự để so sánh,
đánh giá một cách thấu đáo những tác động của một hệ thống mới.
Thường các hệ thống bầu cử được thiết kế với tư duy tránh các sai
lầm trong quá khứ, nhất là những sai lầm gần nhất. Tư duy đó có
thể là một cái bẫy dễ mắc phải, khiến hệ thống được sửa đổi lại
trượt sang những khiếm khuyết khác, thậm chí còn không đáng
mong muốn hơn. Do đó, trong khi cố gắng khắc phục những khiếm
khuyết của hệ thống bầu cử hiện tại, cũng cần thận trọng để không
có phản ứng thái quá, tạo lập một hệ thống mới đi quá xa so với
việc sửa chữa khiếm khuyết cũ.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 8(193), tháng 4/2011)

330
Một quan điểm về Triết học

Trích “Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2”

Tác giả: Nguyễn Gia Kiểng

Thể chế và hiến pháp cho Cộng Hòa Việt Nam

Việc chọn lựa một chế độ chính trị không thể là một chọn lựa thuần
túy lý thuyết, càng không thể là sự sao chép một khuôn mẫu sẵn
có đã thành công tại một quốc gia khác, dù chúng ta trân trọng tới
đâu kinh nghiệm của các dân tộc trong cuộc hành trình tới dân chủ
và phồn vinh. Chúng ta chọn lựa một chế độ chính trị, đồng thời
một hiến pháp, đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đất nước:

- Xây dựng dân chủ một cách thành thực và không thể đảo ngược
để hội nhập một cách quả quyết vào thế giới dân chủ;

- Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc thực sự, dứt khoát, để động
viên mọi khối óc, mọi tấm lòng và mọi bàn tay cho cố gắng vươn
lên và xây dựng một tương lai Việt Nam chung;

- Phát triển đất nước theo mô hình kinh tế thị trường, lấy tự do và
sáng tạo làm động cơ;

- Tản quyền để cho phép các vùng khai thác tối đa những ưu thế
đặc biệt của mình trong một nước Việt Nam thống nhất, đồng thời
giảm thiểu chênh lệch giữa các vùng;

331
Một quan điểm về Triết học

- Phát huy xã hội dân sự và thỏa mãn những khát vọng chính đáng
của các cộng đồng sắc tộc cũng như tôn giáo;

- Thực hiện thống nhất đất nước thực sự, nghĩa là trong đồng thuận
dân tộc. Dưới ánh sáng của những yêu cầu cơ bản đó, chúng ta
chọn một chế độ chính trị dân chủ đại nghị và tản quyền.

1. Hai thành kiến sai lầm về chế độ chính trị


Trước khi thảo luận về một chế độ chính trị hợp tình, hợp lý cho
Việt Nam, chúng ta cần giải tỏa hai thành kiến, cũng là hai lo âu
không đúng nhưng rất phổ biến của người Việt.

1.1. Dân chủ đa nguyên và ổn định chính trị

Lo âu thứ nhất là một chế độ đa nguyên và đa đảng có thể gây ra


tình trạng phân tán đảng phái, trong đó không có đảng nào có được
đa số để nắm chính quyền và do đó gây ra tình trạng bất ổn chính
trị. Người ta có thể lo sợ rằng, chính quyền sẽ thay đổi liên tục tùy
theo những hợp tan của những liên minh tạm bợ.

Lo âu này không có căn cứ, nó xuất phát từ một hiểu lầm do một
tuyên truyền đầu độc mà nhiều người Việt Nam đã là nạn nhân.

Sự kiện có ít hay nhiều đảng phái và có một chính đảng được đa


số ổn vững trong quốc hội hay không, tùy thuộc chủ yếu ở thể thức
đầu phiếu, chứ không phải ở mức độ tự do chính trị. Nói một cách
332
Một quan điểm về Triết học

giản dị: Lối đầu phiếu đơn danh và một vòng đưa tới chế độ lưỡng
đảng vì loại bỏ các đảng nhỏ, trong khi lối đầu phiếu theo tỷ lệ đưa
tới sự xuất hiện của nhiều chính đảng.

Bầu đơn danh và một vòng có nghĩa là, mỗi đơn vị bầu cử bầu ra
một dân biểu và các ứng cử viên ra tranh cử với tư cách pháp lý cá
nhân, dù có thể mang nhãn hiệu của một chính đảng, ai được số
phiếu cao nhất sẽ đắc cử. Lối bầu cử này có lợi cho các chính đảng
lớn, loại các đảng nhỏ và đảm bảo sự hiện hữu thường trực của một
đa số để thành lập và điều hành chính phủ một cách ổn vững, ngược
lại nó không cho phép các khuynh hướng thiểu số có tiếng nói tại
nghị trường. Trên thực tế, nó thường đưa tới chế độ lưỡng đảng.
Như vậy lối đầu phiếu đơn danh và một vòng là giải đáp kỹ thuật
cho ưu tư có một chính quyền ổn vững mà không cần giới hạn tự
do chính trị về mặt pháp chế. Bầu theo tỷ lệ có nghĩa là đầu phiếu
chung trên cả nước hay trong mỗi vùng, giữa các chính đảng với
nhau, và số dân biểu đắc cử của mỗi chính đảng sẽ tỷ lệ với số
phiếu của mình, thí dụ đảng được 20% số phiếu thì trên nguyên tắc
cũng được 20% đại biểu. Lối đầu phiếu này rất dân chủ vì cho phép
mọi khuynh hướng có tiếng nói và chỗ đứng trong quốc hội, nhưng
ngược lại nó có nguy cơ đưa tới một quốc hội phân tán, trong đó
không có đảng nào có đa số đủ để cầm quyền.

Giải pháp tối ưu là một sự phối hợp giữa hai lối đầu phiếu này để
vừa đảm bảo dân chủ vừa đảm bảo sự ổn vững tương đối của chính
quyền. Về mặt kỹ thuật có thể có vô số công thức, kể cả lối đầu

333
Một quan điểm về Triết học

phiếu đơn danh hai vòng, với tác dụng kết hợp các đảng có cùng
khuynh hướng trong vòng hai. Những nhận định này cho phép ta
khẳng định rằng viện lý do ổn định chính trị để giới hạn hoạt động
chính đảng là vô căn cứ. Trong nước Việt Nam tương lai không
cần có, và cũng không thể có, bất cứ một giới hạn nào đối với
quyền thành lập và phát triển các chính đảng. Cũng cần chấm dứt
một sự lẫn lộn gian trá về ổn định.

Ổn định có hai nghĩa.

Nghĩa thứ nhất là ổn định dân sự, nghĩa là ổn định trong cuộc sống
của mỗi công dân, là đảm bảo không bị bắt bớ, tịch thu tài sản, cấm
kinh doanh, không là nạn nhân của những thay đổi luật pháp đột
ngột và thường xuyên, hay những quyết định tùy tiện của chính
quyền. Ổn định này rất cần thiết cho phát triển kinh tế, vì có như
thế người dân mới có thể yên trí để tiên liệu và hoạch định sinh
hoạt của mình. Ổn định này đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và nhà
nước pháp trị.

Nghĩa thứ hai là ổn định của tập đoàn cầm quyền, hay nói khác đi
là sự kéo dài của một chính quyền với cùng những người cầm
quyền. Sự kéo dài này, nếu không do bầu cử tự do mà là do một
chế độ độc tài bạo ngược, còn rất mâu thuẫn với ổn định dân sự và
do đó hoàn toàn mâu thuẫn với phát triển, bởi vì người dân luôn
luôn phải sống trong sợ sệt, không dám và không thể lập những kế
hoạch kinh doanh lâu dài.

334
Một quan điểm về Triết học

Kinh nghiệm cho thấy ổn định dân sự rất cần cho phát triển, trong
khi ổn định của tập đoàn cầm quyền hoàn toàn không cần thiết,
thậm chí còn có ảnh hưởng xấu vì các chính quyền kéo dài quá lâu
gần như chắc chắn đưa tới lạm quyền và tham nhũng. Tại Nhật, từ
sau Thế Chiến II tới nay, ít có chính phủ nào kéo dài được hai năm.
Tại Ý, tuổi thọ trung bình của các chính phủ còn ngắn hơn nhiều.
Mặc dầu vậy kinh tế của cả hai nước này đều phát triển nhanh
chóng, họ đều là thành viên của nhóm bảy nước phát triển nhất.
Trong khi các nước có những chính quyền kéo dài như Việt Nam,
Cuba, Bắc Triều Tiên và nhiều nước thuộc Châu Phi và Châu Mỹ
La Tinh lại rất trì trệ và lạc hậu. Khi các tập đoàn độc tài - như ban
lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam - nói cần phải có ổn định để
phát triển, nhiều người đồng ý với họ vì hiểu đó là ổn định dân sự,
trong khi họ thực hiện ổn định theo nghĩa thứ hai, nghĩa là ổn định
của tập đoàn cầm quyền. Đó là một sự gian trá cần được tố giác.

1.2. Thống nhất và tản quyền

Lo âu thứ hai là, phải chăng tản quyền có thể phương hại tới thống
nhất lãnh thổ và tái lập lại tình trạng sứ quân. Câu trả lời dứt khoát
là không. Các vùng không phải là những quốc gia, tự quản không
đồng nghĩa với độc lập. Luật pháp của vùng không thể mâu thuẫn
với luật pháp quốc gia. Cũng nên có một cái nhìn lành mạnh hơn
về thống nhất, vượt lên trên sự thống nhất hành chính, nặng nề và
bàn giấy. Thống nhất chủ yếu là thống nhất trong lòng người. Khi
mỗi người và mỗi địa phương cảm thấy có chỗ đứng và tiếng nói

335
Một quan điểm về Triết học

trong cộng đồng quốc gia, trong khi những nét đặc thù của mình
vẫn được tôn trọng, thì họ càng cảm thấy hòa nhập vào quốc gia,
và hòa hợp dân tộc càng mạnh thêm. Ngược lại, trong thế giới vừa
dồn dập vừa phức tạp hiện nay và trong một quốc gia với gần một
trăm triệu người, một chính quyền trung ương tập quyền không thể
nào định đoạt tất cả, các địa phương trên thực tế vẫn tự trị, nhưng
tự trị một cách bất hợp pháp, nghĩa là luôn luôn ở trong thế xung
đột hợp lý nhưng bất hợp pháp với chính quyền trung ương, và do
đó với cộng đồng quốc gia. Trung ương tập quyền vì vậy đưa tới
sứ quân thay vì thống nhất. Chính vì tác dụng đoàn kết dân tộc của
nó mà tản quyền cần được thực hiện cả trên bình diện quốc gia lẫn
trong tổ chức của mỗi vùng. Tản quyền là xu hướng áp đảo của
thời đại này, và là kết luận của hai thế kỷ thử nghiệm dân chủ trên
Trái Đất. Điều đáng ngạc nhiên là các dân tộc đã mất một thời gian
dài như vậy để khám phá một sự thật đơn giản: Một nội các chỉ có
thể gồm một số ít người, và một số ít người không thể quyết định
tất cả cho một quốc gia rộng lớn với số người đông đảo, sinh sống
trên những vùng đất với những điều kiện địa lý và nhân văn khác
nhau.

Tản quyền có những ưu điểm rõ rệt: Nó khuyến khích sinh hoạt


chính trị tại các địa phương, nó đem dân chủ tới mọi nơi với mọi
người, nó tránh được những đường dây hành chính dài và phức tạp
cho sinh hoạt thường ngày với hậu quả là sự tập trung quá đáng
dân số vào những thành phố lớn, nó kích thích sinh hoạt văn hóa

336
Một quan điểm về Triết học

và báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa phương chọn lựa công
thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc tính của mình và nhờ đó mà
phát triển. Các vùng nghèo khó sẽ có được một chính quyền riêng
dành tất cả ưu tư cho việc phát triển vùng và đưa vùng lên ngang
tầm phát triển của cả nước, thay vì bị quên lãng bởi một chính
quyền trung ương bận rộn với những vấn đề dồn dập của các vùng
đã phát triển và có hoạt động mạnh. Không ai báo động một cách
thành tâm và chính xác tình trạng khó khăn của một vùng bằng một
chính quyền của vùng mà sứ mạng duy nhất là phát triển vùng. Tản
quyền còn đóng góp vào sự ổn vững của quốc gia và của dân chủ.
Một mặt nó vô hiệu hóa những âm mưu đảo chính (lật đổ chính
quyền trung ương rồi làm gì với các chính quyền địa phương?).
Mặt khác, nó tránh các khủng hoảng đáng lẽ không có ở cấp trung
ương, bởi vì vấn đề có thể đặt ra ở từng địa phương một vào những
thời điểm khác nhau.

Một ưu điểm vô cùng quan trọng khác của tản quyền là nó làm
giảm bớt xung đột chính trị, bởi vì một đảng có thể thua ở cấp trung
ương nhưng vẫn có thể nắm quyền tại một số địa phương, nơi mà
họ được tín nhiệm. Xung khắc chính quyền - đối lập vì vậy sẽ bớt
gay gắt. Trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay của Việt Nam, tản quyền
vì vậy tránh được tình trạng được thì được hết, thua thì thua luôn,
và đóng góp tích cực cho hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tản quyền
cho phép những khuynh hướng thiểu số, các tôn giáo và các sắc
tộc ít người có trọng lượng chính trị đáng kể tại những địa phương

337
Một quan điểm về Triết học

mà họ hiện diện đông đảo, do đó làm dịu bớt những tâm trạng bất
mãn và các ý đồ ly khai, tự trị. Một điểm lợi quan trọng khác của
tản quyền là, chính nhờ các chính quyền địa phương mà mỗi khi
có thay đổi chính quyền, thì những người lên cầm quyền ở trung
ương cũng không phải là những người tập sự, mà ít nhất đã có kinh
nghiệm ở cấp địa phương. Tuy nhiên, muốn tản quyền có nội dung
và tác dụng thực sự của nó, các vùng phải có một diện tích và một
dân số khả dĩ có thể tồn tại và phát triển được.

Nước ta hiện nay có trên 90 triệu dân, khi đà gia tăng dân số đã
khựng lại, dân số của chúng ta sẽ ổn định ở một mức độ nào đó
chung quanh con số 110 triệu dân. Chúng ta có thể có từ mười đến
mười lăm vùng, mỗi vùng từ năm tới mười lăm triệu người. Để
tránh những phiền phức về hành chính và nhất là về hộ tịch, các
vùng sẽ là sự kết hợp của một số tỉnh hiện có. Việc tập trung các
tỉnh vào một vùng sẽ dựa trên các tiêu chuẩn cấu tạo sắc tộc, chức
năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và giao thông. Mỗi vùng sẽ có
một nghị viện riêng được quyền bổ nhiệm chính quyền vùng, ban
hành các luật lệ vùng không mâu thuẫn với hiến pháp và pháp luật
quốc gia, biểu quyết mức độ của một số sắc thuế, biểu quyết ngân
sách địa phương. Chính quyền vùng do nghị viện địa phương bầu
ra để thi hành những chính sách đã được nghị viện địa phương biểu
quyết. Các vùng không có quyền có quân đội, không được phát
hành tiền tệ riêng, không có đại diện ngoại giao, không được quyền
ký hiệp ước với các nước khác, không được làm chủ các công ty

338
Một quan điểm về Triết học

có mục đích kinh doanh, không được tổ chức những trưng cầu dân
ý có mục đích chính trị. Mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý phải
được chính quyền trung ương đồng ý trước và nhìn nhận kết quả
sau đó, mới có giá trị. Các vùng không được ký hiệp ước với nhau.
Việc phối hợp giữa các vùng cũng như các vụ việc liên quan đến
nhiều vùng hoặc có liên hệ tới an ninh quốc gia thuộc thẩm quyền
của chính quyền trung ương. Mỗi công dân có quyền chọn lựa nơi
cư trú trên toàn lãnh thổ. Các vùng không có quyền cấm cản sự
nhập cư vào vùng mà chỉ có quyền giới hạn phạm vi lưu thông của
các công dân trong tình trạng điều tra pháp lý. Số lượng cảnh sát
vùng không được vượt quá một tỷ lệ, do chính quyền trung ương
quy định, so với số cảnh sát quốc gia hiện diện tại vùng. Chính
quyền trung ương được quyền ấn định một nội dung tối thiểu cho
mỗi trình độ giáo dục. Các bằng cấp cho phép hành nghề tự do phải
được chính quyền trung ương chuẩn nhận. Các cơ quan chính
quyền tỉnh và dưới cấp tỉnh sẽ do một đạo luật quốc gia quy định
theo nguyên tắc tản quyền.

2. Chế độ chính trị


2.1. Chế độ đại nghị: thể chế dân chủ và ổn vững nhất

Quyết tâm của chúng ta là thực hiện dân chủ một cách hiệu quả
nhất và ngăn chặn sự trở lại của bất cứ một hình thức độc tài nào.
Chúng ta lựa chọn thể chế chính trị trên căn bản của quyết tâm đó.
Việc đầu tiên phải làm là chọn lựa giữa một trong ba công thức:
Chế độ tổng thống, chế độ bán tổng thống và chế độ đại nghị.

339
Một quan điểm về Triết học

Trước hết, chúng ta dứt khoát loại bỏ chế độ tổng thống, nghĩa là
chế độ trong đó một người được dân chúng trực tiếp bầu cử theo
phổ thông đầu phiếu và nắm trọn quyền hành pháp. Chế độ này có
nhiều tật nguyền không thể chấp nhận được. Ta có thể kể hai tật
nguyền thông thường nhất sau đây.

Tật nguyền đầu tiên ở ngay trong thể thức bầu cho một người thay
vì cho một chính đảng. Lối bầu này khiến các chính đảng không
lớn mạnh được vì điều kiện chính để nắm chính quyền là một nhân
vật có sức thu hút cử tri, như thế điều kiện cốt lõi là có một ủy ban
vận động tranh cử tốt chứ không phải một bộ máy đảng. Ông hay
bà ta có thể được bầu vì những lý do hời hợt như trẻ đẹp, đi đứng
duyên dáng, nói năng hùng hồn, v.v… hơn là vì uy tín của đảng
mình và khả năng chính trị của mình. Ứng cử viên này một khi đã
đắc cử sẽ chế ngự đảng chứ không lệ thuộc đảng. Kinh nghiệm cho
thấy là trong mọi chế độ tổng thống, kể cả Hoa Kỳ, không có những
chính đảng mạnh như trong các chế độ đại nghị và đây là một thiệt
hại lớn vì các chính đảng vừa là lò đào tạo ra nhân tài chính trị vừa
là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến trên những vấn đề
lớn đặt ra cho đất nước.

Tật nguyền thứ hai là nó dành quá nhiều quyền cho một người
trong một thời gian được quy định trước. Trong hoàn cảnh của một
nước chưa có truyền thống dân chủ, nó rất dễ dẫn tới lạm quyền và
độc tài với hậu quả là đàn áp, bạo loạn, thậm chí nội chiến. Hơn
nữa, nếu tổng thống vì bất cứ lý do nào bị mất uy tín giữa nhiệm

340
Một quan điểm về Triết học

kỳ thì sinh hoạt quốc gia sẽ bế tắc, nguy hiểm trong suốt thời gian
còn lại vì vị tổng thống này không thể bị thay thế.

Trên mặt thuần túy lý thuyết, chế độ tổng thống có ưu điểm là đảm
bảo một chính quyền mạnh có khả năng quyết định mau chóng
những chọn lựa chiến lược cần thiết, nhưng thực tế hiện nay là
nguy cơ chiến tranh không còn nữa, ngay cả chiến tranh lạnh cũng
đã chấm dứt, nhu cầu có một chính quyền mạnh để lấy những quyết
định quan trọng một cách nhanh chóng không còn đặt ra nữa. Vả
lại điều gì một tổng thống có thể làm, một thủ tướng được đa số
trong quốc hội yểm trợ cũng có thể làm. Sự thật lịch sử là cho tới
nay, trừ trường hợp của Hoa Kỳ, tất cả mọi chế độ tổng thống trên
thế giới đều đã thất bại, hoặc dẫn tới một chế độ độc tài cá nhân,
như trường hợp của hầu hết các quốc gia theo chế độ này, hoặc dẫn
tới một xung đột bế tắc giữa hành pháp và lập pháp. Chính sự thất
bại của các chế độ tổng thống đã đưa đến sự xuất hiện của các chế
độ "bán tổng thống", nghĩa là vừa có một tổng thống vừa có một
thủ tướng. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa chia sẻ một
phần quyền hành pháp, nhiều hay ít theo quy định của hiến pháp,
với một thủ tướng chịu trách nhiệm trước quốc hội trong đa số các
trường hợp. Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra
nên uy thế rất lớn, ngang hàng với một tổng thống trong chế độ
tổng thống thuần túy ngay cả khi quyền hiến định có thể khác. Uy
thế này là một bảo đảm cho ổn vững chính trị, tương tự như một
chế độ tổng thống, bù lại cái giá phải trả là, một mặt, một số bất

341
Một quan điểm về Triết học

lợi của chế độ tổng thống và, mặt khác, những mâu thuẫn về thẩm
quyền không tránh khỏi trong nội bộ hành pháp giữa tổng thống và
thủ tướng. Các chế độ bán tổng thống có tác dụng giảm bớt những
bất lợi của chế độ tổng thống bằng cách dung hòa nó với chế độ
đại nghị. Đã có một số chế độ bán tổng thống thành công. Tuy
nhiên, chế độ bán tổng thống là một chế độ rất phức tạp, bản chất
và nội dung chế độ có thể thay đổi tùy theo những yếu tố tình cờ:
Tổng thống và thủ tướng cùng đảng hay khác đảng, nhiệm kỳ của
tổng thống và của quốc hội ngắn dài bằng nhau hay khác nhau,
tổng thống hay quốc hội mới được bầu gần đây, v.v…

Trong một chế độ đại nghị, quyền hành pháp ở trong tay một thủ
tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Như
thế khi bầu ra một quốc hội, một cách gián tiếp, người dân cũng
chọn lựa một thủ tướng. Ưu điểm của chế độ đại nghị là người dân
bầu trước hết cho một dự án chính trị của một đảng, thay vì cho
một người và sau đó chọn lựa một dân biểu trong số những ứng cử
viên sinh hoạt gần gũi với họ mà họ có điều kiện để đánh giá; qua
dân biểu của họ, họ cũng có khả năng theo dõi và kiểm soát một
cách thường trực sinh hoạt của chính phủ. Thể chế đại nghị là thể
chế dân chủ nhất và cũng là thể chế đúng đắn nhất, với điều kiện
là không dẫn tới tình trạng lạm phát chính đảng và một quốc hội tê
liệt vì bị phân hóa giữa nhiều khuynh hướng đối nghịch. Điều kiện
này, như kinh nghiệm đã chứng minh, có thể thỏa mãn được bằng

342
Một quan điểm về Triết học

cách bầu tất cả hoặc phần lớn các dân biểu quốc hội theo phương
thức bầu cử đơn danh và một vòng.

Chúng ta chọn lựa chế độ đại nghị vì sự giản dị và tính dân chủ cao
của nó.

2.2. Tổ chức chính quyền

Một thể chế tản quyền đưa tới sự hiện hữu tất nhiên của hai nghị
viện ở cấp trung ương. Thượng nghị viện đại diện cho các vùng,
trong khi quốc hội đại diện cho quần chúng. Ở mỗi vùng, chỉ cần
một nghị viện giữ vai trò của quốc hội ở cấp địa phương. Thượng
nghị viện chỉ có ở cấp trung ương. Mỗi vùng có một số thượng
nghị sĩ bằng nhau do cử tri toàn vùng trực tiếp bầu ra, cộng đồng
người Việt hải ngoại cũng sẽ được đại diện. Thượng nghị viện có
vai trò: bảo đảm sự thống nhất và hòa hợp quốc gia qua các vùng,
đề nghị các dự luật, phúc thẩm, nếu cần, các đạo luật do quốc hội
biểu quyết, khuyến cáo và đề nghị với chính phủ về các chính sách
và về việc bổ nhiệm nhân sự cấp cao. Thượng nghị viện có quyền
đòi các viên chức chính quyền mọi cấp ra điều trần. Quốc hội gồm
các dân biểu mà đại đa số sẽ được bầu theo lối đầu phiếu đơn danh
và một vòng, số còn lại được bầu theo tỷ lệ. Trong một nước Việt
Nam với dân số 100 triệu, quốc hội có thể gồm khoảng 500 dân
biểu, trong đó khoảng 450 được bầu theo thể thức đơn danh và một
vòng, số còn lại bầu theo tỷ lệ trên cả nước. Việc đa số được bầu
theo thể thức đơn danh và một vòng bảo đảm rằng sẽ không có tình
trạng lạm phát chính đảng và sẽ có một đa số (của một đảng hay
343
Một quan điểm về Triết học

do liên minh của một vài đảng cùng khuynh hướng) để thành lập
một chính phủ. Thiểu số bầu theo tỷ lệ cho phép mọi đảng phái có
mặt trong quốc hội và cũng cho phép những người lãnh đạo các
chính đảng có tầm vóc quốc gia khỏi phải tranh cử tại địa phương
và để tập trung cố gắng cho những vấn đề của cả nước. Tại mỗi
vùng, phần nghị viên được bầu theo tỷ lệ có thể cao hơn, các nghị
viên có thể được bầu một nửa theo phương thức đơn danh một
vòng, một nửa theo tỷ lệ. Để giới hạn con số các chính đảng, cần
đặt một mức tối thiểu để có thể hiện diện trong quốc hội hay nghị
viện vùng qua lối bầu tỷ lệ, thí dụ 5%.

Về hành pháp, ở cấp trung ương, thủ tướng do quốc hội bầu ra và
chịu trách nhiệm trước quốc hội. Các bộ trưởng do thủ tướng chỉ
định. Tại các vùng, hành pháp nằm trong tay một thống đốc do
nghị viện vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.
Vị nguyên thủ quốc gia, tổng thống, có thể do một cử tri đoàn gồm
tất cả dân biểu, thượng nghị sĩ ở cấp trung ương bầu ra. Vị nguyên
thủ quốc gia này vì được bầu ra do một cử tri đoàn hùng hậu sẽ có
một uy tín rất cao. Tổng thống không giữ một quyền hành cụ thể
nào cả, nhưng là vị nguyên thủ quốc gia đúng nghĩa, đứng ngoài
và đứng trên cả lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp, có vai trò bảo
đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết của quốc gia. Pháp Viện Tối
Cao, gồm những thẩm phán được chọn trong các luật gia, có nhiệm
kỳ dài, khoảng mười năm, do tổng thống, chủ tịch thượng nghị
viện và chủ tịch quốc hội bổ nhiệm, mỗi vị một phần ba. Pháp Viện

344
Một quan điểm về Triết học

Tối Cao có quyền phán quyết tính hợp hiến hay bất hợp hiến của
các đạo luật, trọng tài những tranh tụng giữa các cơ quan quyền
lực, xét xử những cấp lãnh đạo cấp cao, xét lại các bản án do các
tòa án quốc gia cũng như địa phương.

2.3. Các chính đảng: một thành tố nền tảng của quốc gia

Trong một thể chế như vậy sẽ có thể có rất nhiều chính đảng, nhưng
do thể thức bầu cử - đại đa số dân biểu được bầu theo thể thức đơn
danh một vòng - ở cấp trung ương sẽ chỉ có vài đảng lớn. Ở mỗi
địa phương cũng sẽ chỉ có một số đảng địa phương giới hạn bên
cạnh các đảng có tầm vóc quốc gia. Mọi chế độ dân chủ đích thực
đều phải trân trọng sinh hoạt chính đảng. Không thể có sinh hoạt
chính trị nghiêm túc nếu không có chính đảng. Trong hoàn cảnh
nước ta, sau bao năm dài dưới các chế độ độc tài trong đó mọi sinh
hoạt chính trị bị đàn áp, các chính đảng không những cần thiết mà
còn cần được khai sinh, khuyến khích và nuôi dưỡng. Các chính
đảng là yếu tố không thể thiếu cho đất nước, và vì thế quốc gia
không những không được cấm cản mà còn phải yểm trợ sinh hoạt
chính đảng. Các chính đảng phải tự tài trợ trước hết bằng đóng góp
của đảng viên và cảm tình viên, nhưng các đảng có tầm vóc sẽ
được ngân sách tài trợ. Bù lại, mọi phương thức kinh tài khác kể
cả việc nhận ủng hộ tài chánh của các công ty, xí nghiệp sẽ bị chế
tài nghiêm khắc theo luật pháp.

Một tỷ lệ khoảng 1% ngân sách quốc gia sẽ được dành cho việc tài
trợ các chính đảng ở cấp trung ương và một tỷ lệ tương đương ở
345
Một quan điểm về Triết học

cấp ngân sách vùng. Nguồn tài trợ, tại trung ương cũng như tại địa
phương, chia làm hai phần: một phần chia cho các chính đảng theo
số dân biểu hoặc nghị viên; một phần chia theo tổng số phiếu của
mỗi chính đảng. Để tránh tình trạng lạm phát chính đảng, cần ấn
định một tầm vóc tối thiểu - dựa theo số dân biểu, nghị viên hay số
phiếu được bầu - để được hưởng trợ cấp. Chi phí chính đảng này
dĩ nhiên là lớn, nhiều người có thể nghĩ là quá lớn, nhưng sẽ tránh
cho chúng ta những thiệt hại còn nặng nề hơn gấp nhiều lần khi
các chính đảng, vì không được tài trợ, trở thành con tin của những
thế lực tài phiệt hay khi họ phải kiếm tài nguyên bằng những biện
pháp bất chính. Một khi cộng đồng quốc gia đã tài trợ cho các chính
đảng thì bù lại cộng đồng quốc gia cũng có quyền đòi hỏi nơi các
chính đảng một sự trong sạch mẫu mực. Sinh hoạt chính trị sẽ được
kính trọng và dân chủ cũng vì thế mà lành mạnh hơn.

3. Hiến pháp Cộng Hòa Việt Nam

Hiến pháp Cộng Hòa Việt Nam chính thức hóa thể chế chính trị
trên đây đồng thời thể hiện quyết tâm xây dựng dân chủ theo mô
hình xã hội chứa đựng trong tư tưởng nền tảng và các định hướng
lớn. Ngay trong lời nói đầu, Cộng Hòa Việt Nam sẽ long trọng
tuyên bố coi Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập của Liên Hiệp
Quốc và các công ước đi kèm như là thành phần khăng khít của
hiến pháp, lấy hòa giải và hòa hợp dân tộc làm tinh thần chủ đạo
của mọi chính sách. Ngay trong chương đầu sẽ có những điều
346
Một quan điểm về Triết học

khẳng định, trong nước Việt Nam không thể có những ý kiến cấm
nêu ra và cũng không thể có những đề tài cấm bàn đến; nhân dân
và nhà nước Việt Nam lên án nội chiến và mọi ý đồ sử dụng bạo
lực để đạt mục tiêu hay giải quyết những mâu thuẫn; nhà nước Việt
Nam không tán thành và bãi bỏ án tử hình. Sau những chương và
điều về tổ chức bộ máy nhà nước, hiến pháp cũng sẽ có một chương
đặc biệt gồm những điều có mục đích nhấn mạnh các mục tiêu
quốc gia lớn: Chức năng của Việt Nam là một nước thương mại,
công nghiệp, dịch vụ và du lịch; Việt Nam dồn mọi cố gắng để
sống chung trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia
khác, góp phần củng cố hòa bình trong vùng và trên thế giới; trách
nhiệm đặc biệt trọng đại của nhân dân và nhà nước Việt Nam là
gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường, không khí, cây rừng,
bờ biển, thềm lục địa và lãnh hải. Để xây dựng luật pháp bắt đầu
từ hiến pháp, chúng ta chọn phương pháp thực nghiệm, nghĩa là
ban hành, hoặc sửa đổi để giữ lại, những bộ luật căn bản giản dị
nhưng chính xác và minh bạch lúc ban đầu, sau đó dựa theo các án
lệ để giải quyết những trường hợp tương tự, đồng thời bổ túc và
chỉnh sửa các bộ luật.

347
Một quan điểm về Triết học

LỰA CHỌN THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ

CHO VIỆT NAM TƯƠNG LAI (ĐẠI NGHỊ, TẢN QUYỀN)

Ngoài những ưu điểm của thể chế đại nghị đã được nêu ở phần
trước ra, thì còn một điều nữa, đó là thể chế của Việt Nam hiện tại
rất gần với thể chế đại nghị. Chỉ cần cho phép đa đảng là đã giống
chế độ đại nghị đến 90% rồi, toàn bộ bộ máy hành chính có thể giữ
nguyên, và thay thế từ từ trong thời gian dài.

Như vậy ta thấy rằng việc chuyển từ thể chế độc tài hiện nay sang
chế độ đại nghị, là sự chuyển đổi êm đềm, ít gây xáo trộn (tổn hại
ban đầu) cho xã hội nhất, nếu so với sự chuyển tiếp sang các dạng
thể chế khác. Chính vì nó ít gây xáo trộn nên nó có thể đảm bảo an
toàn cũng như tài sản cho các lãnh đạo đảng Cộng Sản hiện tại,
vậy nên nó cũng dễ được đảng Cộng Sản và nhân dân chấp nhận
nhất, về mặt lý thuyết.

Tại sao tôi nói là về mặt lý thuyết, bởi vì là đa số người dân Việt
Nam có ấn tượng mạnh rằng chỉ có chế độ tổng thống với tam
quyền phân lập (họ cũng chưa thực sự hiểu tam quyền phân lập
hoạt động như thế nào) mới có thể chống độc tài, tham nhũng.
Thậm chí họ còn chưa biết là ngoài chế độ tổng thống còn nhiều
dạng thể chế dân chủ khác.

348
Một quan điểm về Triết học

Lí do người Việt Nam có nhận thức kém vậy là vì họ bị ảnh hưởng


mạnh bởi nước Mỹ. Họ bị choáng ngợp với sự thành công của nước
Mỹ dưới chế độ tổng thống, mà không biết rằng, ngay bên cạnh
nước họ cũng đầy dẫy những nước thành công dù không theo chế
độ tổng thống như: Singapore, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, hay
thậm chí là Thái Lan…

Một vấn đề nữa là người dân Việt Nam thực sự hiểu biết về chính
trị là rất thấp, nếu không muốn nói là gần bằng không. Lí do là bởi
vì sự tuyên truyền, nhồi sọ của đảng Cộng Sản khiến họ cảm thấy
sợ khi bàn về chính trị. Kiến thức về chính trị của người dân đã ít
lại còn bị méo mó dưới sự xuyên tạc của Đảng Cộng sản.

Vậy nên, nếu sau này tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để lựa chọn
thể chế thì họ sẽ lựa chọn thể chế tổng thống, hoặc ít nhất là sẽ ủng
hộ số đông cho một đảng lựa chọn thể chế tổng thống cho đường
lối chính trị của mình.

Tôi có thể khẳng định luôn rằng nếu lựa chọn thể chế tổng thống,
với mức độ hiểu biết về chính trị của người dân thấp như hiện nay,
thì chắc chắn sẽ tạo kẽ hở cho một thể chế độc tài khác mà thôi (từ
độc tài độc đảng sang độc tài cá nhân “tổng thống nắm trọn quyền
lực”).

Cũng có thể hình dung luôn rằng đất nước sẽ sáng sủa hơn hiện tại
một chút, nhưng vẫn bất công và tụt hậu so với các nước khác, bởi
mức độ dân chủ chỉ nhỉnh hơn một chút so với hiện nay. Kết quả

349
Một quan điểm về Triết học

là sinh viên và tầng lớp trí thức lại lũ lượt đi biểu tình, để phản đối
chính sách của tổng thống này hay tổng thống khác. Quá trình
chuyển đổi đầy máu này có thể phải mất đến 30 năm trước khi đạt
đến dân chủ thực sự, một chế độ tổng thống thực sự vì dân.

