You are on page 1of 273

GIẢI TRÌNH

HIEN PHÁP
VIÊT NAM
Ngày 10 tháng 3 năm 2021
Luật Cơ bản lâm thời – Đề xuất thay thế
Hiến Pháp Việt Nam 2013

ISBN
ISBN978-82-692223-5-7
978-82-692223-3-3

9 788269 222357
GIẢI TRÌNH

HIẾN PHÁP
VIỆT NAM
Ngày
Ngày 10
10 tháng năm 2021
tháng 3 năm 2021

Luật Cơ bản lâm thời – Đề xuất thay thế


Hiến Pháp Việt Nam 2013

PHÁT HÀNH:
QUỐC HỘI – VIỆT NAM DÂN CHỦ
QUOCHOIVN.ORG
Ngày 10 tháng 3 năm 2019
PHÁT HÀNH:
Tái bản: Ngày 1 tháng 9 năm 2020
QUỐC HỘI – VIỆT NAM DÂN CHỦ
QUOCHOIVN.ORG

BIÊN SOẠN:
BIÊN SOẠN:
NGUYỄN KIM OANH
NGUYỄN KIM OANH
OSLO, NA UY
OSLO, NA UY

Bìa sách và in ấn: Interface Media AS, Na Uy


Bìa sách và in ấn: Interface Media AS, Na Uy
ISBN: 978-82-692223-5-7
ISBN: 978-82-692223--9
LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÁC GIẢ

Theo Nghị quyết số: 133/2020/QH14 của Quốc hội CHXHCNVN, ngày
bầu cử Đại biểu Quốc hội khoá XV và Đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp là ngày 23/5/2021. Đây là một sự kiện lớn của đất nước, cũng là một
dịp quan trọng đầy hứa hẹn đối với các đại biểu và ứng cử viên mới của
Việt Nam trong những thập niên tới.

Trong mấy thập niên qua, nước ta đã trải qua nhiều cuộc đổi mới, tổ chức
nhiều hội nghị trọng đại, song việc đặt ra các giải pháp xây dựng, hoàn
thiện, phát triển kinh tế xã hội, tích cực hội nhập quốc tế vẫn là một thách
thức lớn. Cho đến nay, đã có nhiều người lên tiếng về việc Việt Nam cần
có hiến pháp mới, một văn kiện có tính pháp lý cao nhất của quốc gia,
nhưng người dân không thể có được điều kiện và cơ hội để thúc đẩy cho
phép ra đời một bản hiến pháp mang tính dân chủ đích thực. Đã có nhiều
nhà trí thức khuyến nghị chính quyền thực hiện cải cách toàn diện để đưa
đất nước thoát khỏi cảnh lạc hậu và để tiến lên một tầm cao hơn, sánh vai
với các nước tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, những đề xuất đó đã không
được quan tâm, và các quan điểm cứng nhắc tiếp tục áp đặt lên từ thế hệ
này đến thế hệ khác.

Trong bối cảnh hết sức nghiệt ngã, Hiến Pháp Việt Nam 2021 được xây
dựng và ra đời qua một quá trình hết sức ngoại lệ. Đây cũng là một sự
kiện lớn của đất nước và là một dịp để công dân ba miền và các tổ chức
đại diện mọi thành phần trong xã hội đều có dịp tiếp cận và tìm hiểu về
một bản hiến pháp mang tinh thần dân chủ, cùng tham gia quản trị đất
nước. Sự tham gia tích cực của người dân và các tổ chức là một yếu tố vô
cùng quan trọng, để duy trì tính dân chủ của hiến pháp và bảo đảm quyền
lập hiến thực sự thuộc về nhân dân. Bởi đây là nền tảng để xây dựng quốc
gia có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc.

Chính vì vậy, Hiến Pháp Việt Nam 2021 ra đời là một bản hiến pháp lâm
thời với ước mong góp phần thực hiện cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia trên
nền tảng tự do, dân chủ, đa nguyên và đa đảng, một quốc gia pháp quyền
và xây dựng Quốc hội lưỡng viện Việt Nam.

Cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều bản hiến pháp, kể từ Hiến pháp 1946
thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lịch sử lập hiến Việt Nam
đã có thêm 3 bản hiến pháp (1959, 1980 và 1992) tại miền Bắc và miền

3
Nam 2 bản (1956 và 1967), nhưng người dân đa số vẫn nghèo, nước ta
vẫn không sao giàu mạnh theo nhịp điệu tự nhiên của nhân loại. Từ sau
khi nước nhà thống nhất đến nay, sự ảnh hưởng của các bản hiến pháp đã
không tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ, kìm hãm sự phát triển quốc gia dẫn
đến tê liệt kinh tế, tha hóa xã hội và chủ quyền đất nước luôn đứng trước
sức đe dọa của ngoại bang.

Cuốn sách «Giải trình Hiến Pháp Việt Nam 2021» có thể giúp đáp ứng
phần nào trong quá trình tìm hiểu để đi đến áp dụng những mô hình thành
công nhất trên thế giới, tiếp cận việc xây dựng hiến pháp và một quốc gia
dân chủ, pháp quyền. Do đó, loạt sách Hiến Pháp xuất bản từ Vương quốc
Na Uy được biên soạn chủ yếu gồm kiến thức cơ bản và trải nghiệm thực
tế, đời sống chính trị và xã hội, điều kiện phù hợp và khả năng áp dụng ở
nước ta.

Đây là cuốn sách thứ 2 của bộ sách Hiến Pháp Việt Nam (nối tiếp
cuốn HIẾN PHÁP VIỆT NAM - Ngày 10 thánh 3 năm 2021) của
QUOCHOIVN.ORG phát hành. Trong quá trình xây dựng hiến pháp, nội
dung của các đoạn văn, các điều khoản được soạn thảo chi tiết và phong
phú; và cũng do thời lượng hạn hẹp và cấp bách, tác giả không đủ thời
gian giải trình tất cả, nhưng ưu tiên đặc biệt các điều mang tính mới mẻ
hoặc cấp thiết, và cũng do đó, cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót,
khiếm khuyết. Rất mong bạn đọc lượng thứ và góp ý để cuốn sách này có
thể được hoàn thiện hơn trong các lần tái bản.
Mọi góp ý xin được gửi về quochoivn.org@gmail.com.

Na Uy, 12/2020
Nguyễn Kim Oanh

4
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÁC GIẢ.................................................................................. 3

PHẦN A: KHÁI QUÁT VỀ HIẾN PHÁP..........................................................7


Hiến pháp là gì?................................................................................................. 9
Ý tưởng cơ bản................................................................................................ 11
Xây dựng Hiến Pháp......................................................................................... 17
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền..................................................................... 22
Dân chủ tự do.................................................................................................. 24
Tự do ngôn luận............................................................................................... 27
Thể chế đại nghị............................................................................................... 30
Quốc gia phúc lợi - Mô hình Bắc Âu................................................................. 39
Chuyển đổi Thể chế CNXH - CNXHDC............................................................... 49
Một số đặc điểm về Hiến Pháp 2021............................................................... 54

PHẦN B: GIẢI TRÌNH HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2021..................................57


LỜI GIỚI THIỆU................................................................................................. 58
CHƯƠNG I: CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG............................................................. 62
CHƯƠNG II: CÁC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN................................. 82
Mục I. Các quan hệ dân sự........................................................................ 84
Mục II. Các quyền và nghĩa vụ đạo đức và xã hội...................................... 91
Mục III. Các quyền và nghĩa vụ kinh tế...................................................... 99
Mục IV. Các quyền và nghĩa vụ chính trị.................................................. 108
CHƯƠNG III: QUỐC HỘI................................................................................. 113
Mục I. Quốc hội lưỡng viện..................................................................... 114
Mục II. Tiến trình lập pháp...................................................................... 122
Mục III. Ủy ban chuyên môn và Hội đồng bổ trợ.................................... 137
CHƯƠNG IV: TỔNG THỐNG........................................................................... 147
CHƯƠNG V: CHÍNH PHỦ................................................................................ 152
Mục I. Hội đồng Chính phủ..................................................................... 153
Mục II. Cơ quan hành chính.................................................................... 160
CHƯƠNG VI: TÒA ÁN..................................................................................... 164
Mục I. Tổ chức Tư pháp........................................................................... 165
Mục II. Nguồn luật. Cơ quan chuyên ngành............................................ 176
CHƯƠNG VII: TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG............................................................... 180
CHƯƠNG VIII: BẦU CỬ................................................................................... 190

5
CHƯƠNG IX: TÀI CHÍNH.................................................................................. 205
CHƯƠNG X: BẢO HIẾN................................................................................... 218
Mục I. Tòa án Hiến pháp.......................................................................... 220
Mục II. Sửa đổi Hiến pháp....................................................................... 224
PHỤ LỤC: CÁC QUY ĐỊNH CHUYỂN TIẾP......................................................... 226

PHẦN C: PHỤ LỤC VÀ GỢI MỞ GIẢI PHÁP............................................241


Gợi mở giải pháp cho Việt Nam..................................................................... 242
Nguồn tham khảo và những gợi mở.............................................................. 244
Khả năng thực hiện ở Việt Nam..................................................................... 268
Tài liệu tham khảo.......................................................................................... 270
PHẦN A:

KHÁI QUÁT VỀ
HIẾN PHÁP
HIẾN PHÁP LÀ GÌ?

Hiến pháp được biết đến là đạo luật tối cao của một quốc gia, được xây
dựng và thể hiện qua các điều luật cơ bản, bao gồm các nguyên tắc quy định
quyền và nghĩa vụ công dân, nguyên tắc để xây dựng các cơ quan chính
quyền (ví dụ: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án), hoạch định các giới hạn của
chính quyền, điều chỉnh các khía cạnh và yếu tố quan trọng về cách thức
hoạt động của một thể chế, mang đến ổn định và phát triển cho đất nước.

Hiến pháp còn là một văn kiện đưa ra một viễn kiến, một hướng vươn tới
các lĩnh vực xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục và chính trị, là một văn kiện
xây dựng nền tảng cho một quốc gia. Nói nôm na, Hiến pháp được xem như
một hợp đồng giữa nhân dân và chính quyền, các điều ràng buộc và cam
kết trong hợp đồng quy định về các quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của
mỗi chủ thể, vì thế, Hiến pháp phải được chấp thuận của đại đa số người
dân, qua quyền lập hiến và quyền phúc quyết của toàn dân.

Ở các quốc gia tiên tiến, Hiến pháp là một văn kiện quan trọng nhất của đất
nước. Các nền dân chủ hiện đại luôn đề cao việc nghiên cứu và trải nghiệm
trong suốt lịch sử, hiến pháp do đó phần lớn điều chỉnh để phù hợp cuộc
sống thực tế của người dân và đất nước. Các cuộc điều chỉnh này thường
gọi là «sửa đổi, tu chính hiến pháp». Thông thường, khi một quốc gia trải
qua một sự kiện lớn, như thay đổi thể chế - thay đổi hệ thống chính trị, thì
phần lớn các hiến pháp được xây dựng lại hoặc qua một cuộc tu chính quy
mô, điển hình là một số nước ở Trung và Đông Âu từ đầu thập niên 1990.
Ngoài ra, Hiến pháp còn được truyền bá rộng rãi tới công chúng trên nhiều
hình thức để các tầng lớp trong xã hội tiếp thu về các quyền (lợi) và nghĩa
vụ của mình, và do đó luật pháp ở các quốc gia này luôn đứng trên hết và
được tuân thủ.

Ở các nước có hệ thống chính trị một đảng, thường là các nước đi theo chế
độ XHCN, tất cả quyền lực chính trị đều quy tụ chỉ trong khung một đảng
cầm quyền, vì vậy, mặc dù hiến pháp ở các nước này bắt buộc phải thay đổi,
điều chỉnh theo những diễn biến trên thế giới, để thích ứng với các điều kiện
và tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, hiến pháp của các nước này cho tới nay
vẫn phải vật lộn với sự tụt hậu, nghèo đói và đứng trước nguy cơ mất chủ
quyền đất nước. Mặt khác, do các hệ tư tưởng của một chủ nghĩa thất bại,
họ không thể xây dựng được các yếu tố quan trọng để cải thiện xã hội, chính
trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục. Với guồng máy chính trị cồng kềnh và lỗi
thời của các nước XHCN, do thiếu sự tham gia của tất cả các thành phần,

9
các tầng lớp trong xã hội, thiếu tính tranh đua của các tổ chức và đảng phái
chính trị, thiếu các cơ quan kiểm soát độc lập; hiến pháp ở các nước này
thường bị chính quyền xếp sau cương lĩnh của đảng, sử dụng nó như một
công cụ để củng cố quyền lực của đảng, đã trở nên phức tạp, hàm chứa đầy
mâu thuẫn và mờ ám dẫn đến các nguy cơ khủng hoảng toàn diện.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Hiến pháp là bản khế ước xã hội của nhân dân.
Hiến pháp là đạo luật về chủ quyền nhân dân. Hiến pháp khẳng định nhân
dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, hay nói cách khác quyền lực nhà
nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân trao cho và để phục vụ lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân. Theo lý thuyết khế ước xã hội, các quyền tự
nhiên của con người chỉ có thể được đảm bảo khi các cá nhân cùng nhau
thiết lập một khế ước chung, trong đó quyền lực nhà nước bị giới hạn, các
quyền và tự do của con người được ghi nhận và bảo vệ. Với quan niệm hiến
pháp là bản khế ước thì việc xây dựng, soạn thảo hiến pháp phải có sự tham
gia của đông đảo nhân dân nhằm đảm bảo chủ quyền nhân dân. Nhân dân
có quyền tranh luận, trao đổi, bày tỏ quan điểm, đánh giá về các vấn đề hiến
pháp; và quan trọng hơn, những ý kiến, quan điểm của họ phải được lắng
nghe. Mặc dù những điều kiện trên phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh thực
tế, nhưng sự tham gia của nhân dân trong việc làm hiến pháp cho phép nâng
cao tính trung thực của các đánh giá hiến pháp, từ đó có những quy định
hiến pháp phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.»

Tiếp theo: «Tự điển pháp luật Black (Black’s Law Dictionary), hiến pháp là
“…một hợp đồng giữa chính quyền và người dân, theo đó quyền cai trị của
chính quyền do người dân trao cho”. Hiến pháp là nền tảng cho việc tổ chức
nhà nước và quản lý xã hội. Vì thế, việc xây dựng hiến pháp cũng có nghĩa
là việc xác định cách thức các mối quan hệ cơ bản trong xã hội sẽ được giải
quyết như thế nào. Do chủ quyền nhân dân là quyền lực tối cao ở một quốc
gia nên về nguyên tắc chỉ có người dân mới có quyền xây dựng hiến pháp.
Về vấn đề này, Thomas Paine từng nói: “Hiến pháp không phải là đạo luật
của một chính phủ, mà là đạo luật của một dân tộc nhằm cấu thành nên
chính phủ..”. Quá trình xây dựng hiến pháp tất yếu diễn ra những tranh luận
và thoả hiệp giữa các cá nhân và nhóm công dân nhằm tìm ra cách thức tổ
chức nhà nước và quản lý xã hội mang lại nhiều lợi ích tốt nhất cho tất cả
mọi chủ thể. Vì thế, có thể coi hiến pháp là một khế ước xã hội, mặc dù trên
thực tế điều này không bao giờ chính xác hoàn toàn, bởi rất ít khi tất cả cá
nhân và nhóm trong xã hội ở một quốc gia đều có thể tham gia và có vai trò,
ảnh hưởng thực sự trong quá trình xây dựng hiến pháp.»

10
Ý TƯỞNG CƠ BẢN

NA UY - MỘT QUỐC GIA HÒA BÌNH, MỘT TRONG NHỮNG Ý


TƯỞNG LẬP HIẾN CƠ BẢN
Ý tưởng soạn thảo Hiến pháp cho Việt Nam bắt nguồn từ những trải
nghiệm trong cuộc sống tại Na Uy, một đất nước có một truyền thống hòa
bình, đã từng đóng góp nhiều nỗ lực để mang đến hòa bình cho các dân
tộc khác. Hơn 35 năm trải nghiệm và hấp thụ một nền dân chủ xã hội, tác
giả xin chia sẻ đến bạn đọc một số quan niệm về một đất nước mà người
Việt chúng ta thường hay gọi là vùng «đất lạnh tình nồng».

1: Na Uy - một quốc gia hòa bình?


Hơn mười năm trước, trong một bài diễn văn, Jonas Gahr Støre (hiện
là Lãnh đạo Đảng Lao động) đã đề cập đến vấn đề «Na Uy là một quốc
gia hòa bình - huyền thoại hay thực tế?». Trong bài phát biểu của mình,
ông nhấn mạnh rằng «Na Uy là một quốc gia mong muốn hòa bình», và
«Người Na Uy muốn hòa bình, cho chính họ và cho những người khác».
Nhưng đối với Støre, ý tưởng về hòa bình không chỉ giới hạn trong một
khát vọng, nó còn mang một chiều kích đạo đức: «Na Uy có tất cả các
điều kiện tiên quyết để trở thành một quốc gia hòa bình. Theo quan điểm
của chúng tôi, không có gì quý hơn ngoài trách nhiệm là trở thành một
quốc gia vì hòa bình.»

Vậy, nhận thức này đến từ đâu? Nó có ý nghĩa gì đối với chính sách đối
ngoại của Na Uy? Cơ sở cho việc cam kết hòa bình của Na Uy như thế
nào?

2: Truyền thống Na Uy và sự phát triển


Để giải thích Na Uy là một quốc gia hòa bình và trách nhiệm đạo đức
trong việc góp phần tạo ra hòa bình trên thế giới, Støre đặt mình vào
một truyền thống lâu đời của Na Uy. Khi Bộ trưởng Ngoại giao Halvard
Lange trình bày chính sách đối ngoại vào tháng 1/1949, giữa cuộc tranh
luận rộng rãi về việc Na Uy trở thành thành viên NATO, ông nhấn mạnh
rằng «Lợi ích hàng đầu của Na Uy là hòa bình», và «toàn bộ truyền thống
chính sách đối ngoại của Na Uy cho thấy rằng chúng tôi không có mong
muốn gì hơn với sự tham gia vào chính trị quốc tế để đóng góp xây dựng
hòa bình, khoan dung và độ lượng, hợp tác giữa các quốc gia và các dân
tộc».

11
Bộ trưởng Ngoại giao Halvdan Koht, năm 1902, mô tả công việc hòa bình
như một nhiệm vụ, một ơn gọi hay một sứ mệnh đối với Na Uy, vào năm
1936 đã kêu gọi hành động theo cách: «Chúng tôi là một dân tộc nhỏ bé,
và lá phiếu của chúng tôi đã không đi được xa; nhưng chúng tôi vẫn luôn
hét, hét thật lớn, hét lên rằng chúng tôi sẽ và phải làm việc vì hòa bình. Đó
là mong muốn của chúng tôi, vì chúng tôi muốn hòa bình và muốn có hòa
bình trên thế giới».

Trong một cuộc thăm dò vào dịp Lễ kỷ niệm 100-năm tại Na Uy (2005),
92% trong số những người được hỏi cho biết họ hoàn toàn đồng ý với sự
mô tả về Na Uy là «Một quốc gia giàu có, chia sẻ tài nguyên của mình với
những người khác thông qua hoạt động nhân đạo và công tác hòa bình».
Mong muốn hòa bình cũng bao gồm những suy nghĩ về phát triển hòa
bình - những cơ hội để tạo ra nhiều phúc lợi và cuộc sống hàng ngày được
tốt hơn. Tuy nhiên, nội dung của công việc hòa bình cụ thể đã thay đổi:
- Trăm năm trước, ý tưởng trung lập quốc gia, thương mại tự do và
sự phát triển của luật pháp quốc tế.
- Khoảng năm 1950, trọng tâm cải tiến thông qua LHQ.
- Thương mại quốc tế tự do (cởi mở hơn), tăng cường luật pháp
quốc tế và các nỗ lực đa phương thông qua LHQ vẫn là những
đặc điểm chính trong cách tiếp cận của Na Uy đối với hòa bình và
phát triển.
- Sau Chiến tranh Lạnh, người ta thấy một nỗ lực đáng kể của Na
Uy trong việc tạo thuận lợi và hòa bình trong các tiến trình hòa
giải.

Chính với các nỗ lực này, bối cảnh ý tưởng về Na Uy như một quốc gia
hòa bình, đã trở nên gần như một tiềm thức và được ưu tiên cao trong
chính sách đối ngoại và diễn ngôn.

3: Tại sao Na Uy?


Truyền thống hòa bình của Na Uy có thể bắt nguồn từ hơn 100 năm, với
những lý do khác nhau. Một yếu tố cơ bản có thể giải thích đó là sinh
mệnh - người Na Uy đơn giản là một dân tộc hòa bình hơn so với các dân
tộc khác. Ngay từ những năm 1890, người ta đã nhấn mạnh rằng Na Uy có
vị trí đặc biệt là một nước nhỏ, có nền dân chủ phát triển tốt, xã hội dân sự
mạnh mẽ và lịch sử hiện đại không có chiến tranh xâm lược và chủ nghĩa
đế quốc.

12
Có lẽ điều chính xác nhất khi nói đến Na Uy là một quốc gia của sự ôn
hòa bởi vì họ có truyền thống hòa bình - tự nhìn mình như một quốc gia
hòa bình. Những câu chuyện về Na Uy là những câu chuyện nhấn mạnh
nỗ lực hòa bình và ý chí hòa bình, không phải truyền thống quân sự và ý
chí tự cường, mặc dù thiết bị vũ trang quân sự của quốc gia này luôn dồi
dào, một đất nước nằm sát bên anh cường quốc Nga.

4: Cơ sở tổ chức
Khi truyền thống hòa bình của Na Uy đã có thể tồn tại hơn một trăm năm,
thì điều này liên quan đến thực tế là các trào lưu và phong trào mạnh mẽ
trong xã hội đã trở thành trọng tâm trong việc hoạch định và phát triển
truyền thống. Sự chắc chắn này được liên kết với một trong những khái
niệm tích cực nhất trong diễn ngôn của người Na Uy – «Nhân dân».
1. Khi truyền thống hòa bình đã trở thành công thức lần đầu tiên vào
những năm 1890, nó được liên kết với phong trào cánh tả bình dân -
dân chủ và tự do - vốn thống trị chính trị, với mối liên hệ rõ rệt giữa
các thuật ngữ «nhân dân» và «hòa bình». Ý tưởng - phù hợp với
truyền thống tự do ở các nước khác - hòa bình cần đạt được thông
qua thương mại tự do, sự khai sáng, tổ chức quốc tế và mở rộng luật
pháp quốc tế.
2. Truyền thống tự do (điểm 1) sau đó từng bước được tiếp tục phát
triển và mở rộng theo hướng dân chủ xã hội. Điều này được xây
dựng dựa trên tình đoàn kết quốc tế đặc trưng cho phong trào lao
động ngay từ ban đầu. Ngoài luật pháp quốc tế, còn có tư pháp quốc
tế, được cụ thể hóa thông qua công tác nguồn viện trợ và phát triển.
3. Bên cạnh những trào lưu chính này, chúng ta cũng tìm thấy truyền
thống bác ái mạnh mẽ của Cơ đốc giáo, đã được phản ánh trong
hòa bình, phát triển và công tác cứu trợ trong thời kỳ trị vì của
Bondevik (Đảng Nhân dân Thiên Chúa giáo) ngày càng trở nên một
phần nhận thức chung về Na Uy là một quốc gia hòa bình.

Ngày nay, họ tìm thấy những yếu tố của cả ba dòng chính này trong phần
trình bày về truyền thống hòa bình của Na Uy. Tuy nhiên, phong trào lao
động và các trào lưu Kitô giáo khác đã tác động đến các tổ chức tự nguyện
so với truyền thống tự do. Các tổ chức phi chính trị (NGO) này đã lần lượt
đóng những vai trò quan trọng trong việc Na Uy tham gia vào công tác
hòa bình trong những thập kỷ gần đây, và sự tham gia đã phát triển theo
nhiều cách.

13
5: Mô hình Na Uy
Do hệ tư tưởng và tổ chức đã tồn tại trong một thời gian dài, Chiến tranh
Lạnh kết thúc phần nào đã khiến chủ nghĩa hòa bình của Na Uy trở nên
khả thi và tìm ra những cách thức mới để đánh dấu vai trò của Na Uy trở
nên thu hút trên thế giới. Ngay trong những năm cuối của Chiến tranh
Lạnh, Jan Egeland đã lập luận rằng, các quốc gia nhỏ có điều kiện tốt hơn
để tiến hành công tác nhân quyền so với các cường quốc, và từ đầu những
năm 1990 «mô hình Na Uy» này đã được áp dụng và phát triển thông qua
cam kết hòa bình của Na Uy. Sau gần hai thập kỷ kinh nghiệm, Bộ Ngoại
giao đề cập năm 2007 về mô hình được đặc trưng bởi những điểm chính
như sau:
- Sẵn sàng hỗ trợ trong thời kỳ dài, dựa trên quan điểm dài hạn qua
những thỏa thuận rộng mở của Na Uy. Ngoài ra, sẵn sàng đàm
thoại với tất cả các thế lực trong một cuộc xung đột.
- Các nguồn lực hỗ trợ, cả với số tiền đáng kể và mức độ linh hoạt
cao. Trợ giúp lâu dài thông qua công tác viện trợ.
- Hợp tác chặt chẽ giữa quốc gia và các tổ chức thiện nguyện của
Na Uy. Các tổ chức phi chính phủ thường làm trung gian cho các
cuộc tiếp xúc đầu tiên.
- Kinh nghiệm qua các quá trình hòa giải, tuy mỗi quá trình có
những đặc điểm riêng biệt.
- Quan hệ tốt với các chủ thể quốc tế chủ chốt, cũng như sự tín
nhiệm quốc tế thông qua việc tham gia vào LHQ và công tác viện
trợ.
- Quá khứ thuộc địa và lợi ích riêng trong các khu vực xung đột.
- Một vai trò tạo điều kiện thay cho hòa giải, trong đó trách nhiệm
cuối cùng thuộc về chính các thế lực.

Những năm đầu tiên của thập niên 1990 được đánh dấu bằng sự nhiệt
tình với những kết quả tích cực nhanh chóng và niềm tin sâu rộng vào
khả năng của mô hình. Theo thời gian, bức tranh đã trở nên nhiều sắc thái
hơn. Công việc hòa bình đòi hỏi thời gian và đúc kết, mỗi cuộc xung đột
và tiến trình hòa bình phải được hiểu theo những điều kiện riêng. Khi sự
cuồng nhiệt của cơn bão đầu tiên lắng xuống, và đặc biệt là sau khi tình
hình quốc tế trở nên kém ổn định hơn sau ngày 11/09/2001, nhiều người
cảm thấy cần phải hợp pháp hóa công việc hòa bình.

6: Chính trị lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực


Đại đa số dân chúng dường như xem các cam kết hòa bình là việc tích
cực, trong số các đảng chính trị, Đảng cánh tả xã hội chủ nghĩa (SV), phần

14
lớn Đảng Lao động (A), Đảng Tự do (Cánh tả, Venstre) và Đảng Nhân
dân Thiên Chúa giáo (KrF). Đa số các đảng phái dường như đều đồng
nhất cho đó là động cơ lý tưởng, vị tha, không thể tách khỏi nỗi đau khổ
của con người ngay cả khi nó diễn ra ở rất xa.

Song song với chủ nghĩa duy tâm, một lối tư duy thực tế đã xuất hiện từ
những năm 1900 - hòa bình trên thế giới, Na Uy cũng sẽ sống trong hòa
bình. Do đó, công việc hòa bình có thể được hiểu là một hình thức giúp đỡ
để tự lực cánh sinh hoặc như một chính sách an ninh. Các nhà hoạt động
vì hòa bình từ lâu đã lo sợ rằng Na Uy sẽ bị lôi kéo vào các cuộc xung đột
vũ trang và chiến tranh trên chính mảnh đất của mình, thì vấn đề phức tạp
gây bức xúc hiện nay vẫn là: Chiến tranh và xung đột dẫn đến dòng người
tị nạn, sự bất ổn và tiềm ẩn của các quốc gia vô pháp luật.

Những yếu tố tác hại này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn lậu vũ
khí, ma túy và con người; tham nhũng, tội phạm có tổ chức và khả năng
khủng bố. Trong một thế giới toàn cầu hóa, xung đột cục bộ đang nhanh
chóng trở thành vấn đề toàn cầu, như các cuộc tranh cãi đối với phim hoạt
hình về Nhà tiên tri Muhammad.

Các lợi ích của quốc gia nhỏ có thể được bảo đảm tốt nhất thông qua việc
củng cố trật tự luật pháp quốc tế, khả năng dự đoán và cách thực hiện, chủ
nghĩa hoạt động hòa bình rất có thể được coi là một phần của chính sách
an ninh chung. Trong những năm gần đây, cũng có một thành phần thực
quyền khác trong lập luận hòa bình. Như chính Bộ Ngoại giao đã tuyên
bố trên trang web của mình: «Sự tham gia của chúng tôi đã mang lại danh
tiếng tích cực mà chúng tôi cũng có thể tạo ra trong các bối cảnh chính
trị khác». Khi Đảng Bảo thủ (Cánh hữu, Høyre) trong giai đoạn Quốc hội
trước đó chấp nhận cam kết hòa bình, được hiểu ở một mức độ dựa trên
cơ sở của việc cân nhắc lợi ích - chính trị này.

Trong một cuộc khảo sát quốc tế (2005), hầu như rất ít người xem Na Uy
là một quốc gia «chia sẻ tài nguyên của mình với những người khác thông
qua hoạt động nhân đạo và hòa bình». Tuy nhiên, việc trao giải Nobel Hòa
bình hàng năm là một ví dụ hiển nhiên về mối liên kết toàn cầu lặp đi lặp
lại giữa Na Uy và thế giới hòa bình, điều này cũng tác động đến hầu hết
mọi người, ít nhất là ở các quốc gia của những người đoạt giải Nobel Hòa
bình.

15
Đó cũng là chính sách đối ngoại của giới tinh hoa trên toàn thế giới nhận
thức đầy đủ về các cam kết của Na Uy, và do đó danh tiếng có thể đóng
một vai trò tạo cơ hội đưa các vấn đề khác vào chương trình nghị sự -
được lắng nghe trong các bối cảnh khác nhau. Đồng thời, giá trị chuyển
biến từ cam kết hòa bình sang thúc đẩy tư lợi tài chính là phần lớn đáng
kể, tạo cơ sở tiếp cận thị trường quốc tế cho hải sản và cá hồi mà họ có thể
bán ra thế giới trên nỗ lực với tư cách là một nhà môi giới hòa bình.

7: Na Uy - cường quốc nhân đạo?


Người Na Uy có lẽ có xu hướng đánh giá quá cao vai trò của mình với
tư cách là người điều phối và hòa giải, cũng như cách nhìn nhận sự tham
gia của Na Uy ở thế giới bên ngoài, và do đó, Na Uy xem mình là một
«cường quốc nhân đạo» hơn các nước khác. Tuy nhiên, cần phải nói thêm
rằng Na Uy, thông qua mức độ hoạt động cao và những đóng góp kinh tế
lớn cho cộng đồng thế giới, nổi bật hơn hẳn so với quy mô dân số, một đất
nước được xếp hạng thứ 120 trong danh sách các quốc gia trên thế giới.

Ở một mức độ, truyền thống hòa bình đã và đang là một truyền thống
để sử dụng đối ngoại, được duy trì và nuôi dưỡng hình ảnh bản thân của
người Na Uy. Tuy nhiên, bản thân đây không phải là điều tiêu cực. Trong
bức tranh lớn, chính sách hòa bình thực sự có hiệu quả nếu nó giúp giữ
cho các quan điểm của Na Uy và liên quan trên các diễn đàn quốc tế góp
phần làm giảm mức độ căng thẳng quốc tế. Lý tưởng nhất, nó có hiệu quả
ngay từ thời điểm góp phần vào sự sống còn của con người, những người
lẽ ra đã bị giết trong các cuộc xung đột vũ trang.

Và cuối cùng, thật đáng để cho chúng ta dừng lại và tự hỏi một quốc gia
chỉ có trên dưới 5 triệu dân, có GDP bình quân đầu người cao thứ hai thế
giới (2007), lại có mục tiêu cao cả trong chính sách đối ngoại của mình.
Chính sách hòa bình của Na Uy không thể cứu thế giới, nhưng đã góp
phần trợ giúp thúc đẩy thế giới đi đúng hướng.

16
XÂY DỰNG HIẾN PHÁP

Ý TƯỞNG XÂY DỰNG HIẾN PHÁP


Ý tưởng xây dựng Hiến pháp Việt Nam 2021 khởi đầu từ cuối năm 2017,
công trình nghiên cứu bắt đầu từ những tháng đầu năm 2018 và hình thành
bản Hiến pháp đầu tiên vào tháng 3/2019. Sau một thời gian tiếp thu thêm
kiến thức chính trị cũng như các diễn biến mới, Hiến pháp được cập nhật
với những bổ sung và tu chính vào tháng 8/2020.

Hiến Pháp 2021 được thiết lập phần lớn mang tính thực tế và sắc thái Bắc
Âu, pha trộn trong mô hình Tây Âu và nền dân chủ ở Đông Bắc Á. Hơn
nữa, Hiến Pháp được thiết lập với những giải pháp cần thiết trong một bối
cảnh hết sức lo âu và phức tạp của đất nước Việt Nam hiện nay.

Trong số các nguyên tắc lập hiến cơ bản, Hiến pháp dựa trên nguyên tắc
chủ quyền nhân dân, quy định về các quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm
của các chủ thể, tạo một «Quy ước» chung giữa nhân dân và chính quyền
hoạt động trong toàn xã hội, để hình thành nên nền tảng quốc gia.

Ngoài sự tổng hợp của các yếu tố khả thi qua những bản nghiên cứu khoa
học pháp luật, rút ra kinh nghiệm cũng như thành quả của các quốc gia ở
các phần lục địa được đề cập, Hiến Pháp Việt Nam 2021 cũng được tham
chiếu với chiều dài lịch sử lập hiến của Việt Nam và các thể chế khác
nhau của từng miền, từng thời kỳ và phân tích những điểm ưu-nhược ảnh
hưởng của các bản Hiến pháp.

Theo luật tục Hiến pháp trên thế giới, Đạo luật này được xem là đạo luật
gốc, có chiều cao vượt bậc so với tất cả các nguồn luật khác. Điều này
có nghĩa là nếu có mâu thuẫn giữa quy định của hiến pháp và quy định
của pháp luật chung, Hiến pháp luôn luôn đứng trên hết, bởi tính hiệu lực
pháp lý cao nhất của một quốc gia, xuất phát từ nhân dân, chủ thể của
quyền lực quốc gia và các chính quyền.

Cũng như nhiều nền dân chủ khác, Hiến Pháp 2021 chia nhà nước thành
ba nhánh quyền lực để kiểm soát, ngăn chặn các thành phần tiêu cực tác
hại vào xã hội, như lạm quyền và tham nhũng của các lực lượng chính trị.
Theo lý thuyết phân lập quyền lực, Quốc hội có thẩm quyền lập pháp, ban
hành pháp luật của đất nước. Chính phủ có thẩm quyền hành pháp, bảo
đảm pháp luật được thực thi, và Tòa án có thẩm quyền tư pháp, trừng phạt

17
các quan chức vi phạm pháp luật, tuyên án các tranh chấp giữa các giai
cấp chính quyền và giải quyết bất đồng giữa các mối quan hệ dân sự.

XÂY DỰNG HIẾN PHÁP


Xây dựng hiến pháp, còn được gọi lập hiến, thường là một quy trình
nghiên cứu, tra cứu, soạn thảo, tham khảo với các chức năng nghiên cứu,
tiếp nhận ý kiến đóng góp từ các nhóm chuyên gia trong lĩnh vực pháp
luật và đa ngành trên quy mô rộng lớn. Sau đó, dự thảo hiến pháp được
tiến hành thông qua các thủ tục quy định trong chính hiến pháp.

Xây dựng hiến pháp mới là một sự kiện vô cùng to lớn của một quốc gia
dân tộc, thường được thực hiện khi đất nước có một biến chuyển lớn, một
sự kiện trọng đại trong một giai đoạn giao thời. Theo ABC về Hiến Pháp:
«Sau khi ra đời, theo thời gian, các quy định của hiến pháp có thể phải sửa
đổi để phù hợp với những biến động của cuộc sống.

Xây dựng và sửa đổi hiến pháp là những sự kiện chính trị đặc biệt, phản
ánh bản chất dân chủ và pháp quyền của một quốc gia. Hiến pháp là bản
khế ước xã hội, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do đó nhân
dân có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.

Xây dựng và sửa đổi hiến pháp là một quy trình đặc biệt được quy định
trong chính hiến pháp. Việc đảm bảo các quy tắc giới hạn chính quyền
trong việc sửa đổi hiến pháp nhằm phòng ngừa việc các cơ quan nhà nước
có thể sửa đổi hiến pháp một cách tùy tiện, đi ngược lại chủ quyền nhân
dân được ghi nhận trong hiến pháp.

Việc sửa đổi hiến pháp chỉ đặt ra khi đã có hiến pháp, tức là sửa đổi những
quy định của bản hiến pháp hiện hành. Nguồn gốc của việc sửa đổi thường
xuất phát từ việc những quy định hiến pháp hiện hành không còn phù hợp
với những thay đổi của đời sống thực tiễn, nhưng cũng có thể xuất phát
từ một sự áp đặt từ bên ngoài hoặc do ý chí chủ quan của một/hoặc một
nhóm người. Sửa đổi hiến pháp có thể đem lại một cuộc cách mạng về nội
dung (sự thay đổi cơ bản của hiến pháp mới so với hiến pháp trước đó),
nhưng cũng có thể chỉ là một vài điều chỉnh nhỏ. Các cuộc cách mạng
chính trị thường đem lại những thay đổi cơ bản về nội dung hiến pháp,
nhưng cũng có khi những thay đổi như vậy diễn ra mà không cần phải có
cách mạng chính trị.

18
Sửa đổi hiến pháp có thể tiếp nối hiệu lực pháp lý của bản hiến pháp hiện
hành (hiến pháp sau khi được sửa đổi vẫn có hiệu lực), nhưng cũng có thể
là ban hành một bản hiến pháp mới. Sửa đổi hiến pháp có thể tiếp nối/kế
thừa những nội dung của hiến pháp hiện hành, nhưng cũng có thể đưa ra
những nội dung hoàn toàn mới.»

TẢI SAO PHẢI CÓ HIẾN PHÁP MỚI?


Theo ABC về Hiến Pháp: «Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý tối
cao của quốc gia. Hiệu lực tối cao đó thường song hành với sự trường tồn,
ít thay đổi của chúng. Nói như vậy không có nghĩa hiến pháp không thể bị
thay đổi. Hiến pháp là bản văn của con người, con người có khuyết tật nên
các bản văn của họ cũng có khuyết tật. Hơn nữa, cuộc sống của con người
luôn thay đổi theo thời gian, hiến pháp được ban hành trong quá khứ
không thể là vĩnh hằng, áp dụng cứng nhắc cho ngày hôm nay. Một nội
dung đúng trước đây nhưng lại có thể không đúng cho hiện tại và tương
lai.

Nhiều nhà khoa học cũng như chính trị gia cho rằng mỗi bản hiến pháp
được thông qua là dành cho một thế hệ, không thể bắt thế hệ mai sau phải
tuân thủ những quan điểm, mong muốn, sự ấn định của thế hệ trước, dù có
những điểm phù hợp cần kế thừa. Đó là một trong những lý do cần phải
sửa đổi hiến pháp.»

Vai trò xây dựng, sửa đổi hiến pháp thường là một quy trình được tổ chức
do các đảng phái chính trị đại diện trong cơ quan lập pháp ở các nước có
chính thể đa đảng và cơ quan dân cử. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay, mặc dù không được hiến pháp quy định là một chủ thể có quyền
lập hiến, nhưng với tư cách là chính đảng cầm quyền nên nắm luôn quyền
chủ thể cho việc sửa đổi hiến pháp (một cách tùy tiện).

Tuy nhiên, hiến pháp là đạo luật của nhân dân, mà nhân dân Việt Nam
không có được điều kiện trực tiếp để thực hiện việc xây dựng cũng như
sửa đổi hiến pháp theo ý chí và nguyện vọng của mình. Chính vì thế, nước
ta mới xuất hiện một bản Hiến pháp mới, một bản Hiến pháp lâm thời
xuất phát từ một phương trời xa xăm.

NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VIỆC XÂY DỰNG HIẾN PHÁP


Theo ABC về Hiến Pháp: «Hiến pháp là một bản khế ước xã hội, thể
hiện chủ quyền nhân dân thông qua việc giới hạn quyền lực của các cơ

19
quan nhà nước và ghi nhận các quyền con người, quyền công dân. Những
nguyên tắc xây dựng, sửa đổi hiến pháp phải đảm bảo được tính chất cơ
bản đó của hiến pháp. Những nguyên tắc này bao gồm:
- Đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân dân: phải đảm bảo rằng
nguồn gốc của hiến pháp là chủ quyền nhân dân, là bản khế ước
xã hội. Do vậy, các nội dung cũng như phương thức xây dựng, sửa
đổi phải đảm bảo tính dân chủ: hiến pháp được ban hành, sửa đổi
theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân; nhân dân có quyền tham
gia đầy đủ, tích cực trong quy trình lập hiến; nhân dân có quyền
giám sát quy trình lập hiến; các ý kiến của nhân dân cần phải
được coi trọng, tiếp thu bởi các cơ quan lập hiến; nhân dân có thể
tham gia phúc quyết về hiến pháp sửa đổi …
- Giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước: hiến pháp là một
đạo luật tổ chức quyền lực nhà nước, bên cạnh việc quy định các
cơ cấu tổ chức nhà nước là việc xác định các giới hạn về quyền
hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các quyền cơ bản
của con người. Do đó, các cơ quan nhà nước không được xây
dựng, sửa đổi hiến pháp một cách tùy tiện, mà cần phải tuân thủ
các quy trình dân chủ, được quy định trong hiến pháp. Việc sửa
đổi hiến pháp được quy định rất chặt chẽ trong hiến pháp, đặt ra
các giới hạn nghiêm ngặt mà các cơ quan nhà nước phải tuân thủ
khi sửa đổi hiến pháp.
- Kỹ thuật lập hiến đặc thù: Việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp đảm
bảo những kỹ thuật lập hiến đặc thù như: đảm bảo chủ quyền
nhân dân; phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp; quy
định các nguyên tắc cơ bản, khái quát đặt nền tảng cho hệ thống
pháp luật …»

CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG HIẾN PHÁP 2021


Cấu trúc và nội dung của Hiến Pháp 2021, còn gọi là Luật Cơ bản, được
thực hiện qua 25 tiêu đề bao gồm Lời giới thiệu, 10 Chương và phần Phụ
lục, và 192 điều luật § cơ bản, trong đó phần Phụ lục quy định cuộc Tổng
tuyển cử Quốc gia, hình thành Quốc hội lưỡng viện, thành lập Chính phủ
mới, thiết lập 3 Tòa án độc lập mới, các bước chuyển tiếp mang tính ôn
hòa và vững vàng, thành phần quyết định cho xã hội và nhân dân Việt
Nam vào năm 2021.

20
LẬP TRƯỜNG, NHIỆM VỤ VÀ BỐI CẢNH CỦA HIẾN PHÁP 2021
Hiến Pháp 2021 là một bản Hiến pháp Lâm thời, ra đời với nhiệm vụ:
- Thứ nhất, góp phần thực hiện cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia trên
nền tảng tự do (freedom), dân chủ (democracy), đa nguyên (multi-
plicity) và đa đảng (multi-party);
- Thứ hai, trợ giúp trong công cuộc chuyển thể tích cực trong một
thời hạn nhất định cho Việt Nam;
- Thứ ba, cùng lúc xây dựng một «quốc gia pháp quyền» (rule of
law) trên nền tảng «dân chủ lập hiến» (constitutional democracy)
và đi vào ổn định đất nước.

Sự hình thành bản Hiến pháp này không những gặp nhiều trở ngại,
hoài nghi mà còn là một cuộc gian nan đầy thử thách. Thừa nhận một
tình huống khá đặc biệt cho sự ra đời của Hiến pháp mới và sự hình
thành trong một bối cảnh hết sức đặc biệt, song cuối cùng cũng được thực
hiện bởi người dân Việt Nam tại Na Uy. Do vậy, không thể phủ nhận có
những khiếm khuyết về nội dung và có thể thiếu tính chất khách quan.
Những khiếm khuyết này có thể được bổ sung và điều chỉnh theo quy định
§ 162 và § 190 trong Hiến pháp.

Trong bối cảnh đặc biệt, trước quốc nạn, hồn thiêng sông núi Việt Nam,
tất cả tâm huyết được gói trọn trong loạt sách Hiến Pháp phổ biến từ
Vương quốc Na Uy.

21
TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN

(LHQ, 10/12/1948)
Tuyên ngôn quốc tế là văn kiện cơ bản trong công tác quốc tế về quyền
con người, bao gồm 30 điều khoản và được áp dụng cho tất cả các quốc
gia thành viên của Liên Hiệp Quốc (LHQ).

Sự kiện: Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người


Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới được tổ chức LHQ xây dựng trước tiên
do các hành động tàn bạo đối với các dân tộc và nạn diệt chủng của Hitler
đối với người Do Thái, và các dân tộc thiểu số khác trong Thế chiến thứ
hai đã tạo ra cuộc thỏa thuận về nhân quyền, một vấn đề quan trọng của
thế giới. Khi LHQ được thành lập, nhân quyền trở thành một trong những
nhiệm vụ chính của tổ chức. Năm 1946, công việc xây dựng Tuyên ngôn
Nhân quyền Toàn cầu được khởi sự.

Ai đã viết Tuyên ngôn Nhân quyền?


LHQ thành lập một ủy ban có nhiệm vụ soạn thảo. Ủy ban bao gồm đại
diện từ Liban, Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh,
Chile, Canada và Úc.

Ai đã bỏ phiếu cho và chống lại Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới?
Năm 1948, chỉ có 58 quốc gia trong LHQ, không quốc gia nào bỏ phiếu
chống lại Tuyên ngôn, nhưng tám quốc gia bỏ phiếu trắng. Sau này, tất
cả các quốc gia thành viên của LHQ đều đã tham gia Tuyên bố chung.
Do đó, Tuyên ngôn được áp dụng cho tất cả các quốc gia thành viên Liên
Hiệp Quốc.

Lời mở đầu của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền


Xét rằng, phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm
của tất cả các thành viên của nhân loại là cơ sở của tự do, công lý và hòa
bình trên thế giới,
- vi phạm và khinh miệt nhân quyền dẫn đến những hành vi man rợ
làm lay động lương tâm của nhân loại, sự xuất hiện của một thế
giới nơi mọi người có quyền tự do ngôn luận và tín ngưỡng, tự
do khỏi sự sợ hãi và đau khổ, được xem là mục tiêu cao nhất của
nhân loại,
- nhân quyền cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không bị
buộc phải dùng đến bạo lực và áp bức như một phương sách cuối
cùng,

22
- vì đó là thiết yếu để thúc đẩy sự phát triển quan hệ hữu nghị giữa
các quốc gia,
- người dân của LHQ trong Tuyên ngôn đã khẳng định lại niềm tin
vào các quyền cơ bản của con người, vào phẩm giá và giá trị của
nhân loại và các quyền bình đẳng giữa nam và nữ, quyết định thực
hiện vì tiến bộ xã hội và mức sống tốt hơn trong điều kiện tự do,
- như các Quốc gia thành viên đã cam kết, hợp tác với Liên Hiệp
Quốc, để bảo đảm rằng các quyền con người và các quyền tự do
cơ bản được tôn trọng và phổ biến rộng rãi,
- qua sự hiểu biết chung về các quyền và tự do là điều quan trọng
hàng đầu để thực hiện nghĩa vụ này,

Vì vậy, Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu là một mục tiêu chung cho tất
cả các dân tộc và tất cả các quốc gia, mọi cá nhân và mọi cộng đồng xã
hội, liên tục quan tâm tới Tuyên ngôn, thông qua giáo dục và giáo huấn để
thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do này, qua các biện pháp của quốc
gia và quốc tế nhằm bảo đảm rằng các biện pháp đó được công nhận và
tôn trọng rộng rãi, hiệu quả trong các quốc gia thành viên và các dân tộc
trên các lãnh thổ thuộc chủ quyền của họ.

Nguyên tắc và cơ sở lập Hiến Pháp Việt Nam


Hiến Pháp Việt Nam 2021 được xây dựng dựa trên các nguyên tắc và cơ
sở các điều khoản trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Hiến pháp
chính là một văn kiện của mỗi quốc gia được tạo trên những giá trị chung
của thế giới đã thỏa thuận, điều chỉnh đôi chút để thích ứng vào hiện tình
của đất nước. Ngoài ra, hiến pháp cũng được xây dựng thêm một số quy
định theo mô hình dân chủ xã hội dẫn đến một xã hội hài hòa và khả năng
thăng tiến, được thiết chế qua các quyền và nghĩa vụ của người dân. Các
nguyên tắc chung này được thiết lập chuyên sâu và bổ sung cho mỗi lãnh
vực có thể thấy trong Chương I Các nguyên tắc chung và Chương II Các
quyền và nghĩa vụ của công dân.

23
DÂN CHỦ TỰ DO

Trong nền dân chủ hiến định, khái niệm «dân chủ tự do» hay dân chủ hợp
hiến là hình thức dân chủ thống trị trong thế kỷ 21. Dân chủ tự do là một
khái niệm rộng rãi cho các hệ thống chính trị dân chủ, trong đó các cuộc
bầu cử dân chủ, các thể chế dân chủ hoạt động rất tốt và việc bảo vệ các
quyền của cá nhân rất mạnh mẽ. Dân chủ tự do thường được coi là đối lập
với các hình thức chính quyền độc tài, toàn trị.

Các nền dân chủ tự do có thể có một số hình thức hiến pháp khác nhau:
chúng có thể là cộng hòa, chẳng hạn như Hoa Kỳ hoặc Pháp, hoặc chế độ
quân chủ lập hiến, chẳng hạn như Vương quốc Anh hoặc Đan Mạch. Nó
có thể có một hệ thống tổng thống (Hoa Kỳ), một hệ thống nghị viện (hệ
thống Westminster, Vương quốc Anh), hoặc một hệ thống bán tổng thống
hỗn hợp (Pháp).

Thuật ngữ «tự do» trong «dân chủ tự do» không có nghĩa là chính phủ
theo chủ nghĩa tự do trong hệ tư tưởng chính trị. Thay vào đó, được đề
cập đến thực tế là các nền dân chủ tự do có sự bảo vệ của hiến pháp đối
với các quyền của cá nhân chống lại quyền lực của chính phủ, lần đầu tiên
được khởi xuất vào thời Khai sáng bởi các nhà triết học (Jean-Jacques
Rousseau và Thomas Hobbes…), những người đã phát triển ý tưởng về
một khế ước xã hội giữa người dân và chính quyền.

TỰ DO
Theo quan niệm của người Na Uy, tự do là một trạng thái có chủ quyền
hoặc tự quyết của một cá nhân, một nhóm hoặc một hệ thống chính trị.
Nói cách khác, tự do đối lập với việc cản trở, kiểm duyệt, cưỡng bức hoặc
bị cai trị.

Tự do là một khái niệm được sử dụng thường xuyên và rất mơ hồ. Khái
niệm này cũng có thể biểu hiện sự độc lập khỏi các thực thể vô hình như
nghĩa vụ hoặc thói quen.

Trong luật pháp, chúng ta gặp một nghĩa tương tự như ngược lại với sự
bắt giam hoặc bỏ tù. Tuy nhiên, trong cuộc tranh luận chính trị và đạo
đức-triết học, thuật ngữ này có những cách sử dụng rất quan trọng.

Trong các cuộc tranh luận chính trị, thuật ngữ này có một vị trí thống trị,
nhưng có thể có những ý nghĩa rất khác nhau. Ý tưởng về nền dân chủ đa

24
số dựa trên phổ thông đầu phiếu trong một hệ thống đa đảng đối với nhiều
người ở phương Tây là một lý tưởng tự do gần như hiển nhiên.

Điều này không ngăn cản lý tưởng tồn tại và vẫn còn đang gây tranh cãi ở
nhiều nơi khác trên thế giới, bao gồm các nước cộng sản và các nước thế
giới thứ ba, nơi tự do chủ yếu gắn liền với các quyền kinh tế và xã hội.
Ở đây, tự do khỏi đau khổ, đói, nghèo và thất nghiệp có thể là trọng tâm
của các cuộc tranh luận hơn là tự do khỏi sự tự quyết định và phát biểu tư
tưởng của cá nhân.

Các hệ tư tưởng chính trị, xã hội và kinh tế hiện đại về tự do đã có từ thế


kỷ 17. Các ý tưởng về quyền tự quyết, như chính trị và tự do cá nhân,
được định nghĩa là độc lập và tự quyết của cả cá nhân và quốc gia, đã
được các nhà tư tưởng như Thomas Hobbes, John Locke và Charles
Montesquieu hình thành ở cả nước Anh và Pháp.

Những ý tưởng về tự do như vậy đã được thể hiện một cách đặc trưng
trong hai cuộc cách mạng vĩ đại của thế kỷ 18: Chiến tranh giành độc lập
của Hoa Kỳ vào những năm 1770, nghĩa là sự ly khai của các thuộc địa
Bắc Mỹ khỏi Vương quốc Anh, và cuộc Cách mạng Pháp 1789 vĩ đại vài
năm sau đó. Chính tư tưởng tự do đã truyền cảm hứng cho Hiến pháp Na
Uy năm 1814.

Khái niệm hiện đại về tự do cá nhân theo tư tưởng truyền thống của Locke
và các triết gia Khai sáng Pháp như Voltaire và Jean-Jacques Rousseau,
gắn liền với khái niệm về một số quyền con người «bất khả xâm phạm»
cũng là một trong những biểu hiện đầu tiên của nó trong bối cảnh chính trị
trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ. Ở đây, quyền tự do của một
quốc gia gắn liền với quyền tự quyết và đồng quyết của công dân, được
thể hiện thông qua các quyền chính trị như quyền bầu cử, tự do báo chí,
ngôn luận và hội họp.

Một lý tưởng về quyền tự chủ - tự do như quyền tự quyết cho các cá nhân,
nhóm và thể chế - từ lâu đã phổ biến trong một số lĩnh vực văn hóa của
chúng ta. Các ví dụ cổ điển là quyền tự do trí óc và tự do nghiên cứu khoa
học, quyền «không bị can thiệp» để tìm kiếm kiến thức
​​ mới và cũ và tự
quyết định nội dung của bản thân. Lý tưởng tự do với tư cách là quyền tự
quyết và đồng quyết đã gia tăng trong thế kỷ 20 với mặt trận chống lại các
hình thức quản trị và thực thi quyền lực truyền thống.

25
Ví dụ có thể được lấy từ cuộc sống lao động và làm việc, các cơ sở giáo
dục, cuộc đấu tranh của phụ nữ cho quyền bình đẳng và cuộc đấu tranh
của các dân tộc thiểu số và văn hóa dân tộc thiểu số để giành quyền kiểm
soát các khu vực và tài nguyên của họ.

Trong nửa sau của thế kỷ 19, cuộc đối thoại về mối quan hệ giữa những
người nắm quyền và các quyền và nghĩa vụ chính trị của công dân đã
được tiếp tục mở rộng trong một cuộc thảo luận về các quyền kinh tế và
xã hội của công dân. Hai trào lưu mạnh mẽ này là chủ nghĩa vị lợi của
nước Anh và chủ nghĩa Marx.

Trong thế kỷ 20, những hệ tư tưởng về quyền và tự do như vậy đã phát


triển mạnh mẽ, đặc biệt chú trọng đến quyền của các nhóm bị áp bức và
thiệt thòi. Thực tế là quyền con người mang tính phổ biến và thuộc về mọi
con người, không phân biệt chủng tộc, nơi cư trú, giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp và địa vị xã hội luôn được chú trọng.

Trong triết học đạo đức, vấn đề theo truyền thống là về việc liệu con
người có tự do ý chí hay không. Khi đó, tự do gắn liền với sự ép buộc
hoặc định mệnh. Một người bị các lực lượng gây áp bức không thể kiểm
soát được (bạo lực, bệnh tâm thần) bên trong hoặc bên ngoài buộc phải
hành động theo những cách nhất định. Tự do cũng không tương thích với
thuyết tất định, nghĩa là, một quan hệ nhân quả phổ biến trong những gì
xảy ra trên thế giới.

26
TỰ DO NGÔN LUẬN

Trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và truyền thông thế giới, tự do ngôn
luận đã trở thành một khái niệm phổ biến và hay được nhắc đến trong các
trường hợp người dân bị đàn áp ở các quốc gia có chính sách cai trị độc tài.
Tự do ngôn luận chính là quyền tự do mà tất cả mọi người có để thể hiện bản
thân bằng cách bày tỏ những gì họ nghĩ và muốn nói. Kể từ cuối thế kỷ 18,
quyền con người đã được coi là một quyền và được bảo vệ chặt chẽ trong cả
luật pháp quốc gia và siêu quốc gia.

Nói một cách khác, tự do ngôn luận là quyền tự do truyền đạt ý tưởng bằng
cách diễn đạt hoặc hành động và cách thể hiện bản thân. Điều này cũng
áp dụng cho quyền tự do tiếp nhận lời phát biểu của người khác. Sau này
thường được gọi là quyền tự do thông tin.

Quyền tự do ngôn luận nhất định cần thiết để mọi người có thể chung sống
và tạo cơ sở cho sự giao tiếp và tương tác giữa các cá nhân với nhau.

Việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận đặc biệt được chứng minh trên một số
khía cạnh:
- Tự do cần thiết cho việc tìm kiếm sự thật của con người - chỉ thông
qua trao đổi ý kiến tự
​​ do, chúng ta mới có thể tiến gần đến sự thật
hơn.
- Đó là cơ sở của quyền tự chủ và tự do cá nhân của chúng ta - chúng
ta có quyền tự do chia sẻ suy nghĩ của mình và chấp nhận người
khác, và nhờ quyền tự do này, chúng ta phát triển như một con
người.
- Đó là điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ - không có tự do ngôn
luận, không có tự do thông tin, không thể hình thành ý kiến tự
​​ do
và không có cơ sở thực sự cho nền dân chủ, không thông qua biểu
quyết cũng như không có cơ hội tham gia vào các cuộc tranh luận
công khai.

Về mặt lịch sử, quyền tự do ngôn luận có thể bắt nguồn từ thời cổ đại. Nhưng
chính sự Khai sáng và sự tập trung của nó vào ý nghĩa xã hội của con người
vẫn là cơ sở trung tâm cho sự hiểu biết của chúng ta về quyền tự do này.

Quyền tự do ngôn luận được bảo vệ một cách hợp pháp trong một số công cụ
nhân quyền quốc tế và trong hiến pháp của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam trong
tương lai, quyền tự do ngôn luận được bảo vệ bởi § 26 của Hiến pháp này.

27
Ngoài ra, Hội đồng Truyền thông Quốc gia (§ 92), một tổ chức được thiết lập
để thúc đẩy và phát huy quyền tự do ngôn luận trong xã hội.

Quyền tự do ngôn luận không phải là tuyệt đối, quyền này thường đi song
song với một số hạn chế theo luật định đối với quyền tự do ngôn luận, chẳng
hạn như cấm đưa ra các lời đe dọa, phỉ báng, xâm phạm quyền riêng tư
người khác, quấy rối và các tuyên bố mang tính chất khiêu dâm, phân biệt
đối xử và thù nghịch.

Mặt khác, kiểm duyệt - cấm phát biểu - theo nguyên tắc chung là không
được phép, trừ khi cần thiết để bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên khỏi tác hại
do hình ảnh truyền thông trực tiếp, các tuyên bố bất hợp pháp.

TRIẾT HỌC
Mặc dù ý tưởng về quyền tự do ngôn luận đã có từ thời cổ đại, nhưng chính
trong thời kỳ Khai sáng, quan điểm về điều này đã được đặt ra bởi các
nhà triết học Khai sáng như Thomas Hobbes, John Locke và Jean-Jacques
Rousseau quan tâm đến mối quan hệ giữa cá nhân và quyền lực quốc gia, và
cho rằng mọi người cần phải nỗ lực cho các giải pháp chung. Họ mô tả rằng
sự hình thành quyền lực quốc gia dựa trên một khế ước xã hội, trong đó các
cá nhân từ bỏ tự do quyền lực để đạt đến một xã hội trật tự và dự đoán hơn.
Các triết gia có quan điểm khác nhau về khế ước xã hội, nhưng tất cả các
quan niệm đều dựa trên cơ sở cá nhân.

BẢO VỆ PHÁP LÝ
Những ý tưởng của Thời kỳ Khai sáng tạo cơ sở cho sự cân nhắc, công cụ,
biện minh cho việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận ảnh hưởng cho đến ngày
nay. Đó là sự cân nhắc của việc tìm kiếm chân lý, quyền tự chủ và tự do cá
nhân, cũng như xem xét nền dân chủ. Các tuyên bố không quan trọng và
quan trọng đều được bảo vệ hợp pháp, đó là những tuyên bố có lợi ích công
cộng nhất định được bảo vệ mạnh mẽ nhất.

Sự bảo vệ của pháp luật đối với quyền tự do ngôn luận trước hết là bảo đảm
hiệu quả, không hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự do ngôn luận của các
cá nhân. Vì vậy, tự do ngôn luận là một quyền phủ định - một quyền cá nhân
mà không có sự can thiệp của chính quyền (nhà nước).

Quyền tự do ngôn luận hợp pháp cũng đặt ra một số yêu cầu đối với nỗ lực
của các quốc gia nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận một cách tích cực. Ví
dụ, điều này có thể là thông qua luật cấm đe dọa bạo lực đối với những người

28
sử dụng lời nói, và bằng cách có một hệ thống tư pháp điều tiết thực thi các
hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận.

Thực hiện quyền tự do ngôn luận trong xã hội là một tâm điểm; việc này có
nghĩa là, những kênh truyền thông xã hội mà bạn thể hiện bản thân (chẳng
hạn như báo chí và các diễn đàn tranh luận trên internet), nơi đó bạn có môi
trường để mọi người có thể tham gia một cách tự do. Chính quyền cũng phải
bảo đảm quyền này được thể hiện và tuyên bố trước công chúng.

Theo Hiến pháp và Tuyên ngôn Quốc tế, việc can thiệp vào quyền tự do
ngôn luận phải dựa trên luật pháp. Chúng cũng phải cần thiết để đáp ứng các
nhu cầu cấp thiết của xã hội và tương xứng; nghĩa là, nó không vượt ra khỏi
việc tìm kiếm chân lý, dân chủ và sự hình thành ý kiến tự
​​ do của cá nhân hơn
những gì cần thiết để chăm sóc các nhu cầu xã hội cấp thiết khác.

CÁC NGOẠI LỆ PHÁP LÝ


Mặc dù quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản, nhưng nó không phải là
tuyệt đối. Một số trường hợp ngoại lệ theo luật định, ví dụ là các lệnh cấm
đưa ra để ngăn chặn các lời đe dọa, phỉ báng, xâm phạm quyền riêng tư,
quấy rối dai dẳng và các tuyên bố mang tính khiêu dâm, phân biệt đối xử và
thù địch.

Ngoài ra, nghĩa vụ của lòng trung thành đối với pháp luật quốc gia trong môi
trường làm việc đòi hỏi các hướng dẫn về những tuyên bố nào có thể được
thúc đẩy, thực hiện. Tuy nhiên, thông tin quan trọng đối với công chúng và
thông báo về gian lận tại các nơi làm việc được bảo vệ bằng quyền tự do
ngôn luận cũng như trong điều kiện làm việc.

Sự kích động bạo lực và bất hợp pháp không được quyền tự do ngôn luận
bảo vệ. Điều gì đủ để được coi là yếu tố khuyến khích hoặc đe dọa thường
rất hiển nhiên, nhưng đôi khi khó xác định. Mặc dù một số tuyên bố bất hợp
pháp có thể bị trừng phạt, nhưng phần lớn chỉ là những vụ nghiêm trọng nhất
mới bị truy tố. Các vụ kiện vi phạm thường phải được đưa ra trước tòa án.

Cá nhân thường phải chịu trách nhiệm pháp lý về phát ngôn của mình. Phổ
biến các tuyên bố vi phạm cũng có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý. Phổ
biến với một mục đích xứng đáng - chẳng hạn như thông báo một cuộc tranh
luận công khai - thường được bảo vệ bởi quyền tự do ngôn luận. Người biên
tập cũng phải chịu trách nhiệm về những tuyên bố bất hợp pháp đưa ra trên
các phương tiện truyền thông.

29
THỂ CHẾ ĐẠI NGHỊ

THỂ CHẾ ĐẠI NGHỊ LÀ GÌ?


Khái niệm Thể chế đại nghị (Parliamentarism) hiện nay còn được gọi
Chế độ đại nghị, Chế độ nghị viện, Hệ thống nghị viện, Chế độ quốc hội,
một hình thức tổ chức quốc hội, được nhiều người biết đến như một mô
hình chính trị có nguồn gốc xuất phát từ Vương quốc Anh vào thế kỷ 18.
Về sau, mô hình đã trở nên phổ biến trên thế giới và nhiều quốc gia khác
cũng đã áp dụng, được gọi là Mô hình Westminster. Nguyên thủ quốc gia
(Hoàng gia/Tổng thống) trong mô hình này không hẳn là người đứng đầu
nhánh hành pháp, có thẩm quyền chính trị hạn chế và chỉ đảm trách một
số nhiệm vụ có tính nghi lễ. Mô hình Đại nghị được thiết chế trong Hiến
pháp mới (§60) để thành lập Hệ thống chính trị Việt Nam tương lai.

Theo các công trình nghiên cứu chính trị trên thế giới, Thể chế đại nghị
được đề cập nhiều và được tán dương vì tác dụng tích cực của mô hình
và vì đã có những chứng minh cho thấy rất nhiều quốc gia dân chủ thành
công với những bước phát triển vượt bậc và bền vững mà các nhà nghiên
cứu khoa học chính trị đã công nhận trong vài thập niên qua.

Chế độ nghị viện điều chỉnh mối quan hệ giữa quốc hội và chính phủ. Chế
độ nghị viện có nghĩa là chính phủ phải có sự hỗ trợ của quốc hội. Nếu
chính phủ không có được sự ủng hộ đó thì bất cứ lúc nào quốc hội cũng có
thể buộc chính phủ từ nhiệm.

Điển hình ở Na Uy, chế độ nghị viện đã được thực hiện như một phần của
luật tục hiến pháp kể từ khi nó được áp dụng từ năm 1884. Từ năm 2007,
Hệ thống nghị viện trở thành một phần của tập tục quốc gia và điều này
cũng đã được ghi trong Hiến pháp. Một hệ quả của hệ thống nghị viện là
chính quốc hội quyết định đảng nào được ngồi trong chính phủ.

Người ta phân biệt giữa hai hình thức chính của chế độ nghị viện: Chế
độ nghị viện tích cực và chế độ nghị viện tiêu cực. Trong một hệ thống
theo chế độ nghị viện tích cực, chính phủ phải được quốc hội bỏ phiếu tín
nhiệm rõ ràng để được «đầu tư». Ví dụ, một hệ thống như vậy được tìm
thấy ở Đức, Thụy Điển và Phần Lan. Ở Na Uy, họ có một hệ thống chế độ
nghị viện tiêu cực, có nghĩa là Chính phủ không cần một cuộc bỏ phiếu tín
nhiệm từ Quốc hội để được thành lập, nhưng có nghĩa vụ từ nhiệm ngay
khi một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm thông qua.

30
CHẾ ĐỘ NGHỊ VIỆN THỰC TIỄN
Ở Na Uy, chế độ nghị viện, là một hệ thống trao quyền cho Quốc hội để
lật đổ Chính phủ, một khi Quốc hội không tin tưởng và do đó, Chính phủ
bắt buộc phải từ nhiệm.

Chế độ nghị viện có nguồn gốc từ Quốc hội, nghĩa là «Hội đồng quốc
gia». Ở Na Uy, Quốc hội có vai trò nổi bật trong hệ thống nghị viện.
Chính phủ phải có được sự tin tưởng của đa số trong Quốc hội (đa đảng)
thì mới có thẩm quyền hành pháp, quản lý cơ chế hành chính.

Chính phủ dựa trên đa số ủng hộ của Quốc hội. Các cuộc bầu cử Quốc hội
được tổ chức bốn năm một lần. Sau đó, 169 đại biểu được tuyển chọn vào
Quốc hội. Đây là thành phần của Quốc hội và quy mô của các đảng chính
trị sẽ xác định Chính phủ nào được chọn.

Đàm phán chính phủ sau cuộc bầu cử


Ở Na Uy, đã lâu lắm rồi mới có một đảng một mình chiếm đa số ghế trong
Quốc hội (1945-1961). Do đó, theo quy định, một số đảng chính trị phải
hợp tác và thành lập Chính phủ liên minh. Thường thì các đảng đã có
những thỏa thuận trước về việc có thể hợp tác thành lập Chính phủ, nhưng
chỉ khi kết quả bầu cử rõ ràng thì cuộc đàm phán giữa các đảng mới bắt
đầu.

Khi một phương án thay thế Chính phủ khả thi đã sẵn sàng, Thủ tướng chỉ
định chính phủ của mình bao gồm các Bộ trưởng. Một khi đại biểu Quốc
hội tham gia Chính phủ thì phải rời khỏi ghế của mình trong Quốc hội, và
được thay thế bởi một phó đại diện từ đảng của mình và khu vực bầu cử.
Không ai có thể ngồi trong cả Chính phủ và Quốc hội. Điều này có liên hệ
đến việc phân lập quyền lực ở Na Uy và là phần trọng tâm để hiểu cách
thức hoạt động của chế độ nghị viện Na Uy và mối quan hệ giữa Quốc hội
và Chính phủ.

Chính phủ đa số
Một chính phủ đa số được đặc trưng bởi tính thực tế bao gồm các đảng
chiếm đa số ghế trong Quốc hội. Chính phủ của Erna Solberg (2017), bao
gồm Đảng Bảo thủ, Đảng Tiến bộ, Đảng Tự do và Đảng Nhân dân Thiên
Chúa giáo là một ví dụ về một chính phủ như vậy. Là một Chính phủ liên
minh, chỉ cần phiếu bầu của các đồng nghiệp trong các đảng của mình
trong Quốc hội là bảo đảm các đề xuất được thông qua.

31
Hầu hết các chính phủ liên minh có thể chắc chắn rằng đề xuất của họ sẽ
giành được đa số trong quốc hội. Do đó, trong đa số các trường hợp, đối
với chính phủ đa số, phần lớn quyền lực nằm ở chính phủ, trong khi quốc
hội thường chỉ điều chỉnh các đề xuất đôi chút. Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa là phe đối lập ở quốc hội không có quyền lực. Trong các nhiệm
kỳ của chính phủ đa số, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của
quốc hội là kiểm soát chính phủ - cơ quan hành pháp - tuân theo các quyết
định của quốc hội.

Chính phủ thiểu số


Các đảng chủ quản không cần phải có đa số ghế trong quốc hội. Như
vậy, một thiểu số cũng có thể là điểm khởi đầu cho một chính phủ, miễn
là thiểu số này không có đa số chống lại. Chính phủ như vậy được gọi là
chính phủ thiểu số.

Chính phủ của Erna Solberg (2013) là một chính phủ thiểu số. Trong bốn
năm đầu, chỉ bao gồm Đảng Bảo thủ và Đảng Tiến bộ, nhưng vào năm
2018, Đảng Tự do cũng tham gia chính phủ. Tổng cộng, ba đảng cầm
quyền chỉ có 80 đại diện trong Quốc hội sau cuộc bầu cử năm 2017. Do
đó, họ phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ các đảng khác để có được tối thiểu 85
phiếu bầu và bảo đảm đa số cho các đề xuất của mình.

Đề xuất bất tín nhiệm - một công cụ gây áp lực


Quốc hội và chính phủ đều có phương tiện gây áp lực mà họ có thể sử
dụng để chống lại nhánh quyền lực kia. Các đề xuất «bất tín nhiệm» là
công cụ gây áp lực mạnh nhất của quốc hội và có thể được sử dụng nếu
quốc hội không tin tưởng vào chính phủ hiện tại. Chẳng hạn, có thể đưa
ra một kiến nghị
​​ bất tín nhiệm nếu quốc hội trong công việc kiểm soát của
mình phát hiện ra rằng chính phủ đã giấu thông tin hoặc nói dối quốc hội.
Nếu đa số trong quốc hội bỏ phiếu ủng hộ đề xuất như vậy, chính phủ bắt
buộc phải từ nhiệm.

Bỏ phiếu bất tín nhiệm là một trong những trường hợp hiếm ở Na Uy,
không còn xảy ra kể từ khi Chính phủ Gerhardsen phải từ chức vào năm
1963. Nhưng thỉnh thoảng phe đối lập đe dọa thúc đẩy các động thái bất
tín nhiệm.

Vấn đề nội các và bầu cử mới


Các vấn đề nội các là biện pháp gây áp lực mạnh nhất của chính phủ đối
với quốc hội. Khi chính phủ đưa ra tối hậu thư và đe dọa quốc hội từ

32
nhiệm nếu không đạt được đa số trong một trường hợp cụ thể. Một điển
hình vào năm 2000, Chính phủ Bondevik đã phải từ nhiệm sau khi không
nhận được sự ủng hộ từ đa số Quốc hội trong một cuộc tra vấn về năng
lượng khí.

Nếu một chính phủ từ chức do kết quả của một cuộc bỏ phiếu bất tín
nhiệm, một chính phủ mới phải được thành lập bởi quốc hội hiện tại. Bởi
vì không giống như nhiều quốc gia khác, Hiến pháp Na Uy không giải
tán quốc hội và triệu tập các cuộc bầu cử mới giữa các cuộc bầu cử quốc
hội thông thường. Không phải lúc nào phe đối lập cũng muốn nắm quyền
chính phủ vào giữa nhiệm kỳ của quốc hội. Trong một số trường hợp,
điều này có thể góp phần vào đa số chỉ thành viên của nghị viện cho phép
chính phủ tiếp tục tại vị. Tuy nhiên, việc bỏ phiếu bất tín nhiệm là một cơ
hội tuyệt vời để thực hiện.

Mặc dù chế độ nghị viện đã được thực hiện ở Na Uy từ những năm 1890,
nhưng phải đến năm 2007, chế độ nghị viện mới được đưa vào Hiến pháp.

MÔ HÌNH NƯỚC CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC


Trong một bài viết về «Mô hình nước Cộng hòa Liên bang Đức và khả
năng áp dụng ở Việt Nam» và lựa chọn thể chế đăng trên tạp chí điện tử
Kinh tế và Dự báo (1/2018), của Phan Thanh Hà - Nguyên Phó trưởng ban
Kinh tế Vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương; Nguyên vụ
phó Vụ Tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã mô tả về chế độ nghị
viện - đại nghị như sau:
«Nước Cộng hòa Liên bang Đức được xây dựng dựa trên kinh nghiệm
thực tế của bản thân nước Đức (Cộng hòa Weimar) và các nước khác,
cũng như các nghiên cứu khoa học và đã được kiểm chứng thực tế qua 60
năm phát triển. Từ một đất nước bị chia cắt, kinh tế hoàn toàn sụp đổ sau
thất bại trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Cộng hòa Liên bang Đức đã
vươn lên một cách mạnh mẽ, thống nhất hòa bình, trở thành nền kinh tế
hùng mạnh nhất châu Âu và một nước uy tín trên thế giới. Đó là nhờ đáp
ứng được 5 yếu tố của một chế độ chính trị tốt:
 Ngăn ngừa hình thành chế độ độc tài
 Ngăn ngừa đảo chính
 Bảo đảm chính quyền ổn định và làm được việc
 Ngăn cản việc thực thi các chính sách tồi
 Kéo dài sự cầm quyền của một chính phủ thành công

33
Như đa số các nước trên thế giới, mô hình nước Đức theo chế độ nghị
viện - liên bang. Chế độ này có ưu điểm về cân bằng chính trị và do đó
tạo ra sự ổn định nhờ khả năng chia sẻ và kiểm soát quyền lợi và quyền
lực giữa các nhóm chính trị có ảnh hưởng, khi các bên cần thỏa hiệp với
nhau. Hệ thống liên bang giúp giảm thiểu các xung đột về quyền lợi chính
trị. Thất bại trong cuộc bầu cử giành chính quyền trung ương không phải
là mất tất cả, bởi các đảng phái hay cá nhân có thể tranh cử để dành vị trí
xứng đáng ở chính quyền cấp bang. Tham gia chính quyền cấp bang là cơ
hội để các nhà chính trị tích lũy kinh nghiệm, trở thành lãnh đạo quốc gia
sau này.

Hệ thống chính trị Đức dựa trên nguyên tắc cân bằng quyền lực và có
kiểm soát, được thiết kế để các đảng quá nhỏ không thể tham gia chính
quyền gây mất ổn định chính trị, nhưng cũng không để cho một đảng nào
dễ dàng chiếm đa số trong hạ nghị viện dẫn đến khuynh loát chính quyền
(buộc phải liên minh với một hay một vài đảng khác để thành lập chính
phủ). Các đảng chỉ được chia ghế trong hạ nghị viện nếu giành được ít
nhất 3 ghế tại 3 khu vực bầu cử địa phương hoặc giành được nhiều hơn
5% tổng số phiếu bầu theo tỷ lệ trên phạm vi toàn quốc. Nhờ đó, các đảng
dung hòa được sự chống đối, hình thành nên cơ chế đồng thuận, xử sự
ôn hòa và giúp ngăn ngừa các chính sách tồi được thực thi. Kết quả là hệ
thống chính trị Đức đảm bảo dân chủ nhưng vẫn tập trung mà không độc
đoán.

Sự cân bằng chính trị ở Đức được thiết lập cả theo chiều ngang và theo
chiều dọc. Theo chiều ngang, đó là nhờ chế độ nghị viện với chính quyền
được chia làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp để không một cơ
quan nào được duy nhất nắm giữ quyền lực, điều cần thiết để tránh dẫn
đến mất ổn định và độc tài. Cân bằng theo chiều dọc đạt được nhờ cơ chế
chính quyền liên bang và cơ quan đại diện của địa phương tại quốc hội
liên bang là thượng nghị viện.»

SO SÁNH CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG VỚI CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ


Theo bài viết ‘So sánh chế độ tổng thống với chế độ đại nghị’ của Vũ Thị
Hương Giang biên dịch, đăng trên tạp chí điện tử Nghiên cứu Quốc tế
(12/2013), được trích đoạn để xác định các thành tố chính của các chế độ
đại nghị: «Mặc dù các hệ thống tổng thống phổ biến ở bán cầu Tây nhưng
đó không phải là lựa chọn duy nhất với các chính phủ. Trên thực tế, các
hệ thống tổng thống lại thuộc phía thiểu số khi tính đến các loại chế độ
có trên toàn thế giới. Các hệ thống đại nghị thật ra vượt xa số lượng các

34
quốc gia theo chế độ tổng thống khi chúng ta nhìn lại cộng đồng toàn cầu.
Với nhiều người nghiên cứu chính trị Hoa Kỳ, các hệ thống đại nghị vẫn
là một khái niệm xa lạ, và những vận hành bên trong các chế độ này cũng
không kém phần khó hiểu. Do vậy, cần phải thảo luận những đặc điểm
mang tính đặc thù và vận hành của các chính phủ nghị viện trước khi trình
bày những sức hút của chế độ đại nghị và thảo luận một loại hình chính
phủ đang nổi lên, thường được gọi là các chế độ lai (hybrid regimes).

Thường được gọi tên là mô hình Westminter theo tên gọi Chính phủ Anh
quốc, các hệ thống nghị viện khác với các quốc gia theo chế độ tổng thống
ở một vài khía cạnh. Một trong các đặc trưng của hệ thống nghị viện là
sự trộn lẫn của các nhánh hành pháp và lập pháp. Khi trong chế độ tổng
thống, nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ được gộp vào
một người thì các chế độ đại nghị thường tách biệt hai vai trò này. Ngoài
ra, các hệ thống tổng thống thường phân chia quyền lực giữa các nhánh
của chính phủ, nhưng trong các chế độ nghị viện lại không thấy có sự
phân bổ trách nhiệm rõ ràng như vậy. Thay vào đó, các chính phủ nghị
viện thường kết hợp trách nhiệm của cả hai nhánh lập pháp và hành pháp.

Sau một lần bầu cử ban đầu – khi các cử tri quyết định có bao nhiêu ghế
được phân bổ cho các đảng chính trị khác nhau, các đại diện được bầu
trong hệ thống đại nghị sẽ được giao nhiệm vụ thiết lập hay hình thành
chính phủ. Những cá nhân này không những phải tổ chức nhánh lập pháp
mà còn chịu trách nhiệm cơ cấu nên nhánh hành pháp. Các quan chức lập
pháp xác định ai sẽ là người đứng đầu chính phủ (hay ai sẽ là thủ tướng),
chính trị gia nào sẽ giữ các vị trí nội các khác nhau, và ai sẽ đứng đầu các
ủy ban lập pháp. Nếu có một người thắng cuộc rõ ràng trong các cuộc bầu
cử ban đầu thì việc hình thành chính phủ khá đơn giản, và thông thường
không phải thành lập liên minh. Nhưng trong các tình huống khác, khi
mà không có đảng nào chiếm đa số thì đảng nào chiếm nhiều ghế nhất
(thường được gọi là đảng thành lập, hay đảng nòng cốt – formateur party)
sẽ chịu trách nhiệm xây dựng liên minh cầm quyền. Đảng này sẽ tìm một
đối tác liên minh, hoặc đôi khi là vài đối tác khác nhau, và sau khi cùng
nhau kiếm đủ sự ủng hộ để giúp liên minh giành đa số ghế, các đảng này
sẽ cùng nhau xác định thủ tướng, các vị trí nội các và các chức vụ lãnh
đạo khác. Mặc dù đây là cách thường làm nhưng cũng có những trường
hợp không hình thành được một chính phủ liên minh, kể cả khi không có
đảng chiến thắng đa số. Hiện nay, Canada đang có một Chính phủ thiểu số
do đảng Bảo thủ dẫn dắt. Trong trường hợp Canada, không có đảng đa số
và những nỗ lực hình thành liên minh đã bị thất bại. Do đó, đảng Bảo thủ

35
được mặc định là đảng cầm quyền trên thực tế cho dù nó không chiếm đa
số ghế rõ rệt.

Việc thống trị nội các là một đặc điểm quan trọng khác của các nền dân
chủ nghị viện (Lijphart, 1999). Khi hình thành liên minh cầm quyền,
những ai đang nắm quyền sẽ bổ nhiệm nhiều vị trí quan trọng, dù không
có vị trí nào nhiều quyền lực bằng vị trí thủ tướng. Thủ tướng được giao
phục vụ yêu cầu của phía đa số đang cầm quyền và sẽ làm như vậy cho
đến khi ông ta hoặc bà ta đánh mất sự ủng hộ của giới lập pháp. Khi thủ
tướng đánh mất sự ủng hộ của bên lập pháp, thể hiện qua việc bỏ phiếu
bất tín nhiệm, thì sẽ phải tổ chức cuộc bầu cử mới. Một cách làm khác
là bỏ phiếu tín nhiệm, tức là một hành động do chính phủ khởi xướng. Ở
đây, nếu chính phủ cầm quyền không có khả năng bảo đảm đa số phiếu
trong cơ quan lập pháp thì chính phủ phải từ nhiệm (Clark, Golder, &
Golder, 2009). Một vài quốc gia áp dụng phiên bản bỏ phiếu tín nhiệm
hơi khác một chút, gọi là bỏ phiếu tín nhiệm có tính xây dựng. Ở Đức và
Hungary – hai nước có sử dụng công cụ này, bên lập pháp phải đồng ý về
một chính phủ thay thế trước khi giải tán chính phủ hiện có.»

CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ: THỂ CHẾ DÂN CHỦ VÀ ỔN VỮNG NHẤT


Theo tác phẩm: ‘Khai sáng kỷ nguyên thứ hai’ của Tập hợp Dân chủ Đa
nguyên (2015): «Quyết tâm của chúng ta là thực hiện dân chủ một cách
hiệu quả nhất và ngăn chặn sự trở lại của bất cứ một hình thức độc tài nào.
Chúng ta lựa chọn thể chế chính trị trên căn bản của quyết tâm đó. Việc
đầu tiên phải làm là chọn lựa giữa một trong ba công thức: chế độ tổng
thống, chế độ bán tổng thống và chế độ đại nghị.

Trước hết, chúng ta dứt khoát loại bỏ chế độ tổng thống, nghĩa là chế
độ trong đó một người được dân chúng trực tiếp bầu cử theo phổ thông
đầu phiếu và nắm trọn quyền hành pháp. Chế độ này có nhiều tật nguyền
không thể chấp nhận được. Ta có thể kể hai tật nguyền thông thường nhất.

Tật nguyền đầu tiên ở ngay trong thể thức bầu cho một người thay vì cho
một chính đảng. Lối bầu này khiến các chính đảng không lớn mạnh được
vì điều kiện chính để nắm chính quyền là một nhân vật có sức thu hút cử
tri, như thế điều kiện cốt lõi là có một ủy ban vận động tranh cử tốt chứ
không phải một bộ máy đảng. Ông hay bà ta có thể được bầu vì những lý
do hời hợt như trẻ đẹp, đi đứng duyên dáng, nói năng hùng hồn, v.v. hơn
là vì uy tín của đảng mình và khả năng chính trị của mình. Ứng cử viên
này một khi đã đắc cử sẽ chế ngự đảng chứ không lệ thuộc đảng. Kinh

36
nghiệm cho thấy là trong mọi chế độ tổng thống, kể cả Hoa Kỳ, không có
những chính đảng mạnh như trong các chế độ đại nghị và đây là một thiệt
hại lớn vì các chính đảng vừa là lò đào tạo ra nhân tài chính trị vừa là môi
trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến trên những vấn đề lớn đặt ra cho
đất nước.

Tật nguyền thứ hai là nó dành quá nhiều quyền cho một người trong một
thời gian được quy định trước. Trong hoàn cảnh của một nước chưa có
truyền thống dân chủ, nó rất dễ dẫn tới lạm quyền và độc tài với hậu quả
là đàn áp, bạo loạn, thậm chí nội chiến. Hơn nữa nếu tổng thống vì bất cứ
lý do nào bị mất uy tín giữa nhiệm kỳ thì sinh hoạt quốc gia sẽ bế tắc nguy
hiểm trong suốt thời gian còn lại vì tổng thống không thể bị thay thế.

