Professional Documents
Culture Documents
KURTULUŞ BAŞTIMAR
GIÃ TỪ
TỰ DO
Bản quyền bản tiếng Việt của quyển sách này thuộc
về Nhà xuất bản Tự Do với sự chấp thuận của The Right
Company và tác giả Kurtuluş Baştimar.
“Tôi dành tặng ấn bản tiếng Việt cuốn tiểu thuyết của mình
cho các thành viên Nhà xuất bản Tự Do, và tất cả những
người đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam.”
Kurtuluş Baştimar
MỤC LỤC
18 ......................................................................................... 204
19 ......................................................................................... 208
20 ......................................................................................... 222
21 ......................................................................................... 230
22 ......................................................................................... 235
23 ......................................................................................... 256
24 ......................................................................................... 264
25 ......................................................................................... 280
26 ......................................................................................... 287
27 ......................................................................................... 289
28 ......................................................................................... 299
29 ......................................................................................... 307
30 ......................................................................................... 331
31 ......................................................................................... 362
32 ......................................................................................... 367
33 ......................................................................................... 376
34 ......................................................................................... 396
35 ......................................................................................... 402
36 ......................................................................................... 408
37 ......................................................................................... 418
38 ......................................................................................... 427
39 ......................................................................................... 434
40 ......................................................................................... 445
41 ......................................................................................... 458
42 ......................................................................................... 470
43 ......................................................................................... 472
44 ......................................................................................... 475
Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài, người Kurd luôn
bị chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đàn áp. Chính quyền Thổ Nhĩ
Kỳ từng tổ chức nhiều cuộc tấn công thảm sát vào các khu
vực mà người Kurd sinh sống. Những ngôi làng bị đốt
cháy hoặc phá hủy, văn hóa, ngôn ngữ của họ bị cấm đoán.
Nhiều người Kurd bị trục xuất khỏi ngôi làng của họ…
Sau cuộc đảo chính quân sự năm 1980, ngôn ngữ của
người Kurd bị cấm hoàn toàn trong cả khu vực công cộng
lẫn riêng tư. Đã từng có nhiều người Kurd bị bắt, bị tra
tấn, bị bỏ tù chỉ vì họ nói, hát, viết, xuất bản… bằng tiếng
Kurd. Các đảng chính trị đại diện cho quyền lợi của người
Kurd bị cấm đoán.
cống hiến cho công việc bảo vệ quyền con người ở nhiều
nơi trên thế giới. Sứ mệnh của anh không chỉ dừng lại
trong phạm vi đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Đối với anh, một khi
đã là luật sư nhân quyền, anh phải đấu tranh để bảo vệ cho
bất kỳ ai bị xâm phạm về các quyền cơ bản trên khắp thế
giới. Chính điều này đã thôi thúc, và khiến anh trở thành
một luật sư nhân quyền cho những nhà hoạt động, những
tù nhân chính trị - những người đang đối mặt với sự lạm
quyền ở Cuba, Iran, Pakistan, Việt Nam, và nhiều quốc
gia khác nữa. Anh đã, và đang theo dõi sát sao những
trường hợp này, và bảo vệ họ tại các phiên họp của “Nhóm
làm việc về việc bắt giữ tuỳ tiện của Liên Hiệp Quốc.”
Những nỗ lực cùng với sự nhiệt tình của anh nhằm tác
động lên các quyết định của Nhóm này. Hiện nay, anh
cũng đang cộng tác chặt chẽ cùng với Nhà xuất bản Tự
Do để bảo vệ các thành viên, cựu thành viên, và cộng tác
viên của Nhà xuất bản.
Zoé Valdés sinh năm 1959 tại Havana, nơi cô viết thơ,
tiểu thuyết, và làm việc như một nhà phê bình văn học.
Năm 1995, cô trốn khỏi chế độ của Castro, và chuyển đến
đến Paris, nơi cô ấy tiếp tục viết lách. Cô ấy là tác giả của
một số tiểu thuyết, nhiều trong số đó được bán chạy nhất
ở Châu Âu.
1 Lezama Lima: Nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà viết tiểu luận người Cuba (1910 –1976)
2 Marcel Proust: Nhà văn Pháp nổi tiếng ở thế kỷ XIX (1871 – 1922)
3
In Search of Lost Time: “Đi tìm thời gian đã mất” là bộ tiểu thuyết 7 tập kỳ vĩ của
Marcel Proust, một trong những nhà văn lớn nhất thế kỷ 20.
"Tuổi thơ của Ahmet gắn liền với những bài ca dân gian
mộc mạc...” Vâng cuốn tiểu thuyết này chấm dứt sự tước
đoạt tự do của một loại ý thức hệ, và nó khuyến khích
chúng ta phải dũng cảm đứng lên để bảo vệ tự do bằng vũ
khí của sự hiểu biết.
Khi đọc cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Anh, tôi cũng có
thể cảm nhận ý thơ tuyệt vời của nó bằng ngôn ngữ Thổ
Nhĩ Kỳ, vẻ đẹp của việc xây dựng câu từ, ngữ điệu như
dệt nên một tấm thảm đưa chúng ta theo cuộc phiêu lưu
của nhân vật chính Ahmet. Tôi nhận ra rằng ngôn ngữ
quan trọng như thế nào đối với tác giả trong việc xây dựng
mọi thứ đều đại diện, và mọi thứ đều là tự do. Ngôn ngữ
là tự do, ngôn ngữ là tình yêu, ngôn ngữ là tình bạn, và
ngôn ngữ cũng có thể dẫn dắt bạo lực, và tội phạm chôn
vùi tuổi thơ trong thảm cảnh đau khổ đầy bạo lực, và máu.
Có những tác phẩm của một số tác giả làm bạn cảm
nhận đến đổ bệnh. Khi tôi đọc Albert Camus4 tôi đã bị ốm
nặng, sốt cao, tôi không thể đọc được vì tôi đã khóc rất
nhiều trước vẻ đẹp của ngôn ngữ, và nội dung của tác
phẩm. Điều tương tự đã xảy ra khi tôi đọc cuốn tiểu thuyết
này. Tôi đã khóc, tôi bị bệnh. Nó đã xảy ra bởi vì đúng
vào thời điểm mà người dân Cuba, đặc biệt là thanh niên,
trẻ em, thanh thiếu niên, tràn ngập các đường phố trên đảo
Cuba từ đầu này đến đầu kia trên đất nước tôi, và hô vang
đòi tự do.
Giữa nỗi đau dành cho đất nước, tôi đã đọc được “A
Farewell to Freedom.” Những gì cuốn sách tuyệt vời này
dạy là sẽ không có tự do khi không có hy vọng, và khi
chúng ta mất hy vọng, con đường dẫn đến tự do sẽ trở nên
xa, và ảm đạm hơn rất nhiều.
Trong câu chuyện này, bạn đọc Việt Nam sẽ bắt gặp
một cuộc chiến chống lại quyền phát biểu ý kiến, quyền
biểu hiện, và sự thiếu hiểu biết về sự tồn tại của một xã
hội. Theo tôi, người Việt Nam đang phải đối mặt với sự
cấm đoán tương tự về quyền có ý kiến, và quyền tự do
ngôn luận. Do đó, tôi dành tặng ấn bản tiếng Việt của “Giã
từ Tự do” cho Nhà xuất bản của tôi: Nhà xuất bản Tự do
cùng với toàn thể thành viên của nó, và tất nhiên cũng là
cho tất cả người dân Việt Nam.
Tôi rất vui nếu nhận được ý kiến đóng góp của bạn khi
bạn đọc “Giã Từ Tự Do” Mọi nhận xét và ý kiến của bạn
được hoan nghênh, xin gửi về địa chỉ email:
bastimar.kurtulus@gmail.com
Kurtuluş Baştimar
Tuổi thơ của Ahmet gắn liền với những bài ca dân gian
mộc mạc… Nhưng vì ngôn ngữ của dân tộc anh bị cấm
đoán, người dân chỉ còn có thể khao khát về một đất nước
tự do chỉ còn tồn tại trong tâm trí họ. Tuy nhiên, hiện thực
lại hoàn toàn rất khác biệt. Mặc dù vẫn tồn tại đầy rẫy
những áp bức, và sự ngăn trở ở ngôi làng nơi Ahmet sinh
ra, người Kurd vẫn không từ bỏ tiếng nói của họ. Thưở
thiếu thời, anh chìm đắm trong những câu chuyện dân
gian bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Anh sử dụng tiếng
Kurd để trò chuyện cùng bạn bè, và những người thân yêu.
Trong những ngôi nhà trú ẩn ở làng Koseli, huyện Bismil,
Ahmet không bao giờ muốn rời khỏi ông nội Abdullah
của mình lâu. Chỉ khi ông uống hết trà, Ahmet mới vội
5 Tỉnh Diyarbakır, còn có tên là Amed trong tiếng Kurd, là một thành phố tự trị, đồng
thời cũng là một tỉnh của Thổ Nhĩ Kỳ. Thành phố này ở về phía đông của Thổ Nhĩ Kỳ,
nằm hai bên bờ sông Tigris, với cư dân người Kurd chiếm đa số. Diyarbakir cũng là
một trung tâm văn hóa, và kinh tế lớn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Vì đa số dân số ở đây là người
Kurd nên thành phố này thường bị xem là một đầu mối xung đột giữa Chính phủ Thổ
Nhĩ Kỳ, và người Kurd.
6 Dengbêj là từ chỉ những nghệ sĩ hát Kilam, và Stran trong văn hóa truyền miệng của
người Kurd. Từ Dengbêj được ghép từ deng là 'âm thanh', bej là 'nói'. Các Dengbêj
thường đi từ làng này sang làng khác để biểu diễn, thể hiện tài năng của họ bằng
những sử thi, thánh ca, và những câu chuyện mà họ hát. Mặc dù có một số người
trong số họ sử dụng các nhạc cụ dân tộc như erbane (tambourine), matte (kaval) trong
khi hát, nhưng hầu hết các Dengbêj biểu diễn nghệ thuật của họ mà không sử dụng
bất kỳ nhạc cụ nào, chỉ dựa vào sức mạnh của thanh quản.
vàng chạy đi để rót đầy cốc trà mới, và nhanh chóng quay
trở lại vì anh không muốn bỏ lỡ một từ, một chữ nào của
ông. Ngay cả khi đã trở thành một thanh niên, mỗi lúc
nghe ông nội kể chuyện, anh vẫn như một đứa trẻ con tỏ
ra cực kỳ thích thú với những lời ca dân gian trong những
đêm dài mùa đông lạnh lẽo. Mặc cho bên ngoài căn nhà,
những cơn gió vẫn như hết sức giận dữ lao vào, tạo ra
những âm thanh gào thét như muốn xuyên thấu qua những
ô cửa sổ.
thanh xuân lại không bao giờ đến với những đôi lứa đang
yêu.
Thật khó khăn cho những đôi trẻ muốn bỏ trốn để bảo
vệ tình yêu trước những cấm kỵ, trong khi họ luôn lo sợ
bị truy đuổi. Sự trong trắng như chiếc thòng lọng trực chờ
quấn quanh cổ, và trói buộc các cô gái. Như những bông
hoa luôn hướng về phía mặt trời, các cô gái trẻ đành
chuyển sang dành thời gian cho công việc đan thảm, ren,
và viết lách để quên đi những tâm sự thầm kín, những khát
khao, và hy vọng. Các cô gái tưởng tượng về người đàn
ông mà một ngày nào đó họ sẽ trao gửi trái tim mình, trong
khi họ vẫn luôn tay đan, dệt, và thì thầm tâm sự về tình
yêu với những cuộn len. Các cô gái không được học cao.
Họ chỉ được học hết cấp hai, và sau đó phải nghỉ học để
làm việc trong nhà. Hầu hết các cô gái đã gặp người yêu
thời niên thiếu của mình ở trường, rồi chỉ có thể lưu lại
tình cảm với người con trai họ sẽ không bao giờ gặp lại
qua những bài thơ trên trang cuối của cuốn sổ tay học
tiếng Thổ Nhĩ Kỳ của họ. Hy vọng, và tình yêu của họ vô
cùng mãnh liệt. Họ hứa với nhau sẽ gặp lại sau khi chia
tay trường lớp, nhưng không hay biết rằng cuộc sống của
Các chàng trai trẻ cũng vậy. Họ không thể nói gì với
cha của họ, không thể thừa nhận rằng mình đang yêu. Đó
cũng là một trong những điều mà các ông bố sợ nghe thấy
nhất. Điều đó như thể một đứa trẻ đang trong vòng tay của
họ lại chia sẻ bí mật của chúng, và rồi sau đó sẽ biến mất
mãi mãi. Con trai trong làng hầu hết cũng không được học
nhiều. Số được học lên cao chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Những chàng trai trẻ chỉ học hết cấp ba. Nếu thật sự ham
học, họ mới có thể theo đuổi tiếp bậc đại học. Trong ngôi
làng Koseli nhỏ bé này, chị gái của Ahmet, Berivan là
người duy nhất làm được điều này.
Sau khi tốt nghiệp phố thông trung học, các chàng trai
sẽ phải bắt đầu cư xử như những người đàn ông, và cố
gắng chứng tỏ họ là trụ cột gia đình. Cha của họ giờ đây
hoàn toàn chịu trách nhiệm dẫn dắt những chàng trai,
trong khi các cô gái, và mẹ của họ sẽ phải đối xử với
những chàng trai trẻ này như những người đàn ông trưởng
thành, và không bao giờ được phép làm ngược lại ý họ.
Mặc dù trật tự trong gia đình được chấp nhận, nhưng tất
cả các thành viên thường vẫn e dè, và nhút nhát tránh xa
cha của họ. Chàng trai nào cũng chỉ tâm sự về người yêu
của mình với mẹ của họ. Nhưng họ đều chỉ nhận được lời
can ngăn: “Con vẫn chưa còn chưa đủ tuổi để kết hôn đâu,
cậu bé.” Cho dù mối quan hệ giữa họ có thay đổi, thì khi
người con trai thổ lộ về tình yêu, trong mắt người mẹ họ
vẫn chỉ là một đứa trẻ.
Ông nội của Ahmet là một người sùng đạo, biết tiếng
Ả Rập, và tiếng Ba Tư. Ông ấy đã dành phần lớn tuổi trẻ
của mình cho sự nghiệp giáo dục, bắt đầu với tư cách là
7 Thành phố Ankara trước đây gọi là Ancyra hoặc Angora, là thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ, và
là thành phố lớn thứ hai của quốc gia này sau Istanbul. Là thủ đô hành chính từ thập
niên 1920, Ankara đã có vai trò là trung tâm hành chính, nơi ở của các chính khách,
viên chức hành chính, và công chức Thổ Nhĩ Kỳ. Các nhánh quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng
đặt cơ sở ở thành phố Ankara.
một Imam8 tại nhà thờ Hồi giáo của làng Koseli. Sau quá
trình tham gia với vai trò tình nguyện viên trong suốt mười
năm, ông trở thành một thành viên trong cơ sở giáo dục,
và làm ở đó cho đến khi ông nghỉ hưu. Mỗi khi có sự hiểu
lầm trong làng, ông là người đầu tiên Ahmet tìm đến, và
anh luôn làm theo lời khuyên của ông. Ông Abdullah có
mái tóc trắng rậm rạp, và đôi má ửng hồng, nụ cười rộng
mở, và ánh mắt thân thiện, gần gũi, ông là người đáng tin
cậy của tất cả mọi người dân trong làng.
Cha của Ahmet là kiểu người đàn ông luôn cẩn trọng
trong từng lời nói, và ứng xử. Khi còn trẻ, ông đã từng
kinh doanh. vào thời điểm việc buôn bán trở nên khó khăn,
ông từ bỏ, và trở về mở một cửa hàng ở Sirnak, nơi mọi
người đều biết rõ về ông. Khi nghe đến cái tên Bedirhan
của làng Koseli, mọi người đều biết là ông.
Khuôn mặt ông có nhiều nếp nhăn, và mái tóc bạc phơ.
Các khớp ngón tay, và lòng bàn tay của ông đầy vết chai
sạn. Mũi của ông giống như một đường viền ngăn cách
8Imam: là một vị trí lãnh đạo trong cộng đồng Hồi giáo. Một Imam là một người lãnh
đạo phụ trách việc thờ phụng của một Nhà thờ, và cộng đồng người Hồi giáo.
hai nửa khuôn mặt. Trán ông nhô ra, và bộ râu phía dưới
thì nhăn lại. Khi ông ấy cười, nó lộ ra những nếp nhăn
dưới đôi mắt. Không giống như cha mình, Bedirhan
không quá sùng đạo. Mặc dù đã nhận được cảnh báo năm
này qua năm nọ, ông vẫn tiếp tục tham gia vào các hoạt
động bất hợp pháp, chẳng hạn như buôn lậu, và đó là cách
mà ông kiếm sống. Ông ấy đã mất rất nhiều bạn bè khi họ
cố gắng vượt qua biên giới. Nhiều người đã giẫm phải
mìn, và bị nổ tung thành nhiều mảnh. Tuy nhiên, không
chỉ Bedirhan tham gia vào những hoạt động đó; gần một
nửa dân làng Bilmay đã tham gia theo cách này hay cách
khác. Bedirhan hút thuốc lá lậu để quên đi sự tức giận,
khao khát, và mệt mỏi. Ông thường ngồi dựa vào bức
tường đá của ngôi nhà, và con gái của ông, Berivan, là
người cuốn những điếu thuốc lá, và pha trà lậu cho ông.
nhà tạm bợ của trường học. Cô ấy dạy tiếng Thổ Nhĩ Kỳ,
điều này rất quan trọng theo quan điểm của cô ấy, vì trẻ
em của Koseli chỉ biết tiếng Kurd, và sẽ gặp bất lợi khi họ
bắt đầu đi học. Trung tâm của Sirnak cách làng khoảng 6
cây số. Tuy nhiên, đa số dân làng sẽ cho con cái họ đi học
muộn hơn tuổi phải đến trường. Không có lý do cụ thể nào
cho việc này. Các gia đình đăng ký khai sinh cho con cái
của họ trễ hơn nhiều năm, và ngày sinh chỉ là ngày do họ
nghĩ ra, vì người cha hiếm khi nhớ được ngày tháng hoặc
chi tiết. Khi những đứa trẻ biết rằng ngày sinh của chúng
không đúng, mẹ của chúng sẽ giải thích rằng, theo thời
gian trong năm thì họ có lẽ đã sinh vào mùa đông hoặc
mùa xuân của lễ hội Newroz9. Và như thế một số người
sẽ không thể biết được chính xác ngày sinh của họ. Nhờ
Berivan mà giờ đây bọn trẻ đã học tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, và
sẽ được chuẩn bị nhiều hơn cho các bài học bằng tiếng
9 Lễ hội Newroz là lễ hội đánh dấu ngày đầu tiên của mùa xuân, và bắt đầu năm mới
theo lịch Ba Tư, thường rơi vào ngày 20.3 dương lịch hàng năm. Lễ hội Newroz có
nguồn gốc Ba Tư, và đã tồn tại hơn 3.000 năm, được Liên Hợp Quốc công nhận năm
2010, gọi là “Ngày Quốc tế Nowruz” hay “Năm mới Ba Tư” hay “Tết Ba Tư.” Nowruz
là ngày nghỉ lễ chính thức tại nhiều quốc gia như Afghanistan, Albania, Azerbaijan,
Gruzia, Kosovo, Kyrgyzstan, Iran, Iraq, Kazakhstan, Mông Cổ, Tajikistan,
Turkmenistan, Uzbekistan, ..., và người Kurd hải ngoại.
Thổ Nhĩ Kỳ. Giới trẻ trong làng cảm kích những nỗ lực
của Berivan, và luôn giúp cô ấy trong mọi việc. Ahmet
luôn là người ủng hộ tuyệt vời nhất của chị gái anh ấy.
sân rộng bên ngoài. Trong sân sẽ đặt một chiếc bàn, và
nhiều ghế để cho dân trong làng ngồi tán gẫu. Ở giữa sân
có một cái lò dùng để nấu trà lậu. Trong những tháng mùa
hè, nhiệt từ bếp khiến nó gần như không thể chịu nổi, và
thay vào đó họ sẽ ngồi trên những chiếc ghế ở phía trước
ngôi nhà. Dân làng chủ yếu làm nông nghiệp, ngay cả khi
họ không có nhiều đất. Những người nghĩ rằng làm nông
không đem lại nhiều tiền sẽ tham gia vào buôn lậu.
Bedirhan, cha của Ahmet có một số con bò, và một số
mảnh đất. Ông đã không từ bỏ chúng, vì chúng mang lại
những sản phẩm như sữa, pho mát, và các nhu yếu phẩm
cơ bản khác. Nhưng để kiếm tiền, ông biết, là phải thông
qua buôn lậu.
Những chàng trai thường mỉm cười khi nhớ lại thời ấu
thơ. Bây giờ, Baran, Ibrahim, và Ridvan, giống như những
chàng trai trẻ tuổi khác trong làng, đã trở thành những
thanh niên cường tráng. Ở đó tất nhiên là có những cặp
đôi trẻ tuổi yêu nhau đã nên vợ chồng. Ahmet chưa bao
giờ yêu cả thời niên thiếu lẫn khi đã trở thành thanh niên,
ngoài tình yêu thuần khiết trải qua trong dòng ở trường.
Ahmet đã rất chăm chỉ học tập. Những cô gái cùng lớp,
và cả ở lớp cao hơn anh đều nhờ anh giúp khi muốn vượt
qua các bài kiểm tra. Có một cô gái với mái tóc vàng sáng,
đôi mắt xanh, chiếc cằm tròn, và một cái nhìn rất ngây
thơ. Cô ấy thường đến nhờ Ahmet giảng bài. Trong lúc
anh tập trung suy nghĩ cho những câu hỏi, cô gái nhìn anh,
và mỉm cười. Trong các kỳ thi thực hành ở trường, Ahmet
luôn đứng đầu lớp, và trở nên nổi tiếng toàn trường. Một
ngày nọ, khi Ahmet đang giúp cô gái xinh đẹp có mái tóc
vàng, bất chợt có tiếng la lớn của một người bạn cùng lớp,
"Rojda, giáo viên đang hỏi bạn kìa!” Nhờ vậy mà Ahmet
biết được tên cô gái. Anh đã quá nhút nhát nên không dám
trực tiếp hỏi cô ấy. Rojda, mặt khác, không ngại ngùng
chút nào, và sẽ nói chuyện với tất cả mọi người. Ahmet đã
không bao giờ quên được đôi mắt của Rojda, mặc dù sau
khi kết thúc cấp hai anh không bao giờ gặp lại cô nữa. Lần
cuối cùng anh nhìn thấy cô là vào ngày tổng kết. Cô gái
đến trường cùng với cha của cô ấy. Vì cuộc sống cách trở,
Ahmet, và Rojda đã không còn gặp lại.
Ahmet thích để tóc dài vào những năm học cấp hai.
Tuy nhiên, nam sinh bị cấm không được để tóc dài, và các
giáo viên khẳng định vẫn thường xuyên nhắc nhở mọi
người phải cắt tóc ngắn. Mặc dù thành công trong các lớp
học, Ahmet vẫn luôn phẫn nộ với các quy tắc áp dụng đối
với anh ngoài giờ học. Anh cho rằng chúng thật vô lý, và
vô nghĩa.
Mỗi buổi sáng, học sinh xếp hàng dài để vào lớp học.
vào một buổi sáng nọ, thầy Hiệu trưởng với khuôn mặt đỏ
bừng xung quanh đôi mắt đen nhỏ, và cái đầu nhẵn nhụi
đứng trước cổng trường để kiểm tra tóc của từng học sinh.
Khi đến lượt Ahmet, Hiệu trưởng túm lấy cổ áo, và đẩy
anh sang một bên. Các giáo viên khác vội lên tiếng: "Làm
ơn dừng lại đi; cậu ấy là niềm tự hào của trường chúng
ta, một học sinh sáng giá! Đừng làm như vậy trước mặt
bạn bè của cậu ấy.”
