Professional Documents
Culture Documents
Ký (Tập 1)
Ký (Tập 1)
KÝ
ISBN: 978-1986667012
Nguyễn Tất Nhiên, chiếc quần mới và bữa thịt chó cuối ă ũ ............ 71
Thái bắt đầu cuộ phi lư từ thuở hưa đến tuổi hai
ươi, ỗi ướ đi a h a g theo gọn lửa của lý tưởng của
thươ g y . Ngọn lửa đã theo Thái đi ố phươ g tám
hướng, từ Việt Nam qua Mỹ, rồi sang Âu sang Á, đi ò g hết
tinh cầ , đi từ những vùng sáng tự do đến những góc tối đe
tù ngục. Chính ngọn lửa đó đã khơi l tì h ằng hữu giữa
nhữ g gười khác chủng tộc, hoặc không cùng thế hệ, giữa
nhữ g gười đã có lần thuộc về hai bờ bến khác nhau của
dòng Bến Hải; ngọn lửa ó g đủ để làm tan chảy giá ă g
cách biệt và nối kết những tâ tư ó ù g h g ẫu số. Và
t i ũ g iết Đi h Q a g A h Thái, để hình dung ra gã trung
niên giang hồ phiêu lãng sẽ vẫn còn tiếp tục cuộc viễn du,
vang vang lời hát:
xươ g
tàn, núi rừ g ươ ắ g… ”
Qua các sinh họat đấu tranh của anh và các bạ đồng chí
hướ g được ghi lại trong cuố Ký, t i đã đượ “gặp và sinh
hoạt” ới một Trầ Vă Bá của Tổng Hội Sinh Viên Viêt Nam
tại Paris mà tôi rất gưỡng mộ; gặp Đỗ Ngọ , Hoài Hươ g,
Hồ Huy và các sinh viên, công nhâ Đ g Âu tra h đấu cho
một Việt Nam dân chủ, tự do. T i ò được biết một Đoà Kế
Tường, một Bùi Bảo Trúc, một Đỗ Ngọc Yến, một Nguyễn
Ngọc Bích và rất nhiề ĩ ph Việt Nam khá đã hết lòng với
q hươ g dân tộc mà lòng tôi luôn luôn kính phục.
Riêng cá nhân tôi, với ước vọ g được nhìn thấy một quê
hươ g Việt Na a ì h, gười gười hạnh phúc, tôi trân
trọng cá ơ Đi h Q a g A h Thái đã ho t i được chia sẻ
những kinh nghiệm dấn thân của a h tro g hơ 40 ă q a
cho quê hươ g thân yêu của chúng ta. ~ Đăng Khánh
Đ i h Q a g A h Thái đượ dư l ậ
ố ố g ở hiề lã h ự khá
tù đầy khi ò rất trẻ do hữ g hoạt độ g
tả là rất giầ
ha : Từ ki h ghiệ
a g tí h hố g
ó
Có dễ ì Đi h Q a g A h Thái từ g “ eo” i h ạ g ì hở
hữ g “ ờ ế i h tử” thời ự khá ha , “Ký” ủa g
đã đượ hào đó ới hiề ti ậy, thiệ ả , giữa ả h
“ hợ hiề ” ủa i h hoạt hữ, ghĩa gày ột th lạ h,
hạt, o ụ … ~ Du Tử Lê
Đ ây là
gồ
ột
hiề
ố á h ới hiề ẩ h yệ thú ị, ao
hủ đề ì tá giả là gười đi hiề , q e
hiề , à ố g rất hiề . Đọ để trải ghiệ ề ột ướ
iết
ốt hữ g
ộ hà h trì h, trở thà h hữ g ả g lị h ử ố g đượ
ghi ào tra g giấy. Mai ày, ế ó ai ố tì lại hì h ả h
hữ g hâ ật, hữ g ộ g đồ g, hữ g â h yệ tra h
đấ Việt ù g khắp ă hâ , ố Ký ày ó lẽ là ột tro g
hữ g ố á h gối đầ . Hiệ tại, theo lời tá giả, Ký ó
đượ là hờ hữ g đ tỉ h giấ hơi ơi... ~ Hòa Bình
H
lại
ồi làm ở nhật báo Người Việt, t i thường bị anh rầy,
thậm chí kỷ luật. Như g là ao khi a h kỷ luật ai đó,
a g đến cho họ cảm nhận của sự quan tâm ân cần.
Những bài ký của a h ũ g ậy, khi kể về mỗi sự kiện-nhân
vật, đã thực tả không nhâ hượng ngay khi phải đề cập đến
nhữ g "tí h hư, tật xấ ", hư g q a đó gười đọc dễ nhận ra
sự tinh tế trong bất kỳ mối giao hảo nào của a h tro g đời
sống lịch nghiệ , đầy tính nhân vă . A h iết với tất cả sự
ân cần không chỉ đối với những nhân vật được nhắc trong
tập Ký, à ò đối với tất cả độc giả đa g ầm quyển sách
trên tay. ~ Uyên Nguyên
Những mả h đời qua bút kí
của
Đi h Q a g Anh Thái
C
ó những bài tùy bút và bút kí mà khi đọc xong
chúng ta tự hỏi sao tác giả 'hay chữ' thế, sao mình
kh g ghĩ ra được những chữ đẹp lộng lẫy hư
tác giả. Như g ũ g ó hững bài bút kí làm chúng ta trầm
trồ khen tác giả về những câu chuyệ độ đáo, những vốn
sống, về sự phong phú trong trải nghiệm xã hội, và những
mối giao hảo đú g gười, đú g địa chỉ. Tôi gọi hai loại bút kí
là kí của nhà văn và kí của nhà báo. Trong những bài kí của
hà ă , ý tưởng có thể lan man, chuyện nọ xọ chuyện kia,
hư g ă hươ g à hữ ghĩa lại là cả một sáng tác. Còn
kí của nhà báo thì có cái khó vì tác giả phải sắp xếp và lồng
những trải nghiệm của mình trong câu chuyện về một nhân
20 | ÐINH QUANG ANH THÁI
thật được thể hiện qua những thành bại, hỉ nộ ái ố của các
nhân vật. Không có thần thánh. Chẳng có tuyên truyền. Tất
cả là sự thật.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ông Bùi Bảo Trú là gười
à trì h độ tiếng Anh có thể ga g hà g trì h độ tiếng mẹ
đẻ, gười mà "giá nhắm mắt thì có thể nhầm là một người
Anh chính cống đang phát biểu", à gười đã "dùng ngoại
ngữ đối đáp và tạo được sự nể trọng của giới kí giả nước
ngoài." Một gười giỏi tiếng Anh khác là Giáo ư Ng yễn
Ngọc Bích (từng là giá đố hươ g trì h Việt ngữ của Đài Á
Châu Tự Do), gười mà tác giả mô tả rằng "[...] mỗi khi chú
chấp bút viết một bản văn bằng Anh ngữ, Phó tổng giám đốc
đài là nhà báo Dan Southerland phải thốt lên rằng, không
thể sửa, dù một dấu phẩy bài chú viết." Đọ đoạn này chúng
ta có thể so sánh với những phát ngôn viên ngày nay của
Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa thì hỉ biết ngậm ngùi.
không hút thuố ." Có ai ghĩ tác giả của Thà như giọt mưa,
Trúc đào, Cô Bắc kì nho nhỏ lại từ giã õi đời trong hoàn
cả h hư thế.
lúc chia tay. [...] Qua cổng hải quan, kỷ niệm chót của chúng
tôi tại xứ này là mỗi đứa phải 'thông cảm' 20 dollars cho
nhân viên di trú kiểm soát thông hành. Nếu không, người
'anh em' gây khó dễ thì 'làm gì nhau.'"
giả. Sau 1975 anh từng bị tù ở Việt Nam (tôi không hỏi vì lí
do gì) hư g a h kể chuyện trong tù hết sức dí dỏm, có khi
ười ra ước mắt, y hư ột cuộc du ngoạn, chứ không phải
đi tù. Bùi Ngọc Tấ đi tù à ' hư g ất' những nỗi đa khổ
thành chữ, hư g đối với Đi h Q a g A h Thái nhà tù có vẻ
hư là ơi a h hắt chiu những câu chuyệ hài đe ề xã hội
chủ ghĩa. Những gì anh trải nghiệm ở Nga a g đậm chất
hài đó, à hắc chắn sẽ đe đến cho bạ đọc nhiều nụ ười
mỉm.
chung cho dân tộc", hay viết về Như Pho g L Vă Tiến, tác
giả nhận xét "Bây giờ thì cậu không còn nữa, nhưng đó chỉ
là phần xác thôi, chứ tinh anh của cậu vẫn còn và sẽ còn
mãi trong lòng nhiều người, nhiều thế hệ."
T
háng Giêng, 1979, trại gia T 20 Pha Đă g Lư
ồn lên những lời đồ đãi, là Cộng Sản Tàu đa g
động binh ở vùng biên giới mạn Bắ để đánh Cộng
Sả đà e Việt Nam. Tù nhân trong trại xì xầm bàn tán.
Người thì hy vọng tình hình sẽ sớ thay đổi để thoát cảnh tù
đày; gười thì lo ngại Tàu mà thắ g thì đất ước sẽ còn bi
đát hơ ; gười thì dử g dư g phản ảnh tâm trạng chẳng còn
trông mong gì nữa.
Một buổi sáng, kẻng vừa điểm, báo hiệu giờ làm việc của
trại, công an quản giáo trại giam tay cầm danh sá h đến
từ g phò g đọc tên tù nhân phải chuyển trại. Không khí ồn
l hư ái chợ. Tiế g “ ục tá ” a g từ phòng này sang
phòng khác. Hầ hư ọi gười ai ũ g goác miệng kêu lên
thành tiế g hư gà ắp bị đe đi cắt cổ. Tiếng kêu truyền
khắp ơi ghe hư âm thanh một lò sát sinh.
Bước chân vào phòng giam mới, tôi vui mừng vì gặp lại
hai bạn tù cùng ở với nhau những thá g trướ đó ơi phòng
5 khu C1, là anh Hồ Chánh và anh Nguyễ Vă Lị h. Chưa
30 | Ð I N H Q U A N G A N H T H Á I
kịp bỏ những vật dụng nhếch nhác của đời tù xuố g đất, anh
Lịch nắm tay tôi kéo về phía góc phòng và giới thiệu với tôi
một ông già mà mới nhìn, tôi biết ngay là nhân vật tiế g tă
lừng lẫy: Hồ Hữ Tường. Anh Lịch nói, bá Nă , thằng Thái
nè, nó chính là thằng “Giao” mà anh Linh định đưa đến gặp
bá Nă lú hưa ị bắt đó.
Lời giới thiệu của anh Lịch lôi tôi về cái đ ưa gió tầm
tã ở chân cầu Thị Nghè những ngày gần cuối ă 1975. Đ
đó, t i đạp xe đến một điểm hẹn để ù g a h Li h đi gặp bác
Hồ Hữ Tườ g. A h Li h, t i đã ó dịp q e khi đi i h hoạt
với Đoà Vă C g Chí Li h do Nhạ ĩ Viết Chung cầm đầu
tại Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Quốc Gia Vũ g Tàu thời
ă 1972. Cái hẹn đ đó là để tôi tham gia hoạt động
trong tổ chức của bác Hồ Hữ Tường. Gặp anh Linh, anh bảo,
đ tối gió ưa thế ày à lò ò đến nhà bá Nă thì
không an tâm lắ , ì ă hà trong ngõ hẻm gần rạp xi nê
Đa Kao ủa bá Nă thường xuyên bị công an theo dõi. Thế
là chúng tôi chia tay, anh Linh hẹn tôi một dịp khác.
“Bác Năm mày,” cách nói thân mật, xuề xòa đặc thù của
tác giả “Phi Lạc Sang Tàu.”