Đây không phải là do tôi tưởng tượng ra, mà là thực tế các nước
chuyển đổi sang thể chế tổng thống đã trải qua, như Hàn Quốc, Đài
Loan trước khi có dân chủ thực sự cách đây không lâu. Hàng loạt
các nước châu Phi theo chế độ tổng thống cuối cùng bị chuyển về
độc tài cá nhân trị dưới cái mác chế độ tổng thống. Kể cả Nga hay
Venezuela cũng đang phải khổ sở dưới chế độ độc tài giả danh
tổng thống, và không biết khi nào mới thoát được.

Thế nhưng có một điều khiến tôi lạc quan là với sự chuyển đổi dần
dần từ độc tài độc đảng sang đa đảng khó có khả năng để Việt Nam
chúng ta đi theo thể chế tổng thống, trừ khi có một biến động dữ
dội làm xáo trộn đất nước.

Tuy nhiên vì thể chế đại nghị không phân biệt rõ ràng lập pháp và
hành pháp nên để tránh những điều luật vi phạm vào quyền con
người chúng ta phải có hiến pháp một cách rõ ràng và đầy đủ.

- Tiếp theo chúng ta định hướng quốc gia Việt Nam sẽ là quốc
gia như thế nào?

350
Một quan điểm về Triết học

“Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh
thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền,
một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh
thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn
giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc, và những
con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó
cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ
quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai
chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.”

Theo Wikipedia

Quốc gia của Việt Nam tương lai không phải là quốc gia của riêng
một dân tộc, tổ chức, đảng phái nào, mà quốc gia Việt Nam là của
chung tất cả mọi người có cảm tình với Việt Nam hoặc là công dân
của Việt Nam.

Ở đây có bốn ý chính:

1) Bất kì người nước ngoài nào có cảm tình với đất nước Việt
Nam, muốn đóng góp cho lợi ích, cho quốc gia Việt Nam nói
chung, thì đều được nồng nhiệt chào đón, đối xử như người
một nhà, không kì thị. Trừ quyền bầu cử và mua đất ở Việt
Nam (họ có thể mua chung cư) bởi không ai biết tự đáy lòng

351
Một quan điểm về Triết học

con người như thế nào, đề phòng là cách tốt nhất cho cả ta và
người nước ngoài.
2) Trong đất nước Việt Nam thì mọi người đều được đối xử bình
đẳng như nhau, không phân biệt chủng tộc, vùng miền. Tất
cả mọi dân tộc trong quốc gia đều được nhìn nhận công bằng
như nhau, được khuyến khích tìm hiểu về lịch sử, văn hóa
của dân tộc mình.
Đất nước Việt Nam tuyệt đối không phải là đất nước của
riêng một dân tộc nào. Không một dân tộc nào trong đất nước
được quyền áp đặt lối sống, văn hóa của dân tộc mình lên dân
tộc khác.
Chỉ có nhìn nhận một cách thẳng thắn, công bằng, tôn trọng
lẫn nhau, chúng ta mới có thể hòa giải, hòa hợp và tiến tới
một tương lai chung.
3) Đã là công dân Việt Nam, vì một lí do nào đó mà đang sinh
sống tại nước ngoài, thì họ vẫn là công dân Việt Nam. Họ có
đầy đủ đặc quyền của một công dân Việt Nam, như tất cả mọi
người.
4) Đã là công dân Việt Nam nhưng nếu phạm tội thì họ cũng
vẫn là công dân Việt Nam, không ai có quyền tước bỏ dòng
máu đang chảy trong người họ. Và vì tước bỏ quốc tịch của
họ, mà con cháu của họ sau này sinh ra không phải là người
Việt Nam nữa là tuyệt đối sai, không ai có quyền làm vậy.

352
Một quan điểm về Triết học

Họ chỉ không là công dân Việt Nam khi họ tự ý từ bỏ quốc


tịch Việt Nam, và điều đó chỉ đúng với cá nhân họ, nó hoàn
toàn không có tác dụng với người thân của họ.

Chỉ có thực hiện được những điều này thì từng công dân Việt Nam
mới có cảm giác nơi đây là quê hương, là nhà của họ. Và sẽ cố
gắng giữ gìn, cũng như đóng góp cho sự phát triển ngôi nhà chung
này trong niềm tự hào, hân hoan.

- Bây giờ chúng ta sẽ xét 3 cơ quan chính tạo nên bộ máy nhà
nước: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên trong chế
độ đại nghị lập pháp và hành pháp có liên quan mật thiết nhau
nên chúng ta sẽ xét hai cái này cùng lúc.

+1) Lập pháp (quốc hội), hành pháp (cơ quan hành chính và
nội các)

Ý tưởng của chúng ta là đưa phần lớn quyền lực vào tay một cơ
quan, sau đó chia nó ra cho nhiều tổ chức (chính đảng), để các tổ
chức (chính đảng) tự giám sát nhau thay cho người dân.

Tức là tập trung quyền lực vào một cơ quan, nhưng lại làm cho
không ai có thể thực sự kiểm soát được cơ quan đó, từ đây loại bỏ
được việc quyền lực rơi vào tay một cá nhân hay phe nhóm và dẫn
đến độc tài. Đây là ưu điểm của chế độ đại nghị.
353
Một quan điểm về Triết học

Vậy trong chế độ đại nghị thì cơ quan quyền lực nhất là cơ quan
nào? Đó chính là quốc hội, bởi đây chính là cơ quan chịu trách
nhiệm làm luật, song song đó, quốc hội còn có quyền chỉ định thủ
tướng để thành lập nội các, bộ não của hành pháp. Thông qua đó
quốc hội có thể ảnh hưởng lên cả hành pháp.

Quốc hội cũng là cơ quan dễ chia nhỏ cho các đảng phái kiểm soát
lẫn nhau nhất.

- Quốc hội nhất viện hay lưỡng viện?

Quốc hội lưỡng viện là quốc hội bao gồm hai viện (thượng viện,
hạ viện) chia sẻ quyền lực và kiểm soát lẫn nhau. Ban đầu tôi nghĩ
rằng, quốc hội nên thành lập lưỡng viện. Nhưng sau khi tìm hiểu
các nước có quốc hội lưỡng viện thì thấy rằng, vai trò của thượng
viện thực sự không rõ ràng, không có công thức chung nào phân
chia vai trò cho thượng viện cả.

Biểu hiện cụ thể là thượng viện mỗi nước có một chức năng, vai
trò khác nhau, không nước nào giống nước nào. Điều này có nghĩa
rằng, người ta không thực sự rõ ràng ý nghĩa cho sự tồn tại của
thượng viện.

Cá nhân tôi thấy rằng những gì thượng viện làm được thì hạ viện
cũng làm được, trong khi đó có sự xuất hiện thêm thượng viện chỉ

354
Một quan điểm về Triết học

làm chồng chéo chức năng giữa hai viện mà thôi, thêm vào đó quy
trình bầu cử lại phức tạp hơn nhiều lần.

Xét trong một đất nước, mà người dân đa số hiểu biết ít và thờ ơ
với chính trị như Việt Nam, thì việc vận động người dân đi bỏ
phiếu nhiều lần rõ ràng là một trở ngại lớn. Vậy nên chúng ta sẽ
lựa chọn quốc hội nhất viện (một viện), để đảm bảo tính đơn giản
và hiệu quả của nó.

- Lựa chọn hệ thống bầu cử vào quốc hội.


“Bạn lưu ý rằng đây là phần rất quan trọng, có thể quyết
định xem đất nước ta sẽ tiến nhanh hay chậm đến dân
chủ”.

Chúng ta sẽ lựa chọn hệ thống bầu cử theo quy tắc số nhiều/đa số,
để lựa chọn ra đảng chiến thắng. Người dân (cử tri) bầu cử theo
thể thức đơn danh, một vòng, tức là mỗi cử tri chỉ cần bỏ phiếu cho
đảng mà mình cho là xứng đáng để lãnh đạo đất nước và kết quả
đảng chiến thắng là đảng nhận được nhiều phiếu nhất. Đây là cách
bầu cử đơn giản, tiện lợi nhất mà người dân ai cũng có thể hiểu.

355
Một quan điểm về Triết học

Tuy nhiên ở đây tôi có một lưu ý đặc biệt

Lưu ý này sẽ quyết định việc Việt Nam tương lai có thể tiến
nhanh đến dân chủ được không? Hoặc có thể ngăn cản khả
năng đất nước quay lại độc tài đảng trị vì một lí do nào đó
hay không?

Đó là: Bất kì đảng chiến thắng nào cũng được mặc định
chiếm 60% ghế quốc hội. Và các đảng còn lại nhận được
40% ghế quốc hội, dựa trên tỷ lệ số phiếu bầu cử tri để phân
chia ghế cho các đảng còn lại.

Việc này có ý nghĩa rất lớn:

+ 1, Nó ngăn cấm việc cho phép một đảng trở nên quá mạnh và
tiến đến độc tài. Bởi vì dù đảng đó có được lòng dân thế nào đi
nữa, giả sử 90% số phiếu bầu chẳng hạn, thì đảng đó cũng chỉ có
60% ghế quốc hội không hơn. Đồng thời nó tạo điều kiện cho các
đảng yếu hơn có tiếng nói và cơ hội phát triển.

Việc này đặc biệt ý nghĩa đối với những nước mới chuyển từ độc
tài sang. Bởi vì khi đó nhận thức chung của người dân chưa cao,
chuyện mà một đảng nào đó lợi dụng điều này để chèn ép các đảng
khác và tiến tới độc tài là điều hoàn toàn xảy ra.
356
Một quan điểm về Triết học

Vì vậy nếu áp dụng cách này, nó sẽ làm cho đảng cầm quyền không
thể chèn ép các đảng khác được. Bởi vì dù có chèn ép kiểu gì thì
đảng cầm quyền cũng chỉ nắm được 60% ghế quốc hội, vẫn phải
nhường lại một lượng lớn ghế cho các đảng khác. Như vậy quá
trình tiến tới dân chủ của nước đó sẽ nhanh hơn rất nhiều.

Ta lấy Việt Nam trong tương lai làm ví dụ. Giả sử rằng trong tương
lai dưới sức ép từ nhân dân, đảng Cộng sản (ĐCS) đã phải nhượng
bộ và đất nước có đa đảng. Thế nhưng ĐCS vẫn còn rất mạnh và
tìm đủ mọi cách để loại bỏ các đảng khác. Ví dụ: Bắt bớ thủ lĩnh
đảng đối lập trước ngày bầu cử quốc hội, gian lận số phiếu bầu…

Và như vậy, lúc đó Việt Nam tuy được thành lập đa đảng nhưng
thực chất ĐCS vẫn nắm trọn vẹn quốc hội và thông qua đó nắm
trọn quyền hành.

Bây giờ ta giả sử rằng trong hiến pháp có ghi đảng chiến thắng chỉ
được mặc định nắm 60% ghế quốc hội, như vậy ĐCS dù có làm gì
đi nữa thì cũng phải nhường lại 40% ghế cho các đảng đối lập, kể
cả khi các đảng đối lập còn nhỏ và chỉ mới thành lập và đang thiếu
kinh nghiệm.

Như vậy ĐCS không thể nào nắm trọn vẹn được quốc hội, tức là
không thể nắm trọn quyền lực trong tay. Mọi hành động của họ
luôn bị 40% nghị sĩ quốc hội thuộc phe đối lập giám sát. Từ đó đất
nước sẽ tiến rất nhanh đến dân chủ, đặc biệt công việc của nhân
dân rất đơn giản, đó là đóng vai trò trọng tài, ngồi xem các đảng

357
Một quan điểm về Triết học

đấu tố nhau và lựa chọn ra đảng họ cho rằng phù hợp để lãnh đạo
đất nước.

Vậy nên, hệ thống bầu cử này hoàn toàn phù hợp với những đất
nước mà người dân có nhận thức chính trị thấp như Việt Nam ta
(thờ ơ với chính trị), trong khi chờ mức nhận thức của người dân
tăng lên đến mức tự ý thức được trách nhiệm của mình, bởi nó hoạt
động tốt mà cần ít sự can thiệp từ người dân nhất.

+ 2, Đó là trường hợp ngược lại của trường hợp một, các đảng có
số phiếu ngang bằng nhau và không đảng nào đủ mạnh để thành
lập chính phủ. Với việc mặc định đảng có số phiếu cao nhất có
60% ghế hạ viện, chúng ta dễ dàng loại bỏ khó khăn này. Nó giúp
cho các đảng có thể độc lập cạnh tranh với nhau, bảo vệ tư tưởng,
đường lối mà mình đang theo đuổi, mà không phải lo các đảng
khác liên kết lại chèn ép mình.

Nếu ai đó phản biện rằng, giả sử như một đảng được người dân
ủng hộ 90% phiếu mà chỉ có 60% ghế thì là thiệt thòi cho họ. Hoặc
một đảng chiến thắng nhưng chỉ với 40% phiếu mà được 60% ghế
thì là lời cho họ. Cả hai trường hợp đều không công bằng.

Tôi bác bỏ luận điểm đó như sau:

Trong chế độ tổng thống thì một ông tổng thống chiến thắng với
51% phiếu bầu hay một ông tổng thống thắng áp đảo với 90%
phiếu bầu đều có quyền lực ngang nhau, và đều giới hạn trong tầm
358
Một quan điểm về Triết học

kiểm soát của đất nước. Không thể nói ông tổng thống với 90%
phiếu bầu có quyền lực áp đảo ông tổng thống có 51% phiếu bầu.

Đây là ưu điểm của chế độ tổng thống và với cách bầu cử này tôi
chuyển nó sang chế độ đại nghị, để khắc phục nhược điểm của chế
độ đại nghị.

Còn nếu ai đó cho rằng độc tài cũng không hẳn xấu, Putin hay
HunSen đều rất giỏi, để họ lãnh đạo đất nước là một việc tốt, thì
tôi phản biện lại bạn với hai luận điểm sau:

+ 1, Việc họ tại vị quá lâu sẽ hình thành thói quan liêu và


tham nhũng trong hệ thống và dẫn đến sự yếu kém trong bộ
máy quản lí.

+ 2, Khi tổng thống Obama tại vị, không ai không công nhận
ông ấy là một nhà lãnh đạo giỏi, nhân từ và bác ái. Thậm chí
ông còn được trao tặng giải thưởng Nobel hòa bình. Vì thế
nếu nhân dân Mỹ vẫn tiếp tục lựa chọn Obama làm tổng
thống bất chấp hiến pháp thì sao?

Thực tế cho thấy, khi một người lên làm lãnh đạo chỉ cần 5 - 6 năm
là người đó có thể thực thi hết ý tưởng, tài năng của mình, không
tính những trường hợp xuất chúng (tỉ lệ này quá thấp). Vậy nên,
nếu như nhân dân để cho một người lãnh đạo đất nước quá lâu thì
tức là, họ đã từ chối một người giỏi hơn lên làm lãnh đạo và việc
đó đối với đất nước là một thiệt thòi.
359
Một quan điểm về Triết học

Việc mặc định đảng chiến thắng sẽ được 60% ghế quốc hội, cũng
gián tiếp lựa chọn cách bầu cử. Đó là, khi người dân đi bầu, là bầu
cho đảng chứ không bầu các đại biểu quốc hội. Chính các đảng
dựa trên số ghế quốc hội đã được phân, sẽ tự bầu cử ra đại biểu
quốc hội cho đảng mình (theo cách thức như thế nào thì tự các đảng
lựa chọn, người dân không cần can thiệp).

Việc này ngược hoàn toàn với cách mà người dân sẽ bầu ra các đại
biểu quốc hội, và nhà nước sẽ dựa trên số đại biểu quốc hội mà
từng đảng có để chọn ra đảng chiến thắng.

Chúng ta xét ví dụ để hiểu thêm về cách thức hoạt động của hệ


thống bầu cử này.

Ta giả sử một quốc gia có dân số là 100 triệu người với 500 đại
biểu quốc hội (ĐBQH). Tức là 5 (ĐBQH) đại diện cho 1 triệu
người. Trong cuộc chạy đua vào hạ viện có ba đảng A, B, C.

Trường Hợp 1:

Tỉ lệ % số dân ủng hộ cho các đảng là: Đảng A = 25%, B = 35%,


C = 40%. Tương đương số người bỏ phiếu cho các đảng là: A = 25
triệu người, B = 35 triệu người, C = 40 triệu người.

Ta có số (ĐBQH) cho các đảng tính theo số dân bầu là:

Đảng A = 25 x 5 = 125 (ĐBQH)

B = 35 x 5 = 175 (ĐBQH)

360
Một quan điểm về Triết học

C = 40 x 5 = 200 (ĐBQH)

Nhưng do đảng C giành được nhiều số phiếu bầu nhất (chiến


thắng) nên nghiễm nhiên nhận được 60% số ghế quốc hội. Tức 300
ghế (ĐBQH). Hai đảng còn lại A, B chia nhau 40% còn lại tức là
200 ghế.

Cách chia như sau:

Ta có đảng A được số % trong số 200 ghế còn lại là:

% A = 25 : ( 25 + 35 ) = 25 : 60 = 41,6 %

Ta có đảng B được số % trong số 200 ghế còn lại là:

% B = 35 : ( 25 + 35 ) = 35: 60 = 58, 3 %

=> Số ghế quốc hội thực tế mà hai đảng A, B có được là:

A = 41,6% x 200 = 83 ghế

B = 58,3% x 200 = 116, 6 = 117 ghế

Như vậy ta có số dân biểu thực thế sau khi chia lại là:

A = 83, B = 117, C = 300

Tổng vẫn là 500 ĐBQH.

Trường Hợp 2:

Số phiếu của các đảng lần này là: A = 8%, B = 12%, C = 80 %

=> Số người bỏ phiếu cho các đảng là:

361
Một quan điểm về Triết học

A = 8 triệu người, B = 12 triệu người, C = 80 triệu người

=> Số ghế ĐBQH dựa trên số phiếu bầu là:

A = 40, B = 60, C = 400 ghế

Nhưng do đảng C mặc dù được nhiều người ủng hộ nhưng cũng


chỉ được 60% ghế => đảng C có 300 ghế quốc hội.

Hai đảng A, B chia nhau 40 % còn lại tức 200 ghế.

Ta có đảng A được số % trong số 200 ghế là:

% A = 8 : ( 8 + 12 ) = 8 : 20 = 40 %

Ta có đảng B được số % trong số 200 ghế là:

% B = 12 : ( 8 + 12 ) = 12 : 20 = 60 %

=> Đảng A có số ĐBQH thực tế là:

A = 40% x 200 = 80 ĐBQH

=> Đảng B có số ĐBQH thực tế là:

B = 60% x 200 = 120 ĐBQH

Như vậy ta có số ghế ĐBQH thực tế của các đảng là:

A = 80, B = 120, C = 300 ĐBQH.

Như vậy, chúng ta thấy việc tính toán số ghế cho các đảng dựa trên
số liệu bầu cử lần một hoàn toàn không khó khăn gì.

362
Một quan điểm về Triết học

Những ưu điểm của thể chế và hệ thống bầu cử trên:

1) Đó là hệ thống và cách bầu cử này giúp cho quá trình chuyển


đổi từ độc tài sang dân chủ ít đổ máu nhất, ít bất ổn xã hội
nhất, quá trình tiến đến dân chủ nhanh nhất, ít phụ thuộc vào
nhận thức chính trị của người dân nhất, và là cách tốt nhất
ngăn cản đất nước quay lại độc tài.

2) Đây có thể xem là thể chế gọn nhẹ nhất, cách bầu cử đơn giản
nhất, khi người dân chỉ phải đi bỏ phiếu một lần trong suốt
nhiệm kì của quốc hội.

Kết luận: Đây là thể chế, và cách bầu cử phù hợp cho Việt Nam
trong tương lai nhất.

Một số bổ sung:

- Nhiệm kì của quốc hội là 4 năm.


- Không cá nhân, tổ chức nào có quyền giải tán chính phủ hay
quốc hội, việc biểu quyết chính phủ có bị giải tán hay không
thì phải do bỏ phiếu tín nhiệm của người dân sẽ diễn ra hai
năm sau khi thành lập chính phủ.
Người dân bỏ phiếu lần này chỉ cần bỏ đồng ý hoặc không
đồng ý, vì vậy kì bỏ phiếu lần này sẽ diễn ra nhanh chóng và
tốn ít chi phí cho người dân cũng như phía nhà nước. Nếu bỏ

363
Một quan điểm về Triết học

phiếu tín nhiệm từ 50% trở lên đồng ý cho đảng cầm quyền
sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước, còn ngược lại nếu dưới 50% thì
quốc hội sẽ bị giải tán và kì bầu cử quốc hội tiếp theo sẽ diễn
ra.
- Bởi vì chúng ta đã mặc định đảng chiến thắng chiếm 60%
ghế quốc hội, vậy nên hiến pháp phải quy định rằng, một điều
luật phải được 67% (tức là 2/3) số phiếu ủng hộ của đại biểu
quốc hội trở lên thì mới được thông qua.

Chú ý:
Việc lựa chọn 60% hay 67% số phiếu đại biểu quốc hội
mới thông qua một điều luật, có ý nghĩa rất khác nhau.
Với 60% thì mức độ tự quyết của đảng được quyền
thành lập chính phủ là gần như tuyệt đối, các đảng
khác chỉ đóng vai trò giám sát. Như vậy nếu trong thời
gian đảng chiến thắng nắm quyền mà để ra sai sót gì
thì trách nhiệm thuộc hoàn toàn về đảng đó, sẽ không
có hiện tượng các đảng đổ trách nhiệm cho nhau.
Nhưng nhược điểm là đảng chiến thắng có thể lợi dụng
việc này có thể tạo nên những điều luật có lợi cho đảng
mình trong những lần bầu cử sau (tìm kẽ hở trong hiến
pháp để lợi dụng làm lợi cho đảng mình), và tiến đến
độc tài.

364
Một quan điểm về Triết học

Trong trường hợp như vậy đất nước cần phải có một
hiến pháp đầy đủ và rõ ràng, cộng với cơ quan bảo hiến
(bảo vệ hiến pháp) đủ mạnh.
Với việc cần trên 60% số phiếu, quốc hội mới có thể
thông qua một dự luật (cụ thể là 67%) thì ưu điểm của
lựa chọn này lại là nhược điểm của lựa chọn kia, và
ngược lại.
Điều này dẫn đến việc đảng chiến thắng không còn khả
năng tự quyết mà phải phụ thuộc vào các đảng còn lại,
quá trình làm luật sẽ chậm. Thậm chí nếu các đảng còn
lại liên kết với nhau sẽ có thể phủ quyết thành công dự
luật mà đảng chiến thắng đề xuất trước quốc hội.

Việc này dẫn đến 3 điều:


1) Bởi các đảng còn lại có sự ảnh hưởng nhất định tới
việc một dự luật có được thông qua hay không, nên nó
sẽ hạn chế được việc đảng chiến thắng lạm quyền để
thông qua các dự luật có lợi cho họ.
2) Đồng thời nó cũng cung cấp công cụ cho các đảng
còn lại phá rối đảng chiến thắng để nhằm âm mưu hạ
bệ đảng chiến thắng. Khiến cho đảng chiến thắng
không thể thực thi được các chính sách của mình, dẫn
đến thất bại trong việc lãnh đạo đất nước và bị mất uy
tín trước nhân dân.

365
Một quan điểm về Triết học

3) Đó là tình trạng đổ lỗi cho nhau nếu như quá trình


lãnh đạo dẫn đến thiệt hại cho đất nước, tại vì không
thể phân định rạch ròi ranh giới trách nhiệm giữa các
đảng.
Như vậy việc lựa chọn 60% hay trên 60% (67%) phiếu
mới được thông qua dự luật đều có những ưu nhược
điểm khác nhau. Và việc lựa chọn cách nào phải được
cân nhắc kĩ.

Quy trình bầu cử vào quốc hội:

Các đảng chạy đua vào quốc hội trong quá trình kêu gọi người dân
bầu cử cho mình, phải trình bày xem khi mình được lãnh đạo đất
nước thì mình sẽ làm gì trong khoảng thời gian đó, và phải cam kết
thực hiện nó để người dân đánh giá xem họ có đáng để được bỏ
phiếu hay không.

Với cách này, chúng ta sẽ biết trước được tương lai, khi một đảng
lên lãnh đạo đất nước, họ sẽ điều hành như thế nào. Đây là ưu điểm
của bầu cử trong chế độ tổng thống mà chúng ta nên tận dụng.

Cơ quan hành pháp có trách nhiệm tổ chức cho người đại diện của
các đảng gặp gỡ và chất vấn nhau công khai về các chính sách,
đường lối, hướng đi của đất nước sau này. Đây là việc rất quan
trọng nhằm cung cấp thông tin cho người dân, để họ biết đảng nào
sẽ có chính sách lãnh đạo đất nước tốt và bầu cho đảng đó. Quá

366
Một quan điểm về Triết học

trình bầu cử phải có sự hiện diện, giám sát của các tổ chức xã hội
dân sự độc lập, để đảm bảo tính nghiêm ngặt và minh bạch trong
bầu cử.

Sau khi có kết quả bầu cử, đảng nào giành được nhiều phiếu nhất
sẽ nghiễm nhiên giành được 60% ghế quốc hội và được thành lập
chính phủ lãnh đạo đất nước. Các đảng còn lại chia nhau 40% ghế
quốc hội dựa trên số % phiếu bầu, và đóng vai trò giám sát đảng
chiến thắng.

- Đảng chiến thắng trong cuộc bầu cử sẽ được chỉ định thủ
tướng và các bộ trưởng để thành lập chính phủ.
- Các đảng còn lại được quyền bỏ phiếu bầu tổng thống đóng
vài trò giám sát đảng chiến thắng.

Thủ tướng:

Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ, đóng vai trò như nhà quản
lí của đất nước. Thủ tướng có quyền chỉ định các bộ trưởng để
thành lập chính phủ điều hành đất nước. Thủ tướng có quyền hành
pháp, chủ yếu là dùng các chính sách để quản lí đất nước.

367
Một quan điểm về Triết học

Người đứng đầu đất nước (tổng thống):

Việc đầu tiên chúng ta phải bàn luận về người đại diện cho đất
nước, đây là người mang tính biểu tượng cao. Trong chế độ đại
nghị, người đại diện cho đất nước thường chia thành hai loại.

+ 1, Người đại diện cho đất nước là quốc vương và duy trì theo thể
thức cha truyền con nối. Ví dụ thì có rất nhiều, Nữ hoàng của Anh,
Nhật hoàng của Nhật Bản, Vua Thái Lan....

+ 2, Đối với những nước không có quốc vương thì họ bầu ra một
người đại diện gọi là tổng thống. Vị tổng thống ở đây khác với tổng
thống trong chế độ tổng thống là họ không có thực quyền, quyền
lực điều hành đất nước trong chế độ đại nghị nằm trong tay thủ
tướng. Những nước theo thể chế này điển hình như Đức,
Singapore, Ấn Độ, …

Ở Việt Nam do không có vua nên ta sẽ lựa chọn bầu cử ra người


đại diện cho đất nước. Chúng ta gọi người đại diện đó là tổng thống
hay chủ tịch nước như hiện tại đều được, bởi nó chỉ là danh xưng.

Bầu cử: Tổng thống do các nghị sỹ quốc hội là người của các đảng
đối lập bầu ra.

Như vậy, thực tế tổng thống là người đại diện của bên đối lập, đóng
vai trò giám sát đảng chiến thắng và thủ tướng.

Về mặt danh nghĩa, tổng thống là người đứng đầu đất nước và đại
diện cho đất nước, vì vậy tổng thống cũng có những đặc quyền của

368
Một quan điểm về Triết học

riêng mình. Vì đóng vai trò giám sát các cơ quan trong nhà nước
nên tổng thống sẽ có một kênh riêng, để người dân thông qua đó
phản ánh trực tiếp tình trạng của mình bất cứ lúc nào.

Tổng thống có quyền triệu tập chất vấn công khai (ép buộc) bất kì
cá nhân nào, miễn người đó là công dân của đất nước (kể cả thủ
tướng). Công dân đó bắt buộc phải diện kiến để giải trình về hành
vi của mình trước tổng thống và đông đảo người dân chứng kiến.

Tổng thống cũng có quyền cáo buộc, cũng như khen thưởng, trao
tặng huân chương cho bất kì thành viên hay tổ chức nào mà tổng
thống thấy hợp lí (trừ trường hợp là người của các chính đảng).

Đây là hai quyền lực chỉ tổng thống mới có.

Trong thời hậu cộng sản, tổng thống phải có nhiệm vụ khôi phục
văn hóa do cộng sản phá hoại, đồng thời tổng thống cũng là người
có quyền sắc phong thành hoàng cho những người có công trạng
với đất nước ở địa phương, để người dân ở địa phương lấy đó làm
gương phấn đấu.

+2) Tư pháp (Tòa án)

Về phần tư pháp thì tôi đã trình bày ở phần trên, mọi người có thể
đọc lại.

Tuy nhiên ở Việt Nam thì nhánh tư pháp phải thành lập một cơ
quan bảo hiến, có chức năng bảo vệ hiến pháp. Dễ hiểu hơn là giám
369
Một quan điểm về Triết học

sát xem các điều luật, chính sách mà quốc hội, thủ tướng thông qua
có vi phạm hiến pháp hay không. Nếu vi phạm hiến pháp thì điều
luật, chính sách đó ngay lập tức bị bãi bỏ.

Thực ra việc giám sát xem một điều luật được thông qua có vi hiến
hay không, nó là nghĩa vụ của toàn công dân trong đất nước, chỉ
cần một công dân chứng minh được điều luật vừa thông qua có vi
hiến và gửi lên cơ quan bảo hiến thì điều luật đó cũng ngay lập tức
bị bãi bỏ.

Người trong cơ quan bảo hiến sẽ do chính người của ngành tư pháp
bầu ra, không liên quan đến hành pháp và lập pháp.

Tất cả các cá nhân làm việc trong ngành tư pháp đều có


tư cách ứng cử và bầu cử lựa chọn ra người phù hợp vào
cơ quan bảo hiến, và chỉ những người trong ngành tư
pháp mới có quyền bỏ phiếu bầu cử, chuyện nội bộ của
ngành tư pháp, các ngành khác không liên quan. Tại sao
chỉ lựa chọn những người trong ngành tư pháp là bởi vì
họ là những người am hiểu nhất về luật và ứng dụng của
nó mà lại không theo bất kì đảng phải nào cả (một thái độ
hoàn toàn trung dung), vậy nên sẽ kì vọng họ sẽ đưa ra
các phán quyết chính xác và khách quan nhất có thể. Một
điều nữa, việc có tên trong hội đồng bảo hiến, nó giống
như đỉnh cao danh vọng mà một người theo đuổi ngành tư

370
Một quan điểm về Triết học

pháp có thể hướng tới, ta có thể hình dung trọng trách của
nó ngang với thủ tướng hay tổng thống vậy. Hội đồng bảo
hiến có khoảng 10 người, không có nhiệm kì chỉ nghỉ khi
có người nào đó tự nguyện rút lui (lí do sức khỏe chẳng
hạn) hoặc quá tuổi (ví dụ là 65 tuổi).

CHẾ ĐỘ TẢN QUYỀN

Như vậy chúng ta đã hiểu cơ bản về chế độ đại nghị, vậy còn tản
quyền là như thế nào?

Một chế độ lí tưởng phải thỏa mãn hai điều kiện:

+ 1, Một chế độ minh bạch, thượng tôn pháp luật.

+ 2, Một chế độ gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả.

Với điều kiện (1) nêu trên, chúng ta có chế độ đại nghị có thể thỏa
mãn yêu cầu.

Với điều kiện 2 chúng ta phải cân nhắc, điều chỉnh bộ máy hành
chính nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện của đất nước theo
từng thời kì.

371
Một quan điểm về Triết học

Một cơ quan hành chính chỉ nên quan tâm và thực thi nhiệm vụ
của mình được giao, không nên ôm đồm những việc khác. Và nên
cân nhắc, sáp nhập các cơ quan hành chính lại với nhau, để giảm
tải nhân sự cho bộ máy hành chính. Vì như ta biết, số nhân sự phục
vụ bộ máy hành chính là rất nhiều, nếu có thể cắt giảm được sẽ
giảm tải rất nhiều cho ngân sách nhà nước.

Với tình hình hiện tại, chúng ta có 64 tỉnh thành, điều này làm cho
cơ quan hành chính phình ra đáng kể, vậy nên chúng ta nên gộp
một số tỉnh lân cận thành vùng lớn hơn, để cho bộ máy hành chính
trở nên gọn nhẹ.

Tản quyền tức là chúng ta giao nhiều hơn quyền tự quyết cho các
vùng để giảm tải gánh nặng cho cơ quan trung ương. Một điều nữa,
tản quyền giúp cho các vùng có quyền tự quyết nhiều hơn, nhờ đó
có thể khai thác tối đa lợi thế của vùng miền mình, cũng như cạnh
tranh với nhau một cách công bằng trong công cuộc phát triển kinh
tế vùng miền.

Với cơ chế tản quyền, các vùng cũng sẽ tự tiến hành bầu cử nghị
viện cho mình. Nghị viện ở vùng cũng chỉ có một viện, tức là chỉ
có hạ viện không có thượng viện. Điều này có ưu điểm như sau:

+ 1, Giúp cho các vùng có một bộ máy lãnh đạo trong sạch
và am hiểu sâu sắc điều kiện của từng vùng, từ đó khai thác
tối ưu lợi thế của vùng đó.

372
Một quan điểm về Triết học

+ 2, Do sự giới hạn số dân biểu tối đa của một đảng chỉ chiếm
60% ghế quốc hội vùng, nên nó luôn thừa ghế cho những
đảng khác tại vùng đó.

Hệ quả là các đảng phân bố đan xen, lồng vào nhau trải dài
khắp đất nước, chứ các đảng không tập trung thành từng khu
vực. Giúp cho người dân không bị áp đặt bởi ý thức hệ của
riêng một đảng nào đó, mà dẫn đến quyết định sai lầm.

Ví dụ: Đảng A thì tập trung ngoài miền Bắc, còn đảng B chỉ
tập trung ở miền Nam. Nhưng với việc giới hạn số ghế mặc
định của đảng thắng cuộc là 60%, dẫn đến cả hai đảng A và
B phải đan xen nhau, và trải đều khắp đất nước. Điều này
giúp cho người dân được hưởng lợi nhiều hơn.

+ 3, Nó cho phép các đảng yếu hơn (mới thành lập) có cơ hội
phát triển. Bằng cách: Đầu tiên với cử tri bỏ phiếu cho họ còn
thấp, họ sẽ tập trung chạy đua vào quốc hội vùng (địa
phương) trước khi đủ mạnh để ra tranh cử tại trung ương.

Vậy thì một nước có thể có bao nhiêu vùng?

Có hai nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phân chia số vùng:

+ 1, Số nhân sự của bộ máy hành chính: Càng nhiều vùng thì


bộ máy hành chính càng lớn, dẫn đến chi phí nhân sự cho bộ
máy hành chính cũng lớn theo.

373
Một quan điểm về Triết học

+ 2, Quyền lực thực tế của mỗi vùng: Càng ít vùng thì quyền
lực của các vùng càng tiệm cận với quyền lực của chính
quyền trung ương. Dẫn đến trên bảo dưới không nghe và gây
ra sự bế tắc trong việc thi hành chính sách và luật pháp của
chính quyền trung ương.