Ahmet nghẹn ngào trong nước mắt. Anh vừa khóc vừa
cố phủi sạch tóc trên mặt mình. Anh cảm thấy hổ thẹn đến
nỗi anh không thể nhìn vào bất cứ ai. Anh vừa khóc nấc
vừa cảm thấy bẽ bàng. Hệ thống xã hội này chỉ muốn uốn
nắn để thuần hóa anh. Anh nghĩ rằng, bằng những đồng
phục, và các nguyên tắc cứng nhắc, cách chúng được thực
thi như vậy là quá trịch thượng.
Chẳng bao lâu sau, Ahmet không còn quan tâm đến
bài học hay trường lớp. Anh không còn hứng thú với các
bài giảng, và thay vào đó là thường xuyên lơ đãng, nhìn
chằm chằm ra bên ngoài cửa sổ. Các giáo viên đã thất
vọng khi thấy một học sinh chăm chỉ lại cư xử theo cách
này. Sau khi hầu như không hoàn thành các môn học,
Ahmet rời trường mà thậm chí không thèm quay lại để lấy
bảng điểm của mình.
Sau khi tốt nghiệp trung học, anh thực hành tranh luận
với bạn bè của mình trong làng, và dành hàng giờ để xem
xét các ý tưởng. Ahmet, và những người bạn của anh là
Baran, Ibrahim, và Ridvan thường gặp nhau tại nhà, đọc,
và thảo luận về các cuốn sách cho đến sáng. Họ hoàn
thành việc đọc sách ở trường, và trao đổi chúng với nhau.
Thói quen đọc này đã được san sẻ giữa bốn người bạn sớm
được lan truyền khắp làng. Tất cả mọi người luôn thống
nhất về tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ, học sử dụng các
từ như bình đẳng, tự do, làm việc chăm chỉ, và phản kháng
để tranh luận về ý nghĩa thực sự của chúng. Berivan viết
thư cho bạn bè của cô ấy tại trường đại học để giúp nhóm
bạn này đọc sách, và với từng bức thư trả lời, cô nhận
được rất nhiều sách gửi qua bưu điện đến Sirnak.
“Các bạn, trước hết tôi xin cảm ơn các bạn đã đến
tham dự. Giờ đây, tất cả chúng ta đều đã đọc tốt, và đang
tìm hiểu về ngôn ngữ, văn hóa của chúng ta, cũng như
cách mà chúng ta nên sống. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa
đủ, và chúng ta cần phải đọc thêm nhiều hơn nữa. Bạn bè
của chị tôi sẽ tiếp tục gửi sách, và chúng ta phải tìm một
"Vậy thì ở đâu? Ý tôi là, các bạn đã nghĩ ra được chọn
chỗ nào chưa?" Baran hỏi.
"Cabin nào?"
“Gần nơi Berivan dạy tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cho trẻ em?"
Sau khi nhấp một ngụm trà, Ahmet quay sang bạn bè
của mình, và hỏi, "Có ai trong số các bạn có bất kỳ ý
tưởng nào về điều này nữa không?"
“Ồ… tiếp tục đi, Ferhat. Chúng tôi đang lắng nghe
đây.”
Mọi người quay lại nhìn Ferhat. Họ vừa mỉm cười vừa
như bị sốc, đồng thời tò mò không biết anh sẽ nói gì tiếp
theo. Họ bối rối nghĩ về cách để có thể xây dựng một thư
viện ở một nơi kín đáo, khuất khỏi tầm nhìn. Bên ngoài,
đàn gia súc đã im tiếng. Bóng tối bao trùm ngôi làng như
một tấm chăn dày. Ahmet tiếp tục, “Ý bạn là gì? Tại sao?"
"Nếu Ibrahim có thể mang cho tôi thêm một ly trà nữa,
thì tôi sẽ bắt đầu trình bày.”
Sau khi nhận trà của mình, Ferhat tiếp tục, "Giải pháp
cho đề xuất của tôi là đào một hầm trú ẩn dưới lòng đất,
nơi chúng ta đặt thư viện. Theo cách đó sẽ không ai biết
Một cậu trai trẻ ngồi cạnh Ahmet, các đường nét trên
khuôn mặt của cậu ấy trông rõ hơn bởi ánh sáng của ngọn
đèn dầu. Cậu nói bằng một giọng trầm ấm,
Một vài tiếng càu nhàu nổi lên từ đám đông. Lời đề
nghị của chàng trai trẻ này, Nasih, dường như gây ấn
tượng sâu sắc hơn với họ so với những gì Ferhat đã nói.
Ai sẽ quan tâm về một địa điểm mà họ chưa bao giờ đến
thăm, một nhóm những người trẻ tuổi không được ai để
Họ quyết định chọn một địa điểm gần nhà thờ Hồi
giáo, ngay bên ngoài ngôi trường nơi Berivan dạy học cho
lũ trẻ. Tất cả những gì còn lại là thông báo cho cả làng.
Họ cùng nhau suy nghĩ, và trình bày về cách họ mà sẽ
thông báo cho những vị cao niên, và người dân trong làng
về kế hoạch xây dựng thư viện của họ. Những chiếc cốc
vừa cạn lại được đổ đầy lại. Đã qua nửa đêm... Họ mở cửa
sổ để đón không khí ban đêm mát mẻ, êm dịu.
Vừa bước vào phòng, anh nhận thấy ngọn đèn khí gas
vẫn đang thắp sáng. Berivan chắc đang thức để đọc sách.
Ông của anh đang ngáy rất to. Sự khác biệt duy nhất giữa
căn phòng mà Ahmet ở cùng với chị gái, và ông nội so với
căn phòng của cha mẹ anh, là phòng này có cửa sổ trên
tường trong khi phòng kia có một cửa sổ trên trần nhà.
Đây là một phong cách phổ biến trong những ngôi nhà
kiểu cũ. Trên thực tế, một số ngôi nhà trong làng hoàn
toàn không có cửa sổ trên tường mà chỉ có cửa sổ trên trần
nhà. Những ngôi nhà được xây dựng rất gần nhau để giữ
an toàn. Vì vậy, nếu có một cuộc tấn công, đoàn kết, và
phòng thủ sẽ trở nên dễ dàng nhất có thể.
Berivan rời mắt khỏi quyển sách đang đọc, nói với
giọng trầm thấp, “Ahmet, cuộc họp cuối cùng cũng kết
thúc rồi à. Chào mừng trở về nhà.”
“Chị gái tuyệt vời của em. Vâng, cuộc họp của chúng
em đã kết thúc rồi.” Ahmet cười.
"Quân đội?"
Thổ Nhĩ Kỳ, là Tổng thống thứ 9 của Thổ Nhĩ Kỳ, giữ chức vụ Tổng thống từ năm 1993
đến năm 2000. Trước đó ông là Thủ tướng 7 nhiệm kỳ từ giữa năm 1965 đến năm
1993. Ông là lãnh đạo Đảng Công lý (AP) từ năm 1964 đến năm 1980, và là lãnh đạo
Đảng Dân chủ (DYP) từ năm 1987 đến năm 1993.
Lúc đó, Ahmet bắt đầu cười. Nỗi sợ hãi trên khuôn
mặt của Berivan tan biến, rồi trở thành một nụ cười xen
lẫn sự tức giận. Cô ném cuốn sách vào Ahmet, nhưng anh
kịp né đi. Anh thôi cười, và nói thêm, "Đừng giận mà! Em
chỉ đùa thôi.”
Sau một hồi cười đùa, và lau nước mắt, Ahmet đến
ngồi cạnh chị gái mình. Berivan rất yêu thương Ahmet,
ôm anh thật chặt trước khi hôn lên má anh. Với đôi mắt
biết cười, cô nhìn anh, và nói, "Chúng ta có nên uống cà
phê không?"
"Ừ.”
"Có một vài điều quan trọng em cần phải nói với chị
đây, chị gái.”
"Gì cơ?"
Họ lại cười, và Ahmet đợi trong khi chị gái anh đi pha
cà phê trong sân. Ahmet nhặt cuốn sách mà Berivan ném
vào anh. Nó được tác giả người Đức Remarque11 đặt tên
là “Flotsam” 12. Anh mở một trang ngẫu nhiên, và bắt đầu
đọc - Tất cả chúng ta đều có có khả năng trở thành người
tị nạn. Cuộc sống tươi đẹp mà chúng ta đang sống có thể
dễ dàng bị đảo lộn bởi một vài quyết định chính trị. Chúng
ta có thể bị buộc phải rời khỏi ngôi nhà, và đất nước của
chúng ta... Ahmet ngay lập tức bị lôi cuốn, anh bắt đầu
11 Erich Maria Remarque (22/06/1898 – 25/09/1970), tên khai sinh Erich Paul Remark,
là nhà văn, một tiểu thuyết gia kiệt xuất người Đức, được biết đến nhiều nhất với tác
phẩm “Phía Tây không có gì lạ”
12
Tác phấm Flotsam: “Hãy yêu thương tha nhân” – tên một cuốn tiểu thuyết của nhà
văn Erich Maria Remarque
muốn đọc cuốn sách này mà không dừng lại. Ngay sau đó,
Berivan trở lại:
“Em có một số điều rất quan trọng muốn nói với chị,
nhưng cuốn sách này lại thu hút em. Em phải đọc nó ngay
đây.”
“Bọn em muốn tạo một thư viện, một nơi có thể lưu
trữ sách một cách an toàn, và có thể thảo luận về những
gì mà bọn em đọc được.”
“Thế thì em đã trở thành ngài chủ tịch rồi, chị rất sẵn
lòng để viết thư cho bạn bè ở trường Đại học của chị. Họ
sẽ không làm chị thất vọng đâu. Vậy chúng ta sẽ bắt đầu
từ đâu, và như thế nào?''
“Gần cabin, nơi chị dạy học cho bọn trẻ. Nếu chị
không e ngại.”
“Tất nhiên là không rồi, hãy lập thư viện ở bất cứ đâu
bọn em muốn. Thế các em đã chia sẻ kế hoạch mở thư viện
với mọi người trong làng chưa?”
Khi Ahmet thức dậy vào sáng hôm sau, ông, và chị gái
của anh đã đi rồi. Anh nghe thấy tiếng nói từ bên ngoài,
nên nhanh chóng nhảy bật khỏi giường, đánh rơi cuốn
sách “Flotsam” của Berivan xuống sàn, cuốn sách này anh
đặt ở trên ngực khi chìm vào giấc ngủ. Anh nhanh chóng
mặc quần áo, đặt cuốn sách lại trên giường, và chạy ra
khỏi nhà.
Ahmet không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy
khung cảnh bên ngoài. Những tờ giấy màu đỏ vàng được
treo trên cửa của tất cả các ngôi nhà. Sau khi dụi mắt, và
vuốt tóc, Ahmet vội vàng đi về phía đám đông. Mọi người
đang tụ tập, nói chuyện, cười đùa, và chỉ trỏ.
Khi đến chỗ họ, Ahmet đã đọc nội dung được viết trên
tờ giấy đỏ mà ông nội anh đang nắm chặt trong tay, trong
khi ông nói chuyện với dân làng. Mất đến mấy phút,
Ahmet phải đấu tranh tư tưởng với chính mình để cố gắng
tin vào những gì đang xảy ra. Kế hoạch được bàn trong
đêm hôm trước đã được viết ra, rõ ràng từng chi tiết, và
được treo trước cửa nhà mọi gia đình. Những người phụ
nữ thức dậy vào sáng sớm đã nhìn thấy những tờ giấy này,
nhưng không đọc được, và họ đã nhờ những đứa trẻ đọc
giúp. Có vẻ như Baran đã làm việc này để thông báo cho
dân làng.
Nhìn thấy Ahmet, Abdullah bật cười, đặt tay lên vai
cháu trai, và nói, "Ahmet, mọi thứ đều ổn cả, nhưng thông
báo như thế này có cần thiết không? Cháu biết rằng dân
làng không thể đọc được; cho đến khi đám trẻ đọc tờ
thông báo, họ đã nghĩ rằng đó là thông báo chính thức từ
chính quyền. Tất nhiên, sau khi họ hiểu nội dung là gì,
mọi người đã thở phào, và bật cười. Nếu cháu nói với ông,
ông có thể giúp cháu thông báo trong Nhà thờ Hồi giáo.”
Ahmet hôn tay ông thể hiện sự tôn trọng, và sau đó lẩn
vào trong đám đông. Cha mẹ anh cũng ở đó, họ nói chuyện
Chẳng bao lâu sau, anh nhìn thấy cả hai đều đang trò
chuyện say sưa với những người khác trong đám đông.
Ahmet cất tiếng gọi Baran, Baran quay lại, nhanh chóng
vượt qua đám đông để đến bên cạnh Ahmet. Khi Baran đi
đến, Ahmet nhận thấy tờ giấy màu đỏ trên tay anh ấy. Khi
anh ấy đến gần hơn, Ahmet nhận thấy nó giống như một
miếng bìa cứng đã được sơn màu đỏ, và sau đó được viết
chữ lên. Baran đã viết ra kế hoạch của họ bằng sơn màu
vàng tươi, và ký bên dưới - Baran, Chủ tịch Ủy ban thứ
nhất, thay mặt cho Ủy ban Thanh niên Köseli. Mọi người
đều vui vẻ. Ahmet ôm bạn bè, và tìm kiếm chị gái của
mình trong đám đông. Anh hỏi cha mẹ mình nhưng không
nhận được câu trả lời.
Không lãng phí thời gian, những chàng trai trẻ tuổi
trong làng đã bắt đầu mang gạch tới, và đào nền móng.
Những người phụ nữ dựng lên một cái bếp tạm thời, và
bắt đầu nấu ăn trong khi các cô gái làm món Ayran13, một
loại thức uống như sữa chua, để phân phát cho những công
nhân trẻ, và trò chuyện cùng nhau, lên kế hoạch để dệt
khăn trải cho những cái bàn của thư viện.
Mặt trời lên càng cao lại càng toả ra nhiều sức nóng.
Mặc kệ mồ hôi tuôn chảy sau lưng, những chàng trai trẻ
vẫn tiếp tục làm việc hăng say. Ahmet, Ibrahim, Baran, và
Ridvan đào móng. Vừa quệt mồ hôi từ trán, Ahmet vừa
làm việc không ngừng nghỉ. Mỗi lần xoay lưng, anh lại
cắm sâu chiếc cuốc vào chỗ vô định, như thể anh mong
đợi sẽ khai quật, và tìm ra được vật sở hữu đã mất từ lâu
của mình.
Ahmet cắm cây cuốc xuống đất lần cuối, và vòng hai
tay ra sau lưng, vươn vai, rồi lau mồ hôi trên trán. Baran
cười, nói: “Có chuyện gì vậy ngài? Ông bạn mệt rồi à?"
13
Ayran: Một thức uống Thổ Nhĩ Kỳ lạnh ngon từ hai phần sữa chua thuần khiết, một
phần nước, và muối để nếm.
"Tất nhiên, thư viện sẽ có giá trị của nó. Các bạn trẻ
sẽ đọc sách, và tìm hiểu kiến thức tại đây. Có lẽ Berivan
cũng có thể thử dạy phụ đạo ở đây vào giờ rảnh, và sau
đó, có thể cô ấy sẽ nhẹ nhàng hơn khi cô ấy dạy chính thức
trong cái cabin đó. Thực ra thì, Berivan đang ở đâu? Tôi
không nhìn thấy cô ấy.”
"Tôi không biết. Khi tôi thức dậy sáng nay, chị ấy đã
đi rồi.”
Họ đã làm việc cho đến tận tối ngày hôm đó. Khi
hoàng hôn đến, những đám mây đỏ khuấy động màu xanh
thẳm của bầu trời. Mặt trời chuẩn bị khởi hành rời đi, gom
lại hơi nóng nó đã nung vào lòng đất. Một chiếc xe buýt
dừng lại nơi con đường làng giao với đường cao tốc. Xe
buýt đã phục vụ vận chuyển hành khách giữa Koseli, và
các làng xung quanh đến Diyarbakir, và Bismil trong
nhiều năm. Nó trở về để nghỉ ngơi với một tiếng lạch cạch
lớn, và Berivan ở trong số những hành khách chen chúc
nhau trên xe.
Berivan chậm rãi đi bộ về nhà, hát một bài hát dân ca,
và mang theo vài thứ đã mua sắm trong ngày. Nhìn thấy
con gái, cha mẹ của Ahmet đứng lên, đi đến gần bên, và
ôm lấy cô trước khi cùng nhau bước vào nhà. Ngay sau
khi thấy chị gái của mình, Ahmet nhanh chóng hoàn thành
công việc, và vội vã đi vào nhà. Cha của họ đang chuẩn bị
buôn lậu hàng qua biên giới. Gia đình chờ đợi ngày ông
ra đi, và cầu nguyện cho ông, bởi vì nhiều người đã giẫm
phải mìn, bị mất các bộ phận cơ thể, và không bao giờ có
thể được tìm thấy. Tất cả họ đã cố gắng thuyết phục ông
từ bỏ công việc mạo hiểm này nhưng ông không đồng ý.
Ông nội Ahmet vắng mặt vì một người nào đó đã chết ở
làng lân cận.
"Chuẩn rồi!"
“Em không cần phải cảm ơn chị. Tất nhiên chị sẽ ủng
hộ bọn em.”
"Giá như chị thấy được hôm nay mọi người đã làm
việc như thế nào.”
người trong thành phố, và tham gia buôn bán vũ khí với
những người đó.”
Động tác của Ahmet dừng lại trong khi đang đưa
miếng bánh mì vào miệng, và hỏi, “Câu ấy biết cháu sao?
Làm sao vậy?"
Ahmet thoáng nghĩ, rồi gương mặt anh bừng sáng với
niềm vui hồi ức
Ahmet một hơi uống cạn một ly Ayran. Lấy tay vuốt
tóc ngược ra phía sau, anh nhận thấy đám đông xung
quanh đang xôn xao, nên cũng quay lại nhìn về hướng mà
mọi người đang nhìn. Hai chiếc xe tải đã rẽ khỏi đường
cao tốc, và đang đi xuống con đường nhỏ vào làng, để lại
những đám mây bụi mịt mù sau lưng. Tất cả dân làng đều
tò mò nhìn về phía hai chiếc xe tải, và run rẩy. Đã lâu rồi
chưa từng có một chiếc xe tải nào vào ngôi làng nhỏ này,
giờ lại có đến hai chiếc. Không có người ở ngoài làng vào
đây sinh sống. Khi dân làng đi mua gia súc, họ chở chúng
trong một chiếc xe tải nhỏ. Vì vậy, những tiếng động lớn
mà hai chiếc xe tải này tạo ra rất xa lạ với nơi này.
Khi hai chiếc xe đến gần hơn, bụi bắt đầu lắng xuống.
Giống như những người lính vượt qua chiến hào, một
chiếc xe tải màu đỏ, và một chiếc xe tải màu xanh lam lao
qua các ổ voi, ổ gà trước khi chúng vào được ngôi làng.
Chiếc xe tải màu lam chạy qua mặt xe màu đỏ, và từ từ
tiến về phía đám đông. Những đứa trẻ chạy phía sau xe,
và cố bám vào thành xe, nhưng lại trượt chân trên mặt đất
gồ ghề. Những người phụ nữ ló người từ trong nhà nhìn
ra với sự ngạc nhiên. Cuối cùng, hai chiếc xe dừng lại phía
trước đám đông, nhưng vì thùng xe bị che kín nên không
thể nhìn thấy những gì hai chiếc xe này mang tới. Các tài
xế leo lên từ cabin xe xuống, và chào đám đông. Tài xế lái
chiếc xe tải màu đỏ là một ông già với hàm răng thưa, má
hóp, và bộ ria mép ố vàng do khói thuốc. Còn người lái xe
tải màu xanh trông giống người từ Istanbul hơn là từ
Diyarbakir. Người này chải ngược tóc, và đeo kính râm
đen cùng áo sơ mi hở đủ để lộ lông trên lồng ngực.
"Có chuyện gì vậy? Những chiếc xe tải này chở gì? "
"Cô là Berivan?"
"Vâng.”
tiếng xì xào trong dân làng, và đám trẻ cố gắng trèo lên xe
tải. Những người phụ nữ ra khỏi nhà, và đi về phía họ.
Một số người bồng con trên tay, những người khác thì dắt
theo trẻ em đi về phía đám đông. Mọi người bị sốc đến há
hốc mồm khi tấm bạt cuối cùng được kéo ra, đặc biệt là
Berivan, Ahmet, và những người bạn của anh ấy. "Các
hộp sách!" Ahmet hét lên từ đầu của xe tải. “Sổ sách, và
bút, hàng trăm cái, đồng phục cho trẻ em, giày dép, đồ
chơi, và radio để chúng ta cập nhật tin tức thế giới.”
tàn khốc. Có lẽ bây giờ dân làng có thể dựng lên một ngọn
cờ hy vọng thật cao trên những bức tường làng, hát những
bài hát về tự do trong quảng trường, và làm việc để xây
dựng một tương lai với bàn tay trần của chính họ. Họ vui
mừng khôn xiết khi thấy rằng họ đã không bị lãng quên,
rằng họ đã được quan tâm. Có những tiếng hân hoan,
những giọt nước mắt hạnh phúc, và mọi người ôm chầm
lấy nhau, như thể là lễ trọng thể Eid al-Fitr 14 đã đến sớm.
14
Eid al-Fitr, còn gọi là Bayram (Bajram), là ngày lễ tôn giáo quan trọng của người
Hồi giáo vào ngày 1 của tháng Shawwal (tháng thứ 10 theo lịch Hồi giáo). Ngày lễ
đánh dấu sự kết thúc của tháng Ramadan (tháng thứ 9 theo lịch Hồi giáo, còn gọi là
tháng ăn chay) mà người Hồi giáo tham dự hàng năm để đền đáp việc thánh Allah
mặc khải kinh Koran cho nhà tiên tri Muhammad. Không có một ngày chính xác cho
Eid-al-Fitr, các vị lãnh đạo Hồi giáo ở các quốc gia khác nhau sẽ dựa vào việc nhìn thấy
mặt trăng lưỡi liềm Eid xuất hiện để thông báo với người dân khi nào thì lễ hội sẽ chính
thức bắt đầu.
“Nhanh lên chị ơi! Tất cả mọi người sắp ngất đi vì vui
sướng rồi, còn gì bằng niềm vui ngày hôm nay. Mọi người
đang chờ để tìm hiểu.”
"Đúng vậy.”
"Chà, chị gái tôi đã làm thay tất cả công việc cho cậu
rồi.”
Niềm vui trên khuôn mặt của mọi người hiện rõ khi
họ nhìn thấy thành quả. Thư viện được xây dựng ở nơi
đẹp nhất trong làng. Sách, người bạn thân thiết của con
người kể từ thuở sơ khai của lịch sử, được xếp hàng trên
những chiếc kệ mới, và bàn ghế sắp đặt xung quanh
phòng, đài radio được trưng bày một cách trang trọng.
Những cô gái trong làng thêu những tấm vải ren thủ công
rất đẹp, và trưng bày chúng bên cạnh đài radio, giống như
đang ganh đua với nhau để chứng tỏ sự khéo léo của họ
với các chàng trai trẻ.
Thỉnh thoảng, Berivan lại ghé qua các cuộc họp này
dù cô ấy vẫn thường xuyên bận rộn với việc dạy tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ cho bọn trẻ. Cô ấy cũng đã bắt đầu dạy phụ nữ
trong làng đọc, và viết. Mặc dù những người đàn ông xấu
hổ khi nghĩ đến việc trở thành học sinh, nhưng họ đã ủng
mong cho đêm dài nhất kết thúc mỏng manh như chờ đợi
một người sẽ không bao giờ trở lại.