Về việc bác và tổ chức bị bắt, bác cho biết, ngay khi Cộng
Sản chiếm miền Nam, bá đã i ột tập tài liệu của Việt Nam
Độc Lập - Thống Nhất - Trung Lập Đồng Minh Hội, gởi trực
tiếp bằ g đườ g ư điện cho tất cả giới lã h đạo Đảng Cộng
Sản, từ Bộ Chính Trị ho đến các Trung Ươ g Ủy Viên và
Tỉnh Ủy các tỉnh. Trong tài liệu, bác nói rõ về nhu cầu bắt
buộc Việt Nam phải trung lập trong bối cảnh tình hình khu
vực Á Châu. Ông già khẳng quyết, trung lập là giải pháp duy
K Ý | 33
nhất cho Việt Nam, và bá là gười đầu tiên của Việt Nam
ki trì đeo đ ổi lập trường này. Nên, một mai khi tình thế bị
o ép, Cộng Sản Hà Nội kh g ò o đường nào khác là
chấp nhận trung lập; họ bắt buộc phải cậy nhờ đến bác. Bác
còn lôi trong chiếc túi tù bộ quần áo e te ù g đ i giầy đe
và nói, vì sợ tình thế biến chuyển mau quá, không kịp về nhà
lấy quần áo mặc trong lễ tiếp nhận chính quyền từ tay Cộng
Sản, nên bá đã hờ công an chấp pháp về tận nhà bác mang
quần áo giầy vớ cho mình. Chính vì câu chuyện này mà
nhiều bạn tù của hú g t i đã ống với ơ ước có ngày theo
chân bác thoát đời tù, giành lấy chính quyền trong vinh
quang.
Quả thật, hú g t i đến trại giam T30 Chí Hòa vào khoảng
9 giờ. Tôi lại may mắ được ở chung với bá Nă ù g hai
anh Chánh và Lịch. Tổ ơ h g ủa bác cháu chúng tôi
34 | Ð I N H Q U A N G A N H T H Á I
vẫn thế, vẫn những lần húp canh chung trong một thau
nhựa, thứ ă gia đì h i thì phải dè sẻn từng tí một, vì
không biết lần nuôi kế tiếp sẽ là bao giờ.
Một tuần liền, trại giam không phát chiếu, tô, muỗng,
không cho đi tắm. Cái nóng hầm hập làm mồ hôi tù nhễ
nhại, phát đi l ì thè ột gáo ước xối l gười. Bác
Nă ảo, tụi nó thử ì h trước khi thả đó, ráng chị đựng,
đừng chố g đối. Bước sang tuần thứ hì, đú g h kỳ một
ă ài lần trại gia ho tù ă thịt heo, mỗi gười chỉ được
một miếng mỡ thịt bầy nhầy bằ g đầu ngón tay cái với vài
muỗ g ước mỡ mặn chát muối, hư g ũ g đủ là i đời
tù. Hạ h phú hơ ữa là ò được phát chiếu, tô, muỗng
nhựa, và “ ướng cực kỳ” là đượ đi tắ . Đời sống trại giam
bắt đầu vào nhịp ì h thườ g, ghĩa là gày ơ hai ữa,
tuần tắm hai lần, và hầ hư kh g ai ò ị gọi l ă
phòng thẩm vấn nữa, vì chuyển qua Chí Hòa là xe hư hồ
ơ đã xếp lại, án tù bao nhiêu thì chỉ ó... L Đức Thọ biết.
Người trẻ tro g phò g thì ó gười vì tin bác tuyệt đối nên
hì đắm trong hy vọng sẽ có ngày “ ó da h gì ới núi
sông;” ó gười thì phân vân lắm, không biết thự hư ra ao.
Nhữ g gười tù thuộc thế hệ ít nhiều đã iết bá Nă thì
dử g dư g, thậ hí ó gười còn nói xa gần rằng bá Nă
hoa g tưởng, tếu, ngây thơ.
Hai hình bìa trong số nhiều tác phẩm của Hồ Hữu Tường.
(Nguồn: Intetnet)
“Phải nói, qua tiểu sử ông, tôi chẳng thể hình dung được
con người Hồ Hữu Tường. Cho đến khi đọc được bút ký của
Đinh Quang Anh Thái thì Bác Năm mới thành con người có
da có thịt, đầy trí tuệ và nhất là có một tấm lòng son sắt với
nước non. Từ đó, Bác Năm đối với tôi không chỉ là một Phi
Lạc thông minh tếu táo nữa.
K Ý | 39
“Bác Năm mãi mãi là một tấm gương sáng cho những
người còn biết yêu quê cha đất tổ và tin vào một tương lai
tươi đẹp.”
A
h Hoà g Cơ Trường mất ngày 6 tháng 10 ă
1982 tại California.
Lú đó, t i ừa được tạm tha khỏi T30 Chí Hòa, trước khi
bị bắt lại lần nữa.
(từ trái) Anh Lê Khuê Hiệp, Đoàn Trưởng Đoàn Văn Nghệ Thanh
Niên Sinh Viên Học Sinh Nguồn Sống năm 1972 (mất tại Mỹ năm
1977), anh Hoàng Cơ Trường (dấu x) và đội bóng tròn Đại học Y
khoa Sài Gòn. (Hình tư liệu của tác giả)
2
Hoà g Cơ Trường sinh ngày 25 thá g 5 ă 1942, à là
o út tro g gia đì h rất đ g a h e . Thân sinh ra anh là
44 | ÐINH QUANG ANH THÁI
tham gia công tá giúp đỡ đồng bào tại các trại tiếp ư. Và
rồi, cả đời a h ho đến khi xuôi tay, miệt mài dấn thân vào
nhiều hoạt động, những mong góp phầ ư tì hạnh phúc
ho gười dân. Ngay khi sẩy đà ta ghé ỏ ướ ra đi ă
75, lúc mới “ hâ ướt - chân ráo” tới thị trấn Fresno heo hút
của California, anh lao vào việc kết hợp nhữ g a h e đồng
hí hướng chuẩn bị cho ngày về quang phụ q hươ g.
Phong Trào Thanh Niên Cách Mạng Dân Tộc Việt ra đời
tro g giai đoạn này.
Bí thư trưởng của Phong Trào Thanh Niên Cách Mạng Dân
Tộc Việt, anh Trịnh Ðình Thắng, nói rằ g a h à a h Trường
gặp ha ă 1979, lú a h e đa g ố thổi dậy phong trào
h đú tr yền thố g đấu tranh trong giới trẻ, là vì mấy ă
đầu, mọi gười bị giao động mạnh bởi biến cố Cộng Sản
chiếm miền Nam. Ngay cả nhữ g gười thuộc thế hệ trước
ũ g x ống tinh thần. Thế nên nhữ g gười thuộc lớp tuổi
tr g i hư a h Thắ g, a h Trườ g đã tì đến với nhau
và kết quả là Pho g Trào ra đời. A h Trường là Ủy viên Sáng
lập và Chỉ đạo, đồng thời phụ trá h điều hành Phân bộ Miền
Tây Hoa Kỳ của Phong Trào. Hồi tưởng nhữ g gày đó, a h
Thắng nhớ ãi Hoà g Cơ Trườ g là gười tận tâm và lễ
ghĩa. Lễ ghĩa được hiểu là trước khi nói thẳng vào một vấn
đề, a h Trườ g thường cân nhắc kỹ cách trình bày.
thức dấn thâ , điểm nổi bật nhất là lú ào ũ g tận tâm với
đất ước; và rằ g “nếu Trường còn sống thì tốt cho việc
chung biết mấy.”
3
“Lấy nhau xong rồi đi”* đú g là hoà ảnh của anh Hoàng
Cơ Trường và chị Ðỗ Thị Cẩ Phươ g.
*
Một câu trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan.
KÝ | 47
4
Sáng sớm ngày 2 thá g Nă , 1975, t i đạp xe một vòng
lên nhà cá h y h trưởng của Ðoàn Nguồn Sống. Sân nhà
a h Hoà g Cơ Trường ở đường Phan Kế Bính lố nhố bộ đội.
Nhà anh Ðỗ Hoàng Ý ở đường Tự Ðức gầ đó ũ g thế. Tôi
lọc cọ đạp lên phú nhuận tìm anh Ðặng Ðình Khiết và sau
đó x ống tận Phú Thọ tìm anh Lê Khuê Hiệp, cả hai nhà
ũ g toà gười lạ. Tôi vô cùng hoang mang, chỉ cầu mong
ao đừng xảy ra điều chẳng lành cho anh em.
Quay lại trụ sở Nguồn Sống ở Ðinh Tiên Hoàng, tôi gặp
anh Trần Huy Phong ngồi một ì h tro g ă phò g ủa
Việt Võ Ðạo. A h Pho g ói, Trường di tản rồi và các anh em
Ý, Hiệp, Khiết chắ ũ g thế. A h Pho g kh y t i đốt
hết các tài liệu và hồ ơ đoà i để tránh những chuyện
không hay về sau.
Thoạt đầu, khi ghi danh tham dự trại, tôi chỉ ghĩ, thế nào
trại ũ g ó học sinh cá trường nữ à hư ậy thì vui biết
mấy. Ðộ g ơ đi trại chỉ vậy thôi. Có ai ngờ trại công tá đã
đổi hẳ đời tôi và tá động mạnh nhất ho ước ngoặt này
chính là a h Hoà g Cơ Trường.
nên không ngạc nhiên khi anh nhậ được nhiều quí mến của
anh em, nếu không muốn nói là anh trở thành thầ tượng
của nhiề gười. Khi trở thà h y ĩ tiền tuyến, anh không thể
sinh hoạt thường xuyên với Đoà , đã để lại một khoảng
trống hầ hư kh g ai ù lấp được về mặt tinh thần cho
anh em trong Ðoàn. Mỗi khi được nghỉ phép ghé thă Ðoà ,
là a h e òa l i ướng. Ðiề đó, ột lần nữa chứng
minh sự yên tâm của anh em khi có anh.
thay đổi cả, cứ hết mực tận tụy với lý tưở g hư thế suốt đời
à đó là ột gười cầ ho đất ướ . “Chỉ tiếc rằng giá như
Trường đừng mất sớm, lý tưởng mà Trường đeo đuổi chắc
chắn sẽ đóng góp không ít cho đất nước mai sau.”
5
Riêng về giai đoạ a h Trường khoác áo Thủy Quân Lục
Chiến, anh Trầ Như Hù g, ựu Trung úy Tiể đoà 8 à là
Trưởng ban Việt ngữ đài phát thanh SBS bên Úc, ũ g là ột
tro g 17 gười tham dự lễ cầ i ho a h Trường tại chùa
Sư Nữ ở Sài Gò ă 1982, ói:
“Khi tôi về Tiểu đoàn 8 thì anh Trường đã thôi không còn
là y sĩ trưởng Tiểu đoàn mà đã lên làm Ðại đội trưởng Ðại
đội Quân y Lữ đoàn 369. Dù vậy, thời gian phục vụ của anh
ở Tiểu đoàn 8 vẫn là dấu ấn không hề xóa nhòa. Hầu hết sĩ
quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Tiểu đoàn 8 mỗi khi nhắc đến
bác sĩ “Trường Râu” đều dành cho anh một cảm tình đặc
biệt. Họ gọi anh là bác sĩ chịu chơi. Chịu chơi ở nhiều điểm,
tính tình hào sảng, tư cách đứng đắn, uống rượu không kém
ai, dù ít khi uống. Nhưng đáng kể nhất và không phải bác sĩ
nào cũng làm được, đó là anh luôn sẵn sàng có mặt ở tuyến
đầu – dù đó không phải là bổn phận của y sĩ. Ngay cả khi về
làm Ðại đội trưởng Quân y Lữ đoàn 369, anh vẫn không
52 | ÐINH QUANG ANH THÁI
6
Người thầ tượ g a h Hoà g Cơ Trường nhất, chắc phải là
Trầ Vă S g.
bá ĩ Ng yễn Ðan Quế giao công tác phụ trách việc phổ biến
tờ báo bí mật Toàn Dân Vùng Dậy vùng Gò Vấp.
7
Vượt biên thá g Tư 1984, tới Mỹ đầ ă 1985, t i được
anh Hoàng Huân Ðịnh và một gười bạn là Nguyễn Quốc
Tiế đưa đi thă ộ a h Trường tại Fresno. Tôi lặ g gười
trước hàng chữ ghi trên mộ ia: “Nơi nào có bóng Quốc Kỳ,
nơi đó có linh hồn tôi hiện diện để sát cánh cùng các chiến
hữu trong công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc và xây
dựng Quê Hương”.