Ví dụ: Một nước được phân thành hai vùng, nếu như có bất
kì sự bất đồng nào đó giữa hai vùng, thì hai vùng này hoàn
toàn có thể tách ra thành hai nước độc lập, trước sự bất lực
của chính quyền trung ương.

Vì vậy, việc phân vùng là sự giao hòa giữa 1 và 2, để đảm bảo cho
các chính sách, luật lệ ban hành ở trung ương phải được thông suốt
trên toàn quốc và chi phí cho bộ máy nhân sự phải không quá lớn.
Vậy nên đất nước nên chia thành khoảng từ 15 - 20 vùng, tốt nhất
là 20.

Mặc dù chia ra các vùng nhưng vẫn phải giữ nguyên tỉnh, huyện.
Đây là đặc thù của riêng Việt Nam, một đất nước nhỏ có nền văn
hiến lâu đời. Vậy nên huyện, tỉnh có giá trị lịch sử rất lớn (có huyện
được thành lập cách đây mấy trăm năm). Không thể bỏ huyện, tỉnh
đi được mà chỉ có liên minh tỉnh, huyện tạo thành một đơn vị hành
chính lớn hơn, nhưng vẫn phải giữ nguyên biên giới các giữa huyện
cũ với nhau. Vì vậy có thể tiến hành sáp nhập các xã trong huyện,
nhưng không được sát nhập các xã thuộc hai huyện khác nhau lại
với nhau để đảm bảo ranh giới giữa các huyện.

374
Một quan điểm về Triết học

TÓM LẠI

Tối đa hóa lợi ích cá nhân là bản chất của con người. Vậy nên đừng
bao giờ tin tưởng một người, giao quyền lực cho anh ta mà không
có cơ chế kiểm soát quyền lực đó. Bởi không biết khi nào anh ta
sẽ bị cám dỗ bởi quyền lực mà anh ta đang có và phản bội lại tổ
chức, đất nước đã tin tưởng anh ta.

Về chính trị thì hậu quả nặng nề hơn nữa, bởi vì khi một người
tham nhũng mà không thể xử lí, thì nó kéo theo cả hệ thống dưới
nó tham nhũng theo. Tức cả đất nước tham nhũng. Khi mà đất nước
đâu đâu cũng thấy tham nhũng thì đất nước đó chỉ có lụn bại. Và
để lật đổ được cơ chế tham nhũng ấy, rất có thể sẽ phải có chiến
tranh và đổ máu, điều mà không ai muốn.

Vậy kiểm soát bằng cách nào?

Quay trở lại với định lí bất toàn của Kurt Gödel mà chúng ta đã
đề cập ở phần trước:

Định lí này khẳng định rằng: Bất kì một hệ tiên đề hình thức độc
lập đủ mạnh để miêu tả số học cũng hàm chứa những mệnh đề
không thể khẳng định cũng không thể phủ định.

Tức là bất kì một hệ thống lí thuyết kín nào đều không thể tự chứng
minh được nó là đúng.
375
Một quan điểm về Triết học

(1) là nó phải dựa vào những tiên đề có trước, mà những tiên đề


đó chỉ được thừa nhận mà không thể chứng minh được nó. Hoặc

(2) là chúng ta phải đi ra ngoài hệ thống lí thuyết đó và nhờ một


hệ thống lí thuyết khác chứng minh nó.

Hệ quả của định lí bất toàn áp dụng trong trường hợp này có nghĩa
là: Không thể dùng người của một đảng (đảng Cộng sản) để giám
sát chính đảng đó (đảng Cộng sản) được, mà phải dùng một cơ chế
giám sát khác bên ngoài đảng đó mới có thể giám sát hiệu quả.

Ở đây, cơ chế giám sát khác chính là nhờ một đảng độc lập khác
giám sát đảng đang điều hành đất nước (đảng Cộng sản), hay cho
các đảng vì lợi ích của đảng mình mà tự kiềm chế, giám sát lẫn
nhau. Tức là phải có một chế độ đa đảng.

Việc đảng Cộng sản tuyên bố là đảng duy nhất điều hành đất nước
Việt Nam là sai cả về lý thuyết lẫn thực tế, vậy nên không sai khi
nói rằng đảng Cộng sản là đảng độc tài toàn trị.

Và chúng ta cũng đã khẳng định rằng, chế độ đại nghị, tản quyền
là chế độ tốt nhất, nếu so với các chế độ dân chủ khác, mà Việt
Nam nên lựa chọn.

376
Một quan điểm về Triết học

KINH TẾ

Bản chất của nền kinh tế dựa trên giao dịch, mà giao dịch dựa trên
chi phí - lợi ích. Nhưng chi phí - lợi ích đối với cảm nhận từng
người là khác nhau, nhìn chung nó vẫn dựa trên quy luật lợi suất
giảm dần.

Khi một người đã có nhiều một thứ gì đó, thì việc thêm hay giảm
bớt một chút thứ đó sẽ không ảnh hưởng nhiều đến họ. Ví dụ: Một
người có thu nhập 100 triệu một tháng thì việc chi vài ba triệu nó
dễ dàng hơn người có thu nhập 10 triệu, bởi vài ba triệu với họ
không có nhiều ý nghĩa lắm. Vì vậy, đổi một sản phẩm đối với họ
ít có giá trị lấy một sản phẩm khác mà họ cảm thấy có giá trị hơn,
là việc cần làm để gia tăng lợi ích cho bản thân và do đó một giao
dịch xảy ra.

Vấn đề nữa là, với các sản phẩm có thể thay thế nhau ít nhiều, thì
việc thay đổi giá cả của sản phẩm này sẽ liên quan đến giá cả của
sản phẩm khác. Đặc biệt những sản phẩm có khả năng thay thế
nhau càng cao thì càng bị ảnh hưởng.

377
Một quan điểm về Triết học

Cách nền kinh tế hoạt động

Nguồn Ray Dalio

(Tên video gốc: How The Economic Machine Works in


30 minutes by Ray Dalio)

Các nền kinh tế hoạt động giống như một cỗ máy đơn giản, nó
được tạo thành từ một vài bộ phận đơn giản và rất nhiều giao dịch
đơn giản được lặp đi lặp lại với số lần vô cùng lớn. Các giao dịch
này được điều khiển bởi bản chất con người. Và họ tạo ra ba lực
chủ yếu để lái nền kinh tế.

+ Tăng trưởng năng suất

+ Chu trình nợ ngắn hạn

+ Chu trình nợ dài hạn

378
Một quan điểm về Triết học

Chúng ta sẽ xem xét ba lực chủ yếu này và đặt chúng lên
đầu của mọi sự tạo ra khuôn mẫu khác cho việc theo dõi
những diễn biến nền kinh tế và tìm hiểu những gì đang diễn
ra hiện tại.

Hãy bắt đầu với phần đơn giản nhất của nền kinh tế:

Giao dịch

Một nền kinh tế chỉ đơn giản là tổng của các giao dịch mà
làm nên nó, và giao dịch là một điều đơn giản. Bạn thực
hiện giao dịch tất cả các thời gian, mỗi khi bạn mua một
thứ gì đó bạn tạo nên một giao dịch. Mỗi giao dịch bao
gồm một người mua đổi tiền hoặc tín dụng (nợ) với một
người bán hàng hóa, dịch vụ hoặc tài sản tài chính. Mỗi tín
dụng cũng được xem là tiền, vậy nên tổng chi tiêu = tiền
chi tiêu + tín dụng chi tiêu, và tổng chi tiêu dẫn dắt nền
kinh tế. Tất cả chu trình và tất cả lực đẩy trong một nền
kinh tế được điều khiển bởi giao dịch, cho nên nếu chúng

379
Một quan điểm về Triết học

ta có thể hiểu giao dịch, chúng ta có thể hiểu được nền kinh
tế. Nếu bạn biết tổng chi tiêu và tổng số lượng bán hàng
trong tất cả thị trường, bạn có tất cả mọi thứ bạn cần biết
để hiểu được nền kinh tế, nó chỉ đơn giản có vậy.

Người dân, các doanh nghiệp, các ngân hàng và chính phủ,
tất cả tham gia trong các giao dịch như cách tôi vừa mô tả,
trong đó có hai bộ phận quan trọng. Chính quyền trung
ương thu thuế và chi tiêu tiền, ngân hàng trung ương điều
khiển lượng tiền và tín dụng trong nền kinh tế bằng cách
ảnh hưởng lên lãi suất và in tiền mới.

Tín dụng

Tín dụng là phần rất quan trọng trong nền kinh tế bởi vì nó
lớn nhất và là phần dễ dàng bay hơi nhất. Cũng giống như
người mua và người bán đi đến thị trường để thực hiện giao
dịch, người cho vay thường muốn tiền của họ vào càng
nhiều hơn, người đi vay thường muốn mua một cái gì đó
nhưng họ không đủ khả năng, như một ngôi nhà hoặc một
chiếc xe hơi, hoặc họ muốn đầu tư vào một cái gì đó như
là bắt đầu một doanh nghiệp. Tín dụng có thể giúp người
đi vay và người cho vay có được thứ họ muốn, người đi
vay hứa sẽ hoàn trả một lượng được gọi là tiền gốc cộng
một lượng được gọi là lãi suất. Khi lãi suất cao, sẽ có ít

380
Một quan điểm về Triết học

người đi vay bởi vì nó đắt, khi lãi suất thấp sẽ có nhiều


người đi vay hơn vì tiền trả lãi rẻ hơn. Khi người đi vay
hứa sẽ trả và người cho vay tin tưởng họ, tín dụng được tạo
ra. Nhưng khi tín dụng được tạo ra, nó ngay lập tức biến
thành nợ. Trong tương lai, khi người đi vay trả khoản nợ +
lãi suất, giao dịch được giải quyết.

Vậy tại sao tín dụng lại quan trọng?

Bởi vì khi có một người vay tín dụng, anh ta có thể tăng
chi tiêu của mình, và hãy nhớ rằng chi tiêu dẫn dắt nền kinh
tế. Đó là vì, chi tiêu của một người là thu nhập của một
người khác (do giao dịch tạo ra, khi bạn mua một thứ gì đó
khoản tiền chi tiêu cho nó sẽ trở thành thu nhập của người
bán). Hãy suy nghĩ về nó, mỗi dollar bạn bỏ ra, ai đó sẽ
kiếm được và mỗi dollar bạn kiếm được ai đó đã bỏ ra. Vì
vậy khi bạn chi tiêu nhiều hơn, ai đó sẽ kiếm được nhiều
hơn. Khi thu nhập của ai đó tăng lên, nó làm cho người cho
vay sẵn sàng cho anh ấy vay, bởi vì bây giờ anh ấy có nhiều
tín dụng tin cậy (tức là có khả năng trả nợ tốt, người cho
vay thường sợ cho những người không có khả năng trả nợ
vay. Nên họ cần người đi vay chứng minh được khả năng
trả nợ của họ). Một người vay tín dụng tin cậy có hai điều,
khả năng hoàn trả và tài sản thế chấp. Trong trường hợp
anh ta không thể hoàn trả được, anh ta có tài sản có giá trị
để dùng như là tài sản thế chấp, có thể bán được. Điều này

381
Một quan điểm về Triết học

làm những người cho vay có thể yên tâm cho anh ta vay
tiền. Vì vậy gia tăng thu nhập cho phép gia tăng vay, cho
phép chi tiêu gia tăng. Và kể từ khi chi tiêu của một người
là thu nhập của người khác, điều này dẫn đến gia tăng vay
mượn và hơn thế nữa. Mô hình tự củng cố, dẫn dắt tăng
trưởng nền kinh tế, và đó là lí do tại sao chúng ta có chu
kì. Trong một giao dịch, bạn đưa một cái gì đó để được một
cái gì đó và nhận được bao nhiêu phụ thuộc vào bạn sản
xuất ra được bao nhiêu. Theo thời gian, chúng ta có kinh
nghiệm sản xuất dẫn đến gia tăng năng suất, những người
siêng năng và có năng suất cao hơn, thường có tiêu chuẩn
sống cao hơn so với những người lười biếng. Năng suất
quan trọng trong thời gian dài, nhưng tín dụng quan trọng
trong ngắn hạn, bởi vì tăng trưởng năng suất không biến
động nhiều cho nên nó không dẫn dắt nền kinh tế.

Chúng ta nợ là bởi vì nó cho phép chúng ta tiêu thụ nhiều


hơn chúng ta làm ra, và khi chúng ta trả nợ buộc chúng ta
phải sản xuất nhiều hơn chúng ta tiêu thụ. Tức là, khi chúng
ta nợ là chúng ta đang vay mượn tương lai của chính mình,
bởi vì tương lai chúng ta phải trả nợ.

Nợ trong nền kinh tế xảy ra hai chu kỳ, chu kỳ nợ ngắn hạn
với thời gian khoảng 5 - 8 năm, chu kỳ nợ dài hạn với thời
gian 75 - 100 năm. Trong khi, hầu hết mọi người cảm thấy

382
Một quan điểm về Triết học

biến đổi, họ không nhìn chúng như một chu kỳ, bởi vì họ
thấy chúng quá gần gũi, hàng ngày, hàng tuần.

Trong chương này, chúng ta sẽ quay lại và nhìn vào ba lực


chủ yếu và cách chúng tương tác với nhau để tạo nên nền
kinh tế của chúng ta. Đầu tiên hãy tưởng tượng một nền
kinh tế không có tín dụng, trong nền kinh tế đó, cách duy
nhất tôi có thể tăng thu nhập là tăng năng suất, sự tăng
trưởng kinh tế là mỗi lần tôi hoặc ai đó có năng suất cao
hơn. Nếu chúng ta theo dõi các giao dịch và tham gia nó,
chúng ta thấy sự tiến triển giống như dòng tăng trưởng
năng suất. Nhưng bởi vì chúng ta vay, chúng ta có vòng
chu kỳ. Đây không phải là luật lệ hay quy định bất kì, đó
là do bản chất con người và cách thức tín dụng làm việc.
Suy nghĩ về việc vay mượn giống như một cách để kéo chi
tiêu về phía trước, để mua một cái gì đó ngoài khả năng
của bạn, bạn cần mượn nhiều hơn bạn làm ra. Để làm điều
này, về cơ bản, bạn vay mượn từ chính tương lai của bạn,
làm như vậy bạn tạo ra một thời điểm trong tương lai bạn
cần chi tiêu ít hơn bạn làm ra để trả lại tiền mà bạn đã vay
mượn trước đó. Nó giống như một chu kỳ. Điều này đúng
với cá nhân cũng như đúng với nền kinh tế. Đây là lí do vì
sao sự hiểu biết về tín dụng lại rất quan trọng, bởi vì nó đặt
vào chuyển động của nền kinh tế một cơ cấu, hàng loạt dự

383
Một quan điểm về Triết học

đoán cho các sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai, điều này
làm cho tín dụng khác với tiền.

Tiền là những gì bạn giải quyết với các giao dịch. Khi bạn
mua một cốc bia từ người phục vụ với tiền mặt, giao dịch
được giải quyết ngay lập tức. Nhưng khi bạn mua một cốc
bia với tín dụng nó như một sự bắt đầu với hóa đơn, bạn
đang nói rằng bạn hứa sẽ trả trong tương lai. Bạn và người
phục vụ cùng nhau tạo ra một tài sản và một tiêu sản, cho
đến khi bạn quay lại và trả khoản nợ của mình. Thực tế hầu
hết những gì mọi người gọi là tiền thực sự là tín dụng. Tổng
số tiền tín dụng tại Hoa Kỳ là 50.000 tỷ dollar trong khi số
lượng tiền chỉ là 300 tỷ dollar. Hãy nhớ rằng trong một nền
kinh tế không có tín dụng, cách duy nhất gia tăng chi tiêu
của bạn là làm ra sản phẩm nhiều hơn. Nhưng trong một
nền kinh tế tín dụng bạn có thể gia tăng chi tiêu bằng cách
vay mượn. Kết quả là trong nền kinh tế tín dụng có nhiều
sự chi tiêu hơn và cho phép thu nhập gia tăng nhanh hơn
so với năng suất trong ngắn hạn, không phải trong dài hạn.
Tín dụng không nhất thiết là cái gì đấy tệ hại, mà nó chỉ
gây ra vòng chu kì, nó chỉ tệ hại khi số tiền tiêu thụ quá
mức không thể hoàn trả lại được. Tuy nhiên nó là tốt khi
nó phân bổ hiệu quả các nguồn lực và tạo ra thu nhập, do
đó bạn có thể hoàn trả nợ. Ví dụ: Nếu bạn vay tiền để mua
một chiếc ti vi, nó không tạo ra thu nhập cho bạn để bạn

384
Một quan điểm về Triết học

hoàn trả lại nợ. Nhưng nếu bạn vay mượn để mua máy kéo,
sau đó máy kéo có thể thu hoạch nhiều mùa vụ để có tiền
trả nợ và cung cấp tiêu chuẩn cho cuộc sống của bạn.

Trong một nền kinh tế tín dụng, chúng ta có thể thực hiện
giao dịch và thấy tín dụng có thể tạo ra tăng trưởng.

Ví dụ: Giả sử bạn kiếm 100.000 $ và không có nợ. Bạn có


đủ tín dụng tin cậy để vay 10.000 $, như vậy bạn có thể
tiêu 110.000$ ngay cả khi bạn chỉ kiếm được 100.000$.
Bởi vì sự chi tiêu của bạn là thu nhập của người khác, ai
đó sẽ kiếm được 110.000$ và không có nợ. Thế nên họ có
thể vay được 11.000$, do đó anh ta có thể chi tiêu
121.000$, mặc dù anh ta chỉ kiếm được 110.000$. Sự chi
tiêu của anh ta là thu nhập của người khác và bằng cách
thực hiện các giao dịch, các hoạt động trong mô hình tự
củng cố. Nhưng hãy nhớ rằng, sự vay mượn tạo ra các vòng
chu kì, và nếu chu kì đi lên nó bắt buộc cũng phải đi xuống.
Điều này dẫn chúng ta vào chu kì nợ ngắn hạn. Khi hoạt
động kinh tế tăng lên chúng ta thấy một sự mở rộng.

Giai đoạn đầu của chu kì nợ ngắn hạn, sự chi tiêu bắt đầu
gia tăng và giá cả hàng hóa lên cao. Điều này xảy ra vì sự
gia tăng trong chi tiêu được thúc đẩy bởi tín dụng, có thể
tạo ra từ không có gì cả. Khi số lượng chi tiêu và thu nhập
tăng nhanh hơn so với sản xuất hàng hóa, giá cả tăng lên.
Khi giá cả tăng lên chúng ta gọi đó là lạm phát. Ngân hàng
385
Một quan điểm về Triết học

trung ương không muốn lạm phát quá nhiều bởi vì nó gây
ra nhiều vấn đề, nhìn thấy giá cả tăng lên ngân hàng tăng
lãi suất. Với lãi suất cao hơn, ít người có khả năng vay
mượn hơn, và chi phí cho các khoản nợ cũng tăng lên. Hãy
suy nghĩ điều này như là các khoản thanh toán hàng tháng
trên thẻ tín dụng của bạn tăng lên. Bởi vì người mượn ít và
khoản phải trả cao hơn, họ không có nhiều tiền để chi tiêu
nữa, bởi vậy chi tiêu chậm lại. Và vì chi tiêu của một người
là thu nhập của người khác, dẫn đến thu nhập giảm sút. Khi
mọi người chi tiêu ít đi giá cả giảm xuống, chúng ta gọi đó
là giảm phát. Hoạt động nền kinh tế giảm sút và chúng ta
có một cuộc suy thoái. Nếu suy thoái trở nên quá nghiêm
trọng và lạm phát không còn là vấn đề, ngân hàng trung
ương sẽ hạ lãi suất đề tất cả mọi người có thể vay lại và
chúng ta thấy sự phát triển kinh tế trở lại. Như bạn có thể
thấy, nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy. Trong chu kì
nợ ngắn hạn, sự chi tiêu bị hạn chế chỉ bởi sự tự nguyện
của người đi vay và người cho vay để cung cấp và nhận tín
dụng. Khi tín dụng có một cách dễ dàng có một sự mở rộng
(phát triển) nền kinh tế, khi tín dụng có một cách khó khăn
có một cuộc suy thoái nền kinh tế. Và lưu ý rằng vòng chu
kì được điều khiển chủ yếu bởi ngân hàng trung ương. Các
chu kì ngắn hạn thường kéo dài 5 - 8 năm. Nhưng chú ý
rằng đáy và đỉnh của mỗi chu kỳ sau kết thúc với tăng

386
Một quan điểm về Triết học

trưởng mạnh hơn so với chu kì trước và có nhiều khoản nợ


lớn hơn.

Vì sao? Bởi vì mọi người thúc đẩy nó, họ có xu hướng vay


mượn và chi tiêu nhiều hơn thay vì hoàn trả nợ.

Đó là bản chất của con người. Bởi vì điều này, trong một
thời gian dài khoản nợ tăng nhanh hơn thu nhập, tạo ra các
chu kỳ nợ dài hạn. Mặc dù mọi người trở thành mắc nợ
nhiều hơn, người cho vay thậm chí còn mở tín dụng một
cách tự do.

Tại sao?

Bởi vì mọi người đang nghĩ mọi thứ tuyệt vời, họ chỉ tập
trung vào những thứ xảy ra gần đây. Thu nhập tăng lên, giá
cả tài sản tăng lên, thị trường chứng khoán gầm rú, đó là
một sự bùng nổ. Tiền để mua hàng hóa, dịch vụ và các tài
sản tài chính bằng tiền vay mượn. Khi mọi người làm nhiều
việc đó chúng ta gọi đó là một bong bóng. Vì vậy các khoản
nợ tăng lên thu nhập cũng tăng lên đủ để bù đắp chúng.
Hãy gọi khoản nợ chia thu nhập là nợ xấu, miễn là thu nhập
tiếp tục tăng lên nợ xấu vẫn quản lí được. Đồng thời giá trị
tài sản vọt lên, mọi người vay mượn lượng tiền khổng lồ
để mua tài sản như sự đầu tư khiến giá cả thậm chí còn cao
hơn nữa. Mọi người cảm thấy giàu có ngay cả khi tích lũy
rất nhiều khoản nợ.

387
Một quan điểm về Triết học

Thu nhập và giá trị tài sản tiếp tục tăng lên giúp người vay
mượn vẫn có tín dụng tin cậy trong thời gian dài. Nhưng
điều này hiển nhiên không thể tiếp tục mãi mãi, qua các
thập kỷ, các khoản nợ xấu tăng lên một cách chậm rãi, tạo
ra các khoản phải trả lớn hơn, rộng hơn. Tại điểm khoản
nợ phải trả bắt đầu tăng nhanh hơn thu nhập, buộc người
dân phải cắt giảm chi tiêu của họ. Và do chi tiêu của một
ai đó là thu nhập của một ai đó, các thu nhập bắt đầu đi
xuống làm cho mọi người mất đi tín dụng tin cậy làm cho
vay mượn đi xuống. Các khoản nợ phải trả tiếp tục tăng
lên, làm cho sự chi tiêu càng hạ thêm nữa và chu kì tự nó
đảo chiều.

Đây là đỉnh cao của chu kì nợ dài hạn, các khoản nợ xấu
đơn giản đã trở nên quá lớn. Đối với Hoa Kỳ, Châu Âu và
nhiều phần còn lại của thế giới đã xảy ra suy thoái trong
năm 2008. Nó xảy ra với cùng một lí do đã xảy ra tại Nhật
năm 1989 và tại Hoa Kỳ vào năm 1929.

Bây giờ nền kinh tế bắt đầu thiết lập lại. Trong sự thiết lập
lại, người dân cắt giảm chi tiêu, thu nhập rớt xuống, tín
dụng biến mất, giá trị tài sản hạ thấp, các nguồn hàng trở
nên túng quẫn. Thị trường chứng khoán sụp đổ, căng thẳng
xã hội gia tăng, và toàn bộ mọi thứ nuôi dưỡng nó theo
cách ngược lại. Khi thu nhập giảm và khoản nợ phải trả gia
tăng, người vay mượn trở nên túng quẫn, không còn tín

388
Một quan điểm về Triết học

dụng tin cậy. Tín dụng cạn kiệt và người vay không còn đủ
tiền để làm, bắt buộc họ phải bán các tài sản, sự vội bán
các tài sản ngập lụt trên thị trường. Đây là khi thị trường
chứng khoán sụp đổ. Các cỗ xe tăng của thị trường và các
ngân hàng gặp rắc rối. Khi giá trị tài sản giảm, giá trị tài
sản thế chấp xuống thấp. Điều này làm cho người đi vay
thậm chí còn ít tín dụng tin cậy, điều này làm cho mọi
người cảm thấy nghèo khó. Tín dụng nhanh chóng biến
mất, ít chi tiêu, ít giàu có, ít tín dụng, ít vay mượn...

Đó là một vòng luẩn quẩn.

Điều này tương tự một cuộc suy thoái, nhưng có chút khác
biệt ở đây. Lãi suất không được hạ xuống để kích thích chi
tiêu như một cuộc suy thoái thông thường. Bởi vì trong một
cuộc thiết lập lại, lãi suất đã sớm được hạ xuống 0% vì vậy
việc kích thích kết thúc. Sự khác nhau giữa sự suy thoái và
sự tái thiết là, trong sự tái thiết, các khoản nợ xấu của người
vay có được một cách đơn giản, trở nên quá lớn và không
thể được giải phóng bởi lãi suất thấp. Người cho vay nhận
ra rằng các khoản nợ đã trở nên quá lớn không bao giờ trả
đủ. Người vay làm mất khả năng hoàn trả của họ và tài sản
thế chấp cũng mất giá trị, họ cảm thấy bị tê liệt bởi nợ ngay
cả khi họ không muốn nữa. Người cho vay ngừng cho vay,
người vay mượn ngừng vay mượn.

389
Một quan điểm về Triết học

Hãy suy nghĩ về nền kinh tế không tín dụng tin cậy, chỉ
như một cá nhân riêng lẻ. Vậy bạn làm gì để tái thiết? Vấn
đề nợ xấu quá cao và chúng phải đi xuống. Có 4 cách có
thể xảy ra.

+ 1, Người dân, doanh nghiệp, chính phủ cắt giảm


chi tiêu của họ.

+ 2, Các khoản nợ giảm thông qua vỡ nợ và tái cấu


trúc.

+ 3, Tài sản được chuyển từ người giàu đến người


nghèo.

+ 4, Ngân hàng trung ương in thêm tiền mới.

Thông thường sự chi tiêu được cắt giảm đầu tiên. Như vậy
ta thấy người dân, doanh nghiệp, ngân hàng thậm chí cả
chính phủ đều phải thắt lưng buộc bụng để có thể hoàn trả
khoản nợ của họ. Khi người vay ngừng các khoản nợ mới
và trả các khoản nợ cũ, bạn có thể mong đợi khoản nợ xấu
giảm bớt. Nhưng điều trái ngược lại diễn ra, bởi sự chi tiêu
bị cắt và chi tiêu của người này là thu nhập của người kia,
nên nó gây ra giảm sút thu nhập. Họ rơi nhanh hơn các
khoản nợ phải trả và các khoản nợ xấu thực sự trở nên tồi
tệ. Như chúng ta đã thấy, cắt giảm chi tiêu là giảm phát và
gây ra đau đớn. Doanh nghiệp phải cắt giảm chi phí và ít
việc làm dẫn đến thất nghiệp còn cao hơn nữa. Điều này

390
Một quan điểm về Triết học

dẫn đến bước tiếp theo, các khoản nợ phải được giảm.
Nhiều người vay thấy rằng, họ không thể nào trả nợ vốn
vay và nợ của người vay là tài sản của người cho vay. Khi
người vay không trả nợ ngân hàng mọi người lo lắng rằng
ngân hàng sẽ không có khả năng trả nợ, do đó họ vội vàng
rút tiền từ ngân hàng. Các ngân hàng trở nên túng quẫn,
không còn khả năng trả nợ dẫn đến phá sản, kéo theo người
dân và các doanh nghiệp cũng phá sản theo. Nhiều người
cho vay không muốn tài sản của họ biến mất và đồng ý với
nợ tái cơ cấu. Khoản nợ tái cơ cấu có nghĩa là người cho
vay được trả lại tiền ít hơn, hoặc được trả lại trong một
khung thời gian dài hơn, hoặc lãi suất thấp đã được đồng
ý. Bằng cách nào? Một hợp đồng bị phá vỡ là một cách làm
giảm nợ. Người cho vay muốn có một chút còn hơn là
không có gì.

Vai trò của chính phủ trong việc này là, thu thuế ít hơn
đồng thời gia tăng chi tiêu bởi vì nạn thất nghiệp đã gia
tăng. Nhiều người thất nghiệp không đủ tiền trang trải sinh
hoạt và cần đến sự trợ giúp của chính phủ. Thêm nữa chính
phủ tạo ra kế hoạch kích thích kinh tế và gia tăng chi tiêu
để bù đắp cho sự giảm sút trong nền kinh tế. Thâm hụt ngân
sách chính phủ bùng nổ trong chu trình tái thiết nền kinh
tế bởi vì họ chi tiêu nhiều hơn kiếm được từ tiền thuế. Đây
là những gì đang xảy ra khi bạn nghe về thâm hụt ngân

391
Một quan điểm về Triết học

sách trên truyền thông. Để bù đắp vào sự thâm hụt của họ,
chính phủ cần phải tăng thuế và vay mượn tiền. Nhưng với
thu nhập giảm sút và nhiều người thất nghiệp, họ chỉ có thể
thu thuế những người giàu. Khi sự giàu có tập trung vào
một tỉ lệ nhỏ người dân, chính phủ thu thêm thuế người
giàu để tạo điều kiện tái phân phối của cải trong nền kinh
tế. Người giàu bị bóp chặt trong nền kinh tế yếu kém, giá
trị tài sản của họ giảm sút và căm ghét người nghèo, ngược
lại người nghèo cũng vậy, gây ra bất ổn trong nền kinh tế.

Hãy nhớ điều này, hầu hết mọi người nghĩ rằng tiền là tín
dụng, do đó khi tín dụng biến mất họ không có đủ tiền. Tuy
nhiên ngân hàng trung ương có thể in thêm tiền. Sau khi hạ
lãi suất tới 0% nó buộc phải in thêm tiền. Không giống như
cắt giảm chi tiêu, giảm nợ và phân bố lại sự giàu có, in tiền
là lạm phát và kích cầu. Chắc chắn các ngân hàng trung
ương in tiền từ không có gì cả và dùng nó để mua các tài
sản tài chính và trái phiếu chính phủ. Nó xảy ra tại Hoa Kỳ
trong cuộc đại suy thoái. Bằng cách mua tài sản tài chính
với tiền đó, nó giúp đẩy giá tài sản làm cho mọi người có
tín dụng tin cậy nhiều hơn. Tuy nhiên điều này chỉ giúp
cho ai sở hữu tài sản tài chính. Bạn thấy đó, ngân hàng
trung ương có thể in tiền nhưng nó chỉ có thể mua tài sản
tài chính. Chính phủ mặt khác, có thể mua hàng hóa, dịch
vụ và đưa tiền vào tay người dân, nhưng không thể in tiền.

392
Một quan điểm về Triết học

Do đó để kích thích nền kinh tế, cách duy nhất là hợp tác
giữa chính phủ và ngân hàng trung ương. Bằng mua trái
phiếu chính phủ, ngân hàng trung ương về cơ bản cho
chính phủ vay tiền. Cho phép nó thâm hụt và gia tăng chi
tiêu đối với các hàng hóa, dịch vụ thông qua chương trình
kích cầu và trợ cấp thất nghiệp, điều này làm gia tăng thu
nhập người dân cũng như nợ chính phủ. Tuy nhiên nó sẽ
làm giảm tổng nợ xấu cho nền kinh tế. Đây là thời điểm
đầy rủi ro, các nhà hoạch định cần cân bằng bốn cách. Có
một cách phụ nữa là chính phủ có thể vay tiền từ các cá
nhân giàu có hoặc các công ty làm ăn được trong thời kì
khó khăn đó (nếu được thì tốt nhất là các cá nhân, công ty
trong nước) để giảm việc phải in thêm tiền, bởi vì như các
bạn đã biết in thêm tiền đồng nghĩa với lạm phát và đồng
tiền sẽ mất giá trị. Những cách giảm phát phải cân bằng
với lạm phát, nếu cân bằng chính xác nó có thể là một sự
tái thiết đẹp đẽ. Mọi người hỏi in thêm tiền sẽ gia tăng lạm
phát nhưng nó bù đắp tụt giảm tín dụng. Hãy nhớ rằng chi
tiêu là điều quan trọng. Một dollar chi tiêu bằng tiền có ảnh
hưởng trên giá như một dollar chi tiêu bằng tín dụng. Bằng
cách in thêm tiền, ngân hàng trung ương có thể bù đắp sự
biến mất của tín dụng với sự gia tăng lượng tiền. Để biến
đổi mọi thứ xung quanh, ngân hàng trung ương cần làm,
không những bơm lên tăng trưởng thu nhập mà còn tăng tỉ
lệ tăng trưởng thu nhập cao hơn so với lãi suất trên nợ đã
393
Một quan điểm về Triết học

tích lũy. Do đó, tôi muốn nói, dù bằng cách gì thì cũng phải
làm cho tăng trưởng thu nhập nhanh hơn tăng trưởng nợ.

Ví dụ: Hãy giả sử một quốc gia sẽ trải qua sự tái thiết để
có tỉ lệ nợ trên thu nhập là 100% (tức 1:1). Điều đó có nghĩa
là tổng số lượng nợ đó giống như lượng tiền thu nhập của
toàn bộ quốc gia làm ra trong một năm. Bây giờ hãy nói về
lãi suất trên khoản nợ đó, giả sử tăng trưởng nợ là 2% trong
khi nền kinh tế chỉ tăng 1%, bạn sẽ không bao giờ giảm
được nợ xấu. Bạn cần in thêm tiền để có được tăng trưởng
thu nhập trên lãi suất.

Tuy nhiên in thêm tiền có thể dễ dàng bị lợi dụng bởi vì nó rất
dễ làm và mọi người thích nó, chìa khóa là tránh in quá nhiều
tiền bởi vì nó gây ra lạm phát cao. Khi thu nhập tăng lên người
vay bắt đầu xuất hiện nhiều tín dụng tin cậy và người cho vay
xuất hiện nhiều tiền trở lại. Khoản nợ xấu cuối cùng bắt đầu
tụt giảm, mọi người có thể chi tiêu nhiều hơn. Cuối cùng nền
kinh tế bắt đầu tăng trưởng trở lại dẫn đến giai đoạn phục hồi
của chu kì nợ dài hạn.

394
Một quan điểm về Triết học

Mặc dù quá trình tái thiết có thể đáng ghét nếu bị xử lí tệ hại,
nếu xử lí tốt cuối cùng cũng khắc phục được vấn đề.

Tóm lại có ba lời khuyên:

+ 1, Đừng để nợ xấu tăng nhanh hơn thu nhập, bởi vì nợ


xấu của bạn cuối cùng cũng đè bẹp bạn.

+ 2, Đừng để thu nhập tăng nhanh hơn năng suất bởi vì


bạn cuối cùng trở nên không có tính cạnh tranh.

+ 3, Làm tất cả những gì bạn có để gia tăng năng suất


của bạn, bởi vì trong dài hạn nó là điều kiện quan trọng
nhất.