Trên mặt thuần túy lý thuyết chế độ tổng thống có ưu điểm là đảm bảo
một chính quyền mạnh có khả năng quyết định mau chóng những chọn
lựa chiến lược cần thiết, nhưng thực tế hiện nay là nguy cơ chiến tranh
không còn nữa, ngay cả chiến tranh lạnh cũng đã chấm dứt, nhu cầu có
một chính quyền mạnh để lấy những quyết định quan trọng một cách
nhanh chóng không còn đặt ra nữa. Vả lại điều gì một tổng thống có thể
làm, một thủ tướng được đa số trong quốc hội yểm trợ cũng có thể làm.
Sự thật lịch sử là cho tới nay, trừ trường hợp của Hoa Kỳ, tất cả mọi chế
độ tổng thống trên thế giới đều đã thất bại, hoặc dẫn tới một chế độ độc tài
cá nhân, như trường hợp của hầu hết các quốc gia theo chế độ này, hoặc
dẫn tới một xung đột bế tắc giữa hành pháp và lập pháp. Chính sự thất bại
của các chế độ tổng thống đã đưa đến sự xuất hiện của các chế độ «bán
tổng thống», nghĩa là vừa có một tổng thống vừa có một thủ tướng. Tổng
thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa chia sẻ một phần quyền hành pháp,
nhiều hay ít theo quy định của hiến pháp, với một thủ tướng chịu trách
nhiệm trước quốc hội trong đa số các trường hợp. Tổng thống do phổ
thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra nên uy thế rất lớn, ngang hàng với một
tổng thống trong chế độ tổng thống thuần túy ngay cả khi quyền hiến định
có thể khác. Uy thế này là một bảo đảm cho ổn vững chính trị, tương tự
như một chế độ tổng thống, bù lại cái giá phải trả là, một mặt, một số bất
lợi của chế độ tổng thống và, mặt khác, những mâu thuẫn về thẩm quyền
không tránh khỏi trong nội bộ hành pháp giữa tổng thống và thủ tướng.

Các chế độ bán tổng thống có tác dụng giảm bớt những bất lợi của chế độ
tổng thống bằng cách dung hòa nó với chế độ đại nghị. Đã có một số chế
độ bán tổng thống thành công. Tuy nhiên, chế độ bán tổng thống là một
chế độ rất phức tạp, bản chất và nội dung chế độ có thể thay đổi tùy theo

37
những yếu tố tình cờ: tổng thống và thủ tướng cùng đảng hay khác đảng,
nhiệm kỳ của tổng thống và của quốc hội ngắn dài bằng nhau hay khác
nhau, tổng thống hay quốc hội mới được bầu gần đây, v.v.

Trong một chế độ đại nghị, quyền hành pháp ở trong tay một thủ tướng
do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Như thế khi bầu ra
một quốc hội, một cách gián tiếp, người dân cũng chọn lựa một thủ tướng.
Ưu điểm của chế độ đại nghị là người dân bầu trước hết cho một dự án
chính trị của một đảng thay vì cho một người và sau đó chọn lựa một dân
biểu trong số những ứng cử viên sinh hoạt gần gũi với họ mà họ có điều
kiện để đánh giá; qua dân biểu của họ, họ cũng có khả năng theo dõi và
kiểm soát một cách thường trực sinh hoạt của chính phủ.

Thể chế đại nghị là thể chế dân chủ nhất và cũng là thể chế đúng đắn nhất,
với điều kiện là không dẫn tới tình trạng lạm phát chính đảng và một quốc
hội tê liệt vì bị phân hóa giữa nhiều khuynh hướng đối nghịch. Điều kiện
này, như kinh nghiệm đã chứng minh, có thể thỏa mãn được bằng cách
bầu tất cả hoặc phần lớn các dân biểu quốc hội theo phương thức bầu cử
đơn danh và một vòng.

Chúng ta chọn lựa chế độ đại nghị vì sự giản dị và tính dân chủ cao của
nó.»

38
QUỐC GIA PHÚC LỢI - MÔ HÌNH BẮC ÂU

BA MÔ HÌNH - QUỐC GIA PHÚC LỢI


Các quốc gia phúc lợi hiện đại theo nhiều cách gọi chung là «con cái của
chủ nghĩa hiện đại», có nguồn gốc từ niềm tin của các nhà Khai sáng về tri
thức làm cơ sở để giải quyết các vấn đề. Trong khoa học xã hội, người ta
thường phân biệt ba mô hình lý tưởng-kiểu mẫu.

Trọng tâm của ý tưởng về quốc gia phúc lợi, quan điểm cho rằng quốc gia,
hay khu vực công, có trách nhiệm chính đối với phúc lợi của mọi công
dân. Phân tích xã hội cũng là cơ sở quan trọng cho các dịch vụ phúc lợi.
Qua nghiên cứu xã hội, nghèo đói và các vấn đề xã hội được xác định là
trách nhiệm của quốc gia.

Trong các tài liệu khoa học xã hội, người ta thường phân biệt ba mô hình
phúc lợi lý tưởng-kiểu mẫu: Anh-Mỹ, Lục địa và Bắc Âu.

Quốc gia phúc lợi Anh-Mỹ: Hoa Kỳ và Anh


Sơ lược, mục đích chính là để bảo đảm người dân có thu nhập ở mức tối
thiểu, đồng thời nhấn mạnh vào chuyên sâu công việc để đưa mọi người đi
làm. Trọng tâm của mô hình này là chống đói nghèo, không phải tái phân
phối nguồn thuế.

Thị trường đóng một vai trò quan trọng, trong đó quốc gia bảo đảm mức
tối thiểu cho mọi người và phần còn lại cho thị trường, hoặc trợ cấp cho
các chương trình phúc lợi tư nhân.

Mức độ phúc lợi tương đối thấp, điều này làm phản tác dụng. Lợi ích
tương đối thấp, hoặc được kiểm tra theo nhu cầu chỉ dành cho những
người có nhu cầu lớn nhất, hoặc do được cung cấp mức chuyển giao thông
thường thấp.

Quốc gia phúc lợi Lục địa: Pháp và Đức.


Trong mô hình này, còn được gọi là mô hình bảo đảm ‘trạng thái’, các
quyền thường được liên kết với giai cấp, nghề nghiệp hoặc địa vị. Mục
đích của hệ thống phúc lợi chủ yếu là để bảo đảm mức thu nhập của
những người trước đây đã làm việc nay không còn khả năng làm việc nữa.

Gia đình đảm nhận một vai trò truyền thống quan trọng như một nhà cung
cấp phúc lợi, và quốc gia sẽ vào cuộc khi gia đình không còn đủ khả năng

39
hỗ trợ họ. Lợi ích chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập, và trọng tâm trước hết
là phân phối lại trong suốt cuộc sống. Những người có thu nhập cao từ
công việc trước đây sẽ nhận được lợi ích cao, và tương ứng những người
có thu nhập thấp nhận được lợi ích thấp. Quốc gia phúc lợi chủ yếu được
tài trợ bởi các thành phần trong cuộc sống lao động, và không thông qua
thuế.

Mô hình Bắc Âu: Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và Hà Lan.


Trong mô hình này, được đặc trưng bởi tính phổ biến, mục tiêu của quốc
gia là bảo đảm sự bình đẳng. Cả hệ thống lợi ích và hệ thống thuế đều
nhằm mục đích tái phân phối thu nhập. Hệ thống dựa trên các quyền của
cá nhân, và gia đình đóng vai trò như một nhà cung cấp phúc lợi cấp dưới.
Các dịch vụ được xem là phổ quát. Quốc gia phúc lợi chủ yếu được tài trợ
bằng thuế chung.

Châu âu
Quốc gia phúc lợi thường được mô tả như một phát minh của người Bắc
Âu, theo nhà khoa học xã hội Stein Kuhnle, tuy nhiên, các nguyên tắc cơ
bản được xuất phát từ Đức và Anh.

Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc của quốc gia có từ Đức, nguyên tắc về chế
độ phúc lợi bao trùm toàn bộ dân cư và mọi rủi ro xã hội đến từ Anh.

Ngay từ năm 1900, khái niệm bảo hiểm xã hội (Folketrygden) đã đến với
Na Uy. Ngay sau đó, tầm nhìn của Folkhemmet đến từ Thụy Điển, và
Thụy Điển đã có luật đầu tiên trên thế giới về lương hưu cho người già
phổ cập vào năm 1913.

Quốc gia phúc lợi theo nhiều cách có liên quan đến Bắc Âu sau Thế chiến
II. Nhưng quốc gia phúc lợi là một phát minh của châu Âu, và sự xuất
hiện của nó đã được liên kết chặt chẽ với quốc gia như một thực thể chính
trị. Theo Kuhnle, quốc gia phúc lợi cũng đã giúp ổn định nền kinh tế của
các nước bằng cách bảo đảm sức mua của các nhóm khác nhau và giúp tạo
ra sự cân bằng xã hội.

MÔ HÌNH BẮC ÂU LÀ GÌ?


Mô hình Bắc Âu là hệ thống kinh tế, chính trị và thể chế được thể hiện rõ
ràng nhất ở Na Uy, Thụy Điển và Đan Mạch, và với một số chỉnh sửa nhất
định cũng đặc trưng cho Phần Lan và Iceland. Cách thức kết hợp nền kinh
tế thị trường với sự hợp tác ba nhánh trên thị trường lao động và quốc

40
gia phúc lợi (welfare state) toàn dân được đánh dấu các đặc trưng của mô
hình.

Các nước Bắc Âu đều có đặc điểm của các nền dân chủ tự do, mạnh mẽ
với các thể chế chính trị theo hướng đồng thuận và thỏa hiệp. Nền dân
chủ vận hành tốt, các quyền dân sự mạnh mẽ và bảo vệ thiểu số, bao gồm
những quyền được coi là quyền tư hữu tài sản an toàn nhất trên thế giới, là
những trụ cột chính của hệ thống. Các quá trình ra quyết định trong chính
trị được đặc trưng bởi sự tham vấn và tham gia rộng rãi và rộng mở. Điều
này đặc biệt thấy rõ trong sự hợp tác chính thức giữa người sử dụng lao
động và người lao động và thông qua sự hợp tác ba nhánh giữa các đối tác
xã hội và quốc gia. Thực tế là các công đoàn đã có sự hỗ trợ lớn có nghĩa
là lợi ích của họ ở một mức độ lớn hơn so với nhiều quốc gia khác đã
tương ứng với lợi ích chung, bởi đã có chứng minh rõ ràng về bức tranh
này. Tương ứng, một tổ chức toàn diện của phía người sử dụng lao động
có lẽ đã dẫn đến sự hợp tác tốt hơn do kết quả đã thu được. Hệ thống bầu
cử theo tỷ lệ ở các nước Bắc Âu đã khiến các chính phủ thiểu số và liên
minh thường xuyên đòi hỏi sự hợp tác sâu rộng giữa các thế lực chính trị.
Điều này góp phần làm cho mô hình trở nên thích ứng và linh hoạt.

Tất cả các nước Bắc Âu đều có mô hình quốc gia phúc lợi (welfare state
model) hơi khác với mô hình ở các nước khác. Ở các nước Bắc Âu, quốc
gia được nhấn mạnh như một chủ thể giải quyết các vấn đề thay vì thị
trường hay gia đình. Các chương trình phúc lợi phần lớn được tài trợ bằng
thuế và tái phân phối, và một số chương trình quan trọng nhất có tính phổ
biến, tức là các chương trình này không được kiểm tra phương tiện mà
được trao cho tất cả mọi người liên quan. Các dịch vụ cũng chủ yếu được
điều hành và quản lý công khai, có nghĩa là khu vực công tương đối lớn
và thuế tương đối cao. Do đó, khu vực công cũng quan trọng với tư cách
là người sử dụng lao động và nhà cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, sự khác
biệt giữa các mô hình phúc lợi thường thì không khác nhau nhiều. Ví dụ,
đại đa số các nước giàu có mức thuế tương đối cao thì các chế độ xã hội
trở nên rộng rãi và thoải mái.

Một đặc điểm khác của mô hình Bắc Âu là tất cả các nước đều có nền
kinh tế thị trường rất cởi mở và tương đối tự do. Tất cả các nước công
nghiệp phát triển đều là nền kinh tế hỗn hợp, nhưng tỷ lệ pha trộn giữa
can thiệp của công chúng và tự do thương mại thì khác nhau. Ở các nước
Bắc Âu, sự can thiệp của công chúng tương đối ít hơn so với nhiều nơi
khác, và ngoài ra, sự can thiệp chính trị thường được thực hiện để làm cho

41
thị trường hoạt động tốt hơn thay vì gạt thị trường sang một bên. Ngoại
thương là một điều quan trọng đối với nhiều nước khác, và trong hầu hết
các lĩnh vực này đều có thương mại tự do.

Trong thập kỷ qua, mô hình này thường được đánh giá thành công và đặc
biệt cho thấy nó quản lý để kết hợp các chính sách phúc lợi tốt với năng
suất và tăng trưởng cao. Điều này có thể được giải thích theo một số cách,
bao gồm mô hình thị trường lao động và phúc lợi nâng cao năng suất tạo
điều kiện cho nhiều việc làm và chấp nhận rủi ro. Mô hình này cũng đưa
ra những chênh lệch nhỏ về tiền lương, có thể tạo ra động lực để thích ứng
và sử dụng lao động tương đối một cách hiệu quả.

Tất cả các quốc gia có nền kinh tế nhỏ, cởi mở, hoàn toàn phụ thuộc vào
mức trao đổi hàng hóa quốc tế tự do. Điều này khiến việc điều chỉnh phải
liên tục và thích ứng với thị trường là hoàn toàn cần thiết. Trong hầu hết
các lĩnh vực, thương mại nội địa cũng được tự do và dựa trên thị trường.
Nó góp phần vào tăng trưởng và hiệu quả trong nền kinh tế và do đó tạo
ra các chương trình phúc lợi. Như đã đề cập, các nước Bắc Âu được đặc
trưng bởi các quyền tự do, mạnh mẽ. Đối với nền kinh tế, quyền sở hữu tư
nhân có ý nghĩa quan trọng. Cũng qua đó, điều chỉnh thị trường được thực
hiện thông qua các quyết định tư nhân, phi tập trung. Các nước Bắc Âu là
một trong những nước thân thiện với thị trường và kinh doanh nhất trên
thế giới.
(Về mô hình Bắc Âu có thể tham khảo thêm ở PHẦN C).

MẠNG LƯỚI AN TOÀN XÃ HỘI


Phúc lợi, còn được gọi An sinh Xã hội (ASXH), một hệ thống bảo hiểm
xã hội rất phổ biến được nhiều người biết đến ở các nước dân chủ tự do.
Một hệ thống bảo đảm mọi người dân có được cuộc sống an toàn, có công
ăn việc làm mang lại thu nhập cũng như bảo đảm chăm sóc y tế, giáo dục
và hội nhập xã hội, nâng cao nguồn tài chính và hưởng các chương trình
phúc lợi cơ bản trong xã hội, trợ giúp những người gặp rủi ro mất hoặc
giảm thu nhập từ công việc mà vẫn an tâm. Hệ thống ASXH cũng tạo điều
kiện cho những người muốn làm việc sẽ có việc làm và tham gia tích cực
vào các chương trình phúc lợi xã hội.

Hệ thống An sinh Xã hội được biết qua thuật ngữ «Folketrygden» hay
«Bảo hiểm nhân dân» tại Na Uy, là một Hệ thống Bảo hiểm Xã hội của
Quốc gia, được đưa vào vận hành từ ngày 1/1/1967. Phần lớn của hệ
thống được Cơ quan Dich vụ Lao động và Phúc lợi (NAV) điều hành và

42
quản lý. Tất cả mọi người cư trú tại Na Uy là thành viên bắt buộc của hệ
thống ASXH.

Mục đích của Hệ thống ASXH là cung cấp an toàn tài chính bằng cách
bảo đảm thu nhập để tồn tại và hỗ trợ tài chính trong trường hợp thất
nghiệp, mang thai, sinh nở, chăm sóc con cái, bệnh tật, thương tật, tàn tật,
tuổi già và tang lễ. Chương trình ASXH góp phần và thúc đẩy bình đẳng
và tạo điều kiện sống ổn định trong suốt cuộc đời của cá nhân và giữa các
nhóm người. Chương trình ASXH cũng góp phần vào khả năng tự lực
cánh sinh.

Theo quy định tại § 45 và một số quyền và nghĩa vụ, Hiến pháp 2021
được xây dựng căn cứ trên các giá trị phúc lợi nêu trên.

BẢN CHẤT VÀ NHỮNG CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA AN SINH


XÃ HỘI
Một bài viết rất hữu ích trên trang điện tử bhxhbqp.vn về ASXH của
PGS.TS. Mạc Văn Tiến: «Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO): An sinh xã hội (ASXH) là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành
viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại
những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây
ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già
và chết; đồng thời, đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
đông con.

Về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho
các công dân trong xã hội khi họ không may gặp phải những “rủi ro
xã hội” hoặc các “biến cố xã hội” dẫn đến ngừng hoặc giảm thu nhập.
Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng. Mục đích
là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính
xã hội và tính nhân văn sâu sắc, đây cũng là tư tưởng muốn hướng tới sự
hưng thịnh và hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội. Có thể thấy rõ bản
chất của ASXH từ các khía cạnh sau:

Thứ nhất, ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên
Hợp Quốc thừa nhận
Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của
ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất
cả mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị
mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do

43
nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung
là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm
nhiều tầng, nhiều lớp, có thể thực hiện bảo đảm an sinh cho mọi tầng lớp
dân cư, ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công
bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các
biện pháp khác nhau. Nhưng tập trung vào ba vấn đề chủ yếu:
- Vấn đề BHXH, đây là trụ cột cơ bản nhất, cần thiết cho sự bảo đảm
của cả hệ thống ASXH. Có thể coi BHXH là xương sống của hệ thống
ASXH. Chỉ khi có một hệ thống BHXH hoạt động có hiệu quả thì mới
có thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH dựa trên sự đóng góp
của các bên tham gia, gồm người lao động, người sử dụng lao động
và Nhà nước trong một số trường hợp. Thông qua các trợ cấp BHXH,
người lao động có được một khoản thu nhập bù đắp hoặc thay thế cho
những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những trường hợp họ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
- Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, bao gồm cả dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho người lao động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo
đảm cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản
xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể
cả phát triển bản thân con người.
- Các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…), bao gồm cả trợ
cấp gia đình, cho những người có rất ít hoặc không có tài sản (người
nghèo khó), những người cần sự giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng
gia đình… ASXH cũng khuyến khích, thậm chí bao quát cả những
loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại…
- Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo
vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
Đây là thước đo thực hiện quyền con người của mỗi quốc gia, đã được
Liên Hợp Quốc thừa nhận.

Thứ hai, ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác
nhau… là những biểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội.
Nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo
đảm mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân
biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo…

ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người kém may mắn hơn
những người bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực đẩy

44
cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ hội
để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng.

ASXH kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những
người giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, giúp
họ hướng tới những chuẩn mực của Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ đó, một mặt
có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt khác, có thể chống lại được tư
tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”…

ASXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính
kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng
tới một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình
yên.

Thứ ba, ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương
thân tương ái của cộng đồng
Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân
tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ
những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con
người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh. Điều này thể hiện ở
những mặt sau:
- ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình
diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống
của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là đối với những người nghèo khó,
những nhóm dân cư “yếu thế” trong xã hội. Trên bình diện kinh tế,
ASXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên
trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang và dọc. Sự phân
phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại giữa những
người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và
người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người có gánh
nặng gia đình. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại
quỹ ASXH hoặc đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng
trong các trường hợp với các điều kiện xác định. Thông thường, sự
phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm
người được quyền hưởng trợ cấp (một “tập hợp đóng” tương đối).
- Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và
sức mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu
nhập quá thấp, cho những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo
chiều dọc được thực hiện bằng nhiều kỹ thuật khác nhau: trực tiếp
(thuế trực thu, kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…) hoặc gián

45
tiếp (trợ cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ công cộng
như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em…). Việc phân phối
lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện cho một “tập
hợp mở” tương đối).
- Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc
còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính và tổ chức. Song cũng
có thể có một số biện pháp để thực hiện một số chế độ cho những
người có thu nhập thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ
cấp. Những người có thu nhập thấp thường được miễn giảm chế độ
đóng góp, hoặc được người chủ sử dụng lao động (kể cả Nhà nước)
đóng cho hoàn toàn. Hệ thống trợ cấp cũng lưu ý tới những người có
thu nhập thấp (tỷ lệ trợ cấp cao hơn so với những người có thu nhập
cao). Sự phân phối theo chiều ngang và theo chiều dọc đã tạo ra một
lưới ASXH.
- ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đến nay người ta đã ý thức
được rằng, sự phát triển của xã hội là một quá trình, trong đó các nhân
tố kinh tế và nhân tố xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau. Sự phát
triển của thế giới trong những năm gần đây đặt ra mục tiêu là bảo đảm
những cải thiện nhất định cho hạnh phúc của mỗi người và đem lại
những lợi ích cho mọi người; bảo đảm phân phối công bằng hơn về
thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản
xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải thiện về thu nhập giáo dục
và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường… Đáp ứng những
nhu cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn
đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới
đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Sự phát
triển sau này của những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải
quyết được những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong
những trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, ASXH
không loại trừ được sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy
lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người.
Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều
có những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể
tự lo liệu được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành
những người “yếu thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm
người “yếu thế”, những người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính
trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác,
thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống ASXH hình thành

46
và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển toàn diện,
từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.

Những chức năng cơ bản của an sinh xã hội


Về mặt cấu trúc hệ thống, trên giác độ khái quát nhất, ASXH gồm những
bộ phận cơ bản (có thể gọi là các tiểu hệ thống) là:
 Bảo hiểm xã hội.
 Trợ giúp xã hội.
 Trợ cấp gia đình.
 Các quỹ tiết kiệm xã hội.

Những tiểu hệ thống trên có chức năng riêng, đối tượng phục vụ riêng và
có những phương thức thực hiện riêng… Tuy nhiên, dưới giác độ mục tiêu
của hệ thống, ASXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thứ nhất, đó là chức năng phòng ngừa: ASXH góp phần đảm bảo an
toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng ngừa, hạn
chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về
an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra
với người lao động, hệ thống ASXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho
người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất. Tất cả những
yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế - xã hội. Từ
giác độ phòng ngừa, hệ thống ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội. Quỹ ASXH, trong đó có quỹ BHXH là
nguồn tài chính tập trung khá lớn, được sử dụng để chi trả các chế độ
cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các
hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như
vậy xét trên cả phương diện chi trả các chế độ, cũng như đầu tư tăng
trưởng quỹ, hoạt động của quỹ ASXH đều góp phần ổn định xã hội và
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
- Thứ hai, đó là chức năng giảm thiểu rủi ro: Với các cơ chế san sẽ rủi
ro (cả theo chiều dọc và theo chiều ngang), hệ thống ASXH, nhất là
trụ cột BHXH, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi doanh nghiệp
khi tham gia vào hệ thống có được nguồn tài chính để trang trải cho
các hoạt động đời sống gia đình; doanh nghiệp không phải bỏ một
khoản kinh phí lớn để trang trải những rủi ro đối với người lao động
(ví dụ: như thất nghiệp, tai nạn lao động), có thể ảnh hưởng đến
sản xuất kinh doanh. Nhà nước, nhờ có các quỹ ASXH, nhất là quỹ
BHXH, không phải chi một khoản tiền lớn cho các trợ cấp xã hội, qua
đó có thể sử dụng ngân sách cho các mục tiêu phát triển.

47
- Thứ ba, đó là chức năng khắc phục rủi ro: ASXH góp phần ổn định
đời sống của người lao động. Hệ thống các trợ cấp trong ASXH sẽ
góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động
bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất việc làm, hoặc chết. Nhờ có sự
thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục
nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức
khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường.
- Ngoài ra, hệ thống ASXH, trong đó có BHXH, thông qua các hoạt
động của mình, góp phần làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa
người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao
động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia đóng góp vào
quỹ BHXH, điều đó làm cho người lao động có trách nhiệm hơn trong
công việc, trong lao động sản xuất, gắn bó với nơi mình làm việc.
Người sử dụng lao động tham gia đóng góp quỹ BHXH và các quỹ xã
hội khác cũng thấy rõ trách nhiệm của mình đối với người lao động và
xã hội. Nhà nước vừa tham gia đóng góp, vừa quản lý hoạt động của
quỹ BHXH và các quỹ ASXH khác, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
cho mọi đối tượng thụ hưởng… Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ
gắn bó giữa Nhà nước - người sử dụng lao động - người lao động, góp
phần ổn định nền kinh tế - xã hội. ASXH, thông qua các cơ chế của
mình, góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội./.»

48
CHUYỂN ĐỔI THỂ CHẾ CNXH - CNXHDC

Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và Chiến
tranh lạnh kết thúc, Trung và Đông Âu nằm ở đó như «miền đất hứa mới».

Các chế độ cộng sản cũ đã bị phá sản về mặt chính trị, kinh tế và đạo đức.
Hầu hết đã mục nát trên chính gốc của chúng. Một cuộc cách mạng hòa
bình.

Năm 1989, Châu Âu đã thay đổi, thay đổi vĩnh viễn. Và những quốc gia
đứng sau «Bức màn sắt» đã thoát gông cùm xiềng xích của nhà tù khổng
lồ. 30 năm sau, kể từ khi Bức tường sụp đổ, Berlin đã đánh dấu lễ kỷ niệm
thật hoành tráng.

Một số nước cộng sản sau này, duy trì ít nhiều cấp độ CNXH cũng đã
chuyển mình, chuyển đổi qua các hình thức chính trị mới, nhưng cũng
không ngoài nền tảng dân chủ và dân tộc của đất nước. Điển hình như
Hungary, Cuba, Nga…

MỘT HUNGARY MỚI


Vào ngày 1/1/2012, người Hungary thức dậy trên một đất nước với tên gọi
mới và hiến pháp mới. Cộng hòa Hungary, và quốc gia này có hiến pháp
mới do đảng Fidesz cầm quyền thông qua mà không có một lá phiếu nào
từ các đảng đối lập. Cuộc tranh luận về ý nghĩa của điều này đã diễn ra sôi
nổi.

Một mặt, Fidesz tuyên bố rằng nền dân chủ đã được củng cố, bởi vì quá
trình chuyển đổi từ chủ nghĩa cộng sản đã hoàn thành và chính phủ đã tẩy
sạch một xã hội chủ nghĩa sai lầm. Mặt khác, các đảng đối lập Hungary,
Ủy ban châu Âu, Chính phủ Mỹ, nhiều báo chí và chính trị gia châu Âu
chỉ trích sự suy yếu của các cơ quan độc lập của đất nước.

Sự tập trung quyền lực của Thủ tướng Viktor Orbán là chủ đề nóng kể từ
khi đảng dân túy cánh hữu Fidesz giành chiến thắng trong cuộc bầu cử
năm 2010 với hơn 52% phiếu bầu, chiếm đa số 2/3 trong Quốc hội và có
quyền sửa đổi Hiến pháp mà không cần sự ủng hộ của các đảng đối lập.
Fidesz đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong ba lĩnh vực: chủ nghĩa dân
tộc, tập trung quyền lực và chủ nghĩa dân túy kinh tế.

49
Các ví dụ trước đây như tên gọi của đất nước, quyền bầu cử của người
dân tộc Hungary ở các nước láng giềng và luật quy định Đảng Xã hội chịu
trách nhiệm tượng trưng cho các tội ác của Đảng Cộng sản tiền nhiệm
trước năm 1989.

Hiến pháp mới bao gồm các quy tắc chỉ có thể được thay đổi bởi đa số
2/3. Ví dụ, điều này áp dụng cho các quy tắc về thuế thu nhập phẳng và
quản trị ngân hàng trung ương mà EU cực kỳ chỉ trích. Các chính phủ
trong tương lai không thể thay đổi các quy tắc này nếu không có 2/3 đa số.

Ngoài ra, Hungary cũng có một hệ thống bầu cử mới, có lợi cho đảng lớn
nhất. Số lượng ghế giảm, các khu vực bầu cử được tổ chức lại và cần thêm
nhiều chữ ký để ứng cử. Điều này không có nghĩa là Fidesz tiếp tục tại vị
ngay cả khi họ thua cuộc trong cuộc bầu cử, nhưng giúp họ chiến thắng dễ
dàng đáng kể hơn vào những năm tới.

20 tháng sau cuộc bầu cử, Fidesz đã thay đổi đáng kể cách thức cai trị của
Hungary. Những người chiến thắng trong cuộc bầu cử đã trao cho đảng
nhiệm vụ cải cách, nhưng Chính phủ đã sử dụng điều này để tập trung
quyền lực vào tay và củng cố vị thế của mình trước cuộc bầu cử năm
2014.

CUBA VÀ HIẾN PHÁP MỚI


Cuba là một nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa, nơi Đảng Cộng sản độc
quyền nắm giữ quyền lực. Hệ thống chính trị được thiết kế trong thời kỳ
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Liên Xô, nhưng nó cũng có một số đặc điểm
của Cuba và đã trải qua những thay đổi kể từ những năm 1990.

Phần lớn gốc rễ của hệ thống chính trị hiện tại ở Cuba nằm ở sự tiếp quản
của Fidel Castro vào năm 1959. Vào giữa những năm 1970, các nhà lãnh
đạo của cuộc Cách mạng đã khởi động cái gọi là quá trình thể chế hóa,
nhằm tạo ra một Hiến pháp xã hội chủ nghĩa mới và các thể chế chính trị
lâu dài hơn. Quyền lực của Đảng Cộng sản được củng cố và độc quyền
cai trị của nó được ghi trong Hiến pháp. Đây là thời kỳ mà Cuba chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ từ Liên Xô, và nhiều điều được sao chép từ đó. Tuy
nhiên, hệ thống này có một số đặc thù, chẳng hạn như một số thể chế đặc
biệt nhất định và vai trò mạnh mẽ của người lãnh đạo có sức lôi cuốn.

Quốc hội của «Quyền lực Nhân dân», Asamblea Nacional del Poder
Popular, với một văn phòng, chính thức là cơ quan đại diện cao nhất của

50
đất nước. Ngoài ra còn có các cơ quan dân cử ở cấp tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương, đô thị. Các đại diện được bầu trong các cuộc bầu cử
chung và trực tiếp với độ tuổi bỏ phiếu là 16 tuổi, nơi cử tri bỏ phiếu cho
các cá nhân, không phải đảng phái. Quốc hội có 612 thành viên và được
bầu trong 5 năm. Nó thường có hai phiên một năm và nếu không thì hoạt
động thông qua Bộ trưởng, dựa trên cơ sở của Hội đồng. Một bên cũng
có Chính phủ (được gọi là Hội đồng Bộ trưởng), mà các thành viên được
Quốc hội (hoặc Hội đồng Nhà nước) bầu ra. Người đứng đầu nội các đồng
thời là Tổng thống và Thủ tướng của đất nước, và đứng đầu Hội đồng Bộ
trưởng. Nó phổ biến với mức độ chồng chéo lớn về thành viên giữa hai
hội đồng.

Đảng Cộng sản Cuba, Partido Comunista de Cuba, được xác định trong
Hiến pháp là lực lượng lãnh đạo của xã hội và Nhà nước, và tồn tại bất kể
bầu cử. Đảng này nổi lên từ một cuộc tập hợp của một số nhóm, bao gồm
cả phong trào Cách mạng của Fidel Castro. Nó được chính thức thành lập
vào năm 1965, vài năm sau cuộc Cách mạng, quyền lực của nó rất hạn chế
cho đến đầu những năm 1970. Để trở thành một đảng viên, thường phải
được đề xuất bởi những đồng nghiệp thân thiết nhất của mình tại nơi làm
việc, tiếp theo sau đó trải qua một quy trình «sàng lọc». Cơ quan tối cao
chính thức của Đảng là Ủy ban Trung ương.

Một đặc điểm quan trọng trong hệ thống Cuba là cái gọi «các tổ chức
nhân dân», hoạt động như một liên kết giữa Đảng và dân chúng. Ví dụ
như Phong trào Công đoàn Confederación de Trabajadores de Cuba
(CTC), Liên đoàn Phụ nữ Federación de Mujeres Cubanas (FMC). Nhưng
Ủy ban Bảo vệ Cách mạng, Comités de Defensa de la Revolución(CDR)
có lẽ là tổ chức đặc biệt nhất của Cuba. Chúng ban đầu được thành lập vào
đầu những năm 1960 để tiến hành giám sát và chống lại các mối đe dọa
đối với cuộc Cách mạng. Các chức năng này vẫn còn đó, nhưng khoảng
15.000 ủy ban khu phố cũng tham gia vào việc tiến hành các cuộc bầu cử,
và cũng được mong đợi nhận được ý kiến đóng​​ góp từ những người dân
được chuyển lên trong hệ thống.

Tất cả các «tổ chức nhân dân» đã bị chỉ trích vì hầu hết hoạt động như
công cụ cho đảng.

Một cơ chế đảm bảo thông tin liên lạc giữa những người cầm quyền và
người dân, ở một quốc gia nơi hầu hết các phương tiện truyền thông do

51
Đảng Cộng sản kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, đang được nhiều người
đặt câu hỏi.

Mặc dù có chỗ cho các cuộc tranh luận công khai trong một số giới hạn
nhất định, luật pháp không cho phép tự do thành lập các tổ chức đối lập.
Các nhóm phản biện hệ thống có thể bị trừng phạt, trả thù nghiêm trọng:
bắt giam, tịch thu tài liệu, giám sát, cấm tham gia truyền thông, cản trở
việc tiếp cận việc làm, đe dọa, và sử dụng bạo lực.

Hệ thống chính trị Cuba đã có những thay đổi, đặc biệt là kể từ khi Liên
Xô sụp đổ. Ví dụ như Đảng Cộng sản mở cửa cho những người theo tôn
giáo vào năm 1991 và việc sửa đổi Đạo luật Bầu cử năm 1992, cùng với
những điều khác, theo đó Đảng Cộng sản không được phép tham gia vào
các quy trình ứng cử vào các cơ quan dân cử.

Với bản Hiến pháp mới, năm 2021 Cuba sẽ có những bước ngoặt đáng
kể. Tháng 7/2018, Cuba cho ra đời một bản Dự thảo Hiến pháp mới, một
bước ngoặt mới cho đất nước. Lần này, truyền thông thế giới cho biết:
Hiến pháp mới của Cuba không có khái niệm «cộng sản».

Mục tiêu của Cuba không còn là tiếp tục xây dựng một chế độ cộng sản,
mà là một xã hội chủ nghĩa, được đề cập trong Dự thảo Hiến pháp mới.

Điều đáng nêu trong Hiến pháp mới của Cuba là tầm quan trọng liên quan
đến những thay đổi trong nền kinh tế, thu hút các nhà đầu tư từ nước
ngoài. Họ xóa bỏ điều khoản trong nền tảng hiện tại của cộng sản, giới
thiệu đến quyền sở hữu tư nhân. Trong thực tế, điều này không phải là
mới. Đồng thời, Hiến pháp nhận định rằng tài sản Nhà nước sẽ tiếp tục là
hình thức tài sản chiếm ưu thế.

Các nhà kinh tế dự đoán một nửa số doanh nghiệp Nhà nước hiện đang
trải qua thâm hụt sẽ biến mất. Vì vậy, các nhà chuyên gia cho rằng đề xuất
Hiến pháp mới và các luật mới được công bố không giúp ích được gì. Bởi
vì ngay cả khi Hiến pháp cung cấp cho bất cứ ai quyền bắt đầu một doanh
nghiệp tư nhân, vẫn bị ngăn cản mở rộng kinh doanh của mình.

Tầm quan trọng hơn cho sự thay đổi tiềm năng ở Cuba là một Hiến pháp
mới cho thế hệ sắp tới tại Bộ Chính trị Cuba - cơ quan quản lý chính trị
hàng đầu trong nước. Do đó, năm 2021 trở thành một năm quan trọng đối

52
với Cuba. Sau đó, lực lượng cảnh sát sẽ được thay thế hoàn toàn. Cuộc
đấu tranh của đảng cũ sẽ biến mất, và các nhóm quyền lực khác sẽ tự do
thoải mái với nhau hơn.

Do đó Hiến pháp mới có thể đặt nền móng cho những thay đổi quan trọng
sau năm 2021.

NGA VÀ NHỮNG DIỄN BIẾN MỚI


Putin muốn thay đổi hệ thống chính trị. Điều gì đã thực sự xảy ra ở Nga?

Đầu tháng 1/2020, Tổng thống Nga Vladimir Putin đọc bài phát biểu
truyền thống trước Quốc hội. Đây là lần thứ ba trong một thời gian ngắn,
vị Tổng thống quyền lực nói chuyện với người dân, có vẻ mang đến nhiều
kỳ vọng cho dân chúng. Nhưng đó là thời điểm bắt đầu một quá trình
dường như thay đổi hoàn toàn nền chính trị Nga.

Những gì Putin nói trong bài phát biểu của mình là ông muốn phân chia
quyền lực của Tổng thống thành nhiều cơ quan. Cụ thể hơn, ông muốn
chuyển giao quyền lực từ Tổng thống sang Quốc hội.

Putin nói rằng ông làm điều này vì ông tin rằng nước Nga và người dân
Nga đã sẵn sàng cho sự thay đổi này. Sau thời kỳ Chủ tịch nước mạnh mẽ,
đất nước và Quốc hội hiện đã sẵn sàng được trao cho nhiều quyền lực hơn
và trách nhiệm lớn hơn.

Đây là cuộc cải cách Hiến pháp quy mô lớn đầu tiên ở Nga trong 25 năm,
giám đốc Dmitry Badovsky tại Sở Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Chính
trị của Vedomosti cho biết. Ông tin rằng điều này cho thấy quá trình
chuyển đổi sang một nước Nga không có Putin hiện đang được tiến hành.
Nhiều khả năng cho thấy đây là việc tối đa hóa ấn tượng rằng cải cách và
đổi mới đang được tiến hành trong nền chính trị Nga, ngay cả khi xoay
quanh những điều cấm kỵ

Mọi thứ đang diễn ra như thế nào với những sửa đổi Hiến pháp sẽ được
trình ra trước một cuộc trưng cầu dân ý. Các cuộc bầu cử vào Quốc hội
vào năm 2021 và đảng của Putin, Nước Nga Thống nhất, sẽ lớn mạnh như
thế nào. Và khoảng năm 2024, một thời kỳ chuẩn bị cho những gì sẽ xảy
ra sau đó…

53
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ HIẾN PHÁP 2021

BIỂU TƯỢNG ĐIỀU LUẬT §


Biểu tượng § tiếng Na Uy gọi là «Paragraf» - Một đoạn văn của pháp luật,
quy định, hợp đồng và các văn bản pháp luật. Tất cả các đạo luật của Na
Uy từ khi Hiến pháp ra đời năm 1814 được chia thành nhiều đoạn văn.

Mỗi đoạn được đánh dấu bằng dấu § và một số. Ký hiệu § thực sự là
hai chữ S được viết lồng lên nhau, và viết tắt của tiếng Latinh: Signum
Sectionis, «Ký hiệu đoạn văn». Hệ thống phân chia các văn bản luật thành
các đoạn văn đã được các nhà chú giải thuật ngữ đưa ra trong quá trình
nghiên cứu Luật La Mã vào thế kỷ 12 và 13.

NHÀ NƯỚC - CÔNG CỤ PHỤNG SỰ QUỐC GIA VÀ NHÂN DÂN?


Là một người xa đất nước khi còn rất trẻ, khái niệm «Nhà nước» đã trở
thành một khái niệm xa lạ tìm thấy trong hầu hết các văn bản tại Việt
Nam. Tuy nhiên, hai từ «Nhà nước» ở thời cổ đại nước ta tiêu biểu một
sự gắn bó như keo sơn giữa quốc gia và nhân dân, thật là ý nghĩa và hợp
lý. Dần dà, theo thời gian vào thời hiện đại, khái niệm này dường như bị
lạm dụng một cách nghiêm trọng có minh chứng. Điển hình: Quốc gia,
Đất nước, các cơ quan chính quyền như Quốc hội, Chính phủ, Cơ quan Tư
pháp, và các cơ quan khác đều được khái niệm này thay thế. Cách sử dụng
‘tập trung’ này khiến nhiều người ngoài nước hết sức bối rối, đặc biệt là
những người có kiến thức về luật.

Trong một bài viết trên mạng xã hội: «Chống ‘Nhà Nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam’ không những là QUYỀN mà còn là NGHĨA
VỤ.

Ở đây là nhà nước chứ không phải là đất nước. ĐẤT NƯỚC (hay quốc
gia, tổ quốc...) là một thực thể bao gồm một lãnh thổ, một chính quyền,
một di sản văn hóa lịch sử và những con người bình quyền gắn bó với
nhau và chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung.
Quốc gia là thực thể cao nhất ở trên mọi người và là của chung mọi người.

NHÀ NƯỚC là toàn bộ guồng máy chính quyền: lập pháp, tư pháp và
hành pháp. Cụ thể là quốc hội, các tòa án, chính phủ và các cơ quan thuộc
quyền điều khiển của chính phủ. Nhà nước không phải là cứu cánh mà chỉ
là công cụ để phục vụ quốc gia. Nhà nước không được có quyền lợi của

54
riêng mình mà chỉ biết quyền lợi của quốc gia, trong khi quyền lợi của
quốc gia do toàn dân quy định sau một đúc kết đúng đắn những ý kiến cá
nhân được bày tỏ một cách tự do.»

Chính vì vậy, và cũng theo nguyên tắc phân lập quyền lực và cơ chế độc
lập trong hệ thống chính trị, khái niệm nhà nước do đó được hạn chế sử
dụng trong các mô hình kinh tế - xã hội - chính trị, loạt sách hiến pháp và
pháp luật.

TÀI LIỆU SỬ DỤNG


Khi đặt bút viết cuốn sách «Giải trình HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2021»
vào tháng 12/2020, tác giả tra cứu một số sách chuyên khoa về hiến pháp
trong nước làm cơ sở để đóng góp một cách tích cực và hiệu quả trong
giai đoạn giải trình bản hiến pháp mới này, nhận thấy tác phẩm ABC VỀ
HIẾN PHÁP của nhóm giảng viên khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội là
một tác phẩm rất hữu ích và giá trị. Tác giả xin mạn phép được trích đoạn,
dẫn chiếu một số dữ liệu phổ quát để hỗ trợ phần nào cho việc hoàn thành
cuốn sách trong một thời gian gấp rút, và để bạn đọc có dịp tham khảo
cũng như đối chiếu trong một số lĩnh vực. Tác giả cũng xin mạn phép sử
dụng một số dữ liệu của các học giả và nhà nghiên cứu khác.

KỸ THUẬT GIẢI TRÌNH


Để hướng dẫn bạn đọc PHẦN B: GIẢI TRÌNH HIẾN PHÁP VIỆT NAM
2021, các đoạn văn của các điều khoản Hiến pháp được xê dịch vào một
chút so với các phần giải thích và trình bày.

55
PHẦN B:

GIẢI TRÌNH HIẾN


PHÁP VIỆT NAM
2021
LỜI GIỚI THIỆU

Chúng tôi, nhân dân Việt Nam, tự hào về lịch sử oai hùng đã có hơn bốn
ngàn năm văn hiến, phát huy từ những gương sáng của các vị lập quốc cũng
như các anh hùng và anh thư nước Việt đã hy sinh gìn giữ non sông qua bao
thời đại. Là công dân Việt Nam, chúng tôi hướng về cội nguồn tiếp tục phát
huy sự nghiệp và truyền thống rực rỡ đã gắn liền với dân tộc trong suốt mấy
ngàn năm, tiếp nối những bước chân bất khuất để bảo vệ quê hương và tổ
quốc, thể hiện tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập,
phồn vinh và tự do của dân tộc.

Để tiếp nối và phát huy sự nghiệp vĩ đại nói trên, nền Việt Nam Dân Chủ ra
đời ngày 10 tháng 3 năm 2019 căn cứ trên nền tảng Đa Nguyên, Đa Đảng
và một thể chế Đại Nghị, quyết tâm thực hiện dân chủ hóa đất nước, hóa giải
mọi lãnh vực, hòa giải thống nhất tinh thần dân tộc, chống bất công và tệ
nạn xã hội, mang lại công bình và công lý cho nhân dân Việt Nam.

Luật Cơ bản này ra đời cùng lúc là tiền đề cho các nhà lập pháp tiến đến
xây dựng và thúc đẩy phát triển đất nước thông qua các đạo luật phù hợp
với nền tảng xã hội dân chủ và các giá trị được quốc tế công nhận; đồng thời
nhân dân thực hiện quyền lực của mình, thể hiện các quyền cơ bản cũng như
các nghĩa vụ, tự do phát huy tinh thần và phát triển cuộc sống theo khả năng
cá nhân; phân rõ trách nhiệm và vai trò của các nhánh quyền lực chính trị
cũng như các nhà chức trách hoạt động xã hội và dân sự.

Đoàn kết dân tộc, cùng hiệp nhất với đồng bào của chúng tôi đang ở khắp
nơi trên thế giới, chúng tôi lưu tâm đến sự hợp tác nhiệt tình với tất cả các
quốc gia vì lợi ích chung, vì nền hòa bình và sự phát triển không ngừng của
nhân loại trên trái đất.
Chúng tôi kêu gọi tất cả những ai có kiến thức về bản Hiến Pháp này sẽ
đóng góp xây dựng một nhịp cầu tương thân tương trợ và sự liên đới bền
vững trên mọi lãnh vực trong nhân loại. Chúng tôi cũng kêu gọi những ai
áp dụng bản Hiến Pháp này cho những điều tốt đẹp nhất của nền Việt Nam
Dân Chủ, để thể hiện sự tôn kính đối với giá trị và phẩm giá vốn có của loài
người, quyền tự do và nghĩa vụ, trách nhiệm đối với tha nhân.

Với một quốc gia đa tôn giáo, chúng tôi hướng đến Thượng Đế, Vua của vũ
trụ, Đấng tạo hóa và toàn năng, ý thức trách nhiệm của mình trước Thánh
Thiện, lương tâm và con người.

58
Nhiều bản hiến pháp trên thế giới, nội dung Lời nói đầu của các nước đều
có những đặc điểm khác nhau. Để tìm một dạng mở đầu thích hợp cho
Hiến pháp Việt Nam, một quan niệm chung của đại đa số là một điều rất
khó, và càng thêm khó khăn cho một người xa quê nhà từ khi còn rất trẻ.

Hiến pháp trên thế giới là một văn kiện của một quốc gia, của toàn dân,
thường được thực hiện của đại đa số người dân, nhiều nhà chính trị dân
cử, luật gia và các chuyên gia độc lập. Song nhiều câu hỏi tự đặt ra. Thế
nào để đáp ứng cho một đại dân tộc có nhiều quan niệm khác nhau? Chính
kiến khác nhau? Và văn hóa cũng khác biệt? Tuy vậy, Hiến pháp này là
một bản Hiến pháp lâm thời, do đó, Lời giới thiệu được biên soạn trong
một bối cảnh đặc biệt và có thể được điều chỉnh, hoàn thiện hơn theo quy
định trong Hiến pháp.

Để đáp ứng phần nào cho người dân Việt Nam, tác giả cố gắng đúc kết ngắn
gọn qua những dòng tư tưởng, nguyện vọng chung, chủ trương và mục đích
chung, xác định hướng đi, và không quên tổ tiên, tiền nhân cũng như các
tôn giáo trong lòng dân tộc của nước Việt Nam Dân Chủ tương lai.

Việt Nam Dân Chủ


Ngược dòng lịch sử cận đại của nước ta, vào năm 1946 Việt Nam nói
chung đã có một chính thể gọi là «Việt Nam Dân chủ Cộng hòa» và hai
thập niên 1955-75 cũng từng tồn tại một chính thể gọi là «Việt Nam Cộng
Hòa». Bởi vậy, muốn tìm một giải pháp khác, một tên mới cho chính thể
của Việt Nam thích hợp với các tiêu chí và hướng đi mới được gói trọn
giản dị trong khái niệm «Việt Nam Dân Chủ».

Ngày 10 tháng 3 năm 2019


Ngày 10 tháng 3 (Dương lịch) là ngày được chọn theo cảm hứng của ngày
Giỗ Tổ Hùng Vương (Âm lịch) cũng là ngày rơi vào tiết mùa xuân. Mùa
xuân ở Bắc bán cầu thường bắt đầu được sưởi ấm một cách đáng kể. Tuyết
bắt đầu tan chảy đưa các con sông, dòng suối trở về thực tại. Tia nắng mặt
trời làm cho thực vật đâm chồi nở hoa, được sức vươn lên nhanh theo nhịp
sống sau một làn băng tuyết ấp phủ lâu dài, khơi dậy sự sống và hy vọng
cho những ngày tươi mát sắp đến. 2019 là năm Hiến pháp lần đầu tiên
được phát hành trên trang mạng điện tử QUOCHOIVN.ORG.

Nền tảng Dân Chủ


Cũng như nhiều nước dân chủ trên thế giới, Việt Nam tương lai được xây
dựng trên nền tảng dân chủ. Khái niệm dân chủ phát xuất từ tiếng Hy Lạp

59
«Dimokratía», có nghĩa là quy tắc phổ biến. Dân chủ, còn được gọi là quy
tắc dân gian, là một hình thức chính phủ, trong đó người dân được biểu
hiện như những công dân trưởng thành của quốc gia, tuyển chọn đại diện
để làm luật và đưa ra các quyết định chính trị quan trọng. Trong nền dân
chủ, công dân được tạo điều kiện tham gia vào việc xây dựng các cơ cấu
chính trị. Nói nôm na, dân chủ có nghĩa là công dân tích cực tham gia vào
việc đưa ra quyết định chính trị quan trọng và được quyền tham gia một
cách bình đẳng, để thể hiện tư cách làm chủ và quản lý đất nước.

Trong thời hiện đại, các nền dân chủ thường là các nền dân chủ đại diện,
nơi người dân kiểm soát và quyết định vận mệnh quốc gia, bằng cách bỏ
phiếu trong các cuộc bầu cử tự do và cạnh tranh, để tuyển chọn những
người tín nhiệm nhất lãnh đạo đất nước và đưa ra quyết định thay cho họ
thông qua các cuộc bầu cử như vậy. Ngoài ra, các nền dân chủ hiện đại
cũng có các yếu tố dân chủ trực tiếp, ví dụ là hình thức trưng cầu dân ý.

Ngày nay, dân chủ tồn tại như một hình thức của chính phủ trên nhiều
cấp độ và lĩnh vực của xã hội. Trong khi nước ta áp đặt một hình thức
«dân chủ tập trung» mà bản chất là độc tài đảng trị, thì hầu hết các nước
phương Tây đã ổn định dân chủ trong xã hội của họ, một nền dân chủ
đúng đắn mà cho đến nay nhân dân Việt Nam vẫn chưa có. Nhiều quốc gia
ở phía Đông Âu đã từ bỏ chế độ độc tài chuyên chế và cũng đã trở thành
các nền dân chủ vững mạnh và phát triển kể từ đầu thập niên 90. Và cũng
từ đó, phần lớn các quốc gia trên thế giới đã bước sang nền dân chủ trong
thời đại của chúng ta.

Đa nguyên, Đa đảng và thể chế Đại nghị


Hệ thống chính trị trong một thể chế Đại nghị (Parliamentarism) với xu
hướng Đa nguyên (Multiplicity), Đa đảng (Multi-party) của nền Việt Nam
Dân Chủ, được quan niệm qua phương thức tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị quốc gia thông qua các tổ chức chính thức thành lập và
hoạt động theo quy định pháp luật chung của đất nước. Chế độ đa nguyên,
đa đảng phái chính trị được cấu thành bởi sự kết hợp các yếu tố: tư tưởng
chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường, cải cách, tôn giáo, văn hóa, dân tộc,
pháp luật... Các tư tưởng hoạt động trong các hệ tư tưởng chính trị được
vận hành theo hiến pháp quốc gia của mỗi nước quy định về tính chất vai
trò, trách nhiệm và quyền lực, sự phân bổ và tổ chức các cơ quan chính
quyền, mối quan hệ giữa các cơ quan chính quyền, về những quan hệ của
chính quyền với công dân, giữa các đảng phái chính trị cánh tả - cánh hữu,

60
các tổ chức xã hội, giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc
trong nước và thế giới.

Một chính thể bao gồm các thành tố đa nguyên và đa đảng là điều tiên
quyết cho sự thành công thực hiện các quốc sách tốt nhất cho đất nước,
và các quyền cơ bản của công dân tất nhiên cũng được thực hiện và tôn
trọng.

Tại sao chọn lựa thể chế Đại nghị?


Thể chế đại nghị hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu chính trị trên thế
giới hết sức tán dương bởi tính đa dạng và vững mạnh, một chế độ chính
trị ổn định nhất trong thời hiện đại.

Thể chế chính trị mới của Việt Nam không cách xa thể chế nước Cộng hòa
Liên bang Đức là bao, gần gũi với các nước hài hòa ở Bắc Âu và không xa
vời đối với các nước dân chủ khác. Một thể chế tốt và ổn định là nhờ đáp
ứng được các yếu tố tích cực đặc trưng trong chế độ đại nghị. Nhờ đó, các
đảng phái dung hòa được mức độ chống đối, hình thành nên cơ chế đồng
thuận, xử sự ôn hòa và giúp ngăn ngừa các chính sách tồi tệ. Cũng như hệ
thống chính trị Đức và các nước Bắc Âu, bảo đảm dân chủ nhưng vẫn tập
trung mà không độc đoán.

Tương tự như mô hình chính trị Đức, sự cân bằng chính trị ở nước ta sẽ
được thiết lập cả theo chiều ngang và theo chiều dọc. Theo chiều ngang,
đó là nhờ chế độ Quốc hội Lưỡng viện với cơ quan chính quyền được chia
làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp để không một cơ quan nào
duy nhất được nắm giữ hết quyền lực, điều cần thiết để tránh dẫn đến mất
ổn định và trở nên độc tài. Cân bằng theo chiều dọc đạt được nhờ cơ chế
chính quyền trung ương và chính quyền khu vực địa phương, và đại diện
của địa phương tại Quốc hội là các thượng nghị sĩ.

Hiến pháp Việt Nam 2021 ra đời có thể được xem là một cơ sở, một tiền
đề HỢP NHẤT TẤT CẢ CÁC THẾ LỰC CHÍNH TRỊ trong cùng một thể
chế, để tạo khả năng ổn định chính trị của đất nước trong những thập niên
tới và cho thế hệ mai sau. Đất nước ổn định là nền tảng duy nhất để đưa
Việt Nam trên con đường phát triển, tiến nhanh, tiến mạnh và bền vững.

61
CHƯƠNG I: CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG

Chương I: Các nguyên tắc chung, được xây dựng một hình thức quốc gia
và các giá trị chung của nhân dân và đất nước, và một số điều khoản quy
định trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948). Hiến pháp chính
là một văn kiện quan trọng nhất của quốc gia được tạo trên những giá trị
chung của thế giới, được điều chỉnh đôi nét để thích ứng vào hiện tình và
cấp độ dân chủ của nước Việt Nam mới.

Ngoài hình thức quốc gia và truyền thống của dân tộc Việt Nam, Hiến
pháp 2021 còn quy định các quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan công
quyền (quyền lực), củng cố quyền bình đẳng và bình quyền trước pháp
luật, tự trị địa phương và tản quyền, quản lý lực lượng vũ trang và xác lập
các điều kiện hoạt động chính trị của các đảng phái.

§ 1. [Hình thức quốc gia]


(1) Việt Nam là một quốc gia dân chủ, pháp quyền và thực hiện căn
cứ trên nguyên tắc công bình và công lý.
(2) Chủ quyền thuộc về nhân dân và do nhân dân thực hiện.
(3) Nhân dân thực hiện quyền lực của mình một cách trực tiếp hoặc
thông qua người đại diện.

Hiến pháp 2021 quy định Việt Nam sẽ là một đất nước dân chủ, để bảo
đảm quyền lập hiến thuộc về nhân dân, bảo đảm nguồn gốc của Hiến
pháp thuộc chủ quyền nhân dân, là bản khế ước xã hội, phản ánh ý chí và
nguyện vọng của nhân dân. Qua bản khế ước này, nhân dân sử dụng nó
như một công cụ pháp lý để tham gia tích cực vào việc giám sát và quản
lý đất nước, quy định quyền hạn và trách nhiệm nghiêm ngặt đối với các
cơ quan chính quyền.

Nhân dân thực hiện quyền lực của mình một cách trực tiếp hoặc thông
qua người đại diện. Khoản này có thể được hiểu là khi Hiến pháp này đi
vào hiệu lực, và trong khi pháp luật vẫn chưa được thiết lập thì các điều
khoản Hiến pháp được áp dụng trực tiếp, hoặc thông qua hệ thống toà
án (Chương 6), các Hội đồng Thanh tra Quốc gia (§ 90), Hội đồng Nhân
quyền Quốc gia (§ 91), hay Toà án Hiến pháp (§ 160) …

Theo ABC về Hiến Pháp: «Thuật ngữ chủ quyền nhân dân được đề cập
vào thế kỷ XVIII bởi J.J.Rousseau, chỉ ý chí chung của cộng đồng xã hội
(nhân dân). Theo Rousseau, chủ quyền nhân dân mang tính chất tối cao,

62
không thể từ bỏ và không thể phân chia. Việc chia quyền lực nhà nước
thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là biểu hiện bên
ngoài, còn thực chất, các bộ phận này đều phụ thuộc vào và nhằm thực
hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Chủ quyền nhân dân là nền tảng cho
sự ra đời của nhà nước, vì thế cao hơn, chi phối và là cơ sở bảo đảm sự
thống nhất của quyền lực nhà nước. Hiện nay, tư tưởng về chủ quyền nhân
dân đã được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiến
pháp của các nước, dưới các hình thức khác nhau (nhưng thông thường ở
ngay Lời nói đầu), đều khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực
nhà nước.»

Vào thời cận đại, thuật ngữ «Pháp quyền» hay «Pháp trị» chuyển dịch
từ khái niệm Anh-Mỹ như «Rule of law» đã trở nên phổ biến được áp
dụng cho một quốc gia được quản trị theo pháp luật, theo các nguyên tắc
chung của đất nước. Nếu dùng khái niệm phổ quát như «Rule of law» làm
chuẩn thì các quốc gia dân chủ trên thế giới đều chuyển dịch khác nhau,
có những định nghĩa khác nhau, hoạt động khác nhau và đem vào áp dụng
cũng khác nhau; tùy theo chế độ, tùy theo cấp độ dân chủ và tùy theo tình
hình đất nước đó.

Quốc gia pháp quyền được biết tới thường chỉ dùng trong các chế độ dân
chủ, và người dân chủ ở phương Tây thường gọi các nước có chế độ độc
tài, độc đảng toàn trị là «quốc gia công an trị». Do đó, các quốc gia công
an trị này thường gặp phải nhiều thách thức quốc tế, điển hình liên quan
đến các thỏa hiệp về các mục tiêu kinh tế. Và vì thế, người dân ở các
quốc gia này thường trở thành nạn nhân, chịu nhiều thiệt thòi dưới chế độ
«công an trị».

Người dân chủ ở phương Tây cho rằng các quốc gia công an trị là những
nước dùng các cơ quan chức năng trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp chống
lại công dân, tổ chức và doanh nghiệp, theo cách tùy tiện và không thể
tiên đoán trước, nghĩa là họ hành động không có cơ sở pháp lý. Cụ thể
hơn nghĩa là khi người dân lên tiếng bất đồng chính kiến với chính quyền
thì bị đàn áp, cho vào tù và bịt miệng.

Ở Na Uy, khái niệm quốc gia pháp quyền được gọi «rettsstat» hoặc
«lovstat» - một quốc gia pháp luật. Điều này có nghĩa là cả nước bị chi
phối bởi pháp luật và các quy tắc chung, chứ không bởi quy tắc của những
người cầm quyền. Mọi người và các cơ quan chính quyền đều thực hiện
nhiệm vụ của mình căn cứ theo các quy tắc chung, tức là pháp luật. Ở

63
Thụy Điển, người ta gọi là «rättsstat» hoặc «rättsstatsprincipen» - một
nguyên tắc quốc gia căn cứ trên sự ưu thế và chắc chắn của pháp lý. Xác
định một hệ thống tòa án độc lập và các cơ quan công quyền điều hành
hoạt động trong khuôn khổ của các nguyên tắc chung đã thỏa thuận. Các
quy tắc chung của pháp luật bảo vệ cá nhân về mặt pháp lý, chống lại các
cơ quan chức năng lạm quyền và bạo lực. Ở Đan Mạch, người ta gọi là
«retsstatsprincippet» - học thuyết về sự bền vững của pháp lý, mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật, điều này có nghĩa là chính quyền không
chỉ thực thi luật mà còn phải tuân thủ luật. Điều này cũng được tòa án bảo
đảm pháp lý đối với các hành động của chính quyền.

Ở các nước châu Âu, «quốc gia pháp luật» đã được phát huy ở thế kỷ 18
và 19 sau những cuộc phản kháng đối với chế độ quân chủ độc tài. Và sự
ra đời của quốc gia «pháp luật» hay «pháp quyền» là để đem đến sự an
ninh, khả năng dự đoán và bình đẳng. Nhìn chung, các nước Tây Âu là
những quốc gia đã phát triển và ổn định ở mọi mặt, và người dân nơi này
không có nhu cầu «phản loạn» như những quốc gia còn áp dụng phương
pháp «công an trị». Do đó, thuật ngữ «Rule of law» được sử dụng phổ
biến, uy quyền nhưng ôn hòa, và đặc biệt là để nâng cao quyền (lợi) của
mỗi cá nhân, giải quyết các tranh chấp giữa chính quyền và công dân, và
bình đẳng hóa tất cả thành phần trong xã hội trong khuôn khổ pháp luật.

§ 2. [Đạo luật Hiến pháp]


(1) Hiến Pháp là đạo luật tối cao của nền Việt Nam Dân Chủ, cũng là
Luật Cơ bản của nhân dân, do nhân dân thành lập và thực hiện.
(2) Các quy định của Hiến Pháp được áp dụng một cách trực tiếp.

Hiến pháp 2021 quy định Việt Nam sẽ là một quốc gia pháp quyền, phản
ánh sâu sắc của một quốc gia pháp luật, Luật Cơ bản của nhân dân, do đó,
là một văn kiện có hiệu lực pháp lý cao nhất của quốc gia. Để bảo đảm
chủ quyền thuộc về nhân dân, Hiến pháp phải được xây dựng xuất phát từ
chính nhân dân. Nhân dân có đặc quyền và vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và hình thành Hiến pháp Quốc gia. Chủ quyền nhân dân phải
được ghi nhận trong Hiến pháp.

Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, vị trí tối cao của Hiếp pháp
chưa được người dân chính thức xây dựng và thực hiện, chủ quyền nhân
dân không được tôn trọng một cách nghiêm chỉnh. Hiến pháp là đạo luật
của nhân dân, mà nhân dân Việt Nam không có được điều kiện trực tiếp
để thực hiện việc xây dựng cũng như sửa đổi Hiến pháp theo ý chí và

64
nguyện vọng của mình. Các hành vi vi phạm của chính quyền có thể phản
ánh qua kiến thức ghi nhận trên thế giới, điển hình như xin ý kiến nhân
dân về Dự thảo Hiến pháp 2013, nhưng tiến trình này chỉ được tiến hành
một cách hình thức, thiếu minh bạch hoặc đi kèm với sự đe doạ (công khai
hay ngấm ngầm) của chính quyền khiến người dân không dám thể hiện
quan điểm thật sự của mình. Do đó, Hiến pháp hiện hành không hàm chứa
tính chất của một nền dân chủ đúng đắn, và cơ chế kiểm soát quyền lực
cũng không được thể hiện để bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ các quyền cơ bản
của nhân dân, xác nhận chủ quyền của nhân dân.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, hiến
pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Tất cả các văn bản pháp luật
khác phải phù hợp, không được trái với hiến pháp. Vị trí tối cao của hiến
pháp là do nó phản ánh sâu sắc nhất chủ quyền của nhân dân và về nguyên
tắc phải do nhân dân thông qua (qua hội nghị lập hiến, quốc hội lập hiến
hoặc trưng cầu ý dân). Điều này khác với các đạo luật bình thường chỉ do
quốc hội (nghị viện) gồm những người đại diện do dân bầu và uỷ quyền
xây dựng.

Trong thời đại ngày nay, sự hiện diện của hiến pháp, thành văn hoặc
không thành văn, là một tiêu chí không thể thiếu của chế độ dân chủ.
Hiến pháp có tác dụng khẳng định tính chính đáng của nhà nước, bảo đảm
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xác định những phương thức nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước và ngăn chặn sự xâm phạm của chính
quyền lực nhà nước đến các quyền và tự do của người dân. Hiến pháp, do
đó, rất cần thiết cho sự phát triển của một đất nước cũng như mỗi người
dân.»

§ 3. [Tự do và dân chủ]


Việt Nam thúc đẩy và quyết tâm thực hiện Dân Chủ Hóa Đất Nước,
trao trả quyền lập hiến và quyền phúc quyết cho nhân dân, với hướng
đi rõ ràng và minh bạch, để hội nhập quốc tế và các cộng đồng văn
minh trên thế giới.

Người dân luôn mong đất nước có được nền tảng và điều kiện để tiến lên
một tầm cao hơn thông qua các thiết chế của nền dân chủ tự do, để thực
hiện quyền dân chủ mà tạo hóa đã ban cho con người. Tuy nhiên, trên thực
tế quyền lập hiến của nhân dân Việt Nam chưa bao giờ được quy định
trong Hiến pháp một cách đầy đủ và rõ ràng.

65
Việc quyết tâm thực hiện dân chủ hóa đất nước là cơ sở dẫn đến những
bước đột phá đối với các rào cản trên con đường xây dựng một bản Hiến
pháp mới, một bản Hiến pháp tốt, đầy đủ tính chất và mức độ của hiến
pháp và các giá trị nhân bản. Theo ABC về Hiến Pháp: «Một bản hiến
pháp tốt là nền tảng để tạo lập một thể chế chính trị dân chủ và một nhà
nước minh bạch, quản lý xã hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi của
người dân. Đây là những yếu tố không thể thiếu để một quốc gia ổn định
và phát triển. Lịch sử nhân loại cho thấy hiến pháp gắn liền với vận mệnh
của mỗi quốc gia. Sự thịnh vượng, tính năng động, sức sáng tạo mạnh mẽ
của xã hội và khả năng “hoá giải” khủng hoảng một cách nhanh chóng
của một số quốc gia (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức…) được cho là xuất phát từ
những nguyên tắc được xác lập trong hiến pháp của các nước này. Ngược
lại, sự suy yếu và sụp đổ của nhiều quốc gia có nguyên nhân từ những
thiết chế, quy phạm chuyên chính, tập quyền và xa rời thực tế trong hiến
pháp của các nước đó.»…

«Một bản hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi người dân, xét trên nhiều
phương diện. Trước hết, một bản hiến pháp tốt giúp tạo lập một nền dân
chủ thực sự, trong đó mọi người dân có thể tự do bày tỏ tư tưởng, ý kiến
và quan điểm về các vấn đề của đất nước và bản thân mình mà không sợ
hãi bị đàn áp hay trừng phạt. Đây là tiền đề để khai mở và phát huy trí tuệ,
năng lực của mọi cá nhân trong xã hội, cũng như để phòng, chống lạm
quyền và tham nhũng. Một bản hiến pháp tốt cũng đồng nghĩa với việc
ghi nhận đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù hợp với các
chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế, cũng như các cơ chế cho phép
mọi người dân có thể sử dụng để bảo vệ các quyền của mình khi bị vi
phạm. Hiến pháp tốt là công cụ pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để bảo
vệ dân quyền và nhân quyền. Cuối cùng, một bản hiến pháp tốt, với tất cả
những ưu điểm nêu trên, sẽ tạo ra sự ổn định và phát triển của đất nước,
qua đó giúp người dân thoát khỏi sự đói nghèo.»

§ 4. [Nhân phẩm, nhân quyền và các quyền cơ bản]


(1) Nhân phẩm và quyền con người là nguồn gốc của tự do và không
thể chia tách. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
là nhiệm vụ của tất cả cơ quan công quyền.
(2) Nhân dân Việt Nam thừa nhận các quyền bất khả xâm phạm của
con người là cơ sở của mọi cộng đồng, hòa bình và công lý trên
thế giới.
(3) Các quyền cơ bản của nhân dân ràng buộc các cơ quan Lập pháp,
Hành pháp và Tư pháp thực thi và tôn trọng.

66
Thực hiện quyền con người là nền tảng sâu sắc được quy định trong Hiến
pháp, một trong những nội dung quan trọng nhất không thể thiếu trong các
văn bản hiến pháp, cũng là cơ sở ràng buộc các cơ quan công quyền thực
thi và bảo vệ.

Nhân phẩm (dignity) và quyền con người (human rights) là các quyền cơ
bản của nhân dân có thể là lần đầu tiên được quy định rõ ràng trong Hiến
pháp 2021.

Ba cơ quan quan trọng và quyền lực nhất của quốc gia, dân cử trực tiếp
hoặc gián tiếp, chính là các cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp.
Theo ABC về Hiến Pháp: «Thiết lập và trao quyền cho bộ máy nhà nước:
Hiến pháp quy định cơ cấu của bộ máy nhà nước và trao quyền hạn cho
các cơ quan nhà nước (quyền lập pháp cho Nghị viện/Quốc hội, quyền
hành pháp cho Chính phủ, quyền tư pháp cho Tòa án). Chỉ khi được quy
định trong hiến pháp, các cơ quan nhà nước và quyền lực của các cơ quan
đó mới có tính pháp lý chính đáng.

Giới hạn và kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước: Cùng với việc
trao quyền, hiến pháp xác định giới hạn và cách thức sử dụng quyền lực
được giao của các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, hiến pháp còn thiết lập các
cơ chế và thiết chế để giám sát, kiểm soát và xử lý việc lạm dụng quyền
lực của các cơ quan nhà nước (ví dụ, cơ chế giám sát nội bộ giữa các cơ
quan nhà nước; cơ chế giám sát của xã hội thông qua các quyền con người,
quyền công dân; cơ chế giám sát thông qua các cơ quan hiến định độc lập).

Bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân: Quyền con người,
quyền công dân là một trong những nội dung quan trọng nhất không
thể thiếu của các hiến pháp từ trước tới nay. Bên cạnh việc ghi nhận các
quyền con người, quyền công dân, các hiến pháp còn quy định các cơ
chế, thiết chế để bảo đảm rằng các quyền đó được tôn trọng, thực hiện
trong thực tế, ví dụ như Uỷ ban nhân quyền quốc gia. Chính vì vậy, theo
Alexander Hamilton: Bản thân Hiến pháp, với ý nghĩa thực sự và mục
đích hữu dụng thực sự, chính là một đạo luật về các quyền.»

§ 5. [Phân lập quyền lực]


(1) Hệ thống chính quyền của Việt Nam Dân Chủ được tổ chức trên
nguyên tắc phân lập quyền lực và cân bằng giữa các nhánh Lập
pháp, Hành pháp và Tư pháp.

67
(2) Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về
Chính phủ, và quyền tư pháp thuộc về Tòa án.

Hệ thống chính trị Việt Nam, hoặc còn gọi hình thức quốc gia, là một
thuật ngữ nói chung về cách tổ chức quốc gia Việt Nam và sự tương tác
đối với các chức năng của xã hội được thực hiện trong nền dân chủ.

Việt Nam tương lai chính thức là một quốc gia đơn nhất dựa trên nguyên
tắc phân tán quyền lực và nguyên tắc đại nghị. Tóm lại, điều này có nghĩa
là quyền lực chính trị và quyền hạn trong Hiến pháp được phân phối trên
toàn quốc giữa Quốc hội, Chính phủ và Tòa án, bao gồm một số quy định
cho địa phương. Nói một cách khác, chính quyền khu vực địa phương có
thẩm quyền trong phạm vi mà Quốc hội đã ủy thác quyền lực theo hiến
định và pháp luật. Điều này khác với các quốc gia liên bang, như Hoa
Kỳ và Đức, bên cạnh chính quyền liên bang, các tiểu bang cũng có thẩm
quyền riêng được quy định trong Hiến pháp. Các tiểu bang ở những quốc
gia liên bang như vậy, thường có hiến pháp và chính phủ riêng. Hệ thống
chính trị của Việt Nam từ sau năm 2021 sẽ là một chính thể đại nghị, dân
chủ và thống nhất.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Tam quyền phân lập là nội dung học thuyết
của Montesquieu, trong đó phân chia quyền lực nhà nước cho ba nhánh
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mục đích là để tạo cơ chế nội bộ giám
sát, ngăn ngừa sự lạm quyền trong bộ máy nhà nước.

Trong thực tế, tư tưởng về việc phân chia quyền lực trong tổ chức nhà
nước đã được đề cập bởi một số nhà triết học khác, bao gồm John Locke,
và đã được áp dụng (ở mức độ nhất định) từ thời La Mã cổ đại. Tuy nhiên,
chỉ đến Montesquieu thì tư tưởng này mới được phát triển thành một học
thuyết độc lập, hoàn chỉnh.

Học thuyết tam quyền phân lập được áp dụng một cách phổ biến trong
hiến pháp của các nước tư sản (mà điển hình là Hiến pháp Hoa Kỳ). Dựa
trên học thuyết này, hiến pháp của các nước tư sản giao quyền lập pháp
cho nghị viện (là cơ quan đại diện được bầu ra bằng tuyển cử, được coi là
biểu hiện ý chí chung của quốc gia), quyền hành pháp cho chính phủ (là
cơ quan có trách nhiệm thực thi luật pháp đã được nhà nước ban hành),
quyền tư pháp cho toà án (để phán xử những vi phạm pháp luật). Bên cạnh
đó, tuỳ quốc gia, hiến pháp còn có nhiều quy định về mối quan hệ ràng
buộc giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ, theo Hiến

68
pháp Hoa Kỳ, Nghị viện có quyền thông qua luật nhưng để có hiệu lực
phải được Tổng thống ký phê chuẩn. Ngược lại, Tổng thống có quyền ký
kết các điều ước quốc tế nhưng phải được Thượng viện phê chuẩn. Từ sau
vụ Marbury kiện Madison, nhánh tư pháp ở Hoa Kỳ có quyền xem xét các
đạo luật đã được ban hành liệu có vi hiến hay không …

Tính đến nay, sự phân quyền và ràng buộc theo học thuyết tam quyền
phân lập tạo ra cơ chế nội bộ hữu hiệu nhất để các nhánh quyền lực nhà
nước giám sát, kiềm chế và đối trọng nhau, ngăn ngừa sự lạm quyền; đồng
thời vẫn bảo đảm những mối liên hệ cần thiết giữa các nhánh quyền lực bị
chia tách để những cơ quan này có thể cộng tác với nhau vì lợi ích chung
của đất nước… Chính vì vậy, không chỉ hiến pháp các nước tư sản mà
hiến pháp của hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay đều được xây dựng
dựa theo lý thuyết tam quyền phân lập, dù mức độ và cách thức áp dụng ít
nhiều khác nhau.»

§ 6. [Chủ quyền lãnh thổ]


Lãnh thổ Việt Nam bao gồm đất liền, hải đảo, đảo Phú Quốc, quần
đảo Hoàng Sa và Trường sa.

Theo nguồn vi.wikivoyage.org, Việt Nam nằm trong bán đảo Đông
Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc
theo bờ biển phía đông của bán đảo này. Việt Nam có biên giới đất liền
với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia (1.228 km) và
bờ biển dài 3.260 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái
Lan.

Việt Nam có diện tích 332.212 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất
liền và hơn 4.200 km² biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm
lớn nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam
tuyên bố chủ quyền, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích
đất liền (khoảng trên 1 triệu km²).

§ 7. [Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc ngữ]


(1) Quốc kỳ và Quốc huy của Việt Nam được Quốc hội phê chuẩn sau
cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia, quy định § 165 (1) và § 171.
(2) Quốc ngữ của Việt Nam là tiếng Việt.

69
Theo phiên bản Hiến pháp ngày 10/3/2019, Quốc kỳ của Việt Nam Dân
Chủ được ghi nhận mang nền vàng và trung tâm là một hình tròn màu đỏ.
Một gợi ý mô tả về một lá cờ vô cùng ý nghĩa trong thời đại khá gần gũi
với chúng ta. Theo nguồn Wikipedia, lá cờ này được gọi Long Tinh Kỳ
của triều Nguyễn ở giai đoạn 1558-1885. Long Tinh Kỳ là tên gọi chính
thức được sử dụng dưới thời Hoàng đế Gia Long để chỉ lá cờ của Quốc
gia (1802-1945). Trong suốt quá trình tồn tại, Long Tinh Kỳ đã bị thay
hình đổi dạng nhiều lần về thiết kế.

Năm 1558, sau khi vào Nam trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã xưng
Chúa, đặt hiệu kỳ của mình làm chính kỳ cho xứ Đàng trong. Lá cờ này
được các Chúa Nguyễn và những Hoàng đế đầu triều Nguyễn cho người
cắm tại các vùng biên cương để đánh dấu chủ quyền quốc gia như Hoàng
Sa, Trường Sa, quần đảo Hải Tặc, đảo Côn Lôn, vùng núi phía Bắc, Ải
Nam Quan, trấn Tây Thành, trấn Ninh, trấn Biên. Lá cờ này đã tồn tại suốt
327 năm, trải qua 9 đời chúa, 9/13 đời vua Nguyễn.

Sau đây, một số ý nghĩa quen thuộc của nhân loại mà chúng ta tìm thấy
trong lá cờ Long Tinh kỳ. Đó là nền vàng của cờ biểu tượng chung cho
ánh nắng mặt trời, niềm hy vọng và hạnh phúc. Màu vàng còn là sự tươi
mát, lạc quan, sinh khí, trong sáng, giác ngộ, trí tuệ, danh dự, niềm vui,
lòng trung thành và sự biết ơn.

Vòng tròn là một biểu tượng chung với ý nghĩa bao rộng, là một trong
những hình quen thuộc nhất đã gắn bó với loài người. Vòng tròn thể hiện
các khái niệm về toàn thể, toàn vẹn, hoàn thiện, hoàn hảo, vô thời hạn,
vĩnh cửu, tuần hoàn, thuần nhất, không phân biệt hoặc phân chia. Vòng
tròn đồng tâm còn tượng trưng cho sự sáng tạo và sinh tồn, không có khởi
đầu, không có kết thúc, không có biến dạng theo thời gian, được sử dụng
nhiều nhất cho vũ trụ và bầu trời. Dải màu đỏ nằm giữa nền vàng tượng
trưng cho nguyện vọng tỏa sáng, ước vọng hùng cường của dân tộc, dòng
máu Lạc Việt trên đất hoàng triều, sẽ là những con rồng lẫy lừng châu Á.

Đây là một lá cờ quốc gia thống nhất, đã từng tồn tại trong một thời kỳ
khá dài lịch sử của vương triều Nguyễn. Lá cờ này thật xứng đáng được
lưu truyền và là một biểu trưng cho Việt Nam muôn đời.

Khi tu chính Hiến pháp vào năm 2020, ý kiến của một bạn đọc cho rằng
việc phê chuẩn Quốc kỳ mới cho Việt Nam thiết yếu được giao phó cho
các đại biểu, dân cử, sau cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia. Chính vì thế, theo

70
§ 165 (1), Quốc kỳ và Quốc huy được Quốc hội lưỡng viện sau khi triệu
tập lần đầu tiên, phê chuẩn theo quy định § 171 của Hiến pháp.

§ 8. [Quốc Khánh]
(1) Quốc Khánh của Việt Nam được Quốc hội phê chuẩn sau cuộc
Tổng tuyển cử Quốc gia, quy định § 165 (1) và § 171.
(2) Quốc Khánh tại khoản (1) là ngày đại lễ của dân tộc Việt Nam,
quy định rằng toàn dân trên toàn quốc đánh dấu ghi ơn các vị
dựng nước, các vị anh hùng cũng như các anh thư trải qua các
thời đại trong lịch sử cho đến ngày nay đã hy sinh giành độc lập
và gìn giữ non sông. Việc đánh dấu ghi ơn này tuyệt đối chỉ một
ngày trong năm.

Ngày Quốc Khánh là ngày vô cùng trọng đại của một quốc gia, thường
đánh dấu một khoảnh khắc giao thời, một biến cố quan trọng nhất của lịch
sử đất nước.

Để có thể thống nhất một ngày trọng đại duy nhất trong năm, tiết kiệm
thời gian và năng lực trong công chúng, đòi hỏi sự hợp ý của đại đa số
người dân. Việc phê chuẩn ngày Quốc Khánh mới của Việt Nam được
giao phó cho các đại biểu, dân cử, sau cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia. Theo
điều khoản § 165 (1), ngày Quốc Khánh được Quốc hội lưỡng viện sau
khi triệu tập lần đầu tiên, phê chuẩn theo quy định § 171 của Hiến pháp.

§ 9. [Bình đẳng trước pháp luật]


(1) Mọi người bình đẳng trước pháp luật. Mọi người đều có quyền
được đối xử công bằng trước cơ quan chính quyền.
(2) Mọi công dân bình đẳng về phẩm giá trước pháp luật. Không ai bị
ngược đãi hoặc bị kỳ thị vì giới tính, huyết thống, chủng tộc, dân
tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, đức tin, tôn giáo hay chính kiến, điều
kiện cá nhân trong xã hội. Không ai bị kỳ thị vì khuyết tật.
(3) Việt Nam có nghĩa vụ loại bỏ tất cả các trở ngại mang tính hạn
chế kinh tế hay xã hội, tự do và bình đẳng của công dân, loại bỏ
các hình thức ngăn chặn sự phát triển đầy đủ của cá nhân và sự
tham gia hiệu quả của mọi người lao động vào các tổ chức chính
trị, kinh tế và xã hội của đất nước.

Trong Hiến pháp 2021, chúng ta có thể tìm thấy quyền bình đẳng
(equality) được quy định trong một số các điều khoản, một trong những
quyền cơ bản cần thiết nhất trong xã hội Việt Nam. Trên thế giới, người

71
ta cho rằng: Sự đói nghèo, sức khỏe kém, thiếu học và mù chữ, là các yếu
tố gây trở ngại không thể vượt qua đối với việc thực hiện các quyền dân
sự và chính trị truyền thống như quyền được đối xử bình đẳng trước pháp
luật, quyền được tôn trọng trước cơ quan công quyền, quyền được phát
biểu tự do và quyền hội họp và lập hội, bất kể chính kiến hay điều kiện xã
hội.

Nhiều quốc gia đã tuyên bố dưới hình thức luật quốc tế rằng bình đẳng
phải được áp dụng trong luật. Bình đẳng trước pháp luật, một nguyên
tắc mà pháp luật sẽ được áp dụng cho tất cả mọi người như nhau và mọi
người đều được đối xử bình đẳng bởi các cơ quan công quyền và tòa án.
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những quyền của con người.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc ngày 10/12/1948 đề
cập đến bình đẳng trước pháp luật tại Điều 7. Điều khoản này cần được
ghi nhận trong Hiến pháp để tạo điều kiện cơ bản để thực hiện các quyền
dân sự và chính trị. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR, 1966) quy định tại Điều 26 rằng mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ bình đẳng mà không bị phân
biệt đối xử. Điều 16, mọi người đều có quyền được công nhận là thể nhân
trước pháp luật ở mọi nơi. Quyền này có ý nghĩa rất quan trọng, được xem
là điều kiện tiên quyết để thực hiện các quyền dân sự khác

§ 10. [Bình quyền trước pháp luật]


(1) Nam và nữ bình quyền. Chính phủ thúc đẩy việc thực thi quyền
bình đẳng cho phụ nữ và nam giới, và thực hiện các bước tích cực
để nâng cao sự quân bình.
(2) Nam giới và nữ giới có quyền ngang nhau về giáo dục, việc làm
và thăng tiến, có quyền được đền bù và hưởng phúc lợi như nhau,
nắm giữ chức vụ và nhận được sự tôn trọng cũng như tặng thưởng
như nhau.

Bình đẳng giới có nghĩa là tất cả mọi người đều có quyền và cơ hội bình
đẳng trong xã hội, không phân biệt giới tính, khả năng hoạt động, khuynh
hướng tình dục, tuổi tác, dân tộc và tôn giáo.

Từ xưa đến nay, từ ngữ bình đẳng được dùng với ý nghĩa bình đẳng giữa
phụ nữ và nam giới, được gọi là bình đẳng giới. Đây vẫn là cách sử dụng
từ phổ biến nhất, nhưng trong những năm gần đây, nó đã được mở rộng
nghĩa để áp dụng cho các cơ sở phân biệt khác (như đã nêu).

72
Người ta thường phân biệt giữa bình đẳng đối với các mối quan hệ giữa
các nhóm khác nhau, nghĩa là tất cả các cá nhân và nhóm đều có giá trị
như nhau. Nhưng thường thì thuật ngữ bình đẳng được sử dụng theo cả
hai nghĩa này.

Một sự phân biệt khác là giữa bình đẳng hình thức và bình đẳng thực sự.
Bình đẳng về hình thức có nghĩa là mọi người đều có quyền bình đẳng
trong xã hội (chỉ thành văn). Bình đẳng thực sự có nghĩa là tất cả mọi
người, bất kể thành viên nhóm hay hoàn cảnh cá nhân, thực sự có cơ hội
bình đẳng để tham gia và phát triển trong xã hội.

Bình đẳng giới được chính quyền Na Uy coi là giá trị cơ bản của xã hội và
quốc gia, thông qua việc tuân thủ Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp
quốc, cam kết thúc đẩy bình đẳng giới.

Quyền của phụ nữ là một phần của quyền con người. Công ước của Liên
Hợp Quốc về quyền của phụ nữ từ năm 1981 nhằm bảo đảm rằng phụ nữ
có các quyền như nam giới. Nhiều quốc gia đã phản đối những điểm chính
trong công ước vì có những nhận thức khác nhau về những gì đòi hỏi bình
đẳng giới.