8
Giờ đây, nhớ anh và viết lại những giòng này, tôi chợt
thấy ra một điều. Nếu còn số g, a h Hoà g Cơ Trườ g ă
ay đã goài 60. A h i h ra gầ hư ù g lú ới cuộc
chiế tươ g tà ủa đất ước lồng trong cuộc vậ độ g độc
lập cho quốc gia. Anh chiế đấu ngoài chiế trường, anh
hoạt độ g ơi hậ phươ g, a h tha dự hay góp phần tạo
dựng nhiề pho g trào y ước của thanh niên trong nhiều
thập niên, kể cả khi ra hải ngoại. Anh mất khi mới 40 tuổi,
lú a h e đa g dựng lại một trận thế khác, và giờ đây tình
hì h ước nhà vẫ hưa áng sủa: nhữ g gười thuộc lớp trẻ
đã từ g theo a h l đườ g ay ũ g đã ở tuổi trên 50 cả,
à o đường vẫ h hút trước mặt. Tôi không thể tưởng
tượng ra nổi một Hoà g Cơ Trường ở tuổi lục tuần. Nếu anh
còn, tôi tin chắc rằng anh ngày nay vẫ là gười trẻ trung
nhất, xốc vác nhất, và làm cho cuộ đấ tra h l tươi trẻ,
dũ g ã h ới niềm tự tin, là cuối cùng dâ ta ũ g ẽ thoát
khỏi ũ g lầy thê thảm hiệ ay để ươ tới một tươ g lai
tốt đẹp.
Ð
ón tôi tại cửa máy ay phi trường Dallas, Texas,
đ Tám Tháng Giêng 1985 là anh Thanh Hùng.
Tôi lặ g gười.
Trần Văn Bá (dấu x) cùng sinh viên quốc nội hải ngoại viếng
thăm Nghĩa Trang Ba Đồn (nơi thờ hương linh những nạn nhân
chết oan khuất trong vụ cộng sản thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở
Huế) năm 1973. Nghệ sĩ Thanh Hùng, đứng ngay cạnh Trần Văn
Bá, bên phải. (Hình của tác giả)
Tôi từng nêu câu hỏi này với anh Bá, anh bảo, “nếu ông
già moa bị đám Bắc Kỳ giết thì sức mấy moa thân với các
toa. Toa có thấy bạn moa rất nhiều người Bắc không? Có
thấy moa rất khoái anh Thanh Hùng không?’
Cái chết của cha bắt buộc Trầ Vă Bá rời bỏ quê hươ g,
xa gia đình, xa bạ è để sang Pháp sống và theo học tại
Paris. Anh tốt nghiệp cao học kinh tế ă 1971 à a đó
làm giảng viên tại Ðại Học Nantes.
Song song việc học, anh tích cực hoạt động trong phong
trào sinh viên và trở thành Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt
Nam tại Paris trong nhiều nhiệm kỳ, từ 1973 đến 1980.
Chính Trầ Vă Bá đã đe đến cho Tổng Hội Sinh Viên Paris
một sinh khí mới.
Trại Nối Vòng Tay Lớn tại Đà Lạt 1973: Trần Văn Bá (dấu x), (từ
trái) Huynh trưởng Du Ca Trần Đại Lộc, tác giả (chống nạnh) và
Giáo sư Hà Tường Cát. (Hình của tác giả)
Rừng Sát… , ho đến cứu trợ nạn nhân chiế tra h, đâ đâu
ũ g ó ặt Trần Vă Bá.
Không biết sau này, khi về khu chiến phục quốc, chiếc áo
lính bạc màu đó ó được theo chân Trầ Vă Bá hay không?
đầu năm 1975 khi bắt đầu hoạt động với Tổng Hội Sinh Viên
Việt Nam tại Paris. Lúc ấy anh Bá là chủ tịch nên tôi xem
anh như một đàn anh vừa lớn tuổi hơn, vừa kinh nghiệm
hơn về hoạt động. Ðiểm nổi bật của anh Bá là sự triệt để và
dấn thân của anh. Tôi rất ngưỡng mộ anh ở điểm anh dám
sống tới cùng cho lý tưởng đối với đất nước. Hầu hết anh em
tuy hoạt động nhưng cũng lo đi học, khi ra trường, đi làm,
có bạn trai, bạn gái và lập gia đình. Anh Bá khác hẳn. Anh
dấn thân triệt để và trọn vẹn, anh bỏ rất nhiều thì giờ gặp
người này, người kia để liên lạc, vận động, không phải chỉ
riêng ở Paris mà còn ở các nước khác ở Âu Châu. Anh cũng
là người biết rất nhiều tin tức khiến anh em luôn kinh ngạc
tại sao anh biết nhiều thế, không biết từ đâu mà anh có
những tin tức này. Sau 1975 thì anh Trần Văn Bá trầm
ngâm hơn, lâu lâu trong câu chuyện, anh nói anh phải về
Việt Nam mới được.”
Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pari đó g góp rất nhiều
trong công cuộ đấu tranh chống Cộng Sả tr đất Pháp, từ
nhữ g ă thá g trước thời điể 1975 ho đến nhữ g ă
sau này, kể cả giai đoạn hiện nay. Nhữ g ă Tổng Hội dưới
sự lã h đạo của Trầ Vă Bá để lại dấu ấn sâ đậm trong ký
ức nhiều người, tro g đó ó a h Ðỗ Ðă g Lư , ũ g đa g
sống ở Úc: “Thành thực mà nói là uy tín của Tổng Hội Sinh
Viên Paris tăng lên rất nhiều nhờ uy tín và khả năng cá
KÝ | 63
Tết Kỷ Mùi 1979, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tổ chức
đ ă ghệ tại Paris, cờ vàng ba sọ đỏ bay phất phới và
tràn ngập cả hội trường Maubere với sự tham dự của hàng
ngàn khán giả. Ðây là một sự thể hiện số g động nhất tinh
thần của nhữ g gười không chấp nhận ngày 30 Tháng Tư
1975 là sự kết thúc công cuộ đấu tranh vì hạnh phúc tự do
của dân tộc.
Ðối với Trầ Vă Bá, tất cả các hoạt động tại hải ngoại
ũ g hỉ nhằm chuẩn bị cho một ngày về chiế đấu ngay tại
q hà. Tro g đ ă ghệ Tết ă đó, Trầ Vă Bá nói
những lời cuối, trước khi về khu chiến phục quốc:
“Anh chị em Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris rất
hân hoan đón tiếp quý vị trong đêm hội Tết Kỷ Mùi; sự hiện
KÝ | 65
diện quý báu của quý bác và quý anh chị là một khích lệ lớn
lao cho tập thể sinh viên. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ
quý vị đã luôn luôn dành cho sinh viên sự ủng hộ nồng nhiệt
nhất trên mọi phương diện. Cụ thể là đêm hôm nay đã thành
tựu với sự giúp sức tận tình của các phụ huynh và nhất là
do sự đóng góp tích cực của hơn một ngàn sinh viên trong
ròng rã ba tháng trời.
“Cảm tình mà quý vị dành cho sinh viên nói lên sự tín
nhiệm và sự mong ước của quý vị nơi giới trẻ để đáp lại
nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong 30 năm chiến
tranh tàn phá đang bị đè nén tại quê nhà, ách thống trị khát
máu đang áp đặt đã tước đoạt mọi quyền làm người của
người dân Việt Nam, xô đẩy hàng trăm ngàn đồng bào phải
bỏ xứ ra đi bất chấp mọi hiểm nguy. Chính sự can trường
của đồng bào vượt biển trước chết chóc và đời sống cơ cực
trong các trại tạm cư tại Ðông Nam Á đã làm chấn động dư
luận thế giới, vì thế nhiều quốc gia và đoàn thể không nỡ
làm ngơ trước thảm nạn của cả trăm ngàn đồng bào, đã có
hảo tâm muốn cứu vớt và giúp đỡ người tị nạn.
Nam mà thôi. Giải pháp là người Việt Nam có thể sống tại
quê cha đất tổ mà nhân phẩm của họ không bị chà đạp,
người ra đi có thể trở về và mạng sống của họ không bị đe
dọa. Mọi thay đổi trong chiều hướng khả quan đó có thể có
hay không là do ở nơi anh em kháng chiến đã hơn 3 năm lặn
lội ở bưng biền tranh đấu cho tương lai của dân tộc, cứu vãn
nhân dân khỏi thảm họa diệt vong.
“Nhà cầm quyền Cộng Sản đang đưa đẩy dân tộc đến bờ
vực thẳm, làm lính đánh thuê cho ngoại bang, đi xâm lăng
các quốc gia Lào và Campuchia, đe dọa an ninh của cả Ðông
Nam Á. Giải pháp cho vấn đề tị nạn và hòa bình tại Ðông
Nam Á hiện nay tùy thuộc vào sự lớn mạnh của kháng chiến
để ngăn chặn những ý đồ điên dại của những người cầm
quyền ở Hà Nội.
“Cho nên lúc nào chúng tôi cũng dành sự ủng hộ của
chúng tôi cho các anh em kháng chiến tại quốc nội, đó là để
tiếp nối lại truyền thống của dân tộc từ thời lập quốc, lúc
Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ly có hứa hẹn khi hoạn nạn sẽ
về giúp đỡ nhau. Trong hoàn cảnh thê thảm của đất nước,
những đứa con ra đi như chúng ta sẽ giúp đỡ những đứa
con đang tranh đấu tại quê nhà đem lại tự do cho nhân dân,
giải phóng dân tộc khỏi chiến tranh diệt vong để sống chung
hòa bình với các quốc gia láng giềng.
Trần Văn Bá (dấu x) dự trại Nối Vòng Tay Lớn 1973 với sinh viên
Đà Lạt. (Hình của tác giả)
Trong một lá thư từ chiến khu quốc nội gởi ra cho một
chiến hữu tại Pháp, Trầ Vă Bá cho biết, đời sống trong khu
68 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Huế 1973: (từ trái, dấu X) Trần Văn Bá, (hàng đầu) Đỗ Vân Thị
Hạnh, sinh viên Đà Lạt, tác giả và Trung Tướng Lâm Quang Thi,
Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I. (Hình của tác giả)
Trầ Vă Bá vị quốc vong thân lúc vừa tròn 40, tuổi chín
chắ à i h động nhất của đời gười.
KÝ | 69
S
ài Gò ă 1976, kh ực chung quanh bùng binh
chợ Bến Thành là một trong nhữ g ơi tập trung
đ g đảo dân buôn bán chợ trời.
“Nghe đại danh, hôm nay mới hân hạnh gặp mặt”, tôi nói
thế. Nhiên nhếch mép, nụ ười “kẻ cả” lắm. Thấy cử chỉ đó
KÝ | 73
của Nhiên, anh Yến chỉ nhỏ nhẹ, đ ay Thái sẽ giới thiệu
Nhi l đọ thơ hé.
Hiể được.
Tro g đám bạn chung thời sau 1975, H. tóc dài, giọng Bắc
nhẹ “ hư thơ”. H. đã ó ạn trai, Nhiên biết, hư g ẫn công
KÝ | 75
khai nói, “tớ chết đi được mỗi khi nghe H. buột miệng hai
tiếng ‘Trời ơi’”. Và Nhiên cứ lặng lẽ với chính cái bóng của
cuộ tì h “ o gái Bắ ” ày.
*
76 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Nhìn thằng bạn mặc chiếc quầ ũ è ống bên trái “ hửi
bố” ống bên phải, thươ g ạ , xú động vì tấm lòng của bạn,
tôi không biết ười hay nên khóc.
Sau bữa thịt chó cuối ă đó, t i ị bắt, không biết Nhiên
ra sao.
thang với Nhi tr đường Duy Tân, phố vắng dần, chỉ có
từng toá ga õ tra g đi t ầ tra, Nhi đọc cho nghe
hai câ thơ:
*
78 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Một hôm trong buổi họp mặt tại hà Nhà ă Nhật Tiến ở
KÝ | 79
đường King, thành phố Santa Ana, Nhiên kể tôi nghe vụ lời
qua tiếng lại giữa Nhi à Nhà ă Mai Thảo li q a đến
thơ ă . Nhiên hỏi anh Mai Thảo, “nếu anh viết về thảm kịch
của các cô gái vượt biên bị hải tặc hiếp, anh có đặt tựa bài là
‘Mười Đêm Ngà Ngọc Không?’”
*
KÝ | 81
Một tuần sau, Nhiên tự chọn cho mình cái chết. Nă ấy,
Nhiên tròn 40 tuổi.
Chắ lú đó t i khó !