395
Một quan điểm về Triết học

THUYẾT BÀN TAY VÔ HÌNH

Theo thuyết bàn tay vô hình, chính phủ hạn chế tối đa việc tác động
vào nền kinh tế, mà cứ để thị trường tự điều tiết. Tuy nhiên vào
giai đoạn 1929 – 1933, khi khủng hoảng xảy ra tại Mỹ, dẫn đến tỉ
lệ thất nghiệp lên đến 25%, thì người ta mới nhìn nhận lại nhược
điểm của thuyết bàn tay vô hình.

Năm 1936, nhà kinh tế học người Anh - Keynes (1883 – 1946) -
cho ra đời lí thuyết bàn tay hữu hình. Trong đó, đặt cao vai trò điều
tiết của chính phủ thông qua hai công cụ chủ yếu là chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ.

Giả sử: Khi khủng hoảng kinh tế nổ ra, kinh tế suy thoái, thì trong
nền kinh tế hộ gia đình và doanh nghiệp có xu hướng tiết kiệm.
Hai tác nhân này càng tiết kiệm thì kinh tế càng xuống dốc. Lúc
này chỉ có chính phủ mới dám chi tiêu. Vì vậy chính phủ cần tăng
khả năng chi tiêu bằng các gói kích thích, ví dụ: Xây các công trình
công cộng để tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Nếu chính
phủ không làm thì chẳng ai làm.

Điều này cũng có nghĩa là, về mặt kinh tế, an sinh xã hội... nhà
nước chỉ tham gia vào khi cơ chế bàn tay vô hình không phát huy
tác dụng, hoặc phát huy tác dụng ngược.

396
Một quan điểm về Triết học

Ví dụ: Để tối ưu hóa lợi nhuận, người sản xuất có thể bỏ qua khâu
an toàn thực phẩm. Hoặc ví dụ về đánh bắt hải sản trên biển. Hải
sản là nguồn tài nguyên cần có thời gian để phục hồi. Theo thuyết
bàn tay vô hình, thì để gia tăng lợi nhuận, người dân sẽ ồ ạt đánh
bắt một cách nhiều nhất có thể. Bởi họ sợ, nếu họ không làm thì
người khác cũng sẽ làm và lúc đó họ bị thiệt mà vẫn không thay
đổi được kết quả. Điều này dẫn tới nguồn hải sản bị cạn kiệt khó
có thể phục hồi. Và để ngăn cản tình trạng này, nhằm khai thác hải
sản một cách ổn định lâu dài và bảo tồn nó cho thế hệ mai sau, nhà
nước cần có những phương pháp quản lí cụ thể thông qua những
điều luật và chính sách.

Như vậy, nhà nước chỉ điều tiết nền kinh tế thông qua những
chính sách và chi tiêu chính phủ, thực hiện vai trò là một người
quản lí nền kinh tế. Chứ nhà nước không phải là công ty hay đỡ
đầu cho bất cứ công ty nào dùng nguồn vốn của nhà nước để kinh
doanh. Việc này nằm ngoài chức năng của nhà nước.

Lí do: Nguồn vốn của nhà nước là do người dân đóng thuế mà
thành, và chẳng có lí do gì mà người dân lại đóng thuế để tạo ra
một công ty cạnh tranh lại với chính họ cả. Điều này vi phạm công
bằng xã hội.

397
Một quan điểm về Triết học

BA YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG LỚN ĐẾN


SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC

Dưới đây là ba yếu tố chủ chốt, càng làm tốt thì đất nước càng
phát triển.

+ 1, Tự do ngôn luận.

+ 2, Phân công lao động.

+ 3, Công bằng xã hội.

1, Tự do ngôn luận

Tự do ngôn luận là quyền trình bày một ý kiến rõ ràng mạch lạc
của một người nào đó, mà không sợ sự trả thù hoặc kiểm duyệt của
chính quyền, hay chịu sự trừng phạt của xã hội.

Nói cách khác bạn có quyền nói và tuyên truyền về bất cứ tư tưởng,
suy nghĩ, ý kiến nào, mà không sợ bất cứ ai làm gì bạn, trừ những
lời lẽ mang tính chất đe dọa, vu cáo, khủng bố đến những người
khác. Bạn có thể tìm hiểu thêm về nhân quyền, trong phần quyền
dân sự có ghi rõ rằng “Con người có quyền tự do tư tưởng, tự do
lương tâm, tự do quan niệm và phát biểu quan điểm”.

Điều quan trọng nhất của tự do ngôn luận là người ta có quyền


trình bày những ý kiến, tư tưởng trái chiều với số đông trong cộng
398
Một quan điểm về Triết học

đồng. Về mặt lí luận, chúng ta phải chấp nhận một điều rằng, không
ai hoàn hảo về mặt nhận thức. Thế nên chúng ta cần những ý kiến
khác nhau, để có cái nhìn tổng quan về vấn đề mà chúng ta đang
quan tâm, từ đó tiến gần hơn đến sự thật.

Về mặt xã hội những ý kiến trái chiều là những nguyên liệu cơ bản
để phát triển xã hội. Hãy tưởng tượng một xã hội mà không ai có
ý kiến khác, tức là xã hội đó không có một ý tưởng nào để cải tiến
vấn đề, xã hội ngay lập tức dừng lại không phát triển nữa. Từ đây
chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của tự do ngôn luận.

Một ví dụ của ý kiến trái chiều là tác phẩm dân gian “thầy bói xem
voi”. Giả sử các thầy bói mù đều không biết con voi trông như thế
nào. Sau khi cho xem voi, mỗi ông hình dung con voi theo một
cách khác nhau. Ông thì hình dung con voi giống như cái vòi, ông
thì hình dung nó giống như cái tai, ông thì lại bảo là nó giống như
cái chân....

Bây giờ các ông ấy đến tranh luận với nhau và đều nhận ra chỗ còn
thiếu của mình, rất có thể họ sẽ hình dung ra được con voi thật sự,
hoặc ít nhất là phác họa ra được hình ảnh cơ bản của con voi.

Tuy nhiên ta giả sử một trường hợp khác, trong đó có một ông thầy
bói có địa vị và quyền lực, tuyên bố rằng con voi giống như cái vòi
và các ông khác không được cãi (vi phạm quyền tự do ngôn luận).
Thì có lẽ các ông ấy suốt đời không biết con voi thật sự là như thế

399
Một quan điểm về Triết học

nào? Tức là các ông thầy bói sẽ không gia tăng được thêm nhận
thức của mình.

Những thứ thuộc phạm trù kiến thức, tư tưởng, bạn có thể hưởng
ứng hoặc lên án, thậm chí có thể nhạo báng khi người khác có
những ý kiến không đúng, nhưng bạn không thể dùng hình phạt để
xử lí họ, kể cả bạn nhân danh bất kì điều gì.... Mọi người được tự
do theo đuổi các niềm tin, lý tưởng, các trường phái khoa học, triết
học hay tôn giáo khác nhau, mà không một ai có quyền cấm đoán.
Chúng ta có thể không đồng ý, nhưng không thể bắt ép người khác
nghe theo chúng ta, bởi đó là quyền chính đáng của họ.

Đối với học sinh thì nhà nước có thể ra các chương trình khung
(kiến thức bắt buộc). Bởi vì các em chưa có nhận thức, chúng ta là
người từng trải hơn, chúng ta phải có nghĩa vụ định hướng cho các
em, để các em sớm được trang bị kiến thức cần thiết cho cuộc sống
sau này. Thế nhưng khi các em học xong các kiến thức đó, hoặc
đến một độ tuổi nhất định, chúng ta phải để các em tự do tìm hiểu,
theo đuổi những thứ mình thích, đó là quyền lợi của các em. Cũng
như vậy, các trường phái triết học, tôn giáo cũng không được ngăn
cấm bất cứ ai tìm hiểu và gia nhập các trường phái triết học, tôn
giáo khác.

400
Một quan điểm về Triết học

Quyền tự do ngôn luận là hệ quả của hai tiên đề.

+ 1, Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng trước nhau.

+ 2, Đã là con người không ai là hoàn hảo cả, hiểu theo


mọi khía cạnh. Mỗi người đều có điểm mạnh, điểm yếu
riêng không ai giống ai.

Từ 1, 2 dẫn đến một hệ quả là, trong một cộng đồng từng cá nhân
đều vừa phụ thuộc vừa độc lập với nhau theo từng mức độ. Tức là,
hành động của một người thì đều ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến những người còn lại trong xã hội.

Bàn luận một chút đến lập luận của Karl Marx, ông cho rằng, mâu
thuẫn là động lực phát triển xã hội, thực ra điều này không đúng.
Nếu nói đến mâu thuẫn thì nó chỉ có một trường hợp, cái này đúng
thì cái kia phải sai. Tức là A đúng thì B phải sai hoặc B đúng thì A
phải sai và hệ quả của mâu thuẫn là dẫn đến xung đột.

Ở đây ông bỏ sót một điều, mà điều đó lại quan trọng nhất, đó là
trường hợp A đúng một phần, B đúng một phần. Trong trường hợp
này, hệ quả của nó là hai bên phải bàn bạc, lắng nghe ý kiến của
nhau mới có thể dẫn đến kết quả tốt nhất. Tức là, thay vì lấy mâu
thuẫn và xung đột làm động lực phát triển, thì phải lắng nghe
những ý kiến trái chiều làm động lực cho sự phát triển. Cũng tức
là tôn trọng quyền tự do ngôn luận!

401
Một quan điểm về Triết học

2, Phân công lao động (PCLĐ)

Phân công lao động khiến cho từng cá nhân phụ thuộc vào cộng
đồng, thế mạnh của từng cá nhân sẽ được họ phát huy hết cỡ khi
có thêm thời gian để học tập, rèn luyện. Ngược lại, giao phó những
thứ không thuộc sở trường của mình cho những người khác. Phân
công lao động cũng gián tiếp thừa nhận rằng con người không ai
là hoàn hảo.

PCLĐ biến một người sống tự cấp, tự túc thành một người sống
phụ thuộc vào cộng đồng. Trong xã hội, mỗi cá nhân đều có một
chức năng riêng, không ai có thể sống tự cấp, tự túc được nữa. Vì
tất cả mọi người đều cần đến sự trợ giúp và ủng hộ của những
người khác.

“Khi một làng đã chia thành các phe nhóm, ông thợ rèn
vào phe bên này, còn ông thợ giày vào phe bên kia. Thì
một bên sẽ khổ vì không có giày, còn bên kia sẽ khổ vì
không có công cụ, vũ khí. Điều này có nghĩa là chiến tranh
triệt tiêu sự PCLĐ. Việc PCLĐ chỉ có thể xảy ra trong xã
hội mà người ta tin rằng sẽ có hòa bình kéo dài. PCLĐ chỉ
có thể phát triển khi an ninh được đảm bảo, không có điều
kiện tiên quyết như thế, quá trình PCLĐ không thể vượt
quá ranh giới một ngôi làng hay thậm chí một gia đình.
PCLĐ giữa thành thị và nông thôn, người nông dân cung
cấp lương thực cho thành thị để đổi lấy những món hàng
do người thành thị làm ra. Giả định rằng nền hòa bình
402
Một quan điểm về Triết học

được đảm bảo ít nhất trong khu vực đó. Nếu PCLĐ bao
trùm lên cả nước thì ít nhất nội chiến phải bị loại bỏ, còn
khi PCLĐ bao trùm lên thế giới thì phải đảm bảo được nền
hòa bình giữa các quốc gia.

Trích: “Chủ nghĩa tự do truyền thống”

Tác giả: Ludwig von Mises (1881-1973)

Một trong những ưu điểm lớn nhất của PCLĐ là nó dẫn đến chuyên
môn hóa, tức là mỗi cá thể tồn tại trong xã hội không thể một mình
và tự làm tất cả mọi việc được, bắt buộc họ phải hợp tác với những
người khác. Đơn giản, họ chỉ cần làm những việc mà họ cảm thấy
làm được và làm tốt, đồng thời giao những việc họ không có khả
năng hoặc làm chưa đạt yêu cầu cho những người họ tin là sẽ làm
tốt hơn họ ở lĩnh vực ấy.

Chính vì họ chỉ làm một số việc thuộc sở trường của họ trong một
xã hội đa ngành đa nghề, điều này dẫn đến chuyên môn hóa. Từ
chuyên môn hóa dẫn đến họ am hiểu sâu hơn về những việc họ
làm, điều này lại dẫn đến những cải tiến để cải thiện công việc như
làm nhanh hơn, chất lượng hơn... và cuối cùng dẫn đến gia tăng
năng suất lao động. Mà như chúng ta đã biết, gia tăng năng suất
lao động dẫn đến gia tăng thu nhập và phát triển kinh tế.

403
Một quan điểm về Triết học

Tóm lại, nền kinh tế của một nước có phát triển được hay không,
phụ thuộc rất nhiều vào việc phân công lao động trong nền kinh tế
đó có hợp lí hay không.

Hiện nay nhiều người cho rằng phi thương bất phú (không kinh
doanh thì không giàu được). Từ lối suy nghĩ này mà biết bao người
tính cách không phù hợp với công việc kinh doanh lại từ bỏ thế
mạnh vốn có của mình để tập tành buôn bán, khởi nghiệp, với hi
vọng mình sẽ giàu có, thành đạt hơn.

Thực ra, việc giàu có hay không, không phụ thuộc vào bạn làm
nghề gì, mà phụ thuộc vào việc bạn đóng góp được bao nhiêu giá
trị cho xã hội mà bạn đang sinh sống, hay khả năng thay thế bạn
bởi những thứ khác. Bạn càng đóng góp nhiều giá trị cho xã hội,
xã hội cũng sẽ trả công lại cho bạn một cách tương xứng bằng
nhiều hình thức khác nhau. Trong một ngành nghề, năng lực của
bạn càng giỏi thì bạn càng khó bị thay thế và thu nhập của bạn
cũng theo đó mà tăng lên.

Tóm lại, để trở nên giàu có thành đạt chỉ có một con đường duy
nhất, đó là trở nên có giá trị cho xã hội. Và cũng đừng cố gắng
khắc phục yếu điểm về năng lực của mình (nơi mà bạn không có
năng khiếu). Bởi nếu cố gắng khắc phục yếu điểm của mình, thì
bạn giỏi lắm sẽ trở thành người trung bình về mọi mặt. Mà trong

404
Một quan điểm về Triết học

xã hội có sự chuyên môn hóa cao như hiện nay, trung bình về mọi
mặt cũng tức là dễ bị thay thế nhất.

Vậy nên đừng cố gắng khắc phục nhược điểm, hãy chấp nhận nó,
giao nó lại cho những người giỏi hơn bạn và cố gắng phát huy thế
mạnh của mình để trở nên không thể bị thay thế.

3, Công bằng xã hội.

Công bằng xã hội có nghĩa là quyền lợi của người dân phải được
đảm bảo, ở đây có hai ý.

+ 1, Sở hữu tư nhân: Mọi công dân phải được đảm bảo tài
sản, tức là cái gì của họ thì phải là của họ và họ có toàn
quyền sử dụng nó. Việc này phải được quy định chặt chẽ
trong các văn bản của pháp luật.

+ 2, Những gì họ đóng góp cho xã hội, phải được trả công


xứng đáng về tài sản, danh dự, cũng như tạo điều kiện để
họ có thể tiếp tục cống hiến đúng với khả năng của họ.

“Cây sáo tốt nhất phải trao cho người thổi hay nhất –
Aristoteles”. Nếu cảm thấy đối tác không đáp ứng được
yêu cầu của mình, họ có thể chọn phương thức bất hợp
tác, mà không ai có thể ép buộc.

405
Một quan điểm về Triết học

Chỉ có như vậy người dân mới có thể yên tâm phấn đấu phục vụ
lợi ích cho xã hội. Một khi quyền lợi của họ không được đảm bảo,
tức là những gì họ nhận được không tương xứng với những gì họ
đóng góp cho xã hội. Điều này là không công bằng, dễ gây tâm lí
chán nản. Từ đó mất đi động lực làm việc và gián tiếp làm giảm
năng suất lao động, kết quả là làm giảm sự phát triển của xã hội.

Một người làm nhiều mà được trả ít hơn, điều đó có nghĩa là tồn
tại ít nhất một người làm ít, nhưng lại nhận được nhiều hơn những
gì họ xứng đáng. Điều này tạo nên mâu thuẫn xã hội và khi mâu
thuẫn này đủ lớn nó có thể tạo nên sự bất ổn xã hội.

Ví dụ: Bạn đi làm lương 6 triệu/tháng, thế nhưng hàng tháng có


một tổ chức cử người đại điện đến thu của bạn 3 triệu/tháng, với
hàng ngàn lí do. Nếu những lí do này là chính đáng, có giám sát,
báo cáo chi tiêu rõ ràng thì không sao. Thế nhưng bạn phát hiện ra
rằng, tất cả hoạt động mà họ nói đó chỉ cần đóng 1 triệu/tháng là
đủ. Vậy thì 2 triệu còn lại đã đi đâu? Cảm giác của bạn sẽ thế nào?

Vi phạm công bằng xã hội tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, ví dụ:
Ăn cắp, ăn cướp, bóc lột, lừa đảo, sưu cao thuế nặng, tham
nhũng,...

Vi phạm công bằng xã hội thường đi kèm với vi phạm quyền tự do


ngôn luận. Ví dụ: Những người ăn cắp cái gì đó của bạn thường
che giấu thông tin, không cho bạn biết được là họ đã ăn cắp của
bạn. Hoặc ai đó ăn cướp của bạn thì thường sẽ đe dọa không cho

406
Một quan điểm về Triết học

bạn nói với những người khác. Nếu bạn nói ra thì họ sẽ làm một
cái gì đó gây thiệt hại cho bạn. Điều này là đương nhiên, bởi vì họ
biết rõ nếu mọi chuyện bị bại lộ thì kết quả sẽ không có lợi cho họ.

Tương tự như vậy ở các dạng khác, nếu họ đánh thuế nặng lên bạn
thì họ cũng nghĩ ra một lí do hợp lí nào đó nhằm che mắt bạn,
không cho bạn biết được sự thật phía sau....

Một khi công bằng xã hội bị vi phạm, điều đó thể hiện có sự bất
ổn xã hội. Tức là có một cái gì đó bất công đang tồn tại trong xã
hội đó.

TÓM LẠI

Một đất nước phát triển là một đất nước có khả năng phân công lao
động tốt. Nhưng để có phân công lao động tốt thì phải có công
bằng xã hội để làm động lực, và tự do ngôn luận giúp cho phân
công lao động tự động điều chỉnh những chỗ chưa hợp lí và từ đó
xã hội ngày một tốt hơn.

Nền kinh tế bao cấp của Karl Marx tuy có chút phân công lao động,
nhưng cơ chế trả lương bất cập nên không thành công. Bởi vì dù
lao động nhiều hay ít thì cũng trả công bằng nhau.

407
Một quan điểm về Triết học

Chiếu theo quy tắc chi phí - lợi ích, thì ở đây lợi ích mà người lao
động được hưởng là không đổi mà chi phí thì tùy người.

Chiếu theo quy luật tối đa hóa cá nhân, thì vì lợi ích không đổi nên
người lao động tìm cách giảm chi phí đi, tức là họ sẽ tìm cách giảm
giờ làm đi. Mà khi giảm giờ làm đi thì thời gian lao động trung
bình sẽ giảm (thời gian lao động thực sự tạo ra sản phẩm, bởi vì họ
có thể bị ép buộc đi làm đủ giờ nhưng họ sẽ tìm cách ngồi chơi
không thực sự làm), dẫn đến năng suất giảm theo và hệ quả là
khủng hoảng kinh tế.

Ở đây quy luật bàn tay vô hình chạy theo chiều ngược lại. Đó là
nguyên nhân tại sao kinh tế bao cấp lại dẫn đến nghèo đói.

Có người biện minh rằng vậy tại sao, miền Bắc Việt Nam thời
chiến tranh cũng áp dụng kinh tế bao cấp mà (một số) người dân
lại lao động hăng say vậy?

Lí do cũng rất đơn giản, bởi vì họ được thôi thúc bởi một lí tưởng
cao đẹp hơn làm động lực, hi sinh tất cả nhằm mục đích đánh đuổi
quân thù, thống nhất đất nước.

Nhưng khi chiến tranh kết thúc, động lực đó không còn, mất đi
động lực thì họ lại quay về đúng bản chất của con người, và được
dẫn dắt bởi quy luật bàn tay vô hình. Và đây là lúc nhược điểm của
nền kinh tế bao cấp thể hiện rõ ràng.

408
Một quan điểm về Triết học

VĂN HÓA - GIÁO DỤC

Tôi thường tự hỏi, Việt Nam mình phải mất hàng trăm năm để đuổi
kịp các nước phát triển, điều đó có đúng?

Giả sử rằng, có một cuộc khủng hoảng kéo tất cả các nước về điểm
xuất phát, liệu Việt Nam có phát triển bằng các nước khác, hay lại
có quốc gia phát triển nhanh, quốc gia phát triển chậm.

Thực tế Hàn Quốc chỉ cần 30 năm để từ một nước nghèo nàn lạc
hậu, trở thành một nước phát triển hàng đầu khu vực, tức là chỉ cần
một thế hệ. Singapore cũng tương tự.

Và nếu giả sử toàn bộ nhân dân Nhật Bản và Việt Nam đổi lãnh
thổ cho nhau, Việt Nam sẽ được kế thừa toàn bộ cơ sở hạ tầng của
Nhật Bản, còn Nhật Bản chuyển sang một đất nước nghèo nàn lạc
hậu như chúng ta. Liệu rằng chúng ta có thể kế thừa và phát huy
cơ sở sẵn có đó, để mãi là một nước phát triển hàng đầu thế giới,
hay chỉ vài chục năm là Nhật Bản lại vượt qua chúng ta? Nên nhớ
rằng Nhật Bản cũng từng bị chiến tranh tàn phá và xây dựng lại đất
nước từ con số không sau khi hứng chịu hai quả bom nguyên tử
năm 1945, và phải đền bù chiến tranh do là phe thua cuộc.

Có một giả thuyết rằng, nếu lấy tất cả tiền của tỉ phú, rải đều cho
tất cả mọi người trên Trái Đất, thì chỉ cần 5 năm là các tỷ phú lại
có được tài sản như lúc ban đầu. Ngược lại nếu đưa một số tiền lớn

409
Một quan điểm về Triết học

cho một người nào đó (nghèo khổ), thì chỉ cần 5 năm là họ lại trở
về vị trí ban đầu (nghèo đói) của mình. Đây không phải là giả
thuyết nữa mà đã được thực tiễn chứng minh, những người may
mắn trúng xổ số thường tiêu hết số tiền trúng thưởng một cách
nhanh chóng.

Từ đây chúng ta nhận ra được vấn đề, chúng ta thua các nước phát
triển không phải là thua ở cơ sở hạ tầng, mà thua ở trí tuệ, thua ở
nhận thức xã hội. Mà đụng đến con người thì vấn đề không phải là
chúng ta mất hàng trăm năm để đuổi kịp các nước phát triển nữa,
nó kéo dài hàng nghìn năm (những bộ lạc sống tách biệt với nhân
loại là một ví dụ) hoặc có thể kéo dài vài chục năm để đuổi kịp.

Giả sử rằng, trình độ nhận thức của giới trẻ Việt Nam tương đương
với thế hệ trẻ Nhật Bản, thì khi thế hệ này lên làm chủ đất nước,
chúng ta có thể đuổi kịp Nhật Bản được không? Có lẽ chúng ta chỉ
cần một thế hệ để đuổi kịp các nước phát triển.

Vậy làm cách nào để thế hệ trẻ Việt Nam đuổi kịp các nước phát
triển? Câu trả lời nằm ở văn hóa và cách giáo dục.

Nếu nâng cao kiến thức chuyên ngành của những người trong độ
tuổi lao động, thì ngay lập tức năng suất lao động sẽ tăng lên, ngang
bằng với độ hiểu biết của họ. Nhược điểm là vì họ đang trong độ
tuổi lao động và có nhiều thứ phải lo, nên họ có rất ít thời gian để
học. Nếu họ có học thì cũng học những thứ thực dụng có thể áp
dụng vào cuộc sống được ngay.

410
Một quan điểm về Triết học

Việc học một cái gì đó hàn lâm, tuần tự, triết lí và mang tính lợi
ích lâu dài gần như không phù hợp với họ. Chưa kể họ đã bước vào
thời kì não bộ suy thoái và lâu không được học hành, dẫn đến hiệu
quả học tập là không cao. Với họ việc giáo dục phải theo một cách
khác, kiến thức phải chia thành những gói nhỏ gắn liền với lợi ích
thiết thực.

Còn với trẻ em, các em hoàn toàn có thời gian, cũng như đang ở
vào thời kì não bộ dễ tiếp thu nhất. Nếu được giáo dục sớm, bài
bản, các em hoàn toàn có thể nắm được kiến thức hàn lâm, có thể
nhận thức xã hội một cách tổng quan và sâu sắc nhất. Từ đó tạo
tiền đề vững chắc cho các em sau này gia nhập và đóng góp cho
xã hội.

Vì vậy việc giáo dục trẻ em là giáo dục kiến thức cơ bản, tổng
quan, để các em có thể phát triển toàn diện về thể xác và tâm hồn,
sau đó mới dạy về kiến thức chuyên ngành. Kiến thức chuyên
ngành là do các em tự chọn, không bị ép buộc, nó nằm ngoài kiến
thức phổ thông.

Giáo dục trẻ em phải là giáo dục sớm, tận dụng khoảng thời gian
học tập mạnh mẽ nhất của các em. Từ một số trường hợp giáo dục
sớm cho ta thấy, thực chất não bộ của chúng ta khi sinh ra đã có
khả năng học tập ở mức độ cao hơn, mà kiến thức đó chỉ có ở xã
hội trong tương lai mới có. Do xã hội hiện tại vận hành đơn giản
hơn nên khả năng học tập của đứa trẻ bị lãng phí đi và giảm xuống
bằng với sự phát triển của xã hội hiện tại.
411
Một quan điểm về Triết học

Một bằng chứng rõ ràng nhất là sự phát triển thần kì của nhân loại
trong mấy nghìn năm qua. Nếu so sánh từ thời kì trước công
nguyên với hiện tại là một khoảng cách xa vời về mặt nhận thức.

Nếu xét về mặt sinh học, thì khoảng thời gian 2000 năm không đủ
để con người về mặt não bộ lại có thể tiến hóa nhanh như thế.
Chúng ta biết rằng, cần một khoảng thời gian rất dài để tiến hóa có
thể xảy ra. Lời giải thích hợp lí hơn là những người ở thời kì cổ
xưa cũng thông minh không kém gì chúng ta bây giờ. Nhưng với
kiến thức thời kì đó không nhiều, rời rạc, điều kiện để tiếp xúc với
kiến thức thua xa bây giờ, dẫn đến họ bị giới hạn về mặt nhận thức.

Hiện tại chúng ta hiểu biết hơn họ nhưng cũng bị giới hạn về nhận
thức, trong tương lai với việc nhận thức xã hội được nâng cao hơn,
thì trẻ em trong tương lai sẽ thông minh và hiểu biết hơn chúng ta
bây giờ. Đây là chắc chắn, tiềm năng của não bộ thì gần như ngang
nhau ở mọi thời.

Ví dụ chúng ta cho một đứa trẻ sơ sinh ở trong quá khứ, giả định
là trước công nguyên, đến sống và sinh trưởng trong môi trường
hiện tại, thì đứa trẻ đó lớn lên cũng sẽ thông minh không kém gì
những đứa trẻ hiện nay. Ngược lại nếu lấy một đứa trẻ sơ sinh hiện
tại, cho sinh sống trong quá khứ, thì đứa trẻ đó khi lớn lên cũng chỉ
hiểu biết giống như những người cùng thời đó, tức là một người
hoàn toàn bình thường không có dấu hiệu gì của một người đến từ
tương lai.

412
Một quan điểm về Triết học

Cũng có nghĩa là, hiện tại chúng ta có thể giáo dục trẻ em về các
kiến thức hàn lâm bậc cao để các em có một số kiến thức tổng quan
tốt sớm. Bạn thử nghĩ xem, trong tương lai nhân loại với một lượng
kiến thức đồ sộ và sẽ còn tiếp tục tăng lên nhanh chóng, thì làm
sao một người khi đến tuổi trưởng thành có thể học hết được.

Khi các em có vốn hiểu biết sớm, thì thời gian các em có để nghiên
cứu và phục vụ xã hội trong cuộc đời các em trở nên dài hơn. Chưa
kể việc giáo dục muộn có thể dẫn đến sự tha hóa về nhân cách, lầm
lạc trong quan điểm sống, gây hại cho xã hội do thiếu nhận thức.

Con người ngoài nhận thức ra còn có độ tuổi sinh học nữa, mỗi
một tuổi con người có những nhu cầu những ham muốn khác nhau.
Khi nhận thức của con người không đủ để điều chỉnh những ham
muốn của mình, thì sẽ gây ra những hành vi có hại cho bản thân và
xã hội. Ví dụ, trái với luân lí đạo đức chẳng hạn.

Vậy tại sao phải giáo dục sớm?

Bởi vì hoạt động của não bộ là hoạt động rất tốn năng lượng. Thế
nên để tiết kiệm năng lượng, nó có xu hướng hoạt động vừa đủ để
đáp nhu cầu thường ngày của con người. Khi nó duy trì ở mức độ
này lâu dài, thì việc kích hoạt để nó trở nên hoạt động tốt hơn là
việc khá khó khăn. Thế nên bạn không cố gắng tư duy thì sẽ không
nâng cao được năng lực của não bộ.
413
Một quan điểm về Triết học

Có thể hiểu nó cũng giống như cơ bắp của con người vậy, khi bạn
luyện tập cho trí óc cũng giống như bạn luyện tập cho cơ bắp. Tức
là, khi bạn giải một bài toán khó, cũng giống như bạn mang vác
một vật nặng vậy, đều phải rất cố gắng và hao tổn nhiều năng
lượng. Nhưng khi luyện tập lâu ngày thì cơ bắp bạn sẽ phát triển,
bạn sẽ khỏe mạnh hơn, cũng tương tự như vậy, đầu óc bạn sẽ thông
minh hơn.

Tuy nhiên đối với người khỏe mạnh và người yếu ớt thì vật nặng
đối với họ là khác nhau, với người khỏe mạnh thì vác vật khoảng
50kg với họ mới là nặng, nhưng với người yếu ớt thì chỉ cần 20kg
là đã không vác nổi rồi.

Vậy thì câu nói “con người mới chỉ tận dụng được 10% não bộ”
có đúng không? Không ai biết. Nó cũng giống như con người mới
chỉ sử dụng được 10% cơ bắp của mình, không ai biết. Chỉ có điều,
nếu không chăm chỉ luyện tập cho trí óc của mình, bạn sẽ không
biết đâu là điểm cực hạn của nó.

414
Một quan điểm về Triết học

Giải thích: Vì sao đứa trẻ ngày nhỏ học nhanh hơn và càng
ngày chúng học càng kém đi.

Khi em bé mới sinh ra, các sợi dẫn truyền thần kinh trong não
bộ em bé phân bố đều như nhau. Não em bé cũng có khả năng
hình thành các sợi thần kinh nhanh để củng cố và tăng tốc độ
truyền thông tin.

Những thông tin em bé tiếp xúc mang tính lặp lại nhiều sẽ
được củng cố, trong khi có những phần của não bộ không
được tiếp xúc với thông tin sẽ dẫn tới chỗ đó các sợi liên kết
thần kinh bị thoái hóa, và rất khó khôi phục. Các thông tin
sau này sẽ chạy trên những đường dẫn truyền thần kinh có
sẵn (được hình thành khi còn bé). Vậy nên rất khó để tạo nên
sự dẫn truyền thần kinh mới và dẫn đến rất khó học tập những
thứ mới.

Đây là cơ chế hoạt động khá hay của hệ thần kinh, nó giúp
cho não bộ đỡ tốn năng lượng và tập trung năng lượng cho
những hoạt động hiệu quả hơn. Thế nhưng nhược điểm là việc
học sau này sẽ rất khó khăn, đây chính là lí do vì sao phải
hướng cho các em học tập hiệu quả càng sớm càng tốt.

415
Một quan điểm về Triết học

Việc giáo dục sớm không phải là bắt các em học hành một cách
cực khổ hay nhồi nhét kiến thức vào đầu các em. Mà thông qua
việc tiếp xúc với trẻ, chúng ta lồng ghép kiến thức vào, hoặc đặt ra
những câu hỏi để các em tự tìm hiểu nếu các em lớn hơn. Tức là
chúng ta dạy các em nhưng bằng một cách tự nhiên nhất có thể, cụ
thể việc học thông qua việc cho các em chơi. Kiến thức cập nhật
cho các em ít một nhưng đều đặn, tránh việc để cho các em chơi
cả ngày, sau đó lại dạy tập trung dạy ồ ạt trong vài giờ.

Có những nơi, việc giáo dục sớm thường bắt đầu từ khi các em còn
trong bụng mẹ. (Về chi tiết của giáo dục sớm thì mọi người phải
tự tìm hiểu). Song song với việc bổ sung kiến thức, chúng ta còn
phải định hình nhân cách cho các em.

Trẻ em thường có xu hướng bắt chước thái độ, cách suy nghĩ của
những người các em hay tiếp xúc, cụ thể là những người thân xung
quanh, nhất là bố mẹ. Vì vậy để các em là người tốt thì bố mẹ phải
là người tốt.

Bạn không thể nào dạy con thật thà khi bạn nói dối người khác
trước mặt nó. Bạn không thể nào dạy con cách tự chịu trách nhiệm,
khi bạn có thói quen đổ lỗi cho người khác. Bạn cũng không thể
nào nói với con về ý nghĩa của việc học, khi tối đến bạn quát con
đi học trong khi bạn nằm dài xem tivi. Bạn cũng không thể nào bắt
con tôn trọng những người xung quanh khi bạn không tôn trọng
chính đứa con của mình.

416
Một quan điểm về Triết học

Tóm lại việc giáo dục nhân cách của đứa trẻ phụ thuộc rất lớn vào
nhân cách của bố mẹ, và văn hóa nơi mà đứa trẻ lớn lên.

Câu “hổ phụ sinh hổ tử” hay câu “con nhà nòi” ý của câu này là,
do bố mẹ là chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó, và hay nói
chuyện công việc khi ở nhà, vô tình đứa trẻ nghe được những câu
chuyện đó.

Và như chúng ta đã biết, trẻ em có khả năng học tập rất nhanh
(càng nhỏ học càng nhanh). Từ việc nghe được những câu chuyện
đó, chúng tích lũy kiến thức dần dần, và bộc lộ tiềm năng từ rất
sớm theo chuyên ngành của bố mẹ nó. Đây là một ví dụ điển hình
của việc giáo dục sớm.

Trẻ em có thể chưa hiểu được những thuật ngữ phức tạp, nhưng
chúng lại nhớ rất lâu những thuật ngữ đó. Khi những mảnh ghép
nhỏ từ từ lắp ráp lại với nhau, đến một ngày, chúng có thể thấy
được bức tranh tổng quát. Và điều cuối cùng quyết định sự thành
công hay thất bại của việc giáo dục trẻ, đó là làm cho đứa trẻ có ý
thức trong học tập hay khả năng tự học.

Chúng phải hiểu rằng, việc học là việc kéo dài trong suốt cả
đời người, chứ không phải chỉ kéo dài trong những năm tháng
tuổi trẻ.

Khi đứa trẻ bắt đầu biết đến tác dụng của tiền, và chúng muốn có
tiền để mua đồ vặt, thì phải cho đứa trẻ biết rằng “tiền không tự
nhiên mà có”. Đứa trẻ muốn có tiền thì cần phải lao động hữu ích.