Bình đẳng giới và quyền của phụ nữ là một chủ đề lặp đi lặp lại trong các
mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc dự kiến được thực hiện
vào năm 2030. Chủ đề này được ghi nhận trong mục tiêu bền vững số 5
của LHQ, bảo đảm bình đẳng hoàn toàn giữa các giới, tăng cường vị thế
của phụ nữ và chấm dứt phân biệt đối xử với phụ nữ. LHQ có tổ chức
riêng là UN Women hoạt động nhằm tăng cường vị thế của trẻ em gái và
phụ nữ. Các mục tiêu bền vững của LHQ là kế hoạch hoạt động chung của
thế giới nhằm xóa đói giảm nghèo, chống bất bình đẳng và ngăn chặn biến
đổi khí hậu. Các mục tiêu bền vững của LHQ bao gồm 17 mục tiêu và 169
mục tiêu phụ. Các mục tiêu sẽ hoạt động như một định hướng toàn cầu
chung cho các quốc gia, doanh nghiệp và xã hội dân sự.

§ 11. [Quốc tịch]


(1) Quốc tịch Việt Nam được trao cho trẻ em mới sinh ra do cha mẹ
là công dân Việt Nam. Thành phần ngoại lệ sẽ do luật định.
(2) Công dân Việt Nam không bị mất quốc tịch trừ khi từ bỏ quốc tịch.
(3) Không ai có thể bị tước đi quốc tịch vì lý do chính trị hay tư cách
công dân của mình. Quốc tịch có thể bị mất theo một đạo luật.

73
Quốc tịch (Nationality) là tư cách công dân, quyền công dân, một trong
các quyền con người (human rights), liên hệ mật thiết với một quốc gia,
nói lên một dân tộc thuộc về một quốc gia cụ thể. Quốc gia là một khái
niệm có nhiều nghĩa: một nhóm người có chung một bản sắc văn hóa xã
hội; một sự hình thành quốc gia hoặc một bang bao gồm bản sắc chung.
Khái niệm «quốc gia» ban đầu được liên kết với các nhóm có chung
nguồn gốc và nơi sinh, xuất phát từ tiếng Latinh, natio, có nghĩa là ngày
sinh.

Về sau, ý nghĩa của khái niệm quốc gia liên quan đến đặc trưng văn hóa;
đặc biệt là ngôn ngữ, và một khái niệm chủ quan hơn về quốc gia dựa trên
sự tin cậy lẫn nhau và ý thức cộng đồng, cũng thường có cơ sở lịch sử-văn
hóa. Điều này đã tác động đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc như một
phong trào chính trị. Chủ nghĩa dân tộc cũng có một cơ sở khác, một trong
số đó mang tính khách quan, và một cơ sở mang tính chủ quan.

Cho đến trước Cách mạng Pháp năm 1789, từ quốc gia ngày càng được
sử dụng chỉ một nhóm người sống theo luật lệ chung và được đại diện bởi
cùng một hội đồng lập pháp - quốc hội. Do đó, khái niệm này được liên
kết với pháp luật và quốc gia kể từ khi được sử dụng.

Trong thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh, Đức thường được coi là một
quốc gia, bao gồm những người Đức sống bên ngoài biên giới các bang
của Đức. Adolf Hitler muốn đoàn kết tất cả người Đức trong cùng một
quốc gia; Điều này cũng đúng với Hungary trong cùng thời kỳ.

Từ cuối thế kỷ 20, cảm giác dân tộc tiếp tục đóng một vai trò mạnh
mẽ trong việc hình thành các quốc gia Đông Âu thời hậu Xô Viết. Một
trong những điều này, đã dẫn đến việc giải thể Tiệp Khắc và thành lập
các quốc gia độc lập là Cộng hòa Séc và Slovakia. Nhiều khu vực thuộc
Liên Xô cũ với phần lớn người không phải là người Nga đã hình thành
nên các quốc gia như Ukraine, Belarus, Moldova, Georgia và Armenia.
Nam Tư (Jugoslavia) đa quốc gia tan rã và các quốc gia khác nhau đã cố
gắng thành lập các quốc gia dân tộc của riêng mình, nhưng sự hòa trộn
giữa các quốc gia đã tạo ra những xung đột lớn; đặc biệt là ở Bosnia và
Herzegovina.

Đồng thời với những quá trình này, có một sự «phi quốc gia hóa» của
nhiều nước dân chủ đã thành lập và thịnh vượng. Sự nhập cư đáng kể dẫn

74
đến hầu hết các nước Tây Âu đang ngày càng trở nên đa quốc gia hơn,
như Hoa Kỳ, Canada và Úc, những nước đã thành hình từ lâu.

Công dân (Citizen), được sử dụng như một thuật ngữ chỉ một tầng lớp
trung lưu khá giả nhưng không phải quý tộc sở hữu tài sản. Lịch sử của
‘giai cấp tư sản’ gắn liền với đời sống đô thị mới ở châu Âu từ khoảng
năm 1200. Sự gia tăng thương mại trong phần sau của thời Trung cổ đã
mở ra một thời kỳ tuyệt vời cho giai cấp tư sản.

Trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 và hậu quả của nó, giai cấp tư sản
đóng một vai trò quan trọng như một nhóm có năng lực nhất ở giai cấp
thứ ba. Ở Pháp, giai cấp tư sản trở thành bộ phận giàu có nhất của thành
thị, cuối cùng trở thành giai cấp thống trị trong xã hội tư bản.

Ngược dòng thời gian, từ ngữ giai cấp và trạng thái tư sản có thể đã được
sử dụng ở Đức, nơi nó bao gồm một nhóm doanh nhân vững mạnh, cùng
với các cơ quan quản lý và các ngành học thuật. Cùng với nhau, những
người này có thái độ và hành vi thống nhất xã hội hơn so với nhiều nước
khác, và họ thống trị đời sống văn hóa. Thợ thủ công và tiểu thương cũng
được đưa vào giai cấp tư sản (tầng lớp tiểu tư sản). Do đó, các công dân
ở Đức bao gồm tất cả các nhóm không thuộc tầng lớp lao động. Điều này
tương ứng với thuật ngữ tư sản trong tiếng Na Uy dành cho các chính
đảng đối lập với các đảng công nhân.

Ngày nay, ở các nước châu Âu, và đặc biệt là các nước có chính sách bình
đẳng hóa mạnh mẽ, cuộc sống của đa số người dân tại cộng đồng này đã
trở thành giai cấp trung lưu, do đó, trẻ em mới sinh ra và lớp người nhập
quốc tịch mới, đều trở thành công dân, có quyền và nghĩa vụ như nhau.

§ 12. [Tự trị địa phương]


Quốc gia thống nhất và không thể chia cắt. Việt Nam thừa nhận và
thúc đẩy quyền tự trị và áp dụng tối đa các biện pháp tản quyền hành
chính trong các công vụ tại địa phương, và áp dụng các nguyên tắc và
pháp luật đối với các nhu cầu tự trị và tản quyền. Xt. Chương VII.

Tự trị địa phương là khái niệm về cách gọi chung cho các cơ quan chính
quyền tự quản của khu vực địa phương (thành phố, tỉnh thành, huyện, thị
xã), có nghĩa là các khu vực địa phương có thẩm quyền đưa ra quyết định
đối với các công việc của địa phương, trong giới hạn pháp lý và khuôn khổ
tài chính do các cơ quan trung ương quy định tại bất kỳ thời điểm nào.

75
Quyền định đoạt này trước hết có ý nghĩa trong lĩnh vực kinh tế. Quyền
của các khu vực thành phố tự trị trong việc thiết lập các loại thuế và phí
của thành phố, để có được thu nhập cần thiết trang trải các chi phí công,
các dịch vụ xã hội và y tế, dịch vụ xây dựng và cứu hỏa, và cơ chế giáo
dục.

Theo Hiến pháp 2021, các khu vực địa phương được thành lập sẽ là một
phần lớn trong quá trình chuyển đổi qua cơ chế độc lập tự trị địa phương
của Việt Nam tương lai. Việc chuyển giao quyền lực cho các cộng đồng
địa phương là một cách phá vỡ mối thống trị của giới tinh hoa ở thủ đô và
ảnh hưởng của nước ngoài. Độc lập khỏi sự quản lý của chính quyền trung
ương là lý do chính cho sự ra đời của chính quyền tự trị địa phương.

Tuy nhiên, các tổ chức cơ quan quản lý địa phương, phân định phạm vi
mục tiêu của địa phương, vạch ra ranh giới của luật thuế thành phố, chuẩn
bị các quy định theo luật pháp quốc gia và đặt chính quyền thành phố dưới
sự giám sát nhất định của chính quyền trung ương.

Lịch sử đã chứng minh tại nhiều quốc gia dân chủ, điển hình là Na Uy.
Sau khi áp dụng chế độ phổ thông đầu phiếu cho phụ nữ và nam giới,
vai trò của các thành phố tự trị trong việc đảm bảo sự tham gia dân chủ
của người dân vào việc quản lý các hoạt động công đã ngày càng được
coi trọng hơn khi nói đến các giá trị của chính quyền tự trị của thành
phố. Điển hình là cơ hội của công dân bình thường có thể ảnh hưởng thực
sự vào các quyết định ở các đơn vị chính quyền nhỏ cũng như các đơn vị
lớn. Sự tham gia rộng rãi của người dân vào việc quản lý các thành phố
cũng là một lý do quan trọng cho sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt động của
thành phố trong những thế kỷ tới.

Sự suy yếu một phần của chính quyền tự quản địa phương thường xảy ra
do quy định pháp luật quốc gia ngày càng lấn át các hoạt động của thành
phố; đặc biệt là khi đề cập đến các nhiệm vụ phúc lợi của thành phố liên
quan đến y tế, chăm sóc xã hội và giáo dục tại địa phương. Điều này có
thể khai triển để góp phần thúc đẩy tính hiệu quả trong việc phân phối và
quản lý các dịch vụ của thành phố ngày càng được nhấn mạnh, cũng là
một đặc điểm và giá trị của địa phương tự trị.

76
§ 13. [Khoa học và văn hóa]
Việt Nam thúc đẩy phát triển và nghiên cứu khoa học, bảo vệ danh
lam thắng cảnh và di sản lịch sử, phát huy truyền thống và nghệ thuật
của dân tộc.

Khoa học thường là việc tra cứu, khảo cứu, học tập và nghiên cứu có hệ
thống, có phương pháp và có tính phản biện. Khoa học thường biểu hiện
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Khoa học đòi hỏi bằng chứng đầy đủ
biện minh cho các tuyên bố được đưa ra. Thuật ngữ khoa học được sử
dụng cho cả bản sắc hoạt động nghiên cứu và cho các kết quả nghiên cứu.
Không có nghiên cứu chúng ta không thể khám phá khả năng tối ưu của
con người, không ưu tiên lĩnh vực này chúng ta không thể có những công
trình đáng kể, những phát minh mới đưa ra thế giới để làm cho dân giàu
nước mạnh.

Để có thể phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa theo hướng tích cực, khoa
học đóng một vai trò hết sức quan trọng và góp phần to lớn cho tất cả các
lĩnh vực trong xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện thúc đẩy phát triển nghiên
cứu khoa học đòi hỏi một nguồn ngân sách quốc gia khả quan để có thể
đáp ứng các nhu cầu trong lĩnh vực khoa học và nghiên cứu.

Về văn hóa, với một lịch sử hàng nghìn năm của người Việt cùng với
những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ truyền thống văn hóa bản địa
lâu đời của người Việt cổ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng bên trong
và bên ngoài suốt hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa
của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp vào thế
kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa thế kỷ 21. Việt Nam
đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía
cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào
nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

Theo tình hình Việt Nam từ trước đến nay, một học giả viết: «đất nước
đang trong một thực trạng văn hóa suy thoái trầm trọng, một mức đáng
báo động và những hiểm họa khôn lường. Những yếu tố cấu thành nên
văn hóa đang ngày càng trở nên thiếu văn hóa. Xã hội Việt Nam đang bị
khủng hoảng toàn diện, ngành nào cũng suy thoái nhưng suy thoái về giáo
dục là cực kỳ nguy hiểm như gieo cỏ dại. Nguyên nhân cơ bản đưa đến
thảm trạng hiện nay của đất nước là do sự độc tài thống trị của đảng cộng
sản với nọc độc là học thuyết Mác-Lênin». Thống kê toàn cầu cũng cho

77
thấy Việt Nam được xếp vào một trong mười nước có mức tệ nạn trộm
cướp cao nhất thế giới.

Để biến những thảm họa đang đổ tràn lên đất nước, trở thành một quốc
gia hùng cường và nhân bản, phục hồi nền văn hóa cũng như ngành giáo
dục và nghiên cứu khoa học, Việt Nam cần phải chuyển đổi qua một hệ
thống quản trị mới. Chính vì thế, khoa học và văn hóa là một trong những
mục tiêu quan trọng của nhân dân và đất nước được quy định trong Hiến
pháp 2021.

§ 14. [Luật quốc tế]


(1) Việt Nam tôn trọng pháp luật và áp dụng các nguyên tắc chung
phù hợp với các công ước quốc tế.
(2) Người nước ngoài được hưởng các quy chế pháp lý phù hợp với
pháp luật quốc tế.
(3) Người nước ngoài có quyền xin tị nạn nếu bị tước đoạt việc thực
thi các quyền tự do dân chủ tại quê hương mình. Người nước
ngoài không thể bị dẫn độ vì tội danh chính trị.

Quyền con người là một quyền trong những quyền đã được thỏa thuận
quốc tế - là những quy tắc mà các quốc gia đã đồng ý áp dụng trên phạm
vi quốc gia và quốc tế. LHQ có chức năng vừa là một đấu trường nơi luật
quốc tế được tạo ra, vừa là một tác nhân đảm bảo rằng luật quốc tế được
tuân thủ.

Trong khi luật của Việt Nam xác định những gì công dân Việt Nam có thể
và không thể làm, các quy tắc của luật quốc tế xác định những gì các quốc
gia có thể và không thể làm. Do đó, mục tiêu chính của luật quốc tế là
điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia.
Các quy tắc của luật quốc tế có thể được chia thành hai loại:
- Các hiệp định quốc tế mà các quốc gia ký kết và cam kết tuân thủ.
Đây còn được gọi là các hiệp ước hoặc công ước.
- Luật tục, «các quy tắc bất thành văn», trên đó có sự thỏa thuận rộng
rãi và thực hiện.
-
Hiệp định quốc tế
Trên thế giới, đã có hàng nghìn hiệp định quốc tế, được gọi là những loại
thỏa thuận, chẳng hạn như hiệp ước, quy ước hoặc giao ước. Điểm chung
của tất cả là các quốc gia đồng ý về văn bản của hiệp định. Sau đó, họ có

78
thể cam kết thực hiện theo những gì được viết trong đó. Hình thức này
được gọi là phê chuẩn.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948), Công ước về Quyền trẻ em và
Hiến chương Liên Hợp Quốc là những ví dụ về các hiệp định quốc tế

Nếu một quốc gia phê chuẩn một thỏa thuận quốc tế, thỏa thuận đó trở nên
ràng buộc và quốc gia đó đã cam kết tuân thủ các điều khoản của mình.
Các quốc gia chưa phê chuẩn hiệp định về nguyên tắc không bắt buộc
phải tuân theo các quy tắc tương tự. Ngoại lệ là nếu những quy tắc này là
luật tục - thì chúng được áp dụng cho tất cả các quốc gia.

Luật tục
Luật tục (customary law) gồm có một số quy tắc phổ biến đến mức chúng
được sử dụng như các quy tắc pháp lý trong luật quốc tế, mặc dù chúng
không được viết ra trong bất kỳ hiệp định nào. Đây được gọi là các quy
tắc tùy chỉnh. Phong tục có nghĩa là một quy tắc được thực hiện bởi rất
nhiều quốc gia đến nỗi đại đa số đồng ý rằng đây là một điều hẳn nhiên.

Luật tục áp dụng cho tất cả các quốc gia - cũng cho các quốc gia chưa ký
kết hiệp định nào. Ví dụ, nếu một quốc gia chưa ký Công ước chống Tra
tấn, họ vẫn vi phạm luật quốc tế nếu họ tra tấn tù nhân, bởi vì việc cấm tra
tấn là một quy tắc tập quán. Ví dụ, các tù nhân bị bắt trong một cuộc xung
đột vũ trang phải được đối xử nhân đạo.

§ 15. [Lực lượng vũ trang]


(1) Lực lượng vũ trang và quân đội của Việt Nam có trách nhiệm bảo
vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh và bất khả xâm
phạm biên giới quốc gia.
(2) Lực lượng vũ trang và quân đội phải trung lập trong các vấn đề
chính trị và là công cụ của sự quản lý dân sự và dân chủ.

Quân đội là một bộ phận của lực lượng phòng thủ quân sự của một quốc
gia chủ yếu chiến đấu trên bộ, nòng cốt của phòng thủ trên lãnh thổ đất
liền. Nhiệm vụ chính của Quân đội là bảo vệ chủ quyền của quốc gia. Ở
một số quốc gia, chẳng hạn như Việt Nam và Trung Quốc, thuật ngữ quân
đội được sử dụng như một thuật ngữ chung cho các lực lượng vũ trang,
bao gồm quân đội và công an, an ninh, cảnh sát; thậm chí bao gồm cả dân
phòng và dân quân tự vệ…

79
Về nguyên tắc, quân đội là một lực lượng quân sự có tổ chức được đào
tạo, huấn luyện và trang bị để tiến hành chiến tranh, chủ yếu trên lãnh thổ
của mình. Lực lượng lục quân có thể thực hiện các hoạt động một mình,
vốn là tiêu chuẩn trong lịch sử, hoặc phối hợp với các lực lượng quân sự
khác. Sau đó, các hoạt động chung đã trở nên phổ biến kể từ Thế chiến
thứ hai. Quân đội với tư cách là một cấu trúc quân sự đã thay đổi trong
suốt lịch sử, đặc biệt là do kết quả của sự phát triển xã hội và công nghệ
quân sự.

Ở hầu hết các quốc gia, chẳng hạn như Na Uy, quân đội là một trong nhiều
nhánh phòng thủ trong một cấu trúc phòng thủ. Ở một số quốc gia nhỏ,
thường không có lực lượng hải quân hoặc không quân đáng kể để thành
lập lực lượng phòng thủ quân sự.

Ở Na Uy, lực lượng phòng thủ trên bộ bao gồm Lục quân và Lực lượng
Phòng thủ. Các lực lượng trên đất liền này tạo cơ sở cho sức mạnh của
quốc gia. Ở Na Uy và nhiều quốc gia khác, Lục quân là một nhánh quốc
phòng riêng biệt, bao gồm một số loại vũ khí quân sự.

Quân đội với tư cách là một tổ chức và cấu trúc cũng có thể bao gồm các
yếu tố được tìm thấy trong lực lượng hải quân hoặc phòng không, chẳng
hạn như chiến cơ hoặc trực thăng của chính quân đội đó, cũng như các
khả năng hàng hải nhất định. Ở Na Uy, thuật ngữ hệ thống quân đội được
sử dụng để mô tả cách cấu trúc cơ bản và tổ chức của Quân đội. Một cơ
cấu quân đội thường bao gồm cả các yếu tố hành chính và địa phương, và
bộ phận chính được triển khai trong các hoạt động; sau này thường gọi là
‘bộ đội dã chiến’.

Hiến pháp quy định: «trung lập trong các vấn đề chính trị và là công cụ
của sự quản lý dân sự và dân chủ» thì theo các nước dân chủ trên thế giới,
lực lượng vũ trang quân đội là công cụ chiến đấu của nhân dân để bảo vệ
nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Lực lượng vũ trang không phải là công
cụ của chính quyền để đàn áp nhân dân, mà là một công cụ để nhân dân
kiềm chế chính quyền. Người được giao phó nhiệm vụ lãnh đạo lực lượng
vũ trang (Bộ trưởng quốc phòng) phải tuân thủ Hiến pháp và các điều luật
hiến định.

§ 16. [Không chấp nhận chiến tranh và chế độ chuyên chế]


(1) Việt Nam không chấp nhận chiến tranh xâm phạm chủ quyền của
các quốc gia khác, hoặc là một phương tiện giải quyết các tranh

80
chấp quốc tế. Việt Nam chấp nhận bình đẳng và sẵn sàng hợp tác
với các quốc gia, thiết lập chủ quyền cần thiết cho một nền trật tự
thế giới, hòa bình và liên đới giữa các dân tộc. Việt Nam thúc đẩy
và khuyến khích các tổ chức quốc tế hướng tới mục tiêu này.
(2) Việt Nam không chấp nhận các tổ chức và đảng phái chính trị có
chủ trương theo chủ nghĩa xã hội chuyên chế, vô sản, nô dịch,
độc tài, cực đoan, sử dụng bạo lực áp bức nhân dân hoặc gây ảnh
hưởng tiêu cực đối với chính sách quốc gia.

Như đề cập (§ 14), trong khi luật của Việt Nam xác định những gì công
dân Việt Nam có thể và không thể làm, các quy tắc của luật quốc tế xác
định những gì các quốc gia có thể và không thể làm. Do đó, mục tiêu
chính của luật quốc tế là điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia. Ví dụ,
nếu chính phủ Việt Nam đưa binh lính đến Campuchia để chiếm Phnom
Penh thì đó là hành vi vi phạm luật quốc tế.

Là một quốc gia xây dựng trên nền tảng đa đảng trong mô hình dân chủ xã
hội, thì các hệ tư tưởng cánh tả - cánh hữu đều được chấp nhận. Khi hoạt
động chính trị trong mô hình đa dạng như vậy, thì các yếu tố «chuyên chế,
vô sản, nô dịch, độc tài, cực đoan, sử dụng bạo lực áp bức nhân dân hoặc
gây ảnh hưởng tiêu cực đối với chính sách quốc gia» sẽ được các thiết chế
kiểm duyệt và kiềm chế. Các đảng phái chính trị có những chủ trương và
hành động chống lại nền dân chủ, khoản (2), Tòa án Quốc gia (§ 115) có
thẩm quyền giám sát, phán quyết giải tán các chính đảng không tuân thủ
Hiến pháp.

81
CHƯƠNG II: CÁC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CÔNG DÂN

Chương II: Các quyền và nghĩa vụ của công dân, được xây dựng phần
nhiều dựa trên nguyên tắc và cơ sở các điều khoản quy định trong bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948). Hiến pháp chính là một văn kiện
quan trọng nhất của mỗi quốc gia được tạo trên những giá trị chung của
thế giới, được điều chỉnh đôi nét để thích ứng hiện tình của mỗi nước.

Ngoài các quyền truyền thống và cổ điển thường thấy trong các bản hiến
pháp trên giới, như quyền tự do cá nhân, tự do thông tin, quyền tự do tôn
giáo, tự do đi lại, tự do hội họp và lập hội, quyền sở hữu, cư trú, Hiến
pháp 2021 được mở rộng phạm vi các quyền con người, bao gồm các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và các quyền của lĩnh vực (biểu tình, thành
lập đảng chính trị, môi trường, phụ nữ, trẻ em, người thiểu số, người nước
ngoài, thuế, an sinh xã hội…). Các quyền con người được thiết lập ở mức
sâu rộng có thể. Trong quá trình xây dựng Hiến pháp, nội dung của các
đoạn văn được soạn thảo chi tiết và phong phú, xét thấy không giải trình
thêm nhiều ngoại trừ những điều khoản có tính chất mới mẻ hoặc cấp thiết
cho Việt Nam.

Tổ chức Ân xá (Amnesty), một tổ chức hoạt động vì một thế giới nơi mọi
người đều được hưởng tất cả các quyền trong Tuyên ngôn Thế giới về
Nhân quyền, và trong thiên niên kỷ mới đã đặt ra mục tiêu hành động để
ngăn chặn những vi phạm nghiêm trọng các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa.

Tuyên bố chung, được LHQ thông qua năm 1948, thừa nhận một mặt
không thể phân chia và phụ thuộc giữa các quyền dân sự và chính trị; mặt
khác là các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, các quyền này
được chia thành hai loại chính và cho đến Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới
Dakar năm 2001, Tổ chức Ân xá đã tập trung vào các quyền dân sự và
chính trị. Một số quốc gia đã phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, cũng như Công ước về các quyền
dân sự và chính trị. Trong các công ước về quyền con người gần đây,
chẳng hạn như Công ước về quyền trẻ em, cả hai loại quyền này đều được
đưa vào Tuyên ngôn.

82
Điều kiện sống bao gồm ba nhóm quyền có quan hệ mật thiết với nhau.

Quyền kinh tế bao gồm quyền làm việc, điều kiện làm việc công bằng và
tốt, an sinh xã hội và quyền được hưởng các lợi ích xã hội.

Quyền xã hội có nghĩa là tất cả mọi người đều có quyền có được mức
sống thoả đáng, bao gồm cả cơm ăn, áo mặc và nhà ở, cũng như không
ngừng cải thiện điều kiện sống của họ. Các yêu cầu cũng được đặt ra đối
với các tiêu chuẩn sức khỏe, giáo dục, bảo vệ và giúp đỡ gia đình.

Quyền văn hóa thường được gọi là quyền thiểu số, và được áp dụng,
chẳng hạn như quyền tham gia vào đời sống văn hóa, quyền thụ hưởng
tiến bộ của khoa học, bảo vệ quyền tác giả, bằng sáng chế về sinh vật sống
và quyền tự quyết của tập thể.

Quyền được giáo dục cho thấy cả ba loại quyền phải được nhìn nhận như
thế nào trong bối cảnh. Giáo dục là công cụ để tham gia sáng tạo vào đời
sống văn hóa xã hội. Đồng thời, việc sử dụng các lợi ích xã hội một cách
tối ưu nhằm đảm bảo mức sống thỏa đáng ngày càng trở nên quan trọng,
việc làm và sử dụng các lợi ích xã hội một cách tích cực.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Vì sao nói hiến pháp là phương tiện bảo vệ
quyền con người, quyền công dân? Như đã đề cập, một trong những chức
năng cơ bản của hiến pháp là bảo vệ các quyền con người, quyền công
dân. Thông qua hiến pháp, người dân xác định những quyền gì của mình
mà nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện, cùng những cách thức
để bảo đảm thực thi những quyền đó.

Với tính chất là văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao, hiến pháp là bức
tường chắn quan trọng nhất để ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm
phạm quyền con người, quyền công dân, cũng như là nguồn tham chiếu
đầu tiên mà người dân thường nghĩ đến khi các quyền của mình bị vi
phạm. Hiệu lực bảo vệ quyền con người, quyền công dân của hiến pháp
còn được phát huy qua việc hiến định các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền,
cụ thể như thông qua hệ thống toà án tư pháp, các cơ quan nhân quyền
quốc gia, cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman) hay toà án hiến
pháp…»

83
Mục I. Các quan hệ dân sự

§ 17. [Tự do cá nhân]


(1) Tự do cá nhân là bất khả xâm phạm. Mọi người đều có quyền
sống và toàn vẹn thể chất. Tính mạng của mọi người được pháp
luật bảo vệ.
(2) Mọi người có trách nhiệm tôn trọng tự do và các quyền của người
khác.
(3) Không ai bị tra tấn hoặc bị trừng phạt bằng bạo lực, dã man hay
hèn hạ, hoặc bị đối xử bằng các biện pháp nhục hình.
(4) Không ai phải làm công cụ thí nghiệm khoa học, bao gồm cả thí
nghiệm y khoa, nếu người đó không tự nguyện.
(5) Không ai bị giam giữ, lục soát hay khám xét cũng như phải chịu
bất kỳ hình thức hạn chế tự do cá nhân nào trừ trường hợp có
lệnh của cơ quan tư pháp nêu rõ nguyên nhân và chỉ trong những
trường hợp luật quy định.
(6) Hạn chế đối với việc thực hiện tự do và các quyền hiến định chỉ
có thể được quy định trong luật, và chỉ trong những tình thế cấp
thiết vì mục đích bảo vệ an ninh hoặc trật tự công cộng, bảo vệ
môi trường thiên nhiên, sức khỏe và đạo đức xã hội, tự do và
quyền của người khác.
(7) Bất kỳ người nào bị giam giữ sẽ được thông báo ngay lập tức theo
các hình thức có thể hiểu được về lý do giam giữ. Trong vòng 48
giờ kể từ khi bị giam giữ, người bị tước quyền tự do được chuyển
cho tòa án để xét xử vụ việc. Việc xét xử tại tòa án do pháp luật
quy định.
(8) Bất kỳ người nào bị tước quyền tự do ngoài tuyên án của tòa án,
có quyền kháng cáo lên tòa án về tính hợp pháp của sự việc. Việc
tước quyền tự do phải được thông báo ngay cho gia đình của
người bị tước quyền tự do.
(9) Người bị tước quyền tự do bất hợp pháp có quyền được bồi
thường, đền bù.
(10) Hành vi bạo lực về thể chất và tinh thần đối với người đang bị hạn
chế tự do sẽ bị nghiêm phạt.

Cá nhân, bạn và tôi, là điểm khởi đầu để những người tự do tồn tại. Đối
với chúng ta, mỗi con người là một mục tiêu tự thân, không phải là công
cụ phục vụ một nhóm người cai trị. Xã hội tự do không chống lại cộng
đồng và sự thống nhất, nhưng chúng ta không ép buộc bất kỳ ai tham gia

84
trái với ý muốn của họ. Chúng ta đặt cá nhân vào trung tâm và theo cách
đó thúc đẩy sự đa dạng.

Bản chất con người tự phải suy nghĩ và hành động một cách độc lập, hợp
lý để tồn tại và sống một cuộc đời tốt đẹp và có ý nghĩa. Vì mỗi người
hoàn toàn phụ thuộc vào bộ não và khả năng phán đoán của chính mình
để có thể hoạt động như một con người, nên đây là cơ sở cho các quyền cá
nhân. Bạn làm chủ cuộc sống của bạn.

Một nước tự do là một nước được quản lý bởi quốc gia pháp quyền có
nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ quyền sống và tài sản của chính mình. Cuộc
sống của bạn phụ thuộc vào sự tự do này. Một xã hội càng tự do, mỗi cá
nhân càng nhận được nhiều sự tự tôn và càng có nhiều thịnh vượng và đa
dạng.

Mỗi con người có thể suy nghĩ và hành động một cách tự do, không ép
buộc đối với các dân tộc khác, thì trên thực tế vẫn có chỗ cho tất cả mọi
người. Cho dù bạn quan tâm đến kinh doanh hay cuộc sống trí thức, hoa
hay công nghệ cao, chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tự do, bạn đều được
chào đón, sống và làm việc trong một nền pháp quyền tự do, bình đẳng
trước pháp luật.

Nước tự do tạo điều kiện cho sự đa dạng cá nhân, và do đó tạo cơ hội


không giới hạn cho nghệ thuật, sáng tạo giá trị, khoa học và đổi mới.

§ 18. [Bất khả xâm phạm nơi cư trú]


(1) Quyền bất khả xâm phạm nơi cư trú được bảo đảm. Việc khám xét
hoặc tịch thu nhà ở và tài sản là không được phép, trừ khi tòa án
ra lệnh và do luật định.
(2) Trường hợp những biện pháp khám xét, điều tra hay can thiệp cấp
thiết để ngăn chặn một mối nguy hiểm cho công chúng hoặc đối
với tính mạng con người, để đối phó với mối đe dọa an ninh và
trật tự công cộng, ngăn chặn mối đe dọa dịch bệnh lan tỏa, hoặc
để bảo vệ trẻ em đang gặp mối nguy hiểm, hoặc vì khả năng ảnh
hưởng trực tiếp đến nền kinh tế vĩ mô, phải được phê chuẩn của
tòa án và theo luật định.

Thuật ngữ «luật định» ở đây (và ở các điều khoản khác), nghĩa là Hiến
pháp mở rộng tạo điều kiện cho pháp luật thiết chế chuyên sâu vào các

85
lĩnh vực an ninh và trật tự xã hội, ngăn chặn dịch bệnh lan tỏa, bảo vệ trẻ
em và thanh thiếu niên, bảo vệ nền kinh tế quốc gia.

Quốc gia nào cũng vậy, đôi khi xảy ra các vụ khủng bố ngoài mong muốn
do một hoặc nhóm người có những hành động cực đoan, điên loạn, bệnh
tâm thần gây xáo trộn an ninh và trật tự xã hội. Việc can thiệp cấp thiết
của chính quyền để ngăn chặn các mối đe dọa nguy hiểm là điều cần thiết.
Hiện tại nước ta đang bị chi phối bởi Trung quốc, một cường quốc luôn có
tham vọng bành trướng, âm mưu đen tối cưỡng chiếm nước ta và là mối
đe dọa chủ quyền đất nước. Chính vì thế, trường hợp xảy ra những tình
trạng phản gián núp bóng trong dân để phá hoại nền kinh tế cũng như xã
hội Việt Nam là cơ sở cần được quy định trong luật.

§ 19. [Tự do thư tín]


(1) Quyền tự do và bảo mật thư tín cá nhân cũng như các hình thức
giao tiếp khác là bất khả xâm phạm.
(2) Hạn chế đối với quyền tự do và bảo mật thư tín chỉ được áp dụng
với những trường hợp theo luật định. Hạn chế có thể nhằm bảo vệ
an ninh và nền kinh tế quốc gia, trật tự xã hội, tự do dân chủ và sự
tồn tại, hoặc ngăn chặn mối đe dọa cho cộng đồng hoặc cá nhân.

§ 20. [Thông tin công cộng]


(1) Mọi người đều có quyền tiếp cận các văn bản và dữ liệu sưu tập
công cộng, và được bảo vệ thông tin liên quan đến bản thân.
(2) Mọi người đều có quyền yêu cầu cơ quan chức trách xóa bỏ hoặc
cải chính thông tin sai lạc hoặc không đầy đủ liên quan đến bản
thân, hoặc thông tin trái với pháp luật.
(3) Cơ quan chức trách được phép thu thập, sưu tập thông tin công
dân với mục đích thống kê và nghiên cứu. Các nguồn thông tin
công dân phải được lưu trữ an toàn và bảo mật. Điều khoản này
được quy định trong luật.

§ 21. [Tiếp cận thông tin cơ quan chính quyền]


(1) Công dân có quyền tiếp cận thông tin về hoạt động của các cơ
quan chính quyền các cấp cũng như của những người thực hiện
công vụ. Thông tin hoạt động bao gồm các ngành và đặc biệt là về
các tổ chức kinh tế, quản lý tài chính và tài nguyên quốc gia.
(2) Quyền được tiếp cận thông tin dựa theo các văn bản tường trình,
báo cáo và quyết định của các phiên họp tập thể của các cơ quan
chính quyền.

86
(3) Hạn chế đối với các quyền tại khoản (1) và (2) nhằm bảo vệ an
ninh và trật tự xã hội, tự do và nền dân chủ, hoặc lợi ích kinh tế có
tầm mức quan trọng của quốc gia. Điều khoản này được quy định
trong luật.

§ 22. [Tự do đi lại]


(1) Mọi công dân có quyền tự do đi lại và chọn chỗ cư trú trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
(2) Mọi công dân được tự do rời khỏi lãnh thổ Việt Nam và tự do trở
lại.
(3) Bất kỳ người nào có nguồn gốc Việt Nam được xác định theo luật
đều có quyền định cư lâu dài tại Việt Nam.
(4) Các quyền tự do tại khoản (1) và (2) có thể bị hạn chế do pháp
luật quy định vì lý do an ninh, y tế hoặc vì một nghĩa vụ. Hạn chế
không được áp dụng vì lý do chính trị.

§ 23. [Tự do hội họp và biểu tình]


(1) Công dân có quyền hội họp ôn hòa, không vũ trang, kể cả các
cuộc hội họp tổ chức nơi công cộng và tiến hành ngoài trời.
(2) Công dân có quyền biểu tình ôn hòa, công khai để thể hiện thái độ
và lập trường chính trị, tham gia tổ chức của một số người, nhóm
hoặc phong trào, tạo phương tiện tác động vào chính sách kinh tế
và xã hội, những bất công và tệ nạn xã hội; tạo phương tiện bày tỏ
sự thông cảm hoặc ác cảm đối với nước ngoài.
(3) Vì bảo đảm an ninh và an toàn cho công chúng, các cuộc hội họp
và biểu tình tổ chức nơi công cộng và ngoài trời, cần phải được
thông báo trước cho các nhà chức trách.

§ 24. [Tự do lập hội]


(1) Công dân có quyền tự do lập hội, hiệp đoàn và các phong trào
trong xã hội và dân sự, vì những mục đích mà luật hình sự không
cấm.
(2) Các hội đoàn hoặc các phong trào có mục đích chống lại Hiến
pháp và pháp luật, hoặc có mục tiêu chính trị qua các hình thức tổ
chức có tính chất quân sự, thù nghịch với các giá trị được quốc tế
tôn trọng, sẽ bị cấm.
(3) Các hội đoàn phải được đăng ký trước khi đi vào hoạt động, và
được giám sát của tòa án.

87
§ 25. [Tự do tôn giáo]
(1) Tự do đức tin, tự do tuyên xưng một tôn giáo hay tư tưởng là bất
khả xâm phạm.
(2) Mọi tôn giáo đều tự do, có quyền truyền bá tôn giáo và cử hành
nghi lễ công khai hoặc riêng tư, miễn là không xúc phạm đến đạo
đức xã hội hay pháp luật.
(3) Quan hệ giữa tôn giáo với quốc gia do luật quy định, dựa trên sự
thỏa thuận với các vị đại diện tôn giáo.

Việt Nam trong nền dân chủ ủng hộ sự đa dạng tín ngưỡng và tạo điều
kiện để niềm tin và các tôn giáo được tôn trọng và đối xử bình đẳng.
Chính sách pháp luật thúc đẩy toàn diện về tín ngưỡng và hỗ trợ đức tin,
công nhận vai trò và tầm quan trọng của cộng đồng đức tin và cuộc sống
đối với các giáo dân và quyền tự do tín ngưỡng.

Quyền tự do đức tin, tự do tuyên xưng một tôn giáo hay tư tưởng được
Hiến pháp bảo vệ và tôn trọng, bao gồm quyền tự quyết trong vấn đề tín
ngưỡng cũng như các đặc điểm khác biệt trong xã hội đức tin. Pháp luật
tạo điều kiện bảo đảm đối xử bình đẳng dân sự đối với mọi cộng đồng đức
tin và tín ngưỡng.

Do đó, các nhà thờ và các ngôi chùa, các đền thờ sẽ có một vị trí và vai trò
đặc biệt quan trọng trong xã hội Việt Nam. Hiến pháp tạo điều kiện cho
lĩnh vực đức tin được tự do thể hiện trên toàn quốc, để thực hiện sứ mệnh
của giáo hội và cung cấp cho giáo dân các dịch vụ cần thiết trong cuộc
sống đức tin.

Pháp luật được xây dựng với các giải pháp cần thiết để đưa vào những
chính sách về đức tin và tín ngưỡng, tích cực hỗ trợ cho các giáo hội, tạo
các chương trình pháp lý và tài trợ dựa trên các nguyên tắc đối xử bình
đẳng và tự do tín ngưỡng.

Luật bảo đảm vị trí đặc biệt của các giáo hội Việt Nam trên toàn quốc và
dân chủ thông qua cơ sở pháp lý và giáo dục, chương trình tài trợ công.
Nâng cao giá trị đức tin của công chúng và chính sách tín ngưỡng đa
dạng. Công nhận quyền tự do tín ngưỡng của trẻ em và mọi người dân
trong xã hội tín ngưỡng. Tạo môi trường tín ngưỡng thêm sinh động và
lành mạnh, hiện đại hóa truyền thống đức tin trong công chúng. Tạo điều
kiện và cung cấp cho các đại diện tôn giáo kiến thức mới, dân chủ, bình

88
đẳng, kiểm soát xã hội tiêu cực, bạo lực và lạm dụng, cực đoan, chủ nghĩa
độc tài v.v.

Bảo đảm tự do ngôn luận được thực hiện, bao gồm cả phê bình của các
tôn giáo trên nguyên tắc tôn trọng, và phát huy tinh thần tương thân tương
ái. 

§ 26. [Tự do ngôn luận và truyền thông]


(1) Mọi người đều có quyền tự do biểu đạt và phổ biến các quan điểm
của mình bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh hoặc bất kỳ hình thức
giao tiếp nào mà không bị cản trở khi tiếp cận các nguồn thông tin
có thể truy cập.
(2) Tự do báo chí và tự do truyền thông bằng các phương tiện phát
sóng và phim ảnh sẽ được bảo đảm. Không có sự kiểm duyệt.
(3) Các quyền này có thể bị giới hạn trong các quy định của pháp luật
nói chung, trong các quy định để bảo vệ trẻ em và để tôn trọng
danh dự nhân phẩm người khác.
(4) Nghệ thuật, khoa học, nghiên cứu và giảng dạy được tự do.

§ 27. [Quyền được xét xử tại tòa án hoặc khởi kiện]


(1) Mọi người đều có quyền khởi kiện lên tòa án để bảo vệ quyền lợi
hoặc nhân phẩm của mình theo quy định của luật dân sự hoặc luật
hành chính.
(2) Mọi người đều có quyền có một phiên tòa xét xử công bằng và
công khai đối với tội phạm của mình, hoặc các tranh chấp và các
quan hệ dân sự. Cơ quan tư pháp có trách nhiệm xét xử trong một
thời hạn nhanh nhất, vô tư và độc lập.
(3) Ngoại lệ cho những trường hợp xét xử công khai được áp dụng vì
lý do đạo đức, an ninh quốc gia, trật tự xã hội hay bảo vệ đời tư
của một bên, hoặc quyền lợi cá nhân đặc biệt. Bản án được công
khai.
(4) Mọi người đều có quyền gửi thỉnh nguyện thư hoặc khiếu nại đến
cấp có thẩm quyền, cơ quan lập pháp và tư pháp.
(5) Bào chữa là một quyền bất khả xâm phạm trong mọi trường hợp
tố tụng.
(6) Người nghèo được tòa án cung cấp phương tiện phù hợp để bào
chữa trong mọi phiên tòa.
(7) Trường hợp tòa án có lỗi, được bồi thường theo quy định của
pháp luật.

89
§ 28. [Các quyền của bị can]
(1) Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội phạm, được giải
thích về quyền và nghĩa vụ, được trình bày lời khai, đưa ra tài liệu
và nhân chứng, tự bào chữa hay nhờ người biện hộ hoặc luật sư,
yêu cầu người phiên dịch, bản kết luận điều tra, bản cáo trạng,
được quyền khiếu nại quyết định khởi tố của cơ quan hoặc người
có thẩm quyền khởi tố.
(2) Khởi tố chỉ được áp dụng nếu có bằng chứng và chứng nhân xác
nhận vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
(3) Không được hạn chế đối với quyền tự do cá nhân, trừ trường hợp
quy định của pháp luật.

§ 29. [Các quyền của bị cáo]


(1) Bị cáo được bảo đảm cung cấp thông tin kịp thời để chuẩn bị
tinh thần và tính chất của những cáo buộc áp đặt, có đủ thời gian
và điều kiện hợp lý để chuẩn bị bào chữa. Bị cáo có quyền trình
bày lời khai, đối chất, triệu tập nhân chứng cần thiết cho việc bào
chữa với những điều kiện tương tự như bên công tố, đồng thời có
quyền cung cấp các bằng chứng để hỗ trợ việc biện hộ. Bị cáo có
quyền được hỗ trợ phiên dịch trong trường hợp không hiểu ngôn
ngữ mà phiên tòa sử dụng. Bị cáo được nói lời sau cùng trước khi
nhận bản án, có quyền kháng cáo, quyền khiếu nại quyết định của
cơ quan tư pháp.
(2) Bị cáo được coi là vô tội cho đến khi bị kết án.
(3) Không được hạn chế đối với quyền tự do cá nhân, trừ trường hợp
quy định của pháp luật.

§ 30. [Quyền bảo vệ danh dự]


Mọi người có quyền được pháp luật bảo vệ đối với cuộc sống riêng
tư và gia đình của mình, về danh dự và danh tiếng, và quyền tự quyết
định về cuộc sống cá nhân.

§ 31. [Dẫn độ]


(1) Việt Nam bảo vệ công dân của mình cũng như công dân nước
ngoài theo quy định của pháp luật quốc gia, phù hợp pháp luật và
công ước quốc tế.
(2) Việc dẫn độ công dân bị tình nghi thực hiện chính trị không vũ
trang sẽ bị cấm. Tòa án có trách nhiệm xét xử việc dẫn độ.

90
§ 32. [Công chức cơ quan chính quyền, lực lượng cảnh sát - quân
đội]
Công chức cơ quan chính quyền, lực lượng cảnh sát và quân đội phải
chịu trách nhiệm trực tiếp theo pháp luật hình sự đối với các hành vi
xâm phạm nhân quyền, chống lại Luật Cơ bản này.

Hiến pháp của nền Việt Nam Dân Chủ thể hiện quyền lực quốc gia và
thực hiện các quyết định đối với các nhánh quyền lực và các cơ quan trực
thuộc. Quyền lực quốc gia là trên hết và quyền lực tối cao này thuộc về
nhân dân. Các công chức, viên chức, lực lượng công an và quân đội, do
đó, là công cụ quản lý của nhân dân, có trách nhiệm bảo vệ độc lập và
hướng dẫn người dân trong các lĩnh vực an ninh và trật tự xã hội, và chịu
trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm quyền con người, chống
lại Hiến pháp.

Mục II. Các quyền và nghĩa vụ đạo đức và xã hội

§ 33. [Liên kết gia đình]


(1) Pháp luật công nhận sự kết hợp tự nhiên giữa người nam và người
nữ để xác lập gia đình.
(2) Giao ước xác lập gia đình có thể dựa trên các nguyên tắc đạo đức
và truyền thống xã hội qua hình thức liên kết bằng hôn nhân hoặc
sự hòa hợp sống chung, qua thủ tục pháp lý và do luật quy định.

§ 34. [Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ]


(1) Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng và giáo dục con cái, kể
cả con sinh ngoài giá thú, phù hợp với nhận thức và khả năng của
mình. Việc nuôi dạy con cái phải chú ý đến mức độ trưởng thành
và sự nhận thức của trẻ, tạo không gian và điều kiện cho con cái
tự lập và phát triển tự nhiên.
(2) Luật pháp quy định và hạn chế đối với việc xác định quan hệ cha
mẹ, con cái, và bảo vệ về mặt pháp lý và xã hội cho những người
con ngoài giá thú ngang với các thành viên trong gia đình chính
thống.
(3) Chính phủ có trách nhiệm thiết lập các chính sách cần thiết để
nâng đỡ các gia đình không đủ khả năng ở khoản (1) và xác lập
các quy định tại khoản (2).

91
§ 35. [Bảo vệ phụ nữ và trẻ em]
(1) Mọi người có nghĩa vụ thông báo cũng như có quyền yêu cầu các
cơ quan chính quyền bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi bạo lực, sự tàn
ác, bóc lột, những hành vi gây hủy hoại đạo đức và luân lý.
(2) Chính phủ có trách nhiệm áp dụng các chính sách và các biện
pháp cần thiết nhằm ngăn chặn các tình trạng bạo hành tại khoản
(1).

§ 36. [Sức khỏe và y tế]


(1) Mọi người có quyền được hưởng chăm sóc sức khỏe và điều trị y
tế. Không ai bị từ chối quyền này. Chính phủ tạo cơ hội giảm và
miễn phí cho người nghèo.
(2) Không ai bị bắt buộc điều trị y tế, trừ khi những trường hợp theo
luật định. Luật quy định những giới hạn về xâm phạm sự tôn
trọng con người.

Hiến pháp được xây dựng, mở rộng cho việc thiết lập các đạo luật quy
định dịch vụ chăm sóc bệnh nhân, để mọi người hưởng được những ưu đãi
chăm sóc sức khỏe xứng đáng với phẩm giá con người. Hệ thống phúc lợi
cung cấp trợ giúp ý tế và chăm sóc sức khỏe, tiếp đón tất cả các bệnh nhân
bất kể lý lịch, hoàn cảnh hay sắc tộc.

Việt Nam dựa vào cơ chế pháp luật tốt sẽ thúc đẩy phát triển các dịch vụ
y tế và đặc biệt ưu tiên chất lượng điều trị và theo dõi bệnh nhân cho đến
khi khôi phục sức khỏe. Sự trợ giúp y tế kịp thời rất quan trọng cho sự an
toàn và chất lượng cuộc sống. Mọi người có thể chọn lựa lối sống theo ý
muốn trong cuộc sống hàng ngày. Một chính sách y tế công cộng tốt và
những biện pháp phòng ngừa hiệu quả sẽ dẫn đến một cộng đồng lành
mạnh.

Với một đất nước dân chủ, chúng ta sẽ có thêm điều kiện và nhiều phương
án cải thiện đời sống người dân thông qua các chính sách hướng dẫn và
hỗ trợ tích cực, đồng thời cung cấp các dịch vụ chuyên môn và hỗ trợ tài
chính, chuỗi tiêu thụ an toàn và bảo đảm sức khỏe cho mọi người. Các
chính sách thuốc men dựa trên kiến thức và nghiên cứu, tạo điều kiện
để tiếp cận một kiến thức rộng mở, hạn chế tác dụng phụ và giảm tác hại
là mục tiêu tiên quyết và tối ưu.

Để giảm tốc độ hủy hoại sức khỏe của người dân, khắc phục nạn khủng
hoảng dịch bệnh hoành hành lan tràn trên mọi miền đất nước, Việt Nam

92
thiết lập những đơn vị kiểm tra và giám sát chặt chẽ các hoạt động trong
ngành thực phẩm, nguồn nước và bảo đảm sự an toàn đến với người tiêu
dùng trên toàn quốc. Thiết lập các đạo luật ngăn cấm thực phẩm thiếu
nguồn gốc và dốc nỗ lực ngăn chặn tất cả hàng hóa và dịch vụ từ các nước
có âm mưu đen tối. Cải thiện và giám sát hoàn toàn ngành sản xuất thực
phẩm và nâng cao phẩm chất và chất lượng để đạt uy tín của ngành công
nghiệp Việt Nam và an toàn tiêu thụ.

§ 37. [Quyền và nghĩa vụ sống lành mạnh]


(1) Mọi người có quyền sống lành mạnh, hấp thụ một môi trường
trong lành, và hưởng quy chế ăn uống trong sạch.
(2) Mọi người có nghĩa vụ góp phần và nâng cao các điều ở khoản
(1) từ nơi cư trú ra đến ngoài xã hội. Luật pháp nghiêm phạt nếu
không thực thi nghĩa vụ của mình.

Việt Nam có thể được xem là ngoại lệ đối với vấn đề môi trường và những
thách thức khí hậu. Bởi lẽ, nước ta đang trong một trạng thái suy thoái
trầm trọng trong lãnh vực môi trường và sự hủy hoại sức khỏe con người
cũng như tàn phá tài nguyên thiên nhiên. Hiến pháp do đó, được xây dựng
trên những giải pháp cần thiết trong việc xây dựng một môi trường bền
vững và khắc phục các thành phần mang tính phá hoại môi trường, quy
định quyền được thụ hưởng một môi trường trong sạch, góp phần nâng
cao chế độ chăm sóc môi trường.

Việc xây dựng một môi trường bền vững đòi hỏi chung tay của tất cả
người dân, sự hợp tác của mọi tổ chức trong xã hội và sự thống nhất của
các cơ quan công quyền qua các biện pháp thúc đẩy và hỗ trợ trong lãnh
vực.

§ 38. [Bảo vệ môi trường]


(1) Mọi người có quyền nhận được thông tin về chất lượng cuộc sống
và môi trường, có nghĩa vụ bảo vệ sức khỏe người khác cũng như
bản thân, tham gia chung sức để nâng cao các thành phần liên
quan đến môi trường và chịu trách nhiệm về việc ô nhiễm và vệ
sinh.
(2) Các cơ quan chính quyền có trách nhiệm thực thi các chính sách
bảo đảm một môi trường an toàn và hệ sinh thái được duy trì theo
thiên nhiên, thiết lập các giải pháp xử lý và nâng cao chất lượng
môi trường, ngăn chặn các trường hợp phát sinh ô nhiễm, hỗ trợ

93
các hoạt động bảo vệ môi trường và vận động công dân hướng
đến các mục tiêu này.
(3) Luật pháp nghiêm phạt các hành vi gây ô nhiễm môi trường, gây
thiệt hại sức khỏe con người hay hủy hoại tài nguyên thiên nhiên.

Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội thông qua các hoạt động liên quan đến
khí hậu, môi trường và tính bền vững, được quy định trong Hiến pháp.
Xây dựng và đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu bền vững, trong đó
khẳng định các hành động để chống lại mức độ biến đổi khí hậu và các
hậu quả của nó.

Ba khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm điều kiện khí hậu và môi
trường, kinh tế và xã hội. Tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục là một mục tiêu
chính trị ở cấp quốc gia và quốc tế. Đồng thời, ngày càng cấp thiết đánh
giá mức tăng trưởng so với giới hạn chịu đựng của thiên nhiên và môi
trường, cũng như chống lại sự phân bổ lệch lạc các giá trị trong nền kinh
tế thế giới.

Nghiên cứu, kiến thức


​​ và năng lực là nguồn cơ bản cần thiết cho chúng ta
các điều kiện để giải quyết các thách thức về khí hậu và môi trường. Kiến
thức được tạo ra khi có sự tham gia của các môi trường nghề nghiệp khác
nhau và các ngành trong cuộc sống làm việc. Do đó, sự tham gia và hợp
tác tại nơi làm việc là điều rất quan trọng để thành công trong việc giải
quyết các thách thức về khí hậu và môi trường.

Để đạt được các mục tiêu khí hậu cần thiết và đầy tham vọng, chuỗi sản
xuất và tiêu dùng phải được xoay theo hướng thân thiện hơn với môi
trường. Chúng ta phải có nhiều hàng hóa và dịch vụ thân thiện với môi
trường hơn và hạn chế sử dụng các nguồn tài nguyên thiếu khả năng tái
tạo.

Quan điểm về khí hậu và tính bền vững phải được lồng ghép vào toàn bộ
quá trình giáo dục và góp phần giúp mọi người có thể đưa ra những lựa
chọn sáng suốt. Thông qua thực hành nghề nghiệp, nó phải được bảo đảm
rằng khí hậu và tính bền vững được thi hành nhất quán trong mọi hoạt
động. Khu vực công với tư cách là người sử dụng lao động phải có trách
nhiệm lớn trong việc tạo ra các môi trường nghề nghiệp tốt và hấp dẫn,
bảo đảm đầy đủ chuyên môn về môi trường và khí hậu.
Pháp luật được thiết lập nhằm hướng đến phát triển xã hội bền vững thông
qua một số biện pháp:

94
- Các tổ chức của nhân viên thông qua sự đồng quyết, đóng một vai
trò quan trọng trong việc phát triển và thực hiện chính sách khí
hậu và tính bền vững;
- Chính quyền trung ương và địa phương, người sử dụng lao động
và phong trào công đoàn xác định mối liên hệ rõ ràng giữa chính
sách khí hậu và môi trường với chính sách đời sống lao động;
- Các ngành nghề trong cuộc sống lao động tham gia chặt chẽ vào
công việc của cơ quan dự báo và kỹ thuật khí hậu;
- Chương trình tái cơ cấu được thành lập để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc chuyển đổi sang các ‘hoạt động xanh’ và thuế phí áp đặt
có mục đích;
- Tăng cường đầu tư vào nghiên cứu về tác động của các thách thức
khí hậu đối với xã hội, đời sống lao động, phát triển các biện pháp
thích ứng và tạo thêm nhiều ‘việc làm xanh’;
- Theo đuổi chính sách kinh tế bền vững và thân thiện với khí hậu,
tăng cường đầu tư vào giao thông, thu mua, quản lý chất thải và
sử dụng năng lượng thân thiện với môi trường.

§ 39. [Tự do sáng tạo - nghiên cứu - phát huy truyền thống]
(1) Mọi người có quyền tự do sáng tạo nghệ thuật và nghiên cứu khoa
học, tự do phổ biến các thành quả cũng như thưởng thức các sản
phẩm văn hóa và công trình nghiên cứu.
(2) Chính phủ khuyến khích và thúc đẩy các năng lực sáng tạo và
nghiên cứu, đưa ra các giải pháp ưu tiên hàng đầu để nâng cao
ngành khoa học kỹ thuật cũng như nghệ thuật, tiếp ứng và cùng
hướng đến một môi trường bền vững.
(3) Mọi người, bao gồm dân di trú, có quyền phát huy truyền thống
dựa trên hình thức và nền tảng quốc gia Việt Nam thông qua quốc
ngữ và điều lệ hiện hành. Mọi hình thức sử dụng hình tượng Hán
Nôm, học thuyết và biểu tượng kim cổ Trung Hoa sẽ bị cấm,
khoản này chỉ được áp dụng trong môn sử học và nghiên cứu.

Nền văn minh cho rằng đầu tư vào nghiên cứu và sáng tạo có nghĩa là
chúng ta có được kiến thức, kỹ năng chuyên môn và phương pháp để đối
mặt với những thách thức lớn cũng như những biến chuyển trong xã hội
và sự phát triển tự nhiên của con người.

Hiến pháp tạo điều kiện và quy định việc thiết chế chính sách pháp luật
vào lĩnh vực nghiên cứu, phát minh khoa học, sáng chế, để kích thích sự
phát triển nền kinh tế-xã hội trở nên tốt hơn và bền vững, trở thành một

95
cộng đồng cạnh tranh lành mạnh trên thế giới cũng như nội địa trong
tương lai.
  Kiến thức và sự công nhận quốc tế làm cho chúng ta trở nên phát
triển. Con người có kiến thức và chuyên môn là điểm khởi đầu để chúng
ta đối mặt với những thách thức trong cuộc sống và tương lai của một
xã hội luôn chuyển bánh. Để trở thành một nước công nghiệp cạnh tranh
mạnh mẽ và một Việt Nam hùng cường trong tương lai, chúng ta phải
khuyến khích nghiên cứu đượm chất lượng tầm quốc tế. Việt Nam không
bao giờ mãi là một quốc gia rẻ nhất, nhưng chúng ta có thể có được những
thứ tốt nhất. Do đó, chúng ta phải có một môi trường chuyên nghiệp đẳng
cấp thế giới. Để đạt được điều này, chúng ta phải ưu tiên và tư duy lâu dài.
  Khi biên soạn điều khoản 39 (3) có sự đắn đo và suy nghĩ rất
nhiều, bởi nguy cơ có thể gây tranh cãi do những lập luận và quan điểm
khác biệt, hoặc do một văn hóa nhập cư từ phương Bắc đã tích lũy trong
máu người dân qua một thời kỳ khá dài trong lịch sử không dễ một mai
xóa nhòa trong ký ức. Do đó, Hiến pháp tạo điều kiện và mở rộng, trong
đó, cá nhân và các cơ sở vẫn có dịp tiếp tục học hỏi và nghiên cứu thông
qua môn lịch sử, lãnh vực nghiên cứu và sự quan tâm.

§ 40. [Giáo dục]


(1) Mọi người có quyền được giáo dục. Giáo dục cơ bản là bắt buộc
và miễn phí cho trẻ em và thanh thiếu niên cấp I và cấp II, và tất
cả thanh thiếu niên cấp III theo luật định đều có quyền tiếp nhận
ba năm giáo dục trung học phổ thông.
(2) Chương trình giáo dục cơ bản được giảng dạy một cách nhất quán
cho toàn bộ nền giáo dục 12 năm và thúc đẩy sự tôn trọng dân
chủ, pháp luật và nhân quyền.

Kiến thức mang lại sự độc lập cho cá nhân và phúc lợi cho xã hội. Trường
mẫu giáo và học đường là những đấu trường rất quan trọng để chống lại
sự bất bình đẳng và loại trừ xã hội. Kiến thức mang đến cơ hội cho tất cả
mọi người.

Điều khoản về lĩnh vực giáo dục được thiết lập căn cứ phần lớn theo mô
hình giáo dục của Na Uy, tạo một nền giáo dục gần như tốt nhất thế giới.
Ưu tiên thúc đẩy những nỗ lực ở nhà trường ngay từ thuở ban đầu, và tăng
cường nỗ lực giáo dục và nghiên cứu khoa học để bảo đảm nguồn phúc lợi
xã hội trong tương lai.

96
Từ trước tới nay, rất nhiều điều tốt và giá trị phổ cập vẫn chưa được hoàn
toàn đưa vào các trường học Việt Nam, đó là sự mất mát lớn cũng như
những thách thức cho người dân. Ngoài ra, chất lượng giảng dạy tại các
trường học có sự khác biệt và chênh lệch quá lớn theo từng khu vực địa
phương và vùng miền.

Chính sách pháp luật Việt Nam tương lai dựa trên các giá trị hiến định sẽ
giúp cung cấp cho con em chúng ta những khung hình an toàn và những
kỹ năng cơ bản, ước mơ và tham vọng, mang đến những giấc mơ hiện
thực cho mỗi học sinh và sinh viên cao học; loại bỏ tất cả những thành
phần tiêu cực và sự bất bình đẳng giữa các khu vực, đặc biệt quan tâm đến
các vùng miền xưa nay đã bị thờ ơ.

Ngành giáo dục Việt Nam trong tương lai sẽ có một chính sách pháp luật,
trong đó cung cấp một dịch vụ y tế nhà trường, tăng cường và hợp tác
giữa phụ huynh và học đường. Và điều quan trọng đối với những học sinh
gặp khó khăn ở trường sẽ kịp thời được theo dõi và trợ giúp sớm hơn.
Chúng ta cần quan tâm nhiều đến các em học sinh bị bắt nạt, bị bạo lực
(khắc phục tình trạng đánh hội đồng phổ biến), hoàn cảnh gia đình khó
khăn hoặc mắc bệnh tâm thần.

§ 41. [Thành phần giáo dục]


(1) Trường dạy cấp I và II dựa trên nguyên tắc đơn nhất, một nền giáo
dục bình đẳng và phù hợp cho tất cả trong một hệ thống phối hợp
giáo dục. Tất cả trẻ em và thanh thiếu niên tham gia vào một nền
tảng kiến thức,
​​ văn hóa và giá trị chung. Các chương trình giảng
dạy chứa mục đích, các lĩnh vực chính, kỹ năng cơ bản, sáng tạo
và phát triển.
(2) Học sinh cấp III đều có quyền theo luật định được ba năm giáo
dục trung học phổ thông. Đào tạo này dẫn đến trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn hoặc thêm kiến thức. Các cơ quan chính
quyền địa phương có nhiệm vụ theo luật định quan sát thanh thiếu
niên từ độ tuổi 15 đến 18, thiết lập các chương trình đào tạo và
giáo dục hướng nghiệp. Các chương trình học nghề, với sự kết
hợp của giáo dục trong trường học và cuộc sống làm việc dẫn đến
bằng tốt nghiệp chuyên môn sẽ là một phần của hệ thống giáo dục
trung học phổ thông.
(3) Các trường dạy nghề, trường chuyên nghiệp cung cấp giáo dục
ngắn hạn, dạy với số lượng từ nửa đến hai năm học. Các trường

97
dạy nghề tiếp thu giáo dục qua những giai đoạn lịch sử khác nhau
và chuyên nghiệp truyền thống.
(4) Cao học bao gồm giáo dục tại các trường đại học, trường cao đẳng
hàn lâm, trường cao đẳng quốc gia, trường cao đẳng nghệ thuật,
cao đẳng tư thục và các học viện. Các đơn vị giáo dục cao học có
quyền thiết lập những quy chế riêng của mình trong phạm vi luật
định.
(5) Chính phủ đặt ra những quy định chung cho giáo dục và thiết lập
các trường công lập thuộc tất cả ngành nghề và các cấp từ khoản
(1) đến khoản (4).
(6) Các trường tư thục có trách nhiệm tạo sự bình đẳng và phát triển
theo luật định và nguyên tắc giáo dục, bảo đảm cung cấp cho
học sinh của mình một nền giáo dục và trình độ tiêu chuẩn tương
đương với giáo dục và trình độ dành cho học sinh trong các
trường công lập.
(7) Học sinh có học lực tốt và thành tích cao, kể cả những học sinh
thiếu thốn tài chính, có quyền học tới bậc cao học.
(8) Chính phủ có trách nhiệm thực hiện một hệ thống và quy chế học
bổng, vay vốn, trợ cấp cho học sinh và sinh viên, bảo đảm tất cả
các em được tiếp cận và bình đẳng giáo dục. Các điều kiện cung
cấp hỗ trợ sẽ do luật định.
(9) Chính phủ quy định các cuộc thi tuyển vào trường và thi tốt
nghiệp cho các ngành và các cấp học, cũng như thi lấy chứng chỉ
chuyên môn.

Việt Nam trong tương lai, mọi người đều có thể học cao học bất kể lý lịch,
tài chính và nơi cư trú. Một hệ thống giáo dục tốt là điều kiện tiên quyết
cho một cộng đồng doanh nghiệp bền vững và các nhà chuyên nghiệp
thành đạt. Song hành với nền kinh tế phát triển, pháp luật quy định chính
sách đầu tư và xuất ngân sách tương đối vào các trường cao học, tạo điều
kiện và cơ hội cho ngành giáo dục tập trung vào kiến thức và nghiên cứu;
hỗ trợ và cung cấp cho sinh viên một cơ hội thực sự để có thể tập trung
vào nghiên cứu; xây dựng các khuôn viên đáng sống cho tầng lớp sinh
viên với tiêu chuẩn cao, xứng đáng với phẩm giá học hành để mai này
đóng góp vào một tương lai tốt đẹp cho chính bản thân, cung cấp phúc lợi
xã hội và đất nước.

98
Mục III. Các quyền và nghĩa vụ kinh tế

§ 42. [Nghề nghiệp và lao động]


(1) Mọi công dân có quyền tự do chọn lựa và theo đuổi công việc và
nghề nghiệp, nơi làm việc và nơi đào tạo của mình. Những ngoại
lệ được quy định trong luật.
(2) Mỗi công dân có nghĩa vụ thực hiện một hoạt động hoặc chức
năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế hay tinh thần xã hội theo
khả năng và sự lựa chọn của mình.
(3) Chính phủ tạo điều kiện đào tạo và nâng cao chuyên môn của
người lao động và thúc đẩy các biện pháp để thực hiện điều kiện
này.
(4) Không ai có thể bị buộc thực hiện một loại công việc cụ thể, ngoại
trừ trong khuôn khổ một nghĩa vụ truyền thống của cộng đồng áp
dụng và bình đẳng cho tất cả mọi người.
(5) Việt Nam công nhận sự tự do di cư, và bảo vệ người lao động Việt
Nam ở nước ngoài.
(6) Lao động cưỡng bức chỉ có thể áp dụng đối với người đã bị tước
tự do bởi phán quyết của tòa án. Việc cưỡng bức lao động được
quy định theo pháp luật.
(7) Mọi người lao động có quyền được hưởng điều kiện làm việc an
toàn và vệ sinh, có nghĩa vụ góp phần vào xây dựng một không
gian trong lành và trật tự nơi làm việc.
(8) Các cơ quan chính quyền có trách nhiệm thực hiện các chính sách
nhằm tạo việc làm và các chương trình lao động và hướng nghiệp,
thông qua các nỗ lực hỗ trợ tư vấn và đào tạo chuyên ngành, và
nhằm đối phó nạn thất nghiệp trong công chúng.

§ 43. [Tiền lương và ngày nghỉ]


(1) Công nhân viên, người lao động có quyền được hưởng thù lao
tương xứng đối với số lượng và chất lượng công việc, xứng đáng
với phẩm giá, được trả định kỳ để tạo sự an toàn và ổn định cho
cuộc sống và gia đình của họ.
(2) Các nơi làm việc, kể cả làm việc tại tư nhân, người chủ phải bảo
đảm người làm công tại khoản (1) được thực thi. Mọi hành vi
phi nhân hoặc lạm dụng lao động trái với Luật Cơ bản này sẽ bị
nghiêm phạt.
(3) Mọi công nhân có quyền yêu cầu hợp đồng lao động trên giấy
trắng mực đen, bao gồm chữ ký đôi bên của người thuê và người
lao động, điều kiện, quyền lợi và nghĩa vụ.

99
(4) Số giờ làm việc tối đa trong 1 ngày và mức lương tối thiểu sẽ do
pháp luật quy định.
(5) Công nhân có quyền được hưởng ít nhất 1 ngày nghỉ trong tuần,
2 tuần nghỉ dưỡng và các ngày lễ trọng trong năm mà vẫn hưởng
lương. Không ai bị từ chối quyền này.

§ 44. [Bình đẳng nơi làm việc]


(1) Nam và nữ bình quyền. Phụ nữ làm việc được hưởng quyền bình
đẳng với nam giới, được trả lương ngang với nam giới có cùng
một công việc. Ngoài ra, phụ nữ được đặc biệt quan tâm đến việc
thực hiện vai trò thiết yếu trong gia đình và người mẹ của trẻ em.
(2) Người lao động ở tuổi thành niên có quyền hưởng thù lao bình
đẳng với người có cùng một công việc. Tuổi tối thiểu để được
phép lao động và hưởng lương sẽ do luật định.
(3) Chính phủ có trách nhiệm bằng các biện pháp bảo đảm khoản (1)
và (2) được thực thi.

§ 45. [Phúc lợi - an sinh xã hội]


(1) Mọi công dân thiếu khả năng làm việc, tuổi già, tàn tật, không đủ
phương tiện cần thiết để tồn tại được hỗ trợ tối thiểu phúc lợi.
(2) Người lao động có quyền được hưởng những nhu cầu cần thiết
trong trường hợp bị tai nạn, ngã bệnh, nghỉ thai sản, nghỉ hưu và
thất nghiệp không tự nguyện.
(3) Các cựu chiến binh, thương binh tham gia chiến đấu bảo vệ quốc
gia và nhân dân, được đặc biệt quan tâm và chăm sóc, không phân
biệt đã từng tham gia bất cứ chế độ nào.
(4) Các cơ quan hành chính được giao phó các nhiệm vụ hỗ trợ tại
điều khoản này và thực thi theo hệ thống phúc lợi quốc gia do
chính phủ thiết lập và theo luật định.

Phúc lợi - An sinh xã hội, là một trong những nhu cầu cần thiết nhất trong
xã hội Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp 2021. Với các điều luật
tốt thúc đẩy quyền bình đẳng trong xã hội, chống sự chênh lệch và loại trừ
tất cả thành phần bất công thông qua một hệ thống giáo dục tốt và cung
cấp trợ giúp cho các mục tiêu dịch vụ người dân và cho những người thật
sự cần đến. Hệ thống phúc lợi mang đến cơ hội cho mọi người, không loại
trừ bất cứ ai.

Khi nền kinh tế, tài chính quốc gia được hồi phục và ổn định, chính sách
pháp luật được thiết lập theo các điều khoản của Hiến pháp, quy định một

100
Hệ thống ASXH để cung cấp tài trợ bằng cách bảo đảm mức thu nhập
(cơ bản, tối thiểu) cho người dân, hỗ trợ tài chính trong trường hợp thất
nghiệp, thai sản, chăm sóc con cái, những rủi ro, bệnh tật, thương tật, tàn
tật, tuổi già và tang lễ. Hệ thống ASXH góp phần và thúc đẩy bình đẳng
thu nhập và tạo điều kiện sống an toàn trong suốt cuộc đời của cá nhân và
giữa các nhóm người, và tạo các chương trình ASXH để góp phần vào khả
năng tự lực cánh sinh cho người dân.

Chính sách pháp luật quy định cuộc sống làm việc hòa nhập, nơi mọi
người có dịp tham gia sinh hoạt và khai thác khả năng lao động; tạo và
giới thiệu công ăn việc làm; tạo điều kiện cho giới sinh viên tốt nghiệp
được tiếp cận thị trường làm việc và cơ hội hòa nhập cuộc sống lao động
để thực hiện chuyên môn và ngành học của mình. Chính sách pháp luật
cũng đưa vào chương trình phúc lợi cung cấp dịch vụ xã hội và là nơi để
mọi người có thể tiếp cận và nhận sự hướng dẫn và trợ giúp.

Chính sách pháp luật tương lai quy định ngân sách quốc gia được thiết lập
với mục tiêu bảo đảm phúc lợi - an sinh xã hội cho người dân, phân bổ
cho các khu vực địa phương. Giảm quản lý tập trung và giao trách nhiệm
vào các đơn vị chuyên ngành để bảo đảm người dân nhận được sự hỗ trợ
thích đáng và hiệu quả. Thiết lập chức năng dịch vụ tiếp cận thị trường lao
động, và hỗ trợ mọi người có nhu cầu lao động, khởi nghiệp, kinh doanh,
đầu tư hoặc cần trợ giúp vào các chương trình công nghiệp. Thiết lập một
hệ thống để các doanh nhân và các nhà phát triển tham gia tích cực giải
quyết các thách thức trong xã hội, bao gồm bằng cách gia tăng các kỹ
năng chuyên môn giao dịch và các thành phần liên hệ xã hội.

§ 46. [Nghiệp đoàn]


(1) Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn và xã hội nghề nghiệp được
tự do thành lập và hoạt động theo luật định. Các nghiệp đoàn hoạt
động độc lập, đàm phán đại diện, tham gia và tác động lợi ích vào
các thỏa hiệp lao động tập thể, và quyền lợi của người lao động.
(2) Các tổ chức nghiệp đoàn phải chính thức đăng ký để có tư cách
pháp nhân. Điều kiện đăng ký là bắt buộc, cho phép nghiệp đoàn
thành lập tổ chức, nội bộ và hoạt động trên cơ sở dân chủ, thông
qua việc đại diện tỷ lệ với số đoàn viên của mình.
(3) Mọi người lao động có quyền chọn lựa một nghiệp đoàn phù hợp
để bảo vệ quyền lợi làm việc, đòi hỏi tăng lương theo pháp lý và
giải quyết về những xung đột đối với chủ nhân hoặc công ty của
mình.

101
§ 47. [Quyền đình công]
(1) Đình công là công cụ pháp lý mà các nghiệp đoàn có thể áp dụng
vì lợi ích tập thể, bao gồm việc đàm phán dẫn đến một thỏa hiệp
tập thể. Quyền đình công được thực hiện phù hợp với quy định
của pháp luật.
(2) Quyền đình công được áp dụng vào các ngành nghề, bao gồm
công đoàn đại diện cho sinh viên và các đơn vị sinh hoạt khác.

§ 48. [Tự do của doanh nghiệp]


(1) Doanh nghiệp tư nhân có quyền hoạt động kinh tế tự do. Tất cả
các hoạt động kinh tế và kinh doanh phải được đăng ký trước khi
đi vào hoạt động.
(2) Mọi doanh nghiệp có nghĩa vụ tiếp sức và góp phần vào nền kinh
tế, tạo việc làm cho cộng đồng, tiến đến lợi ích chung và lâu bền,
an toàn, tự do và phẩm giá con người.
(3) Các cơ quan chính quyền có trách nhiệm tạo các biện pháp hỗ trợ,
thiết lập các chương trình phù hợp và giám sát các hoạt động kinh
tế khu vực công cũng như tư, phối hợp đồng nhất hướng đến một
mục tiêu kinh tế bền vững.

§ 49. [Quyền sở hữu tài sản, đất đai]


(1) Mọi người, mọi pháp nhân có quyền sở hữu và quyền thừa kế tài
sản. Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền sở hữu và quyền thừa
kế trên cơ sở pháp lý và công bằng.
(2) Pháp luật có thể quy định cách thức tài sản, đất đai được sở hữu,
thừa kế, trưng mua hoặc những giới hạn để bảo vệ chức năng xã
hội, quyền tiếp cận và sử dụng chung của tất cả mọi người.
(3) Pháp luật có thể áp đặt nghĩa vụ và hạn chế quyền sở hữu đất đai
vì hợp thức hóa hoặc mục đích cân bằng xã hội. Các trang trại,
đồn điền được khuyến khích khai khẩn hiệu quả, có thể bị áp đặt
những phương pháp thay đổi cách tổ chức và hoạt động, chuyển
đổi để đạt kết quả khả quan hơn vì mục đích và lợi ích chung.
(4) Giới hạn quyền sở hữu tài sản, thừa kế, trưng mua hoặc thành
phần khác được quy định trong luật.

Quyền sở hữu trong Hiến pháp 2021 được thiết lập dựa trên hình thức và
yếu tố trong mô hình dân chủ xã hội.

Quyền sở hữu tài sản là quyền định đoạt một vật trong khuôn khổ pháp
luật, miễn là không mâu thuẫn với quyền của người khác. Quyền sở hữu

102
tài sản là quyền quan trọng nhất trong tất cả các quyền sở hữu của cải.
Quyền sở hữu tài sản bao gồm cả quyền định đoạt hợp pháp, chẳng hạn
như quyền bán, cho thuê hoặc thế chấp và các quyền định đoạt thực dụng,
chẳng hạn như quyền sử dụng một dạng như sơn nhà, lái xe ô tô, chặt cây
trong rừng, v.v. Ngoài ra, tất nhiên, chủ sở hữu có thể từ chối người khác
sử dụng hoặc định đoạt tài sản theo pháp lý. Tóm lại, quyền sở hữu tài sản
có thể được xem là một tổng thể của tất cả các quyền năng tích cực và tiêu
cực mà sự vật có được.

Ngày nay, quyền sở hữu tư nhân là cơ sở của đời sống kinh tế ở nhiều nơi
trên thế giới. Mức độ quyền sở hữu tư nhân trong một xã hội luôn là một
vấn đề chính trị quan trọng và là một đề tài lớn của nhiều đảng phái chính
trị.

Khái niệm về Quyền sở hữu tài sản


Người Na Uy cho rằng, không có luật nào xác định khái niệm quyền sở
hữu tài sản, nhưng nhiều luật giả định có thể xác định quyền sở hữu tài
sản như thế nào. Ví dụ Luật Dầu mỏ, quy định rằng chính phủ Na Uy có
quyền sở hữu đối với các mỏ dầu khí dưới biển và độc quyền quản lý các
nguồn tài nguyên này. Theo nghĩa khác, như đề cập đến quyền sở hữu văn
học nghệ thuật (quyền tác giả). Đây không phải là quyền sở hữu theo đúng
nghĩa, mà là quyền độc quyền được bảo vệ hợp pháp để tác giả định đoạt
một số sản phẩm trí tuệ, chẳng hạn như quyền tác giả và quyền nghệ sĩ,
quyền đối với bằng sáng chế và nhãn hiệu.

Khái niệm về quyền sở hữu tài sản đã thay đổi theo thời gian. Ngày nay,
người ta quan tâm nhiều hơn đến các hạn chế, và quyền sở hữu tài sản
thường được mô tả như là quyền tổng quát và nghĩa vụ liên quan đến
quyền sở hữu các sự vật.

Các loại tài sản


Sự phân biệt giữa hai loại vật chính có thể là đối tượng của Quyền sở hữu
tài sản: Bất động sản và động sản. Bất động sản là một mảnh đất, hoặc
một thứ gì đó được kết nối chắc chắn với mặt đất, gồm những căn hộ trên
tầng cao của một khu dân cư, cây cối và các tiện ích được kết nối lâu dài
với mặt đất đều được coi là bất động sản. Động sản là những vật có thể là
đối tượng của quyền sở hữu tài sản, nhưng không gắn bó lâu dài với đất.
Ranh giới giữa bất động sản và tài sản cá nhân rất quan trọng trong nhiều
bối cảnh, ví dụ như trong việc đánh giá những gì bao gồm khi mua một
ngôi nhà, hoặc những gì được bao gồm trong cơ sở tính thuế tài sản. Ranh
giới có thể được phác họa khác nhau trong các luật khác nhau.

103
Bảo vệ quyền sở hữu
Quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Có những quy định pháp luật
bảo vệ vị trí sở hữu trong nhiều bối cảnh khác nhau và quy định về hình
phạt khi vi phạm quyền sở hữu của người khác.

Hiến pháp bảo vệ quyền sở hữu tư nhân ở mức độ cao. Tuy nhiên, § 49
(4) và § 50 của Hiến pháp quy định: «Giới hạn quyền sở hữu tài sản,
thừa kế, trưng mua hoặc thành phần khác được quy định trong luật» hoặc
«Mọi người, mọi pháp nhân hay chủ sở hữu theo đề xuất hoặc yêu cầu của
Chính phủ có nghĩa vụ từ bỏ quyền sở hữu đất đai hoặc bất động sản của
mình vì mục đích công cộng hoặc lợi ích chung,..». Ví dụ, nếu khu vực
công cần đất tư nhân cho việc mở rộng đường, điều này chỉ có thể được
thực hiện việc bồi thường cho chủ đất. Hiến pháp không bảo vệ chủ sở
hữu chống lại các hạn chế đối với việc từ bỏ. Như vậy có thể được quy
định thông qua luật pháp thông thường. Lệnh cấm xây dựng trong khu vực
bãi biển là một ví dụ về sự hạn chế quyền sở hữu tài sản mà chủ sở hữu
phải chấp nhận mà không được hưởng tiền bồi thường từ khu vực công.

Hạn chế đối với quyền sở hữu tài sản


Ở Na Uy, pháp luật quy định một số hạn chế đối với quyền sở hữu tài
sản, và do đó, chủ sở hữu không có quyền tự do quyết định việc sử dụng
tài sản của mình. Một ví dụ thực tế về các hạn chế là các quy định trong
Luật Quy hoạch và Xây dựng, có nghĩa là chủ sở hữu trong nhiều trường
hợp, phải có sự cho phép của khu vực công để thực hiện các biện pháp đối
với tài sản của mình. Luật Láng giềng có quy định về hạn chế sử dụng tài
sản riêng vì lợi ích của hàng xóm. Luật Khoáng sản quy định rằng chính
quyền có quyền sở hữu đối với một số kim loại nhất định, ngay cả khi
chúng nằm trên đất tư nhân. Luật Lâm nghiệp nghiêm cấm các thỏa thuận
về một số quyền sử dụng đất đặc biệt gây tổn hại đến rừng. Luật Đất đai
quy định rằng đất canh tác phải được duy trì và không được sử dụng cho
các mục tiêu không nhằm mục đích sản xuất nông nghiệp. Theo Luật Sinh
học Đa dạng, có thể quyết định rằng các khu vực được bảo vệ khi điều này
được xem là vì lý do khoa học hoặc lịch sử, hoặc do vẻ đẹp tự nhiên hoặc
tính độc đáo của khu vực. Ngoài ra còn có luật với các yêu cầu về cư trú
hoặc nghĩa vụ cấp phép hạn chế việc chủ sở hữu xử lý tài sản. Mục đích
của các quy định này là mang lại lợi ích cho cộng đồng chứ không phải lợi
ích cá nhân hay lợi ích nhóm.

Quyền sở hữu tại Việt Nam theo ABC về Hiến Pháp: «Chế độ sở hữu là
yếu tố cơ bản trong chế độ kinh tế. Hiến pháp các quốc gia đều điều chỉnh
và bảo vệ các quan hệ sở hữu. Tại Việt Nam, ngay sau năm 1945, nhà

104
nước thừa nhận mọi loại hình sở hữu. Hơn nữa, để động viên tất cả mọi
tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến kiến quốc, nhà nước tuyên bố bảo
hộ quyền tư hữu của công dân (Điều 12 Hiến pháp 1946).

Quan điểm về quá độ lên CNXH đã đặt ra vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu
và thay thế bằng chế độ công hữu. Các loại hình kinh tế được coi là phi
XHCN đã bị cải tạo một cách máy móc và chủ quan. Trong khoảng thời
gian từ 1954 đến khi có chính sách Đổi mới của Đảng Cộng sản (1986),
ở nước ta chỉ thừa nhận một số loại hình sở hữu và hai thành phần kinh tế
(quốc doanh và hợp tác xã) (Hiến pháp 1959 và 1980). Hiến pháp 1992,
thể chế hóa đường lối Đổi mới đã điều chỉnh sự duy ý chí trước đây bằng
việc thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối bên cạnh các
loại hình sở hữu khác. Những hình thức sở hữu chủ yếu làm nền tảng cho
nền kinh tế nhiều thành phần là sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước), sở
hữu tập thể và sở hữu tư nhân (Điều 15). Trong đó, sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể vẫn được xác định “là nền tảng”.

Sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước) bao gồm những tư liệu sản xuất chủ
chốt quyết định sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Tài sản thuộc sở
hữu toàn dân bao gồm đất đai, rừng núi sông hồ, nguồn nước, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần
vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp công trình thuộc các
ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của
Nhà nước (Điều 17).

Như vậy, Điều 17 của Hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục khẳng định đất đai
thuộc sở hữu toàn dân và chỉ có một hình thức sở hữu toàn dân đối với đất
đai. Không còn tồn tại các hình thức sở hữu tư nhân hoặc cộng đồng đối
với đất đai từ sau khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực.»

§ 50. [Trưng mua]


Mọi người, mọi pháp nhân hay chủ sở hữu theo đề xuất hoặc yêu cầu
của Chính phủ có nghĩa vụ từ bỏ quyền sở hữu đất đai hoặc bất động
sản của mình vì mục đích công cộng hoặc lợi ích chung, lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, phát triển kinh tế hoặc vì những công trình
có tầm mức quan trọng đối với xã hội hay trong khu vực, được đền bù
hoặc bồi thường đầy đủ từ Ngân khố quốc gia. Các điều kiện và quy
định ở điều khoản này sẽ do luật định.

105
§ 51. [Tự do phát triển]
(1) Để nâng cao đời sống của người lao động về mặt kinh tế, phát
triển xã hội phù hợp với nhu cầu gia tăng sản xuất, mọi công dân
được thúc đẩy và khuyến khích tham gia tích cực vào các ngành
nghề, mọi tầng lớp trong xã hội.
(2) Để nâng cao đạo đức nghề nghiệp và bảo đảm an toàn sức khỏe
tuyệt đối cấm các hành vi gây ô nhiễm môi trường và độc hại con
người.
(3) Luật pháp bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển, nâng cao sự tham gia
tích cực của mọi công dân vào các ngành nghề, dựa trên các giá
trị được tôn trọng và môi trường bền vững.

§ 52. [Thuế]
(1) Việt Nam có trách nhiệm tạo điều kiện cho người già được hỗ trợ
hưu trí, nhân dân có đường xá, người đau yếu có bệnh viện và trẻ
em có nhà trường v.v. Để đáp ứng mọi nhu cầu công dân và kinh
phí, chính phủ có trách nhiệm quyên góp từ các nguồn thuế phí,
trong đó một phần ngân sách được đóng góp qua người lao động.
Vì mục đích cân bằng xã hội, tất cả công dân, mọi doanh nghiệp
và các tổ chức kinh tế đều có bổn phận đóng góp vào Ngân sách
quốc gia.
(2) Hệ thống thuế phí được quy định theo nguyên tắc lũy tiến, hoặc
với mức tương ứng theo khả năng của mỗi công dân cũng như đối
với doanh nghiệp. Xt. § 152.