Tôi hô BIẾN VỢ
Tôi hô BIẾN CON
Tôi HÔ BIẾN CÁI NÀO NÓ HIỆN RA CÁI NẤY”
L
ầ đầ ti t i được biết đến tên tuổi Như Pho g
L Vă Tiế là ă 1976. Chí h a h hị Từ Công
Phụng-Từ Dung, nói cho tôi biết về ông. Dạo ấy,
Sài Gòn vừa bị “đổi t ,” t i ống ngoài lề đường, bán sách
ũ trước cửa rạp Rex, bán quần áo ũ gay ga xe lửa đường
Lê Lai, bán thuốc tây tr đường Pasteur, bán rau muống ở
chợ Hãng Phâ Vĩ h Hội, và bán cả... súng cho những
gười đi ượt i . Nghĩa là kiếm sống bằ g đủ mọi cách.
mạng Việt Nam; ông Tiến làm báo Tự Do; ông Tiến nhà bình
luận chuyên về Cộng Sản miền Bắc; ông Tiế gười từ chối
tha hí h hư g dí h dự vào nhiều quyết định liên quan
đến việc bổ nhiệm nhân sự của nội các chính phủ Nguyễn
Cao Kỳ; ông Tiến tác giả cuố Khói Só g để lại dấu ấ ơi
nhiề gười; ông Tiế hà ư tầm hoa lan... Tóm lại, ông
Tiến là tất cả trước mắt anh chị Phụng. Càng nghe, tôi càng
xuýt xoa với anh Phụng là tại ao t i kh g ó ơd y ột
lầ được gặp o gười lẫy lừ g hư ậy. Hỏi thế, anh Phụng
mắ g ho ũ g phải. Anh bảo thời ông Tiế thà h da h, đã
bay bổ g hư ột con rồ g thi g thì t i đã hào đời đâ để
mà nói chuyện gặp hay không gặp ông. Rồi khi ông lúc ẩn
lúc hiện trong sinh hoạt của xã hội miền Nam thì tôi vẫn còn
tắ ưa, đá h đáo..., thì làm sao gặp gười cậu kiệt xuất
của a h được.
Ôi! T i i ướng biết bao khi biết rằng cách tôi một tấm
vá h là o gười tôi luôn ấp ủ hy vọ g ó gày được gặp
mặt. Thế rồi một buổi sáng, tù nhâ phò g 10 được phép ra
goài hi phơi ắng. Bạn tù cùng phòng với tôi trỏ cho biết:
“Ô g già L Vă Tiế đứ g kia kìa.”
đổi tin tức cho nhau về đời số g goài đời khi t i hưa ị
bắt, à đời sống trong tù những tháng qua của g. Trước
khi bị lùa vào phòng vì hết giờ tắm nắng, cậu Tiến bảo sẽ tìm
cách gởi cho tôi ít thuố lào à đườ g, ì lú đó t i hưa được
thă i.
Cứ thế cho tới ngày tôi lại bị chuyển qua các phòng khác,
các khu khác, hai cậu cháu vẫn tìm cách liên lạc với nhau.
Trong một lầ thă i, ậu Tiến gặp mặt chị Từ Dung.
Chắc chị đã ói ới cậu về tôi nên cậu tỏ ý ti t i hơ trước.
Những tháng ở cùng cậu Tiến thật khó quên. Biết bao kỷ
niệm vui buồ , đói khát, hoa g a g, hư g q a trọ g hơ
cả, tôi họ được ở cậu không biết ao hi điều, từ kiến
thức uyên bá ho đến nhân cách sáng ngời của cậu. Tôi
quấn lấy cậ hư thể cậu sẽ xa tôi ngày mai vậy. Cả ngày,
trừ giấc ngủ trưa à giờ ngủ tối, tôi quanh quẩn bên cậu,
nghe kể những chuyện cậu dính dự ào giai đoạn lịch sử từ
thời 1945 đến khi bị bắt. Chao ôi, sao cậu hiểu biết đến thế,
90 | ÐINH QUANG ANH THÁI
sao cậu lẫy lừ g đến thế! Nào là làm báo, nào là dự phần
quan trọng vào các quyết định của chính phủ miền Nam, nào
là những mối quan hệ với cá đảng phái quốc gia, tôn giáo,
nào là cá ư tí h tì đường quật khởi sau khi Cộng Sản
chiếm Sài Gòn. Trong các câu chuyện của cậu, không hề nghe
cậ đả động gì tới bất cứ một bóng dáng phụ nữ nào trong
đời cậu. Có lần tôi nêu thắc mắc, cậu bảo gười ta ũ g đồn
đại rằng cậu có một mối tình lớn với một gười đà à góa
chồng, vợ của một nhân vật cách mạng Việt Na , hư g ự
thật cậu rất quý trọ g gười đà à ấy à xe à hư gười
chị. Cậu cho biết tình cảm của cậu trong sáng lắm, không ai
có quyền dị nghị.
Đời sống của cậu trong tù là mẫu mực của một gười khí
phách, tự tại. Không ai có thể bắt gặp ơi ậu một giây phút
yế lò g ào trước kẻ thù. Lúc nào bạ tù ũ g thấy ở cậu
tinh thần an nhiên, chấp nhận mọi nghịch cảnh và lạc quan,
ti ào tươ g lai. Ngày thă nuôi, giỏ quà của cậ do gười
nhà tiếp tế khiêm tốn lắm, nên cậu luôn chia thứ ă rải đều
cho một tháng, nhất là ó đậu phụng rang. Cậ ă ống
chừng mực, mỗi bữa ơ ủa trại cậ ă kè ới trên một
chục hạt đậu phụ g ra g, kh g hơ , kh g ké . Tr g cậu
nhai rất kỹ từ g à ơ , gười ta thấy rõ cậu an bình và tận
hưởng từng khoảnh khắc của đời sống, dù trong hoàn cảnh
tù đầy, lú ào ũ g ị rình rập bởi nhiều thứ đ hè , ghiệt
ngã. Cậu còn khéo tay vô cùng. Chính cậu dạy anh em trong
phòng cách chế tạo một ống vố hút thuốc làm từ vỏ kem
KÝ | 91
Ông Ba Tốc Lê Văn Tiến và thú chơi hoa Lan ở Bình Dương
sau khi ra khỏi tù (Hình tư liệu của tác giả)
92 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Miên man chuyện này sang chuyện nọ, có lần cậu nhận
xét rằng tôi chỉ thích hợp với thời loạn, và nế ó ơ hội trở
lại, cậu sẽ giao cho tôi việc vậ động quần chúng. Khoảng
đầ ă 1982, ti đồn sắp có chuyển trại lan trong các
phòng giam. Sợ đến ngày phải chia tay, tôi hỏi cậu, “nếu
cháu được thả và tìm cách vượt biên, cháu nên làm gì để góp
phần cho việc chung, và xin cậu đặt cho cháu một bí danh.”
Có lần khi chỉ có hai cậu cháu, tôi nói với cậu Tiến về suy
ghĩ ủa tôi. Cậu tặ lưỡi rồi nói: Thì “ba tốc” tí chơi ấy mà.
Ba Tốc là biệt danh cậu tự đặt cho mình. Cậu giải thích: “Ba
là lối gọi theo thứ tự người miền Nam, còn Tốc là cà tửng, cà
giỡn, là xem nhẹ mọi thứ trên đời này, là đùa tí chơi với
KÝ | 95
đời.”
yêu kính cậu. Họ tìm thấy ơi ậu tâm hồn trẻ trung, sống
động, bao dung, hài hòa, một o gười uyên bác sẵn sàng
trao truyền không hề dấu diếm kiến thức và kinh nghiệm.
Quý nhất là tinh thần dân chủ ơi ậu; không bảo thủ,
không hẹp hòi, không hợ ì h, lú ào ũ g ở lòng với
tuổi trẻ. Nhiề gười bạn tôi quen cậu sau này gắn bó với
cậu có phầ hơ ả tôi. Với tôi, cậu vẫ thường mắng yêu
rằ g t i h g hă g, xấn xổ quá, lú ào ũ g hự ă tươi
nuốt số g gười khác. Cậu bảo t i là “ gựa non há đá”, ần
phải sửa đổi nhiều thì mới khá được. Tôi trân quý những lời
cậu dạy, dù đ i lú ũ g gân cổ cãi lại.
Những ngày cuối của cậu Tiến, tôi không về đượ để gặp
mặt cậu, chỉ biết tin về cậu qua hai anh bạ là Đặ g Đì h
Khiết và Lâm Ngọc Chiêu. Cả hai anh mới quen cậu sau này,
98 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Thủ bút của Nhà báo Như Phong; Hai Trang là bút
hiệu khác của Lê Văn Tiến khi ông viết cho đài RFA.
(Tư liệu của tác giả)
KÝ | 99
A
round the World in Eighty Days” (Vòng Quanh
Thế Giới Trong 80 Ngày), là một trong những tác
phẩm nổi tiếng của Jules Verne. Nhân vật chính
trong chuyện là Phileas Fogg. Tác giả mô tả nhân vật này:
“Phileas Fogg, an enigmatic personage, of whom nothing
was known but that he was a very polite man, successful
man, one of the most perfect gentlemen, and one of the great
orators”.
Nếu thay tên nhân vật Phileas Fogg bằ g Đỗ Ngọc Yến, thì
đoạ ă tr ó thể dịch thoát ghĩa: “Đỗ Ngọc Yến là một
người bí ẩn. Ông lễ phép, vô cùng lịch lãm, thành công và có
tài biện thuyết. Thế thôi, ngoài ra, không ai biết gì hơn về
con người này”.
102 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Thành công: Không ai phủ nhậ được thành công của anh
Yến, ít nhất là trong hai lãnh vực mà anh theo đ ổi hơ ửa
đời gười, là hoạt động thanh niên và làm báo. Về sinh hoạt
thanh niên, có thành có bại, hư g a h đó g góp hiều vô
cùng, kể từ nhữ g ă ò là học sinh trung học thời thập
niên 50 và chỉ từ bỏ khi anh nằm xuống. Trong lãnh vực báo
KÝ | 103
Biện thuyết: Anh Yế khó ó đối thủ. Khi cần phải trình
bày một đề tài, anh phát biểu gãy gọn, mạch lạc, câu chữ
được cân nhắc và chọn lựa kỹ à g. Như g đó là tài ă ói
thôi. Chứ còn khi viết, a h thường viết những mạ h ă dài
từ đầ đến cuối câu không hề chấm phẩy. Có lẽ vì thế mà
anh ít viết. Tôi cố tìm những bài anh viết, họa hoằn mới thấy
một bài, mà phải vất vả vô cùng mới hiểu anh muốn diễn tả
điều gì.
Nhận xét nói trên, anh Lộc nói với tôi vào một đ ưa
tro g ă hà ủa anh ở Sài Gò , a ă 1975. Lú đó,
nhữ g gười Cộng Sản vừa vào chiếm Sài Gòn, hai anh em
tì đế ha để kiểm xem, anh em bạn è, ai đi, ai ở, ai còn,
104 | ÐINH QUANG ANH THÁI
A h Hà Tường Cát, một gười bạn thiết khác của anh Yến
thì có lối diễn tả “gh khiếp” hư a ề anh Yế : “Tôi có thể
quả quyết rằng Yến không phải là Cộng Sản. Còn bảo Yến là
CIA, là KGB, là cái gì khác thì tôi cũng ngờ lắm”. Biết anh
Cát, thì hiểu rằ g đó hỉ là một cách nói, nhằm cho thấy anh
Yến bí ẩn lắm, ngay cả đối với bạn bè.
Nhà ă Mai Thảo lúc sinh thời có lần nhận xét về anh
Yến, rằ g “hành tung của Yến thì chỉ có Yến và ông Trời biết,
chứ ai mà hiểu nổi”.
Một gười khác, anh Ðinh Bá Ái, hiện còn ở quê nhà, có
lần nói với tôi, “Yến đi đâu cũng lọt, từ các bộ sở của chính
phủ, các hội đoàn thanh niên, thậm chí cả với Nha Cảnh Sát,
cũng không gặp vấn đề gì.”
KÝ | 105
Thật thế, tôi có bằng chứng cho thấy, anh Yến mà không
nhanh chân vào những ngày cuối của thá g Tư ă 1975,
thì chắc chắn anh sẽ bị Cộng Sản… lột da.