417
Một quan điểm về Triết học

Ví dụ: giúp việc nhà. Và càng giúp được nhiều việc thì đứa trẻ càng
được nhiều tiền, tương xứng với lợi ích mà đứa trẻ mang lại.

Khi đứa trẻ lớn hơn thì khuyến khích bé tìm xem bản thân có thể
giúp ích được gì, và muốn thù lao bao nhiêu. Như vậy đứa trẻ sẽ
học được cách “đề xuất” và “mặc cả” hình thành nên kĩ năng “đàm
phán” cho trẻ. Hơn nữa bạn trẻ sẽ không nhận được khoản tiền tiêu
cố định, trừ khi tìm được ra cơ hội để kiếm tiền, từ đó trẻ sẽ năng
động hơn.

Khuyến khích trẻ đọc sách bằng cách, khi trẻ đọc được một cuốn
sách do bố mẹ lựa chọn, ghi nội dung quyển sách ra giấy và được
thưởng tiền. Việc này giúp trẻ tăng vốn kiến thức trong cuộc sống
cho mình và hình thành nên thói quen đọc sách cho trẻ.

Bạn cũng có thể dạy con tập kinh doanh, ở miền quê có thể lựa
chọn nuôi gà. Giao cho đứa trẻ một con gà để chúng nuôi, sau khi
lớn lên bán lấy tiền. Dùng một phần tiền đó để mua vài con gà nhỏ
và tiếp tục nuôi, và từ từ nhân giống đàn gà lên.

Điều quan trọng là, sau một thời gian phải cho chúng thấy việc này
kiếm ra tiền. Được cầm tiền thật và dạy cho chúng quản lí số tiền
đó và cách làm sao để ra nhiều tiền hơn nữa. Đây là cách thiết thực
nhất để dạy trẻ cách quản lí tài chính.

Khi trẻ muốn kinh doanh, hãy gợi ý cho trẻ là, bố mẹ sẽ đầu tư cho
dự án của con (tiền, cố vấn, nhân lực), nếu như con có thể thuyết
phục bố mẹ là dự án đó sinh lời. Khi thấy con cất giữ tiền, hãy gợi

418
Một quan điểm về Triết học

ý rằng, nếu con cho bố mẹ vay thì bố mẹ sẽ trả lãi (có hợp đồng).
Và dạy cho trẻ biết, đồng tiền để yên là đồng tiền chết, hãy bắt nó
liên tục lưu thông, tức là bắt đầu dạy con về kiến thức cơ bản của
kinh tế học.

Một số lưu ý quan trọng:

1) Đồ của con là của con, không được tùy tiện đụng vào, tiền
của con là của con, tức là cần phải rõ ràng.
Nếu vi phạm, bố mẹ đã không tôn trọng con, như đã nói,
thì đừng bao giờ bắt nó tôn trọng người khác, khi người
lớn không tôn trọng nó. Khi đó sự tôn trọng của đứa trẻ
dành cho bố mẹ nó sẽ biến mất và quá trình dạy dỗ nó sau
này sẽ rất khó khăn.
Nếu sợ con làm mất tiền hay tiêu pha linh tinh, hãy dạy nó
cách bảo quản và tiêu pha hợp lí, yên tâm là tiền do chính
nó làm ra nó sẽ rất trân trọng.
2) Cho trẻ em nuôi một loại động vật nào đó, để cho xuất
hiện mối liên kết giữa đứa bé và loài động vật đó. Từ đó
xuất hiện cảm giác yêu thương các loài vật, cũng như tôn
trọng tự nhiên, nơi đứa bé sống.
Loài vật nuôi tốt nhất là chó, bởi vì chó rất thông minh, có
khả năng thể hiện tình cảm với chủ. Tuyệt đối không bán
hoặc giết con vật mà đứa bé nhận nuôi, bởi vì sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến cảm xúc của đứa trẻ.

419
Một quan điểm về Triết học

3) Người Việt Nam ta có thói quen nuông chiều con cháu


một cách quá đáng, việc này sẽ dẫn đến nhận thức sai lệch
và hình thành nhân cách sai trái cho trẻ.
Ví dụ: Khi đứa trẻ nô đùa và vấp phải vật gì đó và ngã
khóc, thì ông bà bố mẹ thường vì dỗ dành đứa bé, sẽ giả
vờ đánh vào vật nó vấp phải, làm như lỗi là của vật đó chứ
không phải là của đứa bé.
Việc này về sau sẽ dẫn đến thói quen đổ lỗi cho người
khác mỗi khi nó làm sai, và bạn đã gián tiếp tạo thành nhân
cách xấu cho trẻ. Cách tốt nhất trong trường hợp này là
hãy phân tích đúng sai cho đứa bé, để nó biết nhận lỗi, lần
sau sẽ cẩn thận hơn.
Một ví dụ nữa: Để đứa trẻ làm theo ý mình, ông bà bố mẹ
thường viện một lí do nào đó không chính đáng.
Ví dụ: Để đứa trẻ ăn, bố mẹ thường lấy lí do nếu không ăn
thì sẽ bị ngáo ộp bắt, hay chú nọ chú kia đánh, việc này
tuy có hiệu quả lúc ấy nhưng về lâu dài, đứa trẻ sẽ nhận ra
đây là một lời nói dối.
Tức là bạn đang dạy chính con bạn học cách nói dối, mà
sau này, chính nó sẽ áp dụng với bạn chứ không phải ai
khác. Đừng bao giờ làm điều ngớ ngẩn như vậy!
4) Lời khuyên về nuôi dạy con cái: Nếu được, gia đình nên
tập trung vào nuôi dạy con cái.
Việc cả hai vợ chồng lao đầu đi làm thì chỉ sướng thân
hiện giờ, nhưng mất về con cái, sẽ khổ về già.
420
Một quan điểm về Triết học

Thực ra là mất cả chì lẫn chài, bởi vì khi con cái không
được dạy dỗ tử tế trở thành một người hư hỏng, thì nó sẽ
mang của cải mà bạn kiếm được đi tiêu xài hết. Vậy là bạn
trắng tay, mất cả con lẫn tiền.
Quan trọng hơn là bạn khi đó đã không còn trẻ nữa. Việc
cứu vãn tình hình lúc đó là bất khả thi, và bạn sẽ sống nửa
đời còn lại trong cô độc và nghèo khổ. Như vậy việc dành
thời gian dạy dỗ con cái, về mặt kinh tế, chính là một
khoản đầu tư về lâu dài.
Đương nhiên cũng phải kiếm tiền để duy trì cuộc sống gia
đình ở mức chấp nhận được, bởi nếu gia đình không tồn
tại nữa thì mọi dự định ở tương lai cũng đều vô nghĩa.
5) Nếu để một thói quen xấu tồn tại lâu khi còn nhỏ thì sẽ
không thể sửa chữa được nữa. Bởi nó đã đi vào tiềm thức,
nó vẫn chạy ngầm trong não của đứa trẻ, kể cả khi bên
ngoài nó không biểu hiện gì. Chỉ cần có điều kiện là nó sẽ
quay lại.
Ví dụ nghiện chơi bài hay đề, chỉ cần để lâu là không thể
sửa chữa tính này, mặc dù biết nó sai. Vì vậy rèn luyện
tính cách cho trẻ nhỏ là việc rất quan trọng.
Giáo dục cấp 3:

Giáo dục cấp 3 cần dạy triết học và và những môn phụ trợ nó. Bỏ
bớt những công thức tính toán nặng nề không cần thiết, chủ yếu

421
Một quan điểm về Triết học

nặng tính lý thuyết. Ví dụ: Tại sao phải học cái này?... Giúp học
sinh nắm được cái gốc của bộ môn đó.

Các môn nên thêm ở giáo dục cấp 3 là:

- Tổng quan triết học: Dạy cho các em học sinh cách mà các triết
gia tìm hiểu và lí giải bản chất của vũ trụ, ý nghĩa của cuộc sống.

- Khoa học chính trị: Dạy cho các em biết rõ đâu là quyền lợi và
đâu là nghĩa vụ của mình, thể chế nhà nước như thế nào sẽ bảo
đảm công bằng cho các em?

- Tổng quan kinh tế học: Mục tiêu là giúp các em hiểu nền kinh
tế đang vận hành như thế nào.

- Sinh lý học thần kinh cấp cao và trí tuệ nhân tạo: Làm thế nào
mà từ những quy tắc vật lí cơ bản, não bộ có thể tạo nên nhận thức?

- Tìm hiểu về cảm xúc của con người (tâm lí học): Cảm xúc
chúng ta đang mang từ đâu mà ra?

- Giáo dục công dân: Nên giảm bớt những luật lệ chưa cần thiết,
mà thay vào đó nên nghiên cứu những nhà tư tưởng lớn của nhân
loại, thông qua đó rút ra được những chuẩn mực đạo đức và bài
học thường ngày cho các em.

- Toán học nên bỏ bớt những phần cao cấp như vi, tích phân, lượng
giác cao cấp, hàm phức, … Những phần này chỉ nên mang tính
chất giới thiệu cho học sinh biết.

422
Một quan điểm về Triết học

- Vật lí cũng nên bỏ bớt bài tập áp dụng, công thức tính toán, mà
thay vào đó là các mô tả thí nghiệm, cách mà các nhà khoa học suy
luận và đưa đến kết luận theo mạch thời gian từ quá khứ đến hiện
đại một cách thống nhất, tổng quan và logic.

- Môn lịch sử nên bỏ hẳn kiểu dạy học bắt các em nhớ chính xác
khung thời gian xảy ra sự kiện.

Thay vào đó, nên giải thích là tại sao trong tình huống đó người ta
lại quyết định như vậy. Những quyết định ấy đúng chỗ nào, sai chỗ
nào, dẫn đến hệ quả gì, rút ra được bài học gì cho mình. Và nếu
đặt các em trong tình huống đó, liệu các em có làm tốt hơn không.

Việc giáo dục cấp 3 chú trọng đến khai phóng trí tuệ, giải phóng
tư tưởng của bản thân khỏi những định kiến tư duy cũ kỹ. Tự bản
thân chúng ta cũng có những lí lẽ của riêng mình, không phải cứ
người có uy tín trong ngành, hay vì tôn trọng họ, mà họ nói gì mình
cũng nghe theo.

Khi Einstein nghe nói có trên 100 nhà khoa học phản đối thuyết
tương đối của mình, ông đã nói một câu nổi tiếng “cần gì phải 100,
nếu chứng minh được lí thuyết của tôi sai, thì chỉ cần một người
cũng đủ”.

Câu nói trên vô tình đã thể hiện trí tuệ khai phóng của ông, “quan
trọng là lập luận của người nói có phù hợp với logic hay không,
chứ nó không phụ thuộc vào ai nói hay bao nhiêu người nói”.

423
Một quan điểm về Triết học

Một khi trí tuệ khai phóng được phổ quát, thì rất nhiều hệ tư tưởng,
tôn giáo sẽ được đem ra mổ xẻ. Bởi vì người ta không còn sợ những
ý kiến cá nhân của họ sẽ bị cộng đồng theo tư tưởng, tôn giáo đó
tẩy chay nữa.

Nói đúng hơn, một quá trình xét lại toàn diện các hệ tư tưởng, văn
hóa, tôn giáo, … đang tồn tại trong đất nước, loại bỏ đi những luận
điểm sai trái vẫn còn cố hữu trong các hệ tư tưởng, sẽ tạo điều kiện
cho đất nước phát triển.

Một dân tộc có trí tuệ khai phóng, thì dân tộc đó sẽ không ngừng
học tập và sáng tạo ra những điều mới mẻ. Bởi trí tuệ khai phóng
cũng phá bỏ tư duy theo lối mòn, khuyến khích sự mạnh dạn tìm
hiểu và áp dụng những điều mới mẻ trong công việc và cuộc sống.
Họ hiểu, những thất bại là một phần tất yếu trong công cuộc tìm
tòi thử nghiệm những cách khác nhau trong giải quyết vấn đề. Vậy
nên họ dễ dàng thông cảm cho những thất bại của người khác, và
động viên người đó tiếp tục cố gắng, chứ không phải chê bai làm
người đó mất dần động lực phấn đấu.

Có thể nói không ngoa, “trí tuệ khai phóng” chính là hình thái văn
hóa cuối cùng của xã hội. Giáo dục phổ thông phải lấy giáo dục
khai phóng làm trọng điểm, một em học sinh tốt nghiệp cấp 3 phải
có trí tuệ khai phóng, chứ không phải giáo dục nhồi sọ - khuôn khổ
- áp đặt, có như vậy mới mong đất nước phát triển bền vững.

424
Một quan điểm về Triết học

Ngày nay, khi vấn đề nhân quyền được thế giới công nhận, con
người được tự do hành động và suy nghĩ, thì liệu con người đã thật
sự hết sự trói buộc?

Sự trói buộc ngày nay là những gì bạn nghĩ và tin một cách mù
quáng. Hay nói đúng hơn là sự trói buộc trong tâm trí của bạn.

Nếu thấy quy định hay hệ tư tưởng nào không hợp lý, thì bạn có
thể mạnh dạn không tin theo, kể cả khi chỉ có một mình.

Đó là tự do tư tưởng. Bởi lẽ nghi ngờ mọi thứ cũng là một trong


những quyền tự do của con người.

- Trong một xã hội toàn người đi khom, thì người đi thẳng sẽ là


người dị dạng.

Tôi cho rằng mọi dân tộc đều tài năng như nhau, nhưng do giáo
dục và văn hóa (lối sống hàng ngày) khiến cho mỗi dân tộc lại có
một cách phản ứng khác nhau cho cùng một sự vật hiện tượng.
Điều đó khiến cho mỗi dân tộc lại có một mức phát triển khác nhau.

Ví dụ: Người Hoa thường kinh doanh giỏi hơn người Việt.

Tôi tin rằng, lí do là môi trường văn hóa được lưu truyền trong gia
đình, cộng đồng mà họ sinh sống đã hình thành nên cách nhìn nhận
425
Một quan điểm về Triết học

sự việc và tính cách của họ, giúp họ có tiền đề vững chắc hơn người
Việt trong lĩnh vực kinh doanh.

Nhưng thứ văn hóa được lưu truyền đó là gì? Hay một môi trường
sinh hoạt chung trong gia đình và xã hội, kết hợp với cách giáo dục
như thế nào, để tạo ra những cá nhân xuất sắc hơn những cá nhân
sống trong những môi trường khác. Trong phạm vi rộng lớn hơn,
thì đó là những dân tộc xuất chúng.

Chắc chắn, những dân tộc xuất chúng đều có những tính cách ưu
tú như: Đoàn kết, chính trực, cần cù, ham học hỏi… Thế nhưng
từng đó là chưa đủ, tôi cho rằng cần có thêm một điều kiện nữa.
Đó là hàm lượng kiến thức thẩm thấu một cách tự nhiên hàng ngày
của họ cao hơn những dân tộc khác.

Kiến thức có thể được thẩm thấu một cách tự nhiên qua câu chuyện
mà họ trao đổi hàng ngày mỗi lúc rảnh rỗi. Tức là người ta không
thích nói những câu chuyện mang tính chất xã giao, vô căn cứ hoặc
vô thưởng vô phạt. Thay vào đó họ thích nói những chuyện có lập
luận dẫn chứng cụ thể và mang một ích lợi rõ ràng, họ tôn trọng tri
thức và đặt nó cao hơn các giá trị khác…

Chỉ có kiến thức và kỹ năng được thẩm thấu một cách tự nhiên
hàng ngày lâu dần tích tụ thành một lượng kỹ năng, kiến thức lớn
(không tính kiến thức mà họ chủ động học), mới tạo nên những
dân tộc ưu tú hơn những dân tộc khác. Đó là văn hóa của những
dân tộc xuất chúng.

426
Một quan điểm về Triết học

CHÍNH SÁCH

Một mô hình thể chế hoặc chính sách luôn chạy song song hai hình
thức sau:

+ 1, Bổ đều lên từng cá nhân, với ý niệm con người sinh


ra vốn dĩ bình đẳng, không ai được tự nhiên ưu tiên lợi ích
hơn ai. Nên mọi thứ phải công bằng.

+ 2, Ưu tiên những người có điều kiện kém hơn, bởi với


những người có điều kiện kém thì giúp đỡ họ một chút
cũng có ý nghĩa rất lớn, dựa trên quy luật lợi suất giảm
dần trong kinh tế.

Một phần tài sản chia theo năng lực, những người có điều kiện phải
có nghĩa vụ giúp đỡ người ít có điều kiện hơn. (Một phần giúp đỡ
là tùy tâm, một phần là bắt buộc theo pháp luật, giả dụ là thuế).

Bởi vì

Thứ 1: Tài năng của một người, ngoài nỗ lực của họ ra, một phần
là do tính ngẫu nhiên họ được hưởng. Ai sinh ra cũng muốn thông

427
Một quan điểm về Triết học

minh xinh đẹp, không ai muốn mình sinh ra xấu xí ngốc nghếch
cả, nhưng họ không chủ động được điều đó.

Thứ 2: Cá nhân trong xã hội tuy độc lập, nhưng ngược lại cũng có
sự ràng buộc nhất định với nhau. Một người không thể làm giàu
được nếu không nhờ xã hội, nhờ những người khác, kể cả những
người đã khuất khi họ để lại kiến thức, kinh nghiệm cho họ. Từ
nền tảng đó, họ phát triển đến bây giờ, vậy nên họ phải có nghĩa
vụ với xã hội.

Thứ 3: Một người có thể giàu có nhờ xã hội ưa chuộng nghề mà


họ có lợi thế, ví dụ: diễn viên, ca sĩ. Còn những người khác, không
may tài năng của họ lại không được xã hội ưa chuộng, nên họ
nghèo khó. Như vậy nghèo khó không hoàn toàn là lỗi của họ.

Tuy nhiên khi thực hiện phân phối thu nhập từ người giàu sang
người nghèo, cần lưu ý phân phối vừa phải, nếu không sẽ giảm
động lực làm việc (cống hiến) của những người tài năng. Như vậy,
vô hình chung lại khiến xã hội chậm phát triển, tức là phản tác
dụng.

Tùy từng trường hợp mà ưu tiên hình thức 1 hay 2 để tạo động lực
phát triển xã hội.

428
Một quan điểm về Triết học

Các chính sách của nhà nước nên làm:

+ 1, Việc đầu tiên là phải hoàn toàn tuân thủ các quy tắc của Liên
Hiệp Quốc đề ra, nhất là về vấn đề nhân quyền.

+ 2, Tuân thủ nền kinh tế thị trường, tức là nhà nước không tham
gia vào công việc kinh doanh (chỉ có công ty của tư nhân, không
có công ty nào của nhà nước cả). Thoái vốn toàn bộ các công ty có
vốn đầu tư nhà nước. Các lãnh đạo công ty đó có hai lựa chọn:

1, Rời bỏ công ty để về nhà nước làm

2, Rút lui khỏi nhà nước và toàn tâm toàn ý cho công việc
kinh doanh của mình.

Nếu chính phủ cần tiền để đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển đất nước,
thì nên ưu tiên vay nợ người dân trong nước, tránh vay nợ nước
ngoài, để tránh những ràng buộc gây tổn hại cho đất nước.

+ 3, Tạo điều kiện, khuyến khích cho các công ty nước ngoài kinh
doanh tại Việt Nam, nhưng phải tuân theo ba điều kiện sau.

1, Công ty nước ngoài phải đảm bảo thuê 90% nhân sự là


công dân Việt Nam.

429
Một quan điểm về Triết học

2, Công ty nước ngoài phải trả lương cho công nhân Việt
Nam ít nhất với mức lương tối thiểu theo quy định của nhà
nước.

3, Công ty nước ngoài phải tuân thủ các quy định về bảo vệ
môi trường do nhà nước quy định, nếu vi phạm sẽ bị xử phạt
rất nặng.

Nông nghiệp: Một trong những vấn đề lớn hiện nay, đó là phần
đa ruộng đồng của người dân khá là nhỏ lẻ, vậy nên rất khó để quy
hoạch nâng cao chất lượng nông sản.

Cách tốt nhất là Việt Nam nên mở rộng của thu hút đầu tư công
nghiệp, dịch vụ nước ngoài tạo công ăn việc làm cho người dân.
Khi thu nhập công nhân tăng cao hơn thu nhập nông nghiệp thì
người dân sẽ từ bỏ ruộng đồng đi làm công nhân. Tạo điều kiện
cho việc dồn điền đổi thửa thâm canh nông nghiệp.

Chú ý trong khi thu hút đầu tư nước ngoài, đó là không thu hút
đầu tư từ các nước độc tài, bởi rất khó quản lí họ.

+ 4, Về quân đội, phải thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” để
giảm thiểu chi phí cho nhà nước, bởi đây là một chi phí rất lớn.

Trong trường hợp đất nước rơi vào tình trạng nghèo nàn lạc hậu,
cần tập trung phát triển kinh tế, Việt Nam có thể cho quân đội một
số nước hiện diện ở Việt Nam dưới dạng hợp tác quân sự, để giảm

430
Một quan điểm về Triết học

chi phí cho quân đội một cách tối đa, mà vẫn đảm bảo được vấn đề
lãnh thổ.

Nên nhớ đây là việc “chọn mặt gửi vàng” nên phải hết sức thận
trọng. Chọn sai sẽ để lại hệ lụy cho bao thế hệ tương lai. Việc chọn
quốc gia để cho quân đội của họ hiện diện thay thế một phần quân
đội Việt Nam cần phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:

1, Nước hợp tác quân sự với Việt Nam phải là nước yêu
chuộng hòa bình, dân chủ. Thể chế nước đó phải là thể
chế dân chủ, trong sạch vững mạnh.

2, Họ phải không có chung biên giới với Việt Nam, dù là


đất liền hay biển đảo. Đây là quy tắc tối quan trọng để
tránh việc họ lợi dụng quân sự để xâm lấn lãnh thổ Việt
Nam.

+ 5, Mặc dù nghèo nhưng Việt Nam vẫn phải thuê một số chuyên
gia cấp cao nước ngoài, để cố vấn cho lãnh đạo Việt Nam, tránh
các quyết định gây thiệt hại nghiêm trọng cho đất nước về lâu dài,
đặc biệt trong các lĩnh vực sau:

1, Kinh tế

2, Quy hoạch - đô thị

3, Khoa học giáo dục

431
Một quan điểm về Triết học

+ 6, Việc thu thuế: Nhà nước sẽ chia thành hai loại thuế khác nhau

1, Thuế sẽ áp dụng lên bình quân đầu người. Đã là công


dân của một nước thì phải đóng thuế, và đóng thuế theo tỷ
lệ như nhau bất kể giàu nghèo hay địa vị xã hội. Để đảm
bảo tính công bằng cho mọi người.

2, Thuế áp dụng lên hàng hóa, hàng hóa càng xa xỉ càng


đánh thuế cao, mục đích áp thuế này là lên những người
giàu, với ý nghĩa, những người giàu phải chia sẻ một phần
gánh nặng với nhà nước, để giảm tải thuế cho người nghèo.
Thuế hàng hóa sẽ đánh thấp hoặc không đánh với những
mặt hàng được cho là thiết yếu với cuộc sống.

=> Có một đạo luật nếu ai vi phạm thì phải phạt bằng lao
động, áp dụng lên tất cả mọi người cho dù địa vị của họ
như thế nào. Đạo luật này cực kì hữu hiệu trong vấn đề
bảo vệ môi trường.

+ 7, Vấn đề hàng giả:

Nguyên nhân chính của vấn đề hàng giả là sự lỏng lẻo trong việc
kiểm định chất lượng các mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào,
đặc biệt là Trung Quốc; và sự quan liêu trong công tác quản lý thị
trường. Cán bộ thị trường chỉ cần đút tiền là để mặc cho dân muốn
làm gì thì làm.

432
Một quan điểm về Triết học

Hàng giả, hàng nhái tuy chất lượng thấp nhưng mẫu mã đẹp, giá
rẻ. Đặc biệt là nó trà trộn vào những sản phẩm chất lượng khác,
làm người tiêu dùng không thể nào phân biệt được đâu là thật, đâu
là giả. Chính giá rẻ, và khó phân biệt đã làm cho những người kinh
doanh có lương tâm không thể cạnh tranh nổi, khi chi phí họ làm
ra sản phẩm còn cao hơn giá sản phẩm đó ngoài thị trường.

Vì vậy để kiểm soát vấn đề hàng giả, thì phải kiểm soát nghiêm
ngặt hai nguyên nhân kể trên, phạt thật nặng những người vi phạm.
Làm vậy tuy lúc đầu có thể làm cho giá cả hàng hóa leo thang, do
khan hiếm hàng hóa, nhưng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có
lương tâm phát triển rất nhanh và sẽ lấy lại cân bằng. Và người dân
sẽ được sử dụng những sản phẩm chất lượng để đảm bảo sức khỏe
của họ.

+ 8, Giáo dục

Trong thể chế dân chủ, giáo dục người dân luôn được ưu tiên quan
trọng. Người dân được khuyến khích tranh luận, yêu cầu làm sáng
tỏ bất cứ vấn đề nào mà họ muốn không bị giới hạn. Bởi vì quyết
định của đất nước là quyết định của số đông dân chúng, vậy nên
khi nhận thức của số động dân chúng tăng lên thì những quyết định
của số đông mới tránh được những sai lầm.

433
Một quan điểm về Triết học

Còn trong chế độ độc tài, thứ mà lãnh đạo cần là người dân ngoan
ngoãn làm theo những gì họ muốn, vậy nên giáo dục trong chế độ
độc tài là giáo dục nhồi sọ, định hướng.

Trước mắt, hãy bê nguyên sách giáo khoa và chương trình học của
các nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới như Singapore, Israel, …
để tiết kiệm chi phí nghiên cứu. Sau đó sẽ chỉnh sửa dần trong quá
trình giáo dục cho phù hợp với con người Việt Nam.

Con người không phải là robot, chúng ta không thể cài dữ liệu vào
đầu được, mà phải học hỏi từ từ với nhận thức ban đầu là con số
434
Một quan điểm về Triết học

không. Vậy nên nhận thức của công dân phụ thuộc vào nền giáo
dục, giáo dục càng tốt thì càng tạo ra những công dân ưu tú. Có
nghĩa là, chúng ta phải không ngừng nghiên cứu cải tiến chất lượng
nền giáo dục mới có thể thúc đẩy văn hóa, con người Việt Nam
tiến lên được.

- Trong tương lai tiếng Anh và công nghệ thông tin


(CNTT) là hai môn cực kì quan trọng.

Trong khi nước ta là một nước nông nghiệp còn chưa phát
triển được công nghiệp, thì một số nước trên thế giới đã
tiến đến nền kinh tế sáng tạo (nông nghiệp - công nghiệp
- dịch vụ - sáng tạo). Để đuổi kịp các nước phát triển,
chúng ta phải chú trọng hai môn này bên cạnh ba môn
toán, văn, triết.

Tức là chúng ta có năm môn quan trọng (toán, văn, triết,


tiếng Anh, CNTT)

- Nếu tiếng Anh đóng vai trò như chiếc chìa khóa mở ra
cánh cổng tri thức của nhân loại, thì CNTT giúp xóa nhòa
khoảng cách về địa lí. Bạn ngồi ở Việt Nam, nhưng bạn
có thể kinh doanh bên Mỹ được. Chưa nói tới trí tuệ nhân
tạo được xem như nguồn năng lượng thứ ba sau dầu mỏ
và điện.

435
Một quan điểm về Triết học

Tiếng Anh kết hợp với CNTT mới có thể giúp cho Việt Nam
hòa nhập với thế giới, không bị nằm ngoài dòng chảy của
văn minh nhân loại.

Một ví dụ của lợi ích mà CNTT mang lại là:

Lập một website về giáo dục với việc mời những giáo viên
có chuyên môn cao nhất, để quay video giảng bài về các
môn mà học sinh đang học trên ghế nhà trường, sau đó up
lên web để các em có thể vào xem.

Bằng cách này giúp cho học sinh đỡ bị phụ thuộc vào các
giáo viên đang giảng dạy trực tiếp các em trên ghế nhà
trường. Nếu không may gặp phải thầy cô giáo có chuyên
môn không cao hoặc không có tâm với nghề, hoặc khoảng
cách từ nhà tới trường xa ..v..v.. Đây cũng là cách để giảm
gánh nặng cho các giáo viên trên trường.

Khi lý thuyết đã có các trang web lo, các giáo viên chuyển
sang nhiệm vụ khác đó là quan sát và hỗ trợ cho các em,
nếu có chỗ nào các em không hiểu.

Chúng ta cũng sẽ up video về các bài giảng chương trình


đại học, để nếu như có những người không có cơ hội đi
học, hoặc muốn tìm hiểu thêm, thì có thể vào học tập. Lúc
đó nền kinh tế sẽ giảm nhẹ những áp lực về bằng cấp, mà
sẽ chú trọng năng lực và tay nghề. Một điều nữa, nó tiết
436
Một quan điểm về Triết học

kiệm chi phí giảng dạy khi chỉ cần một người giảng, sau
đó up video lên web là cả nước có thể học tập.

Chúng ta cũng có thể mở rộng chức năng của trang web


ra, bằng cách cho phép các giáo viên tự quay và up các
video với nội dung mang tính giáo dục cao, ví dụ như kỹ
năng mềm. Sau đó trả tiền cho giáo viên dựa trên số lượt
xem và thang điểm của các em học sinh chấm cho họ, để
tạo sự cạnh tranh giữa các giáo viên nhằm giúp cho chất
lượng video ngày càng tốt hơn. Người được hưởng lợi ở
đây là các em học sinh và cũng là đất nước Việt Nam trong
tương lai.

Đây chỉ là một ví dụ nhỏ cho thấy các lợi ích của CNTT,
để nói rằng CNTT phải là một môn bắt buộc và chú trọng
trong giáo dục phổ thông.

+ 9, Chính sách thu hút nhân tài.

Người tài phải được trọng dụng. Ngoài việc phải tạo điều kiện tốt
nhất cho nhân tài làm việc ra, còn phải có chính sách trả công cũng
như vinh danh họ một cách xứng đáng với những gì họ đóng góp
cho xã hội. Như Atrislote đã nói “cây sáo tốt nhất, phải trao cho
người thổi hay nhất”.

Ngoài chính sách thu hút nhân tài ra, thì có một việc còn quan trọng
hơn nhiều, đó là chính sách phát hiện và bồi dưỡng nhân tài từ sớm.
437
Một quan điểm về Triết học

Những đứa trẻ bộc lộ tài năng sớm phải được giáo dục một cách
hợp lí, nếu không tài năng sẽ bị mai một. Ngoài ra khi các em học
sinh học xong lớp 12, trong hồ sơ thi đại học của các em có phần
nguyện vọng đặc biệt. Khi có kết quả thi đại học đủ cao thì các em
sẽ trúng tuyển vào nguyện vọng đặc biệt này. Tất cả những em
trúng tuyển sẽ được quy tụ vào một trường đại học tốt nhất cả nước.
Trường này sẽ được trang bị cơ sở vật chất tốt nhất cũng như đội
ngũ giảng viên tốt nhất. Sinh viên trúng tuyển vào trường này sẽ
được hỗ trợ toàn bộ học phí cũng như chi phí sinh hoạt.

Đổi lại, sinh viên phải học tập trong môi trường khắc nghiệt, toàn
bộ phải ở kí túc xá nhà trường, lịch ăn học ngủ nghỉ phải theo quy
định. Giống như trong môi trường quân đội, để họ có hiệu suất học
tập tốt nhất, với kì vọng sau 5 năm ra trường, họ sẽ là những người
dẫn dắt đất nước phát triển.

Trường đại học này sẽ lấy khoảng 2000 sinh viên, miền Bắc 1000
và miền Nam 1000. Chính vì vậy mới phát sinh ra mục đặc biệt
trên hồ sơ dự thi đại học, để nếu có nguyện vọng học ở đó các em
sẽ điền thông tin vào. Tất nhiên vẫn phải chấp nhận thể lệ thi đại
học chung như bây giờ mới thực hiện được.

438
Một quan điểm về Triết học

+10, Khôi phục văn hóa

Trích: “Con rồng Việt Nam – Hồi ký Bảo Đại”

“Làng xã được tự trị, làng tạo nên đơn vị thuế khóa, thu
thuế của dân để đóng cho nhà vua, cho chính phủ, tự xây
dựng cầu cống, chợ búa, thiết lập những công trình công
cộng, tự giữ lấy an ninh trật tự. Có ngân sách riêng, lập
ra hương ước. Đây là một pháp nhân rõ rệt, y như một cá
nhân đầy tự do, một loại xã hội cộng hòa bỏ túi, mà nội
bộ trị an ra ngoài quyền hạn của nhà vua. Đó là luật
hương đẳng, tự bảo lấy nhau, nên gọi là quan viên hương
đẳng vậy.

Gia đình nào cũng có gia tiên để thờ, thì làng có sự thờ
cúng vị thành hoàng. Các ông thành hoàng này phần
nhiều chẳng ai khác hơn là các vị đã sáng lập ra ngôi làng
ấy ban đầu. Lúc mới thành lập làng, các chủ gia đình lập
nên cái gọi là Hội đồng Kỳ mục, người cao tuổi nhất được
bầu lên làm tiên chỉ. Sau này, vị nào có đức hạnh, có tài
năng hay thành tích gì nổi bật với làng, vị đó cũng được
tôn vinh sau khi chết. Không có gì vinh hạnh cho làng
bằng có người tài ba nổi tiếng, hay thi đỗ ra làm quan ở
triều đình. Thế rồi lâu dần, từ những vị sáng lập ra làng,
những vị tài cao đức trọng, những nhà khoa bảng hay có
quan tước lớn, đều có ở nguyên quán một ngôi đền, một

439
Một quan điểm về Triết học

tấm bia ghi lại thành tích của họ, người ta biết được giá
trị tinh thần và đạo hạnh của người ấy.

Họ được tôn thờ, đó đã là gương sáng cho dân noi theo.


Từ chỗ đó họ biến thành thần và trở thành Thành Hoàng
làng là như thế. Tài ba đức hạnh của họ, tạo nên khuôn
vàng thước ngọc linh thiêng, nên dân chúng đặt họ ngang
với các bậc tiên thánh.

Từ đó nên nhà có thần, với đạo gia tiên, xã tắc có hồn với
khí thiêng sông núi, làng mạc được che chở bởi những bậc
thần linh, với các đình chung miếu mạo, đời sống dân gian
được bình an dưới mái ấm, có những nỗi buồn vui quấn
quýt, tạo nên đạo hiếu trung bền vững cùng với núi sông.

Nhưng các vị thành làng này vẫn dưới quyền cai quản của
Hoàng đế. Đây chính là một thứ quyền về nghi lễ mà người
Pháp dành cho tôi. Các thành hoàng này chỉ được thờ
cúng, khi được Hoàng đế cấp cho sắc phong, thì mới nên
thần mà thôi.

Tôi cũng có thể phong tước hay cấp phát phẩm hàm cho
người đã chết. Bộ lễ viết sắc phong, có dấu ấn quốc bảo,
chuyển qua viên quan đầu tỉnh, viên này khi trao sắc là
đứng vào chức vụ khâm mạng của nhà vua, để trao cho
ông cụ già nhất trong làng. Dân làng rước sắc ấy về, sắc

440
Một quan điểm về Triết học

được đựng trong một hộp gỗ sơn son thiếp vàng, gọi là
hòm sắc.

Bất cứ ai sinh thời làm được điều gì hiển hách, đều có thể
được phong làm thành hoàng cả và có đình thờ có bia đá
ghi công.