Quy định về thuế trong Hiến pháp 2021 được thiết lập dựa trên các yếu tố
và trải nghiệm ở Na Uy.
Na Uy là một nước có những khoản thu nhập lớn hơn việc thu thuế của
người dân so với các nước khác. Người dân tại đây có thể hưởng lợi
nhuận từ Quỹ Dầu mỏ (Quỹ Hưu trí Chính phủ Toàn cầu). Quốc gia nhận
được một số thu nhập trực tiếp từ các nguồn sản xuất trong lĩnh vực dầu
mỏ.

Ở Na Uy, Chính phủ và các cơ quan hành chính có những nhiệm vụ mang
đến lợi ích cho người dân. Thuế mà người dân đóng cho Chính phủ được
sử dụng để tài trợ cho các nhiệm vụ công như dịch vụ y tế, hoạt động của
bệnh viện, giáo dục và giao thông. Ngoài việc trang trải các chi phí của
cộng đồng, thuế góp phần bình đẳng kinh tế giữa các công dân.

106
Thuế và phí chiếm phần lớn thu nhập của chính quyền trung ương, các
thành phố trực thuộc trung ương và các khu vực địa phương. Các loại thuế
có sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu. Các loại thuế trực thu
là thuế thu nhập và thuế tài sản. Thuế thu nhập là thuế mà chúng ta phải
trả trên số tiền kiếm được từ công việc, kinh doanh, tiền lãi ngân hàng,
v.v. Các loại thuế khác là thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng (VAT).
Đây là một loại thuế mà người dân phải trả khi mua hàng hóa và dịch vụ.
Điều này có nghĩa là một phần của những gì người dân trả cho sản phẩm
hoặc dịch vụ được thanh toán cho chính phủ.

Tuy nhiên, Na Uy không phải là một nước có mức thuế cao nhất thế giới
như nhiều người mô tả, song có mức thuế khá tương đối so với các nước ở
châu Âu.

Mặt khác cho thấy, các chính trị gia ở đây quyết định rằng họ nên áp dụng
mức thuế gián thu cao. Điều này có nghĩa là, người dân phải trả rất nhiều
thuế VAT, rất nhiều thuế xe hơi và thuế phí rất cao cho một số hàng hóa và
dịch vụ khác, ví dụ: rượu bia và thuốc lá.
Nhà triết học người Scotland, Adam Smith (1723-90) đã đặt ra bốn
nguyên tắc:
- Thuế phải được ấn định và không có sự tùy tiện;
- Các loại thuế phí được đánh vào thời điểm nhất định và theo cách
hợp lý nhất cho người nộp thuế;
- Mức thu cần được giảm đến mức tối thiểu;
- Chừng mực nhất có thể, và được đánh vào khả năng thu nhập.
- Đối với thu nhập vượt quá mức tối thiểu, thuế được tăng theo khả
năng chịu đựng, điều này phụ thuộc vào quy mô thu nhập và gánh
nặng kéo dài của người đóng thuế. Điều này có thể đạt được bằng
cách gia tăng, còn gọi là thuế suất lũy tiến, như ở Na Uy thông
qua việc đánh thuế của Chính phủ.

§ 53. [Tiết kiệm]


(1) Việt Nam khuyến khích mọi công dân tiết kiệm theo khả năng và
cho tương lai, bảo đảm toàn vẹn nguồn tiết kiệm trong dân chúng.
Khuyến khích nắm giữ các cổ phần mang lợi nhuận của các công
ty chính phủ thông qua việc sử dụng tài khoản tiết kiệm cá nhân.
(2) Chính phủ có trách nhiệm đề xuất các chính sách giảm thuế và
tạo điều kiện tiết kiệm cho người lao động, thúc đẩy khả năng tiết
kiệm và đầu tư cho mọi người.

107
Mục IV. Các quyền và nghĩa vụ chính trị

§ 54. [Quyền và nghĩa vụ bỏ phiếu]


(1) Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trước ngày bầu cử có quyền bỏ
phiếu, và tham gia vào các cuộc trưng cầu dân ý.
(2) Bỏ phiếu là quyền cá nhân, tự do, bình đẳng, trực tiếp và kín. Bỏ
phiếu là nhằm thực hiện quyền lập pháp, quyền quản lý và quyền
giám sát thông qua người đại diện. Bỏ phiếu cũng là nghĩa vụ
nhằm hướng đến ý thức trách nhiệm vun trồng nền dân chủ. Chối
bỏ quyền bỏ phiếu có thể ảnh hưởng đến các quy tắc phúc lợi cơ
bản của cá nhân.
(3) Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài được tạo các điều kiện
để thực hiện quyền bầu cử. Hình thức và tổ chức bầu cử dành cho
người Việt Nam ở nước ngoài được thiết lập và quy định trong
luật.
(4) Những người mất năng lực dân sự hoặc bị tước quyền bầu cử do
một phán quyết của tòa án, không có quyền bỏ phiếu cũng như
tham gia cuộc trưng cầu dân ý.
(5) Tổ chức và tiến hành bầu cử được quy định trong Hiến pháp,
Chương VIII Bầu cử và pháp luật.

Quyền bầu cử là nguồn cơ bản của nền dân chủ tạo khả năng ảnh hưởng
đến các quyết định chính trị quan trọng. Để có điều kiện này, trước tiên
và quan trọng nhất là thông qua việc sử dụng quyền bỏ phiếu của mình
và cũng thông qua cơ hội này để trở thành ứng cử đại biểu trong các cuộc
bầu cử. Càng nhiều người bỏ phiếu và sử dụng nó, nền dân chủ càng trở
nên sinh động và phong phú.

Tuy nhiên, sự tham gia phổ biến rộng rãi trong các cuộc bầu cử không có
nghĩa là bảo đảm rằng người dân thực sự làm chủ. Nhiều chế độ độc tài
sử dụng các phương thức sàng lọc các thành phần ứng cử trong các cuộc
bầu cử (ví dụ: Mặt trận Tổ quốc ở Việt Nam). Đây là một cách để củng cố,
hoặc hợp pháp hóa một hệ thống chính trị phi dân chủ, trên thực tế thì rất
ít người tham gia vào việc đưa ra các quyết định chính trị thay cho dân.

Việc hạn chế quyền bầu cử thường ảnh hưởng cụ thể đến thịnh vượng,
giới tính, khả năng, chức năng và tuổi tác. Nói chung là tác động tiêu cực
vào nền kinh tế và xã hội của một quốc gia. Quyền bầu cử do đó phải
được thực hiện và phát huy dần theo thời gian.

108
Từ khi dân chủ lần đầu tiên được sử dụng ở Hy Lạp như một thuật ngữ
cho một hệ thống chính trị vào khoảng 400 năm TCN, thì lúc bấy giờ đã
có một nền dân chủ trực tiếp. Lúc đó những người có quyền bỏ phiếu để
đưa ra các quyết định phải tham dự các hội nghị công cộng lớn để sử dụng
quyền bỏ phiếu của mình. Vào thời điểm này, chỉ một số đàn ông trung
niên được quyền bỏ phiếu, trong khi phần lớn công dân như phụ nữ, nô lệ
và trẻ em, không có quyền bỏ phiếu để tác động đến việc đưa ra các quyết
định chính trị.

Dân chủ đại diện đối với các đảng phái chính trị thì thường có các quan
điểm và lợi ích khác nhau được thể hiện chung ở các quốc gia có nền dân
chủ hỗn hợp. Hình thức quản trị này theo nhà khoa học chính trị Robert A.
Dahl cho là chế độ đa nguyên - một hội đồng của nhiều người - bởi vì nó
lan truyền quyền lực và cạnh tranh giữa các đảng phái và tổ chức chính trị.

Nghĩa vụ bỏ phiếu trong Hiến pháp 2021 không có nghĩa là một sự bắt
buộc, nhưng nghĩa vụ trên tinh thần trách nhiệm gắn liền với quyền bỏ
phiếu - ý thức việc xây dựng nền dân chủ. Hiến pháp cũng mở rộng tạo
điều kiện cho việc thực hiện bầu cử ở nước ngoài dành cho công dân Việt
Nam đang thực hiện công vụ và cho những người đang định cư ở các quốc
gia trên thế giới. Hình thức và tổ chức bầu cử dành cho người Việt Nam
ở nước ngoài được thiết lập và quy định chi tiết trong Pháp lệnh bầu cử
2019/QHVNDC.

§ 55. [Quyền thành lập đảng chính trị]


(1) Để góp phần xây dựng đất nước, xác định các chính sách quốc gia
trên nền tảng dân chủ, đa nguyên và đa đảng, mọi công dân và các
tổ chức có quyền tự do thành lập đảng chính trị.
(2) Các đảng phái chính trị phải chính thức đăng ký hoạt động chính
trị để có tư cách pháp nhân. Điều kiện đăng ký là bắt buộc để có
hiệu lực trước khi cuộc bầu cử tiến hành. Các quy chế thành lập
tổ chức, nội bộ và hoạt động trên cơ sở dân chủ, thông qua thành
phần đại diện tỷ lệ và số đại biểu, đảng viên của mình.
(3) Các đảng phái chính trị phải được công nhận và chính thức đứng
trong danh sách «Đảng chính trị toàn quốc».
(4) Hình thức và điều kiện thành lập đảng chính trị được quy định
trong luật. Xt. § 142.

Đảng chính trị thường là một nhóm người có cùng quan điểm, lập trường
cơ bản, những người cùng chí hướng gây ảnh hưởng đến đời sống chính

109
trị. Công việc chính của các đảng chính trị thường là gây ảnh hưởng đến
các chính sách chính quyền của các đảng đối lập, tranh đấu mãnh liệt
trong các cuộc bầu cử để đạt đến việc thành lập chính phủ, giành quyền
hành pháp. Ở các địa phương thì họ tìm cách tạo ảnh hưởng trực tiếp ở đó,
và một số phương pháp khác để công khai quan điểm và lập trường của
đảng.

Quyền thành lập đảng phái chính trị thường được thể hiện tự do ở các
nước dân chủ và được quy định trong pháp luật và các nguyên tắc chung
của quốc gia. Ngoài các nguyên tắc cơ bản, các đảng chính trị thường
không đề cập trong hiến pháp, hay tạo thành khuôn khổ cho hệ tư tưởng
chính trị. Tuy nhiên, các đảng phái đóng một vai trò lớn trong đời sống
chính trị. Các quy tắc của «thuật chơi» và các điều kiện trong chính
trị thường khác nhau ở mỗi nước, nhưng họ thường theo các truyền thống
phổ thông nhất trên thế giới, và tùy thuộc vào quy định trong hiến pháp
của nước họ. Truyền thống, những cân nhắc thực tế và sự phát triển chung
của xã hội góp phần rất lớn vào việc thiết lập các điều kiện cho đời sống
chính trị.

Các vấn đề xã hội thường được tổ chức trong các đảng phái chính trị, giải
quyết trong nghị trường, thường gọi là phương pháp «dân chủ đại diện»
hoặc còn gọi là «dân chủ gián tiếp». Tuy nhiên, trường hợp chính quyền
đưa ra các chính sách ảnh hưởng đến toàn thể công dân, tác động toàn
quốc, những sự việc như vậy thường phải thực hiện theo các nguyên tắc
chung của quốc gia, theo quy định của Hiến pháp, tức là phải có cuộc
trưng cầu dân ý, một phương pháp dân chủ trực tiếp.

Các tư tưởng, lập trường chung của các đảng phái chính trị thường tập
trung vào một mục tiêu chính là góp phần xây dựng chính sách phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mỗi đảng đều có tư tưởng và lập luận khác
nhau, thiên tả hoặc thiên hữu, thậm chí đối lập nhau khốc liệt. Các bất
đồng đều phải xử sự trên tinh thần tôn trọng và bất bạo động, song vẫn
đại diện cho các tiếng nói của cộng đồng dân cư, tùy nhu cầu với mức độ
khác nhau trong xã hội. Tất cả đều dẫn đến cùng mục đích chung đó là vì
dân, vì nước.

Ở các nước dân chủ đa nguyên, không đảng phái nào tồn tại mãi mãi,
cũng chẳng có hệ tư tưởng nào là không đổi thay, cũng chẳng quốc gia
nào có cùng hoàn cảnh với những khuynh hướng chính trị giống nhau. Do
đó, việc thành lập các tổ chức và đảng phái chính trị tại Việt Nam nên dựa

110
vào tính thực dụng nhiều hơn, trường kỳ đấu tranh để đạt thành tựu, và
sáng tạo các chính sách mới phù hợp với hiện tình đất nước là mối quan
tâm hàng đầu của một nước dân chủ phát triển và bền vững.

Thuật ngữ «cánh tả» và «cánh hữu»


Ở các nước dân chủ theo mô hình đa đảng, thuật ngữ «cánh tả» - «cánh
hữu» thường được nhắc đến ở các kênh truyền thông quốc gia qua các
cuộc thăm dò ý kiến của nhân dân.
Để có một số kiến thức về thuật ngữ này, chúng ta nên tìm hiểu về nguồn
gốc và các yếu tố của sự biến chuyển tư tưởng, sự sắp xếp thứ tự của các
hệ tư tưởng, chủ trương và lập trường của các đảng phái chính trị theo
tiêu chí phân chia khuynh hướng chính trị thành «cánh tả» và «cánh hữu»
trong mô hình xã hội dân chủ.

Ngược dòng lịch sử cho thấy, thuật ngữ «cánh tả» và «cánh hữu» bắt đầu
xuất hiện vào thời kỳ Cách mạng Pháp (1789-1799), được bàn đến ở giai
đoạn khi nước Pháp soạn thảo Hiến pháp, và cùng lúc để hoạch định chỗ
ngồi của các thành viên trong Quốc hội Pháp, sắp xếp theo xu hướng và
tư tưởng chính trị khác nhau trong một nghị trường. Những người bảo
vệ truyền thống và duy trì thể chế quân chủ thì ngồi bên phải (cánh hữu),
trong khi đó người muốn cách mạng và thay đổi thể chế thì ngồi về phía
bên trái (cánh tả).

Sự kiện bắt đầu một chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1814, những người
của các phe cải cách hay bảo thủ chiếm vị trí của mình ở phía bên trái
hoặc bên phải trong hội trường cơ quan lập pháp. Và từ đó, dần dần thuật
ngữ «cánh tả» và «cánh hữu» đã đi vào nền chính trị để phân biệt tư tưởng
chính trị đối nghịch. Các đảng phái chính trị cũng từ đó được xem là «cực
tả», «trung tả», «trung hữu» hoặc «cực hữu».

Thuật ngữ «cánh tả» và «cánh hữu» của Pháp đã ảnh hưởng rộng rãi đến
các nền chính trị trên thế giới sau đó. Chẳng hạn trong Quốc hội Hoa kỳ,
đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa ngồi mỗi bên đối diện với nhau trong hội
trường. Ở những quốc gia đa đảng hơn thì sự sắp xếp chiếu theo từ cực tả
đến cực hữu, tùy theo cách tổ chức chỗ ngồi trong nghị trường.

Hiến pháp 2021, các đảng chính trị được thành lập tự do quy định tại §
55 và § 142, và Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC, Chương 4 Thành phần
đảng chính trị, quy định sơ bộ, đăng ký hoạt động và việc thành lập, tham
gia cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia. 

111
§ 56. [Quyền khiếu nại - kiến nghị - khởi kiện]
Mọi công dân có quyền khiếu nại, trình kiến nghị hoặc khởi kiện vì
lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân hay lợi ích của người khác tới các cơ
quan chức trách và cơ quan chính quyền các cấp. Thủ tục và quy tắc
xem xét khiếu nại, kiến nghị, khởi kiện được quy định trong luật.

§ 57. [Tham gia vào cơ quan công quyền]


(1) Mọi công dân bất kể nam hay nữ đều có cơ hội làm việc trong các
cơ quan công quyền và các cơ quan hành chính. Cơ hội làm việc
được thực hiện theo các điều kiện do luật định và theo tiến trình
thi cử cạnh tranh, công bằng, bình bằng, tự do và dân chủ.
(2) Mọi công dân theo luật định có quyền tham gia vào các cơ quan
công quyền và các vị trí dân cử trên cơ sở bình đẳng, công bằng,
tự do và dân chủ. Thủ tục tranh cử vào các vị trí của các cơ quan
công quyền được quy định tại Chương VIII Bầu cử và pháp luật.

§ 58. [Nghĩa vụ quân sự]


(1) Mọi công dân khi tổ quốc kêu gọi có nghĩa vụ bảo vệ dân tộc và
đất nước. Nghĩa vụ quân sự là bắt buộc trong một thời hạn, và
thực hiện trên tinh thần ý thức và trách nhiệm. Bất kỳ ai tham
gia nghĩa vụ quân sự được bảo đảm không phương hại đến nghề
nghiệp hoặc việc học hành. Điều kiện và nguyên tắc tham gia
nghĩa vụ quân sự được quy định trong luật.
(2) Các lực lượng vũ trang phải được tổ chức quy củ trên tinh thần
Quốc gia Dân chủ, và tuân theo các điều luật trong Hiến pháp và
pháp luật.

§ 59. [Trung thành Tổ quốc - Tuân thủ Hiến pháp]


(1) Trung thành Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp là trách nhiệm của mọi
công dân Việt Nam.
(2) Những người được giao phó các vị trí dân cử, đại biểu, công chức
trong các cơ quan công quyền, lực lượng cảnh sát và quân đội có
nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, thực
thi các điều luật trong Hiến pháp và phải thi hành một cách kỷ
luật và trung thực.

112
CHƯƠNG III: QUỐC HỘI

Quốc hội (Congress, National Assembly) là tên gọi được biết đến trong
các thể chế đại nghị, hoặc Nghị viện (Parliament) trong các chế độ
tổng thống cộng hòa. Ở châu Âu, cơ quan lập pháp của Đức được gọi
Bundestag và Na Uy là Stortinget. Ở Việt Nam, Quốc hội (National
Assembly) được biết đến là một phần của bộ máy Nhà nước. Khái niệm
Bộ máy Nhà nước ở Việt Nam được sử dụng có lẽ vì tính hợp thức với chế
độ «tập trung dân chủ» hay «tập trung quyền lực» do một đảng chính trị
cầm quyền. Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được biết đến là
nơi duy nhất có thẩm quyền đưa ra các quyết định chính trị. Quốc hội Việt
Nam, do đó, theo nhận xét của các nhà chính trị trên thế giới thì không có
thẩm quyền tối cao như các quốc hội ở các quốc gia dân chủ, được tổ chức
qua các hình thức «dân chủ gián tiếp», «dân chủ đại diện» hoặc «dân chủ
trực tiếp».

Quốc hội ở các nước có chế độ đại nghị là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân và cơ quan quyền lực nhất của hệ thống quản trị quốc gia,
thường có chức năng chính là lập pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, bao gồm
lập hiến và sửa đổi hiến pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, xác lập các cơ cấu ở trung ương (bầu Tổng thống, bầu Thủ tướng,
bầu Chánh án và Thầm phán, bổ nhiệm các Hội đồng và Cơ quan bổ trợ)
và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của đất nước.

Việc lập hiến thường rất ít khi xảy ra ở các quốc gia, ngoại trừ trong
trường hợp vào khoảnh khắc giao thời hoặc đất nước đó có một biến
chuyển trọng đại. Hiến Pháp Việt Nam 2021, một đề xuất, dự thảo hiến
pháp theo nguyện vọng của nhân dân Việt Nam muốn chuyển đổi qua một
thể chế dân chủ, để ổn định và phát triển đất nước, một tương lai tươi sáng
nơi đó mọi người dân đều được bình đẳng và công bằng, có thêm điều
kiện phát huy hết khả năng để làm giàu cho bản thân và cho đất nước.

Theo lý thuyết phân lập quyền lực thì quốc hội là cơ quan thuộc nhánh
lập pháp, là một trong ba cơ quan quyền lực nhất trong hệ thống quản trị
quốc gia: Lập pháp (legislature) ban hành luật, hành pháp (executive) thực
thi luật và tư pháp (judicature) xét xử, phán quyết và giải thích luật. Quốc
hội được công dân bầu trực tiếp qua các cuộc bầu cử tự do và cạnh tranh,
nghĩa là dân có điều kiện tuyển chọn các đại biểu và các đảng phái chính
trị tín nhiệm nhất vào quốc hội.

113
Quốc gia pháp quyền (rule of law) được xây dựng trên nền tảng dân chủ
lập hiến (constitutional democracy) trên các nguyên tắc lập pháp làm cơ
sở chung, để hoạch định việc thực thi quyền lực trong khuôn khổ pháp luật
quốc gia. Pháp luật trở thành một phương tiện quan trọng nhất để tổ chức
đời sống xã hội trong khuôn khổ pháp lý. Pháp luật là một yếu tố quan trọng
trong hệ thống tòa án ở hầu hết các quốc gia dân chủ pháp quyền.

Là một quốc gia dân chủ lập hiến (trực tiếp hoặc gián tiếp), quyền lực tối
cao của quốc gia thuộc về nhân dân. Chính vì vậy, hiến pháp của quốc gia
đóng vai trò quan trọng nhất qua sự hình thành một đạo luật chính, nền
tảng do nhân dân xây dựng. Thông qua việc định chế các điều khoản trong
hiến pháp để xác lập cơ cấu và tổ chức quyền lực quốc gia, trên hình thức
một hệ thống pháp lý để vận hành các cơ quan quyền lực và hoạch định
các chính sách quốc gia, còn gọi là Hệ thống Quản trị Quốc gia.

Mục I. Quốc hội lưỡng viện

§ 60. [Quốc Hội]


(1) Quốc hội gồm các đại biểu đại diện từ các tổ chức và đảng phái
chính trị, đại diện từ các tỉnh/thành, được công dân trên toàn quốc
bầu lên để thực thi Hiến pháp, phục vụ Nhân dân và bảo vệ Tổ
quốc.
(2) Quốc hội gồm Hạ viện và Thượng viện, theo thể chế Đại nghị.
(3) Đại biểu Hạ viện được gọi là Hạ nghị sĩ, Thượng viện là Thượng
nghị sĩ. Thành viên Quốc hội được gọi chung là đại biểu, dân biểu
hoặc nghị sĩ.
(4) Tổng số lượng đại biểu Quốc hội được ấn định là 490 đại biểu.
(5) Tổ chức và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định
trong Hiến pháp Chương VIII Bầu cử và Pháp luật.

Như đề cập ở trên, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
có chức năng chính là lập pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, quy định ngân sách
quốc gia, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Về quyền lập
pháp, tu chính hiến pháp quy định tại Mục II và bảo hiến Chương X.

Quốc hội của Việt Nam theo Hiến pháp 2021, gồm hai viện quốc hội, Hạ
viện và Thượng viện, quy định rằng đại diện Quốc hội được nhân dân bầu
lên để thực thi Hiến pháp, phục vụ Nhân dân và bảo vệ Tổ quốc. Ở các
nước Bắc Âu, các chính trị gia dân cử thường đóng vai trò phụng vụ nhân

114
dân, vấn đề gì đưa ra hầu như cũng được tham kiến nhân dân qua nhiều
hình thức và phương cách. Họ khiêm tốn và lúc nào cũng tìm các giải
pháp tốt nhất để đạt nguyện vọng của nhân dân, từ cấp trung ương cho
đến cấp địa phương đã trở thành một truyền thống khá phổ biến. Nêu rõ
các yếu tố này trong hiến pháp là một điều hiếm thấy ở các quốc gia khác,
nhưng tất yếu cho nhân dân Việt Nam, bởi chủ quyền quốc gia thuộc về
nhân dân, và do đó, Quốc hội là một công cụ phụng sự quốc gia.

Theo Hiến pháp 2021, tổng số lượng đại biểu Quốc hội được ấn định là
490 đại biểu. Số lượng 490 đại biểu Quốc hội so với số lượng đại biểu
hiện nay tại Việt Nam (+/– 500) thì không có sự chênh lệch là bao, đủ
nhân lực để vận hành cơ quan lập pháp.
Về việc tổ chức và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội được quy định chi
tiết hơn trong Hiến pháp Chương VIII Bầu cử và Pháp lệnh bầu cử 2019/
QHVNDC (Luật bầu cử).

§ 61. [Hạ viện]


(1) Hạ viện gồm 427 Hạ nghị sĩ, đại diện nhân dân từ các tổ chức và
đảng phái chính trị.
(2) Tất cả người Việt Nam đủ 25 tuổi trước ngày bầu cử có đầy đủ điều
kiện được ghi danh ứng cử, bất kể đang sống trong hay ngoài nước.
(3) Hạ viện được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp,
bình đẳng, theo tỷ lệ và được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín.

Hạ viện (Hạ Nghị viện) của Quốc hội, gồm 427 đại biểu, đại diện từ các
đảng phái chính trị, trong hệ thống đa đảng. Một số ít trường hợp đại biểu
có thể được bầu mà không qua một tổ chức hoặc đảng chính trị. Việc ứng
cử độc lập vào Quốc hội như vậy thường đòi hỏi một đề xuất đạt được ít
nhất 5.000 cử tri ủng hộ. Điều này thường rất ít xảy ra ở các nước xã hội
dân chủ.

Ngoài việc bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bình
đẳng và phiếu kín, cuộc bầu cử Hạ viện được thực hiện theo phương pháp
tỷ lệ cho các đảng phái chính trị. Thành phần bầu cử được quy định chi
tiết trong Chương VIII Bầu cử và Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

Đảng chính trị hoạt động tại Hạ viện


Ở Bắc Âu, mỗi đảng chính trị tại Hạ viện Quốc hội thường lập một «Hội
đồng quản lý đảng» được lãnh đạo bởi một Chủ tịch (của đảng). Người
lãnh đạo này có thể được gọi là «Chủ tịch đảng nghị viện». Các Hội đồng

115
quản lý đảng có những quyết định ảnh hưởng đến vị trí của các đại diện
trong các Ủy ban Quốc hội. Họ điều phối công việc của các thành viên
trong các ủy ban khác nhau và bảo đảm các thành viên đáp ứng việc biểu
quyết đúng đắn.

Về việc thành lập đảng chính trị, tham khảo § 55, § 142 và Pháp lệnh bầu
cử 2019/QHVNDC.

§ 62. [Thượng viện]


(1) Thượng viện gồm 63 Thượng nghị sĩ, đại diện nhân dân từ các
tỉnh/thành. Thượng nghị sĩ đại diện dân cư và tỉnh mình đang cứ
trú.
(2) Tất cả người Việt Nam đủ 30 tuổi trước ngày bầu cử có đầy đủ
điều kiện được ghi danh ứng cử.
(3) Thượng nghị sĩ được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực
tiếp, bình đẳng, và được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín.

Thượng viện (Thượng Nghị viện) của Quốc hội, gồm 63 đại biểu, đại diện
dân cư từ các tỉnh thành, được bầu trực tiếp từ các đơn vị bầu cử. Phương
pháp này có thể thay thế cho thành phần «tự ứng cử» ở các cuộc bầu cử
trước đây. Các ứng cử đại biểu Thượng viện có thể tranh cử độc lập, tự
ứng cử hoặc được các tổ chức và cơ quan giới thiệu.

Khi soạn thảo Hiến pháp, việc chọn một số lượng đại biểu Thượng viện
đã được đắn đo, cân nhắc, song 63 ghế đã được thiết lập theo đơn vị hành
chính cấp tỉnh. Việc thay đổi số lượng ghế đại biểu Thượng viện có thể
được thực hiện cùng với khi Hiến pháp lâm thời này phúc quyết sửa đổi,
bổ sung để thích ứng hơn cho Việt Nam.
Ngoài việc bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp,
bình đẳng và phiếu kín, cuộc bầu cử Thượng viện được thực hiện theo
phương pháp đa số. Thành phần bầu cử được quy định chi tiết trong
Chương VIII Bầu cử và Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

Ý tưởng về Thượng viện Việt Nam


Thượng viện là cơ quan dân cử trực tiếp từ các khu vực địa phương, đơn
vị bầu cử cấp tỉnh, thường có tư tưởng chính trị trong các lĩnh vực cải
cách địa phương và phần đông được xem là các nhà cải cách với chủ
trương chính là thực hiện các chính sách cải cách nông thôn, các thị trấn
và hiện đại hóa khu vực địa phương, giải quyết các vấn đề của khu vực,
đấu tranh cho các giá trị và những thách thức của cộng đồng nông dân và

116
nông nghiệp, tạo sự liên kết giữa các khu vực địa phương và bình đẳng
hóa, phát huy truyền thống và văn hóa đặc sắc của khu vực.

Thượng viện thường đưa ra tiếng nói cho quyền lợi của cộng đồng nông
thôn, có các chính sách chuyên môn về địa phương, tích cực hoạt động
nâng cấp với lập trường hiện đại hóa khu vực, không phân biệt giai cấp.

Thượng viện cũng làm việc gần gũi với đảng chính trị có cùng hệ tư tưởng
và những chính sách phù hợp để thực hiện các chương trình cải cách khu
vực địa phương và các chính sách cải cách dân chủ. Thực hiện nhu cầu
đoàn kết bằng cách khuyến khích thúc đẩy một phong trào mới, những
thay đổi mới, để tạo ra một sự thay thế mới cho lãnh vực không tồn tại.

Các nhà cải cách đi tìm một đất nước mới, một đất nước có thể được định
nghĩa như là «Một nước dân chủ, công bằng, được nhấn mạnh bởi sự bền
vững của môi trường, khả năng phát triển kinh tế, nhận trách nhiệm xã hội
và công nhận sự bình đẳng và tính khác biệt của mọi công dân». Một đất
nước mới bao gồm những chính sách phù hợp cho các dân tộc thiểu số và
một Thượng viện mới để giải quyết vấn đề tha hóa khu vực. 

Một Thượng viện hoạt động mạnh mẽ sẽ trở thành một cơ quan quyền lực
trong các quyết định chính trị, hợp tác chặt chẽ với các Tỉnh trưởng và
Hội đồng tỉnh là những bước đầu để thu hút sự ủng hộ của khối nông dân
và lãnh vực công nghiệp.

§ 63. [Cấm đóng nhiều vai trò, chức vụ]


(1) Không ai một lúc vừa là Hạ nghị sĩ vừa là Thượng nghị sĩ.
(2) Khi đảm nhiệm chức vụ nghị sĩ, không ai được nắm giữ chức vụ
khác, hoặc có những hoạt động ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên
và ngân khố quốc gia.
(3) Vi phạm quy định cấm ở khoản (1) và (2), nghị sĩ được đưa ra
xem xét trước Tòa án Quốc gia. Cơ quan tư pháp có trách nhiệm
xét xử việc tước nhiệm vụ nghị sĩ.

§ 64. [Công chức chính phủ - hành chính]


(1) Công chức làm việc tại các cơ quan chính phủ, thư ký quốc gia và
các cố vấn chính trị không được bầu làm đại biểu. Điều tương tự
cũng áp dụng cho các thành viên của tòa án và các công chức làm
việc cho các dịch vụ ngoại giao, sứ quán và lãnh sự.

117
(2) Các công chức của chính phủ, thư ký quốc gia, cố vấn chính trị
tại văn phòng chính phủ không được hội họp ngang hàng như đại
biểu tại Quốc hội. 

§ 65. [Nhiệm kỳ]


(1) Nhiệm kỳ Quốc hội Việt Nam Dân Chủ được ấn định là 4 năm.
Nhiệm kỳ Hạ viện và Thượng viện là 4 năm. Nhiệm kỳ không
được phép kéo dài, trừ trường hợp có chiến tranh.
(2) Cuộc bầu cử Hạ viện và Thượng viện được thực hiện theo lệnh
của Tổng thống Việt Nam ban hành không chậm hơn 60 ngày
trước khi kết thúc nhiệm kỳ của Quốc hội, và Tổng thống ra lệnh
tổ chức cuộc bầu cử vào ngày nghỉ trong thời hạn trước khi nhiệm
kỳ 4 năm mới bắt đầu.

§ 66. [Hội nghị]


(1) Hội nghị của hai viện Quốc hội được triệu tập vào ngày thứ Hai
đầu tiên của tháng Ba và tháng Chín.
(2) Quốc hội không được tổ chức trừ khi có đa số thành viên có mặt.
Các quyết định về dự thảo Hiến pháp phải có mặt ít nhất hai phần
ba số đại biểu của mỗi viện.
(3) Tổng thống có thể yêu cầu triệu tập Quốc hội khi cần thiết.
(4) Khi Quốc hội được khai mạc, Tổng thống phát biểu qua một bài
diễn văn, trình bày quan điểm của mình về tình trạng quốc gia và
những xu hướng Quốc hội cần chú ý và quan tâm.
(5) Thủ tướng và các Bộ trưởng được quyền họp mặt ngang hàng với
các thành viên Quốc hội, được tham gia đàm phán công khai cũng
như kín.

Hội nghị của hai viện Quốc hội, còn được gọi Hội nghị Quốc gia, được
triệu tập vào ngày thứ Hai (Monday) đầu tiên của tháng Ba (March) và
tháng Chín (September). Hội nghị Quốc gia quy định trong Hiến pháp là
cuộc đại tập hợp các đại biểu được nhân dân chính thức tuyển chọn qua
các cuộc bầu cử, trên nền tảng tự do và dân chủ, được diễn ra hai lần vào
ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Ba và tháng Chín hàng năm, thời lượng
hội họp được quy định trong luật.

Hội nghị Quốc gia là sự kiện quan trọng trong một chính trường có tính đa
dạng đại diện từ các hệ tư tưởng chính trị, hoạch định các mục tiêu và các
chính sách phát triển đất nước toàn diện và nguyện vọng của nhân dân cho
thời kỳ dài cũng như ngắn hạn.

118
Hội nghị Quốc gia tại điều khoản này thường được thực hiện ở các nước
dân chủ đa đảng. Kinh phí liên quan đến việc tổ chức hội nghị như vậy
được sử dụng từ ngân sách quốc gia. Kinh phí cho các việc tổ chức các
hội nghị của đảng thường là vấn đề riêng của đảng đó, không liên quan
đến ngân sách quốc gia, ngoại trừ khoản tài trợ của quốc gia được quy
định trong luật.

Ở Việt Nam, Hội nghị Quốc gia nêu trên có thể nhìn thấy qua «Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam», bởi Việt Nam chưa có chính thể đa đảng phái
chính trị, và do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò là đảng duy
nhất lãnh đạo đất nước, một nhà cầm quyền mà thế giới coi là cơ chế độc
tài, hạn chế các thành phần tham gia trong xã hội và đời sống chính trị của
người dân và các tổ chức độc lập khác.

Là công dân Việt Nam, chúng ta có nhiệm vụ trợ giúp Đảng Cộng sản Việt
Nam trở thành nhiều đảng phái, để hợp thức hóa vào chế độ đại nghị, đa
nguyên và đa đảng chính trị của nước Việt Nam mới, để các đảng viên ưu
tú nhất thực sự có được điều kiện ra tranh cử tự do và công bằng trong xã
hội Việt Nam, để có dịp trổ tài, phát huy tư tưởng chính trị cũng như các
chính sách mới cho đất nước. Được như vậy, đất nước chúng ta mới ổn
định và phát triển.

§ 67. [Chủ tịch Quốc hội]


(1) Chủ tịch Quốc hội là đại biểu, thành viên của Quốc hội. Nhiệm kỳ
Chủ tịch Quốc hội là 4 năm
(2) Mỗi viện trong Quốc hội bầu ra một Chủ tịch, Chủ tịch Hạ viện
và Chủ tịch Thượng viện, với sự chấp thuận của 2/3 số thành
viên của mỗi viện. Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện bổ
nhiệm 2 Phó chủ tịch và 2 thư ký.
(3) Chủ tịch Thượng viện chủ trì các kỳ họp chung của hai viện và
các phiên họp thuộc viện mình tại Quốc hội, và đảm trách các
nhiệm vụ quy định trong Hiến pháp.
(4) Chủ tịch Hạ viện chủ trì các cuộc họp thuộc viện mình tại Quốc
hội, và đảm trách các nhiệm vụ quy định trong Hiến pháp.
(5) Chủ tịch Quốc hội thuộc ban quản trị Quốc hội, không có quyền
bỏ phiếu.

119
Quốc hội lưỡng viện được lãnh đạo bởi một đoàn chủ tịch, gồm Chủ tịch
Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện, và các Phó Chủ tịch. Nhiệm vụ của
Chủ tịch hai viện Quốc hội được quy định (§§ 67-70) trong Hiến pháp.

Thủ tục lập pháp của Quốc hội được quy định tại Mục II Tiến trình lập
pháp. Các chức năng quan trọng nhất về các quyết định chính trị trong
Quốc hội là các Ủy ban chuyên môn và các nhóm đảng chính trị. Các
công việc hầu hết được thực hiện trong các ủy ban, chẳng hạn như Ủy ban
Giáo dục và Nghiên cứu hoặc Ủy ban Tư pháp.

§ 68. [Nhiệm vụ Chủ tịch]


(1) Chủ tịch mỗi viện thiết lập các chương trình nghị sự, chủ trì các
cuộc họp và đề xuất trong bối cảnh thời gian hội thảo và thi hành
các lệnh biểu quyết, bảo đảm xử lý các trường hợp của Quốc hội
diễn ra theo quy định của Hiến pháp.
(2) Các cuộc họp Quốc hội đều phải có bản tường trình và báo cáo
trung thực.
(3) Mỗi viện thông tin về công việc của mình và thông báo theo định
kỳ các công việc và các kết quả biểu quyết trên tờ nội san và cổng
thông tin điện tử Quốc hội.

Nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội là chủ tọa các nghị viện của cơ quan lập
pháp, chủ trương xây dựng một chính sách pháp luật, bằng cách quy định
luật và xác định ngân sách quốc gia diễn ra theo quy định của hiến pháp.

Các đề xuất ngân sách và hầu hết các dự luật bắt nguồn từ Chính phủ, và
Quốc hội thường chỉ thực hiện những thay đổi nhỏ đối với những điều
này. Vì sau khi bầu Thủ tướng và thành lập Hội đồng Chính phủ, Chính
phủ rời khỏi Quốc hội và trở thành cơ quan Hành pháp. Với hình thức này,
Chính phủ thực ra là một cơ quan điều hành cho Quốc hội, điều này rất
bình thường ở các quốc gia dân chủ đa đảng trong chế độ nghị viện.

Ngoài ra, Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ kiểm soát chủ yếu bằng cách
thông qua các giao thức và báo cáo của các bộ ngành và các cơ quan chính
trị. Quốc hội còn dùng các biện pháp truy vấn trong các cuộc điều trần để
làm sáng tỏ nhiều sự việc. Hơn nữa, Quốc hội còn giám sát Chính phủ và
các cơ quan chính trị qua báo cáo từ các cơ quan và các hội đồng bổ trợ
độc lập như Viện Kiểm toán Quốc gia, Hội đồng Thanh tra Quốc gia, Hội
đồng Nhân quyền và Hội đồng Truyền thông Quốc gia.

120
Quốc hội có thể theo dõi việc kiểm soát bằng nhiều loại hình thức đối
với Chính phủ, có thể chỉ trích Chính phủ, có thể khẳng định Chính phủ
phải chịu trách nhiệm bằng cách thông qua một cuộc bỏ phiếu bất tín
nhiệm (§107) hoặc có thể đưa các thành viên Chính phủ vào vòng pháp
lý. Thông thường, Ủy ban Giám sát và Hiến pháp của Quốc hội là cơ quan
quan trọng liên quan đến các nhiệm vụ kiểm soát của Quốc hội.

Quốc hội cũng có nhiệm vụ thông qua việc sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa
đổi Hiến pháp được quy định tại Chương X.

§ 69. [Nguyên tắc hoạt động]


(1) Các quyết định của Quốc hội được thông qua trên nguyên tắc của
kết quả đa số phiếu ủng hộ và tán thành, trừ khi Hiến pháp có quy
định khác. Quyết định của Quốc hội sẽ vô hiệu lực nếu không đủ
đa số thành viên có mặt và thông qua.
(2) Các kỳ họp tại Hạ viện và Thượng viện được tổ chức công khai.
Các kỳ họp có thể thực hiện kín, theo đề nghị của 1/10 thành viên
của mỗi viện hoặc theo đề nghị của Chính phủ.

Chức năng chính của Quốc hội được định chế vào các nguyên tắc hoạt
động trong cơ quan lập pháp, như hội thảo, thông qua các dự án luật (§
76) và thực hiện tiến trình lập pháp (§ 77) theo quy định của Hiến pháp.

Quốc hội là một chính trường quan trọng cho các cuộc tranh luận chính
trị. Quốc hội phản ánh tiếng nói và nguyện vọng của người dân mà họ
thể hiện trong ngày bầu cử, và thúc đẩy các quốc sách diễn tiến cụ thể.
Quốc hội thực hiện điều này đặc biệt bằng các quyết định lập pháp, bằng
cách thông qua ngân sách quốc gia và kiểm soát các quyết định mang tính
quyền lực của Chính phủ.

§ 70. [Kiểm tra thành viên và tước ghế]


(1) Hai viện có trách nhiệm kiểm tra tư cách thành viên của viện
mình và các nguyên nhân không đáp ứng các điều kiện và tiêu
chuẩn đại biểu.
(2) Luật xác định trường hợp tước ghế nghị sĩ.

§ 71. [Quyền và nghĩa vụ đại biểu]


(1) Quyền và nghĩa vụ của đại biểu trong khi thực hiện nhiệm vụ, đại
diện nhân dân được bảo đảm, không phải chịu sự ràng buộc nào.
(2) Đại biểu Quốc hội dấn thân và làm việc trong 4 năm liên tiếp.

121
§ 72. [Quyền yêu cầu hiện diện và trình bày]
(1) Quốc hội có quyền yêu cầu sự có mặt của bất cứ thành viên nào
của Chính phủ.
(2) Thành viên Chính phủ khi được yêu cầu hiện diện tại Quốc hội,
có nghĩa vụ tham dự các phiên họp, trả lời câu hỏi và trình bày
quan điểm cũng như nguyện vọng.

§ 73. [Miễn trách nhiệm]


(1) Đại biểu không phải chịu trách nhiệm trong khi thực hiện chức
năng của mình tại Quốc hội. Đại biểu bị khởi kiện chỉ khi có lệnh
của Tòa án.
(2) Đại biểu không thể bị khám xét thân thể hay nhà ở, không bị tước
tự do cá nhân hoặc bắt giam, trừ trường hợp đại biểu bị bắt quả
tang vi phạm luật, việc giam giữ là cần thiết để bảo đảm chứng cớ
cho việc tố tụng. Trong trường hợp bắt giam, Nghị viện trực thuộc
được thông báo ngay.
(3) Nguyên tắc giam giữ và thủ tục xem xét hình sự đối với đại biểu
sẽ do luật định.

§ 74. [Lương bổng và tuổi hoạt động]


(1) Đại biểu Quốc hội được nhận lương định kỳ phù hợp và khoản
thù lao từ Ngân khố Quốc gia cho các chi phí đến Quốc hội và từ
Quốc hội về đến nhà của mình.
(2) Chính sách lương bổng cho các thành viên thuộc cơ quan công
quyền, công chức, viên chức, công nhân viên được trả theo vị trí
việc làm, chức danh, chức vụ lãnh đạo và được điều chỉnh hàng
năm với sự thỏa hiệp giữa chính quyền và các nghiệp đoàn § 46.
(3) Thành viên Quốc hội, thành viên Chính phủ, Tổng thống, Thẩm
phán, các công chức, viên chức và công nhân viên đảm trách
nhiệm vụ và hoạt động cho đến tuổi tối đa 67. Điều khoản này và
ngoại lệ được quy định trong luật.

Mục II. Tiến trình lập pháp

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân, có chức năng chính là lập
pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước.

122
Pháp luật còn là các quy tắc pháp lý được quy định bởi các quyết định của
cơ quan Lập pháp hoặc bởi các cơ quan có thẩm quyền. Việt Nam trong
tương lai, Quốc hội là cơ quan lập pháp và các đạo luật chính thức được
thiết lập theo quy định của Hiến pháp.

Trong thể chế đại nghị, các đề xuất, dự luật chủ yếu xuất phát từ Chính
phủ, nhưng cũng có thế xuất phát từ đại biểu Quốc hội, hoặc trực tiếp từ
công dân và các cơ quan, tổ chức. Các dự án luật (§76) chính thức được
thảo luận và thông qua (§ 77) bởi Quốc hội lưỡng viện. Tất cả các đạo luật
được thông qua hai lần bởi Quốc hội, ít nhất ba ngày giữa hai lần quyết
định để luật được thống nhất thông qua. Sau đó, luật pháp được Tổng
thống ký ban hành (§ 78).

Xây dựng một chính sách pháp luật tốt, ổn định và có thể dự đoán (able to
be predicted) là việc ưu tiên hàng đầu của ngành lập pháp, ngăn chặn pháp
luật ban hành tùy tiện và thúc đẩy các chính sách luật tốt nhất cho Việt
Nam.

§ 75. [Quyền lập pháp]


(1) Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội được nhân dân ủy nhiệm theo
quy định của Hiến pháp. Quốc hội có quyền lập pháp tuyệt đối
trong các lãnh vực như sau:
a) Quy định, sửa đổi và bãi bỏ luật;
b) Quy định Ngân sách quốc gia, phân bổ ngân sách để trang
trải các chi phí công;
c) Áp đặt thuế phí, đánh thuế, chính sách tổng kết thuế vụ và
kê khai tài sản, các quyết định trong lãnh vực thuế phí;
d) Bảo vệ Hiến pháp Việt Nam, nền tự do dân chủ, sự tồn
tại; các nguyên tắc chung; các quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân; trật tự và an ninh xã hội;
e) Tổ chức và điều hành các cơ quan quyền lực của quốc
gia: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư
pháp;
f) Tổ chức và điều hành các hội đồng bổ trợ quốc gia, các cơ
quan độc lập ở trung ương và các tổ chức xã hội dân sự;
g) Bầu cử quốc hội và địa phương các cấp; trưng cầu dân ý
toàn quốc;
h) Các quan hệ và quy chế thành lập đảng chính trị;

123
i) Tổ chức tiền tệ quốc gia và giám sát; bảo vệ và cân bằng
các nguồn kinh tế, cạnh tranh, hệ thống ngoại hối và tiết
kiệm;
j) Tổ chức, quản lý tài chính, giám sát chính phủ và các đơn
vị địa phương các cấp;
k) Hiệp định và công ước quốc tế, quan hệ quốc tế và chính
sách đối ngoại;
l) Quy chế pháp lý về xuất cảnh và nhập cảnh, hộ chiếu,
chính minh thư, di dân và dẫn độ, tự do đi lại;
m) Quy chế công dân, quốc tịch, đăng ký thường trú và tạm
trú;
n) Quan hệ và các vấn đề về tôn giáo;
o) Quốc phòng, lực lượng vũ trang, quân sự và an ninh quốc
gia; các chức năng phòng thủ và ngăn chặn phản gián,
gián điệp chính trị và công nghiệp;
p) Hải phận, hàng hải và hải quan, cảng, chính sách phòng
thủ trên biển;
q) Quy chế đánh cá, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ khí tượng,
định vị, định hướng nội địa gồm các vùng biển thuộc chủ
quyền;
r) Hàng không và không vận quốc gia; cảng và sân bay;
s) Đường sắt và cao tốc thông xuyên quốc gia, liên tỉnh;
t) Thống kê dữ liệu các đơn vị trong mọi lãnh vực của quốc
gia;
u) Bưu chính và viễn thông;
v) Bảo vệ bản quyền, quyển sở hữu, quyền tác giả và xuất
bản;
w) Khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản
và các nguồn tài nguyên trong lòng đất, tài nguyên dưới
biển; các công trình thủy điện, năng lượng tự nhiên;
x) Sở hữu, thừa kế, chuyển nhượng và giao dịch nhà đất, đất
đai, trang trại, các loại bất động sản; quy định và hướng
dẫn liên quan đến vay vốn và cầm cố;
y) Quy hoạch và phòng ngừa lạm dụng kinh tế, áp đảo thị
trường;
z) Thực phẩm, thực vật và động vật; quy chế sản xuất đồ ăn
và thức uống, bảo đảm thực phẩm an toàn tiêu thụ; quy
chế chăn nuôi, bảo vệ và phòng ngừa dịch bệnh; nuôi
trồng thủy sản và sức khỏe của cá, trồng trọt và phương

124
pháp trừ sâu; kiểm soát biên giới và biện pháp ngăn chặn
du nhập bất hợp pháp;
aa) Kế hoạch và xây dựng, quy hoạch sử dụng đất;
ab) Ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng công nghiệp và đầu tư,
ngân hàng kiến thiết và phát triển, các tổ chức tín dụng
đất đai và công nghiệp.

(2) Quyền lập pháp song trùng:


a) Tổ chức, điều hành các tòa án và cơ quan tư pháp; tư vấn
pháp lý, thủ tục tố tụng, chức năng thẩm phán và công tố
viên;
b) An sinh xã hội, tiêu chuẩn phúc lợi cơ bản;
c) Bồi thường chiến tranh và thiệt hại trong thời cộng sản;
hỗ trợ thương binh, nạn nhân và thân nhân của họ trải qua
các thời kỳ chiến tranh;
d) Nghĩa trang, bia mộ, cải cách bia mộ và hợp thức hóa;
e) Lao động, bao gồm tạo việc làm và bảo vệ, tổ chức doanh
nghiệp, tuyển dụng nhân công, sức khỏe và an toàn nghề
nghiệp;
f) Các quyền và nghĩa vụ của công chức làm việc trong các
cơ quan công quyền các cấp, thẩm phán; quy định về vị
trí, chức vụ nghề nghiệp, mức lương và lương hưu;
g) Giáo dục, tự trị của các tổ chức giáo dục, tài trợ giáo dục
và đào tạo; tạo điều kiện tốt nghiệp, cấp chứng chỉ và
bằng tốt nghiệp; dịch vụ sau khi tốt nghiệp và thị trường
làm việc;
h) Nghiên cứu khoa học, công nghệ, công nghiệp và thúc
đẩy nghiên cứu phát triển trong các lĩnh vực sản xuất và
xuất khẩu; quy định và hỗ trợ nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp, ngoài khơi cũng như ven biển, bảo quản sản
phẩm và bảo vệ môi trường trong các ngành;
i) Cứu trợ thiên tai;
j) Quy định hoạt động của ngành cảnh sát, cảnh sát hình sự
và cảnh sát dân sự;
k) Bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, rừng, tài nguyên thiên
nhiên và di sản văn hóa;
l) Truyền thông, bao gồm phát thanh, truyền hình và mạng
lưới xã hội;
m) Đường bộ và giao thông vận tải, quy chế xây dựng và
bảo trì trong lãnh vực giao thông, thỏa hiệp giữa các khu

125
vực; quy chế thu phí giao thông, và các dự án đầu tư giao
thông và quy định thực hiện;
n) Quy định cung cấp, phân phối và sử dụng năng lượng;
phân phối và sử dụng các nguồn nước;
o) Tổ chức, quản trị tài chính công và hệ thống thuế phí; tổ
chức giám sát các cơ quan hành chính, và các dịch vụ tại
địa phương các cấp;
p) Xử lý chất thải, đề cao trách nhiệm môi trường, giảm
tiếng ồn của giao thông, tổ chức các hoạt động ngăn chặn
ô nhiễm và xả thải.

Hiến pháp 2021 quy định Quốc hội có thẩm quyền lập pháp từ khoản (1)
đến khoản (2). Quyền này được nhân dân ủy nhiệm cho Quốc hội theo
quy định của Hiến pháp, tức là được giao phó trách nhiệm sau mỗi cuộc
bầu cử Quốc hội.

Tại khoản (2) quyền lập pháp song trùng của cơ quan lập pháp trung ương
(Quốc hội) và cơ quan lập pháp địa phương (Hội đồng tỉnh). Các đạo luật
được thiết lập ở cấp địa phương phải tương ứng và trong khuôn khổ pháp
luật quốc gia (trung ương), không được phép vượt quá cơ sở ấn định trong
Hiến pháp.

Đề xuất các đạo luật liệt kê tại khoản (1) và khoản (2) là những lĩnh vực
cần thiết cho một đất nước mau sớm ổn định và phát triển. Ngoài ra, các
đề xuất tại khoản (2) luật song trùng, tạo cho các cơ quan chính quyền địa
phương trở thành những đơn vị hành chính tự trị, tự quản.

§ 76. [Dự án luật]


(1) Dự án luật được đệ trình đến Quốc hội chủ yếu phát xuất từ Chính
phủ - Bộ ngành phụ trách. Cùng một dự luật có thể bao gồm cả
hai đề xuất lập pháp và nghị quyết.
(2) Đại biểu Quốc hội có thể đệ trình dự luật và theo cùng quy tắc và
thủ tục.
(3) Trước khi trình ra Quốc hội, các dự luật đều phải được điều tra
kỹ lưỡng. Trong quá trình điều tra, sự việc được gửi đến các chức
năng nghiên cứu để tham khảo, nhận ý kiến đóng góp từ các nhóm
chuyên gia và các cơ quan chuyên ngành.
(4) Trường hợp một đạo luật có tính tổng quát toàn diện thì phải phối
hợp một số chuyên gia đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật, và một
ủy ban có nhiệm vụ cung cấp các ý kiến cần thiết cho đề xuất.

126
(5) Trường hợp đạo luật có những thay đổi trọng đại hoặc những vấn
đề nhất định, Chính phủ có thể gửi thông báo đến Quốc hội để
nhận quan điểm và bình luận trước khi luật được cụ thể soạn thảo,
sửa đổi.
(6) Nhân dân, cơ quan hay tổ chức có thể đệ trình dự luật đến Quốc
hội. Các dự luật phải được soạn thảo thành các điều khoản và ý
kiến đóng góp từ các chủ thể liên quan, nhóm chuyên gia và có
chữ ký của ít nhất 100.000 cử tri.

Trong thể chế đại nghị, các đề xuất, dự án luật chủ yếu xuất phát từ Chính
phủ, nhưng cũng có thể đệ trình từ đại biểu Quốc hội, hoặc trực tiếp từ
công dân và các cơ quan, tổ chức.

Ở Na Uy, công việc chính về lập pháp trước tiên được giao cho một ủy
ban chuyên môn chuẩn bị cuộc điều tra và báo cáo xuất bản của «Cơ quan
báo cáo điều tra công cộng của Na Uy». Trong báo cáo trình bày tổng
quan về nhiệm vụ, giải thích về tình hình luật pháp hiện nay, tình hình luật
pháp ở các quốc gia khác, sau đó đánh giá về các quy định mới và các quy
tắc có thể hoạt động.
Về tham vấn, bản điều tra và báo cáo của «Cơ quan báo cáo điều tra công
cộng của Na Uy» được giao cho Chính phủ (Bộ ngành liên quan). Sau
đó, đề xuất được đưa ra lấy ý kiến các
​​ bộ, ngành, tổ chức và những người
khác có nhu cầu góp ý cho đề xuất.

Việc soạn thảo các dự án luật là một trong những quy trình trọng tâm của
hệ thống chính trị. Quá trình lập pháp tự nó được quy định trên các quy
tắc phân tán cho thấy tầm ảnh hưởng đối với ngành pháp luật. Do đó, ở
các nước dân chủ, người ta quan tâm hết sức đến việc tạo lập một bản đồ
phân tán để phản ánh thực tế đối với việc thiết kế luật một cách đa dạng
và thực tế. Người ta quan tâm đến toàn bộ quá trình, từ sáng kiến đầu​​ tiên
cho đến khi quyết định lập pháp và việc thực thi luật. Điều nữa cũng được
quan tâm vì các đạo luật chính thức phải được bổ sung bởi các quy tắc
chi tiết, và thường được kết hợp với việc thực thi nhất định. Với sự tham
gia rộng rãi trong xã hội, trực tiếp hay gián tiếp, sáng kiến trong
​​ các dự
án pháp luật được mở rộng. Các dự luật có thể đến từ các cơ quan hành
chính, đặc biệt là các bộ, nhưng cũng có những cá nhân và các tổ chức
quan tâm đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình soạn thảo.

Để nâng cao tính dân chủ và tạo điều kiện cho nhân dân, cơ quan hay tổ
chức quan tâm có quyền đệ trình dự luật đến Quốc hội. Các dự luật phải

127
được soạn thảo thành các điều khoản và ý kiến đóng góp từ các chủ thể
liên quan, nhóm chuyên gia và có chữ ký của ít nhất 100.000 cử tri, theo
khoản (6). Đây là một gợi mở chiếu theo một số hiến pháp trên thế giới,
có thể được xem là vừa phải và phù hợp với điều kiện tại Việt Nam.

§ 77. [Trình tự lập pháp]


(1) Dự án luật trước tiên được đệ trình đến Quốc hội, được tiếp nhận
bởi một Ủy ban phụ trách chuyên ngành tại Quốc hội. Ủy ban có
trách nhiệm thảo luận và đệ trình dự luật cũng như các đề xuất
nghị quyết ra trước Quốc hội. Cũng như Chính phủ, Ủy ban mời
các chuyên gia và các nhóm chuyên môn trực tiếp tham khảo ý
kiến và dự đoán những hậu quả.
(2) Hạ viện: Quy trình lập pháp cho các dự án luật từ Ủy ban được
xem xét tại Hạ viện. Nguyên tắc chính là dự luật phải được xem
xét qua hai vòng với khoảng thời gian ít nhất 3 ngày. Xem xét lần
thứ ba thiết yếu nếu dự luật không được chấp thuận trong lần hai.
Quy trình lập pháp được tiến hành như sau:
a) Phiên họp thứ nhất, dự luật từ Ủy ban phụ trách tại Hạ
viện được đưa ra thảo luận và biểu quyết vào cuối phiên
họp. Cuộc bỏ phiếu được kết thúc với sự xác định «danh
hiệu và tổng thể của đạo luật». Đa số phiếu thành viên tán
thành mới có thể tiến hành qua giai đoạn thứ hai.
b) Phiên họp thứ hai, dự luật được đưa ra bàn thảo sau phiên
họp thứ nhất ít nhất 3 ngày, và các ý kiến thảo luận lần
trước có thể đúc kết tại đây. Nếu dự luật đã được chấp
thuận trong phiên họp đầu tiên thì cũng được thông qua
và kết thúc tại phiên họp này. Khi đã thông qua tại Hạ
viện dự luật được chuyển tới Thượng viện để xem xét và
biểu quyết.
c) Trường hợp phiên họp lần thứ hai tại Hạ viện đi đến
những kết quả khác với lần thứ nhất thì Hạ viện giải quyết
theo một trong hai cách thức 1) Các nhận xét được ghi
nhận và thông qua với những sửa đổi 2) Dự luật bị bác
bỏ. Quyết định trong phiên họp lần thứ ba được thực hiện
với đa số phiếu thông qua.
(3) Thượng viện: Với đa số thành viên có thể thông qua dự luật mà
không có sửa đổi, thông qua với sửa đổi hoặc phủ quyết toàn bộ
trong thời hạn 7 ngày sau khi đệ trình dự luật. Thượng viện không
có phản đối thì dự luật được thông qua. Khi quá trình lập pháp đã

128
hoàn thành thì Chủ tịch Hạ viện theo luật định gửi văn bản và dự
luật đã thông qua đến Tổng thống để ký ban hành.
(4) Thủ tục xem xét và phê chuẩn các dự luật luôn được áp dụng theo
quy định của Hiến pháp, những vấn đề hợp hiến và trên cơ sở
pháp lý, bao gồm phê chuẩn các hiệp ước quốc tế, phê chuẩn ngân
sách và tài chính, phê chuẩn các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý.

Quy tắc trình tự lập pháp hay quy trình lập pháp trong mô hình Quốc hội
lưỡng viện, được thiết kế theo tính chất, mức độ khả thi và tốt nhất có thể.
Tuy nhiên, đại diện đa dạng từ Thượng viện và Hạ viện thường có những
quan điểm và nhận định khác nhau về các vấn đề trước khi đưa ra xem
xét. Do đó, phần lớn kết quả đã rõ và được thực hiện trong các ủy ban
trước khi đưa ra tập thể và quá trình xử lý ở giai đoạn cuối. Để làm sáng
tỏ và minh bạch các nhiệm vụ thực hiện trong Quốc hội, thông thường
thông tin được phổ biến thông qua báo chí, các kênh truyền thông và
mạng xã hội. Đây là một phần quan trọng trong quá trình hoạt động tiếp
thị của các chính trị gia cũng như các đảng phái chính trị.

§ 78. [Công bố dự án luật]


(1) Sau khi kết thúc thủ tục lập pháp tại Quốc hội, dự án luật được đệ
trình lên Tổng thống để ký ban hành. Pháp luật được chính thức
phê duyệt khi có chữ ký của Tổng thống và chữ ký phó của Thủ
tướng.
(2) Luật được ban hành ngay sau khi công bố và có hiệu lực vào ngày
thứ 1. đầu tháng. Trường hợp công bố một đạo luật khẩn cấp thì
hiệu lực và thời hạn được xác định ở trong luật.
(3) Trường hợp vì lý do nào đó Tổng thống không thể ban hành theo
thời hạn, dự luật được Chủ tịch Thượng viện ban hành.

§ 79. [Ban hành quy định dưới luật]


(1) Khi đạo luật mới đã được phê duyệt và công bố, Chính phủ được
ủy quyền ban hành các quy định dưới luật thông qua các văn bản
hướng dẫn luật và có trách nhiệm đưa ra áp dụng.
(2) Thành viên Quốc hội có thể đưa ra ý kiến và trình Chính phủ các
dự thảo văn bản hướng dẫn luật với yêu sách và mong muốn của
mình.

129
§ 80. [Dự luật khẩn cấp]
(1) Chính phủ có thể đệ trình một dự án luật được ưu tiên xem xét vì
tính khẩn cấp, ngoại trừ các dự luật về thuế phí, hoặc dự thảo về
các bộ luật.
(2) Lập pháp liên quan đến một dự luật được xác định là khẩn cấp
thì thủ tục xem xét tại Quốc hội phải được rút ngắn, thông qua
trong vòng thời hạn là 7 ngày, và được Tổng thống hoặc Chủ tịch
Thượng viện ký ban hành không chậm hơn 3 ngày.

§ 81. [Pháp lệnh]


(1) Trong trường hợp khẩn cấp và đặc biệt, Tổng thống có thể ký ban
hành các pháp lệnh tạm thời hoặc sắc lệnh liên quan đến quốc
phòng, tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn cấp trên một
vùng miền hay toàn lãnh thổ, và trong trường hợp bảo vệ an toàn
mạng sống của nhân dân. Các pháp lệnh phải được đệ trình đến
Quốc hội để chuyển đổi thành luật, tu chính hoặc bãi bỏ. Quốc
hội triệu tập phiên họp trong vòng 30 ngày để thông qua, kể từ khi
một pháp lệnh như vậy được đệ trình.
(2) Một pháp lệnh khẩn cấp, tạm thời sẽ không có hiệu lực nếu không
được trình ra trước Quốc hội trong thời hạn 30 ngày sau khi công
bố, phát hành. Quốc hội có thể quy định pháp lý phát sinh liên
quan đến các pháp lệnh.

Pháp lệnh tại điều khoản này chủ yếu xuất phát từ Chính phủ (cơ quan
hành pháp), có thẩm quyền lập pháp hạn chế ở chỗ là có thể cấp các pháp
lệnh, sắc lệnh khẩn cấp, tạm thời khi Quốc hội không họp, hoặc có thể
yêu cầu Quốc hội ưu tiên xem xét một dự luật có tính chất khẩn cấp. Các
pháp lệnh, sắc lệnh đều phải được Tổng thống chính thức ký ban hành
(§78). Theo nguyên tắc pháp lý, Chính phủ có quyền hợp pháp để áp đặt
một nghĩa vụ hoặc một biện pháp cấp thiết đối với công dân. Đây là điều
tương đối tốt khi chúng ta thấy rằng pháp luật được ủy quyền một cách rõ
ràng trong một thời hạn.

§ 82. [Trưng cầu dân ý]


(1) Việc tổ chức trưng cầu dân ý quốc gia thuộc thẩm quyền Hạ viện
với đa số phiếu thành viên có mặt. Nếu Hạ viện không họp, việc
tổ chức được Tổng thống thực hiện với sự chấp thuận của đa số
phiếu Thượng viện.
(2) Trưng cầu dân ý có thể được tiến hành để bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ đạo luật, hoặc một sắc lệnh có giá trị như luật, nếu có

130
1.000.000 cử tri hoặc 1/5 số thành viên Quốc hội hoặc 10 Hội
đồng tỉnh yêu cầu.
(3) Trưng cầu dân ý về các đạo luật ngân sách, thuế phí, hoặc luật phê
chuẩn các hiệp ước quốc tế là ngoại lệ, không thể tiến hành.
(4) Mọi công dân theo luật định đều có quyền bỏ phiếu trong các
cuộc trưng cầu dân ý.
(5) Trưng cầu dân ý chỉ tán thành khi có đa số cử tri bỏ phiếu và có
đa số phiếu hợp lệ. Luật pháp quy định thủ tục trưng cầu dân ý.

Trưng cầu dân ý, còn được gọi là phương pháp trên hình thức «dân chủ
trực tiếp». Đây là một cuộc bỏ phiếu giữa tất cả các cử tri (quyền bỏ
phiếu), chẳng hạn trưng cầu ý dân cho toàn quốc, một tỉnh, một quận hoặc
một đô thị, về một vấn đề chính trị cụ thể.

Một cuộc trưng cầu dân ý có thể mang tính quyết định hoặc hình thức
tham vấn. Trong trường hợp đầu tiên, thường có các cuộc thăm dò trực
tiếp về biểu quyết thông qua cuộc bỏ phiếu. Nếu cuộc trưng cầu dân ý là
tham vấn, những người có quyền bỏ phiếu đưa ra lời khuyên cho những
người đưa ra quyết định cuối cùng, chẳng hạn như cơ quan lập pháp (quốc
hội) hay lập hiến.

Tất cả các cuộc trưng cầu dân ý hoạt động như một hướng dẫn cho các cơ
quan chính trị. Do đó, sự phân biệt giữa các cuộc trưng cầu dân ý mang
tính quyết định và tham vấn, mang tính hình thức hơn là thực tế, đặc biệt
là khi đề cập đến các cuộc trưng cầu dân ý trên toàn quốc.

Trưng cầu dân ý bắt buộc và không bắt buộc


Hiến pháp của một số quốc gia quy định một số vấn đề, đặc biệt là các vấn
đề thuộc về hiến pháp, là đối tượng cho một cuộc trưng cầu dân ý. Lúc
này, cuộc trưng cầu dân ý là bắt buộc. Ở các quốc gia khác, chính phủ,
một tỷ lệ nhất định trong quốc hội hoặc một số công dân nhất định có thể
yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý về một vấn đề nào đó, cuộc trưng cầu dân
ý này là không bắt buộc.

Các cuộc trưng cầu dân ý mang tính quyết định hầu như chỉ được sử dụng
trong các vấn đề hiến pháp. Tuy nhiên, ở Thụy Sĩ và một số bang của Hoa
Kỳ, trưng cầu dân ý cũng được sử dụng trong một số trường hợp. Hiến
pháp của nhiều quốc gia, chẳng hạn như Thụy Điển, cho phép tham gia
vào một cuộc trưng cầu tư vấn. Hiến pháp Na Uy không đề cập đến một

131
cuộc trưng cầu dân ý, nhưng không có gì cản trở để thực hiện một cuộc
trưng cầu tham vấn.

Dân chủ trực tiếp và gián tiếp


Trưng cầu dân ý có thể được coi là một hình thức dân chủ trực tiếp: Công
dân phát biểu trực tiếp về những vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, tất cả các nền
dân chủ hiện đại chủ yếu là nền dân chủ gián tiếp hoặc dân chủ đại diện:
Người dân không trực tiếp lên tiếng về các trường hợp cá nhân, mà bầu ra
những người đại diện có quan điểm cụ thể cho họ.

Ở hầu hết các nền dân chủ, trưng cầu dân ý chỉ phù hợp trong những vấn
đề quan trọng của quốc gia và những vấn đề có lý do để cho rằng có một
khoảng cách nhất định giữa ý kiến của
​​ người dân và các đại diện được
bầu.

Ở Na Uy, đã có một số cuộc trưng cầu dân ý địa phương được tổ chức
tại các thành phố tự trị của Na Uy, bao gồm cả những thay đổi trong việc
phân chia khu vực thành phố hoặc sáp nhập.

Các cuộc trưng cầu dân ý tại Na Uy được tổ chức trên toàn quốc:
Hai lần đầu tiên vào năm 1905, chấp thuận việc giải thể công đoàn và hình
thức Chính phủ ở Na Uy. Kết quả là 99,95% bỏ phiếu cho việc giải tán
công đoàn và 78,9% bỏ phiếu cho chế độ quân chủ. Chỉ đàn ông mới có
quyền bầu cử dân sự và phụ nữ không được phép đi bầu. Tuy nhiên, một
cuộc vận động chữ ký đã được tổ chức giữa những người phụ nữ Na Uy
để ủng hộ việc giải tán công đoàn. Các cuộc trưng cầu dân ý lần thứ ba và
thứ tư được tổ chức vào năm 1919 và 1926. Cả hai đều liên quan đến lệnh
cấm bán rượu. Kết quả năm 1919 là 61,6% ủng hộ, năm 1926 là 55,7%
phản đối. Các cuộc trưng cầu dân ý lần thứ năm và thứ sáu được tổ chức
vào năm 1972 và 1994. Cả hai đều đề cập đến việc Na Uy trở thành thành
viên của EC / EU. Kết quả là 53,5 và 52,2 phần trăm phản đối.

Tại khoản (2) về số lượng quyết định đến việc tiến hành để bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ đạo luật, hoặc một sắc lệnh có giá trị như luật, nếu có
1.000.000 cử tri hoặc 1/5 số thành viên Quốc hội hoặc 10 Hội đồng tỉnh
yêu cầu, là một điều khoản rất khó nhận định thế nào cho phù hợp nhất
cho một khối dân số và quốc gia trong nền dân chủ non trẻ. Tuy nhiên,
Hiến pháp lâm thời này mở rộng cho những thay đổi mới trong tương lai
(§ 162, § 190).

132
§ 83. [Tuyên bố chiến tranh]
(1) Hạ viện có thẩm quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh quân sự và
ủy quyền cần thiết cho Chính phủ - Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
(2) Hạ viện có thẩm quyền tuyên bố các tình trạng báo động và khẩn
cấp khác và trao quyền lực cần thiết cho Chính phủ, các Bộ ngành
vào những trường hợp liên quan đến bảo vệ công dân trên đất
liền cũng như ngoài biển đảo, bảo vệ nền kinh tế, ngăn chặn thế
lực hủy hoại và uy hiếp từ biên giới, ngăn chặn tà quyền hủy diệt
văn hóa và xã hội, chống hành động phản gián và xâm phạm chủ
quyền quốc gia.
(3) Hạ viện thông qua các nghị quyết tại điều khoản này trong các
phiên họp. Trường hợp Hạ viện không họp thì Tổng thống cùng
với Thượng viện có thể tuyên bố các nghị quyết.

Từ ngữ «chiến tranh» dường như không có một định nghĩa duy nhất, mà
xuyên suốt lịch sử trong các xã hội khác nhau được mô tả theo những cách
thức của mỗi nước, cũng như sử dụng kỷ luật qua các phương pháp để xác
định và phân tích khái niệm về chiến tranh. Ví dụ, các nhà nghiên cứu hòa
bình và nhà khoa học xã hội sử dụng triến lý khoa học để định nghĩa nhấn
mạnh vào các hành động chiến tranh và số người chết để phân loại tình
huống của các cuộc chiến tranh. Những định nghĩa này chỉ trùng lặp một
phần với định nghĩa pháp lý về chiến tranh.

Nội dung của hiến pháp nào trên thế giới hầu như đều hàm chứa điều
khoản về việc tuyên chiến, nhất là các bản hiến pháp sinh ra vào thời kỳ
thế chiến thứ nhất và thứ hai trong trăm năm qua. Nội dung của khái niệm
chiến tranh trong điều khoản này, do đó, chỉ đề cập đến chiến tranh nói
chung, chủ yếu là đến các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia. Hiến pháp
lâm thời này được khai sinh trong một thời kỳ tạm gọi là yên bình, song
đất nước vẫn chưa bao giờ thoát khỏi những đe dọa triền miên về vấn đề
chủ quyền và thách thức lớn từ Trung quốc.

Khái niệm chiến tranh ở châu Âu vào thời điểm Hiến pháp trên thế giới ra
đời có thể được xem là khái niệm truyền thống về chiến tranh, chiến tranh
vũ trang giữa các quốc gia.

Sau khi các quốc gia hùng mạnh xuất hiện vào thế kỷ 18, nguyên tắc chủ
quyền đã trở nên củng cố hơn sau thế kỷ 18 và 19, quan điểm chính vào
thời điểm đó là các quốc gia có quyền tham chiến vô điều kiện như một
phần thuộc chủ quyền của mình. Một quốc gia chinh phục quốc gia khác

133
đã giành được quyền sở hữu đối với quốc gia đó. Chức năng chính của
khái niệm chiến tranh vào thời điểm đó là để phân biệt giữa các cuộc
chiến tranh chung và các mối thù riêng tư bất hợp pháp. Do đó, khái niệm
chiến tranh được định nghĩa với điểm bắt đầu trong một trạng thái giữa
các trạng thái. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm chiến tranh
trong hiến pháp được liên kết với khái niệm truyền thống về chiến tranh,
một khái niệm chính thức được công nhận tình trạng chiến tranh giữa hai
hoặc nhiều quốc gia. Tuy nhiên, nội dung của khái niệm chiến tranh chưa
được xác định trong một hiệp ước đa phương, và khái niệm này liên tục là
chủ đề của các cuộc thảo luận về luật pháp và chính trị.

Ở các nước có chế độ cộng hòa tổng thống, thì thẩm quyền tuyên bố chiến
tranh thường được giao cho vị trí tổng thống, đóng vai trò một nguyên thủ
quốc gia đứng đầu đất nước và vừa là vai trò đứng đầu hành pháp (chính
phủ). Trên lý thuyết, một số người cho rằng chế độ tổng thống có ưu điểm
là bảo đảm một chính quyền mạnh và hiệu quả, có khả năng quyết định
mau chóng những quyết định chiến lược cấp thiết. Nhưng hiện nay nguy
cơ chiến tranh giữa các quốc gia không còn tồn tại, mặc dù các nước có
những xung đột cần hòa giải thì người ta có nhiều biện pháp giải quyết
qua các cuộc hội đàm ngoại giao. Mặt khác, chế độ cộng hòa tổng thống
hay có những «khuyết tật» và những nhược điểm thường gây xáo trộn và
bất ổn ở nhiều nước mà nhiều nhà nghiên cứu chính trị thường vạch ra
trong quá khứ lẫn hiện tại. Một khuyết tật lớn là dẫn tới một chế độ độc
tài cá nhân mà nhiều nước theo chế độ này đã vấp phải. Chính vì thế, sau
những thất bại, nhiều quốc gia đã thay đổi và hướng đến các thể chế khác,
như thể chế «bán tổng thống», đại nghị…

Ở các nước có thể chế đại nghị, nguyên thủ quốc gia vẫn có thể là một
chức vụ chủ tịch nước hoặc tổng thống với một số thẩm quyền giới hạn,
chủ yếu đóng vai trò đại diện đất nước mang tính nghi thức. Các thẩm
quyền quan trọng và cao nhất của quốc gia thuộc về quốc hội, một «đội
ngũ dân cử» chứ không phải riêng cho một như ở chế độ cộng hòa tổng
thống, sau đó thẩm quyền được ủy nhiệm cho các cơ quan trung ương
khác, ví dụ: Chính phủ, cụ thể hơn nữa là ủy quyền trực tiếp cho một bộ
ngành thuộc cơ quan hành pháp. Và những rủi ro khác có thể xảy ra, thì
cũng có một biện pháp thay thế, ví dụ: Thổng thống và Thượng viện.

Thời hiện đại ngày nay, việc triệu tập ý kiến và quyết định của toàn thể
đại biểu Quốc hội trên toàn quốc không còn là một thách thức lớn. Với
các phương tiện văn minh đã xuất hiện trên thị trường thì còn việc khó

134
khăn nào có thể cản trở được các quyết định quan trọng của một vấn đề cụ
thể(?) Chính vì vậy, thẩm quyền tuyên bố chiến tranh quân sự được giao
phó trước tiên cho Hạ viện, và sau đó được ủy quyền cho Chính phủ, quy
định trong Hiến Pháp Việt Nam 2021.

§ 84. [Ân giảm và đại xá]


Việc ân giảm và đại xá theo luật định được một Ủy ban phụ trách tại
Quốc hội xem xét trước khi đưa ra biểu quyết chung của cả hai viện
Quốc hội, với đa số đại biểu có mặt và đa số chung quyết. Ân giảm và
đại xá mất hiệu lực trong trường hợp tái phạm pháp luật.

§ 85. [Hiệp định - Công ước quốc tế]


Quốc hội phê chuẩn và ủy quyền về các hiệp định và các công ước
quốc tế liên quan đến hòa bình, liên minh, chính trị hay quân sự, thay
đổi biên giới, tự do, các quyền và nghĩa vụ cơ bản, tư cách thành viên
của một tổ chức quốc tế, kinh tế và tài chính quan trọng của quốc gia,
hoặc một đạo luật mới. Quy định và thủ tục ký kết và rút khỏi các
điều ước quốc tế sẽ do luật định.

§ 86. [Điều tra]


(1) Thượng viện có thẩm quyền tiến hành điều tra về sự thực thi
chính sách quốc gia, các vấn đề pháp lý, hoặc sự kiện được công
luận quan tâm, và yêu cầu các cơ quan công quyền xuất trình các
tài liệu cũng như các chứng cớ cần thiết cho cuộc điều tra.
(2) Vì mục đích tại khoản (1) Thượng viện có quyền chỉ định Ủy ban
Điều tra với thành phần dân biểu phản ánh tương quan giữa các
nhóm trong Quốc hội. Ủy ban tiến hành điều tra và rà soát với
quyền hạn tương tự như cơ quan tư pháp.

Ở các nước dân chủ, đặc biệt là Na Uy, người ta có thể thấy vô số các cơ
quan độc lập được thành lập rộng rãi, đưa ra quyết định khách quan và đa
dạng. Những cơ quan này luôn là những phương tiện tư vấn đắc lực cho
các cơ quan công quyền (quyền lực), cung cấp các nguồn tin thiết thực
trong xã hội, tạo kết nối các mối liên hệ giữa chính quyền và nhân dân tùy
cấp độ, công khai và minh bạch.

Qua việc tiếp cận công chúng, người ta thấy những báo cáo về nghiên cứu
cũng như các cuộc thăm dò, điều tra phổ biến như là bước đầu tiên trong
quá trình để đưa ra quyết định nhằm vào một hay nhiều lĩnh vực cụ thể.
Các báo cáo công khai như vậy thường là một loạt các báo cáo của chính

135
phủ. Mục đích của các báo cáo là trình bày và thảo luận về cơ sở kiến ​​
thức, các lựa chọn về tính cách hành động hoặc chiến lược phát triển và
thực hiện các biện pháp công để giải quyết các vấn đề và thách thức xã
hội.

Ở Na Uy, công việc nghiên cứu cho một phương án điều tra được thực
hiện bởi một ủy ban đặc biệt do Chính phủ chỉ định. Hầu hết các ủy ban
như vậy chủ yếu bao gồm các chuyên gia độc lập về chính trị trong lĩnh
vực của chủ đề liên quan, đặc biệt là từ các cơ quan nghiên cứu của Na
Uy. Ngoài ra, các ủy ban nghiên cứu thường được nhiều chuyên gia tham
dự, đại diện từ các tổ chức tự nguyện và doanh nghiệp ảnh hưởng bởi các
biện pháp trong lĩnh vực. Trong một số trường hợp, đại diện của các đảng
phái chính trị cũng là những người tham gia vào các ủy ban này.

Tuy nhiên, hoạt động trong lĩnh vực báo cáo như vậy thì yếu tố chuyên
môn là chính - chứ không phải chính trị - là đặc điểm chính yếu của các
báo cáo này, mặc dù các báo cáo thường kết thúc với các khuyến nghị cụ
thể về các biện pháp công khai trong lĩnh vực được nghiên cứu.

Ở các nước có chế độ độc tài, thì các cơ quan báo cáo nghiên cứu, điều
tra, thường là những cơ quan chức năng hoạt động để phục vụ lợi ích cho
một nhóm người cai trị hoặc cho mục đích chính trị của đảng cầm quyền,
hiếm khi phản ánh sự thật. Do đó, sự bất công và bất ổn xã hội thường hay
thấy ở các nước độc tài.

Điều khoản § 86 được quy định chủ yếu cho những mục đích nêu trên.
Ngoài Hội đồng Thanh tra Quốc gia (§ 90) được thành lập trong thể chế
mới, Việt Nam sẽ có thêm rất nhiều cơ quan báo cáo và điều tra độc lập
mới để đáp ứng nhu cầu cần thiết cho một nước dân chủ pháp quyền và là
cơ sở tư vấn cho các cơ quan công quyền của Việt Nam.

Tại cơ quan lập pháp, Thượng viện có thẩm quyền điều tra về sự thực
thi chính sách quốc gia, các vấn đề pháp lý, hoặc sự kiện được công luận
quan tâm, và yêu cầu các cơ quan công quyền xuất trình các tài liệu cũng
như các chứng cớ cần thiết cho cuộc điều tra. Việc này, các cơ quan độc
lập nêu trên là những cơ cấu hỗ trợ Thượng viện trong quá trình báo cáo
và thực hiện các vần đề điều tra.

Ở Việt Nam, vụ án Hồ Duy Hải là một trong những điển hình cần đến
Thượng viện, một nghị viện dân cử Quốc gia, vào cuộc để giải quyết vấn

136
đề mà công luận hết sức quan tâm, một vụ án gây chấn động dư luận trong
và ngoài nước.

§ 87. [Chất vấn Chính phủ]


(1) Thủ tướng và các thành viên Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm
trả lời các chất vấn và câu hỏi của Quốc hội trong các phiên họp
được triệu tập.
(2) Thủ tướng và các thành viên Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm
trả lời các chất vấn và câu hỏi phát sinh trong mỗi phiên họp của
Quốc hội.

Trong thể chế đại nghị, chính phủ thường đóng một vai trò hết sức quyền
lực, một cơ quan vô cùng mạnh mẽ qua các sắc lệnh và uy thế gây ảnh
hưởng trực tiếp vào quần chúng. Nếu như không có những cơ chế để kiềm
chế và đối trọng đối với cơ quan hành pháp thì xã hội đôi khi mất thăng
bằng do bởi quyền lực chính phủ có thể vượt quá giới hạn, trái với cam
kết, vi phạm luật, vi hiến.

Các biện pháp kiểm soát và kiềm chế được xây dựng trong Hiến pháp là
chủ yếu cho mục tiêu này, đặc biệt trong trường hợp trừng phạt Chính
phủ qua hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm (§107). Chính vì thế, Quốc hội
không chỉ hoạt động như một cơ quan có thẩm quyền quyết định đối với
Chính phủ, mà còn đóng vai trò một cơ quan xử lý các vụ việc liên quan
đến nhiệm vụ thực hiện của Chính phủ, như việc báo cáo trước Quốc hội,
bao gồm các cuộc điều trần và chất vấn Chính phủ. Ngoài ra, Quốc hội có
tầm quan trọng đặc biệt như một cơ quan kiểm soát, duy trì sự kiểm tra
liên tục đối với các hoạt động của Chính phủ, và thông qua các hội đồng
bổ trợ và cơ quan kiểm soát độc lập.

Mục III. Ủy ban chuyên môn và Hội đồng bổ trợ

§ 88. [Ủy ban chuyên môn]


(1) Quốc hội tập hợp toàn thể đại biểu và thiết lập các ủy ban chuyên
môn như sau:
a) Ủy ban Công nghiệp
b) Ủy ban Châu Á và Quốc tế
c) Ủy ban Địa phương và hiện đại hóa
d) Ủy ban Điều tra
e) Ủy ban Gia đình và Xã hội

137
f) Ủy ban Giám sát và Hiến pháp
g) Ủy ban Giáo dục và Nghiên cứu
h) Ủy ban Giao thông và Vận tải
i) Ủy ban Kinh tế và Tài chính
j) Ủy ban Lao động và Nghề nghiệp
k) Ủy ban Năng lượng và Môi trường
l) Ủy ban Ngoại giao và Quốc phòng
m) Ủy ban Tư pháp
n) Ủy ban Truyền thông và Công nghệ
o) Ủy ban Văn hóa và Nghệ thuật
p) Ủy ban Y tế và Chăm sóc
q) Ủy ban hỗn hợp
(2) Mỗi ủy ban bầu ra một Trưởng ban và Phó trưởng ban.

Trong khi Quốc hội đưa ra các quyết định chính thức cho toàn thể đại
biểu, thì các thủ tục biểu quyết chính yếu đã được diễn ra trong các ủy ban
chuyên môn. Các đại biểu được phân bổ vào các ủy ban theo khuyến nghị
của một «Ủy ban đa đảng». Các ủy ban chuyên môn này, gồm một số đại
diện đến từ những đảng phái chính trị, góp phần xây dựng nên «đội ngũ
chuyên nghiệp» cho từng lĩnh vực khác nhau. Việc phân bổ thành viên
Quốc hội tương ứng giữa các đảng phái chính trị và trong từng ủy ban của
Quốc hội nói chung. Mỗi ủy ban gồm có một Trưởng ban và Phó trưởng
ban.

Mỗi ủy ban được thành lập tương ứng với một bộ ngành, cũng có thể có
một số ủy ban có các lĩnh vực từ nhiều bộ ngành. Với sự hỗn hợp và đồng
bộ, các ủy ban làm việc gần gũi thêm với các bộ ngành. Điều này trong
thực tế, thời gian của đại biểu thường đi kề sát vào công việc của ủy ban,
tức là đại biểu Quốc hội có xu hướng trở thành những chuyên gia, thường
gọi là chính trị gia của ngành, và điều này cũng phản ánh trong các cuộc
đàm phán toàn thể. Thành viên của các ủy ban chủ yếu tham gia tích cực
vào những cuộc thảo luận tập thể.

Các vấn đề lập pháp được giải quyết suốt cả năm. Theo như những diễn
biến được đề cập trong Hiến pháp như bầu cử và ngân sách quốc gia thì
việc lập pháp phần lớn có thể diễn ra trong các phiên họp vào mùa xuân.
Vấn đề ngân sách chi phối vào mùa thu và đi đến toàn thể để thống nhất
sau khi Ủy ban Kinh tế và Tài chính đã xem xét. Sau đó tiến hành thảo
luận chung của các ủy ban chuyên nghiệp.