Koseli. Các tác phẩm kinh điển đã được biểu diễn trong
phần thư viện dành riêng cho các hoạt động sân khấu, trừ
khi dân làng có yêu cầu sử dụng toàn bộ thư viện. Mọi
người đã làm việc rất chăm chỉ trong suốt cả ngày để có
thể hoàn thành công việc sớm vào buổi tối, sau đó tắm rửa
sạch sẽ, mặc quần áo mới, và đi xem những cô con gái
diễn kịch. Trà, và đồ ngọt được phục vụ cho khán giả. Khi
sự im lặng, và bóng tối mát dịu của màn đêm phủ xuống
ngôi làng, nghệ thuật bừng sang lên trên những khuôn mặt
háo hức của khán giả. Các cô gái biểu diễn bằng tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ, và tiếng Kurd, mở ra cánh cửa của cuộc sống đa
văn hóa, và đa ngôn ngữ cho người dân làng Koseli bé
nhỏ. Và vì vậy Câu lạc bộ Nhà hát làng Koseli liên tục
phát triển mỗi ngày.
dục phụ nữ, và trẻ em của Koseli. Hằng ngày, các cô gái
trẻ gặp nhau trong thư viện để viết những vở kịch mới,
phân vai, và tiến hành diễn tập. Ahmet, và bạn bè cùng
đọc sách muộn vào ban đêm.
Ahmet đã giúp chị gái mình kịch bản với sự ảnh hưởng
từ những cuốn sách mà anh đọc được. Anh bắt đầu viết
một cuốn tiểu thuyết của riêng anh ấy, chia sẻ nội dung
với chị gái của về cuốn sách. Anh thường viết trong các
buổi diễn tập, và thảo luận tại thư viện sau khi kết thúc
hoạt động chung, và mọi người đã trở về nhà. Họ biểu diễn
những gì họ đọc, và sống với những gì họ trình diễn.
Tất nhiên, cũng có một cuộc sống bên ngoài hoạt động
nghệ thuật của họ: sự khai sáng, và việc đọc sách. vào cuối
năm 1971, vì cái lạnh mùa đông, Berivan quyết định rằng
các vở kịch sẽ được trình diễn bên trong thư viện. Ahmet,
và bạn bè của anh vẫn tiếp tục đọc sách, và Ahmet tiếp tục
viết cuốn tiểu thuyết mà anh ấy chưa đặt tên, anh đã từng
viết một số cái tên cho cuốn sách mới lên bản thảo của
mình rồi lại xóa hoặc thay thế nó vào ngày hôm sau. Cuối
cùng, anh đành tiếp tục viết tiếp mà chưa cần đặt tên cho
cuốn sách. Cuốn tiểu thuyết này là đứa con tinh thần đầu
tiên của anh ấy, có lẽ một cái tên sẽ chỉ được đặt sau khi
nó đã hoàn thành. Tuy nhiên, với tiến trình viết lách đang
diễn ra, có vẻ như sự ra đời của cuốn tiểu thuyết đặc biệt
này sẽ khá khó khăn.
Sau khi xem biểu diễn, dân làng sẽ uống trà, và cùng
nghe radio, cập nhật các vấn đề thời sự. Mặc dù đài phát
thanh không được sử dụng thường xuyên, nhưng khi mùa
đông đến, họ bắt đầu nghe radio nhiều hơn. Trên thực tế,
họ không quan tâm nhiều đến những gì đang xảy ra trên
khắp đất nước. Thế giới nho nhỏ, và cuộc sống hạnh phúc
của họ ở làng là quá đầy đủ.
Ngày hôm đó, khi tất cả các hoạt động đã kết thúc,
Ahmet, và bạn bè đang quây quần bên chiếc đài radio, và
uống trà. Sau khi dò bắt sóng đài phát thanh, và phủ đầy
thư viện bằng âm thanh ấm áp, cuối cùng họ đã chỉnh ổn
định đến kênh có một phát thanh viên nói bằng tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ. Đài đang phát tin Deniz Gezmiş15, và Yusuf
Aslan16 đã cướp İşbank17. Nghe được tên của những nhà
15 Deniz Gezmiş (27/02/1947 – 06/05/1972) là một sinh viên Đại học Istanbul, nhà hoạt
động chính trị, và nhà lãnh đạo cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin người Thổ Nhĩ
Kỳ vào cuối những năm 1960. Ông là một trong những thành viên sáng lập của Quân
đội Giải phóng Nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ (THKO). Ông tham gia một vụ cướp ngân hàng,
và bắt cóc lính Mỹ tại Ankara vào ngày 16/07/1971. Ông, và đồng đội của ông bị bắt,
bị kết án tử hình vào năm 1972.
16
Yusuf Aslan (1947 – 06/05/1972) là một nhà hoạt động chính trị theo chủ nghĩa xã
hội người Thổ Nhĩ Kỳ, là một trong những người sáng lập Quân đội Giải phóng Nhân
dân Thổ Nhĩ Kỳ (THKO). Ông tham gia vụ cướp ngân hàng cùng với Deniz Gezmiş, và
đã bị xử tử vào năm 1972.
17
İşbank : tên ngân hàng bị cướp.
cách mạng chưa bao giờ nhìn thấy mặt, nhưng thông qua
những câu chuyện về họ do Berivan kể đã làm cho các
chàng trai hiểu được sự việc. Phát thanh viên cũng đã
thông báo những hoạt động biệt kích18 đã bắt đầu ở các
tỉnh miền Đông, bao gồm Diyarbakir, Bitlis, Van, Siirt,
Mus, và Hakkari đang tiến triển nhanh. Sự bối rối ngay
lập tức, và rõ ràng hiện lên khuôn mặt của Ahmet, và
những người bạn của anh ấy. Các hoạt động biệt kích có
nghĩa là gì? Nếu hoạt động này đã bắt đầu vào năm ngoái,
tại sao họ không biết gì về nó? Các chàng trai trẻ ngơ ngác
nhìn nhau. Sau khi đặt cốc xuống bàn, Ahmet nói, "Có ai
biết chuyện gì đang xảy ra không?"
18Biệt kích là các chiến binh, hoặc lính đặc nhiệm của một lực lượng bộ binh hạng nhẹ, hoặc lực
lượng hoạt động đặc biệt tinh nhuệ sử dụng các kỹ thuật tác chiến chuyên dụng.
Họ bắt đầu rì rầm với nhau cho đến khi Ahmet không
thể nghe được tiếng của radio. Anh nhắc bạn bè của mình,
và bật âm lượng lớn hơn nhưng đài đã chuyển sang một sự
việc khác. Anh tắt radio, và mọi người rời đi để về nhà của
họ. Không ai hiểu nội dung bản tin, nhưng họ cho rằng đó
chỉ là một cuộc diễn tập an ninh. Ahmet ở lại thư viện thêm
một lúc nữa, và tiếp tục viết cuốn tiểu thuyết của mình. Đã
quá nửa đêm, đêm đen bên ngoài trong khi chờ đợi sớm mai
đã khoác lên mình tấm áo choàng màu đen thanh lịch nhất,
và được trang trí bằng sư tĩnh lặng. Một mặt, Ahmet nghĩ về
những phát triển tích cực trong làng, và mặt khác, anh nghĩ
về những cái gọi là hoạt động biệt kích. Số người đến từ các
ngôi làng khác để xem các vở kịch của họ đã giảm đi. Có thể
là do thời tiết lạnh giá hay là điều gì đó mang điềm báo? Anh
đấu tranh nội tâm rất nhiều khi lý trí của anh phải vật lộn với
trực giác.
Sau khi viết xong trong đêm, anh giấu cuốn sách của mình
ở một nơi không ai có thể tìm thấy nó, đóng cửa thư viện, và
đi bộ về nhà. Khi anh về đến nhà thì mọi người đều đang ngủ.
Mặt trăng đã lên cao với hào quang của nó, và ánh sang thanh
dịu đã tràn qua giếng trời, rọi vào giường của Ahmet.
đến. Khi sáu chiếc xe tải đi đến trung tâm làng, đám binh
lính bắt đầu trèo xuống, và tản ra.
Những tên lính đập cửa bằng báng súng của họ. Tiếng
chó vẫn sủa râm ran cho đến khi mọi người bắt đầu bật
dậy khỏi giường. Không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Trẻ con bắt đầu khóc, những thiếu phụ, và những cô thôn
nữ trẻ dụi mắt, cánh đàn ông loay hoay tìm quần áo của
họ từ tối hôm trước, sau đó đi ra mở cửa.
một thiếu nữ. Các người không thể vào đây như thế này
được, hãy cút ra ngoài ngay!” Ngay khi anh nói hết câu,
anh đã bị đâm vào cổ bằng báng súng trường, và ngã lăn
xuống sàn.
Đám lính đã làm đảo lộn nơi này. Những con chó tiếp
tục sủa dữ dội, phụ nữ la hét khi họ bị đẩy ra khỏi nhà, và
trẻ em khóc thét lên trên đường phố. Bọn lính dồn tất cả
mọi người lại trên quảng trường của làng, thậm chí không
dừng lại để cho phụ nữ, và bé gái mặc đủ đồ ấm để chống
lại cái rét. Một số thanh niên bị đánh bằng súng trường,
và tất cả bị tập trung vào quảng trường làng, người già
cũng bị lôi ra khỏi nhà của họ.
Gã chỉ huy vẫn dựa vào bức tường ngôi nhà của
Ahmet quan sát mọi việc đang được thực hiện trong làng,
sau đó gã đi bộ về phía những chiếc xe tải, và dừng lại
trước chiếc xe gần nhất. Gã còn khá trẻ, cao, và mảnh mai,
nhưng bờ vai thì lại căng cứng như muốn xé toạc bộ đồng
phục. Cởi mũ ra, và lau bụi bằng mu bàn tay trái, gã lên
tiếng:
"Mọi người, lắng nghe một cách cẩn thận! Tôi không
muốn nói nhiều lần. Đã đến lúc các người phải nói tạm
biệt với nơi này. Mọi người chắc đã nghe thấy về các hoạt
động biệt kích ở các quận lân cận. Đây là một nỗ lực giữ
gìn an ninh quốc gia. Cũng như ở các quận khác, đã có
quyết định rằng ngôi làng này sẽ bị xóa sổ, và một tiền
đồn sẽ được xây dựng ở vị trí này. Mọi người có một tuần
để thu dọn đồ đạc của mình, và rời đi. Tôi hy vọng chúng
tôi sẽ không phải dùng đến vũ lực. Nếu mọi người không
di tản khỏi làng trước ngày đã quy định, tôi sẽ không chịu
trách nhiệm về những gì xảy ra với mọi người. Mọi người
đã hiểu chưa?"
“Làm ơn đi, con trai, đừng làm như vậy. Anh có thể
thấy, có bao nhiêu người, và động vật trong ngôi làng này.
Mùa đông đang đến. Chúng tôi sẽ đi đâu, sống ở đâu?
Chúng tôi chỉ đang sống ở đây để làm ăn, chúng tôi đã
làm gì sai? Xin hãy thương xót bọn trẻ.”
Ánh đèn công suất cao từ những chiếc xe tải làm chói
mắt người dân, làm họ không thể đưa mắt khỏi mặt đất để
nhìn những người lính. Dân làng đã vô cùng sốc, và đau
buồn vì oan ức, họ hoàn toàn vô tội. Phụ nữ, trẻ em, và
các cô gái trẻ đều khóc nức nở khi chứng kiến những gì
đang xảy ra.
huy, những gì anh đang làm không phải là hợp pháp cũng
như có ý thức. Anh có quyền gì mà quẳng mọi người ra
khỏi nhà của họ?”
“Cậu đang nói về điều luật nào vậy? Cậu có nghĩ rằng
cậu biết luật tốt hơn tôi không? Cậu là ai?"
“Tôi là một con người, một người sẵn sàng chiến đấu
để sống cùng ngôn ngữ, và văn hóa của tôi.”
“Nghe này, chỉ huy, những người này đang sinh sống,
làm việc ở đây, và các anh đã lôi họ ra khỏi nhà của họ
vào giữa đêm. Đây có phải là cái mà anh gọi là luật?
Chúng tôi đang tuân thủ những luật của con người, chỉ
huy, nhưng luật pháp chỉ đáng được tôn trọng khi nó trở
thành một vũ khí trong tay của những người sử dụng nó.”
“Tôi không phải là người cộng sản. Tôi chỉ đơn giản
là bảo vệ quyền của mình, và quyền của người dân của
tôi.”
“Nhìn đi, cậu chẳng khác gì một thằng nhãi con. Tôi
không đến đây để nghe giảng bài. Ngôi làng này sẽ bị xoá
sổ.”
"Lý do là gì?"
"An ninh. Hơn nữa, ở đây tôi là luật. Tôi đủ quyền lực
để làm những gì tôi muốn.”
“Có những người thích quây người dân lại như những
bầy cừu, không thèm suy nghĩ cho cuộc sống cá nhân của
người dân, mang ủng để hành quân, và đã đi quá xa rồi.
Tuy nhiên, bất cứ ai hành xử trong khuôn khổ pháp luật
đều đáng được tôn trọng. Anh đòi hỏi sự tôn trọng từ
chúng tôi. Nhưng tại sao công việc kinh doanh người dân
lại có thể trở thành mối nguy hiểm cho bất kỳ ai?"
Rít qua kẽ răng, gã chỉ huy lóe lên một tia cười chế
giễu. Chỉ vào thư viện làng, hắn ta nói:
"Chúng tôi sẽ đến trường Đại học của cậu sớm thôi.
Tôi sẽ đến thăm nơi này nhiều hơn nữa.”
Ahmet tiếp tục, “Tôi khuyên anh nên tham gia đọc
sách cùng với chúng tôi. Có lẽ, anh sẽ hiểu được rằng,
mọi người đang mơ về một tương lai tự do hoàn toàn
không phải là mối đe dọa an ninh cho bất kỳ ai.”
Hắn ra lệnh cho binh lính rời đi. Bọn họ lần lượt leo
trở lại những chiếc xe tải, và bắt đầu rời khỏi làng, để lại
sự tàn phá tàn khốc, và nước mắt dân lành.
họ. Chỉ còn lại những người trẻ tuổi trên quảng trường.
Họ tụ họp lại. Nhìn họ, người ta có thể biết rằng mục đích
sống của họ bây giờ là hy vọng chống lại cuộc tấn công,
một khởi đầu mới vào thời điểm mà dân làng nghĩ rằng
mọi thứ đã chấm hết. Họ đã quyết tâm từ bây giờ, hy vọng,
và sự phản kháng sẽ là chủ đề trong các vở kịch của họ.
Ahmet sẽ viết tiểu thuyết, những người tiếp theo sẽ viết
tiếp những ý chí của tự do, và phản kháng. Chỉ có một
điều có thể làm được. Họ sẽ phải kháng cự vì ngôi làng
của họ, vì đất đai, và đàn gia súc của họ, bởi vì phản kháng
là chìa khóa thiêng liêng nhất cho một cuộc sống danh dự.
Trời đang lạnh căm căm khiến các bạn trẻ cũng phải
rùng mình. Suy nghĩ về việc thu dọn, và rời khỏi làng theo
mệnh lệnh không phải là sự lựa chọn ưu tiên của dân làng.
Mọi người dường như cùng có những câu hỏi giống nhau
khi sự việc xảy ra quá bất ngờ với họ. Berivan đã trở về
nhà cùng với những người phụ nữ, và người già khác. Chỉ
những chàng trai trẻ ở lại quảng trường, những người trẻ
tuổi đang chuẩn bị đấu tranh cho quyền được sống. Ahmet
đứng dậy, và bắt đầu nói với giọng to, rõ ràng,
Những tia hy vọng như bừng lên trên khuôn mặt của
Baran, Ibrahim, và những người khác. Bài phát biểu này
của Ahmet đã đánh thức điều gì đó trong tất cả bọn họ.
Họ giống như những bông hoa được tưới nước, và nguồn
sống mới. Đám mây đen mà họ cảm nhận được đã bắt đầu
biến mất khi Ahmet lên tiếng. Đó là lúc họ biết rằng, để
mọi người được sống, tất cả những gì thực sự cần là hy
vọng, và khả năng chiến đấu. Mọi người đứng ôm nhau.
Đi thẳng đến thư viện, họ bắt đầu viết. Họ đã cùng nhau
viết lên vở kịch với sự tham vấn của Ahmet. Buổi tập cũng
đã bắt đầu. Vở kịch là một lời phản kháng đối với gã chỉ
huy đã đến đưa họ ra khỏi làng, diễn lại cảnh đó để dân
làng chọn cái chết hơn là bỏ đi, hét lên rằng họ sẽ không
bao giờ đầu hàng.
Vở kịch này được diễn vào những đêm đông lạnh giá
kèm theo ấm trà chiêu đãi đặt trên ngọn lửa sưởi ấm mọi
người. Tiếng cười, và tiếng vỗ tay đã mang lại hy vọng
cho tất cả mọi người, từ người già đến trẻ nhỏ, phụ nữ, và
trang giấy, và cuộc chiến đang diễn ra trong suy nghĩ. Anh
cầm cuốn sách lên mang nó về nhà, và sau đó đặt nó dưới
gối của anh.
Tuyết vẫn đang rơi. Chỉ vài ngày trước, những người
già còn càu nhàu vì tuyết rơi muộn. Họ lo lắng vì nếu
không có tuyết đồng nghĩa với việc sẽ có hạn hán vào mùa
hè, điều này sẽ là một khó khăn nghiêm trọng cho gia súc,
và chính họ. Đối với họ, tuyết rơi đồng nghĩa với sung túc,
và phước lành. Tuyết rơi vào đêm đen, phủ một tấm vải
trắng toát lên mặt đất. Sau nửa đêm, nó trở thành cơn bão
tuyết với những cơn gió thổi mạnh. Tuyết chất thành từng
đống trước cửa ra vào, và che mất cửa sổ, đến nỗi không
thể nhìn thấy bên ngoài. Những con chó tru lên. Giống
như mọi mùa đông, những con sói đói ăn tràn xuống từ
trên núi. Đôi khi những con sói này được sử dụng trong
những câu chuyện để dọa trẻ em cho chúng đi ngủ sớm.
ủng của những tên lính trên mái nhà của mình. Chúng đã
đột nhập vào làng trong đêm cùng với bốn chiếc xe tăng,
và bắt đầu đập cửa mọi căn nhà. Tuyết bên ngoài đang
theo chân bọn chúng vào nhà dân qua những cánh cửa mở,
và những đứa trẻ đã bị đánh thức đang khóc thét lên. Đồng
thời, những người phụ nữ nấp sau lưng chồng mình, cố
gắng giấu mình trong bộ quần áo ngủ, và chửi bới bằng
tiếng Kurd.
Đây là cuộc đột kích tồi tệ nhất cho đến nay. Những
tên lính bắt những người phụ nữ, và trẻ em rồi ném họ ra
bên ngoài trời lạnh. Ahmet, và gia đình anh cũng lùa ra.
Ai cũng cảm thấy lạnh buốt. Các chàng trai trẻ của ngôi
làng đã có kế hoạch cùng nhau. Gã chỉ huy chỉ về phía thư
viện, và ra lệnh cho binh lính phá hủy nó. Bọn chúng phá
cánh cửa ra vào, và bắt đầu đập phá bàn ghế, và kệ sách.
Tất cả sách, và những thứ bị đập nát được gom thành một
đống.
Một trong những tên lính đưa tới cho gã chỉ huy một
đống giấy tờ mà hắn ta phát hiện ra. Đây là những kịch
bản cho các vở kịch đã được biểu diễn trong làng kể từ khi
họ xây dựng thư viện. Gã chỉ huy ra lệnh cho mang bằng
chứng cất lên xe ô tô cá nhân của mình. Mỗi cú đập phá
đánh vào thư viện giống như một cú đòn giáng vào trái
tim những người dân làng đã yêu mến nó. Những chàng
trai trẻ cố gắng giằng co nhưng mọi nỗ lực đều bị bọn lính
khống chế. Trong sự cam chịu, họ chỉ biết khóc. Một phụ
nữ từ đám đông bắt đầu la hét bằng tiếng Kurd. Gã chỉ
huy đã trở nên giận dữ, ra lệnh tìm người phiên dịch.
“Chỉ huy, làm ơn đi, đứa bé này không làm gì sai cả.
Hãy để họ đi đi.”
"Anh nói cái gì vậy? Anh đang muốn làm trái lệnh của
tôi?”
“Nhưng thưa chỉ huy, nếu những đứa trẻ này chết thì
chúng ta sẽ bị lên báo, và chúng ta sẽ phải chịu rất nhiều
áp lực từ Ankara.”
Gã chỉ huy suy nghĩ trong một giây, rồi miễn cưỡng
đồng ý, nói qua hàm răng nghiến chặt: "Cậu nói đúng;
điều đó có thể xảy ra.”
Gã chỉ huy quay sang nói với đám đông. “Này các bà,
tôi sẽ đếm đến mười. Tất cả có thể rời đi. Đàn ông sẽ ở
lại. Con gái cũng được đi.” Viên chỉ huy bắt đầu đếm, và
những người phụ nữ bắt đầu chạy. Khi bị ngã, họ lại đỡ
con cái của họ lên, và tiếp tục chạy. Giọng của gã chỉ huy
như thúc giục vang lên bên tai. Tuyết làm ướt đẫm những
người già, khiến họ run rẩy. Họ cố gắng tập trung để mở
mắt nhìn trong khi tuyết bám cứng trên lông mi của họ.
Mẹ, và chị gái của Ahmet theo dõi tình trạng bên ngoài
của những người phụ nữ còn lại. Họ đang cố làm ấm
những đứa trẻ trong khi vẫn đang nhìn theo chồng, và con
trai của họ từ bên trong nhà.
Các chàng trai cũng lạnh cóng. Hàm răng cắn chặt cho
thấy họ đang chịu đựng cái lạnh buốt xương.
giày hoặc tất. Tuyết rơi xuống trên người họ như thể đó
chính là sự áp bức, và chuyên chế. Những người trẻ tuổi
không thể di chuyển vì bọn lính đã bao vây họ. Khi nhìn
thấy vẻ mặt đau khổ của những ông lão cao niên, gã chỉ
huy ra lệnh đưa họ trở lại nhà để tránh cho họ không chịu
đựng nổi mà chết đi. Nhưng hóa ra những ông già đã
không còn có thể đi lại được nữa. Hầu hết trong số họ chỉ
bước được vài bước là ngã xuống. Những người phụ nữ,
và bé gái vẫn còn ở trong nhà liền chạy ra giúp họ. Viên
chỉ huy quay lại bên cạnh những người trẻ tuổi, và hét lên:
"Đem tên cộng sản đã lên tiếng lần trước với tôi đến đây!"
Những tên lính tóm lấy Ahmet, và đưa anh đến trước
mặt viên chỉ huy. Gã bật cười khi nhìn thấy anh. Bộ đồ
ngủ màu đen của anh ướt đẫm, và hơi nước bốc lên từ cơ
thể anh. Tuyết đọng trên mái tóc khiến anh trông như một
ông già.
"Sức mạnh mà ông đang nắm giữ giống như một thanh
gươm, và một ngày nào đó nó sẽ quay ngược mũi hướng
về phía ông đấy.”
“Tôi chắc rằng cậu sẽ hiểu tôi nghiêm túc như thế nào
sau đêm nay. Cậu, và bạn bè của cậu đang đánh lừa
những người thiếu hiểu biết này. Cậu sắp xếp họ vào tổ
chức, và biến họ thành công cụ tuyên truyền chống phá
nhà nước.”
“Đây là những lời nói dối trắng trợn. Chúng tôi không
tổ chức bất kỳ ai.”
Viên chỉ huy giơ tay ra lệnh cho binh lính mang những
người từ trong chiếc xe tới. Những tên lính nhanh chóng
chạy đi thực hiện mệnh lệnh, và khi tất cả bọn họ cùng
bước đến bên cạnh gã chỉ huy. Ahmet không thể tin vào
mắt mình. Đó là Chủ tịch huyện, và vệ sĩ của ông ta. Thời
tiết trở nên lạnh hơn, và những người trẻ tuổi cũng không
còn cảm giác ở chân tay của họ. Cảm giác cơn buồn ngủ
lan khắp cơ thể họ. Viên chỉ huy, quay lại hỏi Chủ tịch
huyện: "Đây là những thủ phạm, có phải không Chủ tịch?"
Khi Ahmet nhận ra rằng Chủ tịch huyện đang cộng tác
với gã chỉ huy, niềm tin của anh vào con người hoàn toàn
biến mất. Làm sao để anh có thể hiểu được điều này đây?