Làng thường có nhiều thôn, xóm, trại, ấp tập hợp lại làm
một và bao gồm những ngôi nhà rải rác bên ngoài gần
chỗ đó, tạo nên đơn vị cuối cùng của nền hành chính, hạ
tầng cơ sở. Làng thiết lập bài chỉ về thuế đinh, thuế điền
và thổ trạch. Đó là căn bản của ngành địa chính.

Sự khuếch trương làng xã do chính dân làng tự lực, qua


hai hình thức, do dân tự nguyện tham gia hoặc cưỡng
bách công sai để kiến tạo, tu bổ đường xá, sông ngòi, hào
lạch, cầu cống, đê điều, rào làng, phòng hỏa cũng như
phong thủy, chăm sóc các đình chùa miếu mạo. Ngoài ra
còn phải trông nom đồng ruộng hoa màu, chống gian phi
đạo tặc. Các viên chức cai trị làng xã, tạo nên lớp kì hào
phần lớn xuất thân ở giới phú nông, hay trung nông, gọi
chung là địa chủ. Họ tự bầu ra để giữ những nhiệm vụ
điều khiển gọi là bọn kỳ hào, hay hào mục, hương lý,
những bậc đàn anh trong làng. Họ có thể được tăng cường
thêm bởi các vị khoa bảng, các quan lại về hưu, có ảnh
hưởng xã hội, để giúp đỡ hay cho ý kiến cần thiết. Viên
tiên chỉ phần nhiều là một cụ già có uy tín nhất. Ở Việt
441
Một quan điểm về Triết học

Nam tuổi tác là một yếu tố đáng kính. Kính lão đắc thọ là
một câu châm ngôn. Bởi thế, dù người già mà nghèo đến
đâu đi chăng nữa, cũng được gọi bằng cụ hay bằng ông,
hai danh từ này chỉ được dùng để tôn kính các bậc trưởng
lão, không phân biệt, ai cũng như ai. Viên tiên chỉ chủ tọa
hội đồng kì mục, đảm trách về lễ nghi, hội hè, đình đám,
giữ vai trò quan tòa hòa giải và trông coi về ngân sách,
về thuế má, cùng thiết lập ra quỹ hàng xã của làng. Việc
quản trị làng xã được chia ra làm hai hạng kì mục. Các vị
sáu mươi tuổi, gọi là lão hạng, điều khiển toàn công việc
của xã, còn các người trẻ gọi là hương lý thì phụ trách
điều hành. Hội đồng kì mục này chẳng những lo toan về
việc điều khiển trị an, mà còn phải trông nom về tác
phong, đạo hạnh của các thanh niên trong làng, chú trọng
đến các cô nhi quả phụ và các người già và nghèo đói.
Mỗi làng đều phải lo cho an sinh xã hội giúp đỡ tất cả con
dân trong làng.

Việc liên lạc với chính quyền sở tại trung ương, được trao
cho một người trong ban kỳ mục, gọi là lý trưởng. Viên
này phải đốc thúc cả việc tuần phòng. Nếu xảy ra chuyện
gì do con dân trong làng phạm phải đối với chính quyền
trung ương thì viên này phải chịu trách nhiệm nặng nề,
mà trở thành một thứ dê tế thần, phải gánh đủ.

442
Một quan điểm về Triết học

Một tổ chức như vậy vừa nhiêu khê, vừa dân chủ, mà
không có một viên kì mục nào có thể đơn phương hành
động được, đã có ở nước tôi cả ngàn năm cũ. Thật rõ ràng
minh bạch chả ai có đặc quyền gì, đời sống tự do, làng xã
Việt Nam chỉ đặt dưới quyền tòng phục tinh thần Hoàng
đế, để được che chở, giúp đỡ trong các công tác hữu ích,
có vậy mà thôi.”

Công việc của chúng ta hiện tại là làm sao phát triển đời sống xã
hội cũng như bảo tồn được những nét đẹp văn hóa lâu đời của
người dân Việt Nam ta. Nên nhớ rằng chính sự đặc trưng về văn
hóa mới là thứ phân biệt dân tộc Việt Nam với những dân tộc khác.

443
Một quan điểm về Triết học

CÔNG BẰNG

Công bằng là gì?

Aristote cho rằng: Công bằng tức là đối xử như nhau đối với những
cái giống nhau và không như nhau đối với những cái không giống
nhau.

Đây chính là định nghĩa lý tưởng về công bằng, tuy nhiên trên thực
tế không hề tồn tại những cái giống hệt nhau. Bất kì một tình tiết,
sự vật nào cũng đều được cấu thành từ những chi tiết, mà nếu ta
phân tích đủ sâu thì chắc chắn sẽ có những chi tiết không giống
nhau giữa các tình tiết, sự vật đem so sánh.

Ở một khía cạnh khác, với những tình tiết, sự vật quá giống nhau,
thì việc phân tích để tìm điểm khác biệt, đối xử phù hợp với các
tình tiết sự vật đó sẽ mất nhiều thời gian, và công sức. Đến một lúc
nào đó, chi phí bỏ ra để phân tích các tình tiết, sự vật sẽ lớn hơn
lợi ích thu được từ việc phân tích các tình tiết, sự việc đó, như vậy
thì việc đòi hỏi công bằng sẽ không còn ý nghĩa nữa.

Như vậy công bằng tuyệt đối là không thể có. Thay vào đó, chúng
ta sẽ đối xử đối với các tình tiết, hiện tượng sao cho phù hợp nhất
có thể (lợi ích thu về sau khi trừ chi phí là lớn nhất; xét cho các
tình tiết (sự vật), và những tình tiết (sự vật) có mối liên hệ với các
tình tiết (sự vật) đang xét).

444
Một quan điểm về Triết học

Nói cách khác, chúng ta sẽ “đối xử như nhau (hoặc gần như
nhau) đối với những cái gần giống nhau”. Và với cách đối xử
này, chúng ta cũng phải chấp nhận rằng, có những trường hợp được
lợi (thiệt) hơn với những trường hợp khác, bởi các tình huống, hoàn
cảnh xảy ra là không giống nhau. Nhưng miễn sao việc đối xử
không công bằng này nằm trong ngưỡng chấp nhận được, tức là
việc đối xử có lợi (thiệt) hơn giữa các trường hợp là không đáng
kể. Và đặc biệt là việc đối xử lợi (thiệt) hơn giữa các trường hợp
đó phải nhỏ hơn (càng nhỏ càng tốt) so với tổng lợi ích mà cách
đối xử với các trường hợp đó mang lại.

Xét ở góc độ xã hội loài người, việc đối xử giữa người với người
với nhau cũng không công bằng, nếu chúng ta phân tích ở mức độ
sâu xa nhất. Thay vào đó chúng ta sẽ cố gắng đối xử sao cho mọi
việc về tổng quan là công bằng.

Tuy nhiên chừng đó là chưa đủ về công bằng xét trong trường hợp
xã hội, chúng ta phải thêm hai điều kiện nữa là, việc đối xử phải tỉ
lệ thuận với lợi ích (thiệt hại) mà các cá nhân (tổ chức) đó làm ra
cho xã hội. Cá nhân (tổ chức) gây thiệt hại lớn hơn thì phải bị trừng
phạt nặng hơn, và ngược lại nếu làm được nhiều lợi ích hơn thì
được thưởng nhiều hơn.

Và điều kiện cuối cùng tổng thiệt hại mà chúng ta đối xử với cá
nhân (tổ chức) đó phải nhỏ hơn (càng nhỏ càng tốt) lợi ích mà nó
mang lại. Đó mới là trường hợp thực tiễn nhất của công bằng xã
hội, mà con người có thể nghĩ tới.
445
Một quan điểm về Triết học

Tương tự, xét dưới góc độ con người chúng ta, thế giới này vốn dĩ
cũng không công bằng hiểu theo nghĩa là công bằng lý tưởng (tuyệt
đối). Chỉ riêng việc chúng ta không được chủ động việc mình sinh
ra đã là không công bằng rồi. Lí do gì mà tôi sinh ra trong nhà
nghèo còn bạn sinh ra trong nhà có đầy đủ điều kiện, bạn đẹp còn
tôi xấu, bạn tài năng trong khi tôi khuyết tật.

Có công bằng không khi một người sinh ra trong một bộ tộc man
rợ, sau này cũng trở thành một người gây nhiều tội ác. Thế nhưng
anh ấy chỉ hành động theo niềm tin và lý tưởng của mình (vốn bị
ảnh hưởng bởi bộ tộc mà anh ấy sinh ra). Vốn dĩ nó không thuộc
về lỗi của cá nhân anh, bởi anh đâu có được lựa chọn nơi mình sinh
ra. Từ khi cất tiếng khóc chào đời, định mệnh với anh đã là như
vậy. Nếu như được sinh ra trong một môi trường khác, với bản chất
là người hành động dựa trên niềm tin, lý tưởng của mình thì có lẽ
anh sẽ là một người bảo vệ công lý, lên án cho những bất công của
xã hội.

Ở một góc độ khác, chúng ta xét đến những tên tội phạm bị kết án
bởi luật pháp. Có lẽ ở khía cạnh người ngoài, chúng ta cho rằng
những bản án đó là hợp lí với họ, họ đáng phải bị như vậy.

Thế nhưng ở khía cạnh bản thân những tên tội phạm kia, liệu bản
án như vậy đối với họ có phải là hợp lí? Khi mà có thể họ hành
động gây án là do họ thiếu hiểu biết (tại vì sống trong môi trường
đặc biệt, ví dụ: Dân trí thấp, bị hành hạ gây tổn thương tâm lí,…).
Hoặc bị mất kiểm soát do nồng độ hormone cao hơn so với những
446
Một quan điểm về Triết học

người bình thường khác. Mà hormone đó là do bẩm sinh, họ sinh


ra đã cao như vậy, họ hoàn toàn không quyết định được nồng độ
hormone đó.

Như vậy, chúng ta thực sự không biết một bản án là có công bằng
cho chính cá nhân người phạm tội hay không? Chỉ biết rằng, xét ở
góc độ lớn hơn, để xã hội tồn tại, ổn định và phát triển được, thì họ
phải bị phạt như vậy.

Cũng giống như sự đột biến gen ở động vật vậy, có cá thể thì thích
nghi tốt hơn với môi trường do đột biến, có cá thể thì thích nghi
kém đi. Bản thân chúng đâu có được lựa chọn việc mình đột biến
như thế nào. Chỉ biết rằng, những cá thể đột biến thích nghi kém
thì sẽ bị tự nhiên loại bỏ, mặc dù bản thân nó chẳng có tội gì cả.

Thế giới vốn dĩ không công bằng, đó là khi chúng ta đang so sánh
từng cá nhân con người với nhau. Nhưng ở một góc nhìn khác,
được sinh ra là một con người với trí tuệ bình thường, có thể nhận
thức thế giới, thật sự là đã một món hời, nếu bạn biết rằng đại đa
số vật chất trong vũ trụ chỉ là những vật vô tri, vô giác. Ví dụ: Đá,
đất, nước, không khí,... Cao hơn một chút là động, thực vật, nhưng
chúng cũng chỉ hoạt động theo bản năng, hoàn toàn không có khả
năng nhận thức.

Từ quan điểm này mà xét, thì việc hay ghen tị bản thân với người
này người kia, có vẻ như là chúng ta đã hơi hẹp hòi rồi. Đương
nhiên trong mối quan hệ giữa người với người, vốn dĩ cũng không

447
Một quan điểm về Triết học

tồn tại công bằng (nếu có công bằng thì ai sẽ trả lại công bằng cho
những người bị bắt làm nô lệ trong quá khứ).

Thứ tôi tin tưởng là nhận thức của con người ngày một tăng lên.
Khi đó mọi việc được nhìn nhận một cách công tâm và công bằng
hơn, và những bất công trong quá khứ cũng phần nào được bù đắp.

TÓM LẠI

Không bao giờ có công bằng tuyệt đối về mặt thực tế. Trong xã hội
loài người, chúng ta chỉ đang cố gắng duy trì công bằng một cách
tốt nhất trong khả năng của mình.

Và cuối cùng sinh ra là con người với khả năng nhận thức đầy đủ
đã là một món hời đối với chúng ta.

448
Một quan điểm về Triết học

449
Một quan điểm về Triết học

PHẦN 3

NHẬN ĐỊNH
VỀ VIỆT NAM,
TỪ QUÁ KHỨ TỚI
HIỆN ĐẠI,
VÀ TƯƠNG LAI.

450
Một quan điểm về Triết học

1) Mọi việc xảy ra đều hợp lí.

Theo thời gian, nền văn minh nhân loại phát triển từ sơ khai cho
đến hiện đại, tương ứng với việc con người từ phụ thuộc hoàn toàn
vào thiên nhiên cho đến làm chủ thiên nhiên.

Trong quá khứ, việc tồn tại phụ thuộc vào thiên nhiên, dẫn đến
thiên nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến số phận của nhân loại. Nếu
thiên nhiên thuận lợi thì nhân loại phát triển, con người bình đẳng,
hòa đồng. Còn ngược lại thì cuộc sống con người khó khăn, xã hội
phân chia giai cấp nặng nề.

Phân tích sâu hơn chút nữa, thì từng quốc gia, dân tộc trong quá
khứ đều có số phận (diện tích quốc gia, dân số, văn hóa, …) phụ
thuộc trực tiếp vào thiên nhiên.

Ví dụ:

Những dân tộc có cuộc sống gắn liền với biển, khi ra khơi đánh bắt
tính mạng khó được đảm bảo (không biết sống chết lúc nào), thì
thường hình thành nên lối sống hưởng thụ và tính cách dũng cảm,
liều mạng.

Với những dân tộc sinh sống trên mảnh đất được thiên nhiên ưu
đãi, thì thường có tính cách ôn hòa, tôn trọng con người (yếu tố
căn bản để tạo thành nền dân chủ).
451
Một quan điểm về Triết học

Với những dân tộc không được thiên nhiên ưu đãi, không thể trồng
trọt, thì lại thường có lối sống du mục và có tính cách hiếu chiến,
uy hiếp và cướp bóc các dân tộc khác (có chút lưu manh).

Với những dân tộc sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
(động đất, lụt lội, …) thì xã hội thường phân hóa mạnh, bởi vì cần
sự áp đặt mạnh mẽ lên ý chí người dân, trong công tác chống thiên
tai. Trong những xã hội này thì người dân rất đoàn kết và cũng dễ
chấp nhận chế độ độc tài.

Với những dân tộc có vị trí địa lí được thiên nhiên ưu đãi, thì dân
số phát triển nhanh hơn, và phải tìm cách giải quyết các vấn đề của
một xã hội có dân số đông ấy, từ đó dẫn đến văn hóa phát triển hơn
các dân tộc khác. Khi một dân tộc có văn minh tân tiến hơn các
dân tộc xung quanh, nó thường có xu hướng mở rộng lãnh thổ và
đồng hóa các dân tộc lân cận, dù là vô tình hay cố ý. Ví dụ: ảnh
hưởng văn hóa lên các dân tộc khác, hòa huyết với các dân tộc có
dân số ít hơn, hoặc đánh chiếm, đồng hóa ép buộc các dân tộc khác.

Với dẫn chứng trên, chúng ta dễ có kết luận rằng, những dân tộc
được thiên nhiên ưu đãi ban đầu, thường phát triển sớm và đồng
hóa các dân tộc khác, dẫn đến việc họ trở thành các dân tộc tồn tại
sau cùng.
452
Một quan điểm về Triết học

Tuy nhiên, chừng này là chưa đủ để kết luận, vẫn tồn tại những
dân tộc vì phải vật lộn, thích nghi với thiên nhiên nên đã phát triển
những kỹ thuật, kỹ năng lên một tầm cao hơn và nhờ thế không
những bảo vệ được nòi giống mà còn mở rộng lãnh thổ, ảnh hưởng
lên các dân tộc khác.

Hoặc có những dân tộc mà thiên nhiên không ưu đãi giai đoạn đầu,
nhưng với tài nguyên thiên nhiên mà họ có, lại giúp họ có những
bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển sau này.

Ví dụ: Mông Cổ vì có đất đai cằn cỗi không thể trồng trọt lâu dài
được, nên họ không thể định cư, bắt buộc họ phải có lối sống du
mục. Vì có lối sống du mục nên cưỡi ngựa đã trở thành kỹ năng
thiết yếu của người dân Mông Cổ. Họ đã phát triển kỹ năng đó lên
một tầm hơn so với những dân tộc còn lại cùng thời. Lịch sử đã
chứng minh điều đó, kỵ binh Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành
Cát Tư Hãn đã tung hoành khắp lục địa Á, Âu.

Một ví dụ khác là người Hán, vì một lí do nào đó mà họ bước vào


thời kì đồ sắt sớm hơn những dân tộc lân cận khác. Có thể là do
đất đai khô cằn, nên dụng cụ đồ đồng vốn không có tác dụng, bắt
buộc họ phải tìm một loại vật liệu khác để thay thế. Hoặc cũng có
thể do những mỏ sắt trên đất Hàn lộ thiên, nên họ dễ dàng tìm kiếm
và dễ khai thác. Vì lí do gì thì với việc bước vào thời kì đồ sắt sớm
đã giúp cho dân tộc Hán có bước ngoặt lớn, không chỉ trong lao

453
Một quan điểm về Triết học

động mà còn trong chiến đấu. Mặc dù về kỹ thuật chế tác đồ đồng,
dân tộc Bách Việt vốn dĩ đã phát triển đến đỉnh cao của nó, các hoa
văn trên trống đồng Đông Sơn, và hàng loạt vật dụng khai quật
được là minh chứng rõ ràng nhất.

Như vậy, chúng ta thấy rằng vận mệnh của các dân tộc, không do
dân tộc đó quyết định, mà là do thiên nhiên nơi họ sinh sống quyết
định. Sự phát triển hay diệt vong của một dân tộc trong lịch sử, nó
đến như một lẽ tất yếu, phải diễn ra.

Kể cả khi con người chế ngự được thiên nhiên, thì mọi thứ đã xảy
ra (việc đã rồi) cũng không có cách nào lấy lại được, thứ con người
có thể làm là linh hoạt ứng phó trong cái sự đã rồi đó, để làm sao
cho dân tộc của mình có thể tồn tại và phát triển.

454
Một quan điểm về Triết học

2) Nhận xét về nhân quả

giữa người Bách Việt và người Hán

Hiện tại chúng ta chưa rõ mối liên hệ giữa người Kinh (Việt Nam),
với phần còn lại của cộng đồng Bách Việt sâu sắc tới mức nào.
Liệu người Kinh chúng ta có đại diện cho phần còn lại của cộng
đồng Bách Việt được hay không?

Lí do là vì chúng ta thừa nhận mình là con cháu của Vua Hùng với
nhà nước Văn Lang, mà trong truyền thuyết và các di tích khai quật
được, lãnh thổ của nhà nước Văn Lang xưa kia bằng diện tích đất
nước mà Ngô Quyền giành lại được. Tức là về mặt ý nghĩa thì
chúng ta đã lấy lại được lãnh thổ của cha ông.

Thực ra, tôi không nghĩ người Kinh chúng ta có mối liên hệ nhiều
với phần còn lại của Bách Việt. Lí do là vì vào thời kì này vẫn còn
cản trở lớn về di chuyển, cộng với việc trồng lúa nước khiến người
Việt có cuộc sống định cư, như vậy càng làm cản trở cho việc tiếp
xúc giữa các cộng đồng tộc Việt nói chung.

Thế nhưng vì ít di chuyển, lại giúp cho các tộc người Việt có thể
bảo tồn văn hóa và nguồn gen của mình không thay đổi (tức là văn
hóa và nguồn gen giống nhau, vì đều cùng một tộc người di chuyển
từ phía nam lên).

455
Một quan điểm về Triết học

Tóm lại, tộc người Bách Việt (nói chung) tuy có nguồn gen và văn
hóa giống nhau, thế nhưng về mặt bản chất thì lại ít giao lưu với
nhau. Vậy nên đánh giá người Bách Việt có phải là một hay không
là tùy ở người đọc. Dù sao thì tôi vẫn nghĩ rằng, nên phân tích một
chút về nguyên nhân tại sao người Bách Việt lại thua người Hán
và phải di chuyển xuống phía nam.

Thứ nhất: Vì người Bách Việt có cuộc sống định cư do việc trồng
lúa nước, nên có bản tính hiền lành, ít có hòa huyết với các dân tộc
khác cũng thuộc cộng đồng Bách Việt (thông qua giao lưu văn hóa
hoặc chiến tranh), dẫn đến các tộc người thuộc Bách Việt khá độc
lập với nhau.

- Điều này dẫn đến một việc nữa, đó là nền văn minh và
các công cụ mà các cộng đồng người Bách Việt sáng tạo,
chủ yếu đều phục vụ trong công việc văn hóa và sản xuất,
chứ ít khi dùng trong chiến tranh. Tức là nền văn minh
của người Bách Việt không thua kém nền văn minh của
người Hán. Mà thậm chí những phát hiện trong các
nghiên cứu gần đây cho thấy, nền văn minh của người
Bách Việt còn hơn người Hán, rất nhiều di sản người Hán
tự nhận của mình nhưng thực chất lại là của người Bách
Việt.
Thứ hai: Người Hán vốn có nguồn gốc là dân tộc du mục, dẫn đến
các bộ tộc người Hán thường có sự giao lưu văn hóa và cả sự xung
đột lợi ích với nhau. Điều này dẫn đến tính cách người Hán không

456
Một quan điểm về Triết học

ngại va chạm (giao chiến) mà thậm chí còn thích chiến tranh và
bành trướng quyền lực cũng như lãnh thổ.

Lịch sử Trung Quốc là những chương dài với nội chiến liên miên,
để sáp nhập các nước nhỏ thành nước lớn, cũng là vì cội nguồn dân
tộc (du mục) của họ. Thế nhưng cũng chính vì hay đánh nhau, đã
đưa Trung Quốc từ nhiều nước nhỏ trở thành một nước rộng lớn,
thống nhất, và phát triển nghệ thuật chính trị cũng như quân sự của
người Hán lên một tầm cao hơn so với các dân tộc khác cùng thời.

Mặc dù người Hán có nguồn gốc du mục, nhưng vẫn sợ hãi trước
bản chất du mục, hoang dã hơn của những dân tộc phía Bắc dân
tộc Hán. Vạn Lý Trường Thành được Tần Thủy Hoàng cố công
xây dựng, cũng chỉ vì mục đích chống xâm lăng của người phương
Bắc nước họ.

Như vậy, khi có sự xung đột giữa hai nền văn minh; một bên là
bản chất hiếu chiến, các bộ tộc sớm đã hòa huyết với nhau tạo
thành một đất nước rộng lớn; một bên là tính cách ôn hòa, các bộ
tộc độc lập với nhau, không có sự thống nhất, thì phần thắng
nghiêng về ai chắc người đọc cũng tự đoán ra được.

Người dân Bách Việt đã bị đẩy lùi dần về phía nam, và từng có
thời gian rất dài bị đô hộ bởi người Hán. Việc bị đẩy lùi về phía
nam hoàn toàn là do bản chất tự nhiên của từng sắc dân, chứ chưa
phải là do ý thức riêng rẽ mang tính bước ngoặt nào quyết định.

457
Một quan điểm về Triết học

Đó là những thứ sau này trình độ dân trí cao mới có. Vậy nên chẳng
có gì phải xấu hổ về điều đó.

Khi có một dân tộc mang theo nền văn minh lúa nước di chuyển từ
phía nam lên và gặp một dân tộc mang bản chất du mục thì số phận
đã an bài là họ sẽ bị đẩy lùi lại về phía nam, đó hoàn toàn là lẽ tự
nhiên mà thôi. Việc có những kì nhân xuất hiện và bẻ cong dòng
chảy lịch sử, đó là khi con người đã có nhận thức sâu sắc sau này,
chứ không phải là vào thời kì tiền văn minh.

3) Nhà tư tưởng và chính trị gia

Chiến tranh không phải là nơi của những nhà tư tưởng, mà đó là


nơi để những chính khách tỏa sáng.

Có thể hình dung việc dẫn dắt đất nước giống như việc lèo lái con
tàu đang đi trên biển. Một nhà tư tưởng là người hoạch định xem
con tàu sẽ đi thế nào để đến đích nhanh và an toàn nhất. Nhà tư
tưởng sẽ nói rằng “Ồ, nếu đi theo hướng này con tàu sẽ đi qua một
rặng núi ngầm lớn. Chúng ta không nên đi, bởi rủi ro sẽ rất cao”.

Vậy còn chính khách thì sao, có thể ví ông như một người lái tàu,
một thuyền trưởng kinh nghiệm, ông biết cách ứng phó linh hoạt
với những khó khăn vướng phải trên đường đi để đảm bảo con tàu
458
Một quan điểm về Triết học

có thể đến đích an toàn. Khác với nhà tư tưởng, ông không có tầm
nhìn xa như vậy để phác họa một lộ trình an toàn cho con tàu ngay
từ khi xuất phát. Nhưng nhà tư tưởng lại chỉ phác họa lộ trình cho
con tàu trên bàn giấy chứ không đi thực tế.

Như vậy ta có thể thấy một nhà tư tưởng và một chính khách có
những ưu nhược điểm riêng, và phải phụ thuộc lẫn nhau, làm sao
để giúp con tàu đến đích một cách nhanh và ít tổn thất nhất.

Cũng cần hiểu rằng, hệ thống tư tưởng phải có trước, tức là phải
biết chúng ta sẽ đi như thế nào trước khi con tàu khởi hành. Còn
khi nó đã khởi hành thì đó là công việc của chính khách (người lái
tàu), không phải của tư tưởng gia (người hoạch định lộ trình cho
con tàu).

Bây giờ ta hiểu vì sao chính phủ của Trần Trọng Kim lại nhanh
yếu thế như vậy. Lí do ông là một nhà tư tưởng chứ không có phẩm
chất của một chính khách.

Nếu để chọn người có phẩm chất của một chính khách nhất của
Việt Nam ta trong thời cận đại, thì không ai khác ngoài Hồ Chí
Minh. Ông hội tụ mọi yếu tố như quyết tâm, từ thời trai trẻ đã ôm
hoài bão lớn ra đi tìm đường cứu nước, gian khổ trùng trùng.

Ông có đầy dã tâm, sẵn sàng hi sinh những lợi ích mà ông cho là
nhỏ nhoi để đạt được thắng lợi cuối cùng. Rất nhiều vụ thảm sát
dân thường để bịt miệng, tránh bị lộ thông tin. Hay đặt điều nói
xấu phe đối lập (Việt Nam Cộng Hòa) để gây phẫn uất trong lòng

459
Một quan điểm về Triết học

dân, tức là ông lừa cả nhân dân để đạt được mục đích cuối cùng.
Là một người thông minh, ứng biến linh hoạt, lắm mưu nhiều kế,
khác xa với vẻ ngoài giản dị, gần gũi với người dân mà ông cố
gắng xây dựng.

Từ việc chọn sống ở nước ngoài cận biên giới Việt Nam ngay từ
khi mới bắt đầu manh nha cách mạng, để tiện đi lại lôi kéo những
người khác tham gia vào đội ngũ của mình. Đến việc sắp xếp cho
những người đi theo mình biết ẩn náu chờ thời, đồng thời xâm nhập
vào các cơ sở quan trọng để tuyên truyền gây dựng cách mạng. Có
mắt nhìn người khi phát hiện ra được những tài năng trong hàng
ngũ, để sắp xếp những công việc phù hợp cho họ. Biết tìm kiếm,
tận dụng triệt để các nguồn lực để có chi phí trang trải và phát triển
cách mạng.

Về phần mình, ông là một người lắm mưu nhiều kế, biết tự gây
dựng, đánh bóng hình ảnh của bản thân, như một người giản dị, ăn
uống điềm đạm, như một vị thánh nhân, hết lòng lo cho dân, như
cha già dân tộc…

Sử dụng kế biến khách thành chủ, lợi dụng uy tín của vua Bảo Đại
để gây dựng hình ảnh cho mình. Khi chưa có uy tín thì ông mời
vua Bảo Đại làm cố vấn cấp cao cho đảng của mình, bất cứ nơi nào
ông xuất hiện đều có vua Bảo Đại đi cùng, nhằm lợi dụng Bảo Đại
gây dựng hình ảnh cho mình.

460
Một quan điểm về Triết học

Khi hình ảnh của mình đủ lớn, và cảm giác như vua Bảo Đại bắt
đầu kìm hãm mình, thì ông đuổi vua Bảo Đại đi nước ngoài, không
cho về nước. Đồng thời tung tin rằng, Bảo Đại đi du lịch, ăn chơi,
không màng đến chính trị trong nước, để người dân chỉ còn biết có
mỗi Hồ Chí Minh (quả thật quá cao tay). Mọi thứ đã được hoạch
định một cách hoàn hảo.

Chỉ tiếc rằng, ông là một chính khách giỏi, nhưng tư tưởng của ông
lại quá dở tệ, khi không có khả năng phản tỉnh lí tưởng Cộng sản
và để cho chính nó mê hoặc. Dù sao thì ông cũng chỉ đại diện cho
tầng lớp dân chúng Việt Nam, vốn rất linh hoạt trong công việc
nhưng lại thiếu tầm nhìn xa, cũng như khả năng lí luận.

Một người dù tài năng đến đâu cũng không thể thoát nổi tư tưởng
của dân tộc. Những người có tầm nhìn vượt ra xa ý thức của người
dân, thì sẽ không được người dân ủng hộ và cuối cùng cũng thất
bại, Việt Nam Cộng hòa là một ví dụ đau đớn.

Ngày xưa, khi Ngô Quyền giành lại độc lập cho dân tộc, thì không
phải là Việt Nam ta may mắn có một người như Ngô Quyền. Mà
là nhận thức của dân tộc ta đã hội tụ đủ để một người như Ngô
Quyền xuất hiện. Hay việc đóng cọc ở sông Bạch Đằng nó cũng
không phải là một kế sách lạ gì, mà nó kết tinh từ cuộc sống thường
ngày của dân tộc ta, đó là cuộc sống sông nước vốn đã quen với
việc thủy triều lên xuống. Đương nhiên với những dân tộc khác
vốn không quen với cuộc sống sông nước thì đó quả là một kế sách
cao minh, không thể ngờ đến được.
461
Một quan điểm về Triết học

Viết như vậy để mọi người hiểu, một người tài năng xuất hiện và
lãnh đạo đất nước đi đến thắng lợi, vốn dĩ không phải là một may
mắn gì, mà nó là kết tinh của nhận thức dân tộc trong thời kỳ đó.
Hay nói cách khác, nhận thức của dân tộc đã hội tụ đủ, để một
người phù hợp xuất hiện và đi đến thắng lợi.

Một người có nhận thức vượt xa mức nhận thức của dân tộc, vốn
dĩ sẽ không được người dân chấp nhận và không thể chiến thắng,
nếu chỉ dựa vào sức mạnh nội tại của dân tộc. Tức là nếu muốn
chiến thắng họ phải mượn một sức mạnh khác nằm bên ngoài dân
tộc đó.

Viết vậy để người đọc nhận thức được rằng, việc lựa chọn chủ
nghĩa Cộng sản không phải hoàn toàn do lỗi của ông Hồ Chí Minh.
Đúng ra đó là con đường tất yếu mà dân tộc ta phải đi qua.

Lí do là việc chuyển đổi từ thể chế phong kiến sang chế độ dân chủ
là một cuộc chuyển biến quá dữ dội, lại trong thời gian ngắn, nhận
thức của người dân (nói chung) không tăng tiến theo kịp. Chỉ một
số rất ít tầng lớp trí thức mới có thể hiểu, tại sao lại cần dân chủ,
còn đa phần người dân không thể hiểu, mà cá nhân họ cảm thấy
cũng không cần hiểu những thứ như vậy.

Điều tệ hại nữa là những động cơ thúc đẩy sự chuyển đổi về dân
chủ đó, lại do sự áp đặt từ ngoại lực bên ngoài, mà không phải từ
nội tại bên trong dân tộc ta, dẫn đến có sự đối kháng với các tư
tưởng được du nhập từ các thế lực bên ngoài đó.

462
Một quan điểm về Triết học

Và điều tất yếu là quá trình quá độ về tư tưởng của người dân thời
đó rơi vào tư tưởng của chủ nghĩa Cộng sản. Những vấn đề này,
tôi viết trong phần “khi lỗi thuộc về những vì sao” ở ngay sau đây.

Tóm lại, việc áp đặt chủ nghĩa độc tài Cộng sản lên dân tộc ta,
không phải là lỗi lớn của cá nhân ông Hồ Chí Minh. Đúng ra chính
dân tộc ta đã lựa chọn điều đó, vì sự nhận thức chưa hoàn chỉnh
của dân tộc mình. Và Hồ Chí Minh chỉ là người hiện thực hóa điều
đó mà thôi.

Vậy nên, nếu không có Hồ Chí Minh, thì cũng sẽ có người tương
tự như ông đứng lên để đưa chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam.

4) Khi lỗi thuộc về những vì sao

Chúng ta hiện nay đang sống trong chế độ độc tài Cộng sản, một
trong những chế độ độc tài cuối cùng còn sót lại trên Trái Đất. Và
đương nhiên không tốt lành gì vì phải sống dưới chế độ ấy, khi bất
công trong xã hội xảy ra như cơm bữa.

Thế nhưng, đã bao giờ bạn tự hỏi mình rằng, nguyên nhân nào dẫn
đến chế độ độc tài này? Và lỗi do ai?

463
Một quan điểm về Triết học

Để hiểu hơn điều đó, chúng ta phải đặt mình trong bối cảnh lịch sử
thời bấy giờ, khi mà chủ nghĩa Cộng sản du nhập vào nước ta.

+ 1, Do thời kì này đất nước ta đang bị thực dân Pháp đô


hộ, trình độ dân trí của nhân dân Việt Nam thời bấy giờ
thực sự rất thấp. Đại đa số dân chúng không biết chữ,
nghèo đến mức phải lo ăn từng bữa.

Vậy nên thứ mà họ quan tâm nhất là đánh đuổi những


người đang bóc lột họ và chia lại ruộng đất cho họ, để họ
có thể làm lụng nuôi sống bản thân và gia đình.

+ 2, Trong hàng nghìn năm họ đã quen sống dưới chế độ


phong kiến (một dạng độc tài cá nhân trị, khi quyền lực
được tập trung vào một người), họ đã quen với việc lệ
thuộc vào người khác để những người đó sắp đặt cho
mình, thiếu những người đó người dân không biết phải
làm gì.

Đối với người dân lúc đó, khái niệm quyền bình đẳng giữa người
với người hoàn toàn xa lạ, “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa
lại quét lá đa”, chứ chưa nói đến phải tìm cách phải kiểm soát
quyền lực nhà nước. Khái niệm tam quyền phân lập là khái niệm
quá phức tạp, đến nỗi không thể hiểu và cũng không cần phải hiểu.
Bởi hàng ngàn năm nay họ vẫn sống mà không cần thứ đó.

Tóm lại, với trình độ nhận thức thời bấy giờ của Việt Nam, người
dân chưa sẵn sàng để đón nhận dân chủ. Nếu may mắn được áp đặt

464
Một quan điểm về Triết học

một chế độ dân chủ lên đất nước, thì nó cũng chỉ như một món quà
được tặng không. Giả sử có được sống dưới chế độ dân chủ, thì
cũng phải mất rất nhiều năm người dân mới hiểu được tầm quan
trọng của chế độ dân chủ. Trong quãng thời gian đó, nền dân chủ
rất mong manh, dễ đánh mất và chuyển về lại chế độ độc tài. Bởi
khi người dân chưa hiểu tầm quan trọng của chế độ dân chủ thì sẽ
không sẵn sàng để bảo vệ nó.