138
Đề xuất của ủy ban chuyên môn liệt kê tại khoản (1) là những lĩnh vực cần
thiết cho một Quốc hội đại diện phong phú hàm chứa những nhu cầu cần
thiết cho một cộng đồng đông dân và đa dạng, dễ quản lý và điều phối các
chức năng. Mô hình này được tham chiếu với các hình thức hoạt động của
một số nước tại châu Âu.

HỘI ĐỒNG BỔ TRỢ - GIÁM SÁT ĐỘC LẬP


Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, có chức năng chính là
lập pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước, bao gồm việc xác lập các cơ cấu trung ương (bầu Tổng thống,
bầu Thủ tướng, bầu Chánh án và Thầm phán, bổ nhiệm các Hội đồng và
Cơ quan bổ trợ) và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của đất nước.

Bên cạnh ba cơ quan quyền lực nhất của hệ thống quản trị quốc gia: Lập
pháp (Quốc hội) ban hành luật, hành pháp (Chính phủ) thực thi luật và tư
pháp (Tòa án) xét xử, phán quyết và giải thích luật – Hiến pháp còn quy
định một số hội đồng bổ trợ và cơ quan giám sát độc lập. Chức năng của
các cơ quan hiến định độc lập này thường gắn liền với sự giám sát việc
thực hiện các nhiệm vụ của các cơ quan chức năng của Chính phủ, tư vấn
chuyên nghiệp, vì vậy người thường gọi các cơ quan này là cơ quan giám
sát độc lập.

Ở các nước Bắc Âu, các cơ quan này còn gọi là các hội đồng bổ trợ cho
Quốc hội, hoạt động độc lập và được Quốc hội bổ nhiệm là những cơ quan
quan trọng nhất, ví dụ: Viện Kiểm toán Quốc gia, Hội đồng Thanh tra
Quốc gia (Ombudsman), Hội đồng Nhân quyền Quốc gia, Cơ quan Truy
xét Tội phạm Quốc gia, được thành lập và duy trì bền vững.

Các cơ quan và hội đồng bổ trở này được quy định trong Hiến pháp 2021
để thực hiện nhiệm vụ giám sát các lĩnh vực cần thiết cho một quốc gia
minh bạch và lành mạnh.

Mặc dù các hội đồng bổ trợ được các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư
pháp bổ nhiệm, song việc vận hành và hoạt động không chịu sự chi phối
của các cơ quan quyền lực, bởi vì được hiến định và dần trở thành một
truyền thống hoạt động độc lập, chuyên môn, vô tư, khách quan, phi đảng
phái, và chỉ chủ yếu phục vụ lợi ích chung của cộng đồng và đất nước.

Các cơ cấu, thiết chế hiến định được xem là công cụ để phòng, chống
tham nhũng, chống lạm dụng quyền lực để trục lợi riêng, chống sự đàn áp

139
vi phạm quyền con người, chống bất công và các hành động phi pháp của
chính quyền cũng như mọi cá thể trong xã hội.

Nhiều nhà nghiên cứu cho biết, bản chất của tham nhũng chính là sự tha
hoá của quyền lực. Đây là một quy luật tự nhiên tự nó vận hành trong
guồng máy chính quyền, khi quốc gia không có các cơ chế kiềm chế và
kiểm soát được quy định trong hiến pháp hoặc pháp luật. Quyền lực luôn
tự động dẫn đến sự tha hóa một cách không thể chối cãi. Để ngăn chặn
tham nhũng cần phải duy trì việc kiểm soát liên tục theo các định chế,
theo dõi kết quả cũng như chức năng hoạt động dựa trên các quy định
pháp lý. Đây là một trong những chức năng cơ bản quan trọng của hiến
pháp.

§ 89. [Viện Kiểm toán Quốc gia]


(1) Viện Kiểm toán Quốc gia thực thi kiểm tra và giám sát Ngân sách
Quốc gia theo luật định. Viện có trách nhiệm đưa ra các biện pháp
và phương pháp hướng dẫn mọi đơn vị nhận tài trợ định kỳ từ
Ngân sách Quốc gia trong các hoạt động quản lý tài chính và trực
tiếp kiếm toán các đơn vị, chấp hành các biện pháp phòng ngừa
gian lận và tham nhũng.
(2) Viện Kiểm toán Quốc gia được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và
một Giám đốc, hoạt động độc lập và được Quốc hội bổ nhiệm.
Ban quản trị bầu ra một Chủ tịch và một Thư ký. Công chức và
công nhân viên Viện Kiểm toán hoạt động chuyên nghiệp, không
thuộc đảng chính trị, và độc lập đối với Chính phủ. Viện báo cáo
kết quả kiểm toán trực tiếp trước Quốc hội.
(3) Giám đốc Viện Kiểm toán Quốc gia bổ nhiệm ít nhất mười ’kiểm
toán viên quốc gia’ để xem xét và thông qua các tài khoản kế toán
phân bổ từ Ngân sách Quốc gia và thông báo trích xuất công khai
trên báo chí. Sau khi kết thúc năm ngân sách được ấn định bởi
Quốc hội, các cơ quan công quyền theo luật định có nhiệm vụ đệ
trình kế toán đến Viện Kiểm toán Quốc gia và đáp ứng các câu hỏi
và yêu sách của các kiểm toán viên khi có yêu cầu.
(4) Nguyên tắc tổ chức và điều hành Viện Kiểm toán Quốc gia được
quy định trong luật.

Viện Kiểm toán Quốc gia, được biết đến như là một «Văn phòng Tổng
Kiểm toán» ở nhiều nước châu Âu. Ở Na Uy, Văn phòng Tổng Kiểm toán
(Riksrevisjon) là một tổ chức công được Quốc hội (Stortinget) ủy nhiệm

140
để kiểm soát các tài khoản kế toán và đưa ra giải pháp thực hiện nhiệm vụ
quản lý tài chính của Chính phủ và các cơ quan hành chính trung ương.
Viện Kiểm toán Quốc gia là cơ quan quan trọng nhất trong số các
cơ quan trực thuộc Quốc hội, và là trung tâm kiểm soát của Quốc hội đối
với Chính phủ, các Bộ và các cơ quan hành chính trung ương, với chức
năng hướng dẫn ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót trong quản lý,
đồng thời báo cáo những điều này cho cơ quan quản lý, chính quyền và
công chúng.
Nhiệm vụ chính của Viện Kiểm toán Quốc gia là kiểm toán các
tài khoản của Chính phủ, kiểm soát việc quản lý các lợi ích của Chính phủ
trong các bộ và cơ quan trung ương. Đồng thời thực hiện những cuộc điều
tra đối với các hệ thống tài chính, năng suất, đạt mục tiêu và hiệu quả dựa
trên quyết định của Quốc hội, còn gọi là kiểm toán hiệu suất.

Tổ chức và phương pháp


Viện Kiểm toán Quốc gia tại Na Uy do Tổng Kiểm toán viên đứng đầu
và một Ban quản trị, tất cả những người này đều được bổ nhiệm bởi Tổng
cục của Quốc hội. Cuộc kiểm toán có tổng cộng bảy bộ phận: một bộ phận
quản trị, hai bộ phận kiểm toán hiệu suất, một bộ phận hỗ trợ và phát triển
và ba bộ phận kiểm soát kế toán. Viện Kiểm toán Quốc gia có trụ sở chính
tại Oslo và có các văn phòng khu vực tại sáu thành phố.
Hiến pháp Việt Nam 2021 được soạn thảo, thiết kế và kết hợp
theo một số mô hình ở châu Âu. Trong đó, Viện Kiểm toán Việt Nam
được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và một Giám đốc (Tổng Kiểm toán
viên), hoạt động độc lập và được Quốc hội bổ nhiệm. Ban quản trị bầu ra
một Chủ tịch và một Thư ký (Thư ký của Ban quản trị thường là Giám đốc
của hội đồng). Công chức và công nhân viên Viện Kiểm toán hoạt động
chuyên nghiệp, phi đảng phái, và độc lập đối với Chính phủ. Viện báo
cáo kết quả kiểm toán trực tiếp trước Quốc hội. Ngoài ra, Viện Kiểm toán
còn được quyền bổ nhiệm các Kiểm toán viên cao cấp của quốc gia để thi
hành các nhiệm vụ đặc trách.
Viện Kiểm toán Quốc gia hợp tác chặt chẽ với các tổ chức mà
họ kiểm toán và có quyền truy cập vào tất cả thông tin trong các cơ quan
quản lý. Công việc kiểm toán thường diễn ra trong một thời gian dài và có
sự liên hệ chặt chẽ giữa kiểm toán viên và cơ quan quản lý. Phần lớn ảnh
hưởng của cuộc kiểm toán đối với các cơ quan quản lý diễn ra thông qua
các cuộc đối thoại trước khi báo cáo được công bố.
Viện Kiểm toán Quốc gia ở các nước hoạt động minh bạch thường
hay bị chỉ trích vì các phương pháp được áp dụng. Một số chỉ trích cho

141
rằng nhân viên kiểm toán quá chú trọng vào chi tiết và tạo ra một chế độ
kiểm soát có thể dẫn đến sự sợ hãi quá mức của các nhân viên chính phủ.

§ 90. [Hội đồng Thanh tra Quốc gia]


(1) Hội đồng Thanh tra đại diện công dân và có trách nhiệm bảo đảm
các cơ quan công quyền các cấp không cam kết bất công và trái
với pháp luật, thông qua việc kiểm soát pháp lý về các hoạt động
của chính quyền, có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho cá nhân,
nhóm hoặc hội đoàn. Thanh tra viên có trách nhiệm điều tra các
khiếu nại từ công dân, xử lý và giải quyết công khai đối với cơ
quan công quyền và đưa sự việc ra trước công lý.
(2) Hội đồng Thanh tra được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và một
Giám đốc. Ban quản trị bầu ra một Chủ tịch và một Thư ký. Hội
đồng Thanh tra là một văn phòng chính trị và hoạt động độc lập,
được Quốc hội bổ nhiệm sau mỗi cuộc bầu cử với sự đáp ứng của
Tòa án Tối cao. Các công chức của Hội đồng Thanh tra là các
chuyên viên ngành luật, không thuộc đảng chính trị hay là dân
biểu, hoặc thực hiện những công việc không phù hợp với chức
trách. Các hoạt động của Hội đồng Thanh tra được báo cáo hàng
năm đến Quốc hội.
(3) Tổ chức Thanh tra được thiết lập vào các lãnh vực: Dân sự, Lực
lượng vũ trang và quân sự, Trẻ em, Tiêu dùng, Môi trường, Bình
đẳng và chống kỳ thị, và các lãnh vực cần thiết cho một xã hội.
Tổ chức Thanh tra hoạt động toàn quốc, và được thiết lập từ trung
ương cho đến các đơn vị địa phương các cấp.
(4) Nguyên tắc tổ chức và điều hành Hội đồng Thanh tra Quốc gia
được quy định trong luật.

Thanh tra viên (ombudsman), thực chất là một thuật ngữ truyền thống chỉ
một vị trí mà người có nghĩa vụ và nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích của
cá nhân, nhóm và các tầng lớp trong xã hội, thông qua kiểm soát pháp
lý đối với hoạt động của chính quyền. Nhiều thanh tra viên làm việc liên
quan đến việc thực thi quyền lực công, cũng có một số thanh tra viên làm
việc trong vấn đề dân sự, quyền lợi giữa các cá nhân hoặc đối với các
công ty tư nhân khác.

Thuật ngữ này ban đầu là từ Thanh tra Bắc Âu Cổ, biểu hiện một quan
chức hoàng gia trong Thời đại Viking và Trung cổ. Theo nghĩa hiện tại,
nó đã được sử dụng từ năm 1809, khi viên thanh tra Thụy Điển đầu tiên
được Riksdag (Nghị viện) bổ nhiệm. Ombudsman là một trong những

142
từ ngữ Bắc Âu đã đi vào các ngôn ngữ khác, chẳng hạn như tiếng Anh
(ombudsman) và tiếng Bungary «омбуцман» (ombutsman).

«Ombud» hiện được sử dụng làm tên của một số cơ quan quốc gia Na Uy
nhằm góp phần thúc đẩy sự quan tâm và lợi ích cụ thể trong toàn xã hội,
hoạt động độc lập về chuyên môn đối với chính quyền. Các cơ quan thanh
tra quốc gia này có một số đặc điểm chung với các cơ quan giám sát.
Ở Na Uy, các cơ quan thanh tra đã được thành lập gần đây:
- Thanh tra Lực lượng Vũ trang (1952) - (Ombudsmannsnemnda
for Forsvaret)
- Thanh tra dân sự (1962) - (Sivilombudsmannen)
- Thanh tra người tiêu dùng (1972) - (Forbrukerombudet, Forbruk-
ertilsynet)
- Thanh tra bình đẳng giới (1979) - (Likestillingsombudet)
- Thanh tra cho trẻ em (1981) - (Barneombudet)
- Thanh tra bệnh nhân ở các tỉnh (2010) - (Pasient- og brukerom-
budene i fylkene)
- Thanh tra người cao niên (2020) - (Eldreombudet)

Tại các nơi làm việc của Na Uy, đại diện «thanh tra bảo vệ» đóng một vai
trò quan trọng. Ví dụ, Luật Môi trường Làm việc yêu cầu rằng các nơi làm
việc trên một quy mô nhất định phải có một đại diện thanh tra bảo vệ.

Hiến pháp 2021 được soạn thảo tương tự như mô hình Na Uy. Trong đó,
Hội đồng Thanh tra Việt Nam được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và một
Giám đốc (Tổng Thanh tra viên), hoạt động độc lập và được Quốc hội bổ
nhiệm. Ban quản trị bầu ra một Chủ tịch và một Thư ký. Hội đồng Thanh
tra là một văn phòng chính trị và hoạt động độc lập, được Quốc hội bổ
nhiệm sau mỗi cuộc bầu cử với sự đáp ứng của Tòa án Tối cao. Các công
chức của Hội đồng Thanh tra là các chuyên viên ngành luật, không thuộc
đảng chính trị hay là dân biểu, hoặc thực hiện những công việc không phù
hợp với chức trách. Các hoạt động của Hội đồng Thanh tra được báo cáo
hàng năm đến Quốc hội. Tổ chức Thanh tra được thiết lập cả ở chiều dọc
lẫn chiều ngang trong toàn xã hội.

§ 91. [Hội đồng Nhân quyền Quốc gia]


(1) Hội đồng Nhân quyền quốc gia có trách nhiệm thúc đẩy và bảo
đảm nhân quyền được thực hiện theo Hiến pháp, Luật Nhân
quyền và các điều ước quốc tế. Hội đồng có những nhiệm vụ cụ
thể như sau:

143
a) Theo dõi và báo cáo tình trạng nhân quyền, bao gồm đưa
ra các nghị quyết để bảo đảm nhân quyền của Việt Nam
được thực hiện;
b) Tư vấn Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan công quyền
và các tổ chức về việc thực hiện quyền con người;
c) Báo cáo về nhân quyền, bao gồm hướng dẫn cá nhân hoặc
tổ chức về các quy trình khiếu nại đến các cơ quan trong
nước cũng như quốc tế;
d) Thúc đẩy giáo dục, huấn luyện và nghiên cứu về nhân
quyền;
e) Tạo điều kiện hợp tác với các cơ quan công quyền và các
viện nghiên cứu nhân quyền;
f) Tham gia quốc tế để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
(2) Hội đồng Nhân quyền Quốc gia được lãnh đạo bởi một Ban quản
trị và một Giám đốc, hoạt động độc lập được Quốc hội bổ nhiệm.
Ban quản trị bầu ra một Chủ tịch và một Thư ký. Thành viên
Hội đồng Nhân quyền không thuộc đảng chính trị hoặc thực hiện
những công việc không phù hợp với chức trách. Hội đồng báo cáo
hàng năm đến Quốc hội.
(3) Nguyên tắc tổ chức và điều hành Hội đồng Nhân quyền Quốc gia
được quy định trong luật.

Quyền con người lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp Việt Nam
có thể được xem là một cách thể hiện cụ thể nhất, được xác lập vào các
định chế và cơ cấu để thực hiện nhân quyền Việt Nam, thông qua Hội
đồng Nhân quyền Quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
(National Human Rights Institutions/National Institutions for Protection
and Promotion of Human Rights).

Hiến pháp Việt Nam 2021 quy định về quyền con người tại Điều 4 và
Chương II Các quyền và nghĩa vụ của công dân, song việc thiết lập một
cơ quan bảo vệ nhân dân và tư vấn các cơ quan công quyền được quy định
trong Hiến pháp là điều hết sức cần thiết cho Việt Nam. Đánh giá tình
hình hiện tại, đây là một chuyên mục nhân quyền hạn chế, nhưng dựa trên
điều kiện hiện tại, điều này tạo thành một sự bảo vệ sâu rộng đối với cá
nhân trước sự tùy tiện và lạm dụng của các cơ quan công quyền.

Tuy nhiên, điều quan trọng là Hiến pháp phải cung cấp một bức tranh toàn
cảnh về các giá trị mà xã hội Việt Nam dựa trên đó và điều này phát triển
theo thời gian. Tầm quan trọng ngày càng tăng của quyền con người trên

144
thế giới, ví dụ như Luật Nhân quyền, và sự phát triển chung của xã hội
có nghĩa là có nhu cầu và mong muốn thay đổi Hiến pháp để quyền con
người được trao nhiều không gian hơn. Vì cần phải thay đổi Hiến pháp
nhiều hơn là thay đổi các luật thông thường, việc thông qua Hiến pháp
cũng được coi là để bảo đảm rằng các quyền con người được bảo vệ cho
các thế hệ tương lai.

Với tư cách là đạo luật tối cao của chúng ta, Hiến pháp được ưu tiên hơn
các luật và quy định trong trường hợp có xung đột, và tất cả các luật lệ
không được vượt quá khuôn khổ của Hiến pháp. Do đó, việc hiến định
thêm một Cơ quan Nhân quyền Quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người trong Hiến pháp đồng nghĩa với việc tăng cường vị trí quan trọng
của quyền con người trong luật pháp Việt Nam.

§ 92. [Hội đồng Truyền thông Quốc gia]


(1) Hội đồng Truyền thông Quốc gia có trách nhiệm bảo đảm tự do
ngôn luận, quyền thông tin, bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên
trong lãnh vực truyền thông, cũng như bảo đảm lợi ích chung
trong ngành phát thanh, truyền hình và mạng lưới xã hội.
(2) Hội đồng Truyền thông có trách nhiệm hướng dẫn công chúng sử
dụng truyền thông đắc lực trong phạm vi luật định, và phát hành
những nghị quyết đối với từng lãnh vực cụ thể.
(3) Tổ chức Truyền thông Quốc gia được lãnh đạo bởi một Ban quản
trị và một Giám đốc do Quốc hội và Bộ Truyền thông bổ nhiệm.
Ban quản trị bầu ra một Chủ tịch và một Thư ký. Thành viên Hội
đồng Truyền thông hoạt động độc lập, không thuộc đảng chính trị
hoặc thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với chức trách.
Hội đồng báo cáo hàng năm đến Quốc hội.
(4) Nguyên tắc tổ chức và điều hành Hội đồng Truyền thông Quốc
gia được quy định trong luật.

Tự do ngôn luận là quyền được tự do truyền đạt ý tưởng bằng cách diễn
đạt hoặc hành động và cách thể hiện bản thân. Điều này cũng áp dụng cho
quyền tự do tiếp nhận lời phát biểu của người khác, thường được gọi là
quyền tự do thông tin. Quyền này được coi là một quyền được bảo vệ chặt
chẽ trong cả luật pháp quốc gia và siêu quốc gia. Đây là cơ sở của quyền
tự chủ và tự do cá nhân của chúng ta - chúng ta có quyền tự do chia sẻ suy
nghĩ của mình và chấp nhận người khác, và nhờ quyền tự do này, chúng ta
phát triển như một con người.

145
Đó là điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ - không có tự do ngôn luận,
không có tự do thông tin, không thể hình thành ý kiến tự
​​ do và không có
cơ sở thực sự cho dân chủ, không thông qua biểu quyết cũng như không
có cơ hội tham gia vào các cuộc tranh luận công khai.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là tuyệt đối, mặc dù quyền
này thường đi đôi với một số hạn chế theo luật định, chẳng hạn như cấm
đưa ra các lời đe dọa, phỉ báng, xâm phạm quyền riêng tư của người khác,
quấy rối và các tuyên bố mang tính chất khiêu dâm, phân biệt đối xử và
thù hận. Mặt khác, các hạn chế của quyền tự do ngôn luận để bảo vệ trẻ
em và thanh thiếu niên khỏi tác hại do hình ảnh truyền thông trực tiếp, các
tuyên bố bất hợp pháp.

Ở Việt Nam trong tương lai, quyền tự do ngôn luận được bảo vệ bởi Điều
26 của Hiến pháp. Ngoài ra, Hội đồng Truyền thông Quốc gia, một thiết
chế được thiết lập để thúc đẩy và phát huy mạnh mẽ trong lĩnh vực tự
do ngôn luận cũng như củng cố bảo đảm lợi ích chung trong ngành phát
thanh, truyền hình và mạng lưới xã hội Việt Nam.

146
CHƯƠNG IV: TỔNG THỐNG

Như đề cập tại Chương III, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, có chức năng chính là lập pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước, bao gồm việc xác lập các cơ
cấu trung ương (bầu Tổng thống, bầu Thủ tướng, bầu Chánh án và Thầm
phán, bổ nhiệm các Hội đồng và Cơ quan độc lập) và giám sát tối cao toàn
bộ hoạt động của đất nước.

Bên cạnh ba cơ quan quyền lực nhất của hệ thống quản trị quốc gia: Lập
pháp (Quốc hội) ban hành luật, hành pháp (Chính phủ) thực thi luật và tư
pháp (Tòa án) xét xử, phán quyết và giải thích luật – Hiến pháp còn quy
định thiết lập cơ cấu đại diện nhân dân và đất nước Việt Nam, qua hình
thức một vị Tổng thống và Phủ Tổng thống biệt lập. Tổng thống chính là
vị Nguyên thủ quốc gia Việt Nam trong thể chế Đại nghị tương lai.

Việt Nam trong tương lai là một quốc gia «dân chủ lập hiến» có chức vụ
Tổng thống, thay cho nhà vua ở các nước «quân chủ lập hiến», nơi đó đại
diện tối cao của quốc gia là hoàng gia được kế thừa. Ngày nay, các quốc
gia có chế độ quân chủ lập hiến thường thì nhà vua chủ yếu có chức năng
tượng trưng, là người đứng đầu các nghi lễ của quốc gia và thực sự có rất
ít quyền lực. Cũng như ở chế độ quân chủ lập hiến có nhà vua, thì chế độ
dân chủ lập hiến của Việt Nam có Tổng thống và chức vụ này cũng có
những chức năng tương tự.

§ 93. [Tổng thống Việt Nam]


Tổng thống Việt Nam là Nguyên thủ quốc gia, đại diện đất nước và
thống nhất dân tộc.

Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu đất nước, biểu tượng của quốc
gia dân tộc, có chức năng thay mặt cho đất nước về đối nội và đối ngoại.
Tổng thống trong thể chế đại nghị có những thẩm quyền hạn chế, quyền
lực chính trị giới hạn. Các nhiệm vụ và quyền hạn chính trị của Tổng
thống chủ yếu là về mặt nghi thức. Tổng thống Việt Nam có thể được xem
là một chức năng có những hoạt động tương tự như một quốc vương trong
thể chế «quân chủ lập hiến» ở một số quốc gia có định chế là nhà vua hay
nữ hoàng còn tồn tại. Do đó, chức vụ Tổng thống được thiết lập vừa là
một vị đại diện quốc gia, có đặc trách thống nhất dân tộc, vừa là để cân
bằng quyền lực trong Hệ thống Chính trị Việt Nam.

147
§ 94. [Bầu Tổng thống và điều kiện]
(1) Tổng thống nước Việt Nam Dân Chủ được Hội nghị bầu trong
phiên họp chung tại Quốc hội, được bầu theo hình thức bỏ phiếu
kín với đa số phiếu ủng hộ.
(2) Chức vụ Tổng thống Việt Nam được đề cử trong số thành viên
Hạ viện, từ đảng chính trị đạt đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc
hội; nhưng bất kỳ công dân nào đủ 40 tuổi, có đầy đủ điều kiện và
tài đức đều có thể được bầu làm Tổng thống nước Việt Nam, bất
kể công dân đó đang sống trong hay ngoài nước.
(3) Chức vụ Tổng thống Việt Nam trung lập, không thuộc cơ quan lập
pháp, hành pháp hay tư pháp. Phủ Tổng thống Việt Nam biệt lập
với các cơ quan công quyền khác.
(4) Tổng thống Việt Nam không thể nắm giữ một vị trí hưởng lương
khác hoặc hoạt động kinh tế, hay tham gia vào bất kỳ sinh hoạt
công cũng như tư vì lợi ích cá nhân.

Ở các quốc gia tổ chức theo chế độ cộng hòa tổng thống, như Hoa Kỳ,
nguyên thủ quốc gia không những là đứng đầu đất nước, mà còn trực tiếp
đứng đầu chính phủ, lãnh đạo hành pháp. Nguyên thủ quốc gia này thường
do nhân dân trực tiếp bầu ra.

Tổng thống nước Việt Nam Dân Chủ tương lai được Hội nghị của hai viện
Quốc hội bầu trong phiên họp chung tại nghị trường, được bầu theo hình
thức bỏ phiếu kín với đa số phiếu ủng hộ.

Hiến pháp 2021 quy định «Chức vụ Tổng thống Việt Nam được đề cử
trong số thành viên Hạ viện, từ đảng chính trị đạt đa số phiếu trong cuộc
bầu cử Quốc hội; nhưng bất kỳ công dân nào đủ 40 tuổi, có đầy đủ điều
kiện và tài đức đều có thể được bầu làm Tổng thống nước Việt Nam, bất
kể công dân đó đang sống trong hay ngoài nước». Về việc đề cử hay bầu
Tổng thống thì Hiến pháp mở rộng cho những chọn lựa đúng đắn và phù
hợp với hiện tình. Ở đây, Tổng thống thường là người đứng đầu một đảng
chính trị đạt đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội (mặc dù đảng này là
một đảng đạt đa số phiếu, song cũng có thể không trong trường hợp thành
lập Chính phủ). Theo mô hình nước CHLB Đức, Lãnh đạo hành pháp gồm
Thủ tướng và Tổng thống với quyền lực tập trung vào Thủ tướng. Do đó,
Thủ tướng là người đứng đầu hành pháp của một đảng chính trị, hoặc có
thể là Thủ tướng của một liên minh. Một đảng hoặc một liên minh đạt đa
số ghế Hạ viện được cử Thủ tướng Chính phủ. Hiến pháp quy định cách
thức bầu chức vụ Tổng thống cũng như Thủ tướng tương đối rõ ràng, do

148
đó, nguy cơ rủi ro tạo bất ổn hay xung đột giữa hai chức năng này có thể
xảy ra ở mức độ tối thiểu. Ngoài ra, Hiến pháp cũng mở rộng trong trường
hợp bầu một vị Tổng thống thực tài đức trong dân chúng.

§ 95. [Nhiệm kỳ Tổng thống]


(1) Tổng thống Việt Nam được bầu với nhiệm kỳ 5 năm, và được tái
cử thêm 1 nhiệm kỳ.
(2) Chậm nhất là 30 ngày trước khi hết hạn nhiệm kỳ Tổng thống,
Chủ tịch Thượng viện triệu tập phiên họp chung của hai viện và
các đại biểu để bầu Tổng thống mới.

Tổng thống Việt Nam được bầu với nhiệm kỳ 5 năm và được tái cử thêm
1 nhiệm kỳ. Tại sao 5 năm mà không phải 4 năm như nhiệm kỳ Quốc hội?
Trên thực tế, việc bầu Tổng thống không phải là một việc tối ưu trong hệ
thống nghị viện, bởi vì chức vụ này chỉ đóng một vai trò biểu tượng, nghi
thức. Hơn nữa Hiến pháp có quy định chức vụ Chủ tịch Thượng viện đóng
vai trò thay thế Tổng thống trong trường hợp chưa chọn được vị nguyên
thủ quốc gia và những nguyên do khác. Việc bầu Tổng thống cũng không
gấp rút, do đó, cuộc bầu cử có thể tiến hành trước nhất dành cho ba cơ
quan quyền lực: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Điều này cũng được
thực hiện trong trường hợp tái cử chức vụ Tổng thống, để tránh tình trạng
căng thẳng.

Tại sao Tổng thống được tái cử chỉ thêm 1 nhiệm kỳ mà không là Tổng
thống suốt đời như những chức năng một vị vua hay nữ hoàng ở các nước
quân chủ lập hiến? Nước ta vốn có nhiều người tài giỏi và đức độ, Hiến
pháp quy định như vậy là tạo điều kiện cho những người mới tham gia
vào một cơ quan đại diện đất nước, bất kể chính kiến, vùng miền hay hoàn
cảnh xã hội.

§ 96. [Thay thế Tổng thống]


(1) Trong trường hợp Tổng thống Việt Nam không thể thực thi được
chức năng của mình, chức năng này được Chủ tịch Thượng viện
đảm nhiệm.
(2) Trong trường hợp Tổng thống vĩnh viễn không còn khả năng làm
việc, chết, từ chức hoặc bị truất quyền, Chủ tịch Thượng viện ra
lệnh bầu cử Tổng thống mới trong vòng 14 ngày nếu nhiệm kỳ
còn thời hạn trên 1 năm, dưới 1 năm thì Chủ tịch Thượng viện
đảm nhiệm chức vụ Tổng thống cho đến hết nhiệm kỳ.

149
§ 97. [Quyền hạn của Tổng thống]
Tổng thống có thẩm quyền và chức năng như sau:
a) Bổ nhiệm và tiếp nhận đại diện ngoại giao; các nghi lễ ngoại giao;
ký kết điều ước quốc tế;
b) Bổ nhiệm và bãi nhiệm Hội đồng Chính phủ, thẩm phán và công
chức cao cấp;
c) Đặc xá và giảm nhẹ hình phạt đối với cá nhân phạm tội;
d) Trao các giải thưởng danh dự;
e) Gửi thông điệp đến Quốc hội và bày tỏ quan điểm liên quan đến
hiện tình đất nước;
f) Triệu tập và giải tán Quốc hội;
g) Ra lệnh tổ chức Bầu cử Quốc gia và khai mạc Quốc hội;
h) Ra lệnh tiến hành Trưng cầu dân ý trong trường hợp Hạ viện
không họp;
i) Ban hành Hiến pháp, Pháp luật, Sắc lệnh có hiệu lực pháp lý và
các Nghị quyết.

Tổng thống trong thể chế đại nghị, nói chung không có vai trò lớn trong
đời sống chinh trị, không có quyền hành pháp như tổng thống của các
nước có chế độ cộng hòa. Hiến pháp do đó được thiết lập một số thẩm
quyền phần lớn mang tính nghi thức cho đất nước, biểu tượng quốc gia
dân tộc.

Với nhiệm vụ cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị, Tổng thống có
thẩm quyền triệu tập và giải tán Quốc hội; ra lệnh tổ chức Bầu cử Quốc
gia và khai mạc Quốc hội. Thông qua các thẩm quyền này, có thể đánh giá
nước ta có một chế độ «¼ tổng thống», không phải là «bán tổng thống»
mà nhiều quốc gia sử dụng.

Một học giả cho rằng: Quyền hành pháp ở các nước tư bản được chia ra
làm hai phần, hành pháp tượng trưng và hành pháp thực hiện quyền lực.
Hành pháp tượng trưng của các nước có chế độ đại nghị thì nằm trong
tay nhà vua hoặc tổng thống, hành pháp thực hiện quyền lực do thủ tướng
nắm. Do đó, quyền lực của thủ tướng ở các nước đại nghị thường thể hiện
một cách hào hùng và cực mạnh.

§ 98. [Bổ nhiệm - bãi nhiệm Hội đồng Chính phủ]


(1) Tổng thống Việt Nam bổ nhiệm và bãi nhiệm Hội đồng Chính
phủ.

150
(2) Trong trường hợp không thống nhất về tuyển cử Thủ tướng, Tổng
thống có thể được tư vấn và đề nghị đề cử Thủ tướng mới, với sự
chấp thuận của đa số thành viên Quốc hội.
(3) Tổng thống có trách nhiệm chấp thuận đơn xin từ chức của thành
viên hoặc toàn thể Hội đồng Chính phủ.
(4) Trong trường hợp đặc biệt, Tổng thống có thể từ chối chấp thuận
việc từ chức của Hội đồng Chính phủ để bảo đảm sự chuyển tiếp
an toàn qua nhiệm kỳ mới.

§ 99. [Miễn trách Tổng thống]


Tổng thống Việt Nam không phải chịu trách nhiệm về những hành
động trong quá trình thực thi nghĩa vụ tổng thống, trừ khi vi phạm
Hiến pháp.

§ 100. [Tuyên thệ trung thành]


Trước khi nhậm chức, Tổng thống Việt Nam sẽ tuyên thệ trước các
thành viên Quốc hội và nhân dân như sau: «Tôi long trọng tuyên thệ
trước toàn thể sẽ bảo vệ các quyền cơ bản của nhân dân và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam, trung thành với Hiến pháp, phục vụ quyền lợi quốc
gia và tận lực làm tròn nhiệm vụ Tổng thống nước Việt Nam».

151
CHƯƠNG V: CHÍNH PHỦ

Như đề cập tại Chương III, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, có chức năng chính là lập pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước, bao gồm việc xác lập các cơ
cấu trung ương (bầu Tổng thống, bầu Thủ tướng, bầu Chánh án và Thầm
phán, bổ nhiệm các Hội đồng và Cơ quan độc lập) và giám sát tối cao toàn
bộ hoạt động của đất nước.

Một trong ba cơ quan quyền lực nhất của hệ thống quản trị quốc gia: Lập
pháp (Quốc hội) ban hành luật, hành pháp (Chính phủ) thực thi luật và tư
pháp (Tòa án) xét xử, phán quyết và giải thích luật – Chính phủ là một
trong ba cơ quan quyền lực của quốc gia, có thẩm quyền hành pháp, tức
có trách nhiệm điều hành các chính sách quốc gia, quản lý cơ chế hành
chính trung ương và có trách nhiệm thực thi các đạo luật ban hành.

Trên thế giới hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất mô tả về
nhánh hành pháp, bởi nhánh quyền lực này trong thể chế dân chủ thường
có phạm vi rộng lớn. Trong nhiều trường hợp đôi khi dẫn đến lấn át các
nhánh quyền lực khác. Hiến pháp của mỗi nước thường là công cụ hữu
hiệu nhất để xác lập ranh giới quyền lực cũng như xác định nhiệm vụ và
quyền hạn của phạm vi hành pháp và các nhánh quyền lực. Điều này phần
nào bởi sự đa dạng của đời sống chính trị cũng như xã hội của các quốc
gia.

Quyền hành pháp, cách tổ chức và trách nhiệm của Chính phủ được quy
định trong Hiến pháp, Chương V, bao gồm Hội đồng Chính phủ và Cơ
quan hành chính, và một số điều khoản xen kẽ ở các chương khác. Các
chế định này có thể giúp Thủ tướng và Chính phủ tương lai có nhiều khả
năng trong việc điều hành, thực hiện chính sách cũng như đối phó với
nhiều hoàn cảnh thay đổi của thực trạng trong và ngoài nước.

Chính phủ thường chịu trách nhiệm cụ thể về các nhiệm vụ như sau:
- Chính phủ đề xuất dự thảo ngân sách quốc gia cho Quốc hội.
- Chính phủ đề xuất các dự luật mới cho Quốc hội.
- Chính phủ thực hành các đạo luật và biện pháp mà Quốc hội
quyết định.
- Chính phủ đưa ra các hướng dẫn và quy định về các luật mà Quốc
hội đã thông qua.

152
- Chính phủ chịu trách nhiệm cho các cơ cấu phục vụ quốc gia, như
bệnh viện, trường đại học, quốc phòng v.v.
- Chính phủ xử lý chính sách đối ngoại.
- Chính phủ chịu trách nhiệm về quyền sở hữu của quốc gia, ví dụ
các công ty ở nước ngoài.

Mục I. Hội đồng Chính phủ

§ 101. [Quyền hành pháp]


(1) Quyền hành pháp thuộc về Chính phủ/Nội các/Hội đồng Chính
phủ.
(2) Thành viên Hội đồng Chính phủ gồm Thủ tướng là Chủ tịch Hội
đồng Chính phủ cũng là người đứng đầu Chính phủ, và các Bộ
trưởng.
(3) Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm điều hành chính sách quốc
gia, quản lý cơ chế hành chính và có trách nhiệm thực thi các đạo
luật ban hành.
(4) Quy định tổ chức hoạt động, trách nhiệm và thẩm quyền của Hội
đồng Chính phủ do luật định.

Tổ chức Chính phủ, thẩm quyền cũng như nhiệm vụ được quy định trong
Hiến pháp. Theo thể chế đại nghị, Chính phủ là một Hội đồng Chính phủ,
(Nội các trong nghị trường), một tập thể hành pháp bao gồm Thủ tướng
và các Bộ trưởng. Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, là người chỉ
đạo Hội đồng Chính phủ, được quy định trong Hiến pháp và do Quốc hội
bầu ra (§ 105), thường là người lãnh đạo của một đảng lớn chiếm đa số
ghế trong Quốc hội hoặc một liên minh cầm quyền. Thủ tướng có quyền
chỉ định các Bộ trưởng để Tổng thống phê chuẩn. Thủ tướng và các Bộ
trưởng là đại biểu Hạ viện. Ở một số quốc gia cũng có trường hợp Bộ
trưởng không nhất thiết là đại biểu.

Các chế độ đa đảng phái ở các nước dân chủ, đại nghị, thường không quy
định nhiều phó thủ tướng như Chính phủ Việt Nam hiện nay. Ở các quốc gia
này, chức vụ phó thủ tướng thường giao cho các chức vụ bộ trưởng trong
trường hợp thủ tướng gặp bất trắc. Điều này cũng được áp dụng cho một
đảng cầm quyền hoặc cho một liên minh đa đảng phái. Hơn nữa, các chính
phủ ở các nước này làm việc theo tính hệ thống và năng suất, do đó, việc
điều hành nhiệm vụ thường dẫn đến một chính phủ hiệu quả và liêm chính.

153
Tại điều khoản này, Hiến pháp mở rộng cho việc quy định, thiết lập chức
năng và tổ chức Hội đồng Chính phủ cụ thể hơn.

§ 102. [Trách nhiệm]


(1) Thủ tướng đại diện Chính phủ có trách nhiệm điều hành công việc
của Hội đồng Chính phủ, thống nhất và phối hợp hoạt động của
các Bộ trưởng, thực hiện và chịu trách nhiệm với các chính sách
chung của Chính phủ. Thủ tướng có trách nhiệm cụ thể như sau:
a) Ban hành quy định dưới luật thông qua các văn bản
hướng dẫn luật và có trách nhiệm đưa ra áp dụng; thiết kế
và phác thảo các quy tắc chi tiết hơn theo hình thức quy
định và điều lệ;
b) Quy định các phương pháp thực hiện và bảo đảm thực thi
các chính sách do Hội đồng Chính phủ thông qua. Kiểm
soát và thanh tra công việc của các Bộ trưởng;
c) Thực hiện quyền giám sát chính quyền và cơ cấu hành
chính địa phương.
(2) Cùng phối hợp và thống nhất tại khoản (1) mỗi Bộ trưởng phụ
trách một lĩnh vực trong Chính phủ, chịu trách nhiệm trong phạm
vi hoạt động và thẩm quyền của mình, chịu trách nhiệm tập thể
của Hội đồng Chính phủ, và các nhiệm vụ do Thủ tướng phân
công.

Ở các nước dân chủ, khái niệm «thẩm quyền» của chính phủ không mấy
được phổ biến hay phô trương nhiều trong công chúng, thay vào đó là
«trách nhiệm» đối với nhân dân theo quy định của hiến pháp và pháp luật
quốc gia. Mặc dù các sắc lệnh của chính phủ trong nhiều trường hợp hàm
chứa quyền uy vô cùng song dân chúng ở các nước này rất một mực tuân
thủ.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Nhiệm vụ và quyền hạn của chính phủ trong
hiến pháp trên thế giới được qui định rất khác nhau, điều này phần nào
bởi sự đa dạng của đời sống chính trị, xã hội các quốc gia. Chẳng hạn,
thẩm quyền của Chính phủ CHLB Đức được phân chia thành hai nhóm:
những thẩm quyền mà Thủ tướng hoặc Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá
nhân và những thẩm quyền mà tập thể Chính phủ chịu trách nhiệm. Thủ
tướng Đức có quyền điều hành Chính phủ, quyền quyết định về tổ chức
và nhân sự và quyền đưa ra những quyết sách, xác lập đường lối chính trị
của Chính phủ. Tập thể Chính phủ Đức có thẩm quyền trình dự án luật,
trình dự án ngân sách và chi tiêu theo ngân sách, ban hành các văn bản

154
pháp qui, giám sát việc thi hành luật thông qua các cơ quan hành chính
của bang...»

Tương tự như mô hình Chính phủ Đức và Na Uy, Hiến pháp Việt Nam
2021 quy định Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm và quyền hạn cụ thể
như sau:
a) Ban hành quy định dưới luật thông qua các văn bản hướng dẫn luật và
có trách nhiệm đưa ra áp dụng; thiết kế và phác thảo các quy tắc chi tiết
hơn theo hình thức quy định và điều lệ (§ 79);
b) Quy định các phương pháp thực hiện và bảo đảm thực thi các chính
sách do Hội đồng Chính phủ thông qua (ví dụ: quốc sách, chiến lược phát
triển nền kinh tế-xã hội trên cơ sở (§ 75), và (§ 80, § 81…). Kiểm soát và
thanh tra công việc của các Bộ trưởng;
c) Thực hiện quyền giám sát chính quyền và cơ cấu hành chính địa
phương (Chương VII, một số điều khoản). Ngoài việc quy định cụ thể tại
các khoản này, Thủ tướng lãnh đạo các Bộ ngành, một số cơ quan ngang
Bộ và các cơ quan hành chính trực thuộc trung ương, một số điều khoản
tại Chương VII Địa phương và các điều khoản ở các chương khác.

§ 103. [Thành phần trước pháp luật]


(1) Thủ tướng và các Bộ trưởng không nắm giữ một vị trí hưởng
lương khác hoặc hoạt động kinh tế, hay tham gia vào bất kỳ hoạt
động công cũng như tư vì lợi ích cá nhân.
(2) Phối ngẫu, cha mẹ, con cái hoặc anh chị em của các thành viên
Hội đồng Chính phủ không được phép ngồi chung bàn chung ghế
cùng nhiệm kỳ tại Hội đồng Chính phủ.
(3) Thành viên Hội đồng Chính phủ được đưa ra Tòa án Quốc gia
để xem xét trách nhiệm cũng như quyền hạn của mình về việc vi
phạm Hiến pháp và các đạo luật, theo đề nghị của ít nhất 1/5 số
phiếu Quốc hội.
(4) Cho dù không còn đương nhiệm, thành viên Hội đồng Chính phủ
vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tội phạm thực
hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình.

Song song với thẩm quyền được giao phó và quy định trong Hiến pháp,
Hội đồng Chính phủ còn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tội
phạm thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Hiến pháp cũng quy
định cấm thành phần gia đình, bà con, thân thuộc tham gia trong cùng một
cơ quan, như phối ngẫu, cha mẹ, con cái hoặc anh chị em của các thành
viên Hội đồng Chính phủ không được phép ngồi chung bàn chung ghế

155
trong cùng nhiệm kỳ tại Hội đồng Chính phủ. Điều khoản này được thiết
chế là để tránh các nguy cơ có thể trở thành những chế độ «gia đình trị»
và lạm quyền trong cơ chế vận hành quốc gia.

Ngoài ra, chế độ công khai minh bạch thu nhập và tài sản trong một nước
dân chủ pháp quyền được quy định ở các điều khoản về chế độ khai thuế,
giám sát của các cơ quan độc lập và tư pháp để xử lý các quan chức tham
nhũng, cấm các quan chức trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào các doanh
nghiệp công, hoạt động cung cấp dịch vụ công để trục lợi riêng.

§ 104. [Tuyên thệ nhậm chức]


Trước khi nhậm chức, Thủ tướng và các Bộ trưởng sẽ tuyên thệ trước
Quốc hội và Nhân dân Việt Nam như sau: «Tôi long trọng tuyên thệ
trước toàn thể sẽ bảo vệ các quyền cơ bản của nhân dân và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam, trung thành với Hiến pháp, phục vụ quyền lợi quốc
gia và tận lực làm tròn nhiệm vụ của mình».

§ 105. [Thành lập chính phủ và bầu Thủ tướng]


(1) Chính phủ được thành lập gồm một chính đảng hoặc kết hợp đa
đảng theo hình thức liên minh đạt đa số ghế, ít nhất là 50 phần
trăm cộng 1 của tổng số ghế Hạ viện.
(2) Trong trường hợp quốc gia chỉ có hai chính đảng thì đảng nào
chiếm đa số ghế Hạ viện theo khoản (1) có quyền thành lập Chính
phủ gồm các đại biểu của mình. Trường hợp đa đảng và không có
đảng nào chiếm đa số ghế tuyệt đối thì Chính phủ có thể thành lập
theo thể thức liên minh, kết hợp bởi một số đảng có chính sách
phù hợp để đạt đa số ghế Hạ viện. Đảng có đa số ghế Hạ viện nhất
được cử Thủ tướng Chính phủ. Một số chính đảng thiểu số có thể
kết hợp cố định với các chính đảng đa số để cùng đạt được đa số
ghế Hạ viện và hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách chung.
(3) Chính phủ thành lập trên cơ sở đại nghị tại Quốc hội. Đa số thành
viên Quốc hội là chung quyết khi giao phó trách nhiệm cũng như
rút tín nhiệm đối với Chính phủ.
(4) Sau khi các cuộc đàm phán và thảo luận chính trị giữa các chính
đảng trong Quốc hội đã được giải quyết và đồng thuận, Tổng
thống bổ nhiệm Thủ tướng mới và các Bộ trưởng vào Hội đồng
Chính phủ. Xt. § 98.
(5) Trường hợp không thống nhất được quyết định thành lập Chính
phủ, Quốc hội vào cuộc để bầu Thủ tướng mới trong vòng 14

156
ngày thông qua cuộc bỏ phiếu kín chấp thuận với đa số thành viên
của hai viện Quốc hội.

Cơ sở để thành lập Chính phủ là một đảng chính trị hoặc liên minh các
đảng giành được đa số ghế trong Hạ viện thông qua một kỳ bầu cử. Bầu
cử Quốc hội được thực hiện bằng phương pháp tỷ lệ theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật. Cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức bốn năm một
lần, và tổng số ghế 427 đại biểu Hạ viện được phân bổ vào các đảng phái
chính trị.

Thông thường sau cuộc bầu cử, các mối quan hệ quyền lực thay đổi trong
Quốc hội. Trường hợp Chính phủ bị suy yếu, hoặc không thể thực hiện
những cam kết, lúc dó Chính phủ phải xem xét việc xin từ nhiệm. Tiếp
diễn là Thủ tướng đề xuất một ứng cử viên Thủ tướng mới cho Tổng
thống để bổ nhiệm. Đây có thể là người lãnh đạo của đảng lớn nhất hoặc
lãnh đạo của một liên minh các đảng phái.

Theo Hiến pháp 2021, Việt Nam trong tương lai có một hệ thống chính trị
đa đảng. Kết quả bầu cử Quốc hội lần đầu tiên phát sinh như thế nào thì
rất khó dự đoán. Có thể có trường hợp một đảng chiếm đa số để một mình
thành lập Chính phủ riêng, hoặc hai ba đảng kết hợp lại với nhau để thành
lập Chính phủ liên minh. Trường hợp Chính phủ là đa số, thì tương đối an
toàn và có thể ảnh hưởng hiệu quả hơn. Nếu Chính phủ là một Chính phủ
thiểu số, thì phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ các đảng khác trong từng trường
hợp cụ thể để đạt đa số theo luật định.

Sau cuộc bầu cử Hạ viện Quốc hội, nếu kết quả tốt và rõ, việc kế tiếp là
bầu Thủ tướng và thành lập Hội đồng Chính phủ. Sau cuộc bầu cử và
thành lập Chính phủ mới cũng là lúc Chính phủ rời khỏi Quốc hội trở
thành một Cơ quan hành pháp với những nhiệm vụ được giao phó theo
luật định.

Về cuộc bầu cử Quốc hội và các phương pháp bầu cử trong chế độ đại
nghị và đa đảng, được quy định riêng tại Chương VIII Bầu cử, Phụ lục và
Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

Điều khoản Hiến pháp quy định «Chính phủ được thành lập gồm một
chính đảng hoặc kết hợp đa đảng theo hình thức liên minh đạt đa số ghế,
ít nhất là 50 phần trăm cộng 1 của tổng số ghế Hạ viện». 50% của tổng
số ghế Hạ viện (427 ghế) tức là 213,5 ghế, cộng thêm 1 thành 214,5 ghế,

157
được quy tròn (rounded) thành ra 214 ghế. Chính phủ của một đảng hoặc
liên minh đa đảng chính thức được thành lập khi đạt được ít nhất 214 ghế
Hạ viện Quốc hội.

Chính phủ thành lập trên cơ sở đại nghị tại Quốc hội. Đa số thành viên
Quốc hội là chung quyết khi giao phó trách nhiệm cũng như rút tín nhiệm
đối với Chính phủ.
«Sau khi các cuộc đàm phán và thảo luận chính trị giữa các chính đảng
trong Quốc hội đã được giải quyết và đồng thuận, Tổng thống bổ nhiệm
Thủ tướng mới và các Bộ trưởng vào Hội đồng Chính phủ. Xt. § 98». Tại
đây, trước khi hiện diện tại Phủ Tổng thống, thì Thủ tướng đã hoàn thành
quyết định việc bổ nhiệm các chức vụ Bộ trưởng vào các Bộ ngành.

«Trường hợp không thống nhất được quyết định thành lập Chính phủ,
Quốc hội vào cuộc để bầu Thủ tướng mới trong vòng 14 ngày thông qua
cuộc bỏ phiếu kín chấp thuận với đa số thành viên của hai viện Quốc hội».
Trên thế giới, một số quốc gia chẳng may rơi vào tình trạng khó phân xử
do kết quả bầu cử xảy ra ngoài dự đoán, và những cuộc tranh cãi cũng như
đàm phán gay gắt dẫn đến tranh chấp giữa các đảng phái. Trong trường
hợp như vậy, Chủ tịch Hạ viện và Thượng viện đương nhiệm có quyền
đưa ra các đề xuất bầu Thủ tướng và triệu tập tất cả thành viên hai viện
Quốc hội để bỏ phiếu lựa chọn để đưa ra quyết định chung.

§ 106. [Bỏ phiếu tín nhiệm]


(1) Trong thời hạn 14 ngày kể từ khi được bổ nhiệm, Thủ tướng có
trách nhiệm trình kế hoạch hành pháp của Hội đồng Chính phủ
lên Quốc hội và cùng lúc đề xuất bỏ phiếu tín nhiệm. Biểu quyết
tín nhiệm được Quốc hội thông qua với đa số phiếu. Hội đồng
Chính phủ cần phải nhận được sự tín nhiệm của hai viện Quốc
hội.
(2) Trong trường hợp Hội đồng Chính phủ không đạt được tín nhiệm
theo khoản (1), Tổng thống thi hành nhiệm vụ rút ngắn hoặc kéo
dài nhiệm kỳ của Hội đồng Chính phủ cho đến khi một chính phủ
đạt đa số phiếu tín nhiệm.

Để bảo đảm một Chính phủ kiến tạo của Việt Nam có khả năng thực hiện
các chính sách tốt nhất và bền vững, đòi hỏi một số điều kiện đáp ứng
trước khi đi vào hoạt động. Điều khoản này được thiết lập trước hết là một
điều nhắc nhở các đảng phái khi muốn tham chính là phải có những chuẩn
mực chính trị, chuẩn bị và sẵn sàng các dự án chính trị tốt, các dự án chiến

158
lược phát triển kinh tế-xã hội trình bày công khai, được sử dụng trong
cuộc tranh cử, sau khi thắng cử và khi đi vào hoạt động. (Điều này củng
cố cho việc loại trừ những đảng phái chỉ giỏi quảng cáo chính trị mà thực
chất thì không có một dự án quyết sách nào tốt).

§ 107. [Bỏ phiếu bất tín nhiệm]


(1) Quốc hội thông qua hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Hội
đồng Chính phủ hoặc từng thành viên theo một đề xuất ghi danh
và lý do với chữ ký ít nhất 1/10 của tổng số thành viên Quốc hội
và phải 3 ngày sau khi đề xuất mới được đưa ra thảo luận.
(2) Đề xuất quy định tại khoản (1) có thể đưa ra bỏ phiếu chậm nhất
là 7 ngày sau khi được đệ trình. Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm
với đa số quá bán, Chính phủ bắt buộc phải từ chức.
(3) Thành viên Hội đồng Chính phủ có nghĩa vụ cá nhân hoặc thay
mặt toàn thể nộp đơn xin từ chức sau khi Quốc hội đã biểu quyết
bất tín nhiệm.
(4) Quốc hội bỏ phiếu phản đối một đề xuất chính sách của Chính
phủ không dẫn đến việc buộc Chính phủ phải từ chức.

Để thực thi quyền lực, Chính phủ phụ thuộc vào đa số nghị viện thông qua
một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm. Đó là chủ quyền nhân
dân đạt được ảnh hưởng lớn do kết quả của nguyên tắc phân lập quyền lực
trong thể chế đại nghị, đa đảng, được quy định trong Hiến pháp.

Việc một quốc gia có hình thức đại nghị hoặc nghị viện có nghĩa là Chính
phủ đang hành pháp bởi đa số tán thành trong Quốc hội, tức là được
Quốc hội thông qua trên hình thức bỏ phiếu tín nhiệm. Ngược lại, khi đa
số trong Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm thì Chính phủ phải từ nhiệm.
Trường hợp một hoặc vài thành viên Chính phủ bị đưa ra đề xuất bỏ phiếu
bất tín nhiệm thì Thủ tướng có thể chuẩn bị thay thế số thành viên đó
trước khi một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm thành hiện thực. Thông thường,
Chính phủ mất quyền lực và ra đi do thua cuộc tranh cử vào Quốc hội.

§ 108. [Bãi nhiệm]


(1) Khi Quốc hội mới được bầu và nhiệm kỳ mới được khai mạc, Thủ
tướng có trách nhiệm đệ trình việc từ chức và bãi nhiệm của Hội
đồng Chính phủ, trừ khi Hội đồng Chính phủ đó được bầu thêm
nhiệm kỳ kế tiếp.
(2) Thủ tướng còn có trách nhiệm đệ trình việc từ chức của Hội đồng
Chính phủ trong các trường hợp như sau:

159
a) Đề xuất tín nhiệm không được Quốc hội thông qua;
b) Đề xuất bất tín nhiệm được Quốc hội thông qua;
c) Thủ tướng tự nguyện từ chức.
(3) Trong trường hợp đặc biệt, Tổng thống có thể bắt buộc Hội đồng
Chính phủ tiếp tục nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng Chính phủ mới
được hình thành.

Mục II. Cơ quan hành chính

§ 109. [Cơ quan hành chính]


(1) Các cơ quan hành chính được tổ chức phù hợp với Hiến Pháp và
Pháp luật, nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả các công vụ, trung
lập về chính trị và công bằng của hệ thống hành chính.
(2) Tất cả các cơ quan hành chính theo luật định phải được đăng ký
với tư cách pháp nhân, bao gồm Quốc hội, Phủ Tổng thống, Phủ
Thủ tướng, các Bộ ngành, cơ quan Tư pháp và các đơn vị trực
thuộc cũng như các đơn vị địa phương các cấp.
(3) Quy định về các cơ quan hành chính nêu rõ phạm vi quyền hạn,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các công chức, viên chức và công
nhân viên.
(4) Các công văn, nghị quyết, thư mời xuất phát từ các cơ quan hành
chính, đều phải nêu rõ nguyên nhân và dẫn chiếu điều khoản của
đạo luật.
(5) Cơ hội làm việc trong các cơ quan hành chính được thực hiện qua
các cuộc thi cử cạnh tranh, công khai, bình đẳng và công bằng
tuyển chọn.

§ 110. [Độc lập của công chức]


(1) Nhiệm vụ của công chức là phục vụ nhân dân và quốc gia trong
phạm vi trách nhiệm chuyên nghiệp của mình trong cơ quan trực
thuộc.
(2) Các công chức không thể được thăng cấp trong công việc, trừ
trường hợp theo thâm niên với sự thông qua và chấp thuận bởi
công đoàn nghề nghiệp.
(3) Các công chức phải trung lập trong các vấn đề chính trị, tư pháp,
và là công cụ của sự quản lý dân sự và dân chủ.
(4) Luật có thể quy định hạn chế các thẩm phán, công chức trong
ngành tư pháp, nhân viên cơ quan đại diện ngoại giao, quân nhân

160
và cảnh sát quyền tham gia đảng chính trị hoặc trở thành đảng
viên đảng chính trị.

Để có được Chính phủ liêm chính trong thể chế dân chủ, các cơ quan hành
chính ở xã hội Bắc Âu được tổ chức rất rõ ràng và hoạt động độc lập,
chuyên nghiệp, thường mang tới những thành quả đáng chú ý mà nhiều
người trên thế giới biết đến.

Ở các nước Bắc Âu, các cơ quan hành chính của quốc gia là bộ máy điều
hành các chính sách dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng và Chính phủ, được
giao phó các nhiệm vụ soạn thảo văn kiện và thi hành các quyết định của
Quốc hội. Bộ máy hành chính quốc gia là một trọng tâm của quyền hành
pháp, được mô tả và định nghĩa trong Hiến pháp - không giống như quyền
lập pháp (Quốc hội) và quyền tư pháp (Tòa án).

Các Bộ
Nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan hành chính là làm thư ký dưới sự
chỉ đạo chính trị của các Bộ - các Bộ trưởng. Tuy nhiên, hoạt động này
được cho là dựa trên các tiêu chuẩn về tính trung lập chính trị và sự độc
lập chuyên nghiệp liên quan đến chính phủ tại bất kỳ thời điểm nào. Vai
trò như vậy có nghĩa là các Bộ đảm nhiệm chức năng hoạch định bằng
cách kiểm tra và đánh giá các đề xuất, thường là dự án luật, dự thảo ngân
sách hoặc các vấn đề khác - mà Chính phủ muốn thúc đẩy để được xem
xét và thông qua trong Quốc hội.

Ngoài ra, phần quan trọng và trách nhiệm chính của các Bộ trưởng là việc
thực hiện các chính sách được Hội đồng Chính phủ và Quốc hội thông
qua. Điều này cũng áp dụng cho các quyết định đối với chính quyền địa
phương, đó là các tỉnh thành và các đơn vị hành chính trực thuộc.

Cơ quan hành chính và giám sát


Phần lớn nhất của bộ máy hành chính trung ương (chính quyền trung
ương) có thể được thực hiện ở bên ngoài các Bộ - đó là các cơ quan hành
chính và một số cơ quan giám sát quốc gia. Đây là những cơ quan hành
chính trực thuộc các Bộ, có chuyên môn sâu rộng hơn so với các hoạt
động của các Bộ. Trong khi các công chức ở các Bộ có thể được mô tả
như những người hoạt động tổng quát về hành chính, ví dụ giáo dục, luật,
kinh tế và khoa học chính trị; thì các công chức trong các cơ quan hành
chính lại có bề rộng chuyên nghiệp - như dược sĩ, bác sĩ, nhà nông nghiệp,
kiến ​​trúc sư, nhà tâm lý học, kỹ sư, nhà thần học, nhà sinh học - phụ trợ
tổng quát về kiến thức.

161
Các cơ quan hành chính được thành lập để giúp giải tỏa các nhiệm vụ và
hoạt động của Bộ, có trách nhiệm chính trong việc thực hiện chính sách
của Chính phủ - ngoài việc thực hiện giám sát và kiểm soát các hoạt động
tài trợ của quốc gia diễn ra trong các tổ chức công và tư nhân. Một số cơ
quan chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người dân, chẳng
hạn như Cơ quan phúc lợi (an sinh xã hội), Cơ quan cung cấp việc làm
và Ngân hàng phát triển nông thôn. Vai trò của các cơ quan là các nhà
cung cấp dịch vụ và cũng có các chi nhánh và đơn vị ở các cấp độ. Điều
này thường áp dụng cho Cơ quan phúc lợi và Sở cảnh sát. Các cơ quan
hoạt động độc lập với các hoạt động về giám sát và kiểm soát, chẳng hạn
như Cơ quan thanh tra dữ liệu và Cơ quan giám sát tài chính. Cơ quan có
nhiệm vụ với tính chất hỗn hợp hơn thì thường thấy ở các ngành như Viện
Y tế. Ngoài các nhiệm vụ chính, các cơ quan này còn đóng góp ý kiến,
cung cấp đề xuất, lời khuyên, khuyến nghị chuyên môn trong công việc
của các Bộ bằng cách biên soạn các biện pháp chính trị mới. Các cơ quan
hành chính quốc gia không nhất thiết đặt tại khu vực thủ đô, mà ở những
nơi nào thật sự hữu dụng nhất cho quốc gia cũng như cho người dân, và
tất nhiên thích ứng theo hiện tình đất nước.

Ở một số quốc gia có hệ thống hành chính hàng đầu trên thế giới, các bộ
máy hành chính trung ương là mối liên kết giữa chính quyền trung ương
và chính quyền địa phương. Thông qua sự tồn tại dài lịch sử, và theo tính
chất cải cách khu vực qua nhiều thời kỳ, chức năng quan trọng này cần
được bảo trì như một phần quan trọng của hệ thống hành chính của đất
nước.

Vai trò của cơ quan hành chính


Mỗi cơ quan trung ương là một tổ chức hành chính, với một người lãnh
đạo cũng là người quản lý. Trong việc điều hành các chính sách chính
phủ, một số lĩnh vực hoạt động được tách ra và áp đặt vào cơ quan hành
chính; điều này đặc biệt áp dụng cho các đơn vị quản lý để giải quyết một
số nhiệm vụ cụ thể hoặc được xác định rõ ràng.

Các cơ quan hành chính thường có mức độ độc lập khác nhau liên quan
đến chức năng mà họ lãnh nhận. Một số cơ quan ở cùng vị trí ngang với
một bộ có thể đưa ra quyết định thay cho bộ trưởng, trong khi những cơ
quan khác đưa ra quyết định ít nhiều độc lập và tự chịu trách nhiệm.

162
Khái niệm cơ quan chủ yếu được sử dụng cho các tổ chức có nhiệm vụ
hành chính trung ương được giao phó hoạt động theo luật, hướng dẫn và
có thẩm quyền theo luật định.

Mô thức cơ quan hoạt động trên cả nước được thực hiện theo từng lĩnh
vực. Tuy nhiên, một số cơ quan thành lập văn phòng tại khu vực địa
phương để bảo trì hoạt động - chẳng hạn như các khu cảnh sát và cơ quan
quản lý giao thông.

163
CHƯƠNG VI: TÒA ÁN

Như đề cập tại Chương III, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, có chức năng chính là lập pháp, sửa đổi và bãi bỏ luật, quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước, bao gồm việc xác lập các cơ
cấu trung ương (bầu Tổng thống, bầu Thủ tướng, bầu Chánh án và Thầm
phán, bổ nhiệm các Hội đồng và Cơ quan bổ trợ) và giám sát tối cao toàn
bộ hoạt động của đất nước.

Một trong ba cơ quan quyền lực nhất của hệ thống quản trị quốc gia: Lập
pháp (Quốc hội) ban hành luật, hành pháp (Chính phủ) thực thi luật và tư
pháp (Tòa án) xét xử, phán quyết và giải thích luật – Tòa án là một trong
ba cơ quan quyền lực của quốc gia, có thẩm quyền xét xử, phán quyết và
giải thích luật, còn gọi là cơ quan tư pháp, hệ thống tòa án. Một quốc gia
pháp quyền, chánh án và các thẩm phán hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ
hiến pháp và pháp luật.

Tại hầu hết các quốc gia dân chủ hiện đại, tòa án được xác định là cơ quan
tư pháp hoạt động độc lập, không bị chi phối bởi các cơ quan hoạt động
chính trị. Tòa án có thẩm quyền xét xử và tuyên án mọi hành vi vi phạm
pháp luật, giải quyết các tranh chấp giữa các chủ thể, giữa các giới chính
quyền với các cá nhân, các tranh chấp dân sự, và trực tiếp chỉ huy cảnh sát
trong các vấn đề hình sự. Ngoài các mục tiêu và nhiệm vụ chính, tòa án
còn bảo vệ hiến pháp và pháp luật bằng việc góp phần hoàn thiện hệ thống
tư pháp, thông qua các trải nghiệm thực tiễn trong các phiên tòa xét xử, để
duy trì và phát triển ngành pháp luật.

Nhánh Tư pháp Việt Nam trong tương lai lần đầu tiên được củng cố đáng
kể trong Hiến pháp 2021 so với các bản Hiến pháp trước đây.

Bên cạnh Tòa án Tối cao, hệ thống tư pháp còn có thêm Tòa án Quốc
gia (phán quyết các trường hợp vi hiến và vi phạm pháp luật đối với các
thành viên cơ quan lập pháp và hành pháp), Tòa án Hiến Pháp (kiểm tra
luật, hành vi vi hiến, các quyết định trái với pháp luật, giải quyết các tranh
chấp liên quan đến Hiến pháp) và Hội đồng Tư pháp Quốc gia (bảo đảm
tính độc lập của tòa án và các thẩm phán; quản lý hệ thống tòa án của Việt
Nam; quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các tòa án và các
cơ quan xét xử; có thẩm quyền thuê, bổ nhiệm, thuyên chuyển, thăng chức
và kỷ luật các thẩm phán).

164
Hệ thống Tư pháp được quy định trong Hiến pháp, Chương VI Tòa án và
Chương X Bảo hiến.

Mục I. Tổ chức Tư pháp

§ 111. [Quyền tư pháp]


(1) Nhân danh nhân dân, quyền tư pháp được giao phó cho Tòa án và
thực thi bởi các Thẩm phán.
(2) Tư pháp là một nhánh tự trị và độc lập với tất cả các nhánh quyền
lực khác.
(3) Tòa án có thẩm quyền trực tiếp chỉ huy cảnh sát tư pháp.

Quyền tư pháp được nhân dân trao cho Tòa án, cơ quan duy nhất được
hiến định để thi hành nhiệm vụ xét xử dựa trên cơ sở pháp lý. Quyền xét
xử là hoạt động nhân danh nhân dân nên được bảo đảm thực hiện tự trị và
độc lập trong nền dân chủ.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Nguyên tắc độc lập của Toà án quan trọng bậc
nhất trong ngành tư pháp. Nguyên tắc này được sinh ra do đòi hỏi phải
thực hiện chức năng xét xử một cách công bằng. Ngay từ tác phẩm “Tinh
thần pháp luật” (1748), Montesquieu đã cảnh báo về sự nguy hiểm của
việc không tách rời các quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành
pháp. Sự độc lập của toà án khỏi lập pháp và hành pháp là một trong
những bảo đảm quan trọng đối với nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ các
quyền con người, chống lại tình trạng tham nhũng, lợi dụng quyền lực của
những nhà cầm quyền. Trong cơ cấu bộ máy nhà nước, lập pháp và hành
pháp bao giờ cũng phải phối hợp với nhau ở mức độ nhất định, nhưng tư
pháp phải luôn riêng rẽ để có thể phán xét về sự đúng sai của hai ngành
quyền lực kia.

Trên thế giới, hiến pháp các quốc gia đều có các qui định đảm bảo cho tòa
án độc lập. Nội dung thể hiện nguyên tắc độc lập của tư pháp rất đa dạng, ở
nhiều khía cạnh, cấp độ. Trước hết, về thể chế, hệ thống cơ quan tòa án phải
độc lập, sau đến là các thẩm phán người thực hiện hoạt động xét xử phải
độc lập. Các thẩm phán phải hội đủ các điều kiện đảm bảo sự độc lập cả
với bên trong và bên ngoài tòa án (về tiêu chuẩn thẩm phán, nhiệm kỳ thẩm
phán đủ dài, về thu nhập...).» Nguyên tắc này bảo đảm cho đất nước chọn
được những người có đủ các điều kiện cần thiết để trở thành thẩm phán.

165
§ 112. [Tổ chức Tư pháp]
Quy định việc tổ chức và điều hành ngành tư pháp, phân công nhiệm
vụ và quyền hạn của các thẩm phán sẽ do luật định. Đạo luật này phù
hợp với Hiến pháp, bảo đảm sự độc lập của thẩm phán tại các tòa án,
sự độc lập của các công tố viên tại tòa án và những người tham gia
vào tiến trình tư pháp.

Trên thế giới, việc tổ chức các tòa án rất đa dạng tùy theo điều kiện chính
trị, lịch sử và hiện tình đất nước đó. Phần nhiều cách tổ chức tòa án nhắm
vào việc thực hiện xét xử trên cương vị bảo đảm tính độc lập của thẩm
phán tại các tòa án, sự độc lập của các công tố viên tại tòa án và những
người tham gia vào tiến trình tư pháp.

Quy định việc tổ chức và điều hành ngành tư pháp, phân công nhiệm vụ
và quyền hạn của các thẩm phán sẽ do luật định. Luật định ở đây, Hiến
pháp muốn mở rộng chính sách pháp luật để thích nghi theo hiện tình và
nhu cầu của đất nước. Tất nhiên là trong khuôn khổ quy định của Hiến
pháp. Trách nhiệm tại điều khoản này chính yếu được trao cho Hội đồng
Tư pháp Quốc gia.

§ 113. [Chức năng thẩm phán]


(1) Thẩm phán thực thi nhiệm vụ độc lập và chỉ tuân thủ Hiến pháp
và Pháp luật.
(2) Thẩm phán không phải là thành viên Quốc hội, không tham gia
đảng chính trị, không hoạt động kinh tế hoặc các giao dịch khác
ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập của tòa án và vai trò thẩm
phán.
(3) Thẩm phán được bảo đảm cung cấp các điều kiện và hưởng thù
lao phù hợp để thực thi nhiệm vụ của mình. Công tố viên được
hưởng những ưu đãi theo quy định của chức năng.
(4) Cơ quan tư pháp thiết lập Bồi thẩm đoàn, chức năng này cho phép
sự tham gia trực tiếp của thường dân có trình độ. Bồi thẩm đoàn
đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp độc lập và tác
động trực tiếp vào các phán quyết của tòa án.
(5) Tổ chức và điều hành chức năng thẩm phán, hình thức tham gia
trực tiếp của thường dân trong các tòa án được quy định trong
luật.

166
Nguyên tắc độc lập của tòa án và của vai trò thẩm phán là một nguyên tắc
chính để thực hiện việc xét xứ một cách độc lập và công bằng nhất, cũng
như để thể hiện tư cách tài phán tại tòa án và trong ngành tư pháp.

Như vậy, để đáp ứng các nguyên tắc quan trọng cũng như tạo điều kiện
cho các thẩm phán, cần phải có một thể chế tương ứng và một hệ thống cơ
quan tòa án hoạt động. Các thẩm phán phải hội đủ các điều kiện cần thiết
bảo đảm sự độc lập từ cả bên trong ra đến bên ngoài của tòa án, nghĩa là
trước tiên thẩm phán phải hưởng được thù lao phù hợp tương xứng với
ngành nghề, và nhiệm kỳ thẩm phán đủ dài.

Như đa số quốc gia pháp quyền trên thế giới, Hiến pháp cũng quy định
việc thiết lập Bồi thẩm đoàn, chức năng này cho phép sự tham gia trực
tiếp của thường dân có trình độ. Bồi thẩm đoàn đóng một vai trò quan
trọng trong hệ thống tư pháp độc lập và tác động trực tiếp vào các phán
quyết của tòa án. Điều này là một trong những thiết chế quan trọng trong
hệ thống tòa án, không những toà án là một cơ cấu độc lập mà còn tạo nên
một quốc gia mang tính dân chủ, khách quan và đa dạng.

§ 114. [Tòa án Tối cao]


(1) Tòa án Tối cao có thẩm quyền giám sát và phán quyết đối với các
bản án dân sự, hình sự, hành chính và quân sự.
(2) Tòa án Tối cao gồm Chánh án và 16 thẩm phán do Tổng thống và
Thượng viện bổ nhiệm với nhiệm kỳ 9 năm. Họ không được bầu
lại.
(3) Chánh án Tòa án Tối cao là người đứng đầu nhánh tư pháp.
Chánh án Tòa án Tối cao bổ nhiệm 2 Phó chánh án.
(4) Phán quyết của Tòa án Tối cao được thông qua với đa số phiếu, là
quyết định cuối cùng và không thể khiếu nại.
(5) Các hình thức xử phạt được áp dụng tại Tòa án Tối cao sẽ do luật
định.

Tòa án Tối cao ở các quốc gia có chế độ cộng hòa, thường được gọi là
«Tối cao Pháp viện». Thuật ngữ này ít nhiều đã đi vào tâm trí con người,
song rất phổ biến trong thời kỳ nước ta từng có một chế độ cộng hòa ở
miền Nam.

Tòa án Tối cao là tòa án cao nhất của một quốc gia. Đây là một tòa án
chung với một số Thẩm phán và một Chánh án, người lãnh đạo tối cao
của tòa án. Tòa án Tối cao được coi là một trong ba quyền lực quốc gia,

167
có nhiệm vụ kiểm tra xem Quốc hội và Chính phủ có tuân thủ các quy tắc
«thuật chơi» của luật và hiến pháp hay không, và chức năng kiểm soát này
được gọi là quyền tài phán.

Ở Na Uy, hệ thống tư pháp có ba cấp tòa án: Tòa án cấp tỉnh, Tòa án phúc
thẩm và Tòa án Tối cao. Tòa án Tối cao phán quyết trong phiên tòa cuối
cùng. Chỉ có một số trường hợp được đưa ra tại Tòa án Tối cao. Khi một
vụ án được kháng nghị lên Tòa án Tối cao, sẽ trải qua một «cuộc sàng
lọc» trong ủy ban kháng cáo của Tòa án Tối cao, ủy ban này chỉ cho phép
thông qua những vụ việc tối quan trọng và nguyên tắc nhất.

Tòa án Tối cao là một tòa án chung và có thể giải quyết các vụ án dân sự,
vụ án hình sự, vụ án hành chính và các vụ án Hiến pháp. Điều này cho
phép Tòa án Tối cao ở Na Uy có thẩm quyền xét xử rộng hơn so với các
tòa án cấp cao nhất ở nhiều quốc gia khác.

Các nhiệm vụ chính của Tòa án Tối cao là tư pháp, làm rõ luật và xây
dựng pháp luật. Các quyết định của Tòa án Tối cao đưa ra định hướng
cho tất cả các tòa án ở cấp thấp hơn. Làm rõ pháp lý là nhiệm vụ của Tòa
án Tối cao, và giải thích luật áp dụng trong lĩnh vực pháp luật. Ngoài ra,
nhiệm vụ của Tòa án Tối cao cũng bao gồm phát triển luật, xây dựng luật
mới ở những nơi không có nguồn luật.

Cũng như Tòa án tối cao ở Na Uy có thẩm quyền xét xử rộng hơn so với
các tòa án cấp cao nhất ở nhiều quốc gia khác, Việt Nam trong tương lai
theo Hiến pháp 2021, toà án chung có thể bao gồm các vụ án dân sự, hình
sự, hành chính và quân sự.

Việc thông qua một vụ án hình sự có thể được chế định trong bộ luật tố
tụng hình sự. Việc thông qua một vụ án dân sự có thể được mô tả trong bộ
luật tố tụng dân sự. Việc thông qua một vụ án quân sự được mô tả trong
bộ luật tố tụng quân sự v.v.

Hiến pháp 2021 quy định Tòa án Tối cao bao gồm Chánh án và 16 Thẩm
phán do Tổng thống và Thượng viện bổ nhiệm với nhiệm kỳ 9 năm. Điều
này, số lượng Thẩm phán tổng cộng là 17 vị tương đương với số lượng
Thẩm phán hiện nay tại Việt Nam, một số lượng đầy đủ để có thể cáng
đáng nhiệm vụ đặc trách của tòa án. Nhiệm kỳ thẩm phán 9 năm là con số
tương đối mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, cũng là điều kiện tốt để
các thẩm phán thực hiện công việc trong một thời gian đủ dài. Họ không

168
được bầu lại, thiết nghĩ, nước ta vốn có nhiều người tài giỏi, việc kéo dài
thêm thời gian của thẩm phán cản trở cho những người mới muốn tham
gia thực hiện nghề nghiệp của họ. Tuy nhiên, Hiến pháp mở rộng cho việc
bổ nhiệm Thẩm phán để thích ứng hơn trong ngành Tư pháp Việt Nam
tương lai được quy định tại § 162 và § 190.

Hiến Pháp 2021 không quy định cụ thể về các nguyên tắc phân chia các
cấp trong cơ chế tòa án phổ thông, nhưng theo Hệ thống Tư pháp Việt
Nam trong tương lai, thì tòa án chung được đề nghị chia thành ba cấp như
sau:
- Tòa án sơ thẩm cấp tỉnh. Việt Nam thiết lập các tòa án sơ thẩm
cấp tỉnh và các cấp sao cho phù hợp với hiện tình đất nước, trong
khuôn khổ ba cấp xét xử của hệ thống tư pháp. Việc cân nhắc này
nên dựa vào tính hiệu quả và nhanh, giảm chi phí quốc gia, theo
nhu cầu dân số và hiện tình đất nước. Các vụ án dân sự bắt đầu từ
Hội đồng hòa giải với tư cách là người hòa giải giữa các chủ thể.
Hội đồng hòa giải có một số quyết định và phán quyết theo luật
quy định. Hội đồng hòa giải được thiết lập ở các thị xã và trên
toàn quốc.
- Tòa án phúc thẩm xét xử tại một phiên tòa ở cấp thứ hai. Lĩnh
vực mà Tòa án phúc thẩm có thẩm quyền được gọi là bản án phúc
thẩm. Việt Nam nên thiết lập 8 Tòa án phúc thẩm chia cho 8 vùng
miền trên toàn quốc.
- Tòa án Tối cao là tòa án cuối cùng xét xử cho cả nước. Trước khi
đưa sự việc ra Tòa án Tối cao, các vụ kiện phải được xem xét bởi
Ủy ban kháng cáo của Tòa án Tối cao.

Các quyết định ở một cấp độ có thể được kháng cáo lên cấp độ tiếp theo,
và các vụ án phải được cứu xét tại ủy ban kháng cáo trước khi chuyển tiếp
qua cấp độ mới. Hệ thống tòa án thường có các quy tắc riêng cho việc
kháng cáo trong các vụ án dân sự và kháng cáo trong các vụ án hình sự.

§ 115. [Tòa án Quốc gia]


(1) Tòa án Quốc gia có thẩm quyền phán quyết các trường hợp vi
phạm Hiến pháp và pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ
của các thành viên Quốc hội, thành viên Hội đồng Chính phủ,
Tổng thống Việt Nam, thẩm phán các Tòa án, Chủ tịch và Giám
đốc Hội đồng bổ trợ và Cơ quan chuyên ngành, Chủ tịch và Giám
đốc Viện Kiểm toán và Ngân hàng Quốc gia, và các công chức
cao cấp.

169
(2) Tòa án Quốc gia có thẩm quyền phán quyết giải tán một chính
đảng có chủ trương và hành động chống lại nền Dân Chủ. Trong
trường hợp này, Tòa án triệu tập các đại diện Lập pháp và Hành
pháp để trình bày quan điểm.
(3) Tòa án Quốc gia gồm Chánh án và 12 thẩm phán được Tổng
thống và Thượng viện lựa chọn và bổ nhiệm, có nhiệm kỳ 9 năm.
Họ không được bầu lại.
(4) Chánh án Tòa án Hiến pháp § 160 (4) là chánh án Tòa án Quốc
gia. Chánh án Tòa án Quốc gia bổ nhiệm 2 Phó chánh án.
(5) Trường hợp Chánh án Tòa án Quốc gia và Hiến pháp là bị can,
Chánh án Tòa án Tối cao giữ chức Chánh án, và ngược lại.
(6) Phán quyết của Tòa án Quốc gia được thông qua với đa số phiếu,
là quyết định lần đầu cũng như lấn cuối và không thể khiếu nại.
(7) Các hình thức xử phạt được áp dụng tại Tòa án Quốc gia sẽ do
luật định.

Bên cạnh Tòa án Tối cao, Việt Nam trong tương lai cũng có một tòa án
đặc biệt được thiết lập để phán quyết chính yếu về các vụ án hình sự đối
với các thành viên của Quốc hội, thành viên Hội đồng Chính phủ, Tổng
thống Việt Nam, Thẩm phán các Tòa án, Chủ tịch và Giám đốc Hội đồng
bổ trợ và Cơ quan chuyên ngành trực thuộc trung ương, Chủ tịch và Giám
đốc Viện Kiểm toán và Ngân hàng Quốc gia, và các công chức cao cấp,
được gọi là Tòa án Quốc gia. Ngoài ra, Tòa án Quốc gia cũng có nhiệm
vụ giải quyết các xung đột về trách nhiệm, về quyền hạn hoặc hành vi vi
phạm nghĩa vụ Hiến pháp.

Tòa án Quốc gia gồm Chánh án và 12 Thẩm phán do Tổng thống và


Thượng viện bổ nhiệm với nhiệm kỳ 9 năm. Điều này, số lượng thẩm
phán tổng cộng là 13 vị chiếu theo tình hình Việt Nam hiện nay thì tương
đối tạm đủ, số lượng tạm đủ này có thể cáng đáng nhiệm vụ đặc trách của
tòa án.

Ngoài ra, Tòa án Quốc gia có thẩm quyền phán quyết giải tán một chính
đảng có chủ trương và hành động chống lại nền Dân Chủ. Điều này có
thể điển hình tại điều khoản § 16 (2) về hành động vi hiến quy định trong
Hiến pháp, ngăn chặn các mối đe dọa đến sự tồn tại của nền dân chủ và
các quyền cơ bản của công dân.

170
§ 116. [Hội đồng Tư pháp Quốc gia]
(1) Hội đồng Tư pháp Quốc gia có trách nhiệm bảo đảm sự độc lập
của tòa án và thẩm phán.
(2) Hội đồng Tư pháp Quốc gia có thẩm quyền thuê, bổ nhiệm,
thuyên chuyển, thăng chức và kỷ luật các thẩm phán.
(3) Hội đồng Tư pháp Quốc gia gồm Chánh án Tòa án Tối cao, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và 19 thẩm phán được bầu từ Tòa án Tối cao,
Tòa án Quốc gia và Tòa án Hiến pháp.
(4) Chánh án Tòa án Tối cao là Chủ tịch và Bộ trưởng Bộ Tư pháp là
Phó chủ tịch của Hội đồng Tư pháp Quốc gia.
(5) Thành viên Hội đồng Tư pháp Quốc gia được Tổng thống và
Thượng viện bổ nhiệm.
(6) Các thành viên Hội đồng được bầu theo nhiệm kỳ 9 năm và không
thể được bầu lại. Riêng Bộ trưởng Bộ Tư pháp, khi đã hết nhiệm
kỳ tại Chính phủ thì nhiệm kỳ thành viên Hội đồng Tư pháp cũng
được chấm dứt, trừ khi vị trí Bộ trưởng được tái bổ nhiệm.
(7) Trong thời gian đương nhiệm, thành viên Hội đồng không được
phép đăng ký hành nghề hoặc thực hiện những nhiệm vụ không
phù hợp với chức trách.

Hệ thống Tòa án Việt Nam trong tương lai được thiết chế thêm một bộ
phận quan trọng để đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho một cơ cấu hoạt
động hiệu quả trong nền tảng tự trị và độc lập theo nguyên tắc của ngành
tư pháp và theo quy định của Hiến pháp – Hội đồng Tư pháp Quốc gia.

Hội đồng Tư pháp Quốc gia có trách nhiệm chính là bảo đảm tính độc
lập của hệ thống tòa án và các Thẩm phán; quản lý các chức năng chuyên
môn của ngành; quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các tòa
án và các cơ quan xét xử. Ngoài ra, Hội đồng Tư pháp Quốc gia có nhiệm
vụ tuyển chọn các thẩm phán, thuê, bổ nhiệm, thuyên chuyển, thăng chức
và kỷ luật các thẩm phán.

Hội đồng Tư pháp Quốc gia gồm Chánh án Tòa án Tối cao, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp và 19 thẩm phán được bầu từ Tòa án Tối cao, Tòa án Quốc gia
và Tòa án Hiến pháp, tổng cộng là 21 thành viên được bầu vào Hội đồng,
một số lượng đủ để có thể cáng đáng nhiệm vụ đặc trách của Hội đồng.
Cũng như tòa án phổ thông, nhiệm kỳ các thành viên là 9 năm và không
thể được bầu lại. Riêng Bộ trưởng Bộ Tư pháp, khi đã hết nhiệm kỳ tại
Chính phủ thì nhiệm kỳ thành viên Hội đồng Tư pháp cũng được chấm
dứt, trừ khi vị trí Bộ trưởng được tái bổ nhiệm.

171
Chức vụ Bộ trưởng và các nhiệm vụ từ nhánh hành pháp được đưa vào
Hội đồng để thực hiện một số chức năng hành chính của tòa án. Chức
năng và hoạt động giữa Hội đồng và Bộ tư pháp có thể được phân định
như sau:
- Hội đồng Tư pháp có trách nhiệm chính là bảo đảm tính độc lập
của tòa án và các thẩm phán. Thực hiện và quản lý các chức năng
chuyên môn của ngành tư pháp, việc tổ chức và hoạt động của các
tòa án và cơ quan xét xử. Hội đồng tổ chức các kỳ thi để tuyển
chọn thẩm phán để đề bạt, có nhiệm vụ thuê, bổ nhiệm, thuyên
chuyển, thăng chức và kỷ luật thẩm phán. Cấp giấy phép và phân
công nhiệm vụ cho thẩm phán. Ban hành các văn bản hướng dẫn
và định hướng của ngành tư pháp, cải cách tư pháp, xây dựng và
phát triển chính sách pháp luật trong ngành tư pháp.
- Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý liên quan đến các chức năng
hành chính của tòa án, như quản lý trụ sở và trang thiết bị làm
việc của tòa án. Bảo đảm ngành tư pháp hoạt động hiệu quả, quản
lý lương và lương hưu của các thẩm phán. Ngoài nhiệm vụ quản
lý hành chính, Bộ Tư pháp cùng Tòa án chỉ huy lực lượng cảnh
sát, việc phân chia thẩm quyền này được quy định trong một đạo
luật.