Làm thế nào mà người đàn ông dường như đã đánh giá rất
cao những gì họ đang làm, và đã đề nghị giúp đỡ họ lại
trở mặt như vậy?
“Chúng tôi không kêu gọi người dân nổi dậy. Đây là
những lời nói dối.”
"Đúng vậy.”
Chủ tịch huyện khoanh tay, và nói với một giọng giận
dữ:
"Cái gì? Ý cậu là chúng tôi đang nói dối? Các cậu có
biểu diễn các vở kịch của mình bằng tiếng Kurd không?
Các cậu không đọc sách ly khai à?”
Khi nói đến từ cuối cùng, hắn ta đấm thẳng vào mặt
Ahmet. Những chàng thanh niên cố gắng dùng hết sức
bình sinh để chống lại những tên lính nhưng chỉ vô ích.
Họ đã bị quật xuống sàn chỉ trong vòng vài giây, và không
thể di chuyển được nữa. Gã chỉ huy ra lệnh cho binh lính
bắt giữ họ đem về thị trấn. Khi những tên lính áp giải
những chàng trai về phía xe tăng, những người già, và phụ
nữ đã chạy ra khỏi nhà, và hết lời nguyền rủa bọn chúng.
Họ dùng khăn trùm đầu chà sát mặt, và ném chúng xuống
sàn đất.
Những tên lính bắn những phát súng cảnh cáo vào
không trung khiến mọi người hốt hoảng ngồi sụp xuống
đất.
Khi dân làng đến nơi, cha của Ahmet nói với những
người khác hãy đợi ở cửa. Sẽ tốt hơn nếu chỉ có một người
vào hỏi thông tin.
lính cạo nhẵn ở phần dưới. Hắn ta có những đường nét sắc
sảo, và khuôn mặt đầy nốt ruồi. Bằng một giọng nói giận
dữ, hắn nói: "Ông muốn gì?"
“Vậy ý của ông là gì khi gọi tôi là chàng trai của ông?
Tôi cũng không phải là chàng trai của ông.”
"Xin lỗi nhé, anh bạn trẻ, tôi không biết phải xưng hô
với anh như thế nào.” Giọng của ông ngày càng nhỏ hơn,
và khuôn mặt ông ấy bắt đầu đổ mồ hôi, mặc dù thời tiết
đang là cái lạnh giá của mùa đông. Ông lấy ra một chiếc
khăn tay trong túi, lau trán, và tiếp tục: "Tôi muốn gặp con
trai của tôi, và bạn bè của nó.”
"Ahmet.”
Cha của Ahmet gật đầu xác nhận, và thở dài. Tên lính
đứng dậy, và nhanh chóng đến phòng chỉ huy. Hắn ta gõ
cửa, và chào viên sĩ quan cấp trên của mình, "Thưa chỉ
huy…"
“Nói đi.”
"Đó là ai?"
"Tôi đã không hỏi tên của ông ta, thưa chỉ huy.”
“Cậu có ngốc không vậy, con trai? Tại sao cậu không
hỏi ông ta là ai?"
Viên chỉ huy cố tình đặt cây bút của mình lên bàn, sau
đó ngả người ra sau, bắt chéo chân, duỗi tay ra sau đầu,
và ra lệnh cho tên lính ra khỏi phòng. “Bảo ông ta đợi.
Tôi sẽ đến gặp.”
Năm phút sau, hắn ta bước ra ngoài. Ngay khi cha của
Ahmet nhìn thấy gã đàn ông đến gần, ông hạ tầm mắt
xuống. Viên chỉ huy tiếp cận ông, dậm đôi ủng của mình
xuống sàn theo mỗi bước chân. "Ông muốn gì?" hắn ta
quát.
Cha của Ahmet lặng lẽ trả lời: "Tôi muốn gặp con trai
tôi, Ahmet, và những người bạn của nó, thưa ngài chỉ
huy.”
"Tại sao lại muốn gặp chứ? Cuộc thẩm vấn của họ
vẫn chưa kết thúc.”
Gã chỉ huy nắm lấy cánh tay của cha Ahmet, và kéo
ông ra khỏi cửa, nơi hắn ta nhìn thấy một đám đông đàn
ông, và phụ nữ đang chờ đợi. Những người đàn ông đã
cảnh báo vợ của họ không được nói bằng tiếng Kurd, sợ
rằng họ sẽ bị đánh đập.
Khi gã chỉ huy nhìn thấy họ đang chờ đợi, hắn ta càng
tức giận hơn, và bảo họ rời khỏi đồn cảnh sát. Mẹ của
Ahmet, và một số người phụ nữ khác bắt đầu khóc. Họ di
chuyển đến một bãi đất trống bên kia đường, và chờ đợi.
khác cũng làm theo, mỗi người trong số họ đều tháo khăn
trùm đầu, buộc nó vào một cây gậy, và cũng cắm nó trong
bãi cỏ. Các ông chồng sửng sốt. Đây là lần đầu tiên bất kỳ
ai trong số họ có thể khắc ghi khi nhìn thấy vợ của mình
để lộ tóc trước những người đàn ông khác. Nhưng ngay
sau đó, họ hiểu rằng, điều này là một biểu tượng của sự
phản đối. Những tên lính trong đồn cảnh sát quan sát từ
bên kia đường, cố gắng hiểu những gì họ đang nhìn thấy.
Viên chỉ huy bước vào phòng giam giữ Ahmet, và bạn
bè của anh với xấp tư liệu đang cầm trên tay. Bị khóa phía
sau song sắt, những chàng thanh niên hai mươi tuổi đầu,
bẩn thỉu từ đầu tóc đến chân trần, co ro xích lại gần nhau
để giữ ấm. Một số đã ngủ, những người khác ôm bụng
trong đau đớn quằn quại. Trong hai ngày qua, họ không
ngủ, ăn cũng không đủ no. Ahmet nằm trên sàn bê tông,
hai tay đặt sau đầu, nhìn lên trần nhà. Khi họ thấy viên chỉ
huy đến gần, họ bắt đầu xôn xao một cách khó chịu.
Kẹp những tờ giấy dưới cánh tay của mình, viên chỉ
huy gầm gừ: "Đứng lên! Các người nghĩ rằng đây là
khách sạn sao?" Họ đứng lên tạo thành một đường thẳng.
Bụng, và cơ thể đau đớn, và run rẩy. Gã chỉ huy tiếp tục
một cách giận dữ:
“Đây là lời cảnh báo cuối cùng của tôi dành cho các
người. Nếu các người gây cho tôi bất kỳ rắc rối nào nữa,
tôi sẽ càng gây thêm đau khổ lớn hơn cho các người, và
gia đình các người. Tôi thề sẽ thiêu các người thành tro.
Làng của các người phải sơ tán hết, và chúng tôi sẽ xây
dựng một tiền đồn ở đó. Lệnh này đã được đưa ra. Kháng
cự cũng vô ích. Tôi cũng đã nói rõ điều này với gia đình
của các người, nhưng không ai chịu lắng nghe. Các người
buộc chúng tôi phải dùng biện pháp mạnh. Chúng tôi
không quan tâm các người đi đâu. Không có đủ các thành
phố ở Thổ Nhĩ Kỳ cho các người sao? Đi đến Istanbul, đi
đến Ankara. Tôi không quan tâm, cứ đi đi, và đừng gây khó
khăn cho tôi nữa. Nhìn lại bản thân các người đi. Các
người không hơn gì một lũ kẻ cướp. Các người đọc cả ngày
lẫn đêm, để suy nghĩ, và tìm kiếm sự khai sáng từ ai đây?”
“Tại sao các người không chịu chỉ ăn, uống, và tuân
theo lệnh giống như những con gia súc của các người?
Các người nên nuôi dưỡng văn hóa trung thành, và tuân
phục. Nhà nước là mẹ của các người. Vì vậy, các người
phải vâng lời mẹ, và không được nổi loạn.
Sẽ như thế nào sau khi đọc những cuốn sách của
những tên côn đồ trong thành phố, trở thành người cộng
sản ư? Ở các thành phố lớn, quân đội, và cảnh sát phải
đấu tranh để kiểm soát những tên cướp đó. Các người có
bắt đầu gây ra những rắc rối tương tự ở Diyarbakir hay
không? Tôi sẽ nghiền nát các người mà không cần suy
nghĩ nhiều. Bây giờ, tất cả các người, ngoại trừ Ahmet,
hãy ra ngoài. Gia đình của các người đang chờ bên ngoài.
Khi quay trở lại với họ, các người phải rời khỏi làng trong
vòng ba ngày tới. Khi tôi trở lại làng, tôi muốn thấy ngôi
làng đó không còn một bóng người. Ngậm miệng lại, và
hãy làm chính xác như tôi nói.”
Đám lính đã thả tất cả chàng trai, từng người một, trừ
Ahmet. Khi những bậc cha mẹ nhìn thấy con trai mình
bước ra, trái tim của họ tràn ngập niềm vui. Đôi mắt của
mẹ Ahmet cũng sáng lên, và bà cảm thấy đầu gối của mình
được tiếp thêm sức mạnh.
Cha Ahmet chạy đến chỗ các chàng trai. Trong tất cả
sự phấn khích, ông đã không nghe thấy tiếng xe tải đang
lao xuống từ phía xa của con đường. Khi ông nhận ra rằng
Ahmet không nằm trong số các chàng trai đó, ông sững
người. Phía sau ông, mọi người hét lên, và trước mặt ông,
đám lính điên cuồng ra hiệu với ông. Mọi người nhìn
chằm chằm vào cha của Ahmet, sững sờ trong khi tiếng
còi xe tải đến gần hơn. Tiếng la hét của đám đông trở nên
hoảng loạn hơn, nhưng khi cha của Ahmet nhìn thấy chiếc
xe tải đang chạy nhanh về phía ông thì đã quá muộn. Ông
bị kéo lê dưới gầm xe nhiều mét, và chiếc xe tải cuối cùng
đã đâm vào mặt tiền của một số cửa hàng. Một tiếng khóc
vỡ ra từ dân làng. Tiếng thét của mẹ Ahmet thất thanh từ
phía xa. Những bậc cha mẹ khác, và đám lính chạy về phía
hiện trường tai nạn nơi chiếc xe tải đã dừng lại. Đám đông
bắt đầu tụ tập lại. Mẹ Ahmet giữ lấy phần đầu đẫm máu
của chồng lên đầu gối mình.
Thi thể của Bedirhan được đưa trở lại ngôi làng trong
tiếng than khóc của người dân. Mọi người theo sau chiếc
xe bán tải nhỏ chở xác của ông. Ông nằm trên chiếc
giường trong xe tải, được che phủ bởi một tấm vải trắng,
các chàng trai trẻ mới được ra tù vây xung quanh ông.
Người vợ yêu thương của ông, mẹ của Ahmet – Hazal -
vẫn yên lặng đến mức những người xung quanh không
dám chắc liệu bà ấy có còn thở hay không. Đôi má bà ấy
hóp lại, và các nếp nhăn trên trán đã hằn sâu hơn chỉ sau
hai ngày. Không ai biết bà ấy đang nhìn hoặc đang nghĩ
gì. Baran, và Ibrahim trông tiều tụy. Không phải chỉ vì cái
chết bất ngờ của Berdihan mà còn vì họ không thể tha thứ
cho bản thân đã bỏ lại Ahmet một mình trong tù. Ahmet
đang làm gì ở đó? Họ có đang tra tấn anh không? Họ có
cho anh ăn uống đầy đủ? Thậm chí suy nghĩ về việc
Ahmet bị bỏ trong phòng giam vào những đêm mùa đông
chỉ với một bộ đồ ngủ đã làm họ khó chịu.
Baran thì thầm một cách khó khăn "Là chú Bedirhan.”
Berivan vừa nghe đã ngã khụy xuống sàn. Cô khóc thét
lên. Nước mắt cô tuôn trào mang theo nỗi đau của sự mất
mát tột cùng.
Cô bắt đầu thở khò khè. Bất chấp những nỗ lực của
Baran, và Ibrahim, cô vẫn không thể bình tĩnh được. Cuối
cùng, cô ngất xỉu. Ông nội cũng đang khóc bên cạnh cô
ấy. Ông cắn môi mình đến chảy máu để không ai nghe
thấy tiếng ông nức nở. Toàn thân ông run lên trong đau
đớn khi những tiếng khóc bị kìm nén. Ông nhận ra mình
đã bị mất đi người con trai, và điều này sẽ không xảy ra
lần nữa. Ông luôn cầu nguyện trong đám tang của người
khác. Lần này, số phận đã buộc ông phải cầu nguyện cho
chính con trai mình.
Sau khi Bedirhan được chôn cất, mọi thứ đều mất đi ý
nghĩa. Không ai muốn trò chuyện. Berivan, và ông nội
Abdullah khóc trong phòng, và mẹ cô ấy khóc ở một căn
phòng khác. Berivan thường mang cho mẹ một khay thức
ăn nhưng bà không có tâm trạng để ăn.
bóng tối của những nỗi đau buồn. Tâm hồn bà trống rỗng.
Bà luôn nhìn vào nơi chồng hay ngồi. Khi Berivan bước
vào căn phòng, bà ấy hỏi: "Có phải anh không,
Bedirhan?" Mỗi khi ai đó gọi, bà lại trả lời: "Vâng,
Bedirhan.” Điều này đã làm cho tất cả mọi người xung
quanh lo lắng nhiều hơn nữa.
Ông nội của Ahmet gọi Berivan, "Lại đây, cháu gái.”
một đứa con. Ông không muốn mẹ của cháu lại đau thêm
một lần nữa. Bà ấy đã mất chồng. Nếu bà ấy mất thêm con
trai của mình, bà ấy sẽ không thể chịu đựng được. Cháu
chuẩn bị, và đi đến quận để hỏi thông tin về em trai của
cháu. Nó chắc là đã phải trải qua rất nhiều điều khó khăn
trong đó vài ngày qua. Cháu mang theo quần áo cho nó.
Có lẽ lần này cháu có thể đưa được chúng cho nó.”
“Ông nói đúng, ông nội. Chúng ta cần phải vực dậy
tinh thần cùng nhau, nhưng điều này sẽ không dễ dàng đối
với mẹ cháu.”
"Ông biết, cháu của ông, ông nhận thấy điều đó.”
10
Sau khi thả những người bạn của Ahmet, viên chỉ huy
đã nhận được một cuộc gọi khẩn cấp, và nói với thuộc cấp
rằng gã sẽ không có mặt tại văn phòng trong thời gian hai
ngày tới. Gã sẽ tiếp tục tra hỏi Ahmet khi gã trở lại. Sau
khi trở về, gã nhặt những giấy tờ mà Ahmet đã đưa cho
dân làng xem sau ngày đột kích, và đi đến phòng giam của
Ahmet.
nào để tranh cãi trước cái lạnh, và cái đói mà anh đã phải
chịu đựng mấy ngày qua. Với tất cả sự chật vật, anh thì
thầm rằng đó chỉ là một vở kịch sân khấu. Ahmet hiểu
rằng buổi tra khảo này sẽ diễn ra trong một thời gian dài,
và anh sẽ cố gắng dùng hết tất cả năng lượng có thể.
“Ở đây nói rằng các người sẽ không rời khỏi làng cho
đến khi có máu đổ.”
“Tôi muốn đóng một số hoạt cảnh với cậu. Cậu đã nói
trong kịch bản của mình rằng mình sẽ không rời đi cho
đến khi có máu đổ. Vậy thì hãy để nó được đổ đi.”
Gã chỉ huy ra lệnh cho binh lính trói chân Ahmet lại,
và kéo duỗi anh ra. Hắn bắt đầu dùng cây gỗ bạch dương
dày đập vào chân Ahmet. Với từng cú đánh vào chân,
Ahmet đã trải qua nỗi đau đớn thấu xương.
Khi mà Ahmet vẫn còn tồn tại, khi anh ấy vẫn kiên trì
với niềm tin rằng anh là con người, và khi anh ấy giữ vững
ý chí, thanh gỗ vẫn giáng vào chân anh. Trong khi viên
huy đánh Ahmet, hắn ta hét lên: “Này là máu này! Này là
nhận thức này! Này là tự do này, đồ rác rưởi!” Cây gậy
tiếp tục quật xuống chân anh. Cùng với mỗi cú đánh,
Ahmet cắn chặt môi để ngăn mình hét lên, và chẳng mấy
chốc chân anh đã chảy đầy máu nhưng anh vẫn im lặng.
Những cú đánh đã làm lòng bàn chân bị thương, và máu
chảy đầm đìa quanh mắt cá chân. Đây là lần đầu tiên anh
cảm thấy hơi ấm sau khi ở trong phòng giam lạnh giá
trong những ngày mùa đông này. Tuy nhiên, anh vẫn rùng
mình khi cây gậy tiếp tục đập vào anh.
Tên chỉ huy đổi tay khi hắn ta mệt mỏi. Đôi khi hắn
cầm gậy bằng cả hai tay, và vung mạnh hơn nữa, đồng
thời hét lên: “Kêu lên đi, đồ khốn, hét lên đi! Hãy xem
những câu chuyện của mày, những cuốn sách của mày có
cứu mày được không. Mày vẫn muốn trở thành một nhà
văn hả?”
Tên chỉ huy ra lệnh cho binh lính buộc Ahmet vào
những cái móc trên tường, lưng đưa ra ngoài. vào lúc họ
cởi dây trói trên chân của anh, máu trên mắt cá chân đã
khô lại, và nứt nẻ. Những tên lính nắm lấy cánh tay của
anh, và dựng đứng anh trên đôi chân tàn tạ. Nhưng Ahmet
không thể đi được dù chỉ một bước. Ngay khi binh lính
thả anh ra, anh đổ gục xuống sàn. Gã chỉ huy hét lên:
"Đứng dậy, và đi đến bức tường!"
Tên lính mang đến cho hắn một cái vòi dài màu xanh
lá cây. Gã chỉ huy ra lệnh cho tên lính ở đầu kia của buồng
giam bật nước. Nước trong vòi có áp lực cao khiến tên chỉ
huy gặp khó khăn trong việc cố gắng cầm nó bằng tay, và
bị tê vì lạnh.
có thể điều khiển được đôi chân của mình, nhưng mỗi cố
gắng anh lại thấy mình bất lực, và bị treo lủng lẳng trên
những cái móc xấu xí trong trên bức tường bê tông. Dòng
nước lạnh cứa vào da thịt anh như một con dao. Nó đã
cướp hết chút sức lực cuối cùng, và đóng băng anh tại chỗ.
Mỗi khi anh cảm thấy nước xối trên lưng, anh lại run lên
dữ dội, và cố gắng đứng trên đôi chân một lần nữa, nhưng
mỗi như vậy lần sức lực lại giảm dần. Anh chợt nghe thấy
giọng nói của chị gái Berivan đang tranh cãi với đám lính
ở lối vào, cô hét lên: "Tôi sẽ không rời đi mà không có
Ahmet!”, và ngay sau đó anh đã ngất đi, thân thể treo chặt
vào những cái móc như một cái xác vô hồn.
11
Anh cố gắng đứng dậy, nhưng cơ thể anh quá mệt mỏi
để tuân theo, và lòng bàn chân của anh đang bỏng rát.
Berivan nhanh chóng lấy cho anh một ly nước, và mẹ anh
nâng đầu Ahmet lên để anh có thể nhấp vài ngụm nước.
Khi Ahmet tập trung đủ sức để có thể nói, lời đầu tiên
từ miệng anh là "Cha ở đâu?” Hazel ngã quỵ xuống sàn
bên cạnh anh. Không ai dám nói cho anh biết sự thật,
nhưng liệu có thể giấu được một sự thật như thế này trong
bao lâu? Sớm muộn gì Ahmet cũng sẽ biết. Tốt hơn là mọi
người nên nói cho anh biết. Sau một lúc im lặng đắn đo,
Abdullah ngồi xuống cạnh giường, nắm lấy tay Ahmet, và
nói trong nghẹn ngào: "Còn quá sớm để nói về điều này.
Cháu cần hồi phục trước đã.” Ahmet hỏi lại: "Cha cháu
ở đâu?” Nhận ra rằng không thể che giấu với anh lâu hơn
nữa, ông nội của Ahmet bắt đầu giải thích: "Ngày cha
cháu đến hỏi thăm về cháu, có một chiếc xe tải, ở trước
đồn cảnh sát…” nhưng ông lão không thể nói tiếp. Ahmet
đã hiểu. Anh từ từ thu tay về. Anh kéo chăn qua đầu, và
bắt đầu khóc lặng lẽ, hy vọng rằng không ai nghe thấy
mình. Mẹ anh tiến về phía gần hơn để an ủi anh, nhưng
Berivan đã ngăn bà lại. Sự tra tấn thể xác đã kết thúc,
nhưng một sự hành hạ khốc liệt hơn đã bắt đầu trong lòng
anh. Bedirhan đã rời khỏi thế giới này, và ông sẽ không
bao giờ quay trở lại. Người cha nhân hậu Ahmet, người
đã mang hương thơm của núi rừng về nhà, người đã buôn
lậu trà trong túi trên yên ngựa của mình, và dũng cảm đi
lang thang ở biên giới, đã qua đời. Sự im lặng sâu lắng lại
lan ra khắp căn nhà. Hơi nóng của bếp trong căn phòng
chật hẹp xông thẳng vào mặt họ, và nước đã sôi vo ve
trong ấm.
Họ đều là con người nên phải học cách chung sống với
nỗi đau. Họ phải tiếp tục sống bằng cách chôn sâu những
tổn thương. Bất chấp tất cả, bên ngoài kia, cuộc sống vẫn
đang tiếp diễn. Người trong làng đang dần chuyển đi. Lời
cảnh cáo cuối cùng của viên chỉ huy đã có tác động
nghiêm trọng, và xe tải đã rời đi đều đặn. Cửa ra vào, và
cửa sổ của những ngôi nhà bị đóng đinh chặt lại để không
bao giờ được mở ra nữa. Nhiều người đã di cư đến
Diyarbakır hoặc Istanbul. Họ bán đàn gia súc của mình
với bất cứ giá nào được đưa ra.
Hazal vẫn cảm thấy nỗi đau mất chồng, nhưng bà rất
biết ơn Thượng Đế vì con trai đã trở về. Bà ấy đang học
cách để sống chung với nỗi đau về cái chết của chồng đã
khắc sâu trong tim, và niềm vui khi con trai vẫn còn sống,
điều này thể hiện rõ trên khuôn mặt của bà.
12
Ahmet bây giờ đã hoàn toàn bình phục, ngoại trừ việc
mỗi đêm đều bị nỗi ám ảnh kinh hoàng về lần bị tra tấn.
Các dấu vết đánh đập đã biến mất khỏi cơ thể anh, nhưng
chúng vẫn còn in hằn trong tâm trí anh. Anh đã bắt tay vào
việc viết cuốn tiểu thuyết của mình ngay từ khi anh thức
dậy mỗi ngày, và không dừng lại. Anh viết ngày viết đêm.
Ý văn cứ tuôn trào.
Bất cứ khi nào anh nhìn thấy một chiếc xe tải đậu trước
cửa một ngôi nhà, anh sẽ cố gắng thuyết phục họ ở lại,
nhưng luôn vô ích. Không ai chịu lắng nghe. Chẳng bao
lâu sau, hầu hết dân làng đều rời bỏ trước mặt anh. Theo
như người dân trong làng, Ahmet đã đi quá xa, và đầu độc
giới trẻ. Nhiều người đã mất vợ con vì bệnh viêm phổi sau
khi đám lính tập hợp tất cả phụ nữ, đàn ông, và trẻ em
trong thời tiết lạnh giá. Họ đổ lỗi cho Ahmet. Tất cả họ
đều tin rằng, sẽ không có gì xảy ra nếu không có Ahmet,
và hành động của anh. Baran, và Ibrahim cũng đã cắt liên
lạc với Ahmet, và di tản từ lâu. Những người hùng của
ngày hôm qua đã trở thành kẻ thù ngày hôm nay.