Tôi còn nhớ, gay đ đầu tiên trong lần bị bắt thứ nhất,
lú đó là tháng Tám, 1975, Hai Tải, một ĩ q a g a phụ
trách hồ ơ ủa t i, đã xấn xổ hỏi tôi về Ðỗ Ngọc Yến. Y
q ă g ào ặt tôi cuốn Nối Vòng Tay Lớn, tập kỷ yếu ghi lại
mọi sinh hoạt của Vă Phò g Li Lạc Sinh Viên Quốc Nội
Và Hải Ngoại 1973. Chươ g trì h ày do a h Yến làm Ðiều
Hợp Trưở g. Lú đó, t i ới vừa xong trung họ à được giao
KÝ | 107
vai trò Tổ g Thư Ký. Hai Tải, thậm chí cả Nă Trà, Phó Giám
đốc Công An Thành Phố, tra vấn tôi liên tục về Ðỗ Ngọc Yến.
Họ lôi ra những sự kiện mà họ ho là “thà h tí h hống phá
cách mạng của tên tay sai Mỹ - Ngụy, Ðỗ Ngọc Yế ” à ắt
tôi viết lời khai về mối quan hệ giữa hai gười.
Chả là, lúc Ðỗ Mười vừa lên làm Tổ g Bí Thư Đảng Cộng
Sản Việt Nam, báo Người Dân, xuất bản ở Nam California, có
một buổi họp mặt một số anh em trong giới hoạt độ g để
trao đổi với nhau nhữ g ư tư thời cuộc.
dè, một tuần sau, tờ Việt Nam Hải Ngoại xuất bản ở San
Diego do Luật ư Ði h Thạch Bích chủ i ho đă g tro g
mục phiếm luận bài viết “Ðỗ Ngọc Yến là cháu Ðỗ Mười”. T i
gọi điện thoại hỏi a h Bí h, a h ười ngặt nghẽo bảo: “Tớ
chọc Yến chút cho vui ấy mà”. Ðú g là “Tướng núi Ðinh
Thạ h Bí h” ủa thời kháng chiến chống Pháp trong chiến
khu núi Bà Ðen của Trình Minh Thế vào nhữ g ă 1950.
Nhà báo Đỗ Ngọc Yến, sáng lập Nhật Báo Người Việt.
(Hình tư liệu báo Người Việt)
110 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Cũ g đú g, à ũ g ai.
Một lần khác, lúc phong trào cứ gười ượt biển lên cao
độ, anh Yến bàn luậ ay ưa ới tôi nhiều công tác lắm. Thế
rồi đến giờ họp cùng các anh em khác, anh không xuất hiện.
KÝ | 111
Tôi gọi điện thoại đến nhà thì mới biết, a h đa g điềm nhiên
coi tin tức truyền hình.
Theo tôi, thực ra, anh Yến không hẳ là gười đánh trống
bỏ dùi. Vì nếu quả là hư thế, thì các phong trào thanh niên
mà anh có công gầy dự g đã kh g đạt được những thành
quả đáng kể trong mấy chụ ă q a, à áo Người Việt
không ngày càng phát triể hư hiện nay. Anh Yế là gười
ó đầu óc chiế lược. Anh nhìn ra vấ đề và thảo luận với
gười khác. Còn việc thực hiệ , “… not his business”.
Người phụ nữ a lư g
Câu nói hầ hư ai ũ g iết, “sau sự thành công của một
người đàn ông, lúc nào cũng có bóng dáng một người phụ
nữ”.
khác, anh Yến chắc chết. Tức là chết là cái chắc. Một cách bỗ
bã bình dâ , “Chỉ có Giời mới chịu nổi ông ấy”.
Nhà báo Đỗ Ngọc Yến (cầm microphone) tại Trại Sinh Viên Đà Lạt
năm 1973; tác giả (tay trái gãi đầu). (Hình tư liệu của tác giả)
Vậy mà khi chúng tôi ra xe, tỉnh queo, anh leo lên và bảo
t i ghé ga g hà để anh mang theo “một chiếc áo”. Khi trao
cái túi cho anh, chị Loan thản nhiên quá chừng chừng, vì chị
đã q á quen với lối sống kiể đó ủa anh.
Cả anh Yến lẫn chị Loa , t i hưa hề nghe anh chị khoe về
các chá . Có gười thì cho rằng, anh Yến ngầ đưa ác con
vào những vị trí then chốt của tờ Người Việt. T i thì ghĩ
khác. Các cháu giỏi, và nhất là còn trẻ, các cháu xứ g đáng
để kế tụ o đường mà các bác các chú trong tờ báo đã ó
công khai phá. Chúng ta chẳng từng tỏ o g ước là phải có
thế hệ kế thừa đó ao?
Tôi tin là dù không nghe nói ra, anh hẳn phải hài lòng vì
những nỗ lực và thành quả à a h đạt được. Những thất bại
của a h, t i hưa ó dịp nghe anh tâm sự. Còn về những bí
116 | ÐINH QUANG ANH THÁI
C
uối cùng, anh Nguyễn Chí Thiệ đã đi đến chặng
chót của cuộ đời: tro cốt của a h được an vị lúc 11
giờ sáng Thứ Nă , 11 tháng 10, 2012, tại Nhà Thờ
Chánh Tòa Giáo Phậ Ora ge – từ g ó t là Nhà Thờ Kiế g
– Q ậ Ca , Califor ia.
Từ rạ g á g, trời rả rí h ưa!
Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện tại phòng làm việc của tác giả.
(Hình: Uyên Nguyên)
Kh g gờ a h đi a hư thế. Cá h đó ới ó 5 gày,
tr đườ g đi phi trườ g, e đế thă a h tại ệ h iệ .
A h ố dĩ đã khẳ g khi , ay lại đa ệ h hì a h
gầy trơ xươ g. A h ho từ g ơ , ó lú phải dù g tay hặ
KÝ | 119
Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện tại Họp Mặt Dân Chủ 2005
ở Nam California. (Hình: tác giả)
Sẽ có một ngày
Con người hôm nay
Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng
Trả lại khăn tang
Xoay ngang vòng nạng oan khiên
Về với miếu đường mồ mả gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao nhiêu thù hận tan vào hương khói
Sống sót trở về phúc phận an thân
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ kính cẩn dâng lên
Này vòng hoa tái ngộ
Ðặt lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên Tã Trắng thắng Cờ Hồng.
ới “tiếng mục đồng êm ả, tình quê bao la, thay tiếng Quốc
Tế Ca bằng tiếng diều cao vút trong chiều tà, trên ruộng
đồng quê ta.”
(từ trái) Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, Đinh Quang Anh Thái, Ngục sĩ
Nguyễn Chí Thiện tại một quán ăn ở Quận Cam, California nhân
dịp tác giả “Truyện Kể Năm 2000” sang thăm Mỹ năm 2011.
(Hình: tư liệu của tác giả)
đừng tiêu pha nhiều, chứ anh một thân một mình chả có ai
để phải lo lắng, anh trả tiền cho chú.” Nhiề ă Tết, a h
ò dúi ào tay e hai tră ạ để ừ g t ổi hai o e . Và
ũ g hiề lầ a h đưa tiề ho e gửi ề ho hữ g gười
đấ tra h dâ hủ ở q hà.
Di ảnh và tro cốt của Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện. (Hình: tác giả)
Đ
oàn Kế Tường là một trong số tù nhân chính trị
bị bắt sớm nhất, sau khi Cộng Sản chiếm miền
Na ă 1975.
Một số tác phẩm của Tườ g: Mùa Hoa Phượ g (thơ, 1971),
Ngày Dài Tr Q Hươ g (Ký, 1972), Lò g Ta Lá Rụng Ven
Đườ g (thơ, 1974), Ảo Vọng (truyện ký, 1989)…
Đoàn Kế Tường, lúc ra khỏi tù, làm cho báo Công An.
(Hình: Huy Đức cung cấp)
Chúng tôi gặp nhau tại phòng 10 khu BC trại giam T30 Chí
KÝ | 129
Tường tham gia phục quố ă 1976 à thể hiệ ước vọng
của ì h tro g ài thơ rất dài, “B Bờ Khe Đ g Dươ g”:
Tường giải thích, củ nầng mọc ở các truông cát Quảng Trị.
Củ nầ g to hơ loại khoai khác, rất độc, nên muố ă phải
ngâ ướ đái cho thải hết chất độc, luộc kỹ mới ă được.
KÝ | 131
Tường thuộc làu cả kinh Phật lẫn kinh Công Giáo. Hỏi,
Tường bảo, thuộc kinh Phật từ lúc 5, 6 tuổi, do hà kh g đủ
cái ă , ho ứ hễ tro g là g ó gười chết, mạ của Tường
dắt o đế đám ma cúng vái, để đượ gia đì h gười chết
cho miếng xôi, cái bánh. Nghe cá ư tụng niệm, dần dà,
“kinh nhập vào người lúc nào không biết.” Còn kinh Công
Giáo, Tường họ để lấy vợ.
Một buổi sáng, trại giam vừa đánh kẻng báo thứ , Tường
chồm dậy nhìn sang, nói, “hôm ni trại cho ăn mắm ruốc Thái
ơi”. Quả thật tôi ngửi thấy mùi khă khẳm, tanh tanh.
Tường cuống quít chuẩn bị hé để nhận mắm ruốc. Tức là
ài thìa ước muối pha chút mắm ruốc.
Chả là hai đứa tôi bị công an trại sắp chỗ nằm sát cầu
tiêu, cả ngày chị đựng mùi phâ , ùi ước tiểu. Nhiề đ
hai đứa thức trắng vì có bạn tù bị tiêu chảy ôm quần chạy
thục mạng cả chục lần vào ngồi cầu. Mùi tanh khắm lặm.
May mà trong bụng teo tóp không có chút gì, chứ kh g đã
ọc hết ra rồi.
Sá g đó, Tường và tôi lầm mùi phân với mùi mắm ruốc.
Khốn nạn cái đời tù! Khốn nạn cái chế độ không có bộ mặt
gười đày đọa o gười!
mắm ruốc, nửa câ đường, nải chuối, bịch thuốc rê, bịch
thuốc lào, và chút thịt chà bông cùng một dúm thịt kho. Đó
đã là phần chắt chiu lớn lao cả hà dà h để nuôi chồng, nuôi
con trong tù.
tôi và hỏi han về t i. Như g ối thơ, tôi không hiểu tại sao
Tường nhắn “Thái dành lo cho cha mẹ anh em, không nên sẻ
cho tui.” T i đoán, chắ gia đì h t i dè hừ g điề gì đó
khiế Tường ngại.
Bạn bè còn lại quê nhà nhắ ti , Tường “bệ rạc quá, viết
nhiều bài bôi nhọ anh em phục quốc.”
Xa quê nhà nửa vòng trái đất, tôi không thể phán xét gì về
bạn mình. Chỉ thầ ghĩ, ái ÁC tro g o gười Tường lại
lấn cái THIỆN rồi.
*
KÝ | 135
Tường chết bệnh ngày 3 Tháng Chín, 2014 trong bệnh viện
ở Sài Gòn. Nhà báo H y Đức báo ngay tin này cho tôi, và nói
sẽ đến viế g Tường lầ hót trước khi thi thể đượ đưa ề với
đất ở Hải Lă g. H y Đức cho biết, goài ài gười cháu và
bạ è ă ghệ, không có ruột thịt ào Tường lúc
Tườ g ra đi.
Nhớ bạn, tôi nhớ lúc còn tù, có lầ Tường nhận giỏ thă
nuôi với tên gửi là gười chị ruột. Trong giỏ, cùng với thức
ă , ó ái khă tắm lớn à à g ò thơ “ ùi Mỹ” à ục
xà phò g Dial. Tường cắt cái khă hia ho t i ột nửa, nói
hư ốn khóc,“vợ con tui đi rồi.”
Tườ g ơ thế thôi. Chứ ngày về nếu có, chắc không còn
ai, dù là “Người về đêm nay ta không mong.”
Tường chết rồi. Đã trả xong một kiếp gười mà không thỏa
o g ướ hư thơ Tường viết:
Thươ g ạn!
Đọc bài viết của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, tôi mới biết
Tường có lần tự phán “mình rất tiếc đã tự bôi đen đời mình
KÝ | 137
quá nhiều.”