Thành viên Hội đồng được Tổng thống và Thượng viện bổ nhiệm, được
các tòa án bầu và tuyển chọn từ các giáo sư đại học luật và luật gia có ít
nhất 15 năm kinh nghiệm.

Các thành viên Hội đồng được bầu theo nhiệm kỳ 9 năm và không thể
được bầu lại. Riêng Bộ trưởng Bộ Tư pháp, khi đã hết nhiệm kỳ tại Chính
phủ thì nhiệm kỳ thành viên Hội đồng Tư pháp cũng được chấm dứt, trừ
khi vị trí Bộ trưởng được tái bổ nhiệm.

Cũng như nhiều điều khoản quy định trong Hiến pháp dành riêng cho các
quan chức trong các cơ quan công quyền của hệ thống quản trị quốc gia,
thành viên Hội đồng không được phép đăng ký hành nghề hoặc thực hiện
những nhiệm vụ không phù hợp với chức trách.

§ 117. [Bổ nhiệm thẩm phán]


(1) Thẩm phán Tòa án Tối cao, thẩm phán Tòa án Quốc gia và thẩm
phán Tòa án Hiến Pháp được Tổng thống và Thượng viện bổ
nhiệm. Các thẩm phán được tuyển chọn thông qua cuộc thi cử
cạnh tranh, công khai, bình đẳng và công bằng; được giới thiệu

172
hoặc đề cử bởi Hội đồng Tư pháp Quốc gia, các tòa án, liên đoàn
thẩm phán, đại học luật.
(2) Thẩm phán tại khoản (1) được tuyển chọn phải có ít nhất 15 năm
kinh nghiệm trong ngành tư pháp và 20 năm kinh nghiệm đối với
thẩm phán Hiến pháp, kể cả thẩm phán đã về hưu hoạt động cho
đến tuổi 67. Luật cho phép tuyển chọn và bổ nhiệm các thẩm phán
danh dự, các giáo sư đại học luật và các luật gia có những thành
tích xuất sắc từ liên đoàn thẩm phán. Ngoại lệ được quy định
trong luật.

Hội đủ các điều kiện để trở thành những thẩm phán danh dự và uy tín cho
ngành tư pháp Việt Nam trong tương lai, Hiến pháp quy định các phương
thức tuyển chọn các thẩm phán thông qua các cuộc thi cử cạnh tranh,
công khai, bình đẳng và công bằng. Các thành phần đề cử đến Tổng thống
và Thượng viện để bổ nhiệm, việc này được trao cho Hội đồng Tư pháp
Quốc gia, các tòa án, liên đoàn thẩm phán, đại học luật…

Thẩm phán tại khoản (1) được tuyển chọn phải có ít nhất 15 năm kinh
nghiệm trong ngành tư pháp và 20 năm kinh nghiệm đối với Thẩm phán
Hiến pháp, kể cả thẩm phán đã về hưu (Tuổi hưu ở Việt Nam từ năm 2021
là 62 với nam và 60 với nữ) hoạt động cho đến tuổi 67 (Hiến pháp quy
định tuổi 67 là mức tuổi tối đa làm việc, xt. § 74 (3)). Ngoại lệ được quy
định trong luật, điều này ý nghĩa của Hiến pháp là mở rộng tạo điều kiện
cho pháp luật gia tăng mức tuổi hoạt động trong một số trường hợp nhất
định nào đó.

Luật cho phép tuyển chọn và bổ nhiệm các thẩm phán danh dự, các giáo
sư đại học luật và các luật gia có những thành tích xuất sắc từ liên đoàn
thẩm phán. Nguyên tắc tuyển chọn này cẩn phải có và đủ là cơ sở bảo đảm
cho đất nước có được những người hội đủ các điều kiện để trở thành thẩm
phán trong cơ quan tư pháp độc lập tương lai của Việt Nam.

§ 118. [Kỷ luật thẩm phán]


(1) Thẩm phán không thể bị miễn nhiệm hay tạm ngưng quyền hoạt
động, hoặc bị thuyên chuyển tới các tòa án hoặc các cơ quan khác
trừ khi tự nguyện nộp đơn xin hoặc với sự đồng ý của thẩm phán
đó, và được phê chuẩn của Tòa án trực thuộc.
(2) Thẩm phán không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc bị tước tự
do mà không có sự chấp thuận của Tòa án trực thuộc. Thẩm phán
không bị bắt giam, trừ trường hợp bị bắt quả tang vi phạm luật thì

173
việc giam giữ là điều cần thiết để bảo đảm chứng cớ cho tiến trình
tố tụng. Trong trường hợp bắt giam, Tòa án trực thuộc được thông
báo ngay để xem xét vấn đề phóng thích.
(3) Thẩm phán chỉ có thể giải nhiệm trong trường hợp bị kết án vi
phạm luật, hay bất lực về tinh thần hoặc thể chất.

§ 119. [Thủ tục tố tụng]


(1) Các phiên tòa được tiến hành theo thủ tục tranh tụng và các bên
có những điều kiện bình đẳng trước một thẩm phán vô tư ở vị trí
trọng tài.
(2) Các vụ án hình sự, bị cáo được bảo đảm cung cấp thông tin kịp
thời để chuẩn bị tinh thần và tính chất của những cáo buộc đưa
ra, có đủ thời gian và điều kiện hợp lý để chuẩn bị bào chữa. Bị
cáo có quyền đối chất, triệu tập nhân chứng cần thiết cho việc bào
chữa với các điều kiện tương tự như bên công tố, đồng thời có
quyền cung cấp các bằng chứng khác để hỗ trợ việc bào chữa. Bị
cáo có quyền được cung cấp phiên dịch trong trường hợp không
hiểu ngôn ngữ mà phiên tòa sử dụng.
(3) Việc xác lập bằng chứng phải dựa trên nguyên tắc tranh tụng,
công bằng và vô tư. Mọi quyết định tư pháp phải nêu rõ nguyên
nhân và dẫn chiếu.
(4) Trường hợp người phạm tội bị tuyên án, mọi kháng cáo lên tòa
án cấp cao hơn để phản đối phán quyết sẽ được cứu xét theo quy
định của pháp luật.
(5) Luật quy định thời hạn và điều kiện hợp lý cho các phiên tòa, và
thẩm quyền xét xử thực thi thông qua trình tự tố tụng.
(6) Bị cáo được coi là vô tội cho đến khi bị kết án.
(7) Các hình phạt không được vô nhân đạo và cần nhằm mục đích tái
giáo dục người bị kết án.
(8) Hình phạt tử hình chỉ áp dụng vào các trường hợp phản dân, phản
quốc và vi phạm nghiêm trọng đến các quyền cơ bản của công
dân.

Thủ tục tố tụng là các nguyên tắc thi hành chức năng công tố trong các
tòa án, chức năng thực hiện các việc buộc tội, truy tố người bị cáo buộc,
những người vi phạm pháp luật hình sự và đưa ra trước tòa án.

Theo ABC về Hiến Pháp: «Nhìn chung, cơ quan công tố của các quốc gia
trên thế giới được tổ chức theo hai mô hình là cơ quan công tố trực thuộc
Bộ Tư pháp (như Mỹ, Pháp, Đức, Ba Lan, Nhật Bản…) và cơ quan công

174
tố trực thuộc các tòa án (như Italia, Tây Ban Nha…). Ở Việt Nam, cũng
như nhiều nước XHCN trước đây, chức năng công tố thuộc về Viện kiểm
sát do Quốc hội thành lập, hệ thống cơ quan này tồn tại song song với hệ
thống tòa án. Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam được quy
định tại Chương X của Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001. Các Viện kiểm
sát nhân dân ở nước ta bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện
kiểm sát nhân dân địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện), các Viện kiểm sát
quân sự (gồm cấp trung ương, cấp quân khu và cấp khu vực). Viện kiểm
sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các kiểm
sát viên và các điều tra viên. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
do Quốc hội bầu ra theo sự giới thiệu của Chủ tịch nước. Các Phó Viện
trưởng, kiểm sát viên, và các điều tra viên Viện Kiểm sát tối cao do Chủ
tịch nước bổ nhiệm theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao.»

Ở các nước dân chủ pháp quyền đã ổn định, việc tổ chức theo mô hình cơ
quan công tố trực thuộc Bộ Tư pháp là một điều hợp lý nhất. Bởi đối với
một quốc gia pháp quyền, tầng lớp trên dưới trong toàn xã hội, hạ tầng
cơ sở pháp lý ở cả chiều dọc và chiều ngang đều tuân thủ và đồng loạt thi
hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh.

Con đường tù tội là một hậu quả thường không có con người nào trên thế
giới này mong muốn. Một đất nước tạo các điều kiện sống đầy đủ cho mọi
người dân thì các hành vi phạm tội trong xã hội tất nhiên cũng sẽ được
giảm thiểu. Đây là những thành quả lớn ở các nước dân chủ trên thế giới
đã đạt được. Do đó, trong thể chế mới của Việt Nam, các hình phạt không
được xử lý vô nhân đạo và cần nhằm mục đích tái giáo dục người bị kết
án. Nguyên tắc nhân đạo được hạn chế sử dụng vào các trường hợp phản
dân, phản quốc và vi phạm nghiêm trọng đến các quyền cơ bản của công
dân.

§ 120. [Bảo đảm tư pháp]


(1) Tòa án bảo vệ các quyền và điều kiện hợp lý của người dân trước
cơ quan hành chính và chính quyền.
(2) Tòa án bảo đảm tư pháp đa dạng, trung lập, không loại trừ hoặc
hạn chế ở bất cứ thành phần nào trong luật.
(3) Tòa án có thẩm quyền vô hiệu hóa hoạt động của một cơ quan
hành chính với những hậu quả, hạn chế hoặc trừng phạt người vi
phạm luật trong cơ quan chính quyền.

175
Mục II. Nguồn luật. Cơ quan chuyên ngành

§ 121. [Nguồn luật]


(1) Trước khi các nguồn luật có hiệu lực, bao gồm hiến pháp, các đạo
luật, các điều ước quốc tế và các quy định bắt buộc chính thức
thông qua theo thủ tục, công bố, phát hành.
(2) Khi các nguồn luật đã hết hiệu lực hoặc được thay thế, được thu
hồi và hủy bỏ, đang lưu hành trên các kênh mạng truyền thông
phải được kiểm duyệt và chuyển qua kho dữ liệu quá khứ với
thông tin in đậm đỏ là đã hết hiệu lực hoặc đã được thay thế với
dẫn chiếu.
(3) Thẩm quyền kỷ luật tối cao đối với cá nhân hay tổ chức cố ý hoặc
sơ ý phổ biến pháp luật không trung thực và có hành vi trái với
Luật Cơ bản này.
(4) Một kênh truyền thông về nguồn luật được thiết lập để phục vụ và
hướng dẫn nhân dân quy tụ và hấp thụ, tương tự như kênh «Luật
trực tuyến» hợp với hiện thời. Luật quy định các thủ tục hợp lệ
cho điều khoản này.

Nguyên tắc tại khoản (1) là một điều nhắc nhở quy định trong các điều
khoản tại Chương III Quốc hội về các thủ tục lập pháp cho đến khi pháp
luật được chính thức ban hành.

Các nguồn luật khi đã hết hiệu lực cần phải được thay thế, thu hồi và hủy
bỏ. Nếu đang lưu hành trên các kênh mạng truyền thông phải được kiểm
duyệt và chuyển qua kho dữ liệu quá khứ với thông tin in đậm đỏ là đã
hết hiệu lực hoặc đã được thay thế với dẫn chiếu. Điều này tạo nền tảng
cho lộ trình thực hành pháp luật có quy củ và tổ chức. Với cơ sở tập trung
nguồn luật ở một nơi nhất định sẽ tạo cho toàn xã hội điều kiện hướng tới
một nguồn thông tin pháp luật đáng tin cậy và hiệu quả, ngăn chặn các
thông tin sai lạc tác hại và các tuyên bố bất hợp pháp.

§ 122. [Cơ quan An ninh Quốc gia]


(1) Cơ quan An ninh Quốc gia có trách nhiệm bảo vệ an ninh cho
dân tộc và đất nước Việt Nam, chống khủng bố, ngăn chặn sự gia
tăng xâm nhập qua các hình thức phản gián, hoạt động gián điệp
công nghiệp và chính trị, hủy diệt văn hóa dân tộc, hủy hoại kinh
tế quốc gia, hủy hoại sức khỏe con người và phá hoại môi trường
cũng như tài nguyên đất nước. Ngoài ra, Cơ quan An ninh còn có
trách nhiệm ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, bảo vệ

176
nền dân chủ và sự tồn tại, điều tra và ngăn chặn các mối đe dọa
đối với các thành phần công tác quản lý của chính quyền và các
chức trách, dịch vụ vệ sĩ, đánh giá mối đe dọa và tư vấn an ninh.
(2) Cơ quan được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và một Giám đốc,
được Hội đồng Tư pháp Quốc gia và Bộ Tư pháp bổ nhiệm và
hoạt động song song với Cơ quan Cảnh sát. Ban quản trị bầu ra
một Chủ tịch và một Thư ký. Công chức Cơ quan An ninh quốc
gia không thuộc đảng chính trị hoặc thực hiện những công việc
không phù hợp với chức trách. Cơ quan báo cáo hàng năm đến
Hội đồng Tư pháp Quốc gia.
(3) Quy định về tổ chức và điều hành Cơ quan An ninh Quốc gia sẽ
do luật định.

Cũng như các Hội đồng bổ trợ quy định tại Chương III, Mục III, và bên
cạnh các chức năng của Hội đồng Tư pháp Quốc gia, một số cơ quan giám
sát độc lập được thành lập để trợ giúp cho việc giải quyết ngăn chặn các
thành phần tiêu cực đã và đang tàn phá xã hội và đất nước Việt Nam.

Cơ quan An ninh Quốc gia được hiến định với việc thực hiện các nhiệm
vụ đặc trách chuyên đưa ra các phương pháp nghiên cứu và các biện pháp
để phòng, chống các âm mưu đen tối của ngoại bang; chống khủng bố,
ngăn chặn sự gia tăng xâm nhập qua các hình thức phản gián, hoạt động
gián điệp công nghiệp và chính trị, hủy diệt văn hóa dân tộc, hủy hoại
kinh tế quốc gia, hủy hoại sức khỏe con người và phá hoại môi trường
cũng như tài nguyên đất nước; ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng
loạt, bảo vệ nền dân chủ và sự tồn tại, điều tra và ngăn chặn các mối đe
dọa đối với các thành phần công tác quản lý của chính quyền và các chức
trách; dịch vụ vệ sĩ, đánh giá mối đe dọa và tư vấn an ninh; giám sát các
lĩnh vực cần thiết cho một quốc gia hùng mạnh và bền vững.

Cho dù cơ quan độc lập này trực thuộc một trong những cơ quan lập pháp,
hành pháp hay tư pháp, song việc vận hành và hoạt động không chịu sự
chi phối của các cơ quan quyền lực, bởi vì được hiến định trên nguyên tắc
độc lập và phi đảng phái.

Nước Việt Nam khi đã ổn định tình hình chính trị cũng như việc tổ chức
các cơ cấu quyền lực, và khi xã hội đi vào yên ổn của một quốc gia pháp
quyền, việc tổ chức các cơ quan giám sát này nên được phúc quyết điều
chỉnh, chọn mô hình thích hợp nhất về sự trực thuộc Bộ Tư pháp hay tiếp
tục duy trì theo quy định của Hiến pháp.

177
§ 123. [Cơ quan Truy xét tội phạm Quốc gia]
(1) Cơ quan Truy xét tội phạm Quốc gia có trách nhiệm rà soát các
trường hợp liên quan đến tội phạm đặc biệt về kinh tế và chính trị
trong quá khứ lẫn hiện tại. Cơ quan có nhiệm vụ truy xét đặc biệt
các thành phần như sau:
a) Công dân Việt Nam và dân di trú bị truy xét hành vi cách
tiêu dùng cũng như tư hữu tài sản bất thường hoặc bất
chính đến từ các nguồn tham nhũng, buôn lậu, gian lận,
cưỡng chế của người khác, vi phạm trong nội địa cũng
như ngoài nước, và có thể bị tịch thu nếu giá trị tài sản
tương đương và vượt quá $ 50 000. Tội phạm về kinh tế
là vô hạn định, bị khởi tố và đưa ra Tòa án xét xử;
b) Lãnh đạo và các công chức trong quá trình thực thi nhiệm
vụ, lạm dụng cửa quyền, quyền lực, địa vị để trục lợi, gây
thất thoát ngân khố và tài nguyên quốc gia, gây tai họa
cho đất nước, làm tổn hại xương máu nhân dân; thông
đồng với ngoại bang, kết cấu với người nước ngoài trực
tiếp hoặc gián tiếp qua mọi hình thức hại nước, hại dân;
vi phạm trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quyền cơ bản của
công dân sẽ bị truy xét, khởi tố và đưa ra xét xử tại Tòa
án Quốc gia, theo quy định tại § 115 và § 119 (8).
(2) Cơ quan được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và một Giám đốc,
được Hội đồng Tư pháp Quốc gia và Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Ban
quản trị bầu ra một Chủ tịch và một Thư ký. Công chức Cơ quan
Truy xét tội phạm Quốc gia hoạt động độc lập, không thuộc đảng
chính trị hoặc thực hiện những công việc không phù hợp với chức
trách. Cơ quan báo cáo hàng năm đến Hội đồng Tư pháp Quốc
gia.
(3) Quy định về tổ chức và điều hành Cơ quan Truy xét tội phạm
Quốc gia sẽ do luật định.

Cũng tương tự như cơ quan độc lập quy định tại § 122, Cơ quan Truy xét
tội phạm Quốc gia được quy định thành lập để trợ giúp cho việc giải quyết
ngăn chặn các thành phần tiêu cực tàn phá tài nguyên đất nước, gây thiệt
hại cho nhân dân và thù nghịch trong công chúng.

Cơ quan Truy xét tội phạm Quốc gia được thiết chế chuyên trách nhiệm
vụ rà soát và trực tiếp truy xét các cá nhân và quan chức vi phạm pháp
luật, và đưa các sự việc ra trước công lý. Chức năng hoạt động hiến định
này được xem là những công cụ hiệu quả nhất để phòng, chống tham

178
nhũng, chống lạm dụng cửa quyền để trục lợi riêng, chống sự đàn áp vi
phạm quyền con người, chống bất công và các hành động phi pháp của
những người thi hành nhiệm vụ trong chính quyền cũng như mọi cá thể
trong xã hội.

Chính vì vậy, cơ quan đặc trách Truy xét tội phạm Quốc gia ra đời với các
nhiệm vụ hết sức cần thiết cho một xã hội công bằng và thanh sạch, hoàn
thiện văn hóa cổ truyền, góp phần tẩy sạch các mối tai họa cho đất nước.

179
CHƯƠNG VII: TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG

Tự trị địa phương được xác định trong Hiến pháp 2021: Quốc gia thống
nhất và không thể chia cắt. Việt Nam thừa nhận và thúc đẩy quyền tự trị,
áp dụng tối đa các biện pháp tản quyền hành chính trong các công vụ tại
địa phương, áp dụng các nguyên tắc và pháp luật đối với các nhu cầu tự trị
và tản quyền. Tham khảo quy định (§ 12).

Tự trị địa phương là khái niệm về cách gọi chung cho các cơ quan chính
quyền tự quản của địa phương (thành phố, tỉnh thành, huyện, thị xã), có
nghĩa là các khu vực địa phương có thẩm quyền đưa ra quyết định đối với
công việc của địa phương, trong giới hạn pháp lý và khuôn khổ tài chính
do các cơ quan trung ương quy định tại bất kỳ thời điểm nào.

Quyền định đoạt này trước hết có ý nghĩa trong lĩnh vực kinh tế. Quyền
của các khu vực thành phố tự trị trong việc thiết lập các loại thuế và lệ phí
của thành phố, để có được thu nhập cần thiết trang trải các chi phí công,
dịch vụ xã hội và y tế, dịch vụ xây dựng và cứu hỏa, và cơ chế giáo dục.

Qua một số ví dụ điển hình trên thế giới, theo ABC về Hiến Pháp: «Chính
quyền địa phương là việc tổ chức quyền lực nhà nước tại địa phương,
mọi quốc gia khác đều phân chia lãnh thổ ra các đơn vị hành chính và tổ
chức cơ quan quản lý ở đó để bảo đảm mối liên hệ giữa trung ương và địa
phương, thực hiện chính sách của nhà nước tại địa phương và quản lý địa
phương. Trên thế giới có nhiều cách tổ chức cơ quan quản lý địa phương
và cũng có nhiều tên gọi khác nhau về các cơ quan đó. Ngay trong một
nước cũng có nhiều mô hình tổ chức cơ quan quản lý khác nhau ở đơn vị
hành chính khác nhau cùng tồn tại. Về cơ bản có bốn mô hình sau đây:
- Cơ quan chính quyền địa phương là một bộ máy hành chính đứng
đầu là một quan chức chủ đạo (Tỉnh trưởng, Quận trưởng) được
bổ nhiệm từ trên.
- Chính quyền địa phương là cơ quan hành chính do cấp trên bổ
nhiệm (hoặc được bầu ra) kết hợp với một Hội đồng tự quản do
dân cư bầu ra.
- Mô hình quản lý địa phương bởi một Uỷ ban hành chính do dân
cư hay các Hội đồng tự quản cấp dưới trực tiếp bầu ra.
- Mô hình chính quyền địa phương là một Hội đồng - cơ quan đại
diện quyền tự quản hoặc quyền lực Nhà nước - do nhân dân bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và chính quyền cấp trên.

180
Các hình thức tổ chức cơ quan quản lý địa phương trên đây mặc dù có
tên gọi khác nhau, cơ cấu và địa vị pháp lý của mỗi bộ phận không giống
nhau nhưng tựu chung lại đều mang một tính chất là cơ quan chính quyền
nhà nước ở địa phương, được lập ra để thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Ngay mô
hình chính quyền kiểu “tự quản địa phương” ở nhiều nước, tuy thường
được đặt ngoài hệ thống nhà nước nhưng chúng vẫn là hình thức thực hiện
quyền lực nhà nước, tức thực hiện quyền lực nhà nước bằng các cơ cấu
phi nhà nước.»

Theo Hiến pháp 2021, các khu vực địa phương được thành lập sẽ là một
phần lớn trong quá trình chuyển đổi qua cơ chế độc lập địa phương của
Việt Nam trong tương lai. Việc chuyển giao quyền lực cho các cộng đồng
địa phương là một cách phá vỡ mối thống trị của giới tinh hoa ở thủ đô và
ảnh hưởng của nước ngoài. Độc lập khỏi sự quản lý của chính quyền trung
ương là lý do chính cho sự ra đời của chính quyền tự trị địa phương.

§ 124. [Tự trị]


(1) Chính quyền địa phương được tạo điều kiện tự trị, hoạt động và
quản lý hiệu quả vì lợi ích chung của khu vực trong một cộng
đồng quốc gia với mục tiêu hiện đại hóa và phát triển bền vững.
(2) Quyền tự trị của các đơn vị địa phương được tòa án bảo vệ.
(3) Việc tổ chức và điều hành, xác định nhiệm vụ và chức năng, phân
công nhiệm vụ, phạm vi trách nhiệm của chính quyền địa phương
cấp tỉnh thành và chung chung được quy định trong Hiến pháp.
Các đơn vị trực thuộc được quy định trong một đạo luật.

§ 125. [Hội đồng tỉnh]


(1) Hội đồng tỉnh bao gồm dân biểu được nhân dân trong khu vực
bầu lên để thực thi Hiến pháp, thực hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, phát triển và an cư khu vực.
(2) Hội đồng tỉnh bầu ra Chủ tịch và Phó chủ tịch.
(3) Người được bầu làm dân biểu của Hội đồng tỉnh và khu vực địa
phương có nghĩa vụ tham dự các cuộc họp, thông qua và bỏ phiếu,
làm việc và dấn thân trong suốt nhiệm kỳ 4 năm.
(4) Dân biểu Hội đồng tỉnh có quyền chất vấn Tỉnh trưởng và các
thành viên của Ủy ban hành chính. Dân biểu Hội đồng có trách
nhiệm lắng nghe và tiếp cận nhân dân, thông báo tình trạng kinh
tế cũng như tài chính trong khu vực đến nhân dân.

181
(5) Thành viên Hội đồng tỉnh không phải chịu trách nhiệm về các ý
kiến trình bày khi thực thi chức năng của mình.
(6) Tổ chức, điều kiện và tiến hành bầu cử dân biểu Hội đồng tỉnh và
địa phương các cấp được quy định trong luật.

§ 126. [Chính quyền địa phương]


(1) Chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Hội đồng tỉnh, Tỉnh trưởng
và Ủy ban hành chính.
(2) Hội đồng tỉnh thực hiện các quyền lập pháp song trùng § 75 (2)
cho cấp địa phương, thực hiện trưng cầu dân ý và các chức năng
phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật Quốc gia. Chức
năng này có thể đệ trình các dự luật lên Quốc hội.
(3) Tỉnh trưởng đại diện tỉnh mình, chỉ đạo và hoạch định chính sách
hành chính trong khu vực và chịu trách nhiệm về việc này, ban
hành luật đã được Hội đồng tỉnh thông qua và các quy định của
tỉnh, điều hành các chức năng hành pháp được Chính phủ giao
phó, phù hợp với thẩm quyền tương ứng.
(4) Ủy ban hành chính là cơ quan hành pháp của khu vực địa phương,
được Tỉnh trưởng bổ nhiệm. Ủy ban thực hiện các công vụ theo
chỉ đạo của Tỉnh trưởng.
(5) Các công vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của một cộng đồng dân cư
được các đơn vị chính quyền địa phương thực hiện trên cơ sở dân
chủ, tôn trọng pháp luật và nhân quyền.

Hình thức tổ chức cơ quan chính quyền địa phương cấp tỉnh được quy
định gồm hai cơ quan chính: Hội đồng tỉnh (lãnh đạo bởi Chủ tịch và Phó
chủ tịch hội đồng) và Ủy ban hành chính (lãnh đạo bởi Tỉnh trưởng).

Theo hình thức tổ chức chính quyền địa phương tại một số nước Tây Âu
và Na Uy, chính quyền địa phương nói chung, ngoài nhiệm vụ lập pháp
song trùng, chức năng này còn được ủy nhiệm đảm trách quản lý một số
lĩnh vực, hợp tác với các cơ quan hành chính trung ương và các tỉnh khác.

Tỉnh trưởng và Ủy ban hành chính


Tỉnh trưởng đại diện tỉnh mình, chỉ đạo và hoạch định chính sách hành
chính trong khu vực và chịu trách nhiệm về việc này, ban hành luật đã
được Hội đồng tỉnh thông qua và các quy định của tỉnh, điều hành các
chức năng hành pháp được Chính phủ giao phó, phù hợp với thẩm quyền
tương ứng. Tỉnh trưởng là người đứng đầu Ủy ban hành chính, một chức

182
vụ «hành pháp» khu vực địa phương và cũng là vị trí quan trọng nhất của
bộ máy hành chính cấp tỉnh của Việt Nam tương lai.

Thông thường, chức năng quản lý của Tỉnh trưởng bao gồm các Ban hành
chính như Ban giáo dục và nghiên cứu, Ban phúc lợi xã hội và y tế, Ban
bảo vệ môi trường, Ban nghề nghiệp và lao động, Ban điều phối và đề
phòng khẩn cấp, Ban pháp lý.

Mỗi tỉnh thành được đề nghị thiết lập một tòa nhà hành chính công, nơi
tập hợp các công chức, nhân viên và gồm các chức vụ lãnh đạo đều làm
việc chung một nơi, thuận tiện xúc tiến công việc và nhiệm vụ của tỉnh, dễ
dàng cho việc tiếp cận và liên hệ với các đơn vị địa phương và liên tỉnh.
Giảm bớt gánh nặng chi phí quốc gia cũng như khu vực, vừa giảm tính
quan liêu ở địa phương, công trình xây dựng các tòa nhà công cộng như
thế được thiết kế thực dụng và theo mục tiêu chính là phụng vụ lợi ích dân
cư, hiện đại hóa và phát triển khu vực.

Trong khu vực tỉnh, Tỉnh trưởng là người đại diện gần gũi nhất với Chính
phủ và chịu sự giám sát bởi các quyết định thực thi của Quốc hội và Chính
phủ. Hơn nữa, Tỉnh trưởng phải giải quyết và quyết định các trường hợp
theo luật định và chỉ thị từ trung ương. Chỉ thị chung cho các chức vụ
Tỉnh trưởng được dự kiến thiết lập theo quy định mới phù hợp với Hiến
Pháp 2021. Ngoài các chỉ thị chung cho các Tỉnh trưởng, luật lệ có thể
được điều chỉnh riêng biệt cho mỗi tỉnh. Lĩnh vực hoạt động của Tỉnh
trưởng trong nền dân chủ thường được quy định vào năm nhiệm vụ chính
như sau:

Tỉnh trưởng có một số nhiệm vụ cố định trong các lĩnh vực của cơ chế
hành chính. Các ban thường trực này thường xử lý khá độc lập với nhau,
có trách nhiệm nhận nhiệm vụ và nguồn lực từ các Bộ khác nhau. Chính
quyền tỉnh, Tỉnh trưởng có các nhiệm vụ rộng lớn nhất, và nhìn chung thì
Tỉnh trưởng xử lý các nhiệm vụ cho hơn mười Bộ.
- Tỉnh trưởng đóng vai trò chức năng điều phối đối với các thành
phố và cả các đơn vị trực thuộc, và liên hệ đến các cơ quan chính
quyền của tỉnh khác.
- Tỉnh trưởng hoạt động như một cơ quan kiểm soát trực tiếp đối
với các thành phố và đơn vị trực thuộc. Cơ quan giám sát này có
thể nhắm vào tất cả các chức năng hoạt động của thành phố, như
kiểm soát tài chính. Việc này đòi hỏi một sự can thiệp rộng lớn
vào các hoạt động của thành phố. Là một cơ quan kiểm soát, Tỉnh

183
trưởng cũng xử lý một số khiếu nại gửi đến từ các tổ chức và cư
dân.
- Tỉnh trưởng còn có nhiệm vụ như một nhà hướng dẫn cho các đô
thị trong một số lĩnh vực, thường là khu vực mà chính các thành
phố riêng lẻ không có thẩm quyền xử lý mọi vấn đề mới và phức
tạp, ví dụ về vấn đề có tính chất pháp lý và kinh tế.
- Tỉnh trưởng có trách nhiệm chung trong việc thực hiện các chính
sách vì lợi ích, tạo mọi điều tốt nhất cho cư dân và cho chính tỉnh
của mình. Tỉnh trưởng là người đưa ra sáng kiến đối ​​ với chính
quyền trung ương cũng như địa phương để phát triển và thực hiện
các biện pháp mới. Liên quan đến các sáng kiến như​​ vậy, Tỉnh
trưởng thường có một vai trò chính trị quan trọng.
Ngoài các nhiệm vụ chính được đề cập, Tỉnh trưởng còn có trách nhiệm
lập Kế hoạch tài chính và Ngân sách hàng năm của tỉnh để Hội đồng tỉnh
thông qua (§ 130) và (§ 131).

Hội đồng tỉnh


Ngoài nhiệm vụ thực hiện các quyền lập pháp song trùng cho cấp địa
phương, thực hiện trưng cầu dân ý và các chức năng phù hợp với quy
định của Hiến pháp và pháp luật Quốc gia, Hội đồng tỉnh cũng có những
ủy ban chuyên ngành khác để giải quyết một số nhiệm vụ chuyên môn.
Điều này thường được áp dụng vào các ngành, ví dụ như Y tế, Đường bộ
và Thanh tra lao động. Nhiệm vụ của Hội đồng tỉnh có thể tạm chia thành
bốn chuyên mục chính:
1) Quản lý cơ sở hạ tầng
Về chuyên mục đầu tiên này, chúng ta có thể thấy các chức năng
như Quản lý Đường sắt Việt Nam, Quản lý Bờ biển và Đường
thủy, và Quản lý Đường bộ.
2) Giám sát và kiểm tra
Ngoài các cơ quan thực hiện giám sát và kiểm tra, song song với
Văn phòng Tỉnh trưởng và Cơ quan Thuế vụ, các tỉnh còn có các
ban như Tổng cục Hàng hải, Cơ quan Thanh tra Lao động, Tổng
cục Bảo vệ Dân sự và Lập kế hoạch Khẩn cấp.
3) Dịch vụ công
Dịch vụ công được tổ chức vào hai đơn vị quan trọng, thứ nhất là
về số lượng người dân và nhu cầu, thứ hai là tổng thể các nguồn
tài chính và dịch vụ. Điều này phần lớn được áp dụng trong Cơ
sở Giáo dục, Cơ quan Chăm sóc sức khỏe và Sở Lao động. Cơ sở
Giáo dục được đưa vào một nền giáo dục theo quy dịnh của Hiến
pháp, cũng như Cơ quan Chăm sóc sức khỏe tạo các sinh hoạt

184
lành mạnh trong lĩnh vực của trẻ em, thanh thiếu niên, gia đình
và trong cộng đồng. Sở Lao động phổ biến công ăn việc làm và
hướng dẫn dân chúng vào thị trường lao động hoặc hướng nghiệp.
Ngoài các cơ quan và dịch vụ đề cập, chuyên mục này còn bao
gồm các dịch vụ cho vay và hỗ trợ tài chính, như Ngân hàng nhà
đất và phát triển của Chính phủ trung ương.
4) Hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp thường là các chức năng và lĩnh vực hoạt động
theo hệ thống tư pháp quốc gia, như Văn phòng Công tố viên và
Tòa án. Ngoài ra, phần lớn các hoạt động của Lực lượng cảnh sát
có thể được xếp vào cùng chuyên mục.

§ 127. [Giải tán Hội đồng tỉnh - Truất phế Tỉnh trưởng]
(1) Theo đề nghị của Thủ tướng, đa số phiếu Thượng viện có thể giải
tán Hội đồng tỉnh hoặc truất phế Tỉnh trưởng với một nghị quyết
nêu rõ nguyên nhân và hành động vi phạm Hiến pháp hoặc phạm
tội nghiêm trọng. Quyết định của Thượng viện được thông qua
sau khi tham vấn với Ủy ban Địa phương tại Quốc hội.
(2) Hội đồng tỉnh có thể bày tỏ bất tín nhiệm đối với Tỉnh trưởng
bằng một nghị quyết nêu rõ nguyên nhân và có chữ ký của ít nhất
là 1/5 số thành viên Hội đồng. Đề nghị bất tín nhiệm được thảo
luận sau 3 ngày. Cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Tỉnh trưởng
được tiến hành chậm nhất là 7 ngày sau khi được đệ trình, với đa
số phiếu quá bán, Tỉnh trưởng bắt buộc phải từ chức.
(3) Trường hợp Tỉnh trưởng bị cách chức, mất khả năng vĩnh viễn,
chết hoặc tình nguyện từ chức, Phó tỉnh trưởng thay thế cho đến
khi Hội đồng tỉnh bầu Tỉnh trưởng mới.

§ 128. [Luật lệ địa phương]


(1) Địa phương thiết lập một đạo luật xác định hình thức của chính
quyền và các nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và hoạt động,
phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật quốc gia. Đạo
luật quy định về sáng kiến lập pháp, trưng cầu dân ý, các biện
pháp hành chính của địa phương cũng như việc ban hành pháp
luật và quy định dưới luật.
(2) Luật địa phương do Hội đồng tỉnh thông qua và phê chuẩn, hoặc
sửa đổi bằng hình thức bỏ phiếu với đa số phiếu tuyệt đối tán
thành của Hội đồng. Luật được cứu xét trong 2 lần liên tiếp, cách
nhau không quá 14 ngày. Luật địa phương có thể được trình lên

185
Tòa án Hiến pháp về tính hợp hiến của các quy định trong vòng
30 ngày trước khi đưa ra công bố và phát hành.
(3) Luật được đưa ra phúc quyết sửa đổi hoặc bãi bỏ, trưng cầu ý dân,
nếu 1/10 số cử tri của khu vực địa phương hoặc 1/5 số thành viên
Hội đồng yêu cầu. Luật chỉ có hiệu lực nếu được đa số phiếu hợp
lệ tán thành.
(4) Tại khu vực địa phương, Hội đồng tỉnh có thể hoạt động như cơ
quan tư vấn pháp lý cho các quan hệ giữa các cấp chính quyền,
các tranh chấp và quan hệ dân sự.
(5) Người dân trong cộng đồng địa phương có quyền quyết định các
vấn đề liên quan đến cộng đồng, hoặc miễn nhiệm một cơ quan
chính quyền địa phương thông qua quyền trưng cầu dân ý. Các
nguyên tắc và thủ tục tiến hành cuộc trưng cầu dân ý được quy
định trong luật.

§ 129. [Quyền tự quản tài chính]


(1) Các đơn vị địa phương có quyền tự quản doanh thu và chi phí
công.
(2) Các đơn vị địa phương có nguồn tài chính độc lập, có quyền xác
định mức thuế từ các nguồn thu phù hợp với Hiến pháp và quy
định của hệ thống thuế và tài chính quốc gia. Các khoản thu từ
nguồn thuế phí tạo khả năng để các đơn vị địa phương có đủ
nguồn tài chính để thực hiện các chức năng và công vụ của khu
vực.
(3) Các đơn vị địa phương có tài sản riêng, được tài trợ theo các
nguyên tắc chung quy định theo luật pháp quốc gia. Các đơn vị
địa phương có thể vay tiền để chi vào các khoản đầu tư. Chính
phủ không bảo lãnh cho các khoản vay vì mục đích này.
(4) Các đơn vị hành chính địa phương các cấp bắt buộc đăng ký hoạt
động để có tư cách pháp nhân trước khi đi vào hoạt động.
(5) Quy định tại điều khoản này sẽ do luật định.

§ 130. [Kế hoạch tài chính]


(1) Mỗi năm một lần, Hội đồng tỉnh thông qua kế hoạch dài hạn ít
nhất bốn năm tài chính. Kế hoạch tài chính bao gồm toàn bộ hoạt
động của tỉnh, tổng quan thực tế về dự đoán doanh thu, dự đoán
chi phí và các nhiệm vụ ưu tiên trong kế hoạch dài hạn bốn năm.
Kế hoạch tài chính được thông qua với những sửa đổi, được đưa
ra phúc quyết trên nguyên tắc đại nghị tại Hội đồng.

186
(2) Kế hoạch tài chính với các nghị quyết phải được phát hành để dân
chúng kiểm tra.
(3) Kế hoạch tài chính và những sửa đổi được đệ trình lên Bộ Tài
chính.

§ 131. [Ngân sách hàng năm]


(1) Ngân sách hàng năm đưa ra một kế hoạch ràng buộc vào quỹ và
cách thu chi trong một năm tài chính. Ngân sách bao gồm toàn bộ
hoạt động của tỉnh, tổng quan thực tế về dự kiến doanh thu, dự
kiến chi phí và các nhiệm vụ ưu tiên trong năm ngân sách. Ngân
sách hàng năm chia thành một phần hoạt động và phần đầu tư,
phân bổ kinh phí cho năm tiếp theo.
(2) Trước khi năm cũ trôi qua, Hội đồng tỉnh theo khoản (1) có trách
nhiệm thông qua ngân sách hàng năm cho năm sắp tới. Quyết
định được đưa ra phúc quyết trên nguyên tắc đại nghị tại Hội
đồng.
(3) Ngân sách hàng năm với các nghị quyết phải được phát hành để
dân chúng kiểm tra.
(4) Ngân sách hàng năm được đệ trình lên Bộ Tài chính.

§ 132. [Tài trợ]


(1) Các đơn vị địa phương được nhận tài trợ ngân sách phù hợp để
thực hiện các nhiệm vụ được phân công, căn cứ theo báo cáo tài
chính, kế hoạch tài chính và ngân sách hàng năm.
(2) Việc phân bổ ngân sách địa phương được điều chỉnh phù hợp với
những thay đổi về nhiệm vụ, phạm vi trách nhiệm, dân số và lãnh
thổ.
(3) Việc phân bổ ngân sách bao gồm các biện pháp đặc biệt dành cho
các đơn vị địa phương có nguồn thu thấp, bị thiệt hại do thiên tai
hoặc bị tàn phá do chiến tranh.
(4) Chính phủ tài trợ thêm thông qua các chính sách đặc biệt để hỗ
trợ các khu vực cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như
đoàn kết xã hội, giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về mặt kinh tế
và xã hội, thúc đẩy việc tôn trọng dân chủ, pháp luật, nhân quyền
và nhằm đạt được những mục tiêu của địa phương.
(5) Các nguồn tài trợ ngân sách cho các đơn vị địa phương được quy
định trong luật.

187
§ 133. [Giám sát - Kiểm toán]
(1) Các cơ quan hành chính địa phương các cấp có trách nhiệm thiết
lập các chức năng Kiểm toán để thực thi việc giám sát và kiểm
toán đối với các đơn vị quản lý tài chính. Các chức năng Kiểm
toán hoạt động độc lập đối với các cơ quan quản lý tài chính.
(2) Các cơ quan hành chính địa phương chịu sự giám sát và kiểm tra
của trung ương về việc quản lý tài chính và việc thực hiện ngân
sách đối với các nhiệm vụ được giao phó.
(3) Các quy định và nguyên tắc thực hiện giám sát và kiểm toán phù
hợp với Hiến pháp và pháp luật quốc gia.

§ 134. [Tự do lưu thông - Can thiệp từ trung ương]


(1) Các tỉnh thành không có quyền áp đặt thuế nhập khẩu, xuất khẩu
hoặc các biện pháp cản trở tự do qua lại của người dân, vận
chuyển hàng hóa giữa các khu vực địa phương. Các tỉnh thành
không được phép hạn chế quyền của công dân làm việc tại bất kỳ
nơi nào trên toàn lãnh thổ quốc gia.
(2) Chính phủ có thể vào cuộc và hành động thay cho cơ quan tại địa
phương trong trường hợp không tuân thủ quy định Hiến pháp hay
luật pháp quốc gia, hoặc trong trường hợp có nguy cơ vi phạm
nghiêm trọng đối với sự an toàn và an ninh công cộng, hoặc khi
những chính sách đó cần thiết để duy trì sự thống nhất về pháp
luật cũng như nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là nhằm bảo đảm các
quyền dân sự được thực hiện và một xã hội ổn định, bất kể địa
giới giữa các chính quyền địa phương.
(3) Luật pháp quy định các thủ tục để bảo đảm các khu vực địa
phương thực hiện phù hợp với pháp luật và chính sách quốc gia.

§ 135. [Thành phần địa phương và hợp tác]


(1) Chính quyền địa phương có quyền hợp tác và liên kết với trung
ương và các khu vực khác trong mọi lãnh vực, đặc biệt là trong
lãnh vực bảo tồn di sản, kế hoạch chung của những dự án phát
triển trong ngành du lịch, công nghiệp, nông và lâm nghiệp.
(2) Quốc gia và các tỉnh thành thúc đẩy sáng kiến liên quan đến
những hoạt động vì lợi ích chung, với tư cách cá nhân hoặc thành
viên các hiệp hội, trên nguyên tắc bổ trợ và hợp tác.
(3) Các đơn vị địa phương có quyền tham gia các hiệp hội liên tỉnh
cũng như các khu vực nước ngoài để học hỏi thêm những kinh
nghiệm mới, trao đổi sáng kiến liên quan đến các thành phần kinh

188
tế và xã hội, giáo dục và nghiên cứu, khoa học và nghệ thuật và
các lãnh vực quan trọng của địa phương.

§ 136. [Tòa án địa phương]


(1) Các chi nhánh của tòa án được thành lập tại những nơi công cộng
thích hợp và thuận tiện cho dân cư tại địa phương.
(2) Các tòa án có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền
giữa các đơn vị chính quyền địa phương và cơ quan chính quyền
trung ương, các tranh chấp và quan hệ dân sự.
(3) Các tòa án sơ thẩm được thành lập tại địa phương, phù hợp với
quy định của Hiến pháp và pháp luật quốc gia.

§ 137. [Tính hợp hiến của luật]


(1) Luật địa phương được đưa ra trước Tòa án Hiến pháp nếu bị tình
nghi về tính hợp hiến hoặc cho rằng luật pháp vượt quá thẩm
quyền của địa phương.
(2) Địa phương có thể nghi ngờ về tính hợp hiến của một đạo luật hay
phạm vi pháp lý của Chính phủ hoặc của một khu vực địa phương
khác, và đưa ra trước Tòa án Hiến pháp.

189
CHƯƠNG VIII: BẦU CỬ

Như đã nêu (§ 54) Quyền bỏ phiếu - bầu cử là một trong các quyền cơ bản
của công dân, tạo điều kiện và khả năng ảnh hưởng đến các quyết định
chính trị quan trọng của đất nước cho công dân. Để thực hiện điều này,
trước tiên và quan trọng nhất là thông qua quyền bầu cử và cơ hội từ các
kỳ bầu cử để trở thành ứng viên đại biểu trong các cuộc bầu cử tự do và
rộng mở.

Điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ là thể hiện một quy tắc dân chủ,
gồm các yếu tố tự do và cạnh tranh, cũng như các thành phần tranh cử
theo pháp lý. Hơn thế, quốc gia phải có các quy tắc và thể chế dân chủ
hoạt động tích cực, các quyền dân chủ phải được thực hiện và tôn trọng.

Các điều luật cơ bản của quốc gia là những quy tắc chính gốc của đất
nước, thường được biên soạn trong Hiến pháp hoặc Luật Cơ bản. Hiến
pháp quốc gia mô tả 1) các cơ quan quản lý đất nước, 2) họ nên thi hành
ra sao và 3) công dân có quyền dân chủ như thế nào.
1) Điều quan trọng nhất trong thể chế dân chủ là ba cơ quan quyền
lực gồm: Quốc hội, Chính phủ và Tòa án, còn được gọi là cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2) Quốc gia phải có quy tắc cho các cơ quan quản lý để có thể đưa ra
quyết định của đất nước. Ví dụ: Quốc hội thông qua luật, Chính
phủ thi hành luật, trong khi Tòa án phán quyết theo luật - thường
được gọi là nguyên tắc phân lập quyền lực, và Quốc hội cũng cần
phải có đa số người có trình độ để đưa ra quyết định quan trọng
và hợp lệ.
3) Quyền dân chủ bao gồm quyền bầu cử, quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do lập hội và quyền được đối xử bình đẳng.

Nếu như các quyền dân chủ bị hạn chế thì đất nước sẽ trở nên kém dân
chủ hơn, mặc dù những người lãnh đạo được bầu lên thông qua bầu cử,
nếu họ không quản lý và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, đất nước
sẽ không có một nền dân chủ tích cực và đúng đắn.

Quy định trong hiến pháp trên thế giới về bầu cử có thể tham khảo ABC
về Hiến Pháp: «Bầu cử là một định chế trọng tâm của một nền dân chủ,
nơi mà quyền lực của nhà nước xuất phát từ ý chí của người dân. Bầu cử,
tuân thủ nguyên tắc tự do và công bằng, thường được tổ chức theo phương
thức bầu cử đa số hoặc bầu cử theo tỉ lệ.

190
Bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ cơ bản
nhất của hiến pháp. Có hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước thuộc về mình là dân chủ trực tiếp (người dân tự mình thể
hiện quan điểm trong các cuộc trưng cầu ý kiến) và dân chủ gián tiếp. Dân
chủ gián tiếp là việc nhân dân bầu ra những người đại diện để thực hiện
các công việc để mang lại lợi ích cho toàn dân. Hình thức dân chủ gián
tiếp này còn được gọi là hình thức dân chủ đại diện. Bầu cử trở thành một
trong những hình thức thực hiện quyền dân chủ, một biện pháp để nhân
dân trao quyền lực nhà nước cho các cơ quan nhà nước. Chế độ bầu cử
được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình thành trong
quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến
khi kết thúc việc xác định được danh sách những người trúng cử.

Nhìn chung, hiến pháp các quốc gia quy định tương đối chi tiết về các vị
trí được bầu ra (thành viên nghị viện, tổng thống...), điều kiện bầu cử, điều
kiện ứng cử, việc phân xác định khu vực bầu cử, việc phân bổ số ghế cho
các khu vực... Trong chế độ đại nghị, nhân dân trực tiếp bầu ra hạ viện
(viện dân biểu), đảng chiếm đa số tại hạ viện hay liên minh các đảng cầm
quyền thành lập ra chính phủ do một thủ tướng đứng đầu. Do vậy, chính
phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện. Trong chế độ cộng hòa tổng
thống, nhân dân trực tiếp hoặc có thể gián tiếp bầu ra nguyên thủ quốc gia
(tổng thống) đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Chính phủ
và người đứng đầu chính phủ không chịu trách nhiệm trước nghị viện, mà
phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân trực tiếp hạn chế quyền
lực của tổng thống qua các cuộc đầu phiếu phổ thông.»

Tiếp theo: «Điểm khác nhau cơ bản giữa chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện
nay với nhiều quốc gia khác là ở tính cạnh tranh. Tại hầu hết các quốc gia,
có nhiều đảng phải chính trị tham gia vào cuộc bầu cử và qua bầu cử mới
xác định được đảng cầm quyền, người dân có nhiều lựa chọn và sự lựa
chọn cũng dễ dàng hơn bằng việc so sánh đường lối của các đảng khác
nhau. Ngược lại, ở Việt Nam không có nhiều đảng phải tham gia tranh cử
và đảng cầm quyền đã được xác định trước trong Hiến pháp. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân khiến các cuộc bầu cử của Việt Nam ít
nhiều mang tính hình thức. Thêm vào đó, trừ Hiến pháp 1946, các Hiến
pháp còn lại của Việt Nam đều không ghi nhận nguyên tắc bầu cử tự do.»
Cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia trên nền tảng tự do, dân chủ và đa đảng
được quy định chi tiết trong Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC và phần
Phụ lục Hiến pháp.

191
§ 138. [Bầu cử]
(1) Bầu cử tạo điều kiện cho công dân được tự do trực tiếp tuyển
chọn đảng chính trị và người đại biểu để đại diện quyền lợi và
nguyện vọng của mình trong các cuộc bầu cử. Các cuộc bầu cử
được tiến hành theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bình
đẳng và được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín.
(2) Công dân thực hiện quyền lập pháp, quyền quản lý và quyền giám
sát tại Quốc hội gồm cả địa phương các cấp thông qua các đại
biểu được tuyển cử.
(3) Công dân Việt Nam trong và ngoài nước, nam và nữ, đầy 18 tuổi
có quyền bầu cử.
(4) Các quy tắc về tiến trình bầu cử và thực hiện quyền bầu cử được
quy định trong luật.

Bầu cử ở Việt Nam theo Hiến pháp 2021, là một tiến trình của người dân
đưa ra quyết định tuyển chọn trực tiếp người đại diện vào các chức vụ
trong các cơ quan chính quyền trung ương và địa phương. Bầu cử Quốc
gia gồm cuộc bầu cử hai viện Quốc Hội (trung ương) và các cuộc bầu cử
Hội đồng địa phương các cấp (Hội đồng nhân dân). Đây là tiến trình thông
thường mà các nền dân chủ đa nghị viện và đa đảng hiện đang sử dụng để
phân bổ chức vụ đại biểu trong cơ chế chính trị quốc gia. Kết quả bầu cử
theo phương pháp tỷ lệ sẽ quyết định thành phần thành lập Chính phủ, tức
là đảng chính trị nào đạt mức tín nhiệm cao nhất được cử Thủ tướng và
lập Chính phủ, cá nhân đắc cử được đại diện quốc gia và nhân dân, tham
gia vào cơ quan chính quyền ở trung ương cũng như ở địa phương các
cấp.

Theo các nền dân chủ, thuật ngữ «bầu cử» được hiểu là thủ tục để cử tri
là những công dân trưởng thành chọn lựa người đại diện vào các chức vụ
chính quyền để thành lập cơ chế chính trị và quản lý đất nước theo nguyện
vọng của nhân dân. Những người được bổ nhiệm là những cá nhân hoặc
thành viên của một tổ chức hoặc đảng chính trị, được bầu lên lãnh đạo
hoặc đại diện, và họ được trao quyền hành để đưa ra quyết định thay cho
toàn thể xã hội.

Ngoài những cuộc bầu cử chính trị để xây dựng cơ quan chính quyền
trong hệ thống quản trị quốc gia, bầu cử còn được sử dụng rộng rãi trong
các tổ chức và hoạt động xã hội tập thể, thí dụ như tổ chức công đoàn,
nghiệp đoàn, tổ chức liên đoàn, tổ chức các hội đồng, cơ quan độc lập,
thanh niên và sinh viên.

192
Tiến trình bầu cử chính trị là một phần quan trọng và cần thiết cho một
nền dân chủ. Hầu hết các nước dân chủ trên thế giới, bầu cử thường hàm
chứa các nguyên tắc: tự do, bình đẳng, trực tiếp và phiếu kín, đặc biệt là
mang tính dân chủ, cạnh tranh. Cạnh tranh giữa các ứng cử viên và cạnh
giữa các đảng phái chính trị. Mọi công dân và cơ quan chính quyền tham
gia vào các cuộc bầu cử đều thể hiện theo các quy định của Hiến pháp và
pháp luật, không ngoại lệ cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào.

Nguyên tắc bầu cử


Nguyên tắc bầu cử là các hình thức cơ bản được đặt ra và áp dụng thông
qua những điều luật quy định trong Hiến pháp, pháp luật và Sắc lệnh bầu
cử mà các tổ chức và mọi cá nhân phải tôn trọng và tuân theo. Nguyên tắc
bầu cử quy định các điều lệ cho các tổ chức và đảng phái chính trị tham
gia tranh cử, người ứng cử và người bỏ phiếu. Nguyên tắc bầu cử còn là
hệ thống quy tụ các quan điểm phổ thông của thế giới dân chủ, gắn liền tư
tưởng bầu cử với tính chất dân chủ thông suốt toàn bộ cộng đồng của một
quốc gia.

Theo Hiến pháp 2021 và nguyên tắc bầu cử cũng tương tự như các quốc
gia dân chủ trên thế giới, các cuộc bầu cử ở Việt Nam tương lai sẽ được
tiến hành theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bình đẳng và
được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín.

NGUYÊN TẮC PHỔ THÔNG ĐẦU PHIẾU


Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trong chính thể mới bảo đảm cuộc bầu
cử được diễn tiến tự do, dân chủ, trực tiếp, công khai, minh bạch và được
quốc tế công nhận.

Sau đây là một số điều lệ thực hiện trong nguyên tắc phổ thông đầu phiếu:
 Ngày bầu cử được tiến hành vào một ngày nghỉ, thường là vào
ngày chủ nhật;
 Các cơ quan truyền thông đại chúng được hoạt động độc lập và
báo cáo trung thực hiện tình, khách quan và công khai;
 Đại diện của các nhà quan sát quốc tế đến tham dự và giám sát
cuộc bầu cử;
 Các nhà bình luận đại diện từ các cơ quan và viện nghiên cứu độc
lập theo dõi diễn tiến của cuộc bầu cử;
 Các tổ chức và đảng phái chính trị được quyền phổ biến các
chương trình thực hiện trong nhiệm kỳ tham chính, trình bày quan

193
điểm chính trị đến đại chúng, vận động nhân dân bỏ phiếu cho tổ
chức, và không bị kiểm duyệt bởi bất cứ thế lực nào;
 Cá nhân được đề cử hoặc tự ứng cử đại biểu có quyền tự do phổ
biến các chương trình thực hiện trong nhiệm kỳ mới, trình bày
chính kiến và vận động nhân dân bỏ phiếu cho mình, và không bị
kiểm duyệt bởi bất cứ thế lực nào;
 Nhân dân có quyền bỏ phiếu, có nghĩa vụ góp phần xây dựng nền
móng dân chủ, tự do thực hiện quyền bầu cử để tuyển chọn người
tài giỏi, tín nhiệm đại diện theo nguyện vọng và quyền lợi của
mình;
 Danh sách những tổ chức và đảng phái chính trị, cũng như cá
nhân ứng cử được thiết lập và niêm yết công khai trước ngày bầu
cử;
 Danh sách cử tri được niêm yết công khai trước ngày bầu cử.

NGUYÊN TẮC TRỰC TIẾP


Nguyên tắc bầu cử trực tiếp ở các quốc gia dân chủ trong thể chế đại nghị
và đa đảng, thường là áp dụng các phương pháp đại diện tỷ lệ hoặc đa số,
là hệ thống bầu cử trong đó công dân tự bỏ phiếu và trực tiếp chọn lựa
tổ chức hoặc đảng chính trị, trực tiếp tuyển chọn ứng cử viên để bầu vào
cơ quan đại diện ở cấp trung ương và cấp địa phương, mà không bị kiểm
duyệt hoặc cản trở dưới bất cứ hình thức chính trị nào. Bầu cử ở Việt Nam
được áp dụng nguyên tắc trực tiếp tương tự, và các hình thức «sàng lọc»
qua các cuộc hiệp thương không còn giá trị và thích hợp để áp dụng trong
chính thể mới và cuộc bầu tự do, rộng mở.

NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG


Nguyên tắc bình đẳng có thể xác định dựa trên một phương pháp khoa học
mang đến sự bình đẳng trong phân bổ số lượng đại biểu vào các khu vực
địa phương, và bảo đảm đầy đủ số lượng đại biểu tương ứng để có tiếng
nói chung cho dân và quyền lợi của dân, không phân biệt xã hội, tôn giáo
hay sắc tộc.

Theo Hiến pháp 2021, nguyên tắc bình đẳng được sử dụng qua hệ thống
chính trị quy định việc phân chia ghế đại biểu toàn quốc và phân bổ vào
63 tỉnh thành, căn cứ trên tỷ lệ dân số trong khu vực, được áp dụng cho
Hạ viện, công bằng và bình đẳng cho các khu vực. Còn Thượng nghị sĩ thì
được phân bổ đồng đều cho các tỉnh.

194
Ngoài nguyên tắc bình đẳng về việc phân bổ ghế đại biểu vào các đơn vị
khu vực tỉnh thành và giữa các đảng phái chính trị trong bầu cử Quốc hội,
nguyên tắc này còn được áp dụng cho công dân trên khắp mọi miền đất
nước. Nam và nữ bình quyền, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không
phân biệt giai cấp xã hội hoặc sắc tộc, đều được thể hiện việc ứng cử, bầu
cử công bằng theo pháp lý.

NGUYÊN TẮC BỎ PHIẾU KÍN


Cũng như nguyên tắc bỏ phiếu kín ở các quốc gia dân chủ, nguyên tắc bỏ
phiếu kín ở Việt Nam cũng không có gì khác biệt. Bầu cử bí mật hoặc bỏ
phiếu kín là một thể thức bầu cử trong đó cử tri bỏ phiếu mà không cho
người khác biết những gì được thể hiện trong lá phiếu của mình. Liên
Hiệp Quốc nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền rằng: «Ý chí của người dân
sẽ là cơ sở của cơ quan công quyền». Điều này được thể hiện thông qua
các cuộc bầu cử định kỳ và thực tế với quyền bỏ phiếu phổ thông, bình
đẳng, bỏ phiếu kín, trực tiếp, đều như nhau.

Trên thực tế, cử tri phải được tạo điều kiện để thực hiện quyền bỏ phiếu
kín, như lập các phòng kín để cử tri có thể chọn lựa và thay đổi trong các
phiếu bầu, và phải được gấp lại bỏ vào thùng phiếu kín an toàn.
Sử dụng quyền bầu cử và lá phiếu cử tri, nghĩa là công dân thực
hiện quyền lập pháp, quyền quản lý và quyền giám sát tại Quốc hội gồm
cả địa phương các cấp thông qua các đại biểu được tuyển cử.
Cơ sở pháp lý trong cuộc bầu cử tự do được quy định chi tiết trong Pháp
lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

§ 139. [Thành phần bầu cử]


(1) Bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng tỉnh và địa phương các cấp
được tổ chức 4 năm một lần, và phải được hoàn thành vào cuối
tháng 5 trong năm bầu cử.
(2) Các cuộc bầu cử được tiến hành chậm nhất là 60 ngày trước khi
kết thúc nhiệm kỳ trước.

Các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng địa phương các cấp được thực
hiện thông qua Tổng tuyển cử Quốc gia trên nền tảng tự do, dân chủ và đa
đảng được quy định chi tiết trong Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

§ 140. [Số lượng đại biểu Quốc hội]


(1) Tổng số lượng đại biểu Quốc hội § 60 (4) được ấn định là 490
người.

195
(2) Hạ viện: Số ghế Hạ nghị sĩ § 61 (1) được ấn định là 427 ghế,
được phân chia cho các khu vực tỉnh căn cứ trên tỷ lệ dân số trong
khu vực, và chiếu theo thống kê tổng dân số quốc gia ngày 31
tháng 12. Mỗi công dân được tính 1 điểm.
(3) Thượng viện: Số ghế Thượng nghị sĩ § 62 (1) được ấn định là 63
ghế, được phân đồng đều cho các khu vực, mỗi khu vực tỉnh được
phân bổ 1 Thượng nghị sĩ.
(4) Nguyên tắc phân chia ghế đại biểu địa phương các cấp được quy
định trong luật.
(5) Nguyên tắc phân chia ghế đại biểu Quốc hội và địa phương các
cấp được duyệt lại và cập nhật mỗi tám năm.

Tổng số lượng đại biểu Quốc hội được ấn định là 490 đại biểu. Số lượng
490 đại biểu quốc hội so với số lượng đại biểu hiện nay tại Việt Nam
(+/– 500) thì không có sự chênh lệch đáng kể, đủ nhân lực để vận hành cơ
quan lập pháp.

Theo quy định tại khoản (2) và (3), cuộc bầu cử hai viện Quốc hội được tổ
chức tại 63 đơn vị bầu cử cấp tỉnh, căn cứ trên dân số tổng kết cuối năm
của từng đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử tỉnh được phân bổ một số ghế
đại biểu Quốc hội, gồm Hạ viện và Thượng viện, trước khi cuộc bầu cử
tiến hành.

Hạ viện: Số ghế Hạ nghị sĩ được ấn định là 427 ghế, được phân chia cho
các khu vực tỉnh căn cứ trên tỷ lệ dân số trong khu vực, và chiếu theo
thống kê tổng dân số quốc gia ngày 31 tháng 12. Mỗi công dân được tính
1 điểm.

Thượng viện: Số ghế Thượng nghị sĩ được ấn định là 63 ghế, được phân
đồng đều vào các khu vực, mỗi tỉnh được phân bổ 1 Thượng nghị sĩ.

Bảng phân chia ghế đại biểu vào 63 đơn vị bầu cử tỉnh
Ví dụ: Số ghế đại biểu Quốc hội phân bổ vào các khu vực bầu cử được
tính đơn giản như sau: Dân số khu vực tỉnh nhân với tổng số ghế Hạ viện,
chia cho tổng dân số quốc gia và cộng cho một (ghế Thượng viện).

196
Khu vực tỉnh Dân số Phần trăm Số ghế Số ghế Tổng
Hạ viện Thượng viện số ghế
An Giang 2.155.300 2,3 % 10 1 11
Bà Rịa - Vũng Tàu 1.150.200 1,2 % 5 1 6
Bạc Liêu 892.600 0,9 % 4 1 5
Ví dụ: phép tính chiếu theo tổng dân số toàn quốc năm 2013 là 94.778.780

§ 141. [Phân bổ ghế đại biểu Quốc hội]


(1) Hạ viện: Phân bổ ghế Hạ nghị sĩ được tiến hành theo tỷ lệ, và các
Hạ nghị sĩ được phân bổ theo nguyên tắc phân chia hạn ngạch
chiếu theo số phiếu bầu nhận được của đảng chính trị trong liên
danh khu vực bầu cử. Không đảng nào được phân chia ghế Hạ
nghị sĩ trừ khi đảng đó đạt được ít nhất 4 phần trăm của tổng số
phiếu biểu quyết trên toàn quốc. Số phiếu bầu của mỗi đảng trong
liên danh khu vực bầu cử được chia cho 1,4; 3; 5; 7 và cứ chia
lần lượt như vậy cho mỗi đảng. Đảng nào nhận được hạn ngạch
cao nhất được tiếp nhận ghế nghị sĩ đầu tiên, ghế nghị sĩ tiếp theo
được phân cho đảng có hạn ngạch lớn thứ hai và tiếp tục như thế
cho đến khi tất cả các ghế nghị sĩ trong liên danh của đơn vị bầu
cử được phân bổ hết. Không được phép liên kết danh sách khác.
(2) Thượng viện: Phân bổ ghế Thượng nghị sĩ được tiến hành theo
phương pháp phân chia đồng đều vào các khu vực tỉnh. Mỗi khu
vực tỉnh được cử 1 Thượng nghị sĩ. Trong liên danh bầu cử khu
vực, ứng cử viên đạt đa số phiếu nhất sẽ được cử làm Thượng
nghị sĩ tại Quốc hội.
(3) Điều khoản này quy định trong Luật bầu cử.

Theo quy định của Hiến Pháp 2021, Quốc hội được bầu trên cơ sở các
đảng phái chính trị để thành lập Hạ viện, và đại diện trực tiếp từ các đơn
vị tỉnh để thành lập Thượng viện.

Hệ thống bầu cử Quốc hội có thể được xem là một hệ thống hỗn hợp, kết
hợp giữa phương pháp đại diện tỷ lệ và phương pháp đa số, được thực
hiện song song với nhau. Với phương pháp song song này, hai hệ thống
bầu cử được tiến hành độc lập, căn cứ theo hai cách thức khác nhau – tức
là cử tri nhận được hai phiếu bầu riêng biệt, một phiếu bầu cho hệ thống
đa số (Thượng viện) và một phiếu bầu cho hệ thống đại diện tỷ lệ (Hạ
viện).

197
Bầu Hạ viện
Hệ thống đại diện tỷ lệ được áp dụng để bầu Hạ viện, một trong hai cơ
quan lập pháp của Việt Nam. Nguyên tắc của hệ thống này là cơ quan lập
pháp được bầu trên cơ sở các đảng phái chính trị. Theo kết quả bầu cử tại
các đơn vị bầu cử, khu vực địa phương, các đảng phái nhận được số ghế
theo tỷ lệ số phiếu bầu mà đảng nhận được. Cơ bản của hệ thống này là cơ
quan lập pháp được thành lập trên cơ sở bảo đảm tính cân đối số lượng đại
biểu đại diện thích ứng với dân số của khu vực địa phương và bình đẳng
hóa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi v.v.

PHƯƠNG PHÁP SAINTE-LAGUË


Phương pháp Sainte-Laguë được biết đến là một phương pháp có hạn
ngạch (quotient, phần chia cho mỗi đảng) cao nhất được sử dụng để phân
bổ ghế đại biểu theo tỷ lệ cho danh sách đảng chính trị trong hệ thống bầu
cử. Phương pháp được đặt theo tên của nhà toán học người Pháp André
Sainte-Laguë, và được biết đến ở Hoa Kỳ là phương pháp Webster. Phương
pháp này khá giống với phương pháp D’Hondt, nhưng sử dụng các số chia
khác nhau. Cho dù phương pháp nào được sử dụng thì kết quả hầu hết cũng
giống như nhau. Phương pháp D’Hondt cũng có kết quả tương tự, nhưng
ưu tiên các đảng lớn hơn so với phương pháp Sainte-Laguë.

Ví dụ: Một đơn vị bầu cử được phân bổ 7 ghế đại biểu, có 5 đảng chính
trị đại diện và được 855 000 cử tri bỏ phiếu. Kết quả bầu cử cho thấy,
Đảng A chiếm 340 000 phiếu bầu, Đảng B chiếm 280 000, Đảng C chiếm
160 000, Đảng D đạt được 60 000 và Đảng E nhận được 15 000 phiếu
bầu.

Công thức phân bổ:

Theo lý thuyết của công thức phân bổ này, V là tổng số phiếu bầu mà đảng
nhận được, và s là số lượng ghế đại biểu đảng được phân bổ cho đến giờ.
Đảng nào đạt được hạn ngạch (quotient) cao nhất được tiếp nhận ghế đại
diện đầu tiên, ghế đại diện tiếp theo được phân bổ cho đảng có hạn ngạch
thứ hai, rồi đến thứ ba… và được tính toán lại, vì hiện tại đã có một số
ghế đại diện mới. Do đó, các số chia trước tiên là 1, sau đó 3, 5, 7, 9, v.v.
Quá trình tiếp tục cho đến khi tất cả các ghế đại biểu trong danh sách được
phân bổ hết.

198
Đảng A Đảng B Đảng C Đảng D Đảng E
Phiếu bầu 340 000 280 000 160 000 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 1 340 000 280 000 160 000 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 2 113 333 280 000 160 000 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 3 113 333 93 333 160 000 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 4 113 333 93 333 53 333 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 5 68 000 93 333 53 333 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 6 68 000 56 000 53 333 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 7 48 571 56 000 53 333 60 000 15 000
Tổng số ghế đại biểu 3 2 1 1 0

PHƯƠNG PHÁP SAINTE-LAGUË - PHIÊN BẢN SỬA ĐỔI


Theo quy định (§ 141) của Hiến Pháp 2021, hệ thống bầu cử Hạ viện được
áp dụng theo phương pháp Sainte-Laguë, nhưng không hẳn là một phương
pháp thuần túy của Sainte-Laguë, mà là một ‘phiên bản sửa đổi’ (Modified
Sainte-Laguë method), nghĩa là các số chia được biến đổi. Ví dụ, thay vì
áp dụng phương pháp thông thường cho các số chia như (1, 3, 5, 7, ...) thì
theo ‘phiên bản sửa đổi’ số chia được đổi thành (1.4, 3, 5, 7, ...). Phương
pháp này được xem là cân bằng hơn, mang lại ưu thế một chút cho các
đảng lớn và vừa, nhưng không có lợi cho các đảng quá nhỏ.

Một số quốc gia thay đổi công thức tính toán cho các đảng tùy theo hoàn
cảnh chính trị ở nước họ. Ví dụ, Na Uy sử dụng V/1.4, nhưng Thủy Điển
thì V/1.2. Tuy nhiên, việc thay đổi công thức cũng như phương pháp phân
bổ đại biểu ở Việt Nam thì cũng nên được cân nhắc, chỉnh sửa sao cho
phù hợp vào hoàn cảnh chính trị đất nước, và tất nhiên nước ta cũng cần
thêm thời gian mới có thể hình dung được những thành quả sau những
biến chuyển mới của đất nước.

Đảng A Đảng B Đảng C Đảng D Đảng E


Phiếu bầu 340 000 280 000 160 000 60 000 15 000
Ghế đại biểu thứ 1 242 857 200 000 114 286 42 857 10 714
Ghế đại biểu thứ 2 113 333 200 000 114 286 42 857 10 714
Ghế đại biểu thứ 3 113 333 93 333 114 286 42 857 10 714
Ghế đại biểu thứ 4 113 333 93 333 53 333 42 857 10 714
Ghế đại biểu thứ 5 68 000 93 333 53 333 42 857 10 714
Ghế đại biểu thứ 6 68 000 56 000 53 333 42 857 10 714
Ghế đại biểu thứ 7 48 571 56 000 53 333 42 857 10 714
Tổng số ghế đại biểu 3 3 1 0 0

199
Bầu Thượng viện
Bầu Thượng viện, một trong hai viện của Quốc hội, thì đại biểu Thượng
viện được bầu trực tiếp từ các tỉnh thành, tức là họ được bầu trực tiếp từ
các đơn vị khu vực tỉnh như đã đề cập ở trên. Thượng nghị sĩ là những
người dân cử từ địa phương. Việt Nam hiện có 63 tỉnh thành chiếu theo
đơn vị hành chính, và 63 ghế đại biểu được phân bổ đồng đều vào các tỉnh
thành này.

Bầu Thượng viện thì được đánh giá đơn giản hơn so với phương pháp bầu
Hạ viện, và theo như các hình thức áp dụng của các nước trên thế giới thì
cho thấy có nhiều phương pháp để chọn lựa. Theo quy định của Hiến Pháp
2021, đại biểu Thượng viện có thể áp dụng phương pháp bầu cử đa số và
đơn danh từ các đơn vị bầu cử. Theo phương pháp này, cử tri có thể chọn
lựa đại biểu bằng cách đánh dấu thứ tự vào ứng viên mà họ tín nhiệm
nhất.

Để tiến hành một cuộc bầu cử thành công tốt đẹp và hợp lý nhất cho hoàn
cảnh chính trị tại Việt Nam, các hệ thống và phương pháp đại diện nên
được xem xét và cân nhắc thận trọng để đạt kết quả như mong đợi. Tuy
nhiên, khó có thể kết luận trong một nhận định ngắn gọn là hệ thống bầu
cử của quốc gia này tốt hơn hệ thống bầu cử của quốc gia kia. Mỗi hệ
thống bầu cử đều phải gắn liền với hoàn cảnh của quốc gia đó, hợp với
cấp độ dân chủ cũng như hướng đi mà dân chúng của quốc gia đó mong
muốn, và điều quan trọng nữa là mức độ khả thi và khả năng hoàn thành
mục tiêu.

§ 142. [Đảng chính trị]


(1) Trước khi có hiệu lực để tham gia vào các cuộc bầu cử, các đảng
chính trị phải được thông qua các thủ tục theo luật định, xác lập
chính sách quốc gia Việt Nam Dân Chủ, phù hợp với Hiến pháp.
Thủ tục đăng ký hợp lệ và được hiển thị trên danh sách «Đảng
chính trị toàn quốc». Các chính đảng được tự do phát biểu và giới
thiệu chính sách, đường hướng và chủ trương của mình một cách
công khai và minh bạch trên các kênh truyền thông quốc gia, báo
chí và mọi nguồn thông tin đại chúng.
(2) Các đảng chính trị trong vòng 60 ngày trước cuộc tổng tuyển cử
phải được tiến hành ít nhất 2 lần tranh luận trên kênh truyền thông
quốc gia để tỏ bày các chính sách, kế hoạch và chương trình thực
hiện của mình đến đại chúng một cách công khai và minh bạch.

200
(3) Thành phần tài trợ cho các đảng chính trị được phổ biến công khai
để công chúng kiểm tra.
(4) Các nguyên tắc về việc đăng ký đảng chính trị, và thủ tục đề cử
hợp lệ vào danh sách bầu cử Quốc hội được quy định theo pháp
luật.

Khái quát về đảng chính trị và quyền thành lập, thuật ngữ «cánh tả» và
«cánh hữu» đã được đề cập (§ 55). Để có hiệu lực tham gia vào các cuộc
bầu cử tự do và theo pháp lý, phần này được quy định chi tiết hơn trong
Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.
Nguyên tắc thực hiện cuộc bầu cử tự do của Việt Nam được áp
dụng theo phương pháp bầu cử tỷ lệ cho các đảng chính trị. Điều này có
nghĩa là một đảng có được đại diện trong Hạ viện phụ thuộc vào kết quả
phiếu bầu mà đảng đó nhận được trên toàn quốc. Nước ta được chia thành
63 khu vực bầu cử, chiếu theo số lượng hành chính cấp tỉnh, trong đó 427
ghế Hạ viện (một trong hai viện Quốc hội) được phân chia cho các đảng
trúng cử. Các đảng chính trị được phân bổ số ghế Hạ viện dựa trên số
phiếu mà các đảng nhận được trên cơ sở toàn quốc. Theo hệ thống bầu cử
tỷ lệ quy định trong Hiến pháp và Pháp lệnh, trợ giúp bảo đảm các phiếu
bầu của các đảng chính trị được phân bổ đồng đều và công bằng nhất có
thể. Để tham gia vào một chính trường rộng mở và đầy quyền lực, các
đảng phái phải thông qua một quy tắc chặn là, đảng phải đạt được ít nhất
4% số phiếu trên cả nước. Quy tắc 4% thường là yếu tố quyết định - 4%
tương đương với 17 ghế trong Quốc hội.

Về hình thức và quy định các đảng phái chính trị trong hiến pháp trên
thế giới, theo ABC về Hiến Pháp: «Đảng phái chính trị (thường gọi tắt là
đảng) là tổ chức chính trị tự nguyện, có một hệ tư tưởng hay một đường
lối nhất định, ra đời là để hoạch định các chính sách của nhân dân và thực
hiện chức năng liên kết giữa nhà nước và xã hội. Mục đích quan trọng
nhất của đảng chính trị là gây ảnh hưởng đến các chính sách của chính
quyền. Sự ảnh hưởng này không thể bằng cách nào khác hơn là nắm được
chính quyền thông qua các cuộc bầu cử dân chủ.
Các đảng phái chính trị là một thành tố thiết yếu của một chính
thể dân chủ. Không phải tất cả các hiến pháp đều lựa chọn cách thức ghi
nhận vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các đảng phái trong hiến pháp.
Về nguyên lý chung, đảng phái không phải là những cơ quan nhà nước,
không thuộc nhà nước, mà là những tổ chức dân sự, những tổ chức của
nhân dân. Thành viên của các đảng phái chỉ có thể là “công dân”, không
thể là các pháp nhân, tổ chức hay các đảng phái của nước ngoài. Các đảng

201
phái ra đời có mục đích là thực hiện chức năng làm cầu nối, liên kết giữa
nhà nước và xã hội, nhằm hiện thực hóa lợi ích của toàn thể nhân dân. Ở
các nước theo hệ thống chính trị đa đảng thì các đảng phái chính trị cạnh
tranh nhau để có được nhiều phiếu bầu trong nghị viện (ở cả hai viện hoặc
chỉ hạ viện).
Ở Anh quốc, chính phủ được thành lập từ đảng chiếm đa số ghế
trong Nghị viện, các đảng phái khác trở thành đảng đối lập. Các đảng
phái sẽ góp phần truyền tải tiếng nói của nhân dân vào các chính sách của
hành pháp và lập pháp có nhiệm vụ cụ thể hóa những chính sách của hành
pháp. Mặc dù Hiến pháp Hoa Kỳ không đề cập đến các đảng phái chính
trị, tuy vậy nhiều nhà lập hiến vẫn nhận thức rõ về tầm quan trọng của các
đảng phái.» Tiếp theo: «Ở Việt Nam, chỉ có hiến pháp đầu tiên (1946) là
không đề cập đến vai trò của một đảng phái chính trị nào. Hiến pháp 1959
bắt đầu ghi nhận vai trò của Đảng Lao động (Đảng Cộng sản) Việt Nam
trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước tại Lời nói đầu.
Giống như một số nước XHCN trước đây, vai trò lãnh đạo nhà nước của
Đảng Cộng sản được xác định tại một điều khoản của hiến pháp Việt Nam
năm 1980 và năm 1992 hiện hành, điều này rất khác biệt so với hầu hết
các quốc gia trên thế giới.»

§ 143. [Ứng cử đại biểu Quốc hội]


(1) Các ứng cử viên Hạ viện là đảng viên được chính đảng mình đề
cử.
(2) Các ứng cử viên Thượng viện là dân cư của tỉnh mình đại diện,
được tổ chức hoặc cơ quan giới thiệu, hoặc tự ứng cử.
(3) Không ai được ứng cử trừ khi người đó là cử tri. Không ai cùng
một lúc tranh cử vào Hạ viện và Thượng viện. Nghị sĩ có thể được
tái cử.
(4) Những người được bầu làm nghị sĩ bắt buộc phải chấp nhận tuyển
cử. Quy tắc từ chối và thời hạn bác bỏ tuyển cử được quy định
theo pháp luật. Trường hợp ứng cử viên được bầu lên từ hai hoặc
nhiều khu vực, phải xác định cuộc tuyển cử nào người đó chấp
nhận.

Để tránh tình trạng chồng chéo thiếu căn cứ, việc thực hiện nhiệm vụ đại
biểu trong Hiến pháp 2021 được quy định như sau: Không ai được ứng cử
trừ khi người đó là cử tri. Không ai cùng một lúc tranh cử vào cả Hạ viện
và Thượng viện.
Các nguyên tắc chi tiết hơn được quy định trong Pháp lệnh bầu cử 2019/
QHVNDC.

202
§ 144. [Công chức hành chính]
Công chức đang làm việc tại các cơ quan chính phủ, thư ký quốc gia
và các cố vấn chính trị không được bầu làm đại biểu. Điều tương tự
cũng áp dụng cho các thành viên của tòa án và các công chức làm việc
cho các dịch vụ ngoại giao, sứ quán và lãnh sự.

Thông thường, các công chức, nhân viên, viên chức làm việc tại các cơ
quan chính phủ, thư ký quốc gia và các cố vấn chính trị không được bầu
làm đại biểu. Điều tương tự cũng áp dụng cho các thẩm phán của tòa án
và các công chức làm việc cho các dịch vụ ngoại giao, sứ quán và lãnh sự.
Nguyên tắc này được áp dụng để bảo đảm tính độc lập của những người
ứng cử cũng như đại diện thi hành nhiệm vụ trong các cơ quan chính
quyền.

§ 145. [Ứng cử đại biểu chính quyền địa phương]


(1) Hệ thống bầu cử và các trường hợp tranh cử vào các chức vụ Tỉnh
trưởng và thành viên Hội đồng tỉnh khu vực địa phương được
cử hành phù hợp với Hiến pháp và những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật quốc gia.
(2) Không ai có thể đồng thời vừa là thành viên của Hội đồng tỉnh
vừa là thành viên của Quốc hội, hoặc thành viên của Hội đồng
tỉnh khác.
(3) Tỉnh trưởng được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực
tiếp, bình đẳng và được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín. Tỉnh
trưởng đắc cử có quyền bổ nhiệm một Phó tỉnh trưởng trong
những thành viên Hội đồng tỉnh, có quyền bổ nhiệm và cách chức
các thành viên của Ủy ban Hành chính.

Chức vụ Tỉnh trưởng được bầu trực tiếp từ các cử tri trong tỉnh vào kỳ bầu
cử Hội đồng tỉnh, cùng thời kỳ với bầu cử Quốc hội. Tỉnh trưởng được
bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bình đẳng và được tiến
hành bằng cách bỏ phiếu kín. Hiến pháp 2021 quy định một đặc quyền
dành cho Tỉnh trưởng là khi đắc cử có quyền bổ nhiệm một Phó Tỉnh
trưởng từ những thành viên Hội đồng tỉnh, điều này cũng được áp dụng
tương tự cho các đơn vị bầu cử cấp huyện và xã.
Hệ thống bầu cử và các trường hợp tranh cử vào các chức vụ Tỉnh
trưởng và thành viên Hội đồng tỉnh địa phương được cử hành phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc chi tiết hơn được quy định trong Pháp
lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

203
§ 146. [Giám sát các cuộc bầu cử]
(1) Cử tri, các cơ quan, tổ chức và đảng phái chính trị có quyền khởi
kiện lên Tòa án Tối cao về tính hợp lệ của các cuộc bầu cử theo
nguyên tắc và theo luật định.
(2) Tòa án Tối cao có trách nhiệm xem xét tính hợp lệ của cuộc bầu
cử Quốc hội, Hạ viện và Thượng viện. Phán quyết của Tòa án Tối
cao là cuối cùng và không thể khiếu nại.

Việc khiếu nại trong cuộc bầu cử Quốc hội: Cử tri, các cơ quan, tổ chức
và đảng phái chính trị có quyền khởi kiện lên Tòa án Tối cao về tính hợp
lệ của các cuộc bầu cử theo nguyên tắc và theo luật định. Điều này có
nghĩa là cử tri có quyền khiếu nại về các vấn đề liên quan đến việc tổ chức
và thực hiện cuộc bầu cử Quốc hội trong khu vực bầu cử mà họ được liệt
kê trong danh sách cử tri. Nếu khiếu nại liên quan đến các vấn đề quyền
bỏ phiếu cũng có thể được thực hiện.

Hình thức và các quyền khởi kiện về bầu cử cho tất cả các cấp được quy
định chi tiết hơn trong Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC.

Hội đồng bầu cử quốc gia được trao nhiệm vụ tổ chức các cuộc bầu cử,
điều hành, hướng dẫn trong các vấn đề khiếu nại và khởi kiện, bao gồm
các cuộc bầu cử lại, bầu cử bổ sung và tái cử.

204
CHƯƠNG IX: TÀI CHÍNH

Tài chính là một khái niệm chung thường được sử dụng liên hệ lĩnh vực
kinh tế và cuộc hành trình ngân khoản trong các mục tiêu kinh tế. Tài
chính trong Chương này đề cập đến tài chính công, một thuật ngữ được sử
dụng để chỉ việc các nguồn tài trợ, toàn bộ hoặc một phần, được cấp phát
đóng góp vào một dự án, một doanh nghiệp, một tổ chức, cơ quan công
quyền hay tư nhân.

Tuy nhiên, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan địa
phương và tổ chức, trực tiếp hoặc gián tiếp, chịu trách nhiệm báo cáo về
việc chi tiêu của các thành phần được tài trợ công. Tài chính công có thể
được thực hiện thông qua các khoản vay, tín dụng, quà tặng, bảo lãnh, cổ
phần và quỹ tài trợ.

Các nguồn tài chính công, tài trợ và quyền cung cấp trong chính trị Na Uy
thường thuộc về cơ quan lập pháp. Hầu hết các nguồn ngân khoản được
thực hiện thông qua ngân sách (ví dụ, ngân sách quốc gia).

Về khái niệm kinh tế tự do, kinh tế thị trường, kinh tế phát triển thì đã
có nhiều sách giáo khoa và nghiên cứu xuất bản, ở đây không đặc biệt
đề cập đến. Nhưng khái niệm kinh tế luôn là nguồn gợi cảm cho hầu hết
mọi con người. Chế độ kinh tế, theo ABC về Hiến Pháp: «Hiến pháp khi
mới xuất hiện chủ yếu nhằm để bảo vệ tự do của con người thoát khỏi sự
chuyên chế của nhà nước phong kiến. Theo chủ nghĩa tư bản tự do, nhà
nước không can thiệp vào kinh tế. Nếu có thì chỉ là việc hiến pháp xác
định sở hữu là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của con người. Mọi hoạt
động kinh tế do thị trường điều tiết (bàn tay vô hình). Đối với các quốc gia
đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi, vai trò của nhà nước có ý
nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, nên hiến pháp
các nước này thường có những quy định về chế độ kinh tế của quốc gia
nhưng cũng chỉ bằng một số điều khoản (Ví dụ, Hiến pháp Philippin, Hàn
Quốc...).»