Ahmet ngồi nơi mà cha anh thường ngồi. Anh lấy cái
gạt tàn của cha mình, và nhìn chằm chằm vào nó. Anh
chạm vào nó một cách khao khát, và châm một điếu thuốc,
nhìn xem dòng xe tải đang từ từ rời khỏi làng. Một nửa
làng Koseli đang chạy trốn. Có lẽ đây là lý do tại sao các
cuộc đột kích ngừng lại.
Ahmet ngửi thấy mùi khét của dầu diesel. Anh đứng
dậy, và bắt đầu đi bộ đến chuồng gia súc. Khi anh đến gần,
Đêm lạnh đến càng làm mùi dầu phát tán mạnh hơn.
Khi bóng đêm buông xuống, Ahmet đi ra ngoài để cho con
chó ăn. Mẹ anh đã đổ tro bếp vào một cái thùng kim loại,
vứt chúng đi trong một cái hố gần nhà, và đang đi bộ trở
lại. Berivan đang đọc sách bên trong, trong khi ông của
họ đang ngủ. Ánh đèn của những ngôi nhà tối tăm bắt đầu
tắt dần từng cái một.
Cùng một lúc, nhiều đống cỏ khô của dân làng bốc
cháy. Ngôi làng bất ngờ bị mắc kẹt ở giữa biển lửa. Có
nhiều lỗ thủng xuất hiện trên cửa sổ, và tường của các ngôi
nhà trong khi những con chó kêu lên đau đớn, và hoảng
hốt. Mỗi khi có một mục tiêu bị đạn bắn trúng, nó sẽ bốc
cháy. Những ngôi nhà, và chuồng trại cũng đang cháy,
cùng với đó là tiếng kêu đau đớn của đàn gia súc trong
chuồng. Mọi người la hét, chạy ra khỏi nhà, và ôm chặt
lấy những đứa trẻ đang khóc. Dân làng ngồi trên những
bãi đất trống, chờ đợi đám cháy dịu bớt. Ngọn lửa lan
nhanh vào bên trong các ngôi nhà, phụ nữ, trẻ em, và đàn
ông trở thành mục tiêu của làn đạn khi họ chạy ra ngoài
để tự cứu bản thân, và đàn gia súc của họ.
Ahmet ngã vào trong tuyết khi nghe tiếng viên đạn đầu
tiên bắn vào ngôi nhà của họ. Mẹ anh đã hoảng loạn lao
về phía nhà kho để cứu những con vật nuôi nhưng lại gục
ngã vì trúng đạn. Ahmet bật khóc trong khi anh cố vượt
qua đống tuyết, mặt đất đóng băng xé rách da khi anh bò
bằng hai tay, và đầu gối. Ngay khi anh đến được chỗ mẹ,
căn nhà đã nổ tung vì bị trúng một quả đạn pháo từ súng
phóng lựu. Các mảnh tường bay sượt qua anh, mưa đá, và
gỗ vụn rơi ngay trên đầu, và lưng anh.
Khi có thể nhìn lại, anh thấy cơ thể không còn sự sống
của chị gái, và ông nội mình nằm dưới đống đổ nát. Ngọn
lửa từ nhà kho cháy sáng khuôn mặt họ. Những con chó
đang cố gắng thoát khỏi dây đai của chúng, và mùi của
những con bò, và cừu bị cháy bốc lên khỏi chuồng. Ngôi
làng trở thành một bãi chiến trường, một đống lửa lớn của
địa ngục. Những người ở lại trong nhà của họ đã chết bởi
lửa hoặc khói. Những người cố gắng trốn thoát đã bị bắn
hạ khi họ chạy ra khỏi nhà. Bất chấp sự hỗn loạn, Ahmet
thấy ít nhất năm hoặc mười người vẫn đang bò xuyên qua
tuyết. Anh nhích dần tới chỗ mẹ, và khóc: "Mẹ ơi, mẹ, mẹ
có nghe con nói không?”
"Làm ơn, hãy giữ lấy đi mẹ, vì tình yêu của Thánh
Allah, làm ơn đi.”
“Mẹ ơi, đừng nói nữa. Mẹ chỉ cần giữ chặt lấy sợi dây
thôi.”
Bà nắm lấy sợi dây bằng tay phải trong khi cố gắng
giữ vết thương của mình bằng tay trái. Nhìn thấy mẹ mình
đã nắm lấy sợi dây, Ahmet bắt đầu kéo với tất cả sức mạnh
cho đến khi bà nằm cạnh anh. Mẹ Ahmet khó thở, và đã
mất rất nhiều máu. Đôi môi của bà chuyển sang màu tím,
và bà ấy rất lạnh. Bàn tay đẫm máu đang run rẩy dữ dội.
Bà nhìn lên con trai mình lần cuối cùng với một nụ cười.
Bà thì thầm ôm mặt anh trong bàn tay đỏ bừng:
“Họ không cho chúng ta cơ hội sống sót đâu, con trai
ạ. Họ muốn đày ải chúng ta. Họ muốn bắn hạ hết chúng
ta. Tất cả những gì chúng ta muốn là sự sống. Hãy bảo vệ
những người bị áp bức, con trai của mẹ. Đừng ăn cắp,
đừng bắt nạt. Chấp nhận mọi người với danh tính, và niềm
tin của riêng họ. Cầu mong cây bút sẽ là thanh kiếm của
con, con trai.”
“Đừng nói chuyện nữa, hãy để dành hơi sức của mình,
mẹ ạ. Làm ơn đi.”
Tay bà rơi xuống bên hông. Bà quay đầu lại nhìn ngọn
lửa, và thấy Berivan. Nụ cười của bà tắt dần, và mắt nhắm
lại. Những viên đạn vẫn tiếp tục bay qua phía trên họ.
Đêm hôm đó, sau khi tiếng súng đã tàn, Ahmet cùng
mẹ anh ở bên xác của Berivan, và Abdullah. Họ đã vượt
qua đêm dài bởi hơi ấm từ những ngôi nhà đang cháy.
Ahmet không còn cảm thấy bất cứ điều gì. Bọn chúng đã
cướp đi niềm vui, hy vọng, và mọi thứ của anh. Khi mặt
trời bắt đầu lên cao, đống đổ nát của ngôi làng hiện ra rõ
ràng hơn. Tất cả những gì còn sót lại là đá, và gia súc bị
cháy, và xác người. Khoảng mười người còn sống sót sau
cuộc tấn công đang khóc bên cạnh thân xác những người
thân yêu của họ. Tất cả những gì còn lại của Koseli là một
vài người đã mất đi tất cả.
Sau khi chôn cất mẹ, chị gái, và ông nội của mình,
Ahmet ngồi xuống bên cạnh mộ chị gái mình, và hít thở
sâu,
13
19
Instanbul: là thành phố lớn nhất, đồng thời là trung tâm kinh tế, văn hóa và lịch sử
của Thổ Nhĩ Kỳ
20 Anatolia còn gọi là Tiểu Á có nghĩa là "mặt trời mọc", hay "phía đông.” Đây là một
bán đảo của châu Á mà ngày nay thuộc lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ, bắc giáp với Biển
Đen, nam giáp Địa Trung Hải, ngăn cách với châu Âu bởi biển Aegea, và biển Marmara
(đều thuộc Địa Trung Hải) ở phía tây, và giáp với phần đất đai rộng lớn còn lại của
châu Á ở phía đông.
tục nhập cư, cố gắng bám lấy sự sống trong thành phố
rộng lớn này, nơi mà nhiều người tin rằng nó đã được
chạm khắc từ vàng.
Ahmet đã lạc vào trong thành phố rộng lớn này. Ở đây,
anh đã nhìn thấy eo biển Bosphorus21 lần đầu tiên. Anh
nhìn thấy những người ăn mặc kỳ lạ nói chuyện với những
điểm nhấn khó hiểu giống nhau, và anh tránh xa họ. Kurd
là ngôn ngữ mẹ đẻ của anh, anh cũng sử dụng tiếng Thổ
Nhĩ Kỳ để giao tiếp, nhưng vẫn luôn liên tục tự vấn về
nguồn cội của mình. Có điều, cuộc sống thật sự rất khác
biệt ở Istanbul. Mọi người làm việc cật lực vào buổi sáng,
sau đó lại tiêu tiền tại các quán bar, và các câu lạc bộ vào
ban đêm. Khi anh nhìn thấy những người phụ nữ trang
điểm, và mặc váy ngắn lần đầu tiên, anh đã tưởng rằng họ
là người nước ngoài, nhưng họ lại nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ
cực chuẩn. Những người đàn ông ăn mặc đẹp đẽ đưa đón
21 Bosphorus hay Bosporus là một eo biển chia cắt phần thuộc châu Âu (Rumelia) của
Thổ Nhĩ Kỳ với phần thuộc châu Á (Anatolia) của đất nước này. Nó nối biển Marmara
với biển Đen. Eo Bosporus dài 30 km, với chiều rộng lớn nhất là 3,7 km ở lối vào phía
bắc, và chiều rộng nhỏ nhất là 0,75 km nằm giữa hai pháo đài Anadoluhisari, và
Rumelihisari. Trên các bờ của eo biển này có khá đông dân cư sinh sống, do thành phố
lớn Istanbul nằm ở cả hai bên bờ của nó.
Đường phố lấp lánh, các cặp tình nhân trong những
chiếc xe sang, những người trẻ tuổi đi dạo tự do bên cạnh
làn nước trong xanh của eo biển Bosphorus, tất cả những
điều này có thể nhìn thấy ở Istanbul, và làm cho nó trở
thành một nơi hấp dẫn. Cách mọi người sống, và ăn mặc
không giống với cuộc sống mà Ahmet từng biết ở làng
22
Kadiköy: Một bãi biển đẹp nổi tiếng của Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
23
Heybeliada hoặc Heybeli Ada là hòn đảo lớn thứ hai của quần đảo Hoàng tử ở Biển
Marmara, gần Istanbul. Về mặt hành chính, nó là một khu phố ở quận Adalar của
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
24 Galata: Cầu Galata là cây cầu bắc qua cửa ngõ của vịnh Sừng vàng - tiếng Thổ Nhĩ
Kỳ là Halic hoặc Altin Boynuz. Đây là một vịnh nhỏ của eo biển Bosphorus phân chia
thành phố Istanbul, và hình thành bến cảng tự nhiên đã che chở các quốc gia cổ Hy
Lạp, La Mã, Byzantine, Ottoman, và các tàu thuyền trong hàng ngàn năm. Đứng trên
cầu Galata có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Istanbul.
Koseli. Nó như thể đã trải qua một thế kỷ để chia cắt người
dân Istanbul với dân làng ở vùng sâu vùng xa.
Ahmet sống tại một chỗ trọ nơi có nhiều công nhân
đến từ miền đông. Anh đã đến Istanbul mà không có một
xu dính túi, và những người bạn của anh đã chăm sóc anh
ấy. Ahmet làm việc tại một công trường vào ban ngày, và
ban đêm anh là tài xế taxi cho một trong những câu lạc bộ.
Chỉ khi Ahmet bắt đầu làm việc vào ca đêm, anh mới thực
sự trở nên quen thuộc với thành phố này. Công việc này
khiến anh chứng kiến những điều tồi tệ nhất của con
người, những đêm say xỉn hoặc tình một đêm gian dối, và
mọi người chỉ đáng giá bằng bất cứ thứ gì họ có ở trong
ví. Ahmet bắt đầu hiểu ra.
Mỗi tối, ca làm việc của anh sẽ bắt đầu tại câu lạc bộ
Kelebek, nằm ở quảng trường Taksim, một địa điểm
thường xuyên lui tới của giới thượng lưu. Chiếc xe taxi
không phải của anh. Sau khi chứng tỏ bản thân bằng cách
làm việc chăm chỉ gấp đôi những nhân viên khác trong
một khoảng thời gian dài, sếp của anh, Haydar Bey, đã
cho anh mượn chiếc xe của mình để Ahmet có thể kiếm
thêm tiền. Haydar thừa cân ở tuổi 55, có khuôn mặt tròn,
đôi mắt nheo lại mỗi khi cười, và hàm răng trắng. Vợ của
Haydar, Nisa Hanim, rất thích Ahmet, và thường xuyên
mời anh đến ăn tối. Nhưng Ahmet e dè vì đôi bàn tay thô
ráp, mùi mồ hôi, và vết xi măng dính trên quần áo của
mình. Mỗi lần Haydar nhận thấy điều này, ông lại khuyên
chàng thanh niên: "Mồ hôi, và vết chai của con là minh
chứng cho sự chăm chỉ đấy, con trai ạ. Tại sao con phải
xấu hổ về điều đó chứ?"
Haydar là một người đàn ông giàu lòng trắc ẩn, luôn
mỉm cười, và hài hước. Họ không có con. Ông luôn giữ
đúng uy tín trả lương cho công nhân đúng ngày. Ông ấy
sẽ đến công trường một ngày trước ngày trả lương, và phát
thu nhập cá nhân cho mọi người. Khi ông ấy bận, Ahmet
sẽ làm thay cho ông ấy. Từ cách Ahmet thực hiện công
việc tại công trình đến cách anh lái chiếc xe, Haydar có
thể nhận ra rằng Ahmet đang ngấm ngầm tức giận. Ông
biết rằng có điều gì đó đã làm cho Ahmet phải từ bỏ phần
lương thiện trong anh. Ông tin rằng, ẩn đằng sau sự tức
giận, và thất vọng, anh vẫn là một đứa trẻ nhút nhát, và
nhân ái. Tuy nhiên, ông ấy không bao giờ cố gắng khám
phá những gì bên dưới cơn giận dữ kia. Ông biết nếu tìm
hiểu sẽ mở ra cánh cửa của những ký ức đã gây nên nỗi
đau thương lớn lao đó, và mọi người đều có quyền được
tôn trọng.
anh. Nisa, và Haydar không thể hiểu tại sao gia đình của
Ahmet, và dân làng Koseli lại phải chịu đựng những điều
đó. Họ không thể tin được sự mạnh mẽ của anh bất chấp
những gì anh đã trải qua. Họ không thể chịu đựng nổi khi
nghe về những điều mà Ahmet đã trải qua. Và bây giờ,
anh ấy đang ở đây, cố gắng để tồn tại trong một thành phố
bằng cách truyền bá về nguyên nhân của cuộc phản kháng
trong một phạm vi một góc nhỏ của Istanbul, sau khi bị
buộc phải từ bỏ ngôi làng, ngôn ngữ, văn hóa, và những
người thân yêu của mình.
không biết được sự rộng lớn của thành phố. Khi đến
Istanbul, suy nghĩ đầu tiên của họ thường là ý chí chinh
phục nó với một vài đồng xu, và giương cao ngọn cờ của
một cuộc nổi dậy.
Mọi thứ đều mới mẻ đối với những người mà làng của
họ bị đốt, và sơ tán. Trước tiên, hầu hết mọi người đến
thành phố này cùng với gia đình của họ, vì vậy họ cần nhà
ở, và công việc. Rõ ràng là những người này sẽ phải tự
giải quyết những vấn đề đó. Khu ổ chuột có chỗ dành cho
họ. Với số lượng lớn người nhập cư, việc đô thị hóa không
có kế hoạch cũng bắt đầu ở Istanbul. Một số người đến ở
cùng với những người thân của họ, những người đã đến
thành phố này trước đó, cho dù điều này chỉ tạm bợ trong
một khoảng thời gian ngắn, vì nguồn lực hạn chế của khu
vực lân cận không đủ đáp ứng cho dân số tăng lên nhanh
chóng. Mọi thành viên của những gia đình này đều phải
tìm công việc ở Istanbul, và đóng góp tài chính cho hộ gia
đình của họ. Những tòa nhà lâu đời nhất, và ít người ở
nhất của thành phố đã chào đón những người không có bất
kỳ người thân nào ở Istanbul. Đây là những ngôi nhà hẻo
lánh nằm bên lề cuộc sống bận rộn của thành phố. Nhìn
chung, các cộng đồng di chuyển vào cùng một đường phố
để hỗ trợ lẫn nhau, và giữ liên lạc. Những người đến từ
làng Koseli ở Diyarbakir đã chuyển đến đường Zeyrek của
Istanbul. Những người thuê nhà phải làm việc ngày đêm
để từ từ xây ngôi nhà của riêng họ. Giá thuê nhà rất đắt
đỏ, và đó không thể là một hợp đồng dài hạn.
Ban ngày, mọi người đều đi làm, đến tối thì ăn tối
trước khi làm việc ca đêm tại công trường. Họ không
muốn làm việc chung với người dân Istanbul vì quần áo
kỳ lạ, và ngôn ngữ của họ. Và họ đã không sai trong việc
này. Họ có thể chia sẻ điều gì khi bất đồng ngôn ngữ? Hầu
hết chỉ mang theo quần áo, những kỷ niệm của những ngôi
làng bị sơ tán, và cả nỗi đau thương của họ. Chẳng phải
sự nghèo đói, và sự khác biệt đã đẩy họ đến khu ổ chuột
của Istanbul? Cuộc sống đã ngăn cách đô thị, với một bên
là người giàu, và bên kia là người nghèo. Nhân loại đã
quen với sự chênh lệch này ngay từ thủa xa xưa. Liệu sự
bất cân bằng, và bất bình đẳng này có thể được giải quyết
hay không? Ai có thể quyết định trong cuộc sống? Tại sao
một số người có thể trải nghiệm những niềm vui của cuộc
sống về đêm trong những ngôi nhà đắt đỏ, trong khi những
người khác buộc phải sống sau những cánh cửa sổ vỡ, đầy
chuột bọ? Cuộc sống nhạt nhòa này ở Istanbul có xứng
đáng hay không?
Theo thời gian, mọi người đều quyết tâm để có thể xây
dụng ngôi nhà riêng của họ. Ngôn ngữ, và văn hóa của họ
cũng hòa trộn vào thành phố mà họ nương náu. Con cái
của họ đã kết bạn mới. Tài chính của họ cũng được cải
thiện dần dần nên họ tiến gần hơn đến trung tâm thành
phố. Có những người chuyển từ nhà thuê đến nhà riêng là
dân di cư từ các làng. Con cái của những gia đình này bắt
đầu hòa nhập, và kết bạn với những đứa trẻ khác ở
Istanbul. Những đứa trẻ đến từ phía đông đã cố gắng dạy
những người bạn mới của chúng tiếng Kurd. Điều này
khiến nhiều bậc cha mẹ tức giận, và họ cấm con cái của
họ chơi với trẻ em đến từ phía đông. Nhưng lệnh cấm này
dường như không có mấy tác dụng. Những cuộc chiến đã
nổ ra giữa các gia đình, và thường là những người ở phía
tây bị buộc tội khủng bố. Mặc dù có rất nhiều tranh cãi,
nhưng giới trẻ đã chứng minh rằng chúng có thể sống cùng
nhau trong cùng một khu phố một cách hòa bình. Những
đứa trẻ này lớn lên cùng nhau, bảo vệ, và tôn trọng ngôn
ngữ của nhau. Trong khi cha mẹ chúng tranh cãi gay gắt,
thì con cái của họ đã trở thành những sứ giả của hòa bình.
Một đêm nọ, Ahmet rời khỏi nhà Haydar với chiếc xe
taxi để bắt đầu ca làm việc của mình tại câu lạc bộ
Kelebek. Anh tiếp tục rẽ sang các con phố nhỏ, và dành
thời gian để chạy xe ở đó. Ở cuối một con phố dài với hai
bên là khu nhà dân cư. Bỗng, một đứa trẻ với một khẩu
súng gỗ nhảy xuống đường trước mặt anh, và hét lên:
"Này! Dừng lại!"
mười một tuổi, có mái tóc vàng, và trông yếu ớt. Quần áo
của nó rõ ràng là làm bằng thủ công. Ahmet rất rành về
quần áo thủ công. Anh mỉm cười với cậu bé: "Tên cậu là
gì, người đàn ông trẻ tuổi?"
"Đây là con đường của tôi, và anh phải trả tiền nếu
muốn đi qua.”
Cậu bé đứng đó, và suy nghĩ một phút trước khi lật
mái tóc từ đôi mắt của mình lên. Sau đó, nó chĩa súng về
phía Ahmet, và nói: "Anh nghĩ sao nào? Tất nhiên lấy từ
mọi người.”
"Có một số đứa trẻ sống ở vài dãy nhà phía trước.
Chúng đi qua đây mỗi ngày để đến trường. Tôi lấy tiền
của chúng vào những ngày tôi không đến trường. Và nếu
tôi có sức mạnh, tôi sẽ đánh bại chúng.”
"Tại sao cậu lại chiến đấu với họ sau khi đã lấy tiền
của họ?"
Ahmet đút tay vào túi, và mỉm cười với cậu bé:
"Đừng nghe những điều cha bạn nói. Hãy kết bạn với
họ, và đến thăm những ngôi nhà của họ.”
Anh lấy một ít tiền mặt trong túi, và đưa cho Yılmaz.
"Được rồi, thưa ngài!" Yılmaz trả lời khi nhận tiền.
Ngay khi cậu bé vừa dứt lời, họ nghe thấy giọng một
người phụ nữ gọi từ trên lầu: "Yılmaz vào trong đi! Con
đang nói chuyện với ai ở dưới đó?"
14
Áo khoác của liên tục trượt khỏi vai, và mỗi lần như vậy,
một vệ sĩ của hắn lại kéo nó trở lại một cách thận trọng.
Mọi người trong câu lạc bộ đang xem vũ công múa bụng
trên sân khấu với sự chú ý say mê. Ahmet biết gã đàn ông
này là Recep khét tiếng, kẻ thường thuê tất cả các bàn gần
sân khấu. Hắn ta nổi tiếng ở khu phố này vì là đầu nậu
buôn bán ma túy ngầm.
Đây là lần thứ hai, Ahmet bước vào câu lạc bộ, anh đã
nhận thấy một trong số các vệ sĩ của Recep thay phiên
nhau quan sát xung quanh một cách cẩn thận, và quay đi
quay lại để nhìn vũ công trên sân khấu. Từ những hành
động đó có thể biết được gã là người chịu trách nhiệm về
an ninh của trùm ma túy. Ahmet không thể tưởng tượng
được có ai dám tấn công Recep khi hắn có rất nhiều vệ sĩ
bảo vệ như vậy. Những nhân viên bắt đầu phục vụ, và
Ahmet ngồi xuống một chiếc bàn ngay phía sau Recep.
của Recep, các vệ sĩ đang bận rộn vỗ tay theo điệu nhạc.
Gã phục vụ đặt cái đĩa lên bàn, và liền sau đó gã rút con
dao. Ngay lập tức, Ahmet nhảy khỏi ghế, và nắm lấy hắn
ta. Anh cướp con dao từ tay gã đàn ông, và húc đầu vào
mặt hắn. Máu từ mũi tên phục vụ bắn ra làm nhuộm đỏ cả
chiếc áo sơ mi trắng của Ahmet. Mọi người, bao gồm cả
các vũ công, la hét, và chạy hoảng loạn.
"Ahmet.”
Với một cánh tay khoác trên lưng Ahmet, Recep chỉ
về phía bên phải của anh, và gọi một trong những vệ sĩ
của gã: "Necati!"
"Chà chà, vùng đất nơi dòng sông Tigris nuôi dưỡng
những người đàn ông can đảm. Cậu đang ở đâu? Cậu làm
nghề gì?"
"Tôi sống trong một nhà trọ cấp ba. Tôi làm việc tại
một công trường xây dựng vào ban ngày, và lái taxi vào
ban đêm.”
"Làm tốt lắm. Tôi ngưỡng mộ cách cậu làm việc chăm
chỉ để kiếm sống. Dễ thấy được là trái tim của cậu cũng
mạnh mẽ như tình trạng khó khăn của cậu. Kể cho tôi
thêm về cậu đi nào. Làm thế nào cậu lại rời Diyarbakir,
và đến đây? Nhưng chờ đã, trước khi nói chuyện, cậu có
muốn uống gì không?"
môi, và quay sang Ahmet: "Hôm nay cậu đã dạy cho tôi
một bài học.”
“Cậu rất khiêm tốn, nhưng cậu không nên như vậy.