Tiền thân của những người lãnh đạo đảng Cộng sản là những người
yêu nước và dũng cảm, dám đấu tranh cho dân tộc. Nhưng xuất
thân của họ là chính từ những người dân thời đó. Vậy thì mức độ
hiểu biết của họ cũng thấp như nhận thức cùng thời. Và cũng xuất
phát từ quần chúng, nên họ kế thừa ý chí của quần chúng.

Tức là, mục tiêu hàng đầu của họ là đánh đuổi thực dân, khôi phục
chủ quyền đất nước và trả đất nước, về tay người dân. Và bởi vì họ
bị chế độ thực dân (chế độ tư bản, tiền thân của chế độ dân chủ) đô
hộ, bóc lột nên họ căm ghét tư bản là điều hoàn toàn hợp lí.

Bây giờ ta xét ba đặc điểm chính của người dân thời đó:

+ 1, Người dân đã quen với chế độ độc tài (phong kiến)


từ hàng nghìn năm, khái niệm kiểm soát quyền lực nhà
nước là quá xa lạ với họ.

+ 2, Căm ghét chế độ thực dân, tư bản vì đi đô hộ, bóc lột


họ.
465
Một quan điểm về Triết học

+ 3, Cần chính quyền quan tâm tới họ, chia cho họ ruộng
đất để họ có thể làm ăn sinh sống.

Giờ ta sẽ xét đến chế độ Cộng Sản:

+ 1, Là một chế độ độc tài toàn trị, loại bỏ hoàn toàn khái
niệm kiểm soát quyền lực nhà nước hay cơ chế tam quyền
phân lập phức tạp.

+ 2, Đối đầu với chế độ tư bản, thực dân thời đó.

+ 3, Coi trọng giai cấp công nhân, nông dân và ủng hộ họ


đứng lên chống lại chế độ tư bản thực dân.

⇨ Giờ ta đã hiểu vì sao những người lãnh đạo phong trào cách
mạng và nhân dân lại lựa chọn chế độ Cộng sản rồi phải
không. Bởi nó tương đồng với ý chí của người dân thời bấy
giờ.

Có một việc, đó là, vào thời kì đó, chế độ thực dân gần như đô hộ
cả thế giới, và đó cũng là nguyên nhân chế độ Cộng sản nảy nở
nhanh như thế. Đế đối kháng lại chế độ thực dân đang đô hộ mình,
người dân đã lựa chọn chế độ Cộng sản. Vì vậy chế độ Cộng sản
được nhiều nước lựa chọn và mạnh ngang ngửa chế độ thực dân tư
bản thời đó.

466
Một quan điểm về Triết học

Tóm lại:

+ 1, Chế độ Cộng sản không phải do ai đó cố tình đem về


để rắp tâm hãm hại dân tộc ta. Mà là do người dân thời
đó với nhận thức chưa cao (do phải sống dưới chế độ
phong kiến và thực dân đô hộ) đã lựa chọn.

+ 2, Chế độ Cộng sản phát sinh trong quá trình phát triển
nhận thức của nhân loại, và dân tộc ta cũng không nằm
ngoài quá trình phát triển nhận thức đó.

Cái đen đủi của Việt Nam là chúng ta nằm sát biên giới
với một thằng to con cũng lựa chọn chế độ cộng sản và
được nó chống lưng. Vậy nên chế độ Cộng sản Việt Nam
mới có thể tồn tại đến bây giờ.

Xét về góc độ nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, đại diện Cộng sản
miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa miền Nam:

+ 1, Người miền Bắc cho rằng Mỹ là một nước tư bản nên họ cũng
giống như Pháp, họ vào Việt Nam là để đô hộ Việt Nam và dựng
nên chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa. Vậy nên người dân
miền Nam sống rất khổ cực, y như thời Pháp đô hộ vậy. Thế nên
họ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và để giải
thoát người dân miền Nam khỏi cảnh bị bóc lột.

467
Một quan điểm về Triết học

+ 2, Về phía Mỹ, do là một nước dân chủ lâu năm, nên họ hiểu
được sâu sắc mối nguy của chế độ độc tài hay chế độ cộng sản.

Vì vậy họ vào miền Nam Việt Nam, thay thế Pháp, để chặn đứng
chế độ cộng sản có thể lây lan xuống các nước phía Nam. Đồng
thời ủng hộ, viện trợ cho chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam,
để chống chọi lại với Cộng sản Bắc Việt, và cũng để làm hình mẫu
dân chủ cho các đất nước khác học tập. Họ hoàn toàn không có ý
đồ xâm chiếm hay đô hộ miền Nam Việt Nam như người miền Bắc
vẫn lầm tưởng.

+ 3, Với người dân miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tuy
chưa hoàn toàn dân chủ, nhưng người dân vẫn được hưởng khá đầy
đủ quyền lợi của một nước dân chủ mang lại.

Có thể nói là đời sống người dân khá sung túc, Sài Gòn ngày ấy
được xem như hòn ngọc Viễn Đông. Người dân miền Nam có thể
sản xuất được ô tô với tỉ lệ nội địa hóa tới 40%. Điều mà bây giờ,
với việc hòa bình đã 45 năm chúng ta vẫn chưa làm được. Người
dân miền Nam đến giờ vẫn châm biếm rằng: “Thằng đi xe đạp giải
phóng thằng đi ô tô và bây giờ tất cả chúng ta đều đi xe máy”. Câu
này nghe chua xót nhưng lại là sự thật.

Lí do Việt Nam Cộng hòa thua cộng sản là vì nền dân chủ Việt
Nam Cộng hòa là nền dân chủ còn non trẻ. Đặc biệt, nền dân chủ
này được cho không, không phải do người dân nhận thức tranh đấu

468
Một quan điểm về Triết học

hi sinh mà có được. Vậy nên người dân thực sự cũng không trân
trọng nó. Thực tế ra thì người dân miền Nam thời đó cũng chả hiểu
dân chủ là gì và ý nghĩa của nó ra sao.

Tóm lại:

Hai thể chế Việt Nam Cộng hòa miền Nam và Cộng sản miền Bắc,
rõ ràng dưới góc nhìn thời đó, thì cả hai đều có lí của mình.

Những người lính dù chiến đấu cho chế độ Cộng sản hay Cộng hòa
đều đáng tự hào, vì đã dám hi sinh bảo vệ cho lí tưởng của mình.
Dù rằng lí tưởng ấy sau này được nhận định là đúng hay sai, thì
vào thời điểm ấy cũng đáng được trân trọng.

Nói sao nhỉ, dám chết cho lí tưởng của mình, mấy ai có thể làm
được như vậy? Nếu có gì đó sai thì do tạo hóa đã trêu ngươi con
người. Nhận thức của nhân dân chưa đủ để hiểu và lựa chọn thứ
được gọi là dân chủ. Lịch sử tương lai chắc chắn phải khôi phục
lại danh dự cho những người lính Việt Nam Cộng hòa. Ghi nhận
họ như những anh hùng xả thân để bảo vệ nền dân chủ non trẻ ở
Việt Nam.

Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích qua, xem người dân
sống trong chế độ độc tài sẽ như thế nào.

469
Một quan điểm về Triết học

5) Đặc trưng văn hóa ở chế độ độc tài

Một trong những đặc trưng nổi bật nhất trong văn hóa ở chế độ độc
tài, là “bệnh sĩ”. Cái tôi cá nhân của người dân rất lớn. Đây có thể
được xem như đặc sản của chế độ độc tài, vì sống dưới chế độ độc
tài, căn bệnh này sẽ được khuếch đại đến mức tối đa.

Vậy thì do đâu mà căn bệnh này xuất hiện?

Lí do đầu tiên phải kể, đó là vì người dân bị đối xử không công


bằng. Nhóm lãnh đạo đất nước cũng là nhóm lợi ích đã cướp hết
mọi thành quả lao động của người dân. Chính vì bị cướp mất thành
quả lao động nên người dân không còn động lực lao động, sản xuất.

Tầng lớp tinh hoa có thể dẫn dắt đất nước, không muốn phục vụ
cho chế độ, bởi họ không được đối xử một cách xứng đáng. Thay
vào đó, họ thường chọn cách phục vụ cho các tổ chức nước ngoài,
nơi tài năng được trọng dụng, tạo nên hiện tượng chảy máu chất
xám. Mặc dù trong thâm tâm họ rất mong muốn được phục vụ quê
hương của mình.

Lãnh đạo đã không có người tài, lại chỉ lo tham quyền cố vị, thi
nhau tham nhũng, đục khoét đất nước. Dẫn đến kinh tế trong chế
độ độc tài thường nghèo nàn lạc hậu. Người dân làm chỉ đủ ăn với
nộp thuế, không có thời gian suy nghĩ đến vấn đề khác, “có thực

470
Một quan điểm về Triết học

mới vực được đạo”. Dẫn đến một đặc trưng nữa của chế độ độc tài
là “dân trí thấp”.

Ngoài ra để bảo vệ chế độ hay nhóm lợi ích, nhà nước thường sử
dụng hai chính sách:

+ 1, Tuyên truyền để người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo


của đảng và nhà nước.

Có thể nói trong chế độ độc tài, bộ máy tuyên truyền vô


cùng đồ sộ, xuất hiện với đủ loại hình thức khác nhau. Các
thông tin đưa tới công chúng đều bị kiểm duyệt một cách
gắt gao, đảm bảo chỉ đưa thông tin có lợi cho giới lãnh
đạo.

+ 2, Đàn áp bắt bớ vô số những người bất đồng chính


kiến, khiến cho người dân sợ hãi không dám nói lên vấn
đề này. Đồng thời khen thưởng những người trung thành
với nhà nước như những người hùng, để làm hình mẫu cho
người dân (vốn ít kiến thức) hùa theo.

Đến đây bạn có thể hình dung một đất nước sống dưới chế độ độc
tài, là một đất nước mà người dân nghèo đói, lạc hậu, kém hiểu
biết, sợ hãi khi nói tới những vấn đề mà họ cho là nhạy cảm, và

471
Một quan điểm về Triết học

thường xuyên lảm nhảm về những thứ mà nhà nước tuyên truyền
cho họ.

Nhưng đó chưa phải là tất cả.

Do trong chế độ độc tài thì nhóm lãnh đạo đứng trên cả luật pháp.
Thực chất luật pháp được chia thành hai chức năng:

+ 1, Phán xử công bằng trong một số trường hợp nhất


định, ví dụ như cướp của, giết người, ...

Miễn những việc đó không đụng chạm đến những người


trong bộ máy cai trị độc tài. Nhằm mị dân rằng, người dân
đang sống trong chế độ công bằng, văn minh. Thực chất,
đây chỉ là củ cà rốt treo trước mõm con lừa, để con lừa
nai lưng ra kéo xe cho họ. Và đây cũng là bề nổi của tảng
băng chìm.

+ 2, Luật pháp là công cụ để nhóm lợi ích dựa vào đó mà


cướp bóc một cách hợp pháp thành quả của người dân.

Đây mới là mục tiêu chính mà tổ chức cai trị tạo ra luật
pháp. Dễ thấy các điều luật ở đây thường lí luận một cách
vòng vèo phức tạp, nhằm ngăn cản việc người dân tìm
hiểu. Trong khi một điều luật ở một nước dân chủ phải rõ
ràng, không dùng từ ngữ dễ gây nhầm lẫn và phải dễ hiểu.

472
Một quan điểm về Triết học

Tăng thuế là một ví dụ, đánh thuế nặng lên tất cả hàng
hóa tiêu dùng, đây là cách dễ dàng nhất để cướp bóc mà
người dân không cảm thấy gì. Họ chỉ biết làm lụng quanh
năm mà chỉ đủ ăn. Nếu họ thắc mắc thì câu trả lời của
nhóm lợi ích rất đơn giản, “đất nước đang trong quá trình
phát triển, đi lên từ đổ nát, lạc hậu nên không thể mong gì
hơn được” và hứa hẹn tương lai sẽ rất tươi sáng.

Bạn có thể hỏi bất kì một đứa trẻ nào ở Việt Nam chúng
cũng đều thuộc lòng câu “khẩu quyết” này. Người dân
đâu biết rằng họ nghèo là do công sức của họ bị cướp đi,
do việc đánh thuế nặng nề lên hàng hóa của nhà nước.

Nếu có người thắc mắc rằng “tại sao họ lại không được
tự do trình bày quan điểm hay suy nghĩ của mình”, thì
người dân sẽ nói cho người thắc mắc hiểu rằng “có tự do,
nhưng tự do phải trong khuôn khổ”. Vậy “trong khuôn
khổ” có nghĩa là gì? Giả sử bạn cao 1,8 mét, thế nhưng
có kẻ bắt bạn vào trong cái lồng chỉ cao 1,6 mét, khiến
bạn không thể nào đứng thẳng được, như vậy bạn cũng
chấp nhận sao?

Thực chất cụm từ “tự do trong khuôn khổ” chính là chiêu


trò lập lờ đánh lận con đen của tầng lớp cai trị. Tự do theo
ý của tầng lớp cai trị có nghĩa là, “bạn thích nói gì thì nói,
nhưng không được nói có hại cho tầng lớp cai trị”. Bất kì
phát ngôn nào có hại cho tầng lớp cai trị, thì đều bị tầng
473
Một quan điểm về Triết học

lớp cai trị quy cho tội “phản động, xúc phạm lãnh đạo,...”.
Và sẽ bị tầng lớp cai trị trừng trị cả công khai lẫn không
công khai.

Ở Việt Nam thì điều này có nghĩa là không được nói xấu
đảng Cộng sản và nhà nước Xã hội Chủ nghĩa.

Câu hỏi được đặt ra là “nếu tầng lớp cai trị làm không
đúng thì sao?”. Như vậy vẫn không được quyền phanh
phui sự thật cho toàn dân được biết?

Ở Việt Nam còn có một loại nực cười nữa, đó là những


phiên tòa xử kín, tức là không công khai cho người dân
được vào xem, không một người ngoài nào được biết quá
trình xét xử như thế nào, chỉ biết kết quả xử án.

Chỉ riêng việc có những phiên tòa xử kín đã là vi phạm


nghiêm trọng về quyền con người. Không ai biết quan tòa
và các công tố viên đã ghép cho bị cáo những tội vạ nào.
Mà thực ra họ muốn làm gì chả được, bởi vì người ngoài
đâu có biết để mà phê phán họ được.

Thành phần cai trị lại được chia làm hai cấp: cấp Trung ương và
cấp địa phương.

Trong khi quan chức trung ương chỉ lo đấu đá tranh giành quyền
lực. Khi họ nhận hối lộ thì đều nhận những khoản rất lớn, và mức

474
Một quan điểm về Triết học

độ thiệt hại cho đất nước, cũng tương xứng với số tiền hối lộ mà
họ nhận được (ở cấp quốc gia). Thì quan chức địa phương lại lo
vơ vét, nhũng nhiễu dân chúng. Đây là bộ phận vô cùng gian xảo,
lừa trên dối dưới, khai khống số liệu, rút ruột công trình, … không
từ một thủ đoạn nào để hòng mưu lợi cá nhân.

Người dân ai muốn có lợi ích thì phải có quan hệ và biết đường đi
đêm với các quan, nếu không thì sẽ chỉ chịu thiệt về mình. Chính
việc quan hệ và đối phó với đám công chức này mà người dân dần
không còn tin tưởng lẫn nhau. Câu “đồng tiền đi trước là đồng tiền
khôn” là để chỉ mối quan hệ giữa người dân và đám quan chức này.

Nạn đút lót, quà cáp, biếu xén cấp trên cũng hình thành một cách
tự nhiên (ai cũng sợ nếu mình không đút lót thì người khác lại đút
lót trước và mình thiệt).

Khi vì không còn tin tưởng lẫn nhau thì văn hóa cộng đồng bị phá
hủy một cách nặng nề. Chính vì văn hóa không còn, nên tiêu chuẩn
để đánh giá con người chỉ còn lại là vật chất. Câu “đói cho sạch,
rách cho thơm” được thay bằng câu “khôn sống, bống chết”. Vì
vậy mà người dân giờ đây sống rất thực dụng.

Trong một trường hợp khác, việc quan hệ với các quan chức cũng
giúp cho một bộ phận người dân giàu hơn so với phần còn lại. Sự
giàu có kết hợp với việc tàn lụi văn hóa, đồng thời vật chất lên
ngôi. Kiến thức nông cạn nên họ thường khoe khoang về sự giàu

475
Một quan điểm về Triết học

có không trong sạch của mình. Chính vì sự khoe khoang này mà


họ khiến cho những người dân khác cảm thấy bị xúc phạm, đẩy cái
tôi cá nhân trở nên lớn hơn.

Từ đó, những người dân thường cũng tìm cách tỏ ra giàu có không
kém gì người khác. Dẫn đến cuộc chạy đua hình thức bên ngoài
mà không quan tâm bên trong thế nào, đây chính là căn nguyên
của bệnh sĩ. Và cũng chính vì kiến thức hạn hẹp, tầm nhìn không
xa, đi kèm với việc không tin tưởng người khác dẫn đến chứng
khôn vặt trong dân chúng. Hậu quả là rất khó để hợp tác làm ăn lâu
dài, khó thành những việc lớn.

Tóm lại: Ở đâu có chế độ độc tài xuất hiện, ở đó có sự hủy hoại
nghiêm trọng từ kinh tế cho đến văn hóa.

Vậy thì, khi đã biết những hậu quả mà chế độ độc tài (Cộng sản)
mang đến, cũng như nguyên do dẫn đến sự độc tài đó, rõ ràng là
chúng ta phải đánh giá đúng tình trạng của đất nước chúng ta hiện
nay và tìm ra phương án giải quyết một cách ổn thỏa nhất cho
tương lai của dân tộc Việt Nam.

476
Một quan điểm về Triết học

Theo tôi nghĩ thì thì có một số gạch đầu dòng như sau:

+ 1, Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa có lí luận tương


đối chặt chẽ, trong đó cũng có cái đúng và có cái sai.

Vì căm thù chế độ độc tài mà loại bỏ hoàn toàn hệ tư tưởng


của chủ nghĩa Cộng Sản là không đúng. Chúng ta nên
nhận định một cách khách quan.

+ 2, Chế độ độc tài Cộng sản tuy bây giờ thối nát, nhưng
những ngày đầu nó không phải như vậy. Nhất là những
người lãnh đạo đời đầu, họ đều là những người yêu nước
và dũng cảm.

Những người lãnh đạo bây giờ tuy đa số đều tham quyền
cố vị, nhưng đã làm người thì đều có lương tri. Nếu được
chọn thì chắc họ cũng không lựa chọn sống dưới chế độ
độc tài. Vậy nên mọi người hãy có góc nhìn vị tha hơn cho
họ.

Đặc biệt những người Cộng sản Việt Nam, họ đang sợ,
nếu như họ để mất đảng, mất quyền lực, thì người dân sẽ
không tha cho họ. Vậy nên đã trót cưỡi lên lưng cọp thì
phải cưỡi tới cùng, điều này về lâu dài sẽ không có lợi cho
người dân và cho cả đảng Cộng sản. Nhưng không tìm
được cách nào giải quyết ổn thỏa thì tình trạng này vẫn
được tiếp tục.

477
Một quan điểm về Triết học

Để cởi trói vấn đề này, thì người dân nên cho đảng biết
rằng, nhân dân sẽ sẵn sàng vị tha cho họ, nếu họ quay đầu
và trao quyền lực về tay nhân dân. Đây là kịch bản nhanh
nhất và êm ấm nhất.

Còn nếu không, đảng nên lựa chọn phương pháp chuyển
giao quyền lực một cách dần dần, từng ít một, về tay nhân
dân. Quan trọng là người dân phải sẵn sàng vị tha cho
những người Cộng sản. Đồng thời, những người Cộng sản
cũng phải hiểu rằng, chế độ độc tài này trước sau gì cũng
phải sụp đổ. Vậy nên hãy chủ động trao lại quyền lực về
tay nhân dân.

Phương án ba là phương án không ai mong chờ, đó là


người dân đấu tranh giành lại chính quyền từ tay đảng
Cộng sản. Người dân chắc chắn phải chịu tổn thương,
nhưng đó sẽ là kết cục bi kịch dành cho đảng Cộng sản.

+3, Đảng Cộng sản dù sao cũng nắm quyền lực của đất
nước trong nhiều năm. Họ có kinh nghiệm quản lí đất
nước.

Vậy nên nếu bây giờ lật đổ họ hoàn toàn, thì nhà nước mới
sẽ không có khả năng quản lí, do không có kinh nghiệm.
Đây sẽ là một tổn thất rất lớn cho Việt Nam.

Thứ nữa, có rất nhiều người sống bám vào bộ máy của
đảng Cộng sản, và họ sẽ bảo vệ đảng Cộng sản (nồi cơm

478
Một quan điểm về Triết học

của họ) đến cùng. Vậy nên, khi thay đổi thể chế, chúng ta
phải đảm bảo, bộ máy hành chính nhà nước ít bị xáo trộn
nhất có thể, thì quá trình chuyển đổi thể chế mới xảy ra
suôn sẻ.

Vậy thì đường lối đấu tranh như thế nào là hợp lí?

1) Việc đầu tiên chúng ta phải thống nhất là từ bỏ hoàn toàn lối
đấu tranh dùng bạo lực.

Ở Việt Nam hiện nay, đảng Cộng sản nắm quyền lực tuyệt đối.
Việc đấu tranh bằng bạo lực không những không mang lại kết quả,
mà còn là cái cớ để đảng Cộng sản gia tăng đàn áp những người
đấu tranh dân chủ.

Kể cả khi phe dân chủ nhờ một ngoại lực nào đó mà đủ sức để đối
đầu với Cộng sản Việt Nam bằng bạo lực, thì cuộc chiến cũng sẽ
gây tổn thất lớn cho cả hai bên. Điều này dẫn đến năng lực phòng
thủ quốc gia của Việt Nam suy yếu. Việt Nam khi đó sẽ là miếng
mồi ngon cho một nước độc tài khác xâm chiếm. Nếu điều này xảy
ra thì hậu quả để lại rất lớn.

479
Một quan điểm về Triết học

2) Nguyên nhân chủ yếu mà đến bây giờ chúng ta vẫn còn bị
thống trị bởi chế độ độc tài, là vì, nhận thức về chính trị của người
dân là rất thấp, gần như bằng không.

Một phần bị nhồi sọ bởi nền giáo dục của chế độ Cộng sản Việt
Nam, một phần khác là do văn hóa, thói quen. Tính cách của người
Việt dễ bị áp đặt, quen chịu đựng, không có ý chí phản kháng, cũng
không quan tâm tìm hiểu bản chất sâu xa về sự vật hiện tượng, chỉ
quan tâm những cái trước mắt.

Vì vậy, công việc chính yếu của những người đấu tranh dân chủ là
tập trung nâng cao kiến thức về chính trị cho người dân. Phơi bày
những sự thật mà lâu nay độc tài Cộng sản giấu diếm cho người
dân được biết. Khi dân trí người dân được nâng cao, đã biết phân
biệt được đúng sai, thì quá trình dân chủ hóa đất nước sẽ trở nên
rất dễ dàng.

Vì quá trình nâng cao dân trí là một quá trình tốn nhiều công sức
và lâu dài, nên những nhà dân chủ vừa phải nâng cao dân trí cho
người dân vừa phải ẩn mình tránh bị phát hiện, tự bảo vệ bản thân.

Chỉ khi lực lượng dân chủ đủ mạnh đến mức không thể bị tiêu diệt
hết, thì mới mong có ngày đưa đất nước thoát khỏi độc tài.

Tiếp nữa, những nhà đấu tranh dân chủ nên thành lập, hoặc tham
gia các tổ chức đấu tranh dân chủ có đường lối đấu tranh phù hợp
với mình. Bởi đây không phải là việc một cá nhân có thể làm được,
chúng ta cần sức mạnh của tập thể.

480
Một quan điểm về Triết học

TỔNG KẾT

Từ đầu quyển sách đến đây là toàn bộ quan điểm triết học (siêu
hình, chính trị) của tác giả gửi đến người đọc. Giúp người đọc có
thêm một góc nhìn, để biết chúng ta là ai, chúng ta đang ở đâu, và
nghĩa vụ của chúng ta trong xã hội này là gì?

Và nếu có độc giả nào đọc đến đây, muốn đóng góp một chút gì đó
cho công cuộc đấu tranh dân chủ ở Việt Nam, mà vẫn còn sợ, vì số
người đấu tranh cho dân chủ ở nước ta hiện nay còn rất ít, dễ bị
nhà cầm quyền đàn áp, tiêu diệt. Rõ ràng đây là một thực tế. Thế
nhưng vì khó khăn mà không có người làm, thì mơ ước một ngày
đất nước ta sẽ có dân chủ chỉ là mơ ước hão huyền.

Con đường dẫu dài hay ngắn, nếu không cất những bước chân đầu
tiên thì sẽ không bao giờ đến đích, huống chi chúng ta chỉ là những
người tiếp nối chứ không phải là những người đầu tiên bước đi trên
con đường đấu tranh cho dân chủ. Vậy thì nếu không phải là bạn,
không phải là tôi, thì sẽ là ai?

Mà thực ra, việc đấu tranh cho dân chủ cũng chẳng có gì to tát, bạn
chỉ cần kể cho người khác biết những bất công đang tồn tại trong
xã hội, hoặc chia sẻ nó từ một người khác, miễn câu chuyện đó là

481
Một quan điểm về Triết học

thật, quan trọng hơn, nhà cầm quyền cũng chẳng có cớ gì để làm
khó bạn.

Vậy thì hãy lên án những mảng tối đã được trưng bày ra cho xã
hội, đưa tin đúng sự thật, tránh đánh chính diện vào vấn đề chính
là thể chế độc tài. Đây là chiến thuật hiệu quả với những người
muốn lên án chế độ, nhưng vẫn muốn an toàn, nên nó thích hợp
cho tất cả mọi người.

Việc này chỉ như ném một viên đá nhỏ vào chế độ độc tài. Thế
nhưng, nếu như nhiều người cùng ném thì chế độ độc tài này ắt
phải sụp đổ. Ngược lại chế độ độc tài này cũng không làm gì được
mọi người, bởi nó không thể cấu thành tội, cũng như số lượng
người quá nhiều, chế độ này có muốn kiểm soát cũng không được.

Còn nếu như người đọc sợ những người xung quanh vì không hiểu
nên sẽ tỏ thái độ tiêu cực đối với bạn, thì gửi đến bạn một câu
chuyện mà tôi từng được nghe.

482
Một quan điểm về Triết học

CHIẾC CHĂN BÔNG

Câu chuyện sau đây xảy ra tại một ngôi chùa cũ nát. Sau khi tiểu
đệ tử cứ phàn nàn, than vãn hoài không ngớt về việc bị nhiều người
ghét, vị lão hòa thượng hỏi một câu đã giúp cậu cũng như nhiều
người đang lâm vào hoàn cảnh tương tự bừng tỉnh.

Một tiểu hòa thượng chán nản thất vọng nói với lão hòa thượng:
"Trong cái chùa nhỏ bé này chỉ có hai hòa thượng chúng ta, lúc
con đi xuống núi hóa duyên, mọi người đều nói những lời ác với
chúng ta, còn thường xuyên gọi con là hòa thượng hoang.

Họ cho chúng ta tiền hương khói càng ngày càng ít đến thê thảm".

Tiểu hòa thượng nói tiếp: "Hôm nay con đi khất thực, trời lạnh như
vậy mà không có một ai mở cửa cho con, đến cơm bố thí cũng
được ít. Chùa Bồ Đề chúng ta muốn thành một ngôi chùa ngàn
gian, tiếng chuông vang xa không ngớt như Sư Phụ nói, con e là
không thể".

Lão hòa thượng khoác lên mình chiếc áo cà sa không nói lời nào,
chỉ nhắm mắt lại lẳng lặng nghe, trong khi tiểu hòa thượng cứ nói
và cằn nhằn liên miên…

Cuối cùng lão hòa thượng, hỏi: "Bây giờ bên ngoài gió bấc thổi
mạnh, lại có băng tuyết ngập trời, con có thấy lạnh không?"

483
Một quan điểm về Triết học

Tiểu hòa thượng toàn thân run rẩy nói: "Con lạnh, hai chân con
đều tê cóng cả rồi!"

Lão hòa thượng nói: "Vậy chi bằng chúng ta đi ngủ sớm đi".

Lão hòa thượng và tiểu hòa thượng tắt đèn chui vào trong chăn
ngủ. Một giờ sau, lão hòa thượng hỏi: "Bây giờ con có thấy ấm
hơn không?"

Tiểu hòa thượng trả lời: "Đương nhiên là con thấy ấm rồi, giống
như ngủ dưới ánh Mặt Trời vậy!"

Lão hòa thượng nói: "Khi nãy, chăn bông để ở trên giường là lạnh,
thế nhưng khi có người nằm vào lại trở nên ấm áp. Con thử nói
xem, là chăn bông sưởi ấm cho người hay là người sưởi ấm cho
chăn bông đây?"

Tiểu hòa thượng nghe xong liền nở một nụ cười nói: "Sư phụ,
người thật là hồ đồ đó, chăn bông làm sao có thể sưởi ấm cho người
được, phải là do con người làm chăn bông ấm lên mới đúng chứ!"

Lão hòa thượng hỏi: "Chăn bông đã không cho chúng ta sự ấm áp


lại còn cần chúng ta đi sưởi ấm nó, như thế thì chúng ta còn đắp
chăn bông làm gì?"

Tiểu hòa thượng nghĩ một lát rồi nói: "Mặc dù chăn bông không
sưởi ấm cho chúng ta, nhưng chăn bông dày lại có thể giữ hơi ấm
cho chúng ta, khiến cho chúng ta ngủ được thoải mái".

484
Một quan điểm về Triết học

Trong bóng tối, lão hòa thượng hiểu ý, cười: "Chúng ta là hòa
thượng tụng kinh rung chuông, chẳng phải là giống người nằm
dưới chăn bông sao? Còn những chúng sinh kia, chẳng phải họ là
một cái chăn bông dày đó sao?

Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh
như băng kia cuối cùng cũng sẽ được chúng ta sưởi ấm. Lúc đó
"cái chăn bông" dày kia cũng sẽ biết giữ ấm cho chúng ta.

Chúng ta ngủ trong "cái chăn bông" như vậy, chẳng phải rất ấm áp
sao? Ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông chùa ngân vang không
ngớt, còn có thể là trong mơ được sao?"

Tiểu hòa thượng nghe xong liền bừng tỉnh mà hiểu ra hết.

Bắt đầu từ ngày hôm sau, tiểu hòa thượng đều dậy rất sớm đi xuống
núi hóa duyên. Tiểu hòa thượng cũng vẫn gặp phải những lời ác
như trước đây. Thế nhưng, tiểu hòa thượng trước sau gì đều giữ
vững thái độ nho nhã và lễ độ đối xử với mọi người.

Mười năm sau…

Chùa Bồ Đề nay đã trở thành ngôi chùa có diện tích hơn mười
kilomet vuông, có rất nhiều hòa thượng, khách hành hương tới
không ngớt. Tiểu hòa thượng ngày nào giờ cũng đã trở thành vị sư
trụ trì.
485
Một quan điểm về Triết học

Kỳ thực trên thế giới này, chúng ta đều đang nằm trong chăn bông,
người khác chính là chăn bông của chúng ta. Khi chúng ta dụng
tâm đi sưởi ấm chăn bông thì chăn bông cũng sẽ giữ ấm cho chúng
ta. Ngủ… đắp… một đời, vậy mà hôm nay mới biết…

Hóa ra mối quan hệ giữa người và chăn bông là như vậy, thật là có
đạo lý phải không?

Mai Trà biên dịch.

486
Một quan điểm về Triết học

ĐỌC THÊM

Dự đoán quá trình chuyển đổi dân chủ của nước ta

Cho đến khi tôi viết quyển sách này thì gần như chúng ta có thể
chắc chắn rằng, quá trình chuyển đổi về dân chủ của nước ta sẽ là
quá trình chuyển đổi từ từ. Nó tương đồng với việc nhận thức của
người dân dần tăng lên và biết đòi quyền lợi cho mình, và cũng
tương ứng với sự nhượng bộ một cách từ từ của đảng Cộng sản
Việt Nam. Tức là sẽ không có một sự sụp đổ đột ngột, được gây ra
bởi ngoại lực hay do nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam chia rẽ.
Đương nhiên hai sức ép ngoại lực và nội lực là luôn có.

Sức ép ngoại lực đến từ:

1) Việt Nam hiện nay đang hội nhập sâu rộng với thế giới.
Vậy nên Việt Nam sẽ phải chịu sức ép từ các tổ chức và
các công ty nước ngoài.

Để đổi lấy những hợp đồng xuất nhập khẩu, các hiệp định
thương mại hay những khoản đầu tư nước ngoài, thì đảng
Cộng sản Việt Nam cũng phải đồng ý với những điều kiện
mà các tổ chức, công ty đó nêu ra. Trong đó có các vấn

487
Một quan điểm về Triết học

đề về nhân quyền, như quyền thành lập các công đoàn độc
lập để bảo về quyền lợi cho công nhân, sự thuận tiện trong
việc làm thủ tục hay minh bạch pháp lí, …

Với sự tham gia của Google, Youtube, Facebook, … khiến cho


việc kiểm soát thông tin trở nên khó khăn hơn, góp phần thúc
đẩy dân trí trong nước.

2) Sự co cụm của các nước độc tài còn sót lại, trong đó có
Trung Cộng khiến cho Việt Cộng không còn nơi để dựa dẫm.

Hơn nữa, với việc bộc lộ rõ dã tâm thôn tính Biển Đông của
Trung Cộng càng làm cho Việt Cộng khó có thể xích lại gần
Trung Cộng hơn, bởi sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của
người dân.

Việc Việt Cộng phải đứng một mình trước sức ép của các nước
dân chủ, quá trình chuyển đổi về dân chủ là không thể tránh
khỏi. Việc bế quan tỏa cảng giống như Triều Tiên để bảo vệ
chế độ độc tài là không thể xảy ra, bởi mức độ dân trí của
người dân đã cao, đã có ý thức rất rõ ràng về hậu quả đối với
những việc như thế.

3) Đó là sự trừng phạt của nước ngoài đối với các quan chức
Việt Nam tham nhũng, không cho xuất ngoại và đóng băng tài
khoản ở nước ngoài...

Việc này đưa các quan chức tham nhũng vào thế tiến thoái
lưỡng nan, kiếm được tiền cũng không tiêu được, cũng không
thể chạy trốn ra nước ngoài sinh sống (hạ cánh an toàn). Như

488
Một quan điểm về Triết học

vậy sẽ tạo ra sức ép khiến họ bớt tham nhũng, giảm đi động


lực trung thành với đảng Cộng sản.

Còn sức ép từ bên trong:

1) Trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự rạn vỡ


lớn. Phần đa không còn tin vào lý tưởng của triết học
Marx-Lenin. Thứ duy nhất khiến cho họ vẫn trung thành
với đảng Cộng sản là vì lợi ích (tiền, quyền lực) mà đảng
Cộng sản đem lại cho họ.

Nội bộ đảng Cộng sản không có sự thống nhất, thay vào


đó là kết bè kéo cánh, thanh trừng lẫn nhau, dưới cái vỏ
diệt tham nhũng. Chưa kể xuất hiện những đảng viên trí
thức, am hiểu xã hội (những người này ngày một nhiều)
đang đấu tranh để chỉnh đốn và cải cách đảng Cộng sản
theo hướng tốt đẹp hơn.