Tuấn Khanh viết: “Đời người vinh quang hay tủi nhục có
lúc rồi cũng đến điểm cuối cùng là phù du, vô nghĩa. Trên
đất nước này, cũng có hàng triệu người như nhà báo Đoàn
Thạch Hãn nằm xuống và gây tranh cãi – bởi đất nước của
chúng ta là một phác đồ của nghịch cảnh, phác đồ của mỗi
cá nhân bị buộc phải chịu trách nhiệm thay cho các nền
chính trị đã điều khiến dân tộc này, chưa thấy đủ yêu
thương đã ngập hận thù. Tất cả chúng ta đã hoặc đang là
nạn nhân của chính trị. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có
một phần trách nhiệm, không thể chối cãi trong những bước
đi của đời mình.”
D
ạo nhữ g ă a ày, t i ị ám ảnh và sợ tiếng
h g điện thoại reo lên giữa khuya. Vì lần nào
ũ g đều là tin chẳng lành.
Mười một giờ 20 phút khuya Thứ Tư, Hai Tháng Ba, 2013,
h g điện thoại reo. Phạm Phú Thiện Giao gọi, tin buồn
lắm, “Trịnh Hội từ Manila báo Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích đột
ngột từ trần trên chuyến bay từ Hoa Thịnh Ðốn sang
Philippines dự Họp Mặt Dân Chủ; và trên máy bay có cả bà
Nguyễn Ngọc Bích là Tiến Sĩ Ðào Thị Hợi và Giáo Sư Ðoàn
Viết Hoạt.”
Gọi cho chú Nguyễn Ngọc Linh ở Virginia, chú Linh, bào
huynh của Giáo Sư Bí h, giọ g khà đặc: “Cô Hợi dùng điện
thoại trên máy bay báo tin cách đây khoảng hơn hai tiếng và
140 | ÐINH QUANG ANH THÁI
cho biết chú Bích vào phòng vệ sinh, khi về lại chỗ ngồi thì
lên cơn nhồi máu cơ tim, đột tử.”
Hơ hai giờ sáng giờ miền Ðông Hoa Kỳ, t i đánh thức
Giáo Sư Ng yễn Mạ h Hù g, Trươ g A h Thụy, và cả anh
Nguyễn Xuâ Nghĩa, hú Ng yễn Thái Sơ ở Quận Cam,
California.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích thuyết trình về Trống Ðồng Việt Nam
tại Viện Việt Học, California. (Hình: Uyên Nguyên)
giọ g đứt quãng: “Sửng sốt! Ðau buồn!” Chú Nguyễn Thái
Sơ ói: “Bích lành và thủy chung với tất cả mọi người. Tấm
lòng như thế mà sao lại đột tử!” Anh Nguyễn Xuâ Nghĩa
ói hư hét tro g điện thoại: “Cái gì!”
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích tại nhà Nhà văn Trương Anh Thụy
Virginia. (Hình: Trương Anh Thụy)
Nhớ, thời chú làm Giám Ðốc Ban Việt Ngữ Ðài Á Châu Tự
Do, mỗi khi chú chấp bút viết một bả ă ằng Anh ngữ,
Phó tổng giá đố đài là hà áo Dan Southerland phải thốt
lên, không thể sửa, dù một dấu phẩy bài chú viết. Không chỉ
KÝ | 143
Anh ngữ, chú còn thông thạo tiếng Pháp, là thơ Hài Cú
tiếng Nhật, đọc tiếng Hoa, hiểu tiếng Ðức và tiếng Spanish
đủ để đi a ắm.
Nhớ, tính chú hiền, chẳng hề một lần to tiếng, trách móc
ai. Chỉ vài lần thấy chú khó chịu, nét thể hiện duy nhất là
mắt hú kh g ười, nghiêm nghị hì gười đối diện.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích qua ống kiếng của Nhà văn Trương
Anh Thụy.
Nhớ, thì chú còn biết ao điề để nhớ tới. Và biết bao
gười nhớ chú.
Như Giáo Sư Ng yễn Mạnh Hùng nhớ: “Cú điện thoại hai
giờ sáng của Ðinh Quang Anh Thái đánh thức tôi, báo tin
Nguyễn Ngọc Bích, một người bạn thân, đã chết trong máy
bay trên đường đi Phi Luật Tân dự một hội nghị về Biển
Ðông. Mấy tuần trước, tại phòng hội báo Người Việt tôi còn
thấy Nguyễn Ngọc Bích nói sang sảng trong buổi ra mắt
sách ‘Nhìn Lại Sử Việt’ của Lê Mạnh Hùng. Buổi sáng, lái xe
trên đường Little River Turnpike đi về hướng Washingon, DC,
qua lối rẽ vào Pinecrest Vista, tôi sực nhớ đến một người bạn
thân khác, Như Phong Lê Văn Tiến, 'nhà báo của các nhà
báo.' Anh mất đã 15 năm mà mỗi khi nghĩ đến tưởng chừng
như mới mất hôm nào. Tháng trước, Ðinh Cường, một tên
tuổi của Hội Họa Sĩ Trẻ một thời bùng nổ sáng tạo, cũng ra
đi. Bạn bè chết dồn dập quá! Tôi có cảm tưởng như một
người lính trận thấy đồng ngũ trúng đạn, gục chết chung
quanh, từng người từng người. Những người chết là các bạn
tôi biết trong thập niên 1960 ở Mỹ hoặc ở Việt Nam. Thời ấy,
tôi về Việt Nam với nhiều hy vọng và ước mơ. Chúng tôi chia
sẻ với nhau niềm lạc quan và sự tự tin của tuổi trẻ. Bây giờ,
những người thuở ấy lần lượt ra đi. Ðối với thế hệ chúng tôi,
còn sống hay đã chết, cuộc chiến cũng đã tàn. Thời gian bắn
KÝ | 145
từng viên đạn chính xác vào mỗi người. Người còn lại
thương tiếc người ra đi cho đến khi người cuối cùng gục
xuống.”
Như hà áo Phan Tấn Hải nhớ: “Tôi tin rằng cái chết của
Giáo Sư Bích chỉ vì vỡ tim mà chết: đó là cái chết của một
người yêu nước mình tha thiết, chết trên bầu trời Biển Ðông,
chết trên chuyến bay từ Mỹ sang Manila để bênh vực cho quê
nhà. Và cảm xúc tràn ngập, Giáo Sư Bích vỡ tim mà chết.
Chưa từng có ai như thế.”
Riêng cháu, cháu mãi mãi nhớ chú: một TÂM HỒN VIỆT.
Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trong mắt Giáo sư
Nguyễn Ngọc Bích (Hình tư liệu của tác giả)
Bùi Bảo Trú :
Tâ , Tài à Tật
(Tháng 12, 2016)
B
a t ầ trướ gày hắ ắt, a h Trú gọi điệ
thoại ói, “cậu Thái ghé qua Little Saigon Radio
lấy $300 tiền mặt và chuyển về Việt Nam biếu
các con bà Cấn Thị Thêu giùm tôi.”
Ký mục gia Bùi Bảo Trúc (qua ống kính Huỳnh Ngọc Dân)
Phóng bản lá thư chuyển tiền về giúp gia đình người phụ
nữ chết đuối ở Quảng Bình. (Hình tư liệu của tác giả)
150 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Hình con khỉ Bùi Bảo Trúc dùng cho loạt bài Thư Gửi Bạn Ta
đăng trên báo Người Việt và thủ bút ghi chú của ông.
154 | ÐINH QUANG ANH THÁI
T
rần Ngọc Tuấn gọi t i là “Người khách mùa
Ð g.”
chuyện tâm tình giữa nhữ g gười trẻ từng thuộc hai miền
đất thù nghị h đã là ật lên nhiều cảm thông lý thú.
Vì thế mới có Cánh Én, một trong những tờ báo của công
nhân và sinh viên Việt Na tr đất Ðức vừa thống nhất. Ðể
th g ti à tra h đấu cho Việt Nam dân chủ tự do.
Rồi tôi lên tàu, mang theo hình ảnh của anh em Cánh Én
với cái túi ni lông của Hoài Hươ g ho, tro g ó ổ bánh
ì à hai ước ngọt.
Ngoài trời, tuyết trắng xóa. Tôi chợt nhớ đến những cuốn
phim về Thế Chiến Thứ Hai, với cá toa tà đầy lính Ðức
Quốc Xã chuyển quâ à ú g đạ đi ào ác quốc gia Ðông
Âu. Hình ảnh ấy đối với t i trướ đây chỉ xem trong phim
ả h, hư g h ay, hí h t i đa g gồi trên tuyế tà đó,
ũ g đi ề hướng Ðông Âu.
của từ g gười, mới thấy sao Việt Nam mình nhiều chuyện
buồ đến thế.
Ô g “Gó Ðộ”
Lầ đầu tiên tôi vào Tiệp là ă 1990. Lú đó, đất ước
ày đa g tr đà hồi sinh sau cuộc Cách Mạng Nhung. Tôi
đến Tiệp chỉ với mụ đí h kết bạn với gười Việt mình, những
gười mà hầu hết có quá khứ thuộc về chế độ Xã Hội Chủ
Nghĩa iền Bắc. Tôi còn nhớ tâm trạng xốn xang của mình
buổi chiều tối h đó. S ýt ữa thì tôi bị rơi lại tại sân ga
bốc rỡ hàng Plzen. May mà có một gười Tiệp ói được tiếng
Anh cản lại, và bảo cho tôi là ga hành khách Plzen ở trạm kế
tiếp ơ. Hai trạm cách nhau vài cây số!
trung gian một gười bên Ðông Ðức giới thiệu bằ g điện
thoại.
(bên trái) “Ông Góc Độ” Ngô Văn Chính và tác giả
tại nhà ga xe lửa Plezen. (Hình tư liệu của tác giả)
162 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Bữa cơm và “chè lá” làm quen ngay ngày đầu tại Tiệp: tác giả (để
râu), bên trái là Trương Tiến Dũng và anh em sinh viên, công
nhân tại Plzen. (Hình tư liệu của tác giả)
Chàng ta lôi ngay hai số báo đầu tiên của tờ Ðiểm Tin Báo
Chí và tờ Diễn Ðàn Praha ra khoe và nói về phong trào dân
chủ của anh em Ðông  . Nghĩa là kh g hỉ ở Tiệp, mà còn
ở Ðứ , Ba La , B lgaria, Nga. Dũ g ói, a h Chí h đã góp
nhiều công trong việc in ấn tờ Ðiểm Tin Báo Chí, nhờ chức Bí
Thư Chi Bộ, anh ấy dễ dàng quan hệ với mọi gười để từ đó
gây pho g trào. Dũ g sau này trở thành Chủ Tịch Phong Trào
Liên Kết Người Việt Tại Ðông Âu.
Theo lời giải thích của Trươ g Tiế Dũ g, ì thời tiết quá
lạ h, gười mình mặc quá nhiều lớp áo quần cho ấm, trông
KÝ | 165
Khi cuộc Cách Mạng Nhung bùng nổ trên khắp đất ước,
bọn Phủi bắt đầ kéo ha hà g đoà đi tì Xù à đánh.
Nhiều chuyệ ghe đến hãi hùng. Một anh công nhâ đi tr
tà điện bị bọn Phủi dùng một cái đi h dài đó g ào đầu, rồi
hú g q ă g xác anh ra khỏi toa xe trong lú tà đa g hạy.
Một nữ sinh viên thì bị chúng vây trên tàu, cứ chửi một câu
lại bẻ một cánh tay của cô. May mà cô số g ót hư g phải
nằm bệnh viện cả tuần lễ. Tại Ostrava, một thành phố nằm
về phía Ðông, gần biên giới Ba Lan, bọn Phủi còn kéo nhau
đến vây đánh một h g ư ủa công nhân Việt Nam. Công
nhân rút lên lầu tử thủ, cảnh sát phải đến giải vây.
làm, lấy đi ủa cải của dân bản xứ. Thế là Xù bị chặ đánh ở
các sân ga, cá gõ đường vắng, và ngay cả ơi thị tứ.
Trong bối cảnh ấy, Chí h, Dũ g, Cường, Bửu, Lan, Hà, Yến
là nhữ g gười khai sinh ra tờ báo đầu tiên của gười Việt
tại Tiệp: tờ Ðiểm Tin Báo Chí. Thoạt tiên, anh em chỉ có nhu
cầ th g ti ho đồng bào về những diễn tiế tr đất Tiệp,
bằng cách dịch các bài viết trên báo Tiệp sang Việt ngữ, vì
ngoại trừ sinh viên, công nhâ gười mình hầu hết không
thông thạo tiếng bản xứ. Thế thôi, chứ hưa ấy ai có ý thức
về nhu cầ đấu tranh dân chủ tự do. Dầ dà, đọc báo chí của
Tiệp viết về tội ác của Cộng Sản Tiệp, Cộng Sản Nga, về cuộc
đà áp phong trào nổi dậy Mùa Xuân Praha 1968, Ðiểm Tin
Báo Chí bắt đầu chuyển thành tờ báo của phong trào dân
chủ, tạo nguồn cảm hứng cho các tờ Diễn Ðàn, Thời Mới, Tự
Do, Tin Sáng, Cánh Én, Thông Ðiệp Xanh, Thiện Chí...lầ lượt
ra đời tại cá ước Ðông Âu, và Nga.