Khiêm tốn sẽ không đưa cậu tiến xa trên nước này. Bây
giờ kể cho tôi câu chuyện của cậu, và tôi sẽ lắng nghe.”
Câu lạc bộ gần như trống rỗng. Hầu hết các khách
quen đã vội vã ra ngoài sau sự cố. Ahmet nhớ lại nhiều
nỗi đau thương mà anh đã trải qua, và nỗi buồn tràn ngập
trong anh. Anh không có năng lượng để nói thật chi tiết
tại sao anh lại đến đây. Kể câu chuyện này ra cũng sẽ
không làm mọi việc khác đi được. Sau khi cắn một miếng
táo, anh bắt đầu kể:
người. Số phận mang tôi đến đây. Tôi đã sẵn sàng cho bất
cứ điều gì xảy ra tiếp theo.”
Anh nhận thấy rằng Recep đang lắng nghe một cách
chăm chú. Hắng giọng, anh ta nhấp một ngụm raki của
mình. Anh nhìn chằm chằm vào mắt Ahmet, và mỉm cười.
"Ý cậu là gì, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bây giờ cậu
là một trong số chúng tôi.”
"Ý tôi là, nếu cậu muốn, tôi muốn cậu làm việc cho tôi.
Người như cậu rất hiếm có. Một người đàn ông như tôi sẽ
rất may mắn nếu có được một người giống như cậu, người
thông minh, trong sáng, và can đảm, để dựa vào.”
"Tại sao?"
"Dối trá.”
"Cậu nên bỏ lại sau lưng ngôi làng, và cuộc đấu tranh
của mình. Hơn nữa, nếu cậu muốn sử dụng sự thật ở đất
nước này, cậu phải mang nó như đống tiền lẻ trong túi.
Lời nói dối của chúng ta giống như cây cung trong tay, và
sự thật giống như mũi tên. Cậu đã bao giờ thấy ai đó nắm
chặt mũi tên trong khi bắn cung chưa? Tôi xin lỗi, nhưng
cậu đã bị loại khỏi guồng máy hệ thống, và sau đó là bởi
dân làng vì cậu đã nói sự thật. Nếu cậu muốn kiểm soát
thành phố này, nếu cậu muốn mọi người làm theo lời cậu
nói, cậu phải sử dụng sức mạnh. Để có được điều đó, cậu
phải sử dụng những lời nói dối, thủ đoạn, bất cứ điều gì
cần thiết. Nếu cậu chuẩn bị một lời nói dối đủ lớn, và
tuyên truyền tốt cho nó, cậu thậm chí có thể cai trị đất
nước của hàng triệu người đã nhắm mắt trước sự thật, và
xa cách bản thân họ từ thực tế. Tôi đã nói với đối thủ của
mình, kẻ mà tôi muốn tiêu diệt, những lời nói dối mà họ
luôn muốn nghe, và tôi đã kéo họ ra khỏi thực tế.”
“Cậu nên biết rằng, khi một người giữ khoảng cách
đủ xa với sự thật sẽ sụp đổ như một cái cây không có rễ,
như con tàu nhổ neo rời khỏi cảng, và từ bỏ đi thực tế.
Đây là cách để tôi loại bỏ đối thủ của tôi. Tôi đã kiểm
soát. Tôi đã nói dối, rất nhiều, Ahmet. Cậu có biết không?
Trong khi tôi làm như vậy, tôi luôn nói với gia đình rằng,
tôi sẽ có thể trở thành bất cứ cái gì mà tôi muốn, sẽ nói
bất cứ từ nào mà họ cần nghe.”
"Vì vậy, cậu thấy đấy, những lời nói dối thường là
tiếng nói chân thật nhất của chúng ta, giúp chúng ta vượt
qua các rào cản. Theo tôi, dối trá thường là những sự thật
đã bị dập tắt trong nhiều năm, cố gắng để lộ ra. Cậu có
thể thấy nói như vậy hơi triết lý đối với hoàn cảnh đang ở
trong một câu lạc bộ, nhưng tôi đã học được điều này
không phải từ sách, mà từ đường phố, từ những mối quan
hệ của tôi với những người khác, từ cuộc sống. Đó là lý
do tại sao, nếu cậu muốn tồn tại ở thành phố này, cậu phải
Sau khi uống ngụm rượu cuối cùng trong ly, Recep rút
súng ra, và đặt nó trên bàn. Một trong những vệ sĩ của gã
đã đổ đầy đồ uống vào ly của gã, và gã lại nhấp một ngụm
nữa. Gã nhìn Ahmet với đôi mắt chán chường. Nó biểu thị
rõ ràng điều này có nghĩa là gì. Khẩu súng trên bàn là biểu
tượng của một cuộc sống mới, và nhận lấy khẩu súng đó
có nghĩa là bỏ lại cuộc sống trước đây lại phía đằng sau.
Ahmet suy nghĩ một lúc lâu. Anh nghĩ về quá khứ. Tất cả
những gì tay trùm ma túy nói đều có lý, và gã đã đúng về
nhiều mặt. Sự thật, Ahmet đến thành phố để sẵn sàng lựa
chọn một cuộc sống như thế này. Anh biết rằng, bàn tay
cầm súng có ít trách nhiệm hơn bàn tay cầm bút. Anh sẽ
chọn con đường ít trách nhiệm hơn, trong khi luôn ghi nhớ
những gì mà mẹ anh đã nói với anh. Anh sẽ luôn sát cánh
với những người bị áp bức, và sẽ không bao giờ trở thành
bạo chúa. Anh nhận lấy súng, và dắt nó vào dây thắt lưng,
và tất cả họ cùng nhau rời đi.
15
"Tôi ổn. Trên thực tế, tôi còn hơn cả ổn. Cậu đã vượt
quá kỳ vọng của tôi chỉ trong một thời gian ngắn. Cậu đã
thích nghi với thế giới của chúng ta rất nhanh chóng.”
"Cám ơn ngài.”
"Có một lý do tại sao tôi gọi cậu đến đây. Có một con
phố đã bị dân làng nhập cư xâm chiếm. Tôi nghĩ nên phá
bỏ nó, và bắt đầu xây dựng mới ở đó. Dân làng đang xây
nhà theo cách mà họ thích, nhưng chúng ta có thể kiếm
được rất nhiều từ khu phố đó. Dân làng có thể rời đi, và
định cư ở một nơi khác. Tôi đã đề cập việc này với Necati.
Tôi muốn thưởng cho cậu ấy vì những ý kiến cậu ấy đã đề
xuất cho tôi, bằng cách nêu ra một số vấn đề của những
việc cần làm.”
Necati vô cùng hài lòng với bản thân. Hắn chỉ còn
cách sự giàu sang mà hắn hằng mơ ước bấy lâu một bước
nhỏ nữa thôi. Hắn muốn hét lên như một đứa trẻ hạnh
phúc. Mặt khác, Ahmet lại đang có vẻ suy tư.
"Đừng nghĩ về tên của nó. Chỉ cần khiến mọi người sợ
hãi rời đi, và cậu sẽ kiếm được một khoản tiền lớn.”
"Phố Zeyrek.”
"Từ khi nào ngài lại nhượng bộ, Recep, thưa ngài?
Ngài nhượng bộ chỉ vì một số người kém cỏi thôi sao?"
"Từ bây giờ, đừng bao giờ tranh cãi trước mặt tôi nữa.
Đây là lần đầu tiên, và cũng là lần cuối cùng. Về phần
cậu, Ahmet, cậu dưới quyền của tôi, và chỉ được phép chỉ
huy người của tôi. Cậu sẽ không thành công trong thế giới
của chúng ta nếu cậu cố bám vào ký ức xa xưa của cậu.
Chúng ta sẽ giúp họ tái định cư, vì lợi ích của cậu, và họ,
nhưng hãy ngừng hành động theo cảm xúc. Cả hai cậu
hãy bỏ thói cãi vã, và tập trung vào công việc. Đây là việc
của cậu, Ahmet. Hãy nghĩ cách để thi hành nó.
16
Ahmet đã nghe nói rằng một số câu lạc bộ, dẫn đầu là
Kelebek, đã quyết định không trả tiền, vì vậy Necati đã
được lệnh thay thế Ahmet. Recep sẽ giao những loại công
việc này cho Necati theo thời gian, và Necati coi chúng là
cơ hội để trở lại với Recep. Ahmet, và Necati đến câu lạc
bộ cùng lúc. Necati đi đến bên xe của Ahmet, và nói với
một nụ cười chế giễu.
“Vậy thì phải chờ xem”, Ahmet nói với một nụ cười.
chống lại chính những giá trị mà anh đã chiến đấu cùng
với chị gái, và bạn bè của mình?
Anh giật mình trở về với thực tại bởi một tiếng nổ lớn.
Khi anh tập trung tinh thần trở lại, anh nhìn thấy Necati
nằm trên sàn, mặt bê bết máu. Những người trong câu lạc
bộ đã đánh hắn ta thừa sống thiếu chết. Ahmet ném điếu
thuốc của mình, bước ra khỏi ô tô, nắm lấy vai Necati, và
lật hắn nằm ngửa lại.
Đôi mắt hắn sưng lên, và hắn ta thở hổn hển. Ahmet
ra lệnh cho một số tên đàn em đưa Necati đến bệnh viện.
Anh nói với những tay đàn em còn lại đứng ở ngay cửa,
và đưa súng cho họ giữ trước khi vào câu lạc bộ một mình.
Các bàn trong câu lạc bộ được chất đống ở trung tâm
căn phòng, và hai mươi người đàn ông đang đợi bên trong
với gậy trong tay. Ahmet la lớn: "Các người phải tiếp tục
đóng tiền hoặc là rời khỏi câu lạc bộ này trên cáng.” Đám
người lao tới Ahmet, nhưng anh quá nhanh so với họ. Anh
cướp cây gậy của gã đàn ông đầu tiên, và hạ gục hắn ta
nhanh chóng bằng một một cú đánh. Anh nhanh đến nỗi
những tên khác phải khốn khổ để theo dõi mọi chuyển
động của anh trong ánh sáng mờ mờ của căn phòng. Anh
hạ từng tên một bằng thanh sắt nặng. Anh tấn công như
thể biết rõ điểm yếu nhất của họ. Tất cả họ bị hạ gục chỉ
trong chốc lát. Ahmet đã hạ từng người một khi họ tấn
công. Những gã đàn ông hoặc nằm trên sàn bất tỉnh hoặc
khập khiễng lần mò đi ra những lối thoát gần nhất.
"Con sư tử của tôi, cậu còn đáng giá hơn cả một đạo
quân. Nắm đấm của cậu cũng mạnh như ý chí cậu.” Recep
nói khi ôm lấy anh.
17
Sau sự kiện ngày hôm đó, Recep càng cảm thấy quý
trọng người đàn ông trẻ tuổi này, và gã mời Ahmet đến
biệt thự của mình để nói chuyện riêng với anh. Recep đã
cho chuẩn bị sẵn một bữa tiệc với những món ăn ngon
nhất, và đồ uống đắt tiền nhất.
khiến người khác phải cúi đầu trước cậu. Bây giờ cậu có
thể làm những điều cậu muốn.”
"Nếu ngài muốn tôi tiếp tục làm việc cho ngài, tôi có
một vài điều kiện.”
"Tất nhiên rồi, chàng trai của tôi. Nói cho tôi biết đi
nào.”
"Đúng vậy.”
Và tôi cũng có thể thấy rằng, cậu không thể tách mình
ra khỏi họ. Những điều cậu đã làm cho tôi là rất đặc biệt,
và tôi không muốn mất cậu. Nếu cậu làm một việc cho tôi,
tôi hứa rằng dân làng ở đường Zeyrek có thể sống bao lâu
"Gần đây, có một tay buôn vũ khí mới nổi lên, hắn đến
từ phía đông, giống như cậu. Hắn dường như ở khắp mọi
nơi, giống như một con chuột. Ngay cả các lãnh chúa của
các bộ tộc cũng đang cố gắng để bắt giữ hắn. Hắn ta đã
cung cấp hàng cho các chủ đất lớn, và các già làng.
Nhưng hắn không dễ dàng bị nghiền nát. Hắn tích lũy
được một lượng lớn người tham gia vào việc cung cấp vũ
khí cho các bộ lạc. Bây giờ hắn đang sống một cuộc sống
phủ phê.”
"Diyarbakir?"
"Vậy tại sao cậu lại ngừng ăn? Cậu còn làm rơi nĩa
nữa. Cậu có phải đang lo sợ cho các bộ tộc không?"
"Hãy để tôi suy nghĩ một chút. Tôi sẽ cho ngài câu trả
lời sớm thôi.”
anh phải chứng kiến mẹ chết trong tay mình khi những
viên đạn vụt qua đầu, và buộc anh phải nhìn thấy khuôn
mặt chị gái, và ông nội lần cuối khi họ bị đè dưới bức
tường đổ sụp?
Hai vị trí này hoàn toàn đối lập với nhau. Một bên chỉ
tập trung vào giết chóc, và hủy diệt, còn một bên là bảo
vệ sự sống hoặc sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nó. Ahmet
đang phải chịu một thử thách tàn khốc. Một cách công
bằng, lương tâm của anh phán xét anh nhiều nhất, và
không có gì trong hồ sơ bào chữa có thể thuyết phục tòa
án này. Bàn tay cầm súng liệu có giảm bớt trách nhiệm?
Anh không muốn trở thành một tên bạo chúa? Chẳng phải
anh đến Istanbul để tìm kiếm sự trong sạch? Gánh nặng
thật sự như con quái vật đầy sức mạnh. Sinh vật nào có
thể đem số phận, và quá khứ đã theo anh đến bất cứ đâu
ra khỏi anh? Ahmet hiểu rằng, không có cách nào để loại
bỏ quá khứ, và không có ý nghĩa gì trong việc bỏ qua lịch
sử. Dù anh đi đâu, quá khứ cũng sẽ theo anh, anh sẽ phải
mang theo gánh nặng này mọi nơi mọi lúc.
Nhưng còn Zeki thì sao? Ahmet đã trải qua rất nhiều
kỷ niệm cùng với anh ta. Họ đã làm bài tập về nhà cùng
nhau. Những khoảnh khắc họ cùng nhau ở trường lại hiện
lên trong tâm trí anh. Zeki từng là một đứa trẻ nghịch
ngợm. Nghĩ lại những kỷ niệm này, Ahmet lại thoáng mỉm
cười. Anh muốn quay lại những khoảnh khắc đó. Có thể
họ không khá giả như những đứa trẻ ở phương tây. Cha
của họ không có xe để đưa họ đến trường vì vậy họ đi
bằng máy kéo trên những con đường đầy bụi, nhưng ít
nhất họ đã hạnh phúc. Họ không ý thức được sự bất bình
đẳng, vì vậy họ không bao giờ có ý định phản đối hoặc so
sánh. Ngay cả khi họ đã từng như vậy, họ có thể làm được
gì? Những cậu bé sẽ hỗ trợ lẫn nhau, và học cách sống
như một gia đình. Khi họ trở về ký túc xá vào ban đêm,
căn phòng sẽ đầy mùi mồ hôi. Những học sinh mặc đồng
phục trong mọi sinh hoạt. Vì vậy, theo lẽ tự nhiên, chúng
sẽ trở nên bẩn thỉu, đặc biệt là xung quanh cổ, và dưới
cánh tay. Tất nhiên, những cậu bé có một giải pháp đối
phó. Họ sẽ chỉ chà sạch đường viền cổ áo, và nách áo sơ
mi của họ mỗi đêm, và treo chúng lên đến sang, để cho
không khí làm khô đi.
Tại ký túc xá, mọi người thường lắng nghe những câu
chuyện bất tận của Zeki. Mỗi tối, cậu ấy sẽ kể những câu
chuyện của mình vào cùng một thời điểm. Cậu ta không bao
giờ bỏ lỡ nó. Sau khi tất cả mọi người đã rửa mặt, rửa tay,
đèn tắt, và giáo viên phụ trách ra lệnh cho mọi người đi ngủ
với một tiếng còi dứt khoát, và một mệnh lệnh sẵn sàng.
"Hãy đi ngủ ngay bây giờ. Nếu các trò không thức dậy
đúng giờ vào ngày mai, tất cả các trò biết tôi sẽ làm gì với
các trò.”
làm bay bớt mùi hôi. Zeki ngủ ở giường tầng dưới. Khi
cậu ta bước vào phòng, mọi người sẽ ngừng công việc họ
đang làm. Hai chàng trai sẽ nắm lấy vai cậu ta trong khi
hai người khác sẽ cố gắng kéo đôi ủng ra khỏi chân của
cậu. Không ai có thể giữ nổi khuôn mặt điềm tĩnh khi mà
những sự náo động này diễn ra. Đó là một nỗ lực mệt mỏi,
và đôi khi họ cố tình kéo dài nó ra càng lâu càng tốt. Cởi
giày cho Zeki đã trở thành trò giải trí của mọi người.
những người khác cùng dậy để cầu nguyện. Ngay sau đó,
việc này đã dừng lại khi các giáo viên đến can ngăn.
Ahmet đã tái hiện lại những năm tháng trung học của
mình như một cuốn phim. Bây giờ, Recep đang muốn
Ahmet giết người bạn cũ của mình.
18
Anh lột sạch quần áo rồi đi tắm. Sau khi tắm xong, anh
tự pha cho mình một ly cà phê đậm đặc, và cảm thấy tốt
hơn nhiều. Anh đã biết mình phải làm gì. Anh sẽ đến thăm
Recep, và hỏi địa chỉ của Zeki.
bất cứ điều tồi tệ nào mà anh có thể phải đối mặt. Một
người đôi khi có thể phải thay đổi nhiều lần hướng đi trong
suốt cuộc đời của họ, nhưng mục tiêu phải luôn rõ ràng,
và dài hạn. Ahmet đã rời bỏ cuộc sống trước đây để làm
việc cho tổ chức mafia với cây súng trên tay, nhưng mục
tiêu vẫn như cũ, đó là bảo vệ người dân của mình khỏi sự
áp bức, và giúp đỡ để họ có được cuộc sống yên bình mà
họ đáng được hưởng. Với suy nghĩ này, anh biết mình cần
một cách làm để vừa không gây hại cho người bạn thời
thơ ấu của anh, vừa không gây hại cho dân làng. Anh nhớ
đến câu nói “Cứu một mạng sống là cứu cả nhân loại.”
Ông nội anh thường xuyên lặp đi lặp lại câu nói này khi
ông đưa ra những lời răn dạy về tôn giáo. Nhưng đối với
tình huống lúc này Ahmet đang đối mặt, mọi người
thường có xu hướng chọn cách giải quyết bằng vũ lực.
Anh đã cứu Necati, và những người khác khỏi cái chết
nhiều lần, và họ chiến đấu cùng nhau mặc dù họ không ưa
gì nhau.
chiến đó. Necati phụ trách kho vũ khí của Recep, và hắn
biết xuất xứ của mọi vũ khí. Hắn chịu trách nhiệm bàn
giao vũ khí, và hắn ta thường vận chuyển vũ khí để ngăn
chặn các cuộc đột kích. Lần cuối cùng hắn chuyển kho vũ
khí là ngày hắn ta nhập viện.
Khi Ahmet đến biệt thự của Recep, anh nhận thấy rằng
nơi này đã bị tấn công. Anh ra khỏi xe, và đến phòng của
Recep. Khi anh gõ cửa, và bước vào, anh thấy Recep ngồi
với tư thế gối đầu lên đôi tay của gã, suy nghĩ miên man
bên bàn làm việc. Gã nhìn lên, và Ahmet nhận thấy mắt
gã đỏ ngầu. Anh lo lắng hỏi: "Chuyện gì đã xảy ra?"
Recep đứng dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ, rồi nhỏ giọng
nói: "Mọi thứ đã kết thúc rồi.”
"Ý của ngài 'Mọi thứ đã kết thúc rồi' có nghĩa là gì?
Chuyện gì đã xảy ra thế?"
19
"Anh không thể vào gặp Zeki cùng với một khẩu
súng.”
"Làm sao chúng tôi biết anh là bạn của anh ấy?"
"Ahmet Akköse.”
"Nếu tôi muốn dùng súng của mình, tôi đã làm điều
đó từ đầu với các người.”
với trang trí. Ahmet dừng xe lại gần ngôi nhà, và bước ra
khỏi xe. Zeki đi ra, và nở một nụ cười thân thiện trên
khuôn mặt khi anh nhìn thấy Ahmet. Anh lập tức quay
sang đám thuộc hạ, và nói: "Hạ vũ khí xuống đi, bạn thân
yêu của tôi đã đến rồi!"
Sau khi ngắm nhìn Ahmet một lúc, Zeki lau khô nước
mắt, và nói: "Người anh em yêu quý, trái tim bạn thật
trong sáng. Bạn đến Istanbul khi nào? Tôi nhớ bạn rất
nhiều. Tuy làng của chúng ta ở cạnh nhau nhưng chúng
ta không bao giờ có thời gian để gặp nhau. Bây giờ, chúng
ta lại gặp nhau ở đây.”
"Bạn nói đúng, Zeki. Và tôi cũng nhớ bạn. Đã quá lâu
kể từ ngày chúng ta gặp nhau lần cuối. Tôi thấy rằng công
việc kinh doanh của bạn đang rất phát đạt nhỉ.”
"Mọi thứ không như bạn thấy đâu, Ahmet ạ. Mọi thứ
trông từ xa thì rất ổn, nhưng sự thật thì còn lâu mới tốt
được.”
"Tôi thích chứ, nhưng đôi khi nó trở nên quá mệt mỏi.
Tôi luôn phải lẩn trốn cảnh sát, tìm đủ mánh lới để không
bị bắt.”
"Ông nội tôi nói rằng, bạn buôn bán súng. Nhưng khi
ông ấy nói với tôi rằng, bạn chỉ vừa mới bắt đầu gần đây.
Có vẻ như bạn đã đi được một chặng đường dài.”
"Ông của bạn nói đúng. Chúng tôi gặp nhau sau một
buổi cầu nguyện trong tang lễ, và đã có một cuộc trò
chuyện nhỏ. Nhân tiện, tôi cũng đã nghe chuyện xảy ra
với ngôi làng của bạn. Tôi rất lấy làm tiếc về sự mất mát
của bạn.”
Zeki cúi đầu, và đáp lại một cách khó khăn: "Cảm ơn,
Ahmet. Chúng ta đã có những lúc bên nhau. Đôi khi tôi
nhớ lại những năm trung học, và thấy rất vui. Bạn có nhớ
những lúc chúng ta phải cởi giày của tôi không? Tôi vẫn
cười thầm mỗi khi nhớ lại.”
"Tại sao bạn lại mang cái đó, Ahmet? Để làm gì?"
"Tôi rất vui vì bạn đã hỏi. Tôi muốn nói chuyện với
bạn về điều này.”
"Đương nhiên rồi, người anh em, tôi đang nghe bạn
đây.”
anh đã mất gia đình như thế nào, và ngôi làng của họ đã
bị thiêu rụi ra sao. Zeki biết rằng làng Koseli đã bị phá
hủy, và buộc phải đi di tản, nhưng anh không biết chi tiết.
Anh không biết về những đau đớn, và khổ sở mà dân làng
đã trải qua. Ahmet chia sẻ mọi chi tiết với bạn của mình.
Có thể chia sẻ tất cả là không cần thiết, nhưng ở đây Zeki
là người có thể hiểu anh. Các câu từ, và cảm xúc chảy từ
tim đến đầu lưỡi anh. Khi Ahmet kể về những gì anh đã
trải qua ở Istanbul, Zeki nín thở. Anh không thể tin được
rằng, một người đàn ông luôn làm bạn duy nhất với những
cuốn sách đã dám cầm súng, và đi trong những con hẻm
tối tăm của Istanbul. Anh không ngắt lời khi Ahmet tiếp
tục với câu chuyện của mình. Anh không thể tin được
những gì Ahmet đã trải qua để sống sót. Sau khi giải thích
mọi thứ, Ahmet nhắc đến Recep, và chỉ khi đó Zeki mới
ngắt lời: "Không phải bạn đang nói đến trùm ma túy
Recep chứ?"