«…Chế độ kinh tế trong Hiến pháp Việt Nam 1992, Điều 16 xác định rõ
các mục đích của chính sách kinh tế nhà nước trong giai đoạn hiện nay
là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân... Tuy nhiên, việc quy định kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh
tế quốc dân, tỏ ra không phù hợp với thực tế. Thêm vào đó, các quy định

205
về sở hữu toàn dân về đất đai, định hướng phát triển ‘kinh tế thị trường
XHCN”...gây ra nhiều tranh cãi. Những điều này được cho là một trong
những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm
gần đây, là một trong những lý do dẫn đến cần phải cải cách kinh tế và
sửa đổi hiến pháp.»

§ 147. [Quản lý tài chính và kinh tế]


Quyền quản lý tài chính và kinh tế quốc gia được nhân dân ủy nhiệm
Quốc hội, và được thực hiện theo quy định của Hiến Pháp và Pháp
luật. Không một ngân khoản hoặc tài sản nào được chi dụng trừ khi
được phép và ủy quyền của Quốc hội.

Trong chính trị, quyền cấp phát tài chính công thường thuộc về cơ quan
lập pháp. Quyền lực này là một phương tiện hiệu quả gây áp lực đối với
nhánh hành pháp, được sử dụng bằng cách giữ lại các tài khoản để thúc
đẩy Chính phủ thực thi một số cân nhắc nhất định. Bằng cách này, Quốc
hội có thể kiểm soát phần lớn việc thực hiện quyền hành pháp bằng cách
đe dọa giữ lại các quỹ công. Quyền cấp phát tài chính cũng có thể được sử
dụng như một hình thức xử phạt.

Ở Na Uy, ba cấp chính quyền có thẩm quyền cấp phát: các thành phố tự
quản, các quận hạt và trung ương tại Quốc hội. Ngoài ra, Quốc hội là cơ
quan ấn định thuế, đưa ra luật điều chỉnh người bị đánh thuế, đưa ra các
quyết định về những hoạt động nào được điều chỉnh bởi luật và các trường
hợp phụ cấp.

§ 148. [Ngân sách Quốc gia]


(1) Ngân sách Quốc gia vạch ra một khuôn mẫu chi tiêu và thu nhập
ước tính trong một năm lịch trình của Quốc gia. Ngân sách Quốc
gia được giao phó Chính phủ qua hình thức ủy quyền gồm các
thành phần: nguồn thu chi và đặt ra những quy tắc hướng dẫn tiêu
dùng, cũng như xác định mức thu thuế phí và ước tính tổng thu
nhập trong lĩnh vực.
(2) Chính phủ - Bộ Tài chính chuẩn bị Ngân sách Quốc gia với những
ước tính toàn bộ sự phát triển kinh tế và sự phát sinh trong khuôn
khổ ngân sách.
(3) Ngân sách Quốc gia Việt Nam bao gồm các chức năng dân chủ
như sau: Chính trị, Hành chính và Hiến pháp. Các hình thức và
lý thuyết chính trị có thể xác định theo các tính năng chính trong
Ngân sách Quốc gia như sau:

206
a) Thiết lập các nguyên tắc và hướng dẫn cho việc sử dụng
tài nguyên quốc gia;
b) Xác định các lĩnh vực gặp khó khăn cũng như thách thức
và đưa ra các biện pháp ưu tiên hàng đầu để khắc phục;
c) Thực hiện chuyển khoản đến địa phương các cấp, bao
gồm các khoản đầu tư và khoản tự do;
d) Xác định mức thuế phí và dự đoán trong một năm;
e) Hoạt động như một công cụ trong chính sách tài chính,
tức là quản trị kinh tế thông qua việc chi tiêu công, phân
phối nguồn thu và chuyển khoản;
f) Hoạt động ủy quyền chính thức của Quốc gia cho các cơ
sở hoạt động để tiến hành các phương án, đầu tư, chuyển
khoản, tuyển dụng nhân sự và theo dõi kết quả;
g) Bảo đảm quản trị tài chính trên bình diện dân chủ và am
hiểu sâu sắc về hoạt động.
(4) Ngân sách không được quy định việc xử lý các khoản thâm hụt
ngân sách bằng cách tạo ra các nghĩa vụ tín dụng ràng buộc đối
với ngân khố và tài nguyên quốc gia.
(5) Việc tăng chi hoặc giảm thu, hoặc bị thâm hụt ngân sách vượt quá
mức quy định trong kế hoạch ngân sách và tài chính của Chính
phủ, có thể được bổ trợ từ một quỹ dự trữ theo quyết định của
Quốc hội. Các khoản chi tiêu thâm hụt ngân sách sẽ do Quốc hội
phê chuẩn.
(6) Bên cạnh các đạo luật, nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội là phê
chuẩn và thông qua Ngân sách Quốc gia theo Hiến pháp § 75 (1)
a) b) c).

Trong xã hội dân chủ, ngân sách quốc gia được xem là một công cụ thông
dụng trong hệ thống quản trị quốc gia, được thông qua bởi cơ quan lập
pháp. Ngân sách có thể xác định về việc hoạt động tài chính của quốc gia
trong kỳ ngân sách. Theo hình thức này, ngân sách ở các nước dân chủ
cũng là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của chính sách quốc
gia đối với các lĩnh vực khác.

Trong ngân sách, kinh tế xã hội đóng một vai trò rất quan trọng. Điều này
được áp dụng không ít cho việc xác định tổng quy mô của ngân sách, mà
bản thân nó có thể được sử dụng như một công cụ để ổn định sự phát triển
kinh tế xã hội. Ngân sách được xem như một công cụ của chính sách kinh
tế còn gọi là chính sách tài khóa, tương tự như một năm tài chính.

207
Nguyên tắc chính
Nguyên tắc xây dựng dự thảo ngân sách quốc gia được trình bày dựa trên
một số quy tắc do Quốc hội quy định. Nguyên tắc quan trọng của dự thảo
có thể được đề cập đến:
- Toàn bộ ngân sách, tức là ngân sách bao gồm tất cả các khoản thu
và chi của quốc gia.
- Tổng ngân sách, tức là việc trình bày nguồn thu, nguồn chi và sự
chênh lệch giữa thu chi trong một đơn vị ngân sách.
- Ngân sách thanh toán, tức là ngân sách bao gồm các khoản thanh
toán đến và đi trong kỳ ngân sách.

Nếu không có quy định khác, tài khoản phân bổ từ ngân sách quốc gia sẽ
ràng buộc đơn vị nhận tài trợ, được xem là quyền được sử dụng, và không
được phép sử dụng vượt quá số ấn định. Chỉ khi khoản tài trợ được đặc
trưng là «ước tính chiếm dụng» thì mới có thể chi tiêu vượt mức.

Ngân sách cũng là một tài liệu ủy quyền cho các đơn vị cơ quan chính
quyền. Mỗi đơn vị quản lý nhận được phần ngân sách riêng. Mỗi chương
quy định các loại chi tiêu khác nhau cho các hạng mục, tạo cơ sở để phân
tích tác động tài chính của ngân sách.

Mỗi đơn vị quản lý cũng nhận được sự chỉ định rõ ràng và mạch lạc đồng
thời chịu ràng buộc bởi thông số kỹ thuật chi tiết trong hạng mục chi tiêu
ngân sách. Ngân sách quốc gia là một trong những hình thức được quy
định chặt chẽ nhất và cung cấp cho Quốc hội việc quản lý chi tiết cũng
như quản trị đất nước hiệu quả.

§ 149. [Dự thảo ngân sách]


(1) Hàng năm vào đầu tháng 10, Chính phủ đệ trình dự thảo ngân
sách trước Quốc hội để được thông qua và phê chuẩn. Dự thảo
ngân sách bao gồm hai thành phần chính như sau:
a) Ngân sách Quốc gia
b) Thuế, phí và thuế hải quan
(2) Quy định và thủ tục cho việc chuẩn bị dự thảo ngân sách, mức độ
chi tiết và các yêu cầu thực hiện đối với dự thảo, được mô tả tại §
148 và theo luật định.

Ở Na Uy, dự thảo luật ngân sách quốc gia thường được đệ trình trước
Quốc hội vào đầu tháng 10, và lúc này người dân tại đây có dịp tiếp cận
một ngân sách được hình thành và thể hiện như thế nào trong năm mới.

208
Chính sách và thời điểm này đem đến cho cộng đồng xã hội một dự đoán
toàn diện trong nền kinh tế và tài chính công của quốc gia.

Theo Hiến pháp 2021, ngân sách quốc gia Việt Nam cũng được thực hiện
tương tự. Chính phủ chuẩn bị các dự thảo về ngân sách quốc gia để trình
trước Quốc hội. Điều này có nghĩa là trước khi trình ra Quốc hội, Chính
phủ đã xem xét qua dự thảo và trình bày trước Quốc hội vào đầu tháng 10,
vào lúc trước năm ngân sách mới bắt đầu, theo hình thức như sau:
- Dự thảo số 1 - Ngân sách quốc gia
- Dự thảo số 2 - Thuế, phí và thuế hải quan

Ngân sách quốc gia được trình bày cùng với các yếu tố phân tích, giải
thích và cân nhắc đến các thành phần kinh tế xã hội, điều này tạo thành
nền tảng của ngân sách.

Quốc hội xem xét dự thảo ngân sách quốc gia, thực hiện thay đổi và thông
qua. Ngân sách sau đó trở thành một ràng buộc đối với Chính phủ, chính
quyền quản lý ngân sách quốc gia.

Quy tắc tài khóa sẽ đóng một vai trò «kim chỉ nam» cho các việc sử dụng
các tài khoản của ngân sách quốc gia, hướng dẫn cho phép sử dụng trong
khuôn khổ dự kiến thiết thực với những phương pháp theo dõi và quy
trình giám sát liên tục trong năm tài chính.

§ 150. [Tiến trình thông qua dự thảo ngân sách]


(1) Việc đệ trình dự thảo ngân sách, sửa đổi hoặc bổ sung, cũng như
các thành phần khác liên quan đến Ngân sách Quốc gia, thuộc
thẩm quyền riêng của Chính phủ.
(2) Chính phủ đệ trình dự thảo ngân sách cho năm tiếp theo trước Hạ
viện không muộn quá 3 tháng trước ngày bắt đầu năm ngân sách.
Chính phủ - Bộ Tài chính cùng lúc trình bày ngân sách trước công
chúng và phát hành trên các kênh truyền thông quốc gia.
(3) Dự thảo ngân sách được thông qua tương tự tại quy định § 77 với
thời hạn 14 ngày tại Hạ viện và 14 ngày tại Thượng viện.
(4) Sau khi dự thảo ngân sách được Quốc hội thông qua và phê
chuẩn, Chủ tịch Hạ viện gửi văn bản cùng dự thảo ngân sách đến
Tổng thống để ký ban hành.
(5) Dự thảo ngân sách được chuyển đến Tòa án Hiến pháp để xem xét
trong trường hợp vi hiến. Tòa án Hiến pháp có trách nhiệm xem
xét vấn đề này trong thời hạn 14 ngày kể từ khi được đệ trình.

209
§ 151. [Quản trị tài chính]
(1) Tài chính quốc gia được Quốc hội thông qua và phê duyệt căn cứ
trên quy định tài trợ quốc gia hàng năm, và thực hiện theo nguyên
tắc ngân sách và kế toán và do luật định. Luật gồm hướng dẫn và
đưa ra các nguyên tắc chính và tiêu chuẩn bảo đảm việc quản trị
tiền bạc và giám sát các hoạt động tài chính của Chính phủ và các
đơn vị trực thuộc.
(2) Khi năm ngân sách đã trôi qua, Chính phủ - Bộ Tài chính chuẩn
bị Kế toán quốc gia được thiết lập trên nguyên tắc kết cấu của ba
thành phần: Tài khoản phân bổ, Tài khoản vốn và Tài sản và nợ
(bảng cân đối kế toán). Kế toán quốc gia là chính sách được trình
bày mô tả cuộc hành trình chi tiêu trong năm ngân sách, và khoản
vốn thay đổi như thế nào được thể hiện chính xác và thực tế.
(3) Sở hữu, chuyển nhượng hoặc cầm cố tài sản, cổ phiếu hoặc trái
phiếu, phát hành chứng khoán của các cơ quan và tổ chức tài
chính và kinh tế của Quốc gia được thực hiện theo các quy định
và thủ tục của pháp luật.
(4) Việc cho vay, cung cấp bảo đảm hoặc bảo lãnh tài sản gây phát
sinh nợ công được thực hiện theo các nguyên tắc và thủ tục của
pháp luật.
(5) Phép tính giá trị tài sản quốc gia, nợ công và tổng sản phẩm quốc
gia hàng năm được quy định trong luật.

§ 152. [Hệ thống thuế]


(1) Chính sách áp thuế tạo ra nguồn tài trợ cho một xã hội tốt đẹp,
bảo đảm an toàn nền kinh tế quốc gia, giải quyết các nhu cầu của
công dân, đạt hiệu quả sử dụng tài nguyên và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp. Quyền sở hữu cá nhân được tăng trưởng và lợi
ích khi lao động, tiết kiệm và đầu tư. Mọi công dân và các tổ chức
kinh tế có bổn phận đóng góp vào mục tiêu này.
(2) Chính phủ giảm mức thuế phí để tạo giá trị tăng trưởng bền vững
và tạo tự do cho các gia đình và cá nhân. Nguồn thuế căn bản,
thuế suất thấp và bình đẳng đối với ngành công nghiệp, doanh
nghiệp và đầu tư sẽ đóng góp khai thác nguồn lực hiệu quả.
(3) Thuế phí cũng có thể áp dụng như là phương tiện để kích thích
hướng đến một môi trường trong sạch. Cải tiến hệ thống thuế phí
là một phần trung tâm của nền kinh tế của chính sách quốc gia và
một công cụ quan trọng để thúc đẩy tăng cường kinh tế.
(4) Hệ thống thuế phí phải được nghiên cứu và phân tích tường tận
trước khi lên kế hoạch ngân sách và đưa ra áp đặt. Hệ thống thuế

210
phí tuyệt đối không được tăng giảm đột ngột trong năm ngân sách
mà phải được thực hiện theo sự phê chuẩn của Quốc hội từ năm
trước. Hệ thống thuế phí tuyệt đối không được tạo bất ổn trong xã
hội hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người
dân.
(5) Để minh bạch nguồn thống kê cho tổng quan về thu nhập, lợi tức,
sự thịnh vượng và nợ nần của mỗi cá nhân cũng như pháp nhân,
và không ai phải trả quá nhiều thuế theo luật định, hàng năm vào
đầu mùa xuân, mọi công dân trưởng thành và các pháp nhân đều
có nghĩa vụ kê khai tài sản và thu nhập của năm trước, thông qua
chương trình ‘tổng kết thuế vụ’. Chính phủ có trách nhiệm thiết
lập chương trình kê khai nhằm hướng dẫn và hỗ trợ mọi người,
mọi đơn vị, và đơn giản hóa chương trình thông qua công cụ kỹ
thuật số.

Như đề cập (§ 52), Chính phủ và các cơ quan hành chính có nhiệm vụ
mang đến lợi ích cho người dân. Thuế mà họ đóng cho Chính phủ được sử
dụng tài trợ cho các nhiệm vụ công như dịch vụ y tế, hoạt động của bệnh
viện, giáo dục và giao thông. Ngoài việc trang trải các chi phí của cộng
đồng, thuế góp phần bình đẳng kinh tế giữa các công dân.

Trên bình diện quốc tế, rất nhiều điều thú vị đã xảy ra liên quan đến các
vụ thuế phí cả hàng trăm năm qua. Một đặc điểm chính là mức thuế đã
tăng lên rất nhiều. Một đặc điểm khác là sự phát triển của đa số các nước
đã mở rộng cơ sở tính thuế. Đó là, họ thu thuế theo nhiều hình thức chứ
không riêng việc thông qua nguồn thuế đánh vào thu nhập và tài sản. Do
đó, VAT đã trở thành một loại thuế đặc biệt phổ biến và sinh lợi ở nhiều
quốc gia. Đồng thời, các nhà nghiên cứu so sánh về thuế cho thấy có sự
khác biệt lớn giữa các quốc gia.

Một đặc điểm quan trọng khác là các nước phát triển thu thuế cao hơn
nhiều so với các nước kém phát triển - từ những người mà theo lý thuyết,
lẽ ra phải nộp cùng một khoản thuế, cho thấy việc thu thuế ở các nước
đang phát triển không hiệu quả.

Do đó, các nỗ lực quốc tế hiện đang được thực hiện để hỗ trợ các nước
đang phát triển, đặc biệt là ở châu Phi trong việc thực hiện các cơ quan
và hệ thống thuế hoạt động tốt. Nghiên cứu đóng một vai trò quan trọng.
Trung tâm Quốc tế về Thuế và Phát triển (ICTD) có thể là nguồn tham
khảo thêm về thuế trên thế giới.

211
Ngoài tài trợ cho việc sử dụng và đầu tư công, thuế cũng có thể được xem
như một phương tiện chính trị để tác động đến các hành vi tác hại đến sức
khỏe và môi trường. Ví dụ về điều này là thuế đánh vào xăng dầu để giảm
ô nhiễm do lái xe ô tô; hoặc đánh thuế cao đối với thuốc lá và rượu vì nó
có thể gây tai hại cho người tiêu dùng.

Thuế thường được chia thành thuế trực thu và thuế gián thu. Các loại thuế
trực thu điển hình là thuế thu nhập và thuế tài sản. Mặt khác, thuế VAT đối
với hàng hóa và dịch vụ là một ví dụ của thuế gián thu.

Khái niệm thuế dần dần phổ biến và lớn mạnh, có thể chia khái niệm này
thành nhiều cách. Nếu bạn lấy cơ sở thuế làm điểm khởi đầu, bạn sẽ nhận
được các loại thuế sau:
- Thuế thu nhập (thu nhập kiếm được, thu nhập vốn và thu nhập
kinh doanh)
- Bảo hiểm xã hội và lương hưu
- Thuế giàu có (giá trị của tài sản của người đóng thuế, ít nợ)
- Thuế bất động sản (dựa trên giá trị thẩm định của bất động sản)
- VAT hàng hóa và dịch vụ

Liên quan đến các khoản kế toán hàng năm, thường là nói đến việc công
ty nộp thuế. Thuế phải nộp là khoản thuế mà công ty dự kiến sẽ
​​ nộp cho
Chính phủ trong năm tài chính, được tính toán từ kết quả chịu mức thuế
trong các khoản kế toán hàng năm. Thuế quyết toán là số thuế thực tế phải
nộp cho Chính phủ khi tổng kết và kết quả đã rõ.

Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thuế được coi là một phần của
chính sách kinh tế và xã hội mà các nước theo đuổi nhằm cân bằng thu
nhập giữa các cá nhân và các ngành công nghiệp, điều tiết kinh doanh và
việc làm, định cư, v.v.

Ở Na Uy, thuế đánh vào tài sản và thu nhập được phân bổ cho các khu vực
địa phương tự quản, các tỉnh và thị xã. Hàng năm, Quốc hội xác định mức
thuế của quốc gia, ai là người chịu trách nhiệm nộp thuế và mức thuế theo
khả năng. Các quyết định được dẫn chiếu đến các đạo luật nơi các quy tắc
chi tiết được đưa vào áp dụng.

Hàng năm, các Hội đồng địa phương xác định tỷ lệ phần trăm thuế trong
mức giới hạn được quy định theo luật.

212
Người sử dụng lao động có nghĩa vụ khấu trừ thuế khi trả lương và các
khoản bảo hiểm xã hội tương tự. Mức khấu trừ được ghi trong thẻ thuế mà
nhân viên được cấp. Các khoản trích theo bảng hoặc theo tỷ lệ phần trăm
quy định trên số tiền lương.

Theo § 152 (5) trong Hiến pháp, được áp dụng tương tự như chính sách
khai thuế ở Na Uy. Thông thường vào cuối tháng 3 / đầu tháng 4 hàng
năm, tất cả những người nhận lương, trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp khác đều
nhận được bản khai thuế. Đây là bản thảo cho người ta thấy một cách nhìn
tổng thể về quá trình thu nhập, các khoản khấu trừ, sự gia tăng mức tài sản
hoặc giảm, sự giàu có và các khoản nợ trong một năm. Để bảo đảm không
ai phải trả quá nhiều thuế, họ kiểm tra xem thông tin trong tờ khai thuế có
chính xác hay không.

Các loại tài sản của người sở hữu không liệt kê trên bản khai thuế thường
được xem là tài sản «thiếu chính danh», quyền sở hữu có thể được đặt ra
và bị kiểm tra bởi cơ quan thuế vụ. Hệ thống khai thuế tại đây có thể đánh
giá như là một công cụ hết sức hữu ích cho mọi thành phần trong xã hội,
không những giúp đất nước gia tăng sự minh bạch trong vấn đề thu nhập,
quản lý tài chính và kinh tế, mà còn giảm mức độ tham nhũng và trục lợi,
và cùng lúc tạo sự linh hoạt cho cạnh tranh lành mạnh trong việc gia tăng
thu nhập giữa các cá nhân và doanh nghiệp. Để thực hiện điều này, Na Uy
phát hành danh sách thuế của mỗi cá nhân công khai và được công chúng
rất hoan nghênh.

§ 153. [Báo cáo tài chính]


(1) Sau khi năm ngân sách kết thúc, Viện Kiểm toán Quốc gia và
Chính phủ có trách nhiệm trình Quốc hội các báo cáo tài chính
cuối năm về việc thu chi ngân sách và tình trạng nợ công, không
chậm hơn thời hạn là 5 tháng.
(2) Mỗi năm một lần theo định kỳ, Chính phủ đệ trình trước Quốc hội
và toàn dân báo cáo về tình trạng tài chính Quốc gia. Các báo cáo
tài chính được phát hành công khai trên các kênh truyền thông
quốc gia để dân chúng kiểm tra.

§ 154. [Ngân hàng Quốc gia]


(1) Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là ngân hàng trung tâm của quốc
gia. Ngân hàng quốc gia Việt Nam có quyền phát hành tiền cũng
như quy định các chính sách trong lãnh vực tiền tệ. Ngân hàng
Quốc gia có trách nhiệm hàng năm quy định các mục tiêu, kế

213
hoạch và chính sách tiền tệ, và trình Quốc hội cùng thời điểm
trình dự thảo ngân sách quốc gia. Ngân hàng Quốc gia chịu trách
nhiệm về giá trị của đồng tiền Việt Nam.
(2) Ngân hàng Quốc gia được lãnh đạo bởi một Ban quản trị và một
Giám đốc do Quốc hội bổ nhiệm. Ban quản trị bầu ra một Chủ
tịch và một Thư ký. Công chức và công nhân viên Ngân hàng
quốc gia hoạt động độc lập, không thuộc đảng chính trị hoặc thực
hiện những công việc không phù hợp với chức trách. Ngân hàng
Quốc gia báo cáo hàng năm đến Quốc hội.
(3) Quy định về tổ chức, điều hành và hoạt động của Ngân hàng
Quốc gia sẽ do luật định.

Cũng như các Hội đồng bổ trợ quy định tại Chương III, Mục III, Ngân
hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập để trợ giúp Quốc hội trong các
lĩnh vực chuyên môn về tiền tệ và phát hành tiền, hoạch định các mục
tiêu, kế hoạch và chính sách tiền tệ Việt Nam.

Mặc dù Ngân hàng Quốc gia trực thuộc Quốc hội, song các nhiệm vụ và
hoạt động không chịu sự chi phối của Quốc hội, bởi vì được hiến định trên
nguyên tắc độc lập và phi đảng phái.

§ 155. [Tổ chức kinh tế]


(1) Nền kinh tế Quốc gia Việt Nam dựa trên sự tôn trọng tự do và
sáng kiến của các doanh nghiệp và chuyên gia trong lãnh vực kinh
tế.
(2) Chính phủ quy định và điều phối các hoạt động kinh tế nhằm duy
trì sự tăng trưởng bền vững và ổn định nền kinh tế quốc gia, nhằm
nâng cao tổng sản phẩm và thu nhập, ngăn chặn sự áp đảo thị
trường và lạm quyền kinh tế, dân chủ hóa nền kinh tế thông qua
sự hòa hợp giữa các chủ thể trong lãnh vực.

§ 156. [Khai thác tài nguyên thiên nhiên]


(1) Chính phủ quy định các ngành khai thác, phát triển và sử dụng
khoáng sản và các nguồn tài nguyên trong lòng đất, phát triển và
sử dụng tài nguyên dưới biển qua các công cụ hiện đại dựa trên
môi trường bền vững. Các công trình thủy điện và năng lượng tự
nhiên phải được bảo đảm an toàn cho người dân, đồng thời duy trì
nền kinh tế ổn định trong khu vực.
(2) Chính phủ tạo các biện pháp bảo tồn đất đai và tài nguyên thiên
nhiên trên toàn lãnh thổ Việt Nam và thiết lập các kế hoạch cần

214
thiết cho việc sử dụng và khai thác hiệu quả trên cơ sở môi trường
bền vững.

§ 157. [Quản lý đất đai]


(1) Theo điều kiện và luật định, Chính phủ có thể áp đặt hoặc giới
hạn cần thiết cho việc sử dụng, phát triển, bảo quản và cân bằng
đất đai của quốc gia, vì đó là nền tảng chung cho các hoạt động
hiệu quả vào đời sống hàng ngày của nhân dân.
(2) Việc cho thuê đất và quản lý để tăng sản lượng công nghiệp, bảo
đảm việc sử dụng hợp lý đất công nghiệp được thực hiện theo
điều kiện do pháp luật quy định.
(3) Việc cho thuê đất để thiết lập đặc khu kinh tế hoặc căn cứ hoạt
động khác, có sự tác động liên quan trong một khu vực, nhiều
vùng miền hoặc ảnh hưởng toàn lãnh thổ quốc gia sẽ được tham
kiến công dân hoặc qua cuộc trưng cầu dân ý.

Quyền sở hữu tài sản, đất đai được pháp luật bảo vệ. Hiến pháp bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân ở mức độ cao (§49). Tuy nhiên, trong mô hình xã
hội dân chủ, một số hạn chế, nghĩa vụ, các biện pháp quy hoạch, khai thác
và phát triển bị áp đặt bởi Chính phủ.

Như nêu ở điều khoản về quyền sở hữu tài sản, ví dụ, nếu khu vực công
cần đất tư nhân cho việc mở rộng đường, điều này chỉ có thể được thực
hiện thông qua việc bồi thường cho chủ đất. Hiến pháp không bảo vệ chủ
sở hữu khi họ chống lại các hạn chế đối với việc từ bỏ tài sản. Một ví
dụ hạn chế khác là các quy định về quy hoạch và khai thác, ví dụ, Luật
Khoáng sản quy định rằng Chính phủ có quyền sở hữu đối với một số kim
loại nhất định, ngay cả khi chúng nằm trên đất tư nhân. Luật Lâm nghiệp
nghiêm cấm các thỏa thuận về một số quyền sử dụng đất đặc biệt gây tổn
hại đến rừng. Luật Đất đai quy định rằng đất canh tác phải được duy trì
và không được sử dụng cho các mục tiêu không nhằm mục đích sản xuất
nông nghiệp. Theo Luật Đa dạng Sinh học, có thể quyết định rằng các khu
vực được bảo vệ khi điều này được xem là vì lý do khoa học hoặc lịch sử,
hoặc do vẻ đẹp tự nhiên hoặc tính độc đáo của khu vực. Mục đích của các
quy định này là mang lại lợi ích cho cộng đồng và xã hội chứ không phải
lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm.

Khoản (3) đưa ta về một biến cố xảy ra vào năm 2018 - «Đặc khu kinh tế»
hay còn gọi «Khu kinh tế đặc biệt», tiếng Anh gọi là «Special Economic
Zone - SEZ». Theo Investopedia: Khái niệm «Đặc khu kinh tế» được

215
biết đến là một khu vực trong một quốc gia tuân theo các qui định kinh
tế riêng, khác với các khu vực khác của cùng một quốc gia. Các qui định
của SEZ có xu hướng thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các
đơn vị hoạt động trong khu vực thường hưởng được những ưu đãi về thuế.

Các cuộc biểu tình của dân chúng, sự phẫn nộ cũng như các chỉ trích đanh
thép đã khiến chính quyền bắt buộc phải lùi bước… bởi các nguy cơ tác
hại trực tiếp đến nền kinh tế quốc gia và là mối đe dọa lớn đối với chủ
quyền đất nước. Đây là một điển hình cụ thể cần tham kiến công dân qua
một cuộc trưng cầu dân ý.

§ 158. [Kế hoạch hỗ trợ ngành nông và ngư nghiệp]


(1) Chính phủ có trách nhiệm thiết lập và áp dụng các kế hoạch phát
triển và hỗ trợ công dân trong các ngành nông và ngư nghiệp,
nhằm bảo đảm các sản phẩm sản xuất được bảo quản an toàn và
đẩy mạnh tiêu thụ.
(2) Nhằm đem lại lợi ích cho cộng đồng nông và ngư dân, Chính phủ
thúc đẩy sự ổn định giá thị trường bằng việc duy trì sự cân bằng
giữa cung cầu của các sản phẩm, và phát triển hệ thống tiếp thị và
dây chuyền phân phối.
(3) Luật quy định đất nông nghiệp thuộc về nông dân, khuyến khích
hợp tác hóa đất đai để tăng trưởng lợi ích thông qua thỏa hiệp
giữa các chủ sở hữu.
(4) Chính phủ khuyến khích áp dụng và phát triển ngành nuôi trồng
thủy sản trên sông hoặc ngoài biển. Hoạt động trong lĩnh vực này
phải có giấy phép hợp lệ với việc kiểm soát thường xuyên của cơ
quan chức trách nhằm bảo đảm một môi trường bền vững và an
toàn hành nghề.
(5) Chính phủ hỗ trợ các tổ chức chuyên ngành được thành lập với
nghiệp vụ hướng dẫn và truyền bá thông tin hữu ích đến cộng
đồng nông dân, ngư dân và thương nhân, và tạo điều kiện hội họp
để họ tham gia vào các quy trình phát triển và bảo đảm các hoạt
động hiệu quả nhằm mang lại lợi ích chung.
(6) Chính phủ có trách nhiệm tạo các biện pháp nghiêm ngặt bảo vệ
người tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo đảm
thực phẩm được an toàn và tươi sạch.

§ 159. [Các thành phần kinh tế]


(1) Các doanh nghiệp tư nhân không bắt buộc quốc doanh hóa hoặc
chuyển sở hữu do chính quyền địa phương, việc quản lý cũng

216
không bị kiểm soát hay áp chế bởi bất cứ thế lực nào, trừ khi pháp
luật quy định nhằm đáp ứng các nhu cầu khẩn cấp vì lý do quốc
phòng hoặc vì nền kinh tế vĩ mô của quốc gia.
(2) Chính phủ dốc nỗ lực thúc đẩy nền kinh tế quốc gia qua việc phát
triển ngành khoa học và công nghệ, thông tin và nguồn nhân lực,
khuyến khích sáng tạo và phát minh.
(3) Chính quyền địa phương các cấp có nghĩa vụ thúc đẩy nền kinh tế
trong khu vực để bảo đảm sự phát triển đều đặn trong dân chúng.
(4) Chính phủ có trách nhiệm thiết lập các cơ cấu và chức năng tư
vấn cần thiết để đạt được các mục tiêu kinh tế và xã hội.

217
CHƯƠNG X: BẢO HIẾN

Theo quan điểm của một trường khoa học nước Cộng hòa Ý: Sau khi hiến
pháp hình thành, điều cần thiết là phải đưa vào các cơ chế để bảo đảm việc
bảo vệ hiến pháp. Điều này có lợi cho những người nắm giữ quyền lực
chính trị và cho cả công dân. Vì thế, họ gọi là Bảo vệ Hiến pháp (Protect
the Constitution) và tiếng Việt gọi tắt là Bảo hiến.
Theo quan điểm của chủ nghĩa hợp hiến tự do, Hiến pháp có thể được giải
thích theo hai mô hình khác nhau:
- Mô hình hoạt động ở các bang của Mỹ, Hiến pháp trước hết phải
bảo đảm cho công dân một phạm vi quyền tự trị khỏi quyền lực
liên bang (bảo hiến tản quyền);
- Mô hình được các quốc gia tiếp thu trong thời kỳ hậu chiến là
hiến pháp hàm chứa các nguyên tắc cơ bản mà từ đó hình thành
nên các chính quyền (bảo hiến tập trung).

Việc bảo vệ hiến pháp có thể diễn ra thông qua cơ chế cấu trúc hoặc cơ
chế cụ thể. Các cấu trúc liên quan đến độ cứng của văn bản hiến pháp
và các giới hạn sửa đổi tương đối; những quy định cụ thể thay vì đề cập
đến việc kiểm tra tính hợp hiến của các hành vi được ban hành bởi những
người nắm giữ quyền lực chính trị. Sự kiểm soát này có một giá trị hàm
chứa một số vấn đề vì đôi khi độc lập với việc thực thi quyền lực dân chủ:
Chẳng hạn ở châu Âu, các tòa án hiến pháp của mỗi quốc gia có quyền
tuyên bố tính bất hợp pháp của các đạo luật nghị viện nằm ngoài ý muốn
của người dân. Vai trò của tòa án hiến pháp trong bối cảnh của quá trình
dân chủ rất chính đáng bởi các nguyên tắc nghịch lý này thực ra không tạo
thành mâu thuẫn nội tại. Trên thực tế, công việc của tòa án là nhằm mục
đích bảo đảm các nền tảng của dân chủ và bình đẳng của hiến pháp.

Tại Hoa Kỳ, các phương pháp kiểm tra tính hợp hiến tuân theo các quy tắc
khác với các quy định ở châu Âu. Trong khi hình thức kiểm soát được các
quốc gia châu Âu áp dụng là lý thuyết của Kelsen, thì hình thức kiểm soát
được sử dụng ở Mỹ không bắt nguồn từ một lý thuyết triết học, mà từ một
bản án do Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ban hành có từ năm 1803 (Marbury
Madison).

Tại Israel, tòa án đã phải đối mặt với một vụ án mà nhiều luật gia đã so
sánh với vụ án do Tòa án tối cao Hoa Kỳ đưa ra vào năm 1803. Phán
quyết đã cách mạng hóa quyền lực của tòa án Israel, phán quyết đã đưa ra
một số quyết định, trong đó phần nhiều liên hệ đến tính hợp pháp của đội

218
ngũ giảng viên để đánh giá các luật cơ bản của quốc gia. Quyết định này
là chủ đề của một số chỉ trích vì nó được coi là nguyên nhân của sự mất
cân bằng giữa ba quyền lực cơ bản.

Hiến pháp bảo đảm sự ổn định của trật tự chính trị và thể chế, đó là lý do
tại sao việc bảo vệ các nguyên tắc và quy tắc của hiến pháp là yếu tố cơ
bản, bắt nguồn.

Việc bảo đảm có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau: Có thể
chú ý nhiều hơn đến việc bảo vệ các hồ sơ như lãnh thổ và dân số; thời
cổ xưa thì bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của các quốc gia khác; thời
hiện đại thì có thể là liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập của quốc gia
trong bối cảnh quốc tế.

Trong mọi trường hợp, đối tượng bảo vệ thực sự là những nguyên tắc
cơ bản đặc trưng cho hình thức quốc gia và những giá trị góp phần hình
thành nên hiến pháp. Do đó, bảo vệ hiến pháp có nghĩa là bảo vệ các thể
chế đặc trưng cho hệ thống pháp luật và do đó, hệ tư tưởng, vì đây là một
thành phần thiết yếu của bất kỳ bản hiến pháp hiện hữu.

Việc bảo vệ hiến pháp được giao cho nhiều cơ chế khác nhau.
Tiêu chí cơ cấu của hệ thống pháp luật trong hệ thống phân lập quyền lực,
ví dụ, sự phân chia chức năng giữa một số cơ quan dẫn đến sự kiểm soát
lẫn nhau, bảo đảm bảo vệ hiến pháp, ngăn chặn các cuộc đảo chính bởi
một cơ quan bảo hiến duy nhất. Mặt khác, trong các chế độ độc tài, độc
đảng, cơ chế lựa chọn cứng nhắc các đối tượng được cho là nhằm nắm giữ
các chức vụ công quyền trên cơ sở trung thành với hệ tư tưởng của họ, tấn
công hiến pháp từ bên dưới.

Các thủ tục chính thức cứng nhắc, cấm, giới hạn và các thủ tục sửa đổi
nghiêm trọng thường được dự kiến nhằm
​​ mục đích «bảo vệ toàn cầu» của
các cơ quan hiến pháp khác. Một ví dụ về sự kiểm soát toàn cầu là việc
thực hiện quyền phản kháng được quy định bởi một số hiến pháp, chẳng
hạn như Hiến pháp của Bồ Đào Nha và Séc, như một sự bảo đảm đối với
các hành vi lạm dụng của chính quyền, quyền này liên quan đến sự can
thiệp phổ biến để bảo vệ hiến pháp, nếu các cơ chế chính thức khác không
có khả năng bảo vệ nó.

219
Mục I. Tòa án Hiến pháp

§ 160. [Tòa án Hiến pháp]


(1) Tòa án Hiến pháp gồm Chánh án và 16 thẩm phán với nhiệm kỳ
9 năm trong số những người có kiến thức sâu sắc về pháp luật.
Thẩm phán Hiến pháp không phải là thành viên Quốc hội hay
Chính phủ hoặc thành viên của cơ quan công quyền khác hoặc
cùng lúc hành nghề luật. Nhiệm kỳ của các thẩm phán không
được tái bổ nhiệm.
(2) Các thẩm phán Tòa án Hiến Pháp được Tổng thống và Thượng
viện bổ nhiệm.
(3) Thẩm phán Tòa án Hiến pháp được tuyển chọn từ các liên đoàn
thẩm phán, các giáo sư đại học luật và các luật gia có ít nhất 20
năm kinh nghiệm, kể cả thẩm phán đã về hưu hoạt động cho đến
tuổi 67. Ngoại lệ được quy định trong luật.
(4) Chánh án Tòa án Hiến pháp, theo luật định được bầu trong số các
thẩm phán được bổ nhiệm. Chánh án Tòa án Hiến pháp bổ nhiệm
2 Phó chánh án.
(5) Tổ chức, cách thức hoạt động và chức năng tại Tòa án Hiến pháp
được quy định trong luật.

Công lý hiến pháp


Mô hình công lý hiến pháp tập trung xuất hiện lần đầu trong thời kỳ giữa
các cuộc chiến tranh ở châu Âu khi các tòa án hiến pháp đầu tiên được
thành lập, và đặc biệt hơn là với sự ảnh hưởng của Hiến pháp Áo và Tiệp
Khắc năm 1920. Từ đây, tòa án bảo hiến - được thành lập vào thời kỳ đầu
của công lý hiến pháp châu Âu - đại diện cho tiền thân của tòa án hiến
pháp hiện tại.

Ngoài ra, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các
đạo luật, để bảo đảm bảo vệ cá nhân, đưa ra phán quyết về các xung đột
thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và các cộng đồng tự trị và xem
xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng và Bộ
trưởng, Tổng thống, Thẩm phán và Công tố viên. Nhu cầu kiểm soát sự
phân bố quyền lực của quốc gia theo vùng miền và nhu cầu bảo đảm các
quyền cơ bản được ghi nhận rõ ràng trong Hiến pháp, mặc dù khái niệm
này vẫn còn thiếu sự hoàn thiện và các mô hình hợp nhất. Do đó, về mặt
logic, điều này gần như đã dẫn đến việc tạo ra một Tòa án với một chiều
kích chính trị mạnh mẽ và các chức năng rất khác nhau. Theo thời gian,

220
những diễn biến chính trị nhanh chóng đã góp phần đáng kể vào sự trưởng
thành của Tòa án này.

Hoạt động quốc tế


Tòa án Hiến pháp Tây Ban Nha là một ví dụ về việc đã được hưởng lợi từ
nhiều kinh nghiệm và trở nên phong phú bởi mô hình tổ chức của các tòa
án hiến pháp khác - bao gồm các tòa án của Đức, Áo, Ý và Mexico. Đây
có thể coi là một minh chứng cho sự quan tâm và hợp tác quốc tế vững
chắc trong vô số hình thức thông qua việc tham gia vào các trao đổi song
phương và các cuộc họp đa phương.

Tháng 10/1981, Tòa án Hiến pháp Tây Ban Nha được mời tham gia Hội
nghị lần thứ năm các Tòa án Hiến pháp châu Âu, nhân dịp này Tòa án
đã nhận nhiệm vụ tổ chức Hội nghị lần thứ sáu tại Madrid năm 1984. Kể
từ đó, Tòa án không chỉ tham gia Hội nghị này, mà còn nhiều hoạt động
khác trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Cụ thể là Hội nghị Ibero-Mỹ về các
Tòa án Hiến pháp của Mỹ Latinh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Những
hoạt động này được Tòa án Hiến pháp thúc đẩy như một phần của Đại học
Colloquium vào dịp kỷ niệm 15 năm, của LOTC vào năm 1994, tạo thành
một khuôn khổ ổn định cho hợp tác đa phương thông qua các cuộc họp
thường xuyên của các tòa án có thẩm quyền bảo hiến ở các quốc gia được
đề cập.

Tòa án Hiến pháp và quy trình đổi mới


Hiến pháp ở châu Âu nói chung thường quy định rằng các thành viên của
Tòa án Hiến pháp được bổ nhiệm trong thời hạn chín năm và được gia hạn
sau mỗi ba năm. Do đó, quy trình đổi mới của Tòa án Hiến pháp là tạo
điều kiện để bổ nhiệm các thẩm phán mới.

Trong lịch sử của Tòa án, quá trình đổi mới của các Tòa án đã diễn ra dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vì không thể tuân thủ quy tắc đổi mới một
phần ba và thời hạn chín năm cho các thành viên sáng lập, nên Hiến pháp
đã đưa ra một phương thức khác với các nguyên tắc. Trong nhiều trường
hợp ở châu Âu, Hiến pháp quy định rằng ba năm sau lần bổ nhiệm đầu
tiên, một nhóm bốn Thẩm phán được chọn ngẫu nhiên và được yêu cầu rời
nhiệm sở do bị thay thế. Nhóm đầu tiên này bao gồm các Thẩm phán được
bầu theo đề nghị của Chính phủ và Hội đồng Tư pháp. Ba năm sau, một
nhóm bốn Thẩm pháp tiếp theo cũng chấm dứt nhiệm kỳ của họ, mặc dù
Đại hội đại biểu đã bỏ phiếu ủng hộ cho tính liên tục trong nhiệm kỳ của
họ. Kể từ đó, Tòa án đã được gia hạn mười lần, bốn Thẩm phán cuối cùng

221
được bổ nhiệm theo Nghị định của Nguyên thủ quốc gia (Hoàng gia/Tổng
thống). Trong quá trình tồn tại của Tòa án, nhiều ghế Thẩm phán đã bị bỏ
trống do từ chức hoặc qua đời và do đó được phân bổ lại theo cùng một
thủ tục. Đôi khi, họ nhận thấy sự chậm trễ ít nhiều đáng kể đối với các
Thẩm phán mới do quy trình nội bộ của các cơ quan bảo hiến phụ trách
việc đề xuất các thành viên mới này.

Tòa án Hiến pháp đối với Quốc gia Pháp quyền, Xã hội và Dân chủ
Vai trò của Tòa án Hiến pháp trong việc cấu trúc Quốc gia Pháp quyền, Xã
hội và Dân chủ của châu Âu trong suốt thời kỳ hậu chiến đã đóng góp cho
thế giới một hướng đi mới; cũng là cơ sở thể hiện tinh thần hiến pháp, làm
rõ hệ thống phân bổ quyền lực quốc gia; xây dựng một hệ thống phức tạp
về các quyền cơ bản, phù hợp với hệ thống do Tòa án Nhân quyền Châu
Âu thiết lập; kiểm soát hiệu quả tính hợp hiến của các đạo luật và làm rõ
hơn về sự phân biệt giữa các vấn đề tính hợp pháp và tính hợp hiến. Một
công việc được thực hiện bởi nhiều thế hệ luật sư giỏi nhất (Thẩm phán,
Luật sư cao cấp, Công tố viên) thực hiện công việc với mức độ nghiêm
ngặt và độc lập nhất. Theo Francisco Tomás y Valiente, ông cho rằng:
«Tòa án không bao giờ được ám ảnh bởi dư âm của các quyết định của
mình. Tòa án không bao giờ được tìm kiếm sự tán thưởng hoặc trốn tránh
sự kiểm duyệt. Bởi vì trong một xã hội dân chủ được ban cho các quyền
tự do mà quyền bào chữa là đặc quyền của chính Tòa án ...»

Bổ nhiệm Thẩm phán theo Hiến pháp


Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam 2021, Tòa án Hiến pháp gồm
Chánh án và 16 thẩm phán do Tổng thống và Thượng viện bổ nhiệm với
nhiệm kỳ 9 năm. Điều này, số lượng thẩm phán tổng cộng là 17 vị chiếu
theo tình hình Việt Nam hiện nay thì tương đối đầy đủ, số lượng đầy đủ
này có thể cáng đáng nhiệm vụ đặc trách của Tòa án. Cũng như Tòa án
Tối cao, nhiệm kỳ thẩm phán Hiến pháp là 9 năm, mà nhiều quốc gia trên
thế giới thường hay áp dụng, cũng là điều kiện tốt để các thẩm phán thực
hiện công việc trong một thời gian khá dài mà không bị ảnh hưởng tiêu
cực do các yếu tố không cần thiết đối với các luật gia.

§ 161. [Thẩm quyền]


(1) Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xem xét các dự án luật đã được
Quốc hội thông qua, và xác định dự án luật phù hợp với Hiến
pháp.
(2) Phán quyết về các trường hợp tranh chấp liên quan đến các quyền
và trách nhiệm của các cơ quan quyền lực theo quy định của Hiến

222
pháp. Xác định về tính phù hợp trong quá trình thực thi Hiến
pháp, và giải quyết các trường hợp bất đồng giữa các chức vụ,
chức năng và các đơn vị như sau:
a) Thành viên Quốc hội, thành viên Hội đồng Chính phủ,
Tổng thống Việt Nam, thẩm phán các Tòa án, Chủ tịch và
Giám đốc Viện Kiểm toán và Ngân hàng Quốc gia, Chủ
tịch và Giám đốc Hội đồng bổ trợ và Cơ quan chuyên
ngành, và các công chức cao cấp;
b) Các cơ quan chính quyền địa phương;
c) Các tổ chức công đoàn quốc gia và các cơ quan có thẩm
quyền;
d) Các tổ chức tôn giáo;
e) Các tổ chức và đảng phái chính trị.
(3) Giải quyết khiếu nại từ người dân và các đơn vị liên quan đến các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của Hiến
pháp. Đặc biệt xem xét các quyền cơ bản bị cơ quan công quyền
xâm phạm.
(4) Giải đáp yêu cầu xem xét về tính hợp hiến của các văn bản quy
định pháp luật từ các tòa án, hoặc trả lời câu hỏi liên quan đến vấn
đề đang được cứu xét tại tòa án.
(5) Tòa án Hiến pháp xét xử các vấn đề luật liên quan đến điều ước
quốc tế.
(6) Tòa án Hiến pháp cũng xem xét và giải quyết các vấn đề khác liên
quan đến Hiến pháp.
(7) Mọi quyết định của Tòa án Hiến pháp được thông qua với đa số
phiếu, là quyết định cuối cùng và không thể khiếu nại.
(8) Mọi phán quyết tại Tòa án Hiến pháp được công bố trên các kênh
truyền thông và công báo quốc gia.

Như đề cập, Tòa án Hiến pháp ở các nước châu Âu có thẩm quyền xem
xét tính hợp hiến của các đạo luật, để bảo đảm bảo vệ cá nhân, đưa ra
phán quyết về các xung đột thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và
các cộng đồng tự trị và xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyên thủ
quốc gia, Thủ tướng và Bộ trưởng, Tổng thống, Thẩm phán và Công tố
viên. Nhu cầu kiểm soát sự phân bố quyền lực của quốc gia theo vùng
miền và nhu cầu bảo đảm các quyền cơ bản được ghi nhận rõ ràng trong
Hiến pháp.

Theo Hiến pháp 2021, Việt Nam trong tương lai cũng có một Tòa án Hiến
pháp được thiết lập tương tự, có thẩm quyền xem xét các dự án luật đã

223
được Quốc hội thông qua, và xác định dự án luật phù hợp với Hiến pháp.
Phán quyết về các trường hợp tranh chấp liên quan đến các quyền và
trách nhiệm của các cơ quan quyền lực theo quy định của Hiến pháp. Xác
định về tính phù hợp trong quá trình thực thi Hiến pháp, và giải quyết các
trường hợp bất đồng giữa các chức vụ, chức năng và các đơn vị như sau:
Thành viên Quốc hội, thành viên Hội đồng Chính phủ, Tổng thống Việt
Nam, thẩm phán các Tòa án, Chủ tịch và Giám đốc Viện Kiểm toán và
Ngân hàng Quốc gia, Chủ tịch và Giám đốc Hội đồng bổ trợ và Cơ quan
chuyên ngành, và các công chức cao cấp; các cơ quan chính quyền địa
phương; các tổ chức công đoàn quốc gia và các cơ quan có thẩm quyền;
các tổ chức tôn giáo; các tổ chức và đảng phái chính trị. Giải quyết khiếu
nại từ người dân và các đơn vị liên quan đến các quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân theo quy định của Hiến pháp. Đặc biệt xem xét các quyền cơ
bản bị cơ quan công quyền xâm phạm v.v.

Mục II. Sửa đổi Hiến pháp

§ 162. [Sửa đổi Hiến pháp]


(1) Hiến pháp Việt Nam chỉ có thể được sửa đổi bởi một dự luật có
nội dung và những dẫn giải rõ trong văn bản Hiến pháp. Đề xuất
một dự luật sửa đổi Hiến pháp phải có sự chấp thuận của ít nhất
2/3 số thành viên của hai viện Quốc hội.
(2) Dự thảo Hiến pháp được tiến hành tương tự như quy định § 77
Trình tự lập pháp, được thông qua bởi mỗi viện sau hai lần thảo
luận liên tiếp, cách nhau tối thiểu là 2 tháng và phải được chấp
thuận của 2/3 số thành viên Hạ viện và 2/3 số thành viên Thượng
viện.
(3) Sau khi kết thúc thủ tục quy định tại khoản (1) và (2) Chủ tịch Hạ
viện theo luật định gửi một văn bản và dự luật sửa đổi đã thông
qua đến Tổng thống để ký ban hành.

Sửa đổi Hiến pháp


Kể từ khi thành lập chức năng «sửa đổi Luật hiến pháp», Tòa án Hiến
pháp ở châu Âu nói chung đã trải qua nhiều thay đổi liên quan đến năng
lực tài phán. Mặc dù Hiến pháp được trao cho hầu hết các quyền đã dẫn
đến tầm quan trọng to lớn đối với công việc của các nhà lập pháp. Liên
quan đến các hoạt động pháp lý của hiến pháp, sự gia tăng mạnh về lượng
hồ sơ trong những năm đầu có tác động rất nhanh và đáng chú ý trong
thời gian xử lý. Điều này dẫn đến các cuộc sửa đổi bổ sung đối với việc

224
sửa đổi Luật hiến pháp, chủ yếu liên hệ đến các kháng cáo và thủ tục chấp
nhận trước Tòa án.

Trải qua nhiều tiến trình bổ sung và sửa đổi liên tục qua các thời kỳ, Tòa
án Hiến pháp ngày nay đã được cung cấp các công cụ thực thi mới cho
phép Tòa án thực hiện quyền lực của mình để bảo đảm thực thi đúng các
quyết định của công lý hiến pháp.

Sửa đổi Hiến pháp 2021


Sửa đổi hiến pháp thường được tiến hành thông qua các nhà đại diện,
được bổ nhiệm, ví dụ Quốc hội lập hiến, Ủy ban Hiến pháp, Hội nghị
quốc gia, các cuộc tranh luận bàn tròn, tham vấn nhân dân, trưng cầu ý
dân..., trong đó có sự tham gia của nhiều chủ thể, bao gồm các cơ quan
Nhà nước, các đảng phái, tổ chức xã hội và người dân. Tuy nhiên, mọi
hình thức đã nêu đều phải có sự ủy quyền của nhân dân. Quốc hội lập hiến
là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra (hoặc được
đề cử) chỉ có chức năng lập hiến. Theo ABC về Hiến Pháp.

Để bảo vệ Hiến pháp đối với Quốc gia pháp quyền, xã hội và dân chủ, một
số hiến pháp tại châu Âu không thể sửa đổi bởi luật tục và truyền thống
bảo thủ của hiến pháp.

Tuy nhiên, Hiến pháp 2021 vốn là một bản hiến pháp lâm thời, ra đời do
chính người dân trực tiếp xây dựng. Việc sửa đổi và bổ sung (sau khi các
mục tiêu tại phần PHỤ LỤC trong Hiến pháp đã hoàn thành) là một nhu
cầu cần thiết để hoàn thiện theo các tiêu chí và nguyện vọng chung của xã
hội Việt Nam.

225
PHỤ LỤC: CÁC QUY ĐỊNH CHUYỂN TIẾP

Nước CHLB Đức và Việt Nam, cả hai nước đều bị ảnh hưởng do Thế
chiến thứ 2 và Chiến tranh lạnh giữa Đông và Tây, còn gọi là giữa Cộng
sản và Tự do. CHLB Đức và Việt Nam đều bị chia đôi đất nước. Nhưng từ
một đất nước bị chia cắt, kinh tế hoàn toàn sụp đổ sau thất bại trong chiến
tranh, CHLB Đức đã vươn lên một cách mạnh mẽ, thống nhất hòa bình,
trở thành nền kinh tế hùng mạnh nhất châu Âu. Ngược lại với Việt Nam,
đất nước đi theo chủ nghĩa cộng sản, CNXH, dẫn đến các cuộc chiến tranh
suốt 30 năm tàn khốc và thù hận. Đất nước tuy đã thống nhất từ 45 năm,
nhưng vẫn là một trong những nước rất nghèo, lợi tức bình quân năm
2020 vào độ 2.500 USD/người và người dân vẫn bị tước các quyền cơ
bản, quyền tự do, dân chủ.

Nước Đức đã thống nhất, đặt nền móng cho những bước phát triển, mang
lại niềm tin và uy tín cho đất nước. Đây là một trong những nguồn cảm
hứng cho Việt Nam, một gợi mở nên được xem xét và cân nhắc trong các
vấn đề cải cách và đổi mới. Một nước Việt Nam mới, được xây dựng trên
nền tảng quốc gia và dân tộc, nơi mà mọi người, mọi tổ chức đều cùng
tham gia để quản lý đất nước, xây dựng đất nước, nơi mà các đảng phái
chính trị có hệ tư tưởng khác nhau đều được quyền tham gia góp phần đưa
đất nước lên một tầm cao hơn. Đó là nền tảng để xây dựng quốc gia có ý
nghĩa sống còn đối với dân tộc.

Nhân dịp bầu cử Đại biểu Quốc hội khoá XV và Đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp ngày 23/5/2021, Luật Cơ bản 2021 lâm thời này có thể được
xem là một văn kiện quan trọng để người dân, các đảng viên và đại biểu
có dịp xem xét và thảo luận. Một đề án và sự kiện quan trọng không thể
vắng đối với các đại biểu cũng như ứng viên tương lai của Việt Nam, một
dịp quan trọng đầy hứa hẹn cho đất nước trong những thập niên tới.

Chương PHỤ LỤC là một chủ đề quan trọng quy định các bước chuyển
đổi thể chế cho Việt Nam, thông qua một cuộc bầu cử toàn quốc, còn gọi
là cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia trên nền tảng tự do, dân chủ, đa nguyên
và đa đảng, một quốc gia pháp quyền và xây dựng Quốc hội lưỡng viện
cho Việt Nam.

Để thực hiện một cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia thành công và tốt đẹp,
nhân dân và chính quyền phải một lòng đoàn kết và hợp tác với nhau, thi
hành theo các quy định của Hiến pháp 2021, một văn kiện do chính người

226
dân Việt Nam thành lập trên tinh thần góp phần xây dựng và lòng trung
thành với tổ quốc.

Các vị Lãnh đạo, các Bộ trưởng, các Thẩm phán, các viên chức, các công
nhân viên, các cấp, đang tại vị được xem như đã được bổ nhiệm theo Hiến
pháp 2021, thực hiện các điều khoản và thời hạn quy định trong Hiến
pháp.

§ 163. [Tổng tuyển cử Quốc gia]


(1) Cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia đầu tiên theo quy định của Hiến
pháp này được tổ chức trong vòng 6 tháng trước ngày bầu cử,
và được dự kiến hoàn thành chậm nhất là vào cuối tháng 5 năm
2021. Cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia được thực hiện trên nền tảng
tự do, dân chủ, đa nguyên và đa đảng cho cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội và Hội đồng địa phương các cấp, nhiệm kỳ đầu tiên
của nền Việt Nam Dân Chủ, nhiệm kỳ 2021-2025, được quy định
trong Luật Cơ bản này, đặc biệt Chương VIII Bầu cử và Pháp lệnh
bầu cử.
(2) Đương kim Nguyên thủ quốc gia được xem là đã được bổ nhiệm
theo Hiến pháp này, có trách nhiệm ra lệnh tổ chức cuộc Tổng
tuyển cử Quốc gia theo khoản (1) và Luật Cơ bản này.
(3) Đương kim Chủ tịch Quốc hội được xem là đã được bổ nhiệm
theo Hiến pháp này, có trách nhiệm thi hành việc tổ chức bầu cử,
thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ cấu phụ trách theo
quy định của Luật Cơ bản này và Pháp lệnh bầu cử.
(4) Đương kim Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng được xem là
đã được bổ nhiệm theo Hiến pháp này, có trách nhiệm thi hành
các điều khoản quy định trong Luật Cơ bản này và Pháp lệnh bầu
cử, ban hành các nghị quyết, quy định dưới luật và theo chỉ thị
Quốc hội để thực hiện cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia.
(5) Các chức vụ Bí thư và Chủ tịch Hội đồng Nhân dân các cấp đang
tại vị được xem là đã được bổ nhiệm theo Hiến pháp này, có trách
nhiệm thi hành các điều khoản quy định trong Luật Cơ bản này,
theo chỉ thị Quốc hội và Chính phủ về việc thực hiện cuộc Tổng
tuyển cử Quốc gia và các cuộc bầu cử Hội đồng địa phương các
cấp.
(6) Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và các thẩm phán đương
nhiệm được xem là đã được bổ nhiệm theo Hiến pháp này, có
trách nhiệm thực thi các đạo luật và giám sát cuộc Tổng tuyển cử
Quốc gia, giải quyết các tranh chấp, xem xét và phán quyết các

227
trường hợp mâu thuẫn liên quan đến điều khoản này cũng như
Luật Cơ bản và Pháp lệnh bầu cử.

§ 164. [Vận động bầu cử, tranh cử và ứng cử]


(1) Khi Hiến pháp này được công bố phát hành, chậm nhất là 6 tháng
trước ngày bầu cử, cơ quan truyền thông, cơ quan chức năng, tổ
chức hoạt động xã hội và dân sự, những người tình nguyện, có
quyền tự do phổ biến thông tin liên quan đến cuộc Tổng tuyển cử
Quốc gia § 163 và vận động bầu cử.
(2) Các tổ chức và đảng phái chính trị theo Luật Cơ bản này có quyền
tự do thực hiện thủ tục tham gia bầu cử và tự do vận động bầu cử,
phát biểu, trình bày cương lĩnh tranh cử và chiến lược phát triển
kinh tế cho nhiệm kỳ muốn tham chính.
(3) Các ứng viên đại biểu hai viện Quốc hội cũng như Hội đồng địa
phương các cấp được tự do phổ biến, phát biểu và vận động bầu
cử theo quy định của Hiến pháp này và Pháp lệnh bầu cử.

§ 165. [Triệu tập Quốc hội lần đầu tiên]


(1) Quốc hội lưỡng viện được triệu tập lần đầu tiên vào ngày Quốc
hội Việt Nam Dân Chủ có cuộc Hội nghị đầu tiên. Hội nghị lần
thứ nhất của hai viện Quốc hội được tổ chức trong vòng 30 ngày
sau ngày Tổng tuyển cử Quốc gia và chậm nhất là ngày 30 tháng
6 năm 2021. Nhiệm kỳ của các đại biểu Quốc hội đầu tiên theo
Hiến pháp này bắt đầu vào ngày đầu tiên triệu tập Quốc hội.
(2) Nhiệm kỳ của các Đại biểu Quốc hội hiện hành và các Ủy viên
Trung ương theo quy định của Hiến pháp này được kết thúc và
giải tán vào ngày trước ngày quy định tại khoản (1).

§ 166. [Thành lập Quốc hội, Ủy ban chuyên môn và Hội đồng bổ trợ]
(1) Quốc hội lưỡng viện, Hạ viện và Thượng viện, được thành lập
theo quy định § 165 (1) và Chương III Mục I của Hiến pháp này
chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2021.
(2) Đoàn chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện
và các Phó chủ tịch của hai viện, và các Ủy ban chuyên môn quy
định tại Chương III Mục III được bầu và bổ nhiệm theo cùng thời
điểm tại khoản (1).
(3) Hội đồng bổ trợ Quốc gia quy định tại Chương III Mục III và
Ngân hàng Quốc gia § 154 được bổ nhiệm bởi Quốc hội, và được
thành lập gồm việc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng và Giám đốc điều
hành chậm nhất là ngày 31 tháng 8 năm 2021.

228
§ 167. [Bầu Tổng thống]
Chức vụ Tổng thống Việt Nam trong Thể chế Đại nghị được thành
lập và bầu trong Hội nghị đầu tiên của Quốc hội lưỡng viện § 165
(1) và Chương IV của Hiến pháp này, được bầu theo hình thức
bỏ phiếu kín với đa số phiếu ủng hộ tán thành chậm nhất là ngày
31 tháng 7 năm 2021. Trong trường hợp vì lý do chậm trễ việc bổ
nhiệm, chức vụ Tổng thống được thực hiện bởi Chủ tịch Thượng
viện cho đến khi nước Việt Nam có được vị Nguyên thủ quốc gia.

§ 168. [Thành lập Chính phủ và bầu Thủ tướng]


(1) Chính phủ được chính thức thành lập theo quy định của Hiến
pháp này, Chương V Chính phủ, bao gồm việc bổ nhiệm Thủ
tướng § 105 và đề xuất bỏ phiếu tín nhiệm § 106, hình thành
chậm nhất là ngày 31 tháng 7 năm 2021.
(2) Một Đảng chính trị hoặc một Liên minh đa đảng thiên tả hoặc
thiên hữu trong hệ thống chính trị, đã chiến thắng trong cuộc tranh
cử vào Hạ viện của cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia, được chính
thức thành lập Hội đồng Chính phủ trên cơ sở đại nghị tại Quốc
hội § 165 (1) và theo quy định của Hiến pháp này.

§ 169. [Thành lập Tư pháp và bầu Chánh án]


(1) Hệ thống Tòa án Việt Nam hoạt động tự trị và độc lập đối với các
nhánh quyền lực: Lập pháp và Hành pháp. Các cơ quan Tư pháp
và Tòa án được chính thức thành lập theo quy định của Hiến pháp
này, Chương VI Mục I Tổ chức Tư pháp và Chương X Mục I Tòa
án Hiến pháp, hình thành chậm nhất là ngày 31 tháng 8 năm 2021.
(2) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, Cơ quan Tư pháp Việt Nam chuẩn
bị các cơ cấu và các chức năng cần thiết để thực hiện theo đúng
thời hạn ấn định tại khoản (1), và chuẩn bị thiết lập các cơ quan
quan trọng nhất: Toà án Tối cao, Tòa án Quốc gia, Tóa án Hiến
pháp, Hội đồng Tư pháp Quốc gia và các chức năng cần thiết cho
Hệ thống Tư pháp Việt nam hoạt động theo quy định của Luật Cơ
bản này.
(3) Tòa án Tối cao được thành lập và việc bầu Chánh án Tòa án Tối
cao và 16 thẩm phán được thực hiện theo quy định § 114 của Hiến
Pháp này và theo thời hạn ấn định tại khoản (1) và được bổ nhiệm
bởi Tổng thống và đa số phiếu Thượng viện.
(4) Tòa án Hiến pháp được thành lập và việc bầu Chánh án Tòa án
Hiến pháp và 16 thẩm phán Hiến pháp được thực hiện theo quy
định § 160 của Hiến Pháp này và theo thời hạn ấn định tại khoản

229
(1) và được bổ nhiệm bởi Tổng thống và đa số phiếu Thượng
viện. Chánh án Tòa án Hiến pháp đảm nhiệm chức vụ Chánh án
Tòa án Quốc gia.
(5) Tòa án Quốc gia được thành lập và 12 thẩm phán Quốc gia được
thực hiện theo quy định § 115 của Hiến Pháp này và theo thời hạn
ấn định tại khoản (1) và được bổ nhiệm bởi Tổng thống và đa số
phiếu Thượng viện. Chánh án Tòa án Quốc gia là Chánh án Tòa
án Hiến pháp.
(6) Hội đồng Tư pháp quốc gia được thành lập và 21 thành viên của
Hội đồng được bầu theo quy định § 116 của Hiến Pháp này và
theo thời hạn ấn định tại khoản (1) và được bổ nhiệm bởi Tổng
thống và đa số phiếu Thượng viện. Chánh án Tòa án Tối cao là
Chủ tịch và Bộ trưởng Bộ Tư pháp là Phó chủ tịch, và các thành
viên của Hội đồng Tư pháp Quốc được bầu từ Tòa án Tối cao,
Tòa án Quốc gia và Tòa án Hiến pháp.
(7) Trường hợp chức vụ Tổng thống vẫn chưa hình thành theo thời
hạn quy định tại § 167, Chủ tịch Thượng viện và đoàn đại biểu
Thượng viện thi hành nhiệm vụ với đa số phiếu tán thành.
(8) Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và các thẩm phán đang tại vị
vào thời điểm Hiến pháp này có hiệu lực, thực hiện các chức năng
và nhiệm vụ cho đến ngày các Tòa án mới hình thành, hoặc cho
đến khi người kế nhiệm thay thế chậm nhất là ngày 31 tháng 8
năm 2021.
(9) Theo quy định tại khoản (1), Cơ quan chuyên ngành tại Chương
VI Mục II được bổ nhiệm bởi Hội đồng Tư pháp Quốc gia, được
thành lập bao gồm việc bổ nhiệm Chủ tịch và Giám đốc điều hành
chậm nhất là ngày 30 tháng 9 năm 2021.

§ 170. [Thành lập Hội đồng tỉnh, bầu Chủ tịch, Tỉnh trưởng]
(1) Chính quyền địa phương cấp tỉnh được thành lập theo quy định
của Hiến pháp này, Chương VII Tự trị địa phương § 126. Hội đồng
tỉnh được thành lập theo quy định § 125 và việc bầu Chủ tịch Hội
đồng tỉnh được quy định tại § 125 (2) và Tỉnh trưởng quy định §
145 (3) hình thành chậm nhất là ngày 31 tháng 7 năm 2021.
(2) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, các Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
đương nhiệm chuẩn bị các cơ cấu và chức năng cần thiết để thực
hiện việc hình thành Hội đồng tỉnh, bầu Chủ tịch Hội đồng và
Tỉnh trưởng theo quy định tại khoản (1), theo Luật Cơ bản này và
Pháp lệnh bầu cử. Điều khoản này cũng được áp dụng tương tự
cho các Hội đồng địa phương các cấp.

230
§ 171. [Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc khánh]
Quốc kỳ, Quốc huy và Quốc khánh theo quy định § 7 (1) và § 8 trong
Hiến pháp này được Quốc hội lưỡng viện thông qua và phê chuẩn
chậm nhất là ngày 31 tháng 7 năm 2021.

§ 172. [Cán bộ, công chức, công nhân viên trong bộ máy nhà nước]
(1) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, cán bộ, công chức và công nhân
viên được xem như đã được bổ nhiệm, tuyển dụng theo Luật Cơ
bản này, được giữ chức vụ và công việc cho đến khi các cơ quan
mới hình thành hoặc cho đến khi người kế nhiệm thay thế.
(2) Các vị trí và chức vụ đương thời không phù hợp với các công vụ
mới được đáp ứng bằng việc tuyển dụng nhân sự mới qua tiến
trình thi cử cạnh tranh, bình đẳng và công bằng căn cứ theo tài
năng và kiến thức tương ứng. Trường hợp thiếu tài năng hoặc
chuyên môn để đáp ứng các chức vụ mới, họ được tái giáo dục
và bổ túc nghề nghiệp để thích ứng với công việc mới, hoặc nhận
một khoản lương tối thiểu trong một thời hạn nhất định.
(3) Các công chức và công nhân viên phải tuân thủ các điều khoản tại
Chương V, Mục II Cơ quan hành chính và theo Luật Cơ bản này.
(4) Quy định tại điều khoản này được áp dụng với những biện pháp
tốt nhất có thể, bảo đảm an ninh trật tự trong thời kỳ chuyển tiếp,
bảo đảm an toàn cuộc sống cho người thi hành nhiệm vụ trong
thời gian chuyển đổi.
(5) Điều khoản này được đưa ra thảo luận tại Quốc hội để đạt đến
một thỏa thuận tập thể phù hợp với hiện tình. Điều khoản này
được quy định qua một nghị quyết được đa số thành viên Quốc
hội thông qua và tán thành.

§ 173. [Lực lượng công an]


(1) Vai trò và trách nhiệm của mỗi người công an phải đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ nhân dân, tôn trọng nhân
quyền, giữ trật tự và an ninh xã hội.
(2) Trong giai đoạn chuyển tiếp và ngày bầu cử, lực lượng công an
đóng vai trò quan trọng của quốc gia, độc lập bảo vệ nhân dân và
tuân thủ tuyệt đối Luật Cơ bản này. Trách nhiệm của lực lượng
công an được quy định tại § 32 và § 59.
(3) Đồng phục cảnh sát Việt Nam được cải tiến phù hợp với Chính
thể mới, thích ứng vai trò và nhiệm vụ, và phải được thi hành
trong thời hạn 3 tháng kể từ khi Chính phủ mới hình thành.

231
(4) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, lực lượng cảnh sát được thuyên
chuyển qua Bộ Tư pháp và được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và Tòa án theo quy định của Luật Cơ bản này.

§ 174. [Quân đội và Quốc phòng]


(1) Bảo vệ tổ quốc và biên giới quốc gia là nghĩa vụ thiêng liêng của
quân đội. Các lực lượng vũ trang của Việt Nam có trách nhiệm
bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh và bất khả
xâm phạm biên giới quốc gia.
(2) Các lực lượng vũ trang phải trung lập trong các vấn đề chính trị
và là công cụ của sự quản lý dân sự và dân chủ.
(3) Trong giai đoạn chuyển tiếp, lực lượng vũ trang quân đội đóng
một vai trò quan trọng của quốc gia, độc lập bảo vệ nhân dân và
tuân thủ tuyệt đối Luật Cơ bản này. Trách nhiệm của quân đội
được quy định tại § 15, § 32 và § 59.

§ 175. [Chuyển giao quyền lập pháp]


(1) Kể từ ngày Quốc hội Việt Nam Dân chủ triệu tập lần đầu tiên §
165 (1), các đạo luật chỉ được ban hành bởi các cơ quan lập pháp
được thừa nhận phù hợp với Luật Cơ bản này.
(2) Các cơ quan lập pháp và các tổ chức tham gia quá trình lập pháp,
thẩm quyền hết hạn phải giải tán trước ngày quy định tại § 165
(1).

§ 176. [Tiếp tục áp dụng pháp luật có từ trước]


Khi Hiến pháp này có hiệu lực, pháp luật, nghị quyết và pháp lệnh
ban hành từ trước vẫn phải duy trì chừng nào luật không xung đột với
Luật Cơ bản này. Các đạo luật được ban hành từ trước, vẫn phải tiếp
tục tuân thủ theo giá trị của các nguyên tắc chung của pháp luật phù
hợp với Luật Cơ bản này, luật duy trì cho đến khi các đạo luật mới
được ban hành và thay thế.

§ 177. [Tiếp tục áp dụng pháp luật để kết thúc các công vụ và chuyển
tiếp]
(1) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, các cơ quan và đơn vị địa phương
các cấp vẫn được nhận các khoản tài trợ cố định hàng năm từ
Ngân sách Quốc gia để kết thúc các công vụ tại địa phương, về
các tổ chức giáo dục, bệnh viện, giao thông cũng như để hỗ trợ tài
chính cho việc cải thiện các chức năng khác trong xã hội và việc
xử lý nhà ở cho đến hết năm ngân sách 2021.

232
(2) Cho đến cuối năm 2021, các cơ quan và các đơn vị địa phương
các cấp có trách nhiệm xem xét lại mức độ về nguồn tài trợ được
phân bổ cho mỗi đơn vị theo khoản (1) liệu còn thích hợp với
nhiệm vụ, hoặc phải bổ sung, duyệt lại hoặc chấm dứt. Các chi
tiết được quy định bởi một nghị quyết với sự chấp thuận của
Chính phủ mới, và theo Hiến pháp § 130 và § 131.
(3) Bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2022, các chính sách phân bổ tài
chính được áp dụng bằng Ngân sách Quốc gia năm 2022 phê
chuẩn bởi Quốc hội Việt Nam Dân chủ.

§ 178. [Điều ước quốc tế]


(1) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, các điều ước quốc tế đã được phê
chuẩn trước đây được xem như là đã được thông qua trên cơ sở
pháp luật. Các điều ước quốc tế tại khoản này được đưa ra xem
xét và chịu sự điểu chỉnh cho phù hợp với Luật Cơ bản này.
(2) Trong thời hạn 2 năm kể từ khi Hiến pháp này có hiệu lực, Chính
phủ có trách nhiệm trình Quốc hội danh sách các điều ước, hiệp
ước và công ước quốc tế để thông qua với những sửa đổi phù hợp
với Chính thể mới và Luật Cơ bản này.

§ 179. [Thuyên chuyển các cơ quan hành chính]


(1) Các cơ quan hành chính và các đơn vị địa phương các cấp vào
thời điểm Hiến pháp này có hiệu lực, tiếp tục tồn tại và thực thi
các chức năng cho đến khi các cơ quan mới được thành lập theo
Luật Cơ bản này.
(2) Khi Chính phủ mới được hình thành theo quy định § 168, các cơ
quan hành chính và các đơn vị địa phương các cấp thi hành công
vụ dưới sự chỉ đạo của Chính phủ mới, có trách nhiệm chuyển
giao để bổ nhiệm lại hoặc giải tán.
(3) Thẩm quyền kỷ luật tối cao đối với cán bộ, công chức, công nhân
viên thuộc cơ quan hành chính và các lực lượng có hành vi trái
với Luật Cơ bản này.

§ 180. [Thừa kế quản lý ngân khố, tài chính và kinh tế]


(1) Khi Quốc hội Việt Nam Dân Chủ triệu tập lần đầu tiên § 165
(1), được thừa kế quyền quản lý Ngân khố quốc gia, thừa kế các
quyền và nghĩa vụ tài chính và kinh tế trung ương cũng như địa
phương các cấp, thừa kế tất cả tài sản từ chế độ trước theo nguyên
tắc chuyển giao, trở thành tài sản Quốc gia do nhân dân quản lý,
ủy nhiệm Quốc hội.

233
(2) Luật Cơ bản này cho phép những tài sản ban đầu được dự tính sử
dụng chủ yếu cho các nhiệm vụ hành chính, có thể được chuyển
giao cho các cơ quan hiện có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ đó,
quyền sử dụng tài sản dài hay ngắn hạn, tạm thời hoặc đã đình
chỉ, được quy định bởi một nghị quyết của Quốc hội.

§ 181. [Chuyển giao tài sản]


(1) Khi Quốc hội Việt Nam Dân Chủ triệu tập lần đầu tiên § 165 (1),
tài sản và cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc cơ quan nhà nước,
trung ương, đang hoạt động hay đã đình chỉ, hoặc có dự tính sử
dụng cho nhiệm vụ hành chính, được chuyển giao cho Quốc hội
quyết định.
(2) Tài sản của các doanh nghiệp nhà nước thuộc đơn vị địa phương
các cấp, đang hoạt động hay đã kết thúc, hoặc có dự định sử dụng
cho công vụ hành chính, được chuyển giao cho Hội đồng tỉnh
quyết định.

§ 182. [Thuyên chuyển các tập đoàn nhà nước]


(1) Khi Quốc hội Việt Nam Dân Chủ triệu tập lần đầu tiên § 165 (1),
các tập đoàn, tổng công ty thuộc quyền quản lý của nhà nước, vốn
nhà nước, hoạt động trong các lãnh vực năng lượng, tài nguyên
khoáng sản, công nghệ viễn thông, hạ tầng giao thông, điện lực,
dầu khí, bất động sản, thực phẩm và đất đai công nghiệp được
chuyển giao cho Quốc hội quyết định. Thành phần tư hữu hóa các
tập đoàn này, giải thể hoặc chuyển đổi qua hình thức hoạt động
khác được quy định trong luật. Quốc hội có quyền lập pháp tuyệt
đối đối với tất cả vấn đề phát sinh từ việc chuyển đổi này.
(2) Các công chức và công nhân viên làm việc trong các tập đoàn liệt
kê tại khoản (1) được giữ vị trí cho đến khi các chi tiết và thủ tục
pháp lý chuyển đổi được thiết lập bởi một nghị quyết của Quốc
hội.

§ 183. [Thành phần nước ngoài]


Khi Quốc hội Việt Nam Dân Chủ triệu tập lần đầu tiên § 165 (1), các
tập đoàn, công ty đầu tư nước ngoài và các hợp đồng ký kết trước
thời điểm Hiến pháp này có hiệu lực, được đưa ra xem xét và chịu sự
kiểm duyệt hoặc bãi bỏ. Điều khoản này bao gồm các pháp nhân của
các công ty, tổ chức, cá nhân, người nước ngoài, dân di trú, được đưa
ra tòa án xét xử hoặc trục xuất ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thuộc thành
phần như sau:

234
a) Hủy hoại môi sinh, gây thiệt hại tài nguyên thiên nhiên, gây
ô nhiễm trên đất liền cũng như dọc theo các bờ biển và sông
ngạch, không nghiêm túc thực thi các quy định môi trường và
Luật Cơ bản này;
b) Gián điệp hoặc thông đồng với ngoại bang để trục lợi, hành
động hại dân, hại nước;
c) Liên quan đến các hợp đồng bất động sản không hợp lệ, hoặc
liên quan đến đất đai bị cưỡng chế và các vấn đề thiếu pháp
lý;
d) Hoạt động mua bán người, đưa dẫn người vào nước bất hợp
pháp, chuyển nội tạng qua biên giới;
e) Các thành phần liên quan đến nước ngoài có nguy cơ tàn phá
xã hội và đất nước.

§ 184. [Phục hồi quyền công dân]


(1) Một người Việt Nam định nghĩa của Luật Cơ bản này là một
người có tư cách công dân, vợ chồng và con cháu, có nguồn gốc
Việt, hoặc những người đã từng là công dân rời khỏi Việt Nam kể
từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 và hiện đang định cư hoặc tị nạn ở
các quốc gia trên thế giới.
(2) Những người vốn là công dân Việt Nam giữa khoảng thời gian từ
ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến nay đã bị tước đoạt tư cách
công dân do căn cứ các lý do chính trị, bất đồng chính kiến, chủng
tộc hoặc tôn giáo, và con cháu của họ, được phục hồi tư cách công
dân khi có đơn đề nghị. Họ được coi như chưa bao giờ bị tước tư
cách công dân nếu được xác nhận nơi cư trú tại Việt Nam.
(3) Khi Hiến pháp này có hiệu lực, người Việt Nam liệt kê tại điều
khoản này được khuyến khích hồi hương nếu mong muốn; những
người tham gia chính trị để đóng góp cho đất nước, được tự do
hoạt động trên đất nước và quê hương của mình công khai và
minh bạch theo Luật Cơ bản này.

§ 185. [Phóng thích tù nhân]


(1) Khi Luật Cơ bản này có hiệu lực, tù nhân bất đồng chính kiến đối
với chế độ trước, những người đang bị tù tội tuyên án theo các
điều khoản trong Bộ luật hình sự hiện hành, trái ngược với cam
kết quốc tế và Hiến pháp tại Chương II Mục I Quyền công dân và
quan hệ dân sự, họ được trả tự do.

235
(2) Trong thời hạn 2 năm kể từ khi Luật Cơ bản này có hiệu lực, các
tù nhân bị tuyên án về các tội hình sự hoặc dân sự phải được xem
xét lại hoặc phóng thích họ.
(3) Nguyên thủ quốc gia thực thi quyền phóng thích tù nhân tại khoản
(1), phóng thích hoặc giảm nhẹ hình phạt đối với cá nhân phạm
tội tại khoản (2).

§ 186. [Bồi thường dân oan]


(1) Luật Cơ bản này được ban hành nhằm thực hiện bồi thường thiệt
hại cho dân oan trong quá khứ. Thiệt hại được định nghĩa như đất
đai hoặc tài sản bị cưỡng chế bất hợp pháp, hoặc bị tịch thu trái
phép bằng bạo lực của chế độ trước.
(2) Bất động sản tịch thu trên hình thức cưỡng chiếm bằng bạo lực
được thu hồi và hoàn trả lại cho nhân dân hoặc cho tập thể liên
quan. Bất động sản ở khoản này bao gồm cả cài đặt cố định cũng
như các tài sản khác dính liền với bất động sản.
(3) Khi Quốc hội Việt Nam Dân Chủ đã hình thành § 165 (1), thiết
lập một Hội đồng Bồi thường với nhiệm vụ thực hiện việc bồi
thường cho nhân dân thiệt hại trong quá khứ. Bồi thường có thể
được thực hiện bằng hình thức thay thế cho điều thiệt hại hoặc
mất mát đó, một phần nào hoặc toàn bộ do khả năng của Quốc
hội. Hội đồng Bồi thường có trách nhiệm hoạch định các chính
sách và biện pháp cần thiết cho điều khoản này với sự phê chuẩn
của Quốc hội.

§ 187. [Chính sách khoan hồng]


Khi Hiến pháp này có hiệu lực, những người có nguy cơ bị kết án
theo quy định § 123 (1) a) b), lập công lớn trong giai đoạn chuyển
tiếp cũng như góp phần thực hiện hoàn thành các quy định tại
Chương Phụ lục và Luật Cơ bản này được Quốc hội và Nhân dân
rộng lòng lượng thứ, ân giảm và đại xá § 84.

§ 188. [Kiến thức về Hiến pháp – Luật Cơ bản]


(1) Trong thời hạn 2 năm kể từ khi Hiến pháp này có hiệu lực, mọi
công dân ở các tầng lớp trong xã hội được tiếp nhận kiến thức
hiểu biết về các quyền và nghĩa vụ của mình.
(2) Chính phủ có trách nhiệm áp dụng các nỗ lực, các biện pháp để
thúc đẩy việc truyền bá Hiến pháp đến mọi nơi, mọi người dân, và
bảo đảm rằng họ đã hiểu về Luật Cơ bản này.

236
§ 189. [Thi hành Hiến pháp]
(1) Trong thời hạn 2 năm kể từ khi Hiến pháp này có hiệu lực, Hội
đồng Chính phủ theo quy định § 76 có trách nhiệm trình Quốc hội
các dự luật cần thiết để thi hành Hiến pháp.
(2) Trong thời hạn 2 năm kể từ khi Hiến pháp này có hiệu lực, Hội
đồng Chính phủ có trách nhiệm trình Quốc hội các nghị quyết và
chỉ thị đã được thông qua từ trước, cần phải thay thế bằng các quy
định dưới luật § 79 ban hành căn cứ vào pháp luật mới § 78.
(3) Pháp luật của địa phương và các quy định dưới luật do Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh ban hành từ trước, phải được xem xét lại, sửa
đổi và thay thế, thông qua theo § 126 (2) và § 128.

§ 190. [Sửa đổi Hiến pháp]


Kể từ khi Hiến pháp này có hiệu lực, được áp dụng vào xã hội và toàn
thể nhân dân Việt Nam và được phúc quyết sửa đổi và bổ sung cho
phù hợp với kỳ vọng của nhân dân và hiện tình đất nước trong vòng 3
năm đầu. Dự thảo Hiến pháp phải được thống nhất thông qua và chấp
thuận của 2/3 số phiếu của hai viện Quốc hội § 162. Quyền sửa đổi
hiến pháp được nhân dân giao phó và ủy nhiệm Quốc hội.

Điều § 190 (tiếp nối § 162) quy định về việc sửa đổi Hiến pháp, đặc biệt
liên quan đến bản Hiến pháp Lâm thời này, khi cuộc Tổng tuyển cử Quốc
gia đã hoàn thành, và khi Quốc hội lưỡng viện được triệu tập lần đầu tiên
trong Nghị trường Việt Nam Dân Chủ § 165 (1). Việc sửa đổi Hiến pháp
được trao cho Quốc hội lưỡng viện. Hiến pháp 2021 quy định việc sửa đổi
và bổ sung theo ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân trong vòng 3
năm đầu, kể từ khi Hiến pháp này có hiệu lực. Thời hạn sửa đổi Hiến pháp
cũng được trao cho Quốc hội quyết định.

Khi Hiến pháp này được phát hành lần đầu tiên vào tháng 3/2019, với
nguyện vọng ‘Hiến pháp được phúc quyết sửa đổi và bổ sung cho phù hợp
với kỳ vọng của nhân dân và hiện tình đất nước sau 10 năm’. Thiết nghĩ,
trong 10 năm đầu sau khi toàn lãnh thổ Việt Nam đã được chuyển tiếp qua
thể chế mới, việc xây dựng đất nước và đi vào ổn định cần một thời lượng
tương đối đủ dài, để chúng ta có thể nhìn thấy một Việt Nam trỗi dậy,
vươn mình lên như các nước dân chủ ở Đông Bắc Á, nước Đức và cộng
đồng Bắc Âu, không ngang tầm thì sự phát triển con người cũng dự trù đạt
đến 50 phần trăm so với các cộng đồng này.

237
Việc sửa đổi Hiến pháp bấy giờ tất nhiên sẽ được tiến hành thông qua các
nhà đại diện được bổ nhiệm, ví dụ Quốc hội lập hiến, Ủy ban Hiến pháp,
Hội nghị quốc gia, các cuộc tranh luận bàn tròn, tham vấn nhân dân, trưng
cầu ý dân, trong đó có sự tham gia của nhiều chủ thể, bao gồm các cơ
quan chính quyền, các đảng phái, tổ chức xã hội và người dân, như các
học giả Việt Nam đã đề cập.