2) Người dân ngày càng nhận ra bộ mặt thật của đảng


Cộng sản, khi tham nhũng của các quan chức bị bóc trần
nhan nhản trên mặt báo. Việc thua lỗ hàng nghìn tỷ của
các công ty nhà nước, hay việc đội vốn của các công trình
công cộng lên hàng chục, hàng trăm lần là thứ mà người
dân đã quá quen thuộc.

Tầng lớp dân oan, mất đất ngày một nhiều. Nhất là khi tài
nguyên thiên nhiên đã bị đảng Cộng sản khai thác đến cạn
489
Một quan điểm về Triết học

kiệt, và để nuôi bộ máy nhân sự khổng lồ nhưng vô tích


sự, đảng Cộng sản không còn cách nào khác hơn ngoài
việc đánh vào thuế người dân.

Tức là đảng Cộng sản hoặc phải cắt giảm, và chỉnh đốn
bộ máy nhân sự, trong đó có cả lực lượng dư luận viên,
gây nên sự suy yếu trong đảng; hoặc phải hút thêm máu
nhân dân, và điều này sẽ gây thêm sự bất mãn trong quần
chúng. Còn một trường hợp khác nữa, đó là giao dịch với
các nước độc tài khác, đánh đổi lợi ích lâu dài của dân
tộc (đất đai, biển đảo, tài nguyên thiên nhiên) để lấy
những lợi ích trước mắt (tiền), nhằm giải quyết những vấn
đề mà đảng Cộng Sản đang vướng mắc.

Nhược điểm của những phương pháp này là các vấn đề sẽ


ngày một tích tụ lớn dần và đến một ngày đảng Cộng Sản
không thể kiểm soát được những vấn đề đó nữa, thì đảng
Cộng Sản sẽ tự sụp đổ.

3) Đó là những người đã nhìn ra sự thật, bao gồm nhiều


kiểu khác nhau, như đọc sách báo nhiều, con cháu Việt
Nam Cộng hòa, hay được đi nước ngoài, được nhìn thấy
thế giới văn minh, … cuối cùng hiểu ra bản chất thật của
đảng Cộng sản.

Những người này sẽ quay lại tuyên truyền cho những


người khác hiểu và đứng lên đòi quyền lợi cho mình. Lực

490
Một quan điểm về Triết học

lượng này trong tương lai cũng sẽ ngày một đông đảo,
nhất là tầng lớp giới trẻ.

Vậy tại sao với nhiều sức ép như vậy nhưng đảng Cộng sản lại chỉ
nhượng bộ một cách từ từ?

Đó là vì đấu tranh được chia thành hai loại: đấu tranh mềm (phi
bạo lực; ví dụ như biểu tình, tham gia các phong trào như không
bán đồ ăn cho các đảng viên đảng Cộng sản, …) và đấu tranh cứng
(sử dụng bạo lực như chiến tranh, cướp đoạt, …).

Với việc đảng Cộng sản nắm trọn quân đội ở Việt Nam, việc đấu
tranh khuyến khích bạo lực không khác nào tự sát. Bởi đảng Cộng
sản sẽ tiêu diệt ngay khi phe đối lập mới manh nha hình thành. Hơn
nữa còn tạo cớ để đảng Cộng sản tiêu diệt luôn phong trào dân chủ.

Còn nếu như có cơ hội nhỏ nhoi chiến thắng, thì cũng dẫn đến đất
nước kiệt quệ, và trở thành miếng mồi ngon cho các nước khác.
Điều này còn đáng lo ngại hơn so với việc đảng Cộng sản đang cai
trị hiện nay.

Vậy nên đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam và thế giới chỉ có thể
là đấu tranh mềm. Tuy nhiên đấu tranh mềm thì sẽ là cuộc đấu

491
Một quan điểm về Triết học

tranh lâu dài. Ưu điểm của nó là không gây ra sự xáo trộn lớn trong
đất nước.

Đảng Cộng sản chỉ sụp đổ khi các thành viên trong đảng có nhận
thức cao, khi họ thấy rằng những lợi ích về vật chất, quyền lực mà
đảng mang lại không đủ để bù đắp cho sự thiệt thòi của đất nước
và không đáng để họ bán rẻ nhân cách của mình. Hoặc lợi ích mà
họ nhận được từ đảng nhỏ hơn những thứ mà họ phải chịu đựng,
ví dụ như sự sỉ nhục, khinh thường đến từ nhân dân và người thân
trong gia đình.

Khi những điều này xảy ra, đảng Cộng sản sẽ tự tan rã.

Ở một khía cạnh khác, những chóp bu của đảng Cộng sản cũng
thừa hiểu rằng, không thể kéo dài sự độc tài của đảng được lâu.
Sớm muộn gì nó cũng sụp đổ. Vả lại cũng không nên kéo dài khi
mà nó gây ra sự tụt hậu cho chính đồng bào, trong đó có anh em
ruột thịt của họ.

Ý thức về sự tự tôn dân tộc chắc chắn là vẫn tồn tại trong tâm thức
mỗi người. Vậy nên cá nhân họ cũng không muốn kéo dài sự độc
tôn của Đảng Cộng sản, ngoài những tay mơ vẫn nghĩ rằng chủ
nghĩa Cộng sản là con đường tốt nhất cho dân tộc và vẫn kiên định
theo đuổi, thành phần này chủ yếu toàn người già sắp chết.

492
Một quan điểm về Triết học

Đa số có nhận thức sẽ vẫn muốn từ bỏ sự độc tài của đảng Cộng


sản, nhưng một bộ phận lại không nỡ từ bỏ lợi ích của mình. Quan
trọng hơn là họ sợ đảng Cộng sản sụp đổ nhanh chóng, người dân
bị sốc trước sự thật được phơi bày và sẽ không tha cho họ. Vậy nên
họ chọn cách lèo lái làm sao để đảng Cộng sản từ bỏ quyền lực từ
từ để người dân đỡ bị sốc, và họ cũng sẽ hạ cánh an toàn. Với cá
nhân tác giả thì đây cũng là cách khôn ngoan nhất.

Vậy thì quá trình nhượng bộ từ từ sẽ như thế nào.

Nó có thể đi theo trình tự sau: Nới lỏng quyền tự do ngôn luận,


người dân có thể nói được nhiều vấn đề mà trước đây không dám
nói => cho phép các công đoàn hoạt động độc lập => thông qua
luật biểu tình => cuối cùng là cho phép các đảng hoạt động và tham
gia tranh cử.

Tuy nhiên có một vài lưu ý là, Đảng Cộng sản sẽ tìm mọi cách để
bắt chẹt các đảng đối lập, làm cho không đủ sức tranh cử, thông
qua đó đảng Cộng sản vẫn giữ quyền lãnh đạo đất nước lâu dài này
dẫn đến một kết luận khác là, nước Việt Nam trong tương lai sẽ
chuyển đổi sang chế độ đại nghị và đảng Cộng sản có thể đổi tên
quay lại thành đảng Lao Động. Chứ không thể chuyển đổi sang chế
độ tổng thống, bởi quá trình chuyển đổi là xảy ra từ từ theo xu
hướng tự nhiên, người dân hoàn toàn không có cơ hội chọn ra một

493
Một quan điểm về Triết học

thể chế khác (thể chế tổng thống, hoặc bán tổng thống), xem ra đây
lại là một điều may mắn. Bởi thể chế tổng thống không hề có lợi
cho cuộc chuyển đổi về dân chủ ở nước ta như tôi đã từng phân
tích ở phần trên.

Việc cuối cùng là làm sao để Đảng Cộng Sản chấp nhận cách thức
bầu cử “đảng chiến thắng mặc định được 60% ghế quốc hội”, thì
sẽ là tuyệt vời. Đảng Cộng Sản sẽ không chịu nhượng bộ điều này,
vì nó giới hạn quyền lực khá lớn của họ, dẫn đến quyền lực của
đảng không đủ sức bảo vệ cho nhóm lợi ích (lãnh đạo) trong đảng.
Và chính nhóm lợi ích này sẽ không để điều đó xảy ra.

494
Một quan điểm về Triết học

Bàn về quốc kì và quốc ca

1) Quốc kì

Trước tiên, quốc kì là đại diện cho quốc gia, vì vậy nó chỉ nên
mang ý nghĩa cho truyền thống văn hóa, hay thứ mà quốc gia ấy
xem trọng, (ví dụ như tính cách, công trình, hay cây cối, đồ vật đại
diện cho người dân quốc gia ấy). Nó không nên đại diện cho bất
cứ chủ thuyết triết học nào.

Quốc kì Việt Nam hiện tại với nền màu đỏ, ngoài mang ý nghĩa
cách mạng ra (chủ nghĩa Marx phân biệt giai cấp, và cổ vũ cho đấu
tranh giai cấp), thì nền đỏ và ngôi sao vàng còn thể hiện Việt Nam
là một nước Chủ nghĩa Xã hội, (tức là đại điện cho một chủ thuyết
triết học).

Hiện thực đã phơi bày Chủ nghĩa Xã hội là một sai lầm của nhân
loại, Việt Nam trong tương lai phải kiên quyết từ bỏ Chủ nghĩa Xã
495
Một quan điểm về Triết học

hội nếu muốn có thể tồn tại và phát triển. Vậy nên lá cờ đỏ sao
vàng không thể là quốc kì cho Việt Nam trong tương lai.

Vậy thì chọn lá cờ như thế nào?

Đó phải là lá cờ với nền chủ đạo là nền mà ông cha ta đã chọn, nó


thể hiện sự tiếp nối truyền thống giữa các thế hệ. Nhìn vào lịch sử,
các lá cờ qua các triều đại của dân tộc ta, chúng ta thấy rằng màu
vàng là màu chủ đạo mà ông cha ta đã chọn.

Trong “Đại Nam quốc sử diễn ca” có đoạn “Bà Triệu Ẩu đánh
Ngô”, khái quát rất sinh động:

Binh qua trải bấy nhiêu ngày,


Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.
Anh hùng chán mặt phong trần,
Nữ nhi lại cũng có lần cung đao.
Cửu Chân có ả Triệu Kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Gặp cơn thảo muội cơ trời,
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh.
(Trích wikipedia)
496
Một quan điểm về Triết học

Như vậy, để nối tiếp truyền thống của ông cha, chúng ta sẽ chọn
nền vàng làm quốc kì của nước Việt Nam hiện đại.

Tiếp tục, “người Việt Nam máu đỏ da vàng”, màu đỏ cũng là màu
xuất hiện nhiều trên lá cờ Việt Nam qua các triều đại, vậy nên
chúng ta sẽ lấy hai màu vàng và đỏ là màu chủ đạo cho quốc kì.

497
Một quan điểm về Triết học

Trong đó nền vàng và sắc đỏ bên trong đúng như câu “máu đỏ, da
vàng” mà chúng ta vẫn thường tự nhận.

Cuối cùng, sắc đỏ bên trong lá cờ thể hiện điều gì? Cái này thì nên
trưng cầu dân ý để mọi người cùng đóng góp và bình chọn. Chỉ có
lá cờ được số đông đồng ý lựa chọn, thì người dân sẽ bảo vệ lá cờ
đó. Tuy nhiên bản thân tôi có ý kiến là sắc đỏ nên để hình tượng
cây lúa và con cò. Đây là hai hình tượng quá đỗi quen thuộc với
người dân Việt Nam ta, xuất hiện dày đặc trong các tác phẩm văn
học, ca dao, tục ngữ, có thể lấy làm hình ảnh đại diện cho đất nước.
Chưa kể con cò còn có thể là vật tổ của người Việt cổ.

2) Quốc ca

Quốc ca nên thể hiện được tình yêu thương, hòa thuận trong đất
nước, cũng như thể hiện những thứ mà người dân mong mỏi,
hướng đến, và quyết tâm bảo vệ các giá trị (quyền) của con người
nếu như chúng bị các thế lực khác vi phạm.

Cũng giống như quốc kì, quốc ca cũng nên khuyến khích người
dân đóng góp và bình chọn.

Tuy nhiên với những tiêu chuẩn kể trên, tôi đề xuất bài hát: “Việt
Nam! Việt Nam!” của cố nhạc sĩ Phạm Duy. Đối với đa số người
sống trong nước thì ít người biết đến bài này, bởi vì nó bị đảng
Cộng sản Việt Nam cấm biểu diễn.

498
Một quan điểm về Triết học

Việt Nam! Việt Nam!

Phạm Duy

Việt Nam! Việt Nam! nghe từ vào đời

Việt Nam hai câu nói bên vành nôi

Việt Nam nước tôi.

Việt Nam! Việt Nam! tên gọi là người

Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời

Việt Nam đây miền xinh tươi

Việt Nam đem vào sông núi

Tự do công bình bác ái muôn đời

Việt Nam không đòi xương máu

Việt Nam kêu gọi thương nhau

Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu

Việt Nam trên đường tương lai,

Lửa thiêng soi toàn thế giới

Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời

499
Một quan điểm về Triết học

Tình yêu đây là khí giới,

Tình thương đem về muôn nơi

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người

Việt Nam! Việt Nam!

Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời

Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn đời

Còn nếu muốn bình chọn và sáng tác bài quốc ca mới thì mọi người
nên tham khảo bài quốc ca của nước Mông Cổ hiện nay, cá nhân
tôi đánh giá đây là bài quốc ca hay nhất thế giới hiện tại.

Quốc ca Mông Cổ

Đất nước độc lập thiêng liêng của chúng ta

Là cái nôi của toàn dân tộc Mông Cổ

Nguyện cho tất cả những điều tốt lành trên thế gian

Sẽ hưng thịnh muôn đời trên mảnh đất này

Đất nước ta sẽ củng cố các mối bang giao

Với tất cả các quốc gia trên thế giới

500
Một quan điểm về Triết học

Hãy cùng đắp xây quê hương Mông Cổ yêu dấu

Bằng tất cả ý chí và sức lực của chúng ta

Biểu tượng vĩ đại của dân tộc sẽ che chở cho chúng ta

Và vận mệnh của nhân dân sẽ đồng hành cùng chúng ta

Hãy cùng lưu truyền văn hóa và ngôn ngữ cha ông

Từ thế hệ này sang thế hệ khác

Những người con xuất chúng của Mông Cổ kiên trung

Đã đúc nên chìa khóa, mở ra kỷ nguyên độc lập

Kỷ nguyên của hạnh phúc và tiến bộ

Ôi! Mông Cổ uy linh – Tổ quốc yêu dấu ngàn đời

501
Một quan điểm về Triết học

DI SẢN

Con người khi còn sống cũng nên suy nghĩ khi chết đi mình sẽ để
lại gì cho con cháu sau này. Di sản được chia thành hai loại dưới
dạng vật chất và tinh thần.

Cần quan tâm xem di sản bạn để lại có giá trị trong bao lâu. Vì khi
di sản của bạn vẫn còn giá trị, thì những người thừa hưởng di sản
đó vẫn còn nhớ tới bạn. Bạn vẫn còn tồn tại trong tâm trí những
người đó.

Di sản để lại tốt nhất là di sản về tinh thần, bởi nó không chỉ giúp
ích cho con cháu bạn mà nó còn giúp ích được cho nhiều người
khác nữa. Chúng ta biết rất nhiều người mà tên tuổi của họ được
thế giới biết đến, và lưu truyền trong hàng ngàn năm qua.

Ví dụ: Nho giáo của Khổng Tử, Binh pháp Tôn Tử, Định lí hình
học Pitago, Lực đẩy Acsimet, Einstein với thuyết tương đối,
Darwin với thuyết tiến hóa, ... Và tất cả di sản của các vĩ nhân kể
trên đều tồn tại dưới dạng tinh thần.

Sở dĩ xã hội chúng ta phát triển như ngày nay là vì chúng ta kế thừa


di sản từ những người đi trước. Từng thế hệ nối tiếp nhau liên tục
kế thừa và phát huy thành quả mà người đi trước để lại. Để đến
hôm nay, chúng ta có được một kho tàng tri thức và văn hóa khổng
lồ, mang bản sắc của từng vùng miền, từng dân tộc khác nhau.

502
Một quan điểm về Triết học

Đến lượt chúng ta cũng không ngoại lệ, kế thừa di sản của tiền
nhân và phát huy nó lên tầm cao mới, sau đó để lại cho con cháu
sau này, là quyền lợi cũng như nghĩa vụ của chúng ta.

Ngày nhỏ tôi hay tự hỏi, nếu như vòng đời của một con bò là:

Sinh ra => Lớn lên => Sinh và nuôi con => Già và chết

Tương tự vòng đời của con người chúng ta cũng là:

Sinh ra => Lớn lên => Sinh và nuôi con => Già và chết đi

Vậy thì con người có khác gì con bò? Thế nhưng khi người khác
chửi mình là con bò, tại sao mình lại giận? Và khi nghĩ đến di sản,
nó đã giúp tôi có câu trả lời.

Chúng ta hơn các loài vật khác ở chỗ, chúng ta có tính kế thừa và
phát triển những gì tốt đẹp mà người đi trước để lại. Nếu không có
sự kế thừa này, thì bây giờ chắc rằng chúng ta cũng chỉ là một loài
động vật ăn lông ở lỗ. Được góp một phần nhỏ trong tiến trình phát
triển của văn minh nhân loại, điều đó mới làm cho cuộc sống của
chúng ta có ý nghĩa.

Vì vậy ngay từ khi còn bé, chúng ta hãy cố gắng học tập những gì
tiền nhân để lại. Đầu tiên là cố gắng hiểu nó, sau đó là phê bình nó
và tiếp tục những gì họ còn đang dang dở. Cố gắng phát triển nó
hết mức có thể, sau đó mới mỉm cười giao lại cho thế hệ sau.

503
Một quan điểm về Triết học

Chui qua lỗ kim

Chui qua lỗ kim là một thuật ngữ trừu tượng, hãy tưởng tượng một
người bình thường thì làm sao chui qua được lỗ kim, chứ chưa nói
đến trên vai họ còn mang vác những thứ đồ lỉnh kỉnh, nặng nề.

Chui qua lỗ kim chỉ đạt được sau khi trải qua bao nhiêu năm tháng
không ngừng học tập, cộng với trải nghiệm thực tế ngoài cuộc
sống. Những kiến thức, những kinh nghiệm liên tục được mài giũa,
cuối cùng được gói gọn lại, tinh giản lại trong đầu họ.

Cũng giống như những người luyện võ, trải qua bao năm tháng
luyện tập, cuối cùng không còn đòn thế chiêu thức nữa, mà hoàn
toàn giống như phản xạ tự nhiên vậy. Hay như câu “người kiếm
hợp nhất” cũng là để mô tả ý này.

Các lập trường của một người sau bao lần bị lôi ra chất vấn, thử
thách, nghi ngờ rồi tin tưởng, cuối cùng hình thành nên một thế
giới quan vô cùng vững chắc. Lúc này, họ không còn phụ thuộc
điều gì, tiền tài, danh vọng hay mượn câu chữ của danh nhân này
nọ để bảo vệ quan điểm của mình, tâm trí họ thực sự điềm tĩnh. Tất
cả những gì họ cần để giải quyết vấn đề thực sự đã ở trên con người
họ. Một người như thế, tuy tay không mang bất cứ vật dụng gì, lại
có thể thắng hàng chục người đang om sòm la hét ngoài kia.

Đó có lẽ là mẫu người mà chúng ta đều muốn hướng tới.

504
Một quan điểm về Triết học

BÍ MẬT CỦA THÀNH CÔNG

Ai cũng muốn mình thành công hơn trong cuộc sống, nhưng đã có
bao giờ bạn tự hỏi làm sao để có thể thành công?

Nếu bạn lên Google tìm hiểu thì sẽ thấy có rất nhiều lời khuyên,
nhưng theo tôi về cơ bản chỉ có hai cách. Mức độ thành công của
một người phụ thuộc vào việc họ làm tốt hai cách đó đến đâu.

+ 1, Tự vấn bản thân

Lâu lâu bạn nên tìm một chỗ nào đó yên tĩnh, dành thời gian cho
bản thân mình. Bởi vì chính bạn mới là tài sản lớn nhất mà bạn có,
không bao giờ lo bị mất đi, không ai có thể cướp được chính bản
thân bạn cả. Vì vậy, đầu tư vào bản thân chính là đầu tư sinh lãi và
an toàn nhất, bởi nó nâng cao giá trị bản thân bạn.

Hãy luôn tự đặt cho mình những câu hỏi như: “Mình là ai? Lý
tưởng của mình là gì? Hình mẫu con người mình như thế nào?
Mình còn thiếu điều gì, mình cần bổ sung thêm kiến thức, kỹ năng
gì? Khi nào làm và trong bao lâu?”.

Đây là những câu hỏi giúp bạn định hướng cuộc sống, trong cả
quãng đời của mình.

505
Một quan điểm về Triết học

Với công việc, cuộc sống hàng ngày, bạn cũng hãy tự đặt ra cho
mình những câu hỏi để xác định xem vấn đề của bạn là gì và tìm
cách khắc phục nó. “Tôi làm việc như vậy đã hiệu quả chưa, làm
sao để cải thiện nó? Tôi cư xử như vậy đã đúng chưa, sai chỗ nào
và rút ra bài học gì để lần sau có thể cư xử tốt hơn? Liệu quan điểm
sống của tôi, hay con đường tôi đang đi lâu nay có đúng và tôi phải
làm gì để tương lai trở nên tốt đẹp hơn, hoặc ít nhất khi già đi sẽ
không phải hối hận với những việc mình làm trong quá khứ ....”.

Hãy dành thời gian cho bản thân để đầu óc luôn vận động, tư duy
bằng các câu hỏi tự chất vấn chính mình. Vạch những câu hỏi ấy
trong đầu và nhất định tự tìm câu trả lời cho thỏa đáng. Việc tự vấn
bản thân sẽ giúp bạn định hướng cuộc đời, nhìn nhận lại những
thiếu sót trong cuộc sống.

+ 2, Kiểm soát cảm xúc

Sau khi tự đặt câu hỏi cho bản thân, xác định được con người mà
bạn muốn trở thành, thì việc tiếp theo là bắt tay vào thực hiện nó.

Nói thì dễ vậy nhưng trong quá trình thực hiện, công việc sẽ gặp
rất nhiều khó khăn, khiến bạn nản chí, liệu bạn có vượt qua được
những cảm xúc tiêu cực đó để kiên trì con đường bạn đã chọn.

Ví dụ: Việc học tập giúp nâng cao kiến thức cho bản thân, và từ
những kiến thức đó giúp bạn có thêm các lựa chọn, để tối ưu giải
pháp cho vấn đề mà bạn đang mắc phải. Thế nhưng được mấy
506
Một quan điểm về Triết học

người tự đầu tư vào việc học của bản thân, thay vì làm những việc
tiêu tốn thời gian mà không mang lại giá trị nhiều.

Rõ ràng việc có thể kiểm soát tốt cảm xúc con người mình hay
không, đã quyết định số phận của mỗi chúng ta.

Mỗi khi thấy mệt mỏi, chán nản hãy tự động viên bản thân, tìm lại
những lí do ban đầu khiến cho bạn muốn thực hiện nó, đây cũng là
tác dụng của việc dành thời gian cho bản thân mình.

Tóm lại bí mật của thành công chả có gì phức tạp cả, nó đơn thuần
là phụ thuộc vào nỗ lực của mỗi người mà thôi.

Tuy nhiên ở đây tôi có một lưu ý:

Có một hiện tượng được gọi là hiệu ứng cánh bướm “con sóng nhỏ
ngoài đại dương có thể tạo nên cơn sóng thần ở lục địa”. Tương tự
như vậy, một sai khác nhỏ trong những quyết định thuở nhỏ, có thể
dẫn đến sự cách biệt rất lớn cho số phận con người.

Tất cả chúng ta đều có 24 giờ một ngày, phần lớn thời gian hoạt
động của chúng ta đã tiêu hao cho công việc (khoảng 8 giờ một
ngày). Phần thời gian còn lại dùng cho những hoạt động thiết yếu
của cuộc sống, khoảng thời gian dư giả ra không còn được bao
nhiêu.

Bây giờ ta giả sử, người A làm công việc phổ thông (công nhân),
với mức lương bình thường, người B làm kinh doanh (quản lí) với
507
Một quan điểm về Triết học

thu nhập cao. Cả hai đều tiêu tốn 8 giờ một ngày cho công việc.
Đương nhiên trong khoảng thời gian làm việc, năng lực của mỗi
người ngày càng được nâng cao.

Người làm công nhân lâu dần sẽ có kinh nghiệm về công việc của
công nhân. Người làm quản lí lâu dần sẽ có kinh nghiệm quản lí.
Do tính chất công việc và sự tiếp xúc với những người đồng cấp
với mình, đã khiến hai người có cách tư duy và kéo theo đó là sự
thành công trong cuộc sống khác nhau. Mặc dù lúc ban đầu có thể
cả hai người đều giống nhau về năng lực tư duy, kinh nghiệm (chưa
có hiểu biết gì), chính việc lựa chọn ban đầu đã đẩy số phận hai
người cách xa nhau, về cách tư duy cũng như mức độ thành công
trong cuộc sống.

Bây giờ ta giả sử người A vì không hài lòng với mức thu nhập
trong nghề của mình và muốn chuyển hướng sang kinh doanh
giống người B.

Người A sẽ phải đối mặt với hai vấn đề.

1) Đó là người A sẽ phải từ bỏ công việc mà mình đang


làm quen.

2) Anh ta sẽ chuyển sang lĩnh vực mới mà mình chưa có


chút kinh nghiệm nào, trong khi người B đã là một chuyên
gia trong lĩnh vực kinh doanh.

508
Một quan điểm về Triết học

Ở đây chúng ta rút ra hai bài học:

1) Mỗi người đều có thời gian như nhau, nên việc bạn
chuyển từ một ngành mình đang làm quen, sang ngành
mình không có kinh nghiệm sẽ gặp phải rào cản rất lớn.

2) Đó là, quá trình làm việc cũng chính là quá trình tự rèn
luyện nâng cao năng lực bản thân. Tám tiếng làm việc một
ngày cũng chính là tám tiếng rèn luyện để nâng cao năng
lực.

Cho dù người A tối về tranh thủ học kinh doanh, cũng


không thể bằng người B vốn làm việc trong lĩnh vực kinh
doanh ít nhất 8 tiếng một ngày. Bởi vì thời gian có hạn,
người A tối có cố gắng tranh thủ, cũng chỉ học được 3 - 4
giờ một ngày về kinh doanh.

Qua ví dụ trên, chúng ta thấy rằng: Hai lựa chọn khác nhau theo sẽ
dẫn đến hai số phận khác nhau. Theo thời gian, khoảng cách đó là
càng rõ rệt. Những lựa chọn khác nhau đồng thời hình thành nên
một rào cản giữa hai người, ngăn người lựa chọn sai lựa chọn lại.
Theo thời gian rào cản đó càng ngày càng lớn.

Đương nhiên tôi không cổ súy người đọc lấy thu nhập làm chuẩn,
cuộc sống có nhiều thứ ý có ý nghĩa hơn. Trường hợp trên, chỉ đơn
giản là lấy ví dụ cho người đọc hiểu.

Từ đây chúng ta rút ra bài học. Đối với những bạn trẻ, hãy dành
thời gian để tìm hiểu xem ngành nghề nào là ngành mà mình đam
509
Một quan điểm về Triết học

mê, và cảm thấy thích hợp nhất càng sớm càng tốt. Sau đó, hãy học
tập và làm việc trong ngành đó thật sớm. Sự gia nhập nhanh hay
chậm, theo thời gian cũng tạo nên khoảng cách.

Cuối cùng, rất nhiều người cho rằng, chỉ có kinh doanh mới làm
cho chúng ta giàu có, và khuyến khích mọi người kinh doanh. Tôi
khẳng định đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Bất kì việc gì mang
lại nhiều lợi ích cho xã hội, đều được xã hội đền đáp tương ứng
bằng nhiều cách, trong đó có thu nhập. Mà để mang lại nhiều lợi
ích nhất thì bạn phải giỏi trong lĩnh vực của mình.

Tôi có đọc một câu chuyện như sau:

Có công ty bị hỏng một dây chuyền sản xuất, và công ty đó đã mời


rất nhiều người tới sửa nhưng không sửa được, cho đến khi mời
đến một người. Người này sau khi kiểm tra, đánh giá dây chuyền
đó, đã đòi 100.000 USD. Phía công ty rất ngạc nhiên hỏi “tại sao
lại đắt vậy?”. Thì vị chuyên gia mới trả lời rằng: “Công tìm lỗi, và
sửa chữa không đáng bao nhiêu tiền. Nhưng công mài giũa kiến
thức để có thể phát hiện hỏng hóc và sửa chữa được dây chuyền
đó thì nó có giá 100.000 USD”.

Và sau đó công ty kia đã phải trả 100.000 USD cho vị chuyên gia.

Như vậy, chúng ta thấy rằng, không nhất thiết phải kinh doanh mới
làm giàu được, hơn nữa làm việc mà mình đam mê mới có thể giúp
chúng ta vui vẻ khi làm việc.
510
Một quan điểm về Triết học

VIỄN CẢNH TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

1) Tất cả các quốc gia trên thế giới đều sẽ trở thành thể chế dân
chủ, đây là một tiến trình không thể đảo ngược của loài người.

Chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà những quốc gia độc tài theo đuổi
sẽ biến mất. Thay vào đó là sự tôn trọng các khác biệt về văn hóa
giữa các dân tộc. Các quốc gia sẽ trở nên hòa hợp với nhau hơn.

Dưới ánh sáng dân chủ, người dân sẽ không bị đối xử bất công. Từ
đó tính khí cũng trở nên hiền hòa hơn, lòng nhân ái của con người
được bộc lộ ở mức tối đa. Mọi công dân ở các nước có thể dễ dàng
di chuyển đến nước khác mà không gặp quá nhiều trở ngại.

Ý niệm quốc gia sẽ phần nào bị giảm xuống, thay vào đó sẽ là một
quốc tế đại đồng.

2) Dưới sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chúng ta sẽ được sống


trong một môi trường trong lành. Những trang thiết bị, máy móc
sử dụng năng lượng sạch sẽ thay thế cho những thiết bị chạy xăng
dầu hiện nay.

Bằng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, con người cũng sẽ chủ động
được lương thực, thực phẩm. Lương thực, thực phẩm có thể được
sản xuất trong các tòa nhà cao tầng và con người tập trung sống

511
Một quan điểm về Triết học

trong các khu đô thị. Trả lại phần lớn đất đai lại cho thiên nhiên,
từ đó kéo theo là sự hồi phục trở lại của các loài động thực vật.

Đây sẽ là bước tiến lớn của nhân loại. Bắt đầu từ cuộc sống phụ
thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên trong những buổi đầu sơ khai tiền
văn minh. Đến cải tạo thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của nhân
loại. Và cuối cùng là tách biệt khỏi thiên nhiên, chuyển sang tự
cung tự cấp.

Như vậy, sẽ không còn cảnh khai thác quá mức các loài động, thực
vật, dẫn đến việc phải giết một cá thể động vật nào đó để làm thức
ăn cho mình. Ví dụ: bạn muốn ăn thịt bò sẽ có công nghệ kiểm soát
sự phát triển tế bào, làm sao để từ một tế bào lấy từ con bò sẽ phát
triển thành một bộ phận của con bò, như chân bò, tim bò… chứ
không phát triển thành cả con bò (công nghệ tế bào gốc).

Từ đây, chúng ta có thể ăn thịt bò mà không cần phải giết con bò,
đây là một điều quá tuyệt vời.

Với công nghệ này, chúng ta cũng có thể thay thế các bộ phận hỏng
của con người, bằng cách lấy tế bào gốc để phát triển thành các bộ
phận mà người bệnh cần thay thế như chân, tay, tim, gan, thận…
Thông qua đó có thể cứu sống hàng triệu người, và giúp hàng triệu
người khác có cuộc sống tốt hơn.

Cũng bằng cách ức chế các đoạn gen gây lão hóa cơ thể, tuổi thọ
tương lai của nhân loại sẽ rất cao, tuy không đạt đến bất tử. Và với
sự trợ giúp của các thiết bị, máy móc thông minh (AI) có thể làm

512
Một quan điểm về Triết học

những công việc phức tạp, qua đó có thể nuôi sống con người.
Nhân loại ít phải quan tâm đến việc kiếm sống, mà thay vào đó là
việc hưởng thụ cuộc sống, tức là chất lượng cuộc sống sẽ rất tốt.

Tuy nhiên tương lai cũng có những mặt hạn chế của nó.

1) Nếu không có công tác kiểm soát dân số, vẫn để dân số tăng
nhanh như hiện nay, tương lai sẽ phải đối mặt với việc thiếu thốn
lương thực, thực phẩm, thiếu không gian sinh hoạt, … nói chung
thiếu thốn đủ thứ.

Để nhân loại có thể chuyển sang tự cung tự cấp, không phụ thuộc
vào thiên nhiên, thì mỗi gia đình chỉ nên đẻ hai con, đó là điều bắt
buộc. Tuy sinh hai con, về lí thuyết, nhân loại sẽ phải đối mặt với
tình trạng dân số giảm trong tương lai, do có những đứa trẻ có thể
bị tử vong trước khi lập gia đình.

Nhưng số đứa trẻ giảm do tử vong này sẽ được bù đắp bằng tuổi
thọ của nhân loại tăng lên, và còn có thể tăng lên đột biến trước
các tiến bộ của y học trong tương lai.

513
Một quan điểm về Triết học

2) Có những nguy cơ mới đe dọa sự tồn vong của nhân loại.

Nguy cơ lớn nhất phải kể đến là virus. Với một xã hội năng động
như hiện nay thì bệnh dịch, nếu không được kiểm soát, sẽ lây lan
rất nhanh chóng và có thể bùng phát khắp nơi trên thế giới, cướp
đi sinh mạng của rất nhiều người.

Các virus bị biến đổi gen do môi trường thay đổi sẽ ngày một
nhiều, và nếu có virus nào con người không thể ngăn chặn được
thì đó có thể là dấu chấm hết của nhân loại.

Những bệnh tật mới phát sinh do con người thay đổi thói quen ăn
uống (cả các loại thực phẩm) và sinh hoạt.

Dưới sự phát triển của công nghệ, có thể việc tạo ra các vũ khí hủy
diệt hàng loạt sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hãy thử tưởng tượng điều
đó nếu rơi vào tay một cá nhân nào đó có đầu óc không được bình
thường thì sẽ như thế nào?

Sự diệt vong của nhân loại cũng có thể là do một thiên tai nào đó.
Tuy nhiên đây là rủi ro mà lâu nay vẫn có nguy cơ xảy ra.

3) Đó là khi nhận thức của nhân loại đã đạt tới đỉnh điểm của nó,
như tôi đã viết trong phần triết học siêu hình, mục “định lý bất toàn
của Kurt Gödel”.

Con người còn rất ít và gần như là không thể khám phá ra những
bí ẩn mà mình đang thắc mắc. Mọi thứ gần như chững lại không
514
Một quan điểm về Triết học

thể phát triển được nữa, con người sẽ phải đối mặt với câu hỏi “giờ
mình làm gì đây?”

Chúng ta sinh ra một cách ngẫu nhiên, tiến đến mức trần của nhận
thức, và giờ chỉ còn mỗi hưởng thụ cuộc sống, duy trì nòi giống,
và chờ chết. Các con của chúng ta lớn lên cũng sẽ sống một cuộc
sống y hệt chúng ta, không có một chút thay đổi, tiến bộ nào từ
năm này qua năm khác.

Con người không thể phát triển, vì lẽ đó cũng giảm đi động lực
để sống, kết cục có thể sẽ rất ảm đạm.

515
Một quan điểm về Triết học

516
Một quan điểm về Triết học

517

You might also like