"Đúng vậy.”
"Ahmet, bạn đang làm gì khi đứng trong cái thế giới
thấp kém đó?"
Zeki đi vào nhà, và sau một thời gian ngắn, anh ta trở
ra với một chồng thư. Anh ném chúng lên bàn. Hàng trăm
người từ các khu ổ chuột, và nơi làm việc của các quận
giàu có của Istanbul đã gửi những bức thư này đến cho
Zeki. Mọi người từ các vùng lân cận, không phân biệt
đông tây, đã viết thư cảm ơn cho anh ấy. Sau khi ngồi
xuống, anh ta quay sang Ahmet, và nói:
"Bạn của tôi, bạn hãy nhìn tất cả những thứ này, hãy
nhìn xem cẩn thận xem gã đàn ông mà bạn sẵn sàng hy
sinh cuộc đời mình, vì những điều bạn đã làm, và sẽ tiếp
tục làm. Bạn có biết gã đàn ông này là ai không? Hắn là
trộm. Sức mạnh chống lại quyền lực, Ahmet ạ. Làng của
tôi cũng bị buộc phải sơ tán. Có thể bạn đã không nghe
nói rằng những ngôi làng gần Diyarbakir đều đã bị sơ tán
hết. Tất cả những người di chuyển đến đây phải tiếp tục
đấu tranh để duy trì cuộc sống mới của họ. Chúng tôi
không chỉ môi giới, giao dịch súng ống. Chúng tôi còn sử
dụng súng của mình để chống lại kẻ áp bức. Chúng tôi
chưa bao giờ chĩa súng về phía những người vô tội. Chúng
tôi phải điều tra một người đàn ông trước khi bán súng
cho anh ta - anh ta là ai, anh ta làm gì để kiếm sống, tìm
hiểu lý lịch kỹ lưỡng. Tất nhiên chúng tôi đôi khi cũng có
thể bị nhầm lẫn, nhưng chúng tôi làm việc chăm chỉ để
đảm bảo rằng, súng của chúng tôi không được sử dụng để
chống lại những người vô tội.”
một vùng đất, cùng một cơn gió đã thổi bay họ, cùng một
cơn mưa đã làm ướt họ, và những con đường bụi bặm
tương tự đã bám vào làn da, và tuổi thơ của họ. Mặc dù
người trước mặt này là một tay buôn vũ khí chợ đen,
nhưng trái tim, và linh hồn của anh ta vẫn khao khát hướng
về quê hương chung. Hơn nữa, anh có thực sự có tư cách
để đánh giá Zeki trong tình huống này không? Ít nhất thì
Zeki chưa bao giờ bị lừa dối, chưa bao giờ giúp đỡ sai
người hoặc lựa chọn sai khi đứng về một phía nào đó.
Ahmet cảm thấy xấu hổ về bản thân. Anh đang ủng hộ cho
loại người nào đây? Cuộc sống của anh giống như một
con tàu bị phá hủy trong cơn giông bão. Anh đang bị ném
từ phía bên này sang phía bên kia, và bị nghiền nát. Mỗi
lần anh cố gắng chọn cách bảo vệ mình, và người của
mình, anh lại bị phản bội, anh bị bỏ lại một mình, và bây
giờ anh đang bị lợi dụng.
hai tay vào túi, và nhìn chằm chằm về phía Istanbul. Anh
nhắm mắt lại, và hít thở sâu. Khi anh hít thở, anh nhớ đến
mẹ, và chị gái. Anh nhớ đến những khoảng thời gian anh
từng trải qua trong ngôi làng, và những câu chuyện anh
học được từ ông nội mình. Anh đã quá mệt mỏi với con
người, và cuộc sống. Cơ thể anh như kiệt sức vì mang một
linh hồn chuyển từ thất bại này sang thất bại khác trong
vô vọng. Sự thật là gì? Anh nên làm gì? Anh có nên ngồi
yên, và chấp nhận bất cứ điều gì có thể xảy ra không, hay
anh có nên chạy trốn đến một nơi mà không ai biết đến
anh? Làm thế nào anh có thể quên đi hay bỏ qua những gì
đã xảy ra với anh, và những người thân của anh? Nhưng
ai là người anh phải chống lại? Ai là kẻ thù của anh?
Không phải tất cả những người cùng sống dưới một lá cờ
đã làm điều này sao?
khi nào phiên tòa sẽ kết thúc, liệu Ahmet sẽ được tha bổng
hoặc bị kết án, nhưng bất luận thế nào, các quyết định của
phiên tòa đó là quyết định cuối cùng, và chúng sẽ phải
đóng lại để phản kháng. Anh ấy biết điều đó.
Cuối cùng, Ahmet quay lại với Zeki. Zeki không nhìn
xuống. Ahmet ngồi vào bàn, và lấy khẩu súng ra.
Ahmet đã hoàn toàn quên mất lý do tại sao anh lại đến
địa điểm đầu tiên này. Anh ngồi dậy, và nói thêm:
“Đúng rồi, Zeki, đã đến lúc giải cứu Istanbul khỏi cái
thế giới thấp hèn này. Nhưng chúng ta phải làm điều này
một cách chuyên nghiệp. Tôi phải đưa Necati về. Lý do
bạn bắt cóc hắn ta là để có được vị trí của kho súng, và
bạn có quyền làm điều đó. Đây là mấu chốt quan trọng để
loại bỏ tên Recep đáng ghét đó. Lúc này chắc là bạn đã
khiến Necati mở miệng.”
"Đúng vậy, tôi đã làm được. Tôi biết kho đạn pháo ở
đâu. Bạn có thể không nhận ra hắn ta. Tôi đã đối mặt với
hắn. Hắn trông thậm chí còn tệ hơn trước nhiều.”
"Vậy thì được rồi, bây giờ không có gì phải lo lắng cả.
Tôi đang bàn với bạn về kế hoạch để chúng ta không bị
thiếu sót bất cứ điều gì. Tôi sẽ lái xe đến chỗ giam giữ
Necati, sau đó người của bạn có thể bắn vào xe của tôi.
Cần chắc chắn rằng cánh cổng bị đóng, và vì vậy tạo ra
hiện trường có vẻ như tôi đã đâm đổ nó. Bây giờ, đây mới
là phần quan trọng. Tôi sẽ trả Necati cho Recep, và bạn
sẽ bám theo tôi. Sau một hồi rượt đuổi, tôi sẽ giả vờ rằng,
tôi đã cắt đuôi được bạn. Sau đó vào ban đêm, chúng tôi
sẽ rời khỏi biệt thự của Recep. Chiếc xe đầu tiên sẽ là xe
của Recep. Lúc đó, người của bạn có thể bắn hạ chiếc xe,
và kết liễu hắn ta. Tôi sẽ ngồi trên chiếc xe thứ hai cùng
với Necati. Tôi sẽ giả vờ chiến đấu với bạn, nhưng tất cả
những gì tôi sẽ làm là bắn vào khoảng không.”
Zeki đứng lên, và nói: "Vậy thì bắt đầu thôi nào.”
20
Ahmet lái xe qua khu nhà nơi giam giữ Necati với tốc
độ nhanh nhất có thể, trong khi đạn lướt xung quanh xe
của anh. Anh tăng tốc về phía Necati - người đang đẫm
trong máu. Ahmet biết hắn ta bị trói ở góc nào, vì vậy anh
đâm vào phía bên kia của tòa nhà.
tiến đến gần hơn, cho đến khi hắn cảm thấy như trái tim
mình ngừng lại. Hắn ta vẫn cố gắng di chuyển dù không
thể tiến lên được vì tay, và chân đã bị trói. Máu đóng trên
mặt che khuất tầm nhìn của hắn. Môi sưng tấy, mắt tím
tái, cả người hắn ta đầy bụi bẩn, và vết máu.
Ahmet xông vào tòa nhà nhỏ bằng chiếc xe của mình,
và Necati bị chìm trong bụi đất, đến nỗi gần như không
thể thở được. Ahmet vừa bắn trả vừa cởi trói cho Necati
với tốc độ nhanh nhất có thể. Anh đặt Necati ngồi ở ghế
sau xe, và lái đi trong tư thế đầu cúi thấp xuống bên cửa
sổ xe bị vỡ, mưa bụi trút xuống họ. Ahmet lái chiếc xe
xông qua cánh cổng một lần nữa, và lúc này các tay súng
tập trung vào bánh xe của anh. Chiếc xe tàn tật lạng lách
trên đường trong khi có tám chiếc xe khác bám đuổi đằng
sau họ. Necati rên rỉ trong đau đớn. Khi chiếc xe lắc lư,
đầu hắn ta đập vào thành ghế khiến hắn ta khóc rú lên
trong đau đớn. Ahmet cố gắng đánh lái liên tục để ổn định
chiếc xe. Chiếc xe lao vụt qua xe cút kít của người đàn
ông bán bồn nhựa trên đường. Khi Ahmet ngừng chân ga,
khói tỏa ra từ lốp tràn vào đầy xe. Capô xe vỗ lên, và hạ
xuống, và hơi nước bắt đầu bốc lên từ mui xe.
"Zeki, kéo người của bạn trở lại. Chúng tôi sắp nổ
tung rồi.” Ahmet nghĩ. Đúng lúc đó, chiếc ô tô đi sau giảm
tốc độ, và lao sang hướng khác. Chiếc xe thu hút sự chú ý
của mọi người với bộ vành uốn cong, mui xe bị hỏng, đèn
pha bị vỡ nát. Hệ thống phanh tạo ra tiếng ồn khủng khiếp,
và rung lên dữ dội. Cuối cùng, khi Ahmet đưa được Necati
về với Recep, anh, và người của hắn ta đã không còn có
thể nhận ra chiếc xe. Bọn chúng gọi nhân viên y tế tới
ngay khi những tay đàn em kéo Necati ra khỏi xa, và
nhanh chóng đem chiếc xe giấu đi.
Ahmet nói với hắn ta tình tiết bọn họ đã trốn thoát như thế
nào.
Trong khi lắng nghe, Recep bắt đầu tính toán đến việc
hắn phải dè chừng Ahmet, người đã trở thành mối nguy
hiểm rõ ràng đối với hắn. Cũng giống như những người
mà hắn từng triệt hạ, giờ đã đến lượt Ahmet.
Necati cảm thấy tốt hơn một chút sau khi gặp được
bác sĩ. Cả ba ở lại cho đến tối, lên kế hoạch cho việc di
chuyển tiếp theo. Ahmet thậm chí không thể lắng nghe.
Necati, mặt khác, không thể ngừng kể về cách mà Ahmet
đã giải cứu hắn.
Sự thoát hiểm hết lần này đên lần khác của Ahmet đặt
ra một nghi vấn cho Recep, và Necati, vì anh ấy đã cứu
mạng cả hai. Người đã giành được sự tôn trọng từ đám
đàn em của Recep, đẩy hắn xuống vị trí thứ hai. Cả hai
đều biết rằng, chúng phải khử Ahmet. Necati, và Recep
đã luôn làm việc như thế này. Bọn chúng đã sử dụng
những người đàn ông giỏi, và sau đó đã ám sát họ khi
chúng thấy họ không còn giá trị lợi dụng nữa. Chúng
"Như anh có thể thấy đấy, Recep, họ đã tra tấn tôi. Tôi
đã cố gắng không nói gì, nhưng tên khốn Zeki đối xử với
tôi tệ hơn một con vật. Tôi không biết mình đã ngất đi bao
nhiêu lần. Nhưng tôi thừa nhận rằng tôi đã nói cho họ vị
trí của kho vũ khí. Tôi biết điều này có ý nghĩa tồi tệ đối
với chúng ta nhưng tôi phải làm vậy nếu không chúng sẽ
giết tôi.”
“Mày nói cho tao biết điều này ngay bây giờ sao!?
Mày có biết tao đã bỏ ra công sức bao nhiêu năm để xây
dựng kho vũ khí đó không? Nếu bọn chúng phá hủy nó,
chúng ta sẽ chấm hết. Chúng ta sẽ bảo vệ mình như thế
nào đây, bằng gậy, và đá à? Đồ ngu, chúng tát mày một
cái, và mày phá hoại hết tất cả! Mà ở đây, tao đã nghĩ
rằng mày xứng đáng được hưởng điều gì đó ngon lành vì
mày sẽ không khai ra.”
"Chà chà, mọi thứ đã thay đổi rồi. Người của Zeki sẽ
không đợi một khi bọn chúng có được thông tin này.
Chúng ta cần phải hành động nhanh chóng. Nếu chúng ta
bắt đầu ngay bây giờ, chúng ta vẫn có thể có lợi thế.
Chúng ta sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta chỉ ngồi đây
mà tranh cãi. Chúng ta nên đi ngay, và chuyển kho đạn
đến một nơi an toàn. Chúng ta không thể làm gì nếu không
có vũ khí. Sau khi tôi đưa Necati đến đây, tôi không nghĩ
rằng, kho vũ khí sẽ là điều mà bọn chúng nghĩ đến đầu
tiên. Tôi đã tìm cách tấn công bọn chúng tại ngay sào
huyệt, và cứu Necati bất chấp việc bọn chúng truy đuổi.
Chúng trông có vẻ không phải là bọn có đầu óc. Tôi không
nghĩ rằng chúng sẽ đi thẳng đến kho đâu, nhưng cẩn thận
vẫn tốt hơn.”
vũ khí hạng nặng, và có mười hoặc mười hai tên canh cửa,
trong khi cậu chỉ có một khẩu súng ngắn, và một chiếc xe
hơi. Tuy nhiên, cậu vẫn thành công giải cứu Necati.”
Recep nói.
"Tôi đã nói với ngài rằng tôi đã làm điều đó như thế
nào. Tôi đã gia cố phần đầu xe, và đã dính rất nhiều đạn,
và tất nhiên, tôi không mấy quan tâm đến an toàn của
mình. Tôi đã đâm vào cửa với chiếc xe, và bắn trả khi tôi
có thể. Chiếc xe không còn sửa chữa nổi nữa, nhưng cuối
cùng, tôi đã thành công.”
"Recep, chúng tôi nghĩ rằng những tên này rất đáng
sợ, nhưng trong thực tế, chúng không thể đáng một con
vịt đang ngồi. Sức mạnh của chúng tất cả chỉ ở tên Zeki
đó thôi. Chúng ta phải tiêu diệt hắn. Nếu hắn chết, sẽ
không còn vấn đề gì với chúng ta nữa.”
"Tôi đã định kết liễu hắn, nhưng nếu làm vậy thì sau
đó cả hai chúng tôi sẽ không còn sống nữa. Necati không
có trạng thái để chiến đấu, và tôi không thể làm gì nhiều
hơn. Đây chỉ là màn làm nóng thôi. Bây giờ tôi biết vị trí,
và sự vô dụng của đám thuộc hạ của hắn. Lần sau tôi sẽ
tự đi, tôi có thể hạ gục tất cả. Nhưng ngay bây giờ, chúng
ta đang lãng phí thời gian đấy. Chúng ta phải đi nhanh để
bảo vệ kho vũ khí. Một khi chúng ta lo liệu việc đó ổn thoả,
chúng ta có thể ngồi lại, và tôi có thể trả lời câu hỏi của
ngài suốt cả đêm.” Ahmet nói.
21
người của Zeki đang trút xuống họ. Bầu trời nổ vang rền
những tiếng súng. Zeki, và người của anh ta hạ gục các
mục tiêu của họ một cách dễ dàng. Họ sẽ không để cho
bất kỳ một kẻ địch nào ngẩng đầu lên. Xe của Recep bốc
cháy, và phát nổ, mảnh vỡ tung tóe khắp nơi, lửa cháy
xém xuống đường. Bảo vệ bên trong dinh thự cũng nổ
súng bắn trả, nhưng tất cả đều vô ích. Zeki, và người của
anh ta quá giỏi. Cuộc đấu súng leo thang cho đến khi chiếc
xe mà Ahmet sử dụng cũng bị sa vào cơn mưa đạn. Tuy
nhiên, hầu hết chỉ phần phía sau chiếc xe bị bắn trúng.
Những bảo vệ trong biệt thự bị hạ gục từng tên một.
Ahmet nghe thấy tiếng nổ từ những chiếc xe phía sau.
Trong tất cả sự náo động, Necati hét lên:
Những viên đạn bay sượt qua họ, mặc dù họ không thể
biết từ đâu bay tới.
Sau khi lấy lại hơi thở, Necati tiếp tục hỗ trợ Ahmet,
nhưng những chiếc xe đang bốc cháy từng chiếc một. Cửa
sổ, và tường của dinh thự đang bị phá hủy.
Ahmet vui mừng khôn xiết trước cái chết của tên bạo
chúa thường xuyên áp bức người yếu thế. Những chiếc xe
cháy sáng rực không khác gì pháo hoa. Trong cuộc chiến
này, Ahmet không bắn trúng bất kỳ thứ gì. Lần đầu tiên,
anh nghĩ rằng anh đang thực thi công lý với khẩu sung mà
anh mang theo. Lần đầu tiên, anh đã dùng nó để những
người vô tội có thể sống tự do, và không rơi vào bàn tay
của bọn mafia. Súng cũng có luật riêng của nó. Theo
những quy luật này, những khẩu súng đứng về phía của
Zeki, và băng nhóm của anh bởi vì họ trừng trị một tên
22
Mỗi buổi sáng, ánh sáng mặt trời thường chiếu vào
bức tường nơi đầu giường tầng của Ahmet. Veysel là
người chịu trách nhiệm pha trà ngày hôm đó. Hơi nước
bốc lên từ chiếc ấm đồng, từ từ bay lên trần nơi mà ánh
mắt của những người tù nhân hướng theo với nhiều cảm
xúc lẫn lộn đan xen. Những ánh mắt đó đôi khi đầy khao
khát hy vọng, đôi khi lại chán chường trong tuyệt vọng.
Tám năm đã trôi qua, Ahmet luôn thực hiện cùng một
động tác trèo ra khỏi giường giống như vào buổi sáng đầu
tiên anh đến đây. Tia nắng đã chạm đến bức ảnh của đứa
con gái mà anh vẫn để bên giường. Metin đã mang bức
chân dung này đến cho anh, một người mà anh ta sẽ mãi
mãi mang ơn vì đã cứu con gái của anh. Bên cạnh bức ảnh,
tờ lịch được bóc đến ngày 12 tháng 7 năm 1978.
Mọi người cúi đầu im lặng. Tên lính canh hỏi lại lần
nữa, lần này gay gắt hơn: “Ahmet Akköse là ai? Nếu anh
không thò mặt ra ngay bây giờ, tôi sẽ hành hạ tất cả các
người ngay tại đây. Đừng thách thức tôi. Bước ra ngay.”
Đầu của tên lính hướng về phía Ahmet, hắn giữ dùi
cui trong tay, gõ nhẹ vào lòng bàn tay còn lại, và mỉm cười
vẻ chế giễu. Tên lính đưa mặt của hắn đến gần khuôn mặt
của Ahmet đến mức mũi của họ gần như đã chạm nhau.
Hắn ta nâng cao cây gậy. Mọi người đều nín thở theo dõi.
Những tên lính canh này muốn làm gì vào giữa đêm?
Chúng không thể chỉ để điểm danh, bởi vì việc này luôn
diễn ra vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Những người
tù đã nghĩ rằng, Ahmet sắp bị đánh bằng cây gậy đó. Họ
nhìn theo với cảm giác khó chịu, và những tên lính canh
khác nhìn họ như thể đang thách thức họ di chuyển. Cả
phòng cùng thở phào khi tên lính canh đứng đầu bắt đầu
lấy gậy cào vào lưng.
“Tôi không gây rắc rối cho ông, thưa ông. Tôi là một
nhà văn, và tôi viết nhật ký. Tôi viết truyện ngắn.”
ông ấy. Tôi đã nói với ông ấy rằng, tôi có thể viết nó bằng
tiếng Kurd.”
Gã lính canh càng tức giận hơn. Các tĩnh mạch trong
mắt gã phồng lên, người gã đã nhễ nhại mồ hôi, và những
nếp nhăn hằn sâu xuất hiện trên trán. Áo sơ mi của gã bây
giờ ướt đẫm mồ hôi. Hắn bước ra xa khỏi Ahmet, nhìn hai
tên lính canh đang đợi ở cửa, và bắt đầu cười. Tiếng cười
của hắn vang dội trong hành lang. Những tên lính canh
khác, và tù nhân đều không biết chuyện gì đang xảy ra
trước mặt họ. Toàn bộ cuộc thẩm vấn thật kỳ lạ.
Những người tù bắt đầu chửi bới ngay sau khi đám
lính canh rời đi. Với giọng nói đầy giận dữ của mình,
Habib nói: "Biến đi! Hắn muốn gì khi nói không có tiếng
Kurd hay người Kurd? Hắn ta sẽ làm gì? Làm bốc hơi tất
cả những người đã sống ở đây trong nhiều thế hệ à?”
Hai tên lính canh che mắt Ahmet bằng một tấm vải
đen, kẹp tay, và tống anh một cách thô bạo vào phòng
giam. Ahmet không mặc áo. Anh chỉ mặc một chiếc quần
dài, đám lính đã cởi giày và tất của anh ra. Gã lính canh
đứng đầu bước vào, cầm theo cuốn sổ, và bức ảnh đã bị
thu giữ trong quá trình khám xét. Hắn đưa cuốn sổ cho tên
lính đứng bên trái Ahmet, và tát Ahmet một cái thật mạnh
vào tai bằng tay trái. Không có thời gian để nhận ra
chuyện gì đang xảy ra, Ahmet lại lĩnh thêm hai cú đấm
vào bụng, cú này đến cú khác làm anh tắt thở trong vài
giây. Mắt của Ahmet lại bị che lại bởi chiếc băng đen
khiến anh chỉ có thể nghe thấy, và tên lính canh đứng đầu
hỏi anh một cách mỉa mai: “Tại sao mày không sử dụng
tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hả? Mày có vấn đề gì với tiếng Thổ Nhĩ
Kỳ à?”
“Tôi tôn trọng mọi bản sắc, mọi ngôn ngữ. Cách để
giữ một nền văn hóa tồn tại không phải là đi tiêu diệt các
ngôn ngữ khác.”
"Để tao yên đi. Tao sẽ tiêu diệt kẻ phản bội này.”
Sau khi hít thở một hơi dài có chủ ý, tên lính canh
đứng đầu đã lấy lại bình tĩnh. Phòng giam đầy mùi mồ
hôi, và gã đàn ông bắt đầu di chuyển xung quanh phòng
giam ngập đầy nước bẩn. Ahmet bắt đầu rùng mình vì cái
lạnh bên từ trong. Anh cảm thấy khó thở.
anh phải nhận vì những kịch bản, và bài thơ anh viết bằng
tiếng mẹ đẻ đều xuất phát từ cùng một nguồn gốc. Vấn đề
không phải là người Kurd hay tiếng Kurd. Mọi rắc rối bắt
đầu khi anh nỗ lực chứng minh về sự tồn tại thật sự của
anh. Nỗi đau xót khi anh khoác trên mình bản sắc của
người Kurd nhưng được dệt lên từ những đau thương, và
cấm đoán.
Gã lính canh tiếp tục nghiến răng hỏi: "Mày viết cái gì
ở đây?”
"Mày nghĩ tao tin vào những lời nói dối vớ vẩn của
mày sao?"
“Vậy tại sao những câu chuyện của mày lại được viết
bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ trong khi cuốn nhật ký của mày lại
là tiếng Kurd? Mày đang viết tài liệu cho tổ chức nào?"
"Vợ tôi.”
cái lọ nho nhỏ. Đổ rất nhiều nước hoa vào tay, tên lính
canh trưởng lại bắt đầu đánh vào mặt Ahmet. Máu của anh
từ miệng trào ra nhỏ xuống trên ngực trần. Hắn tiếp tục
đấm Ahmet, mặt không chút cảm xúc mặc dù máu chảy
dài trên đôi tay của hắn. Cho đến khi mệt, hắn ra lệnh cho
những tên lính canh khác ném Ahmet trở lại phòng giam.
Ahmet không còn sức để bước đi. Miệng anh đầy máu.