§ 191. [Thông qua Hiến pháp]


Với sự nhiệt liệt ủng hộ của đồng bào, Hiến Pháp này được xem là đã
được thông qua và chấp thuận. Các điều khoản trong Hiến pháp này
trở thành một Quy ước chung của nhân dân và chính thức trở thành
Hiến Pháp của dân tộc Việt Nam.

Bởi sự chào đời của bản Hiến Pháp Lâm thời này vào một bối cảnh hết
sức đặc biệt, việc thông qua Hiến pháp để có hiệu lực là một việc khó
khăn nhất để thực hiện. Bối cảnh đặc biệt này có thể được mô tả trong ba
đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, Hiến pháp không được xây dựng theo truyền thống lập
hiến như các quốc gia trên thế giới, qua thiết chế một Quốc hội
lập hiến, mà nó được xây dựng trực tiếp do chính người dân.
- Thứ hai, Hiến pháp không được xây dựng tại Việt Nam, mà ở một
nước xa xôi, hẻo lánh.
- Thứ ba, Hiến pháp đang đứng trước một thách thức lớn: Thế nào
để được đa số người dân chấp thuận? Thế nào để tạo điều kiện
cho chính quyền tại vị khăn gói hưu trí một cách ổn thỏa?

Chúng ta không thể có những câu trả lời thỏa đáng, song cũng có một số
giải đáp:
- Thứ nhất, chúng ta phải khẳng định rằng chế độ cộng sản, thiên
đường XHCN, đã bị phá sản về mọi mặt, nhất là về mặt chính trị,
kinh tế và đạo đức, dẫn đến tụt hậu và đói nghèo. Nó chia rẽ chính
quyền với nhân dân, mức độ tin cậy trong xã hội đã biến mất.
Người dân trong nước không có được điều kiện tiếp cận các kiến
thức cần thiết để xây dựng một nền tảng cho đất nước. Chính vì
vậy, Hiến pháp mới được xây dựng theo một cách rất ngoại lệ, được
thực hiện bởi người dân Việt Nam sống ngoài biên giới quốc gia.
- Thứ hai, Hiến pháp được xây dựng ở một nơi có các điều kiện cần
thiết, mà điều đáng quan tâm nhất là nó được xây dựng ở một nước
mang biểu tượng hòa bình trong mắt người dân trên thế giới, gồm
các yếu tố vững mạnh, trung hòa và vô tư.

238
- Thứ ba, như các học giả Việt Nam đã nêu, Hiến pháp là bản khế
ước xã hội của nhân dân. Hiến pháp là đạo luật về chủ quyền nhân
dân. Hiến pháp khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực quốc
gia, quyết định các việc hệ trọng của quốc gia, cần phải được đa số
người dân chấp thuận, qua quyền lập hiến và quyền phúc quyết, để
bảo đảm quyền lập hiến thực sự thuộc về nhân dân, và có quyền
quyết định cuối cùng đối với Hiến pháp mới. Nhưng với bối cảnh
và thời gian gấp rút hiện nay, việc thực hiện phúc quyết là rất khó
khăn. Hiến pháp này cũng quy định sắp đặt một giải pháp tốt đẹp
nhất cho chính quyền hiện tại cũng như các quan chức đang tại vị.

Chính vì thế, đứng trước một hiện tình hết sức nghiệt ngã của đất nước,
tác giả xin đề nghị một giải pháp khiêm tốn như sau:

Nhân dân và chính quyền thống nhất với nhau – chấp thuận công tác thực
hiện cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia – nghĩa là đã chấp thuận bản Hiến pháp
lâm thời này. Việc thực hiện và hình thành cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia
có ý nghĩa là toàn dân Việt Nam đã chính thức thực hiện cuộc trưng cầu
dân ý cho Hiến pháp lâm thời 2021.

Tuy nhiên, việc thông qua Hiến pháp lâm thời này phụ thuộc vào sự ủng
hộ nhiệt tình của đại đa số người dân Việt Nam, vì đó là quyền lực quốc
gia và cũng là quyền quyết định cuối cùng của nhân dân cho bản Hiến
pháp Việt Nam 2021.

§ 192. [Hiệu lực của Hiến Pháp]


Theo quy định § 191, Hiến Pháp này có hiệu lực ngày 10 tháng 3 năm
2021.

Theo truyền thống lập hiến, thông thường ngày hiệu lực được thông qua
bởi Quốc hội lập hiến, cơ quan dân cử. Do đó, các đạo luật phát hành
thường phải được xác định một ngày hiệu lực, tức là ngày bắt đầu hoạt
động của đạo luật, và điều này tất nhiên không thể thiếu trong một văn
kiện của quốc gia. Ngày hiệu lực của bản Hiến pháp này dự kiến là ngày
10 tháng 3 (Dương lịch) là ngày được chọn theo ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
(Âm lịch) của Việt Nam nước ta, cũng là ngày rơi vào tiết mùa xuân. Mùa
xuân thường mang đến cho con người những khởi đầu tươi sáng, khơi dậy
sự sống và hy vọng. Ngoài ra, ngày này cũng hợp lý và thích ứng theo thời
gian tổ chức cuộc bầu cử ở Việt Nam. Việc xác định ngày hiệu lực của
Hiến pháp phụ thuộc vào sự quyết định cuối cùng của người dân Việt Nam.

239
PHẦN C:

PHỤ LỤC VÀ GỢI


MỞ GIẢI PHÁP
GỢI MỞ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM

Xây dựng quốc gia và hệ thống quản trị có ý nghĩa sống còn đối với dân
tộc. Hệ thống quản trị quốc gia duy trì sự cân bằng giữa các thế lực chính
trị để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong vài thập niên qua, nước ta đã trải qua nhiều cuộc đổi mới, tổ chức
nhiều hội nghị trọng đại, song việc đặt ra các giải pháp xây dựng, hoàn
thiện, phát triển kinh tế xã hội, tích cực hội nhập quốc tế vẫn là một thách
thức lớn. Do đâu, các giải pháp đưa ra không đáp ứng cho các mục tiêu
khả thi cho Việt Nam? Bởi vì, Việt Nam chúng ta chưa chính thức có một
bản Hiến pháp của nhân dân làm cơ sở để xây dựng đất nước. Hiến pháp
là bản quy ước chung của nhân dân, là đạo luật về chủ quyền nhân dân,
nơi đó quy định việc xây dựng đất nước với sự tham gia đông đảo của
người dân, của các thành phần trong toàn xã hội nhằm triển khai các khả
năng tối ưu của con người, của nhân dân và các cơ quan tổ chức.

Hiến pháp là nền tảng để xây dựng đất nước, là đạo luật có hiệu lực pháp
lý tối cao của quốc gia, hiệu lực tối cao đó đồng hành với sự ổn định để
phát triển, để khai thác tiềm năng của con người. Cuộc sống của chúng ta
luôn thay đổi theo thời gian, Hiến pháp của một thời ‘chiến thắng vẻ vang’
không còn là cứu cánh cho hiện tại, không thích hợp tiếp tục áp dụng
trong môi trường tiến bộ của con người. Những quan điểm dựa trên một
hệ tư tưởng thất bại không thể tiếp tục bắt thế hệ mai sau phải gánh vác.
Đó là một trong những lý do cần phải xây dựng Hiến pháp mới.

Nhằm phục vụ đồng bào và đất nước, phần này sẽ sơ lược tóm tắt một đề
xuất giải pháp cho Việt Nam, thông qua những thành công của mô hình
tổng hợp từ các nước đã ổn định phát triển từ hai khu vực Tây Bắc Âu và
Đông Bắc Á, trên cơ sở rút ra gợi ý giải pháp cho Việt Nam.

Để hướng đến xây dựng một đất nước hùng mạnh và thịnh vượng, chúng
ta trước tiên phải xây dựng một quốc gia pháp quyền dựa trên các hình
thức và yếu tố dân chủ tự do, để cấu tạo một bộ máy chính quyền kiến tạo,
liêm chính, minh bạch, và tạo cơ hội thuận lợi cho các cá nhân và tổ chức
trong mọi lĩnh vực. Chính vì thế, bản Hiến pháp lâm thời này có thể là
điểm khởi đầu cho các tiền đề nêu trên.

242
Ngoài các quyền con người được quy định khá đầy đủ trong Hiến pháp
làm nền tảng, Hiến pháp được hình thành dựa trên các mô hình rút ra từ
Tây Bắc Âu và Đông Bắc Á để xây dựng mô hình quản trị quốc gia, hệ
thống chính trị và các cơ chế độc lập để bổ trợ, vận hành đất nước Việt
Nam. Sau đây là một số đặc trưng về các mô hình được thiết chế trong
Hiến pháp mà một số nhà nghiên cứu tại Việt Nam hết sức quan tâm:

243
NGUỒN THAM KHẢO VÀ NHỮNG GỢI MỞ

MÔ HÌNH BẮC ÂU
Theo nguồn: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ, lyluanchinhtri.vn (3/2019): Mô
hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu hiện nay và những gợi mở, tham
chiếu cho Việt Nam.

Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở các nước Bắc Âu chứa đựng những
giá trị tiến bộ về dân chủ, nhân quyền, những giá trị phúc lợi phục vụ
người dân. Những thành tựu của mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc
Âu có những gợi mở giá trị cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành hội
nhập quốc tế, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa sâu rộng. Sau đây là
những thành tựu tiêu biểu của mô hình Bắc Âu:

a) Xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn
Ở các nước Bắc Âu, người dân có khả năng tham gia vào chính trị ngày
càng tích cực hơn. Nhân dân được biết tương đối đầy đủ về chính quyền,
chính phủ đang và sẽ làm gì. Những sáng kiến chính trị của người dân
được lắng nghe tôn trọng và có cơ chế hiện thực để trình bày, thẩm định
và nếu khả thi thì sẽ được pháp luật có cơ chế để hiện thực hóa. Quyền
của người dân được tham gia vào các hoạt động kinh tế và thụ hưởng
thành quả của nền kinh tế thị trường xã hội, được chính quyền và xã hội
bảo đảm ở mức tương đối tốt, thông qua phân phối theo lao động và phúc
lợi xã hội. 

Các nước Bắc Âu có một nền kinh tế thị trường khá lành mạnh, năng động
và được điều tiết vì những lợi ích xã hội, đã được xây dựng khá vững chắc
và có khả năng «đề kháng» với những bất trắc của kinh tế toàn cầu. Công
bằng xã hội và bình đẳng xã hội cũng đã có những thành tích đáng kể. So
với các nước theo mô hình kinh tế thị trường tự do và những nước đang
xây dựng nền kinh tế thị trường gặp phải hiện tượng phân hóa giàu nghèo
tiêu cực diễn ra với quy mô lớn, tốc độ nhanh và sâu sắc thì mô hình Bắc
Âu có sự phân hóa giàu nghèo thấp hơn nhiều.

Quốc gia phúc lợi với chính sách bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội là công
cụ điều tiết quan trọng nhất để đạt tới bình đẳng xã hội. Chính quyền chịu
trách nhiệm chính cho toàn bộ phúc lợi của các công dân. Trách nhiệm
chính quyền ở đây mang tính toàn diện, khá chu đáo cho tất cả, đều do
một «mạng lưới an sinh xã hội» bảo đảm. Mô hình này đã khá thành

244
công cả về tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội theo hướng dân chủ,
công bằng, văn minh. Các nước này trong nhiều năm qua, về mọi tiêu
chí tích cực luôn nằm ở tốp dẫn đầu của thế giới. Đây là những quốc gia
có độ ổn định cao về chính trị, có khả năng cạnh tranh về kinh tế, phúc
lợi xã hội cao (giáo dục, y tế, an sinh...) và đạt được chỉ số hạnh phúc rất
cao. Mô hình quốc gia phúc lợi Bắc Âu đề cao tính hiệu quả (efficiency),
hiệu lực (effectiveness), công bằng xã hội (social equality), bền vững
(sustainability). Phát triển xã hội, phát triển con người là mục đích cao
nhất trong quá trình phát triển. Các nước Bắc Âu cho rằng, muốn có
nguồn lực để thực hiện phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống con người, thì
cần phải có nhiều của cải vật chất, và muốn vậy, thì cần phải thúc đẩy phát
triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ là tốt nhất trong nền kinh tế dựa trên
thị trường cởi mở, hiệu quả.

b) Quản lý phát triển hiện đại, hạn chế được nhiều khuyết tật của kinh
tế thị trường
Chính phủ năng động, khắc phục nhanh tác động tiêu cực của khủng
hoảng kinh tế và đang thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo yêu
cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, Bắc Âu là một trong những
khu vực hội nhập nhất và là nền kinh tế lớn thứ 11 của thế giới với tổng
giá trị GDP là 1.416 tỷ đô la Mỹ.

Kinh tế thị trường xã hội của các nước Bắc Âu là một trong những mô
hình phát triển được xem là khá phù hợp hiện nay. Tính chất xã hội, giá
trị xã hội, hiệu quả tích cực với phát triển xã hội là yêu cầu pháp lý và đạo
đức của loại hình thị trường này. Như một quan niệm «mô hình đó là một
công thức hòa giải giữa nguyên lý tự do trên thị trường và nguyên lý cân
bằng xã hội trong một khung trật tự được chính phủ kiến tạo và bảo vệ».
Nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do
cá nhân, năng lực hoạt động kinh tế với điều tiết của chính phủ vì tiến bộ
và công bằng xã hội.

Tư tưởng chủ đạo của mô hình này là: tự do thị trường, tự do kinh doanh,
không có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo
vệ hệ thống kinh tế tư bản, nêu cao tính độc lập kinh tế và «trách nhiệm
xã hội» của doanh nghiệp, thừa nhận vai trò quan trọng của chính quyền
trong quản lý phát triển để đảm bảo phối hợp tự do kinh tế với các quy
tắc của một xã hội công bằng, bình đẳng. Trên thực tế, trong mô hình Bắc
Âu, chính phủ là «người cầm lái» - định ra thể chế kinh tế thị trường, và
là cơ quan thu thuế và tái phân phối phúc lợi xã hội có được, chức năng

245
kinh doanh của chính phủ gần như nhường lại cho thị trường. Nguyên
tắc phân phối là vừa phát huy đầy đủ tính tích cực xã hội về mọi mặt và
nâng cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh lệch phân
phối quá lớn. Quốc gia phúc lợi thông qua luật pháp và chính sách điều
chỉnh để doanh nghiệp tư nhân cũng có trách nhiệm xã hội. Chính phủ
thực hiện phân phối các của cải đó một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu
của người lao động và dùng thuế lũy tiến khá mạnh tay để điều tiết những
người có thu nhập cao. Nguồn lực của các cơ quan chính quyền của mô
hình này cũng theo đó, luôn chủ động và dồi dào.
Các tiêu chuẩn cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội Bắc Âu gồm:
- Thứ nhất, đảm bảo quyền tự do cá nhân nhưng là «chủ nghĩa cá
nhân nằm ngang» - hàm ý mọi cá nhân đều có cơ hội phát triển
như nhau trong sự điều chỉnh của chính quyền chứ không phải là
«chủ nghĩa cá nhân thẳng đứng» của kinh tế thị trường tự do.
- Thứ hai, chính quyền bảo đảm công bằng xã hội thông qua các
chính sách kinh tế và xã hội như luật kinh doanh, thuế thu nhập
lũy tiến và phân phối lại...
- Thứ ba, chính sách kinh doanh theo chu kỳ - chính quyền có chính
sách khắc phục hậu quả của khủng hoảng chu kỳ, điều chỉnh mất
cân đối, vốn là những hiện tượng thường diễn của thị trường toàn
cầu.
- Thứ tư, chính sách tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội
công bằng và tiến bộ.
- Thứ năm, chính sách để kiến tạo một cơ cấu kinh tế hiện đại -
được coi là tiêu chuẩn đặc trưng, hạt nhân trong chính sách tăng
trưởng nhằm giải quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào
tạo nhân lực theo yêu cầu cách mạng công nghiệp hiện đại.
- Thứ sáu, bảo đảm tính phù hợp với thị trường, hạn chế sự cạnh
tranh quá mức (hình thành các tổ chức độc quyền) và cũng hạn
chế sự can thiệp quá sâu của chính quyền vào hoạt động của thị
trường...

Mô hình Bắc Âu theo đuổi các mục tiêu: bảo đảm và nâng cao tự do về
vật chất cho mọi công dân bằng cách bảo đảm cơ hội kinh doanh và hỗ
trợ cho các cá nhân tham gia bằng một hệ thống bảo hiểm xã hội. Đây là
nền kinh tế thị trường kích thích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân và lợi ích
toàn xã hội, đồng thời phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường,
chống lạm phát, giảm thất nghiệp và những bất trắc khác qua hệ thống
bảo hiểm đa diện, đa dạng. Các quyết định kinh tế và chính trị của chính
quyền được hoạch định trên cơ sở quan tâm đến những nhu cầu cá nhân

246
và hài hòa nó với lợi ích cộng đồng. Thực hiện công bằng xã hội cả trong
khởi nghiệp và phân phối đã giúp cho ổn định bên trong của xã hội. Nó
góp phần khắc phục được những khuyết tật cố hữu của kinh tế thị trường
như cạnh tranh khiến cho phân tầng, phân cực xã hội sâu sắc, theo đuổi lợi
nhuận cá nhân đôi khi hy sinh lợi ích xã hội...

Các chính phủ Bắc Âu đã chứng minh được phẩm chất quản lý minh bạch
bên cạnh khả năng điều hành nền kinh tế với trình độ «trị quốc tốt nhất
thế giới». Nắm giữ trong tay một nguồn lực khổng lồ của xã hội (chính
phủ Thụy điển quản lý hơn 60% tài sản của xã hội, chính phủ của các
nước Bắc Âu khác thấp hơn một chút nhưng về tỷ lệ vẫn luôn cao hơn khi
so với Mỹ - 25%, Anh, 31%) lại có quyền năng của «bàn tay hữu hình»,
nhưng Bắc Âu cũng luôn đạt thứ hạng cao trong các xếp hạng về chính
phủ minh bạch, lòng tin của xã hội và có mức tín nhiệm với các thể chế
chính trị hiện hành. Những khảo sát của Tổ chức minh bạch quốc tế trong
thời gian gần đây đều đánh giá cao các nước Bắc Âu về thành tích trong
các chỉ số về minh bạch, hạn chế tham nhũng và hạn chế lạm quyền.

c) Xây dựng đồng thuận và lòng tin xã hội để phát triển kinh tế - xã hội
Niềm tin xã hội hay lòng tin xã hội (social trust) là sự tin tưởng vào độ
trung thực, tử tế của người khác. Nó là tiền đề cho quan hệ giữa người với
người, là điều kiện cơ bản để duy trì đời sống cộng đồng. Các nhà nghiên
cứu đều cho rằng lòng tin xã hội tạo nên một trong những nguồn lực quan
trọng nhất cho đất nước, cấu thành «vốn xã hội» (social capital). Lòng tin
giữa các công dân với nhau đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, độ
ổn định, hiệu quả và dân chủ của chính phủ, hội nhập xã hội, mức độ hài
lòng và hạnh phúc, sự lạc quan, sức khỏe... Nó tỷ lệ thuận với phồn vinh
và an sinh.

Có một nhận định khá đúng rằng: “Độ tin cậy cao là một giá trị vàng đã
được khẳng định, nằm trong hệ giá trị Bắc Âu. Ở Bắc Âu, sáu đặc tính
phổ biến dễ dàng được tìm thấy là: trung thực, công bằng, hiệu quả, tận
tâm, tin tưởng vào chính phủ, bình đẳng giới và văn hóa đồng nhất. Vai trò
to lớn và tác động tích cực, đa diện của niềm tin xã hội đối với quá trình
phát triển của mô hình Bắc Âu đã được nhiều công trình mô tả và khẳng
định.

Niềm tin xã hội của công dân với các chính phủ Bắc Âu giúp cho xã hội
vừa năng động trong kinh tế thị trường lại vừa cân bằng, hài hòa trong
một quốc gia phúc lợi, nơi mà các điều khoản xã hội trong kinh doanh

247
có vẻ tiết chế khá mạnh những hưng cảm tìm kiếm lợi nhuận. Nhà doanh
nghiệp vẫn mải miết với cuộc tìm kiếm để tăng thu nhập và họ vẫn luôn
tin tưởng rằng thuế lũy tiến từ chính phủ là công bằng và cao hơn nữa là
công lý; rằng những đóng góp vào thuế của mình sẽ quay trở lại với các
khoản chi phúc lợi xã hội; rằng đó là những quy định đúng mực và có ích
cho cả xã hội. Đó là niềm tin xã hội, tuy khá hiếm hoi trong kinh tế thị
trường tự do nhưng lại khá phổ biến trong kinh tế thị trường xã hội của
Bắc Âu. Rõ ràng, đạt được công bằng trên thực tế và lòng tin của xã hội
vào chính phủ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Những người dân chủ xã hội cầm quyền của Bắc Âu đã xây dựng được
mô hình chính phủ liêm chính, thân thiện và trong sạch trước sự giám sát
chặt chẽ của pháp luật. Một chính phủ thượng tôn pháp luật, pháp luật
chi phối các quan hệ cơ bản trong xã hội trở thành nguyên tắc chính trị
quan trọng ở các nước Bắc Âu. Những quy định chặt chẽ của các cơ quan
chính quyền đối với các quyền, lợi ích và trách nhiệm của công chức, viên
chức, sự tự giác rèn luyện tác phong bình dị, vì dân, đạo đức công vụ và
uy quyền của công luận... có thể là những nhân tố hỗ trợ đắc lực cho chính
phủ liêm chính này. Có một nhận xét đáng lưu ý: “Điều làm cho nhiều
người ngạc nhiên là tại sao các nước Bắc Âu có thể trở nên thịnh vượng
và tăng trưởng tốt với các khuyến khích kinh tế được xem là yếu đi cùng
với thuế suất rất cao, một hệ thống an sinh xã hội hào phóng và chế độ
phân phối bình quân. Để có được điều này, sự khác biệt nằm ở mức độ
tin tưởng cao, và không dễ tìm được ở nơi nào khác, tạo nên một mô hình
Bắc Âu độc đáo và ngoại lệ...”.

Các nước Bắc Âu đã coi lòng tin xã hội là một thứ vốn trong kinh doanh,
là chất keo gắn kết cả xã hội vào một khối mà nhân lõi của nó là nền chính
trị của dân, do dân, vì dân.
Năm 2016 và 2017, Phần Lan, Thụy điển, Nauy, Đan Mạch được coi là
những quốc gia phát triển thành công, bền vững nhất thế giới.

MÔ HÌNH TÂY - BẮC ÂU


Theo nguồn: Văn Hóa Nghệ An, vanhoanghean.com.vn (6/2017): Quản trị
quốc gia đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng và xây dựng xã
hội hài hòa ở một số nước Bắc Âu và gợi mở chính sách cho Việt Nam.

Quá trình phát triển và hội nhập khu vực của các quốc gia châu Âu trong
suốt giai đoạn từ sau khi kết thúc Thế chiến thứ II đến nay, đã liên tục

248
được thúc đẩy, và một trong những thành tựu phát triển nổi bật chính là
sự thành công của quá trình liên kết, hội nhập khu vực với sự ra đời của
cộng đồng châu Âu (EC). Đến nay, tổ chức liên kết này đã được phát triển
toàn diện và trở thành Liên minh Châu Âu (EU) lôi kéo sự tham gia của
hầu hết các quốc gia phát triển ở châu Âu. Tiến trình phát triển của EU
trong hơn nửa thế kỷ vừa qua đã đem lại nhiều thành tựu hết sức ấn tượng.
Nổi bật nhất là mức sống gia tăng, an ninh và ổn định khu vực được đảm
bảo, công dân của các nước thành viên EU được sinh sống và tận hưởng
một không gian kinh tế - xã hội rộng mở bao trùm hầu như toàn bộ lục địa
châu âu. Cho dù vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết, thậm chí
phải được nghiên cứu và đánh giá lại, song những gì EU đã làm được hơn
nửa thế kỷ qua là rất đáng được ghi nhận. Đó là sự phát triển xã hội hài
hòa giữa chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra sự cân bằng giữa các cá nhân, thị
trường và chính phủ, trong đó các cá nhân được đề cao với trách nhiệm
quyền công dân rất rõ ràng.

Mô hình phát triển châu Âu nói chung, đặc biệt là mô hình phát triển các
nước Bắc Âu được coi là mô hình toàn diện nhất với sự quan tâm cao độ
dành cho hệ thống tái phân phối, gắn kết xã hội và các giá trị phổ quát.
Các mục tiêu của mô hình này được thực hiện thông qua một hệ thống hạ
tầng vững mạnh, các dịch vụ xã hội với khả năng đáp ứng nhu cầu tốt và
có chất lượng cao. Lợi ích của mô hình Bắc Âu nói chung mang tính chất
phi hàng hóa, có ý nghĩa là các cá nhân đều được hưởng lợi, mà không
phụ thuộc vào việc người đó đang đóng góp như thế nào. Mối quan hệ lao
động – lợi ích thụ hưởng có tính thị trưởng thấp. Người thất nghiệp cũng
được hưởng lợi và tỷ lệ lưu chuyển lao động, việc làm rất cao. Cùng với
trợ cấp thất nghiệp, dịch vụ y tế được tài trợ thông qua hệ thống thuế ...
Mô hình phát triển xã hội hài hòa ở Bắc Âu đã thể hiện vai trò quản trị
quốc gia, vai trò quản lý phát triển xã hội của các bên liên quan với những
xu hướng diễn biến trái ngược nhau, bao gồm:
a) Sức ép đòi hỏi khả năng quản lý phát triển xã hội hiệu quả hơn
nữa;
b) yêu cầu phi tập trung hóa và chuyển giao quyền lực cho chính
quyền địa phương;
c) đòi hỏi về sự gia tăng vai trò quản lý của chính phủ trong các lĩnh
vực có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống nhân dân;
d) phải đẩy mạnh điều chỉnh, cải cách, đổi mới quản lý, quản trị
quốc gia và xã hội trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội...

249
1. Khái quát về các khái niệm có liên quan
Muốn phân tích, luận giải rõ ràng các nội dung chính của bài viết, trước
hết, cần phải làm rõ các khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài.
- «Quản lý» là gì? đó là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý, nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các
quá trình xã hội và hành vi cá nhân hướng tới mục đích hoạt động
chung và phù hợp với quy luật khách quan.
- «Quản trị quốc gia» là gì? đó là sự chỉ huy, điều hành xã hội của
các cơ quan chính quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) để thực
thi quyền lực chính quyền, thông qua các văn bản quy phạm pháp
luật. «Quản trị quốc gia» đòi hỏi phải đi sâu, nắm vững các kiến
thức về khoa học quản lý, khoa học pháp lý, khoa học tổ chức bộ
máy hành chính quốc gia, kiến thức về nghiệp vụ hành chính. Nếu
đi sâu vào các chuyên ngành «quản trị quốc gia», cần phải hiểu
được quản lý nhân sự trong khu vực công, thiết kế và phân tích
tổ chức bộ máy chính quyền, hoạch định và phân tích chính sách
công, quản lý về kinh tế, tài chính công và quản lý xã hội: văn
hóa, y tế, tôn giáo, dân tộc,...
- «Quản lý hành chính quốc gia» là gì? đó là một hình thức hoạt
động của chính quyền được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi
các cơ quan hành chính quốc gia, có nội dung là đảm bảo sự chấp
hành luật, pháp lệnh và các nghị quyết của cơ quan quyền lực
quốc gia, nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp
và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội và
hành chính – chính trị. Hay nói một cách khác, quản lý hành chính
quốc gia là hoạt động chấp hành điều hành của quốc gia.
- «Quản lý phát triển xã hội» là gì? là những hoạt động đảm bảo
cho xã hội phát triển theo đúng qui luật, dựa trên hai mặt: (i)
Chính quyền quản lý xã hội bằng pháp luật; và (ii) các tổ chức
xã hội thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua giám sát
thực thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật. Thực hiện
được nguyên lý đó phải dựa trên nguyên tắc, quản lý phát triển xã
hội phải đảm bảo công bằng, tiến bộ, bình đẳng xã hội.
- «Quốc gia pháp quyền» là khái niệm dùng để chỉ xã hội tổ chức
theo cách quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp
luật và được đảm bảo thực thi bằng bộ máy chính quyền cũng như
các thiết chế chính trị - xã hội khác nhằm mang lại quyền lợi của
nhân dân.
- «Chính phủ kiến tạo», chính phủ hành động, chính phủ phục vụ,
chính phủ liêm chính là những cụm từ gần đây thường xuyên

250
được sử dụng ở nước ta. Theo TS. Võ Trí Thành, nội hàm «Chính
phủ kiến tạo» có 4 chiều cạnh sau:
(i) Chính phủ phải có đủ năng lực, đủ minh bạch, đủ khả năng
giải trình,
(ii) Chính phủ phải có đủ khả năng tạo ra tầm nhìn tốt và chính
sách tốt. Chính sách tốt gồm tư duy, tầm nhìn, thiết kế thực
thi, và như vậy phải rất chuyên nghiệp;
(iii) Chính phủ phải tương tác, thân thiện với xã hội, người dân,
với thị trường và doanh nghiệp với sự minh bạch và trách
nhiệm giải trình, và
(iv) Chính phủ biết tạo ra và chia sẻ sự phát triển.

- «Xã hội hài hòa», theo đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý
chủ biên «hài hòa là tính từ chỉ sự cân đối, đồng đều». Xét từ khái
cạnh triết học, xã hội hài hòa ở trạng thái tồn tại và phát triển cân
đối, điều hòa giữa các mặt của đời sống xã hội, giữa các cộng
đồng dân cư, giữa con người với tự nhiên, là giai đoạn lý tưởng và
hình thức hoàn mỹ của sự phát triển trong sự thống nhất của các
mặt đối lập. Theo nghĩa rộng, xã hội hài hòa là xã hội có kết cấu
giữa các bộ phận, các yếu tố gắn kết làm một, cùng vận hành nhịp
nhàng. Thực ra, hài hòa trên những phương diện lớn bao gồm 4
mặt, đó là: hài hòa trong bản thân con người, hài hòa giữa con
người và tự nhiên, hài hòa giữa con người với xã hội và hài hòa
giữa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Theo nghĩa hẹp, xã hội hài hòa chỉ sự hài hòa trong bản thân các tầng
diện xã hội, nghĩa là sự hài hòa phải hiện diện trong lĩnh vực của đời sống
trong mỗi con người và sự hài hòa đó phải mang tính chất hướng đến cái
tốt đẹp hơn. Ví dụ như trong phát triển kinh tế phải hướng tới phát triển
hài hòa giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu
nghèo, giải quyết công bằng xã hội và tạo thêm việc làm, tăng cường
chống tham nhũng, phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội, môi
trường.
Những khái niệm cơ bản kể trên ít nhiều sẽ được sử dụng làm cơ sở cho
những phân tích về các nội dung liên quan đến chủ đề bài viết này.

2. Thực trạng phát triển xã hội hài hòa ở các nước Bắc Âu
Trong thế giới đa màu sắc với những mô hình phát triển khác nhau hiện
nay, thì mô hình phát triển xã hội hài hòa Bắc Âu, được thế giới coi như
«Chủ nghĩa xã hội Bắc Âu», vẫn đang nở hoa và gây chú ý. Chỉ có khoảng

251
25 triệu dân, nằm rải rác ở các rẻo đất lạnh và hẹp, nhưng mô hình quốc
gia phúc lợi (Welfare State) ở các nước Bắc Âu, nhất là ở bốn nước Đan
Mạch, Na Uy, Phần Lan, Thụy Điển đã gây ra rất nhiều chú ý với rất nhiều
nghiên cứu về mô hình này. Các nước này trong nhiều năm qua luôn nằm
ở top trên trong bảng xếp hạng về mọi tiêu chí từ chính trị, kinh tế đến xã
hội. Đây là những quốc gia có độ ổn định cao về chính trị, có khả năng
cạnh tranh về kinh tế, y tế xã hội và chỉ số hạnh phúc rất cao. Các nước
này cũng rất khéo léo chế ngự các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính,
nợ công ... Chính phủ các nước này rất năng động, linh hoạt thực hiện các
chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, do tác động của các cuộc khủng
hoảng nợ công châu Âu (từ 2009 đến nay) đem lại một cách hiệu quả.

Mô hình phát triển xã hội hài hòa ở các nước Bắc Âu luôn mang đặc trưng
của một nền kinh tế thị trường hỗn hợp. Trong đó các quốc gia phúc lợi
đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, nhằm đảm bảo cho nhu cầu
của từng cá nhân trong xã hội, cung cấp đầy đủ những quyền cơ bản của
con người và ổn định của nền kinh tế. Mô hình này nhấn mạnh đến sự tham
gia tối đa của lực lượng lao động trong nền kinh tế, thúc đẩy bình đẳng
giới, coi trọng việc thực hiện các chính sách trợ cấp, áp dụng các chính
sách tài chính mở rộng. Ba mục tiêu chủ yếu của mô hình Bắc Âu là:
- Mức độ phổ quát cao: tất cả công dân đều được đảm bảo các lợi
ích và dịch vụ an sinh xã hội cơ bản.
- Mức độ bình đẳng cao: phân phối thu nhập tương đối công bằng
(thông qua việc áp dụng mức độ đóng thuế cao), giáo dục miễn
phí và cơ hội bình đẳng trong tiếp cận việc làm.
- Chính phủ đảm bảo việc làm đầy đủ thông qua việc thực hiện các
chính sách thị trường lao động tích cực.

Với 3 mục tiêu trên, mô hình Bắc Âu chủ yếu dựa trên 3 trụ cột chính: an
sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe và giáo dục miễn phí. An sinh xã hội và
chăm sóc sức khỏe là nhằm đảm bảo mức sống cao cho tất cả mọi người
dân trong nước, bất kể tình trạng kinh tế của họ tốt hay xấu. Giáo dục
miễn phí là nhằm mục đích đem lại nền giáo dục tốt hơn cho mọi người
dân bằng cách huy động tối đa các lực lượng xã hội và không dựa vào sự
hỗ trợ kinh tế từ gia đình học sinh.

Với những lợi ích khổng lồ mang lại cho công dân trong nước, mô hình
Bắc Âu còn được gọi với tên khác là mô hình dân chủ xã hội (Social
Democratic Model). Mô hình này mang lại nhiều hơn lợi ích cho người
dân hơn mô hình Beveridge của nước Anh (sử dụng hệ thống thuế để tạo

252
nên sự tái phân phối lớn hơn), hay mô hình Bismark của nước Đức (sử
dụng hệ thống bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng giữa các thế hệ, có ý nghĩa là
các thế hệ công nhân trẻ cung của một sự bảo lãnh tài chính cho tuổi già
của cha mẹ, ông bà).

Các nhà kinh tế học cho rằng mô hình Bắc Âu mang tính đơn giản hơn,
nhưng toàn diện hơn các mô hình khác ở châu Âu. Tại các nước Bắc Âu,
hầu hết phúc lợi xã hội đều do chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương mang lại cho từng cá nhân, gia đình. Mô hình này đảm bảo một
hệ thống hạ tầng vững mạnh, các dịch vụ xã hội với khả năng đáp ứng nhu
cầu tốt và chất lượng cao. Mọi cá nhân đều được hưởng phúc lợi quốc gia,
không phụ thuộc vào việc đó là người đóng góp như thế nào và mô hình
này đảm bảo mức thất nghiệp thấp, cùng với những khoản trợ cấp thất
nghiệp tương đối đầy đủ. Mô hình Bắc Âu dường như tẩy chay với mặt
trái của thị trường (chỉ nghĩ đến lợi nhuận, quên đi các vấn đề về xã hội
và môi trường), nó xây dựng một sự đoàn kết toàn diện cần thiết nhất cho
quốc gia phúc lợi. Tất cả lợi ích đều mang tính phụ thuộc và mang tính
thanh toán bắt buộc. Chính quyền có trách nhiệm chăm lo đến mỗi gia
đình (từ trẻ em đến người già), khuyến khích sự độc lập cá nhân, đặc biệt
khuyến khích phụ nữ lựa chọn các cơ hội việc làm. Việc là đầy đủ là yếu
tố trọng tâm của mô hình Bắc Âu, và nó được chính quyền hỗ trợ cả về
thu nhập lẫn thanh toán các chi phí phúc lợi.

Trong mô hình phát triển xã hội hài hòa ở Bắc Âu, trường hợp điển hình
nhất là Thụy Điển. Nói đến Thụy Điển là nói đến đất nước phát triển hài
hòa giữa kinh tế, chính trị và xã hội. Và ở đó chính quyền có vai trò quan
trọng trong việc điều tiết, quản lý đất nước, người dân tự do, dân chủ hoạt
động trong các tổ chức xã hội dân sự, nền kinh tế thị trường đảm bảo độ
cạnh tranh mạnh mẽ. Cụ thể:

- Cấu trúc kinh tế mang tính chất là nền kinh tế hỗn hợp, chế độ sở
hữu pha trộn giữa chế độ sở hữu công cộng với chế độ sở hữu tư nhân,
chế độ phân phối thực hiện theo lao động kết hợp với theo vốn, phương
thức vận hành kinh tế thực hiện quản trị quốc gia điều tiết vĩ mô kết hợp
với nền kinh tế thị trường tự do. Có người gọi, kinh tế Thụy Điển là nền
kinh tế hỗn hợp tiên tiến, hướng ngoại. Năm 2013, Thụy Điển đứng đầu
thế giới về đổi mới sáng tạo, đứng thứ hai thế giới về hệ thống giáo dục
có chất lượng tốt. Tuy vậy, trong quá trình phát triển, đặc biệt do tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu (2008), và cuộc khủng
hoảng nợ công (năm 2009), nền kinh tế Thụy Điển có xu hướng bất ổn,

253
tăng trưởng kinh tế dao động thất thường, thậm chí bị suy giảm nghiêm
trọng, tỷ lệ thất nghiệp cao, thâm hụt ngân sách vượt quá mức cho phép
(3%), các chỉ số kinh tế vĩ mô bị tụt giảm. Cùng với chính sách tiền tệ
chưa linh hoạt, các gói kích thích kinh tế tung ra nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trở lại, tỏ ra không mấy hiệu quả, rất dễ dàng dẫn đến nguy
cơ nợ công lớn ... Đứng trước tình trạng đó, các chính phủ Thụy Điển từ
năm 2008 đến nay, đã luôn đặt ra nhiệm vụ phải chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế, nhằm mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế, tăng
tỷ lệ tăng trưởng GDP, giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định tỷ lệ nợ công dưới
mức cho phép (60% GDP), đảm bảo bội chi ngân sách dưới 3% như Hiệp
ước Tăng trưởng và Ổn định EU đặt ra. Đồng thời nền kinh tế Thụy Điển
hướng tới nền kinh tế tri thức (hàm lượng chất xám lớn), xanh (chống ô
nhiễm môi trường), đề cao mô hình «Chính quyền đầu tư xã hội» (đưa
hạch toán kinh tế chặt chẽ trong mô hình quản trị mới về quốc gia phúc
lợi, đảm bảo sự hợp lý cho chi tiêu ngân sách xã hội). Thụy Điển đề cao
mô hình học tập suốt đời, cải cách giáo dục đề cao học sinh là trung tâm,
đặt vấn đề xây dựng «động cơ lợi nhuận trong giáo dục» với hàng loạt
các «Trường học sinh lời» ra đời, xây dựng các «công ty học đường» dựa
trên nền tảng đối tác công – tư của khu vực tư nhân và lợi ích xã hội. Do
những biện pháp cải cách mạnh mẽ, đồng bộ, vì vậy nền kinh tế Thụy
Điển đã có chuyển dịch rõ ràng, theo hướng tốt đẹp hơn, đã đảm bảo cân
đối kinh tế vĩ mô, tăng trưởng GDP tốt hơn, thị trường lao động khởi sắc,
tỷ lệ nợ công giảm, đã đảm bảo thu – chi ngân sách cân đối, đã xây dựng
được mô hình «Chính quyền đầu tư xã hội», lấy «tăng trưởng xanh» làm
trung tâm để tái cơ cấu kinh tế, duy trì vị thế cạnh tranh của đất nước sau
khủng hoảng nợ công châu Âu…

- Cấu trúc chính trị của Thụy Điển là một hệ thống đa đảng. Trong đó,
chủ yếu gồm 7 đảng là đảng cánh tả, đảng dân chủ - xã hội, đảng trung
tâm, đảng nhân dân tự do, đảng thiên chúa giáo, đảng số ít (moderate),
đảng xanh. Các đảng phái chính trị ở Thụy Điển có mối quan hệ gắn kết
với các nhóm đảng chủ chốt ở Nghị viện châu Âu (bao gồm các đảng
xã hội chủ nghĩa, dân chủ - xã hội, nhóm đảng dân chủ thiên chúa giáo
và bảo thủ, nhóm đảng tự do, đảng xã hội chủ nghĩa cánh tả). Ở Nghị
viện châu Âu, thường có hai nhóm đảng chính trị nổi bật và ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất là đảng XHCN châu Âu (gồm có đảng dân chủ - xã hội
và XHCN) và đảng nhân dân châu Âu (gồm có đảng dân chủ thiên chúa
giáo/bảo thủ). Đảng dân chủ - xã hội Thụy Điển được thành lập từ năm
1932, nắm quyền liên tục 44 năm liền, đến năm 1976 bị đảng nhân dân
thay thế một thời gian, hiện nay đảng dân chủ - xã hội Thụy Điển tiếp tục

254
cầm quyền, có ảnh hưởng rất sâu sắc tới con đường phát triển kinh tế xã
hội và xây dựng quốc gia phúc lợi Thụy Điển. Hệ thống chính trị đa đảng
ở Thụy Điển đề cao vai trò của Quốc gia pháp quyền, đảm bảo các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tam giác phát triển Quốc gia pháp quyền,
kinh tế thị trường và xã hội dân sự ở Thụy Điển được coi là hình mẫu cho
các nước trên thế giới học tập, noi theo.

- Cấu trúc hệ thống phúc lợi xã hội Thụy Điển luôn đi theo phương châm
«công bằng, hiệu quả, đảm bảo quyền lợi cho mọi người». 3 mục tiêu
của hệ thống phúc lợi xã hội luôn là: mức độ phổ quát cao, mức độ bình
đẳng cao, đảm bảo việc làm đầy đủ. Ở Thụy Điển, nguyên tắc đồng thuận,
thương lượng, hòa nhập, hài hòa giữa các lợi ích dân chủ và nghiệp đoàn
đã tạo nên nhận thức chung trong toàn xã hội. Xã hội luôn chấp nhận vai
trò quản trị của Quốc gia và sự giám sát của xã hội dân sự. Trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế hiện nay, vai trò quản lý của chính phủ là rất to lớn,
đã thích ứng nhanh về phát triển phúc lợi, vẫn duy trì cấu trúc dịch vụ cơ
bản, tạo mọi điều kiện để hòa nhập các xu hướng cải cách, nhằm nâng
cao sức cạnh tranh, hiệu quả, thiết thực, nhưng vẫn ngăn ngừa tình trạng
chia rẽ, phân cực trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị. (Đây là điểm
khác biệt so với các quốc gia khác ở châu Â, rất dễ xảy ra tách biệt giữa
chính quyền và xã hội). Thương hiệu «Mô hình Thụy Điển» với câu nói
nổi tiếng «sướng từ trong bụng mẹ cho đến khi chết» đã trở thành lừng lẫy
khắp thế giới.

3. Vai trò quản trị quốc gia ở các nước Bắc Âu


(1) Muốn phát triển xã hội hài hòa (như phân tích ở trên), chính phủ ở
các nước Bắc Âu đã đề ra nhiều đường lối, chính sách, các giải pháp hiệu
quả. Đầu tiên, cần phải dựa vào 3 trụ cột trong quá trình phát triển, đó là,
kinh tế thị trường, quốc gia pháp quyền và xã hội dân sự. 3 trụ cột này
thể hiện những thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, mang tính
phổ biến. Kinh tế thị trường ra đời và phát triển đã tạo ra những tiền đề
cần thiết và thúc đẩy nhu cầu hình thành, sự phát triển của quốc gia pháp
quyền, xã hội dân sự đã và sẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh hơn của kinh tế
thị trường. Tam giác phát triển này luôn gắn bó biện chứng và có ý nghĩa
quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại
toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ hiện nay.

Mô hình quốc gia phúc lợi Bắc Âu đề cao tính hiệu quả (efficiency), hiệu
lực (effectiveness), công bằng xã hội (social equality), tính bền vững
(sustainability). Phát triển xã hội, phát triển con người là mục đích cao

255
nhất trong quá trình phát triển. Muốn có thành quả để thực hiện phúc lợi
xã hội, nâng cao đời sống con người, thì cần phải có nhiều của cải vật
chất, và muốn có nhiều của cải vật chất cho xã hội, thì cần phải thúc đẩy
phát triển kinh tế. Điều đó lý giải tại sao nền kinh tế thị trường có vai trò
rất quan trọng trong mô hình phát triển của các nước Bắc Âu. Các nước
Bắc Âu dù có muốn thực hiện chính sách xã hội thế nào, thì vẫn phải duy
trì nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy cạnh tranh và
thúc đẩy nền kinh tế các nước phát triển. Để cho kinh tế thị trường phát
triển và phát huy hiệu quả đối với xã hội, cần phải có một nền pháp quyền
và một xã hội dân chủ. Vai trò quốc gia pháp quyền là phát huy dân chủ,
nâng cao khả năng quản lý, điều hành, tăng hiệu quả của hệ thống thể chế
trong tương quan với hoạt động của nền kinh tế thị trường, thực hiện cân
đối giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội với môi trường bền vững,
nâng cao chất lượng sống, phát triển hài hòa, thúc đẩy tính cạnh tranh,
năng động, thực hiện bình đẳng, phổ quát, việc làm đầy đủ, tôn trọng
pháp luật đất nước. Mô hình phát triển của các nước Bắc Âu, đặc biệt đề
cao vai trò của xã hội dân sự. Cốt lõi của tư tưởng về xã hội dân sự là lý
thuyết về dân chủ, quyền con người và quyền công dân, về bản chất tự
do của xã hội và của cá nhân trong mối quan hệ với chính quyền và thị
trường. Tư tưởng về xã hội dân sự thừa nhận rằng trong xã hội có một lĩnh
vực rộng lớn tự điều tiết, nơi lưu giữ cơ bản quyền và tự do cá nhân, các
kỹ năng tổ chức họat động sản xuất và đời sống xã hội dưới hình thức văn
hóa và truyền thống cộng đồng… Mỗi người cần phải được bảo vệ trước
sự vi phạm thái quá của chính quyền và thị trường. Xã hội dân sự được
hình thành trên cơ sở cân bằng giữa bộ phận quyền lực quốc gia, do người
dân ủy quyền hoặc trao quyền, với bộ phận quyền lực do dân tự mình trực
tiếp thực hiện, không thông qua chính quyền, do đó nó thể hiện sự hài hòa
giữa chính quyền và tư nhân, giữa lợi ích chung, lợi ích nhóm và lợi ích cá
nhân.

(2) Trong thời gian gần đây trong các thảo luận về sự phát triển trên thế
giới, đặc biệt là sự phát triển ở các nước Bắc Âu, người ta thường nói
nhiều đến vai trò của chính phủ trong «quản lý kinh tế tốt» và «quản lý
xã hội tốt». Đặc biệt người ta thường hay nhắc tới cụm từ «Quản trị tốt»
(Good Governance). Trong xây dựng xã hội hài hòa, chính quyền các
nước Bắc Âu luôn đề cao vai trò của chính phủ trong «quản trị tốt» đất
nước. «Quản trị tốt» là việc thực hiện quyền lực hay quyền uy về chính
trị, kinh tế, hành chính, hay các quyền lực, quyền uy khác, nhằm quản lý
các nguồn lực, các vấn đề của đất nước. Nó bao gồm các cơ chế, các quá
trình, các thể chế, và thông qua đó, các công dân và nhóm người bày tỏ lợi

256
ích của mình, thực hiện các quyền theo luật định, thực hiện trách nhiệm
của mình và dung hòa các khác biệt của mình. «Quản trị tốt» có nghĩa là
quản lý hiệu quả các nguồn lực và các vấn đề của đất nước một cách cởi
mở, minh bạch, có trách nhiệm giải trình, công bằng và đáp ứng nhu cầu
của nhân dân. Trong quản trị quốc gia ở các nước Bắc Âu vừa qua, chính
phủ các nước đã rất đề cao «quản trị tốt» đất nước. Điều đó được thể hiện
trong việc thực hiện 5 nguyên tắc chính trị của “quản trị tốt” và 4 nguyên
tắc kinh tế của «quản trị tốt».

- Các nguyên tắc chính trị của «quản trị tốt» ở các nước Bắc Âu là:
1. Quản trị tốt dựa trên sự thiết lập hình thức chính quyền có tính đại
diện và có trách nhiệm giải trình.
2. Quản trị tốt đòi hỏi một xã hội dân sự mạnh và đa nguyên nơi có
sự tự do thể hiện và tự do hiệp hội.
3. Quản trị tốt đòi hỏi việc tuân thủ pháp luật là tối cao, được duy trì
thông qua hệ thống pháp lý hiệu quả và công bằng.
4. Quản trị tốt đòi hỏi các thể chế tốt – bộ quy tắc quy định hành
động của các cá nhân và các tổ chức và sự điều phối giải quyết
các khác biệt giữa họ với nhau.
5. Quản trị tốt đòi hỏi minh bạch và trách nhiệm giải trình cao trong
các quá trình công, cũng như các quá trình của các nghiệp đoàn/tổ
chức. Cách tiếp cận có sự tham gia rộng rãi đối với việc cung cấp
dịch vụ công là rất quan trọng để các dịch vụ này có hiệu quả.

- Các nguyên tắc kinh tế của «quản trị tốt» ở các nước Bắc Âu là:
1. Quản trị tốt đòi hỏi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có
cơ sở rộng, khu vực tư nhân năng động và các chính sách xã hội
giúp cho việc xóa đói, giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế sẽ là tốt
nhất trong nền kinh tế dựa trên thị trường, cởi mở, hiệu quả.
2. Đầu tư vào con người là ưu tiên cao nhất thông qua các chính
sách và có thể giúp tăng khả năng tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức
khỏe và các dịch vụ khác là nền tảng của nguồn lực con người
trong đất nước.
3. Các thể hiện hiệu quả và quản trị nghiệp đoàn tốt là cần thiết để
hỗ trợ sự phát triển khu vực tư nhân có tính cạnh tranh cao. Đặc
biệt, để thị trường vận hành tốt, cần có các chuẩn mực xã hội tôn
trọng hợp đồng và quyền sở hữu tài sản.
4. Quản lý chu đáo nền kinh tế quốc dân có tính chất sống còn, nhằm
tối đa hóa tiến bộ về kinh tế và xã hội.

257
«Quản trị tốt» nhằm đáp ứng xây dựng xã hội hài hòa ở các nước Bắc Âu,
phải đảm bảo 4 yêu cầu tối thiểu, có liên quan mật thiết với nhau, có tính
hỗ trợ lẫn nhau, đó là:

1. Có trách nhiệm giải trình rõ ràng: quan chức quản trị quốc gia Bắc
Âu phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện các quyết định quản lý
thuộc thẩm quyền của mình trước nhân dân. Khi cần thiết họ phải
có trách nhiệm giải trình rõ ràng. Trách nhiệm giải trình rõ ràng
có nghĩa là phải có tiêu chuẩn rõ ràng để đo lường mức độ hoàn
thành nhiệm vụ, có cơ chế phản hồi ý kiến, khiếu nại cơ chế đáp
ứng nhanh chóng những khiếu nại… Trách nhiệm giải trình là yếu
tố quan trọng đem đến và duy trì sự tin tưởng vào chính quyền
của người dân. Đây là điều tối quan trọng trong quá trình xây
dựng, phát triển xã hội hài hòa.
2. Có sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan. Điều này có nghĩa
là chấp nhận sự tham gia của người dân là trọng tâm của sự phát
triển. Sự tham gia của người dân với tư cách cá nhân, nhóm, hoặc
thông qua các tổ chức xã hội dân sự. Ở cấp cơ sở, sự tham gia
rộng rãi có nghĩa là cơ chế quản trị quốc gia đã đủ mềm mỏng để
cho phép nguồn hưởng lợi và những người bị ảnh hưởng tham gia
vào việc hoàn thiện thiết kế và việc thực hiện các chương trình/
dự án phát triển công. Điều này sẽ làm tăng tính «sở hữu» các
chương trình/dự án phát triển công của nhân dân, nâng cao hiệu
quả, tính bền vững của chương trình/dự án.
3. Có tính có thể dự đoán được. Điều này có nghĩa là các ứng xử về
quản lý phải dựa trên pháp luật, chính sách, các quy định pháp
lý hiện hành và khung pháp lý này phải được thực hiện một cách
công bằng nhất quán. Cả chính quyền, các cơ quan, người dân đều
phải ứng xử theo pháp luật, không có ngoại lệ.
4. Tính minh bạch, điều này có nghĩa người dân được thông tin đầy
đủ và rõ ràng về các quy định, quyết định, chính sách, pháp luật
và việc thực hiện những quy định, quyết định, chính sách, pháp
luật này. Tính minh bạch là điều kiện tiên quyết giúp giảm thiểu
tham nhũng, lạm dụng quyền lực, nâng cao hiệu quả quản trị quốc
gia.

Đặc biệt gần đây, khi lý giải về những nguyên nhân thành công trong phát
triển xã hội hài hòa ở Bắc Âu, giới nghiên cứu ở Bắc Âu thường nhắc đến
khái niệm xây dựng «chính phủ kiến tạo». Nội dung của «chính phủ kiến
tạo» ở các nước Bắc Âu tập trung vào việc đẩy mạnh quản trị quốc gia

258
theo hướng hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, hành lang pháp lý theo
hướng cắt giảm rào cản, tháo gỡ khó khăn cho người dân, cải thiện môi
trường đầu tư, chuyển mạnh từ «chính phủ quản lý» sang «chính phủ phục
vụ người dân và doanh nghiệp», xây dựng «chính phủ liêm chính», thực
hiện «quản trị tốt» bộ máy chính quyền các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa… đất nước.

4. Những gợi mở cho Việt Nam


Từ những kinh nghiệm quản trị quốc gia nhằm đáp ứng những yêu cầu
phát triển hài hòa của các nước Bắc Âu vừa qua, có thể gợi mở những
kinh nghiệm sau cho Việt Nam.

1. Chính quyền giữ vai trò chủ thể phát triển xã hội, với tư cách là chủ thể
chính trị, chính quyền xây dựng chiến lược phát triển, thông qua hệ thống
thể chế, chính sách, cơ chế tạo động lực cho phát triển xã hội, tạo ra sự hài
hòa trong phát triển giữa cá nhân và cộng đồng, phát triển toàn diện các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…

2. Chính quyền quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật phải được chấp
hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật… mọi vi
phạm pháp luật đều phải được xử lý.

3. Phát huy vai trò và sự chủ động tham gia của người dân, các tổ chức xã
hội trong quá trình quản trị quốc gia, xã hội trong mọi mặt đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đất nước.

4. Xây dựng, kiện toàn, cải cách thể chế, cơ chế chính sách, hành lang
pháp lý theo hướng cắt giảm rào cản, tháo gỡ khó khăn cho người dân,
chuyển từ «chính phủ quản lý» sang «chính phủ phục vụ người dân và
doanh nghiệp», xây dựng «chính phủ liêm chính», đề cao mức độ minh
bạch, trách nhiệm giải trình, đề cao tư tưởng đạo đức trong quản lý các
vấn đề của chính quyền.

5. Tổ chức chính quyền phải được thay đổi từ chỗ qui mô cồng kềnh, quản
lý mọi lĩnh vực, mọi cấp, ôm đồm mọi dịch vụ hành chính, kém hiệu quả,
sang hình thức quốc gia có bộ máy tinh gọn, quản lý có chọn lọc các lĩnh
vực của đời sống xã hội, phân cấp, trao quyền, xã hội hóa có chọn lọc
nhiều lĩnh vực quản lý và cung cấp dịch vụ công, thúc đẩy dân chủ cơ sở
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản trị quốc gia và các dịch vụ
hành chính công…

259
6. Thúc đẩy phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, phát triển
toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng, xã hội, tạo
nhiều việc làm, cải thiện đời sống, xây dựng chính sách xã hội đúng đắn,
công bằng vì con người, xây dựng môi trường xanh, sạch, phục vụ con
người, xây dựng hệ thống an sinh xã hội có tính chia sẻ giữa chính quyền,
xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các
thế hệ, trong đó chính quyền giữ vững vai trò chủ đạo.

MÔ HÌNH NƯỚC CÔNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC


Theo nguồn: Kinh Tế và Dự Báo, kinhtevadubao.vn (1/2018) về Lựa chọn
thể chế: Nước CHLB Đức được xây dựng dựa trên kinh nghiệm thực tế
của bản thân nước Đức (Cộng hòa Weimar) và các nước khác, cũng như
các nghiên cứu khoa học và đã được kiểm chứng thực tế qua 60 năm phát
triển. Từ một đất nước bị chia cắt, kinh tế hoàn toàn sụp đổ sau thất bại
trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, CHLB Đức đã vươn lên một cách
mạnh mẽ, thống nhất hòa bình, trở thành nền kinh tế hùng mạnh nhất châu
Âu và một nước uy tín trên thế giới. Đó là nhờ đáp ứng được 5 yếu tố của
một chế độ chính trị tốt:
(1) Ngăn ngừa hình thành chế độ độc tài,
(2) Ngăn ngừa đảo chính,
(3) Bảo đảm chính quyền ổn định và làm được việc,
(4) Ngăn cản việc thực thi các chính sách tồi và
(5) Kéo dài sự cầm quyền của một chính phủ thành công.

Như đa số các nước trên thế giới, mô hình nước Đức theo chế độ nghị
viện - liên bang.  Chế độ này có ưu điểm về cân bằng chính trị và do đó
tạo ra sự ổn định nhờ khả năng chia sẻ và kiểm soát quyền lợi và quyền
lực giữa các nhóm chính trị có ảnh hưởng, khi các bên cần thỏa hiệp với
nhau. Hệ thống liên bang giúp giảm thiểu các xung đột về quyền lợi chính
trị. Thất bại trong cuộc bầu cử giành chính quyền trung ương không phải
là mất tất cả, bởi các đảng phái hay cá nhân có thể tranh cử để dành vị trí
xứng đáng ở chính quyền cấp bang. Tham gia chính quyền cấp bang là cơ
hội để các nhà chính trị tích lũy kinh nghiệm, trở thành lãnh đạo quốc gia
sau này.

Hệ thống chính trị Đức dựa trên nguyên tắc cân bằng quyền lực và có
kiểm soát, được thiết kế để các đảng quá nhỏ không thể tham gia chính
quyền gây mất ổn định chính trị, nhưng cũng không để cho một đảng nào
dễ dàng chiếm đa số trong hạ nghị viện dẫn đến khuynh loát chính quyền
(buộc phải liên minh với một hay một vài đảng khác để thành lập chính

260
phủ). Các đảng chỉ được chia ghế trong hạ nghị viện nếu giành được ít
nhất 3 ghế tại 3 khu vực bầu cử địa phương hoặc giành được nhiều hơn
5% tổng số phiếu bầu theo tỷ lệ trên phạm vi toàn quốc. Nhờ đó, các đảng
dung hòa được sự chống đối, hình thành nên cơ chế đồng thuận, xử sự
ôn hòa và giúp ngăn ngừa các chính sách tồi được thực thi. Kết quả là hệ
thống chính trị Đức đảm bảo dân chủ nhưng vẫn tập trung mà không độc
đoán.

Sự cân bằng chính trị ở Đức được thiết lập cả theo chiều ngang và theo
chiều dọc. Theo chiều ngang, đó là nhờ chế độ nghị viện với chính quyền
được chia làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp để không một cơ
quan nào được duy nhất nắm giữ quyền lực, điều cần thiết để tránh dẫn
đến mất ổn định và độc tài. Cân bằng theo chiều dọc đạt được nhờ cơ chế
chính quyền liên bang và cơ quan đại diện của địa phương tại quốc hội
liên bang là thượng nghị viện. 

Lập pháp
Hiến pháp Đức không khẳng định quốc hội là cơ quan quyền lực quốc gia
cao nhất mà tuyên bố rằng: hệ thống lập pháp bị ràng buộc bởi hiến pháp,
còn hành pháp và tư pháp bị ràng buộc theo luật pháp và công lý. Quốc
hội liên bang gồm hạ nghị viện và thượng nghị viện. Cụ thể:

Hạ nghị viện là cơ quan quyền lực nhất trong thể chế nghị viện-liên bang.
- Bầu cử: Cách tổ chức bầu cử quyết định chất lượng ứng cử viên và đại
biểu quốc hội và do đó là bộ máy chính quyền. Đức kết hợp hai phương
pháp bầu người đại diện vào cơ quan quyền lực: bầu cá nhân theo đa số
phiếu và bầu cho đảng phái theo tỷ lệ phiếu. Nhờ vậy, cử tri được lựa chọn
bầu một người tín nhiệm nhất và một đảng tín nhiệm nhất.

Về danh nghĩa, hạ nghị viện Đức có 598 ghế (đây là số lượng để tổ chức
bầu cử, sau khi bầu có thể nhiều hơn), nhiệm kỳ 4 năm. Một nửa số thành
viên của hạ nghị viện được bầu chọn trực tiếp từ 299 đơn vị bầu cử theo
phương pháp bầu cử đại diện theo đa số. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu một
ghế đại diện. Trong số các cá nhân do các đảng giới thiệu và ứng cử viên
độc lập, ai giành được nhiều phiếu nhất sẽ trúng cử tại khu vực bầu cử.

Một nửa số thành viên còn lại của hạ nghị viện được bầu chọn theo
phương pháp tỷ lệ thông qua 16 đơn vị bầu cử. Mỗi bang là một đơn vị
bầu cử được phân phối số lượng ghế tỷ lệ với dân số của bang. Mỗi đảng
có một danh sách các ứng cử viên của mình cho một đơn vị bầu cử, xếp

261
thứ tự từ cao đến thấp (không theo bảng chữ cái). Số ghế mà một đảng
nhận được tại đơn vị bầu cử sẽ tỷ lệ với số phiếu mà đảng nhận được tại
đơn vị bầu cử này. Sau khi nhận được ghế, đảng sẽ chia lại cho các ứng
viên theo đúng thứ tự trên danh sách bầu cử.
- Các cơ quan của hạ nghị viện: Chủ tịch hạ nghị viện thường là thành
viên của đảng giữ nhiều ghế nhất trong hạ nghị viện. Mỗi đảng trong hạ
nghị viện được cử một phó chủ tịch, kể cả đảng đã cử chủ tịch (hiện có 6
phó chủ tịch).

(1) Hội đồng bô lão gồm chủ tịch hạ nghị viện, các phó chủ tịch hạ nghị
viện và 23 dân biểu của hạ nghị viện do các đảng bổ nhiệm với số lượng
tỷ lệ với sự hiện diện trong hạ nghị viện. Hội đồng quyết định chương
trình làm việc của hạ nghị viện và giúp đạt được thỏa thuận giữa các đảng
đoàn (gồm các thành viên thuộc một đảng hoặc liên minh các đảng tại hạ
nghị viện);

(2) Đoàn chủ tịch là cơ quan thường trực của hạ nghị viện, gồm chủ tịch
và các phó chủ tịch hạ nghị viện, họp hàng tuần để điều hành hoạt động
nội bộ hạ nghị viện.

(3) Các ủy ban: Số lượng ủy ban có thể thay đổi theo nhiệm kỳ quốc hội
(hiện là 22). Số vị trí chủ tịch ủy ban và số thành viên theo tỷ lệ hiện diện
của đảng tại quốc hội. Ngoài các ủy ban tương ứng với các bộ trong nội
các, còn có các ủy ban về những lĩnh vực khác. Đó là Ủy ban Ngân sách
(cùng với Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính tương ứng với Bộ Kinh tế -
Sáng tạo và Bộ Tài chính), Ủy ban Văn hóa và Truyền thông, Ủy ban Thể
dục Thể thao, Ủy ban Du lịch, Ủy ban về Các vấn đề pháp lý và Bảo vệ
người tiêu dùng,Ủy ban Dân nguyện, Ủy ban Bầu cử, Miễn nhiệm và Quy
tắc thủ tục, Ủy ban về Liên minh châu Âu, Ủy ban về Nhân quyền và Viện
trợ nhân đạo.

Thượng nghị viện: có 69 ghế.


Khác với Mỹ (do dân chúng bầu), Anh (quý tộc được phong-tức là bổ
nhiệm), ở Đức các chính phủ cấp bang bổ nhiệm thành viên nội các của
mình làm thượng nghị sĩ đại diện cho bang tại liên bang. Mỗi bang có từ
3-6 phiếu, tùy theo số dân, nhưng chỉ được có một ý kiến duy nhất; Ý kiến
khác là không hợp lệ. Thượng nghị viện là diễn đàn quốc gia để phối hợp
việc thực thi chính sách giữa chính quyền liên bang với các chính quyền
bang và giữa các chính quyền bang. Thượng nghị viện bầu 1 chủ tịch và 2
phó chủ tịch, nhiệm kỳ 1 năm.

262
Quốc hội và tài chính của đảng phái
Chế độ tài chính của đảng phái được quy định trong Hiến pháp và Luật
Các đảng phái chính trị. Các đảng có nguồn thu nhập chính gồm hỗ trợ từ
ngân sách quốc gia và đảng phí (mỗi nguồn này đem lại khoảng 1/3 tổng
thu nhập). Phần còn lại là đóng góp của những đảng viên giữ chức vụ
trong chính quyền, huy động từ cá nhân ngoài đảng, các doanh nghiệp và
từ hoạt động kinh doanh.

Tháng 10 hàng năm, các đảng phái chính trị đệ trình báo cáo tài chính
năm trước đó cho chủ tịch hạ nghị viện liên bang và đăng tại trang web
của quốc hội. Số liệu báo cáo gồm toàn bộ hệ thống đảng (trụ sở chính,
chi nhánh khu vực và các địa phương), phản ánh thu nhập và chi tiêu,
tài sản nợ và tài sản có, cũng như danh tính của các nhà tài trợ (cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức) đã đóng góp tổng số tiền từ 10.000 Euro/năm. Báo
cáo tài chính của đảng không bao gồm kinh phí ngân sách cho các đảng
đoàn tại nghị viện liên bang và bang, cho các cơ quan chính trị của đảng.

- Hỗ trợ ngân sách trực tiếp: Các đảng được 0,5% tổng số phiếu bầu quốc
hội liên bang và châu Âu, hoặc 1% tổng số phiếu bầu nghị viện tại một
trong 16 bang thì được ngân sách hỗ trợ. Có hai loại hỗ trợ: (1) Mỗi phiếu
đảng nhận được trong cuộc bầu cử gần nhất cấp bang, liên bang và châu
Âu thì được ngân sách cấp 83 xu (nếu được hơn 4 triệu phiếu thì được 1
Euro/ phiếu); (2) Mỗi 1 Euro huy động nhỏ lẻ (dưới 3.300 Euro/năm từ
một cá nhân) trong năm trước năm ngân sách, thì được cấp 45 xu. Hỗ trợ
ngân sách trực tiếp không được vượt quá tổng số tiền mà đảng thu được từ
nguồn “tự huy động”, tức là các nguồn tư nhân từ đảng viên và các nhà tài
trợ khác. Hỗ trợ ngân sách được điều chỉnh hàng năm dựa trên chỉ số thay
đổi giá chi tiêu cho đảng, được tính theo chỉ số giá tiêu dùng (70%) và
thay đổi tiền lương công chức ở địa phương (30%).

- Hỗ trợ ngân sách gián tiếp gồm: (1) Đóng góp tự nguyện của những
đảng viên giữ chức vụ trong chính quyền các cấp; (2) Ngân sách cấp cho
các đảng đoàn tại nghị viện; (3) Hỗ trợ cho cơ quan chính trị thuộc đảng.
Mỗi đảng có thể có một cơ quan chính trị để phục vụ cho các nhiệm vụ
của đảng ở trong và ngoài nước, như: thông tin, tuyên truyền về mục tiêu,
lý tưởng của đảng, nghiên cứu khoa học, đào tạo kỹ năng, cấp học bổng,
tư vấn về chính trị… Nguồn lấy từ các bộ liên bang (Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại
giao, Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu); (4)
Giảm thuế: số tiền đóng góp nhỏ và vừa (bao gồm đảng phí, đóng góp
của cá nhân ngoài đảng và của đảng viên nắm giữ chức vụ) được trừ 50%

263
thu nhập chịu thuế (có quy định số tiền thuế tối đa được trừ); (5) Trong
đợt bầu cử được phát sóng miễn phí trên đài phát thanh và TV của quốc
gia, bảng quảng cáo do chính quyền thành phố chi trả. 

Có quy định cấm nhận đóng góp từ người nước ngoài, đóng góp vô danh
và từ tiền tham nhũng. Ngoài ra còn có hai điều cấm đặc biệt của Đức: các
đảng không được phép nhận bất kỳ khoản tiền nào từ các đảng đoàn tại
nghị viện và từ cơ quan chính trị thuộc đảng. Không có giới hạn về đóng
góp hoặc chi tiêu. Các khoản chi chính gồm: chi cho chiến dịch bầu cử,
chi hoạt động chính trị chung, chi hoạt động thường xuyên, chi lương và
trợ cấp cho cán bộ nhân viên và chi khác.

Hành pháp
Lãnh đạo hành pháp gồm thủ tướng và tổng thống với quyền lực tập trung
vào thủ tướng.
Thủ tướng do hạ nghị viện bầu theo đề nghị của tổng thống, nhiệm kỳ 4
năm, không giới hạn số nhiệm kỳ. Người đứng đầu đảng đa số trong quốc
hội hoặc liên minh đảng thắng cử thường được đề cử giữ chức thủ tướng.
Thủ tướng được quyền quyết định số bộ trưởng và nhiệm vụ của họ, đề
cử bổ nhiệm và miễn nhiệm bộ trưởng. Thủ tướng đề nghị tổng thống phê
chuẩn bộ trưởng, không qua quốc hội.

Thủ tướng một mình chịu trách nhiệm về chính sách của chính phủ liên
bang, không chia sẻ trách nhiệm và quyền lực với các bộ trưởng. Các
bộ trưởng phải chấp hành chính sách của quốc gia do thủ tướng đưa ra.
Nhưng bộ trưởng được đề xuất chính sách để văn phòng thủ tướng tổng
hợp trình thủ tướng quyết định; được toàn quyền quyết định tổ chức công
việc của bộ. Nội các chịu trách nhiệm xử lý khi có xung đột nảy sinh giữa
các bộ trưởng.

Việc phân công nhiệm vụ giữa các bộ theo nguyên tắc quản lý đa ngành,
đa chức năng. Khác với cơ quan lập pháp mang tính đại diện nên có thể
có nhiều phó, lãnh đạo cơ quan hành pháp chỉ có 1 trưởng và 1 phó (là
trưởng của 1 bộ phận).

Nội các gồm 16 thành viên, đứng đầu là Thủ tướng, 1 phó thủ tướng kiêm
bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghệ. Ngoài ra có 14 bộ trưởng: Bộ Ngoại
giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động và Xã hội, Bộ
Lương thực, Nông nghiệp và Bảo vệ người tiêu dùng, Bộ Quốc phòng, Bộ
Gia đình, Người cao tuổi, Phụ nữ và Thanh niên, Bộ Y tế, Bộ Giao thông,

264
Xây dựng và Phát triển đô thị, Bộ Môi trường, Bảo vệ thiên nhiên và An
toàn hạt nhân, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu, Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh
tế, Bộ Các vấn đề đặc biệt = Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.

Tổng thống là nguyên thủ quốc gia. Tổng thống thực hiện nhiều nhiệm
vụ mang tính lễ nghi, nhiệm kỳ 5 năm, tối đa hai nhiệm kỳ. Tổng thống
thường được chọn từ các lãnh đạo lão thành của đảng lớn nhất trong hạ
nghị viện và được bầu trong Hội nghị Liên bang gồm dân biểu của hạ
nghị viện liên bang và các bang. Tất cả các dân biểu liên bang chiếm một
nửa số thành viên trong Hội nghị Liên bang; nửa còn lại là các thành viên
được chọn lựa bởi các bang với số lượng theo tỷ lệ tương ứng với dân số
của bang.

Nhiệm vụ chủ yếu của tổng thống là bảo đảm sự đoàn kết và ổn định của
quốc gia; thực hiện các hoạt động chính trị mang tính biểu tượng như phê
chuẩn các tướng lĩnh quân đội và quan chức chính phủ, các hoạt động
ngoại giao nghi lễ quốc gia, ký các hiệp ước quốc tế và công bố ban hành
luật, đề cử để hạ nghị viện bầu thủ tướng và phê chuẩn sau khi nhận được
đa số ủng hộ; phê chuẩn thành viên nội các theo đề nghị của thủ tướng.

Liên bang
Mô hình này có khả năng bảo vệ chính quyền, chống đảo chính tốt hơn so
với chính quyền tập trung đơn nhất: lực lượng đảo chính kiểm soát chính
quyền có nhiều trung tâm trên khắp cả nước thì khó hơn chính quyền tập
trung.

Phân cấp hành chính và lập pháp: nguyên tắc phân cấp là chính quyền liên
bang chỉ được thực thi các quyền mà hiến pháp và luật pháp quy định.
Ngược lại, chính quyền bang có toàn quyền đối với tất cả các lĩnh vực còn
lại trong phạm vi bang của mình.

Sự phân bổ quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền liên bang và chính
quyền bang phụ thuộc vào bối cảnh chính trị và thay đổi theo thời gian.
Hiện nay chính quyền liên bang hoàn toàn giữ thẩm quyền lập pháp ở các
lĩnh vực liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hay các lĩnh vực
mà ở đó phạm vi và ảnh hưởng mang tính toàn quốc, vượt quá khả năng
quản lý của một chính quyền bang riêng biệt.

265
Luật liên bang theo mặc định có giá trị pháp lý đứng trên luật bang, trừ
trường hợp đặc biệt luật có quy định khác. Nếu liên bang chưa ban hành
luật thì bang có quyền đưa ra luật của mình.

Hiến pháp cho phép chính quyền bang có quyền đưa ra các đạo luật ngược
lại với các đạo luật của chính quyền liên bang trong một số lĩnh vực cụ
thể, ví dụ như săn bắn, bảo vệ thắng cảnh, thiên nhiên, phân bố đất đai,
quy hoạch vùng... Đạo luật được thông qua sau sẽ có hiệu lực cao hơn.

Chính quyền bang: Đức có 16 bang, bang ít dân nhất có 600.000 người,
bang lớn nhất có 18 triệu dân. Cấu trúc chính quyền bang mô phỏng cấu
trúc của liên bang nhưng quốc hội bang chỉ có 1 viện, có chính quyền và
tòa án hiến pháp bang. Mỗi bang có luật bầu cử quốc hội riêng, phương
thức bầu cử tương tự như hạ nghị viện cấp liên bang hoặc đơn giản hơn.
Việc bầu cử được tổ chức riêng cho liên bang và bang. Ngày bầu cử của
quốc hội cấp bang cũng khác nhau giữa các bang. Quốc hội bang bầu ra
một thủ hiến là người đứng đầu chính quyền bang, thường là lãnh đạo
đảng hoặc liên minh các đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội bang. Thủ
hiến chọn thành viên nội các bang.

Phân cấp tài chính-ngân sách: Đức có cơ chế liên bang hỗ trợ cho các
bang, các bang hỗ trợ cho một số bang và cơ chế liên bang ủy thác cho
bang. Thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế doanh
thu (tương tự thuế VAT) đều được phân chia giữa liên bang và bang theo
tỷ lệ cố định 50-50. Liên bang và các bang sẽ chia sẻ với nhau trách nhiệm
gánh vác các chi phí phát sinh khi vi phạm các điều luật quốc tế theo tỷ lệ
15-85. Bang gây ra lỗi chịu 50%, toàn bộ các bang còn lại chịu 35%. Liên
bang có toàn quyền lập pháp đối với thuế hải quan và các độc quyền tài
chính và có thẩm quyền lập pháp song trùng đối với các sắc thuế đem lại
nguồn thu cho bang. 

Tư pháp
Hệ thống tư pháp của Đức theo một cấu trúc đơn nhất, được chia thành
7 nhánh, gồm có: hiến pháp, phổ thông, hành chính, tài chính, lao động,
xã hội và luật về bản quyền. Các nhánh tư pháp này hoạt động độc lập và
song song với nhau, đứng đầu mỗi nhánh là một tòa án liên bang tối cao
phụ trách lĩnh vực của mình.

Tòa án Hiến pháp Liên bang chịu trách nhiệm giám sát và kiểm soát hệ
thống chính trị dân chủ nhằm bảo đảm việc tuân thủ hiến pháp. Mỗi bang

266
sẽ có một tòa án hiến pháp riêng. Tòa án Hiến pháp Liên bang là tòa án
hiến pháp tối cao của quốc gia, không đóng vai trò là tòa án phúc thẩm
cao nhất. Nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp Liên bang gồm: bảo vệ hiến
pháp và trật tự dân chủ; kiểm soát các tác nhân chính trị; cấm một số đảng
chính trị cực đoan hoặc xem xét các dự luật liên quan đến chiến dịch vận
động tài chính của các đảng chính trị; xét lại tính hợp hiến của các đạo
luật và phủ quyết nếu cần; phân giải các xung đột giữa các cấp của chính
quyền; kiềm chế việc lạm quyền của các thẩm phán.

Các tòa án khác: Tòa án phổ thông là nhánh lớn nhất để giải quyết các
án dân sự và hình sự. Hệ thống tòa án phổ thông chia làm 4 bậc. Các tòa
án địa phương tiếp nhận các vụ kiện nhỏ về dân sự và hình sự, kiêm các
chức năng pháp lý thông thường như chứng thực. Bậc kế tiếp là các tòa án
vùng, được chia làm hai nhánh riêng biệt: dân sự và hình sự. Các tòa án
vùng vừa khởi xử các án trọng điểm về dân sự và hình sự, vừa là tòa án
phúc thẩm đối với các phán quyết bởi các tòa án địa phương. Bậc thứ ba
là các tòa án phúc thẩm cấp bang, với hai nhánh dân sự và hình sự. Đứng
đầu là Tòa án Tư pháp Liên bang, là tòa án tối cao giữ vai trò phúc thẩm
đối với tất cả các án khởi xử từ các tòa án cấp vùng và cấp bang.

Hệ thống tòa án hành chính, lao động và xã hội gồm có các tòa án địa
phương, các tòa án cấp cao hơn, và đứng đầu tương ứng bởi tòa án liên
bang. Hệ thống tòa án tài chính được chia làm hai bậc, đứng đầu bởi Tòa
án Tài chính Liên bang, chịu trách nhiệm phân xử các án liên quan đến
thuế. Tòa án Bản quyền Liên bang là duy nhất và tối cao.

Về mặt hành chính, các tòa án thuộc bang do các bộ tư pháp bang quản
lý. Các tòa án liên bang do các bộ có thẩm quyền tương ứng trong chính
quyền liên bang quản lý. Các cơ quan quản lý các tòa án đồng thời sẽ quản
lý ngân sách chi tiêu của các tòa án. Ngoại lệ là Tòa án Hiến pháp được
quyền tự đề xuất dự toán kinh phí hoạt động và nhận phê chuẩn từ chính
quyền.

Một Tòa Chung của 5 tòa án tối cao: Tư pháp, Hành chính, Tài chính, Lao
động và Xã hội được lập ra nhằm đảm bảo tính đồng nhất trong các phán
quyết của hệ thống tư pháp.

267
KHẢ NĂNG THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM

Như nhiều nhà nghiên cứu kinh tế - xã hội - chính trị tại Việt Nam nhận
định, mô hình tổ chức quốc gia ở Đức và các nước ở Tây - Bắc Âu và
Đông Bắc Á, thì có một khác biệt căn bản so với Việt Nam là hiến pháp
của các quốc gia này công nhận nhiều đảng phái, trong khi Việt Nam chỉ
có một đảng cầm quyền duy nhất.

Để có khả năng thực hiện các mô hình kinh tế - xã hội - chính trị thành
công nói trên và khả năng áp dụng ở Việt Nam, Hiến pháp 2021 quy định
và gợi mở các giải pháp cần thiết cho một hệ thống quản trị quốc gia, dựa
trên một sự quyết tâm của nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Điều quan tâm nhất và quan trọng nhất là Việt Nam phải xây dựng một cơ
chế đa đảng để tạo điều kiện và khả năng thiết lập một mô hình chính trị
tuyệt vời đã thành công trên thế giới. Cách thực tế nhất là bên cạnh các cơ
quan và tổ chức xã hội dân sự, Mặt trận tổ quốc có thể đóng một vai trò
quan trọng trong việc xúc tiến trợ giúp ĐCSVN tách ra thành nhiều đảng
phái bao gồm các hệ tư tưởng chính trị, cánh tả-cánh hữu trong mô hình
xã hội dân chủ (tham khảo đề xuất của Quochoivn.org - Trung tâm thành
lập QHVNDC), tổ chức thực hiện cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia vào tháng
5/2021 trên cơ sở tự do, dân chủ, đa đảng, công bằng tranh cử và bầu cử,
theo quy định của Hiến pháp 2021.

Để chúng ta có thể thấy một mô hình tốt nhất thành hiện thực, phù hợp
và khả năng áp dụng ở Việt Nam, sau đây là các giải pháp được quy định
thành lập trong Hiến pháp 2021:

CHƯƠNG III: QUỐC HỘI (§§ 60-92)


Mục I. Quốc hội lưỡng viện (§§ 60-74)
Mục II. Tiến trình lập pháp (§§ 75-87)
Mục III. Ủy ban chuyên môn và Hội đồng bổ trợ (§§ 88-92)
CHƯƠNG IV: TỔNG THỐNG (§§ 93-100)
CHƯƠNG V: CHÍNH PHỦ (§§ 101-110)
Mục I. Hội đồng Chính phủ (§§ 101-108)
Mục II. Cơ quan hành chính (§§ 109-110)
CHƯƠNG VI: TÒA ÁN (§§ 111-123)
Mục I. Tổ chức Tư pháp (§§ 111-120)
Mục II. Nguồn luật. Cơ quan chuyên ngành (§§ 121-123)

268
CHƯƠNG VII: TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG (§§ 124-137)
CHƯƠNG VIII: BẦU CỬ (§§ 138-146)
CHƯƠNG IX: TÀI CHÍNH (§§ 147-159)
CHƯƠNG X: BẢO HIẾN (§§ 160-162)
Mục I. Tòa án Hiến pháp (§§ 160-161)
Mục II. Sửa đổi Hiến pháp (§ 162)
PHỤ LỤC: CÁC QUY ĐỊNH CHUYỂN TIẾP (§§ 163-192)
Quy định đặc biệt về cuộc Tổng tuyển cử Quốc gia vào tháng 5/2021 và
các bước chuyển đổi thế chế (§§ 163-192). Đây là các bước chuyển tiếp
để thành lập trong tương lai căn cứ theo Hiến pháp 2021 đã được xây
dựng.

269
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Báo cáo của Liên Hiệp Quốc


Báo cáo của một số cơ quan nghiên cứu Na Uy
Báo cáo nghiên cứu của một số quốc gia
Báo chí điện tử toàn cầu
Cơ chế chính trị của một số nước Bắc Âu
Cơ chế chính trị của một số quốc gia
Cơ chế chính trị của Việt Nam
Giáo trình của một số trường đại học Na Uy
Hiến pháp Cộng hòa Ba Lan
Hiến pháp Cộng hòa Hàn quốc
Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức
Hiến pháp Cộng hòa Pháp
Hiến pháp Cộng hòa Ý
Hiến pháp Nhật Bản
Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
Hiến pháp Vương quốc Đan Mạch
Hiến pháp Vương quốc Na Uy
Tác phẩm: ABC VỀ HIẾN PHÁP của nhóm giảng viên của khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, phiên bản điện tử
Tác phẩm: BÁO CÁO NGHIÊN CỨU: Khảo sát định hướng chính sách
và phát triển qua các Hiến pháp Việt Nam và gợi ý về các hoạt động của
Viện Rosa Luxemburg tại Việt Nam trong giai đoạn 2015-2020, phiên bản
điện tử
Thông tin và báo cáo của Việt Nam
Từ điển Bách khoa một số quốc gia
Từ điển Bách khoa Na Uy
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước và một số hiệp định Quốc tế

-------------------------------------------

QUOCHOIVN.ORG
Trung tâm thành lập QUỐC HỘI - VIỆT NAM DÂN CHỦ
Oslo, Na Uy
Email: quochoivn.org@gmail.com

CHỊU TRÁCH NHIỆM: Nguyễn Kim Oanh

270
Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế:
Thư viện Quốc gia Na Uy
ISBN: 978-82-692223 - Mã số chính của bộ sách Hiến Pháp Việt Nam,
phát hành tại Na Uy.

HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2021


Khổ sách: 14,5cm x 22,5cm, và dạng eBook được phát hành tại trang điện
tử QUOCHOIVN.ORG
BIÊN SOẠN/XUẤT BẢN: Nguyễn Kim Oanh
THIẾT KẾ: Interface Media AS

Giải trình HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2021


Luật Cơ bản lâm thời - Đề xuất thay thế - Hiến Pháp Việt Nam 2013
Khổ sách: 16cm x 24cm, và dạng eBook được phát hành tại trang điện tử
QUOCHOIVN.ORG
BIÊN SOẠN/XUẤT BẢN: Nguyễn Kim Oanh
HIỆU ĐÍNH: Mạnh Hùng
THIẾT KẾ: Interface Media AS

Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC


Pháp lệnh bầu cử 2019/QHVNDC (Luật Bầu cử) được phát hành theo
dạng eBook tại trang điện tử QUOCHOIVN.ORG
BIÊN SOẠN/XUẤT BẢN: Nguyễn Kim Oanh
THIẾT KẾ: Interface Media AS

Na Uy, 12/2020
GIẢI TRÌNH

HIEN PHÁP
VIÊT NAM
Ngày 10 tháng 3 năm 2021
Luật Cơ bản lâm thời – Đề xuất thay thế
Hiến Pháp Việt Nam 2013

ISBN
ISBN978-82-692223-5-7
978-82-692223-3-3

9 788269 222357

You might also like