Quần áo Dù “tr g ực má ”
Ấy chết, phải nói ngay kẻo bị hiểu lầm. Công nhân miền
Bắ lao động tại Ðông Âu dùng chữ “ ực má ” để tả sự tuyệt
hảo, number one, hết chỗ chê.
Nhị Thiên Ðường (tên một loại dầu gió sản xuất ở miền
Nam)
Tam Tông Miếu (lịch tập, có ghi ngày tháng tốt xấu)
Bử ă dặn tôi nhiều lần là về Mỹ, nhớ gởi cho Bửu một
bộ quân phục Nhảy Dù để mặ ho ó “ á .” T i đã là
điề đó à giao tận tay Bửu trong chuyế đi Tiệp lần thứ
nhì.
170 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Từ những sự thực bị ư g ít
Trươ g Tiế Dũ g là gười tổ chức cuộc biể tì h đòi trả
tự do cho nhữ g gười đấu tranh tại Việt Na , điển hình là
Bá ĩ Ng yễn Ðan Quế, Giáo ư Ðoà Viết Hoạt, Ngụ ĩ
Nguyễn Chí Thiện… Cuộc biểu tình diễ ra trướ Tòa Đại Sứ
Cộng Sản Hà Nội tại thủ đ Praha ào ột đ tháng Giêng
ă 91, q y tụ rất nhiều khuôn mặt trẻ. Ðó là dịp tôi gặp Cù
Lần, Lê Thanh Nhàn, Hồ Vă Hải.
Năm 2005: Tác giả và Trương Tiến Dũng, Chủ tịch Phong Trào
Liên Kết Người Việt tại Tiệp. (Hình tư liệu của tác giả)
đại học Praha, xuất thân từ gia đì h có gốc gác lớn của chế
độ. Cả bố lẫn mẹ đề là đảng viên Cộng Sản cấp ao. Dũ g
kể, lúc chiến tranh chấm dứt trưa 30 Thá g Tư ă 75, Dũ g
mới 15 tuổi, đa g i h hoạt trong Ðoàn Thanh Niên Cộng
Sả . Nă 78, Dũ g đượ a g Bì h Nhưỡng dự Hội Nghị
Liên Hoan Thanh Niên Quốc Tế Cộng Sản. Ngồi cạnh một cô
trong Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Bắc Hàn, cô hỏi Dũ g, xi
đồng chí cho biết tình hình chống Mỹ của nhân dân Việt Nam
tới đâu rồi? Nghe câu hỏi đó, Dũ g ýt ữa té bổ ngửa! Ðã
a ă Việt Nam chấm dứt chiến tranh, Việt Na đã “thắng
Mỹ” từ 1975 rồi, thế mà cái cô Bắc Hàn này còn nêu một câu
hỏi động trời hư ậy. Trên chuyến bay về lại Hà Nội, Dũ g
vẫn còn thắc mắ hư g hưa hì h d g ổi chế độ Bắc Hàn
đã ư g ít th g ti gh khiếp đế đâ . Dũ g ói, ột đoàn
viên thanh niên Cộng Sản mà còn bị bịt mắt bịt tai đến vậy
thì huống hồ dân chúng.
giố g ha : ư g ít th g ti !
Năm 2005, lần thứ 3 tác giả về lại Tiệp: (từ trái) Đức, Hồ Thanh
Hải, Nguyễn Cường, tác giả và Trương Tiến Dũng. (Hình tư liệu
của tác giả)
KÝ | 173
Tuấn thế đấy. Bực l là... ă g hết, chả chừa thứ ngôn
ngữ nào. Bộ đội mà. Từ g đi đánh bọn diệt chủng Khờ Me Ðỏ
Ka p hia. Đã ống sót trở về thì còn sợ đếch ai nữa.
Tuấ ói ă g ỗ bã thế chứ viết hay ra phết. Chỉ phải mỗi
cái tật lề mề, đ i khi là a he phát cáu.
Cù Lần
Trần Hồng Hà, bút hiệu Cù Lần, là Tổng Biên Tập tờ Diễn
Sinh viên biểu tình trước tòa đại sứ Cộng sản Việt Nam ở Praha;
người có dấu x là Trần Hồng Hà, bút hiệu Cù Lần (Hình: Nguyễn
Cường)
Ðàn Praha, tờ báo quan trọng nhất trong số các báo hí độc
lập đầu tiên của phong trào thanh niên-sinh viên Việt tại
Ðông  ra đời ngay sau Cách Mạ g Nh g 1989. Hà được
oi hư ột trong nhữ g o hi đầ đà tro g ao trào
báo chí phản kháng của gười Việt ở Tiệp Khắ , ũ g hư ở
Ðông Âu. Các bài ký, phóng sự, bài dịch và nhữ g dò g thơ
của Hà nói về cuộc sống của giới thanh niên công nhân xuất
KÝ | 175
khẩ lao động, du học sinh... từng tạo nên nhiều cảm xúc lớn
trong lòng bạ đọc. Thiên phóng sự Kẻ Ðào Tẩu của Trần
Hồ g Hà đã góp ặt trong tuyển tập Hai Mươi Nă Vă Học
Việt Nam Hải Ngoại do nhà xuất bản Ðại Na i ă 1995
tại California. Với bút hiệu khác là Hà Minh Thọ, Hà còn dịch
sang tiếng Việt cuốn Animal Farm: A Fairy Story của ă hào
George Orwell, với tựa tiếng Việt là “M ông Cầm Trại.”
Sinh viên và công nhân Việt Nam tại Tiệp biểu tình đòi tự do cho
quê nhà trước Tòa Đại Sứ Hà Nội ở Thủ đô Praha; người đi hàng
đầu có dấu x là Trần Hồng Hà, bút hiệu Cù Lần, Tổng biên tập tờ
Diễn Ðàn Praha. (Hình: Nguyễn Cường)
Lần cuối cùng tôi chia tay Hồng Hà là một buổi sáng
Thá g Hai ă 1992 ở sâ ga Praha. Hà h đáo vô cùng.
Ð h trước hầ hư thức trắng với nhau tại ký túc xá
Strahov của đại họ Praha, ơi Hà đa g theo họ gà h điện
tử, à ũ g là ơi a h e là áo bí mật. Hà lo cho tôi từng
chút cái ă ì ợ t i đói, từng chút cái mặc vì sợ tôi không
chịu nổi thời tiết giá rét ở Tiệp. Gần sáng, Hà dụ t i đi gủ.
Tôi vừa chợp mắt thì Hà đã gọi dậy để chuẩn bị ra ga. Câu
cuối trước khi chia tay, Hà hẹn, chắc chắn sẽ có ngày chúng
ta đó đưa ha ở ga Hà Nội, ga Sài Gòn, anh ạ!
Sinh viên và công nhân đến Tòa Đại Sứ Bulgaria phản đối việc
trục xuất cả một tập thể người lao động Việt Nam về nước trước
khi hết hợp đồng lao động; người có dấu x là Trần Hồng Hà, bút
hiệu Cù Lần. (Hình: Nguyễn Cường)
KÝ | 179
Post card tác giả gửi báo Người Dân. (Hình tư liệu của tác giả)
Bia bọt tràn cung mây. Bà con mình ở Ðông Âu nói chung,
Tiệp nói riêng, có lối xư g h “a h a h hú hú” rất thân
tì h, y hư tro g ột ngôi làng nhỏ ào đó ở miền Bắc. Ông
KÝ | 181
Góc Ðộ luôn miệng, “anh bảo chú Dũng thế này, anh bảo chú
Cường thế nọ.” Cứ trên nhau một tuổi là có thể anh anh chú
hú được rồi.
Gần giờ Giao Thừa, ghĩa là đã áng Mùng Một Tết tại quê
hà, Dũ g hỏm dậy ra khỏi phòng. Khoả g hơ ửa giờ
a , Dũ g trở lại với khuôn mặt bực bội. Dũ g ảo, gọi điện
thoại về chúc Tết, bố em giáo dục em về ghĩa ụ trung với
Ðảng. Em bèn bảo, “tuổi trẻ của bố có ai khuyên can khi bố
đi làm cách mạng không mà bây giờ bố cản con. Và em nói
rằng, bố còn nói nữa là con cúp phone. Thế là bố em đưa
182 | ÐINH QUANG ANH THÁI
T
rên suốt chuyến bay của hãng Hàng Không Nga
Aeroflot từ Pari đến Mockba (Moscow), tôi ngồi
cạnh Janna. Menshikova Janna, một cô gái Nga tóc
vàng, mắt xanh, nói tiế g A h lư loát.
Thật ra tôi chỉ ý thức sự hiện diện của Janna lúc máy bay
bình phi. Từ lú đặt chân vào tới lú phi ơ ất cánh, tôi mải
sợ. Thảm lót sàn rách nát, có chỗ cộm lên từng cục, nhất là
ngay cửa vào, chỗ để mấy xe thứ ă , thảm rá h được lấp
liế q a loa hư ột đống giẻ dơ ẩn khiến tôi suýt vấp
gã. Chưa hết, chỗ để hà h lý tr đầu hành khách không có
nắp đậy an toàn, nó chỉ là một loại kệ chạy dài gắn vào thân
phi ơ.
“Ðó là cái giá cậu phải trả cho việc thăm địa ngục, thiên
đàng rẻ hơn nhiều,” anh bạn hôm chở t i đi xi i a à lấy
vé tại Pari đã ói với t i hư ậy.
Không một lời loan báo, phi ơ rú l từng chập rồi cất
cánh.
“Chắc lần đầu anh đi máy bay Nga,” một giọng nữ rót vào
tai tôi. Quay sang, cô gái tóc vàng ngắn, mắt xanh, mặc bộ
đồ nâ đa g hì t i hư hế giễu. Trông cô bình thả đến
độ tôi phát thẹn với nỗi lo sợ của mình.
KÝ | 185
“Gương mặt anh tố cáo điều đó,” ười, hơi thở thơ hi
lạ, một thứ mùi sữa trộn ít vị đắng của thuốc lá. “Tôi quen
rồi,” cô tiếp, “như thế này đối với tôi là nhất. Tôi thường chỉ
bay trong nội địa, đây cũng là lần đầu tôi ra khỏi nước và
trở về.”
Nhiệt độ trong máy bay mỗi lúc một nóng, tôi có cảm giác
ngồi cạnh một lò lửa. Dĩ hi gái Nga bên cạ h đã là ột
thứ lửa rồi. Ðúng là hơi dại, ùa Ð g ướ Nga đã hại tôi.
Trang bị đến tậ ră g, q ần áo trong, quần áo ngoài, châ đi
hai đ i tất len, còn lại đi giầy bốt cao cổ, mồ hôi tôi bắt đầu
rị ra ướt cả gười. Janna trả lời câu tôi hỏi, “sự thay đổi ở
nước tôi là một điều tốt, mọi việc thoải mái hơn trước nhiều,
186 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Vô tình, Janna tạt vào mặt tôi, “Có chứ, chẳng có gì tốt
đẹp về họ cả. Buôn chui bán lận, gấu ó lẫn nhau là tất cả
chuyện về họ.”
hồi lâu, tôi hỏi Janna, “Cô có biết, tôi cũng là người Việt?”
“Ồ, xin lỗi anh,” Janna lúng túng, “tôi tưởng anh là người
Nhật. Ðiều hồi nãy tôi nói không có gì là tuyệt đối. Dĩ nhiên,
tôi vẫn tin họ có người tốt.”
Người Nhật! Hai tuần lễ trước ở Tiệp Khắc, một gười bản
xứ ũ g hỏi t i hư thế! Hì h hư đối với nhiề ước, một
gười Á Châ tho g do g đây đó thì chỉ ó ghĩa họ là gười
Nhật.
Câu chuyện về đồng bào tôi bên Nga vô tình khiến cả hai
chúng tôi không ai nói với ai câu nào một hồi lâu. Anh bạn
đi ù g kh g hị được khói thuốc, ngồi cách tôi sáu hàng
ghế đa g gủ go là h. T i hì đồng hồ, 4 giờ 10. Bay 3
tiế g rưỡi, hai thủ đ ách nhau hai múi giờ, phi ơ ẽ đáp
lúc 7 giờ Mockba.
“Anh buộc dây lưng vào, phi cơ sắp đáp đấy, chẳng ai
nhắc và loan báo đâu,” Janna dịu dàng, “còn điều này nữa,
cẩn thận những thứ trên đầu.”
Oh! My God! Cái gì, khách sạn quốc tế 4 sao giữa thủ đ
mới 8 giờ 30 tối đã kh g ò gì ă . Bằng và tôi ngán ngẩm
ghĩ tới 5 ngày còn lại. Thấy quan tài rồi bạ ta ơi!
“Bây giờ bọn anh mặc em bố trí nhé, không được rời em,
tình hình căng lắm.” T i ýt phì ười vì lối ói đặc biệt Xã
Hội Chủ Nghĩa ủa Toàn.
Vừa ra tới đường, mặt tôi rát bỏng vì lạnh. Không rõ nhiệt
độ ao hi hư g t i ó g ả gười. Tôi chợt hài lòng vì
lúc tr phi ơ đã q yết định không cởi bớt lớp áo ngoài.
Trong tích tắc, cả hơ hụ gười vây quanh chúng tôi. To
lớn, bặm trợn, nón và áo l g ũ kỹ, đá gười này kỳ kèo
đòi đưa hú g t i ề khách sạn với giá 20 đ la. Toà ố kéo
chúng tôi ra khỏi đá gười này và dặ , đừng lên xe bọn
này, nó sẽ “trấ ” a h dọ đườ g đấy.
Chúng tôi cố đó taxi, ột, hai, rồi ba chiếc vừa dừng lại
đã ội rú đi gay. Bọ đầu gấu vây q a h hú g t i giơ tay
hă dọa nên không tài xế nào dá rước chúng tôi.
KÝ | 191
Một chiếc dừng lại, tôi vội vàng mở cửa chui vào, chợt
thấy Bằng hốt hoảng nhảy dựng về phía sau tay ôm vali che
ngực. Nha h hư ột con cắt, tôi vọt ra khỏi xe q ay gười
lại. Thì ra một trong những tay kỳ nèo chúng tôi nãy giờ đã
rút dao gă ra à đâm ngập vào bánh xe phía Bằ g đứng.
Tội nghiệp gười tài xế, kh g rướ được khách lại bị đâm
lủng bá h xe, a h ta đa g ố lái ra khỏi đá gười hung dữ
này.
Tên vừa đâm xe bám lấy tôi, “không đi xe tôi thì không xe
nào dám đón đâu,” hắn nói.
Tôi bắt đầu sợ, đất lạ không biết xoay sở ra sao. Tôi hỏi
Toàn, “báo công an được không?” Toàn trả lời, “ai người ta
thèm để ý mà báo, chúng nó ăn chia với nhau hết rồi.” Tôi
giành quyề “ ố trí” à đưa ra “phươ g á ”: ứ gọi taxi, khi
xe dừng là lên ngay khóa cửa trong, bảo tài xế chạy, bánh xe
bị đâm thì thay dọ đường, bọn tôi trả thêm tiền.
hai gười nhảy xuống tiếng Nga lào xào. Tôi xanh mặt, ông
già lái xe ày à là gười của bọ kia thì đối phó ao đây?
May quá, họ l xe đi tiếp. “yên tâm rồi, bọn họ hỏi đường đó
mà,” Toà ói. Hai ươi phút a xe tiếp tụ lă ánh, vừa
chạy được một quãng tôi thấy bên lề đường, một taxi không
có hành khách, tài xế đa g l i i thay ánh. Không biết đó
có phải là chiế xe đã đó hụt chúng tôi lúc nãy không, tôi tự
hỏi?
(từ trái) Ông tài xế taxi, tác giả và Toàn tại sân Intourist Hotel.
(Hình tư liệu của tác giả)
Theo một bản tin của Sứ Quán Việt Nam tại Nga, kể từ
Thá g Mười Hai, 1989, Cộng Sản Việt Na đưa a g Li X
(tên gọi chỉ cá ước Cộng Hòa hiệ ay độc lập) 103,392
gười lao động hợp tá tro g đó ó 52% là ữ. Sau nhiề đợt
bổ g à đưa ề ướ , tí h đến nay (1992) tổng số gười
194 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Việt ở Liên Xô còn lại là 52,000 được phân bổ làm việc tại
370 nhà máy, xí nghiệp ở 73 tỉnh, thành phố thuộc Liên Xô.
Trong số gười ói tr ó đến 40,000 làm việc tại 260 xí
nghiệp rải rác ở 49 tỉnh thuộc Cộ g Hòa Nga. Trước khi Cộng
Hòa Liên Bang Xô Viết sụp đổ, với đồ g lươ g tr g ì h là
200 rúp một tháng, so với giá thịt heo 1 rouble/1 kg, gạo
0.80/kg, tủ lạnh loại 120 lít/250 rúp, đời sống công nhân Việt
Nam ở đây tươ g đối khá ổn. Sau khi Cộng Hòa Nga tự trị và
trở thành một ước trong Cộng Ðồng Thịnh Vượng Chung,
lươ g hữ g gười công nhâ ày thay đổi, 500 rúp một
thá g hư g thịt heo tă g l 100 rúp/1kg, gạo 40 rúp/1kg,
tủ lạ h d g lượng 120 lít/5,000 rúp một cái.
Trở lại sinh hoạt của Ốp Búa Liềm, có thể tóm tắt thế này:
đây là ơi ẵn sàng thu mua tất cả mọi mặt hàng xuất xứ từ
bất kỳ đâu, kể cả mua hàng tấn hàng của “ai đó” “đá h” từ
Việt Nam sang bằng máy ay Aeroflot. Dĩ hi gười mua
thanh toán ngay bằng tiền mặt - “đồ g xa h.” Những tiếng
ló g hú g t i ghe gười Việt nói với nhau ở Ốp Búa Liềm:
Xa h (đ la Mỹ), Ðỏ (vàng), bộ đội (nhữ g gười Việt sống
bất hợp pháp ở Nga), gió béo (áo gió loại lớn), gió gầy (áo gió
loại nhỏ), quần bò (quần jean)... về giá cả, một chiếc áo gió
béo tại Việt Nam giá khoả g 4 dollar khi “đá h” q a Nga
gười chủ hàng lời từ 2-3 đ la ột cái. Qua tay nhiều trung
gia , gười tiêu thụ phải mua với giá khoả g 18 đ la tức
1,800 rúp một chiếc. Một bộ đồ ngủ mua tại Việt Nam
khoả g 2 đ la, án tại Nga là 5 đ la. Ngoài ra hú g t i
KÝ | 195
nổi tiếng của gười Việt tại Mockba. Theo lời Toà , trước kia
còn có Ốp Jean chuyên bán quầ ò ay đã ị dẹp.
loại hợp doanh của gười Bắc Hàn và Nga. Nhìn ba cái chén
được dọ ra t i đã hết cảm thấy đói. Hai tro g a ái, miệng
chén bị bể bằ g đầu ngón tay út, lòng chén còn bợn chút bột
xà bông rửa. Tôi quyết đị h ă á h ao để khỏi dùng chén.
T iă ống dễ tính vậy mà mới cắn miế g đầ ti t i đã
vội nhả ra lấy muỗng moi ruột và bỏ vỏ xuống bàn. Bằng
hỏi, “tệ lắm hả?” và không muố “đi ào ết xe” ủa tôi,
Bằ g ũ g hỉ moi ruột bá h ao ă .
M Do ald’ thì khác hẳn, rộng rãi, sạch sẽ, nhân viên
phục vụ vui vẻ, niềm nở. So sánh giữa một tiệ M Do ald’
198 | ÐINH QUANG ANH THÁI
tại Nga và loại tiệm này tại Mỹ, chúng ta thấy tiệm ở Nga có
bố điểm khác biệt; rộng gấp ười những tiệm bên Mỹ,
không có café, ketchup phải trả tiền giá 5 rúp một gói và cuối
cùng là, khá h ă xo g ứ để mặc mọi thứ tr à , gười
phục vụ sẽ dọn dẹp. Chú g t i ă ốn cái Big Mac, bốn ly
medium Coke, hai gói French Fries giá 7 đ la. Rẻ bằng một
nửa bên Mỹ hư g a hữ g gày đầu tò mò, số gười Nga
ào M Do ald’ giảm hẳ đi ì giá vẫn quá cao so với lươ g
của họ.
Ðọc tới đây chắ ó gười sẽ tự hỏi, cái ă kiếm khó thế
làm sao dân Nga sống, không lẽ họ sống bằng... khẩu hiệu.
Xi thưa, ố g được chứ, hư g ới giá bao cấp. Chế độ bao
cấp, đại loại là, lươ g g hân 1,000 rúp một tháng, gia
đì h hộ 2 phòng, 50 rúp một tháng tiề hà, điệ ga ưởi 30
rúp, xă g 1 lít/1 rúp (tức 1 Mỹ kim mua được 25 gallon). Số
tiền còn lại là mua thực phẩm giá quốc doanh tức phải xếp
hàng, 8 rúp một ổ bánh mì, 60 rúp một chai vodka... Riêng
về nhà ở, toàn thành phố Mockba chỉ có một loại nhà là
h g ư ao 20 tầ g, goài ra kh g tì đâu ra một ă
nhà xây riêng rẽ. Tập thể hóa đến thế đú g là “ ái nôi của vô
sả .”
Lúc chia tay, tôi biếu bà Katarosvic 400 rúp, bà ngần ngừ
có ý không muốn nhận vì số tiền nhiều quá. Tôi nhét vào túi
bà rồi leo vội lên xe taxi. Tội nghiệp à thư ký hà h hánh
của chính phủ, hai ngày cuối tuầ là th hư ậy không
rõ bà kiế được bao nhiêu. Tôi cầu chúc cho các bà mẹ Nga
cuộ đời sớm sáng sủa.
Tác giả trên phố Arbat, người cầm thuốc lá đứng bên trái là Toàn.
(Hình tư liệu của tác giả)
Kali i e, gười qua lại tấp nập. Tôi nhận ra nhiều loại ngôn
ngữ ở đây, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật và cả Việt Nam nữa. Riêng
nhữ g gười Việt Na đế đây hầ hư chỉ để bán hàng.
Nón lông có huy hiệu hồng quân 10 đ la, quần áo
mùa Đông của Hồng Quân 60 đ la, úp Nga La Tư 12 o
70 đ la, áo phụ nữ làm bằng lông thú giá từ 160 đến 900 đ
la. Một gười bạn gái bên Pháp cho tôi biết giá một bộ áo
l g hư thế tại Pari đắt gấp bốn lần.
chỉ nhậ “xa h” tức đ la Mỹ. Đủ thứ, quần áo, máy móc,
bánh kẹo, rượu thuốc lá toà đồ ngoại. Một hộp bánh ngọt
11 đ la (loại này mua ở Savon tại Mỹ 5 đ la) rượu Remy
Martin loại 3/4 lít giá 40 đ la (mua tại Mỹ 28 đ la)... Thấy
tôi tò mò quan sát hai gười Việt Nam mua máy cassette ở
đây, Toàn ghé tai tôi nói nhỏ, “dân Ốp Búa Liềm đấy anh ạ.”
Quả tình tôi rất ái ngại và cảm thấy có lỗi với hai bà già
lên xe trước bọn tôi, nay phải đi th ột đoạn nữa. Tôi nói
cả tưởng này với Toàn, Toàn tỉ h hư r ồi, ói, “hơi đâu
mà 'thương vay khóc mướn', bọn Nga chúng nó sống quen
thế rồi trong xã hội Cộng Sản.”
Lính Nga xem bói trên đường phố Arbat, Mockba. (Hình
tư liệu của tác giả)
204 | ÐINH QUANG ANH THÁI
Phi ơ đảo một vòng trên bầu trời Mockba, mới 5 giờ chiều
mà trời tối sập.
Thôi nhé, từ giã Mockba. Tôi chợt nhớ Jenna. Cầu chúc xứ
sở cô sớm tốt đẹp.