Anh đã cố gắng để không kêu rên, và anh sợ bọn chúng sẽ
đánh anh lần nữa nếu anh nhổ nước bọt, vì vậy anh phải
nuốt máu của mình vào trong.
Bọn chúng lại dẫn anh đi. Một cục u nổi trên trán của
anh sau một cú ngã, và nỗi đau đớn hiện rõ trên khuôn
mặt. Cửa sắt kêu cót két lớn tiếng khi chúng mở đường
dẫn Ahmet đi. Có người nói vọng ra qua những bức tường.
Có một nhà vệ sinh nhỏ nằm ở góc nhà, và đầy mùi nước
tiểu trong đó. Nó tối đen như mực. Chúng ném Ahmet vào
giữa sàn nhà, và đóng sầm cửa lại. Ahmet nghĩ rằng đây
là cuộc tra tấn cuối cùng, và cảm thấy giải tỏa. Máu trong
miệng anh đang chảy chậm lại. Anh tháo khăn bịt, và cố
gắng mở mắt ra, nhưng anh không thể nhìn thấy bất cứ thứ
gì ngoài một màu đen. Chúng đã buộc chiếc khăn bịt mắt
chặt đến mức thậm chí khó có mở mắt sau khi tháo khăn.
Ngay sau đó, anh nghe thấy tiếng bước chân. Màn tra tấn
đêm nay vẫn chưa kết thúc sao? Anh không còn sức để
tiếp tục, nhưng anh không còn cách nào khác. Anh đã cố
gắng đứng dậy, nhưng anh không thể. Cơ thể đã không thể
tuân theo ý muốn của anh.
Một gã đàn ông cao, gầy, tóc vàng với chiếc cằm nhọn,
và mang nét nam tính. Đôi mắt của hắn màu xanh lam, và
với một nụ cười nhếch mép, hắn hỏi: "Màn chào đón thế
nào hả Ahmet?"
Hắn ta có một giọng nói rất cao, cái kiểu khiến cho
người khác khó chịu. Đó không phải là gã vừa hành hạ
anh, đấm anh, và la hét đòi lấy nước hoa. Gã lính canh kia
cực kỳ quá khổ. Bụng của hắn ta di chuyển lên xuống khi
thở, và hắn liếm môi liên tục, thè lưỡi ra khỏi kẽ răng vàng
khè. Hắn bị hói, và mái tóc thì sẫm màu mọc ở hai bên
đầu.
Ahmet cảm thấy vô cùng xấu hổ. Anh chưa bao giờ bị
đối xử như thế này trước mặt một người phụ nữ. Anh xấu
hổ đến mức, thậm chí không thể nhìn vào những ả lính
canh kia. Anh khó khăn đứng dậy, nhưng không thể đứng
thẳng vì những cú đấm vào giữa ngực vừa nhận lúc nãy.
Ahmet đặt tay lên bụng. Anh đang rùng mình vì chỉ
mặc một cái quần dài. Anh cố gắng không thể hiện nó ra,
nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Ahmet ước gì mặt đất có
chỗ cho anh biến mất khỏi đó. Anh cố gắng nói chuyện
nhưng mùi máu cũ trong miệng khiến anh choáng váng,
và khô lưỡi. Tên có quyền cao nhất đột nhiên ra lệnh cho
anh cởi đồ ra. Với sự khó khăn, Ahmet trả lời: "Tôi không
hiểu.” Giọng anh ngại ngùng, và lo lắng.
"Mày có ngốc không đấy? Tao bảo mày cởi quần ra.
Chúng tao sẽ muốn lục soát.”
Sau khi nghe điều này, đám lính canh đã tóm lấy
Ahmet. Bọn chúng đấm vào đầu, bụng, và đá vào chân
anh. Ahmet rên rỉ, nhưng anh không cầu xin. Anh tự mình
chịu đựng.
Khi đám lính canh đánh anh, chúng chửi rủa, và nói:
"Mày muốn nói và viết tiếng Kurd hả? Chà chà, đây là
những gì mày nhận được này.”
lại. Một bên mắt của anh đã hoàn toàn sung vù, và nhắm
lại, còn bên kia anh hầu như không thể mở ra. Anh rùng
mình dữ dội. Anh nhìn những ả nữ vệ binh, và làm theo
lệnh. Quần của anh cũng đã ướt sũng, và khi anh cởi chúng
ra, một giọt nước mắt xuống từ mắt trái của anh. Anh đã
cố gắng giấu nó, và cảm giác xấu hổ bóp nghẹt lấy anh.
Những bức tường lạnh lẽo đang chứng kiến những khoảnh
khắc tồi tệ này.
Tên lính canh béo phì ra hiệu cho tên đồng cấp cao lớn
của mình. Hắn rời khỏi khi ánh sáng trắng chói mắt tràn
ngập phòng giam. Tất cả mọi người, kể cả Ahmet, lấy tay
che mắt họ. Ahmet, hoàn toàn trần truồng, cố gắng che
giấu vùng kín của mình bằng tay còn lại.
Những lính canh nam giữ anh lại, và bắt anh ngồi xổm.
Ahmet muốn chống lại nhưng không thể. Cuối cùng cũng
đã gắng để nhổ bãi nước bọt đầy máu vào tên lính canh
béo vì sự xấu hổ mà anh chịu đựng khi bị khám xét trước
mặt những ả lính canh nữ, và bọn chúng lại đánh anh thêm
một lần nữa.
Ahmet không còn giữ được mình nữa. Tiếng cười của ả
phụ nữ bật ra khỏi những bức tường. Tên lính canh giọng the
thé đưa tay túm tóc Ahmet, và kéo đầu anh lên khỏi nền bê
tông lạnh lẽo. Hắn cầm cuốn sổ đen, và ảnh của vợ Ahmet
cạnh nhau: "Hãy xem đây, nếu mày không nói cho tao biết
mày đã viết gì trong cuốn sổ này, thì nó sẽ không quan trọng
nữa. Mày sẽ phải nói lời tạm biệt chúng, hiểu không?”
Hắn ta lấy một que diêm từ trong túi ra, đánh diêm, và
bắt đầu đốt cả cuốn sổ cùng tấm hình của vợ Ahmet. Hắn
buông tóc Ahmet ra, và đầu của anh đập vào sàn bê tông.
Gò má anh nặng trĩu vì cái lạnh của sàn nhà. Anh muốn
với tay ra để lấy lại cuốn sổ ghi chép đang cháy, nhưng
một trong những tên lính canh đã dùng bàn chân mang
chiếc ủng nặng nề của hắn dẫm lên tay anh.
Các giác quan của Ahmet dần cảm nhận một sự ngưng
trệ. Âm thanh cuối cùng anh nghe thấy là tiếng chốt cửa
bằng thanh chắn.
23
Habib vỗ tay khi anh nói lớn lên yêu cầu mọi người
giải tán: “Được rồi, mọi người, mọi thứ đến đây thôi. Hãy
để cho Ahmet được nghỉ ngơi.”
Sau một khoảng im lặng kéo dài, Ahmet thì thầm nói:
“Cháu không nghĩ là mình sẽ lại viết nữa.”
“Vấn đề không chỉ là chữ viết. Trên thực tế, tôi vẫn
cảm thấy mong muốn được viết nhưng chúng có thể lại
đốt nó một lần nữa. Những văn bản đó, rất quan trọng đối
với tôi.”
"Và điều đó phải thực hiện như thế nào?" Ahmet hỏi.
“Coi nào, Ahmet, anh có thể nhận xét tốt hơn như thế
này.” Habib phàn nàn.
“Hai người định làm tôi phát điên đấy à? Cả hai đều
chỉ vào một cái bàn. Các vị định làm tôi rối tinh lên đấy
à?”
Anh ấy tiếp tục, “Bất cứ khi nào anh bắt đầu viết lại
bằng tiếng Kurd, chúng tôi sẽ chỉ cho anh cách mở ra các
ngăn kéo bí mật, và anh có thể giấu các tác phẩm của anh
vào khoảng trống giữa những tấm bảng tạo nên phần trên
cùng của cái bàn. Khi anh ra tù, anh có thể đem theo
chúng ra ngoài.”
“Các bạn thân mến của tôi, cảm ơn rất nhiều. Đây là
một ý tưởng tuyệt vời. Không ai có thể nghĩ ra rằng chúng
ta lại giấu các tác phẩm bên dưới mặt bàn. Làm sao mà
các bạn nảy ra được ý tưởng tuyệt vời này?” anh hỏi.
Ahmet sẽ cất giữ tất cả các tác phẩm anh đã viết bằng
tiếng Kurd hoặc tiếng Thổ Nhĩ Kỳ trong ngăn bí mật của
cái bàn cho đến ngày anh được ra tù. Và sau đó, anh sẽ
nhờ người gửi cái bàn đến ngôi nhà mà anh sẽ ở sau khi
anh được tự do.
24
Ahmet hết sức nhẹ nhàng bước xuống chiếc thang của
giường tầng, trong khi cố gắng cẩn thận để không chạm
vào đầu của bạn tù đang ngủ say ở giường bên dưới. Dùng
chiếc chìa khóa đeo trên cổ để mở hộc tủ cá nhân, anh lấy
ra khăn mặt, và xà phòng. Cảnh tượng này làm anh liên
tưởng đến hình ảnh những ổ khoá cũ mèm, gỉ sét trong
những lâu đài cổ xưa, và dường như chúng gây ra cho anh
cảm giác chán chường, mệt mỏi. Đã tám năm trôi qua, và
thời gian đang nhuộm bạc mái đầu anh. Trong trạng thái
mơ mơ màng màng, nửa ngủ nửa thức, anh vừa rửa mặt,
rửa tay, nhưng vẫn tranh thủ tán gẫu với Veysel.
“Chào buổi sáng Veysel, hôm nay đến lượt anh pha
trà à?”
“Chào buổi sáng, Ahmet. Đúng vậy, hôm nay đến lượt
tôi. Hôm nay đã là ngày cuối cùng của anh với chúng tôi
rồi. Đừng quay trở lại nơi này nữa nhé!”
“Ôi chao, đừng nghĩ cho tôi làm gì, anh hãy tự chuẩn
bị cho chính mình đi. Tất nhiên, một ngày nào đó chúng
ta đều sẽ lần lượt thoát khỏi cái nhà tù chết tiệt này.”
Ahmet rửa mặt, và tay rồi lại soi mình vào tấm gương
mờ mờ mà anh đã sử dụng hàng ngày trong suốt tám năm
qua. Xong anh quay lại, và mặc quần áo. Khi đang cài nút
chiếc áo sơ mi, anh vô tình nhìn thấy cuốn sổ nhật ký của
mình. Cuốn nhật ký này anh đã đều đặn ghi chép trong
suốt năm đầu tiên, nhưng sau đó lại bỏ dở vì cuộc sống tẻ
nhạt với những ngày tháng giống nhau cứ lặp đi lặp lại
trong tù. Với tay lấy cuốn nhật ký, và đặt nó lên giường,
sau đó anh khóa tủ lại, và cẩn thận kiểm tra một lần nữa.
Rồi anh thong thả cầm theo cuốn nhật ký, và đi đến khu
vực sinh hoạt chung nằm ngay giữa phòng giam. Ở đây có
những chiếc bàn, và những chiếc ghế gỗ xinh xinh như
gợi nhớ đến một quán cà phê nho nhỏ nơi thôn dã. Ahmet
mở cuốn nhật ký của mình ra, và bắt đầu đọc. Anh đọc
trong tiếng thở dài. Anh nhớ lại những chuyện xảy ra thời
niên thiếu, những lúc bị bắt nạt mà không một ai dám
đứng ra bênh vực hay quan tâm. Ahmet đắm chìm trong
hồi ức đến nỗi không nhận ra rằng Veysel đang mang trà
đến, và chạm nhẹ vào vai anh. Anh hơi giật mình vì cú
chạm thứ hai của Veysel.
“Sao lại trầm tư như vậy Ahmet, đáng lẽ anh phải vui
lên vì đang có một ngày tuyệt đẹp kia mà?"
“In’Shallah25, Veysel.”
َ ْ
25
In’Shallah (Tiếng Ả Rập: ِإن ش َاء ٱلل َّٰ ه, ʾin šāʾ -llāh), còn được phiên âm
thành InshAllah hay Inshallah, là một cách diễn đạt hay thành ngữ bằng tiếng Ả Rập
có nghĩa là "nếu Allah (Thượng Đế) muốn như thế" hoặc "theo ý muốn của Allah". Nó
thường được các tín đồ Hồi giáo cũng như những người Ả Rập theo Thiên Chúa giáo
hay Do Thái giáo sử dụng khi nói đến một sự kiện xảy ra trong tương lai.
Trong khi những người khác làm việc chăm chỉ thì
Ahmet đã dành hầu hết thời gian trong tù để đọc sách trên
chiếc bàn nhỏ của mình. Hằng ngày, sau bữa ăn nhẹ mỗi
sáng, anh lại đặt chiếc bàn nhỏ lên giường, rồi bắt chéo
chân, và bắt đầu đọc sách suốt ngày mà không hề cảm thấy
mệt mỏi. Cuộc sống trong tù đã dạy anh rằng, chỉ khi đọc
sách, tâm trí anh mới có thể thoát khỏi cảnh tù đày, và chu
du đến nhiều đất nước, gặp gỡ nhiều con người khác nhau
mà không bị bất kỳ rào cản nào. Anh cũng chia sẻ những
cuốn sách hay mà anh đã đọc với các tù nhân khác. Mặc
dù thân thể vẫn bị vây quanh bởi bốn bức tường nhà tù,
nhưng cùng với những cuốn sách, tâm hồn anh đã phiêu
bạt đến rất nhiều nơi, biết rất nhiều con người, và hoàn
cảnh khác nhau.
Chàng trai trẻ từng phá hủy mọi thứ, người đã không
ngừng lại để nghĩ về những việc làm có thể gây hại cho ai
đó, đã biến mất, thay vào đó là một người từng yêu sách
từ thời thơ ấu và mong muốn được hiểu mọi người. Một
26
Anatolian: là các dân tộc Ấn – Âu cổ xưa nhất, có nguồn gốc từ thời cổ đại, sinh sống
trên bán đảo Anatolia từ thời kỳ Đồ đá mới, được xác định bằng cách sử dụng các
ngôn ngữ Anatolian.
Bán đảo Anatolia hay còn gọi là Tiểu Á là một bán đảo thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay,
phía Bắc giáp Biển Đen, phía Nam, và phía Tây giáp Địa Trung Hải, phía Đông giáp lục
địa châu Á.
Anh lấy thêm trà trên bếp, và đi đến chỗ Habib. Ahmet
kéo một chiếc ghế để bên cạnh giường của Habib, và ngồi
xuống, sau đó đặt ly trà của mình trên sàn bê tông. Habib
đang ngủ, anh nằm ngửa, và hai tay chắp sau cái đầu hơi
nghiêng, quay nhẹ về phía Ahmet đang ngồi. Ahmet chạm
nhẹ vào anh ấy, nở nụ cười, và khẽ gọi.
“Ôi người anh em của tôi, anh không thể ngủ được
phải không? Ái chà… ngày mai anh được thả rồi. Nếu tôi
là anh, tôi cũng sẽ không thể ngủ được.”
"Đúng như vậy. Anh đợi tôi đi rửa tay, và rửa mặt đã
nhé.”
Trong khi ngồi trên ghế đẩu, và uống trà chờ Habib,
Ahmet nhìn vào dòng chữ "Vài ngày còn lại trôi qua thật
nhanh" được ai đó viết lên cây xà ngang trên trần nhà.
Anh đã nhìn vào dòng chữ đó trong suốt nhiều năm. Bây
giờ, anh lại đang nhìn nó với một sự lạc quan, và tràn đầy
hy vọng.
lại không thể diễn đạt được hết ý nghĩa của cảm xúc bằng
những biểu cảm của tâm hồn thể hiện trong im lặng.
Nazmi, một người thợ mộc lớn tuổi rất nổi tiếng với
những tác phẩm chạm khắc gỗ của mình ở trong tù, cũng
đến kéo ghế, và ngồi xuống. Người đàn ông này có mái
tóc ngắn, lưng hơi gù, và đôi mắt đen lánh. Lúc nào cũng
có thể bắt gặp ông ấy đang làm những món đồ nội thất rất
trang nhã, và tinh xảo, rồi bán chúng cho rất nhiều khách
hàng ở khắp nơi. Ông luôn cắm theo một cây bút chì vẽ
trên vành tai, và luôn có vài mảnh dăm bào gỗ dính trên
chiếc áo sơ mi kẻ caro. Không ai nói chuyện nhiều với
Nazmi, vì ông ấy thường ngại giao tiếp. Và thay vì trò
chuyện thì ông lại thường lảng đi. Do đó, ở trong nhà tù
này, chỉ có Ahmet là người biết cách lắng nghe, và làm
cho ông ấy trò chuyện. Thay vì chia sẻ cùng người khác
những câu chuyện, và ước mơ của mình, thì Nazmi lại
miêu tả chúng thông qua những món đồ nội thất mà ông
ấy làm ra. Chỉ cần nhìn vào những tác phẩm bằng gỗ là có
thể hiểu về thế giới mà ông ấy mong đợi, hoặc có thể đọc
được những ý tưởng mà ông ấy muốn thực hiện sau khi
hoàn thành án tù, và trở về với xã hội.
Khi mang trà đến cái bàn nơi Ahmet, và Habib đang
ngồi, Nazmi cẩn thận lau phần đáy của cái ly mỏng đang
đặt trên chiếc đĩa bằng nhựa. Nhấm nháp một chút trà rồi
để nó lên cái bàn gỗ, sau đó ông quay sang nói với Ahmet.
Trong khi đang miên man suy nghĩ, Ahmet đột nhiên
giật mình bởi tiếng thông báo của người bảo vệ sân vang
lên trên loa phát thanh. Anh đứng dậy, đi ra sân cùng với
tất cả các tù nhân khác, để lại chiếc áo khoác trên bàn vì
thời tiết khá nóng nực, và xắn cao tay áo sơ mi lên đến
khuỷu tay. Anh mặc chiếc áo vest màu đen, và chiếc quần
đen trông rất hài hòa. Sau khi đi qua dãy hành lang dài, và
đi xuống dưới sân qua chiếc cầu thang đã cũ mòn, anh
cảm thấy an toàn hơn khi đặt chân trên mặt sân đất. Bức
tường cao của nhà tù ngăn cách tù nhân bên trong với thế
giới tự do bên ngoài, tước đoạt đi những vẻ đẹp tự nhiên
của cuộc sống, và hơn hết thảy là tước đoạt đi sự tự do của
con người. Những bức tường này, đã làm hao mòn thể chất
của rất nhiều tù nhân, nhưng đồng thời chính nó cũng bị
họ mài mòn, và trở nên cũ kỹ. Những bức tường khiến cho
người tù không chỉ bị tách biệt khỏi sự thay đổi của thời
tiết, của phong cảnh thiên nhiên, của những ngày nắng
đẹp, … mà nó còn làm cho người tù bị tách biệt với con
người, thậm chí với ngay cả bản thân họ. Khi quan sát
những bức tường này, Ahmet hướng ánh mắt nhìn từ phía
hàng rào lên đến bầu trời trong xanh trên cao rồi dừng lại
ở đó. Đây là ngày cuối cùng còn lại mà anh có thể ngắm
nhìn vẻ đẹp của màu xanh lam bên trên những bức tường
này. Một ngày duy nhất mà anh có thể bước đi thoải mái,
không cần phải đếm số bước chân... Bóng tối đang lùi xa,
như tám năm trời anh đã bỏ lại phía sau lưng. Bầu trời
tương lai đang đến rất gần. Anh bắt đầu đi đi lại lại, và lại
đếm những bước chân của mình lần cuối. Anh đang nghĩ
về những việc cần phải làm, và về cuộc sống sau này khi
anh đã ra khỏi nhà tù. Anh sẽ làm như thế nào để có thể
tránh xa những người từng là chiến hữu trước đây? Kết
quả của cuộc sống sau tám năm ngồi tù, anh đã quyết định
chấm dứt việc bảo kê, việc hành hung người khác, buộc
họ phải trả tiền cho mình, và làm những hoạt động kinh
doanh mờ ám. Bởi vì anh đã không còn sót lại chút niềm
tin nào vào những con người mà anh từng gặp trong thế
giới đó. Ở đó, không có gì rẻ bằng nhân phẩm, và nhân
mạng. Anh phải bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn khác
sau khi anh được ra khỏi đây vào sáng mai. Anh đã học
được từ những cuốn sách mà anh đọc về tầm quan trọng
của sinh mạng, và các giá trị của đạo đức. Để bảo vệ
những giá trị đó, con người phải chấp nhận vượt qua mọi
khó khăn. Khi đi hết đoạn đường dọc theo chiều dài sân,
anh quay ngược trở lại, và gặp lại Habib cùng với người
thợ mộc Nazmi. Anh bắt nhịp cùng họ, Habib bắt đầu nói:
hoan, trong khi phần kia lại cực kỳ sầu não. Tôi hạnh phúc
vì người bạn của tôi, người mà tôi coi là anh traisẽ được
giải thoát vào ngày mai. Tuy nhiên, tôi lại rất buồn vì phải
xa cách anh, và phải một mình chống chọi lại với những
kẻ chuyên soi mói đang rình rập, và nhắm vào tôi trong
bốn bức tường này. Nhưng lời khuyên của tôi dành cho
anh với tư cách là một người bạn, là anh hãy tạo dựng
một cuộc sống tốt đẹp cho chính mình. Định cư ở một nơi
nào đó để có thể tránh xa khỏi những kẻ mà anh đã từng
cộng tác trước đây. Chúng tôi không muốn gặp lại anh
dưới mái trại giam này một lần nữa.”
Khi Nazmi vừa dứt lời, người bảo vệ thông báo rằng,
thời gian ra sân đã kết thúc. Lúc đó, cả ba đứng cạnh nhau
bên bức tường, và cùng nhìn lên bầu trời trong xanh một
lần nữa. Ahmet cảm ơn những lời khuyên của bạn bè, và
ba người họ cùng nhau trở về phía phòng giam của mình.
25
buổi sáng sớm. Khoảng bốn giờ sáng hôm đó, Ahmet mặc
một bộ đồ màu xanh đậm đi đến điểm hẹn. Khi vừa bước
vào, anh thấy mọi người đang đợi mình ở đó. Có một chiếc
bàn dài màu nâu ở giữa, và những chiếc ghế bành bọc da
màu đen kê xung quanh, và cà phê được chuẩn bị cho mỗi
người để xua cơn buồn ngủ. Anh đưa tay lên thắt lưng để
rút khẩu súng của mình ra. Cùng lúc đó, tất cả những
người khác đều cầm súng lên. Ahmet làm một cử chỉ ra
hiệu cho mọi người bình tĩnh bằng tay còn lại. Không ai
để ý đến cây tăm trong miệng anh. Anh kéo chiếc ghế
dành cho mình rồi gác chân phải lên, đồng thời đặt khẩu
súng xuống bàn, và nhíu mày, anh bắt đầu nói:
"Đây là quyết định của tôi, các anh em, từ nay tôi sẽ
không giết người, và sống như một kẻ giết người nữa.”
"Chắc anh đang nói đùa phải không! Đây là trò ngu
ngốc nhất mà anh đã làm sao! Chỉ cần chúng ta hoàn
thành công việc mà chúng ta đang làm, chúng ta sẽ có
được tất cả số tiền mà chúng ta muốn có.”
Sau tất cả, mọi người đều im lặng chờ đợi câu trả lời
của Ahmet. Ahmet bất chấp, nhổ cây tăm trong miệng ra,
và bỏ chân khỏi ghế. Cho một tay vào túi quần, anh bắt
đầu nhấm nháp ly cà phê của mình.
Sau khi uống hết cà phê, trong lúc anh đang nhấp một
ngụm nước nhỏ từ cái ly nước đặt bên cạnh, thì một con
mèo hoang đi vào căn phòng. Anh gạt tay làm đổ ly nước,
và bắt đầu lên tiếng:
“Tôi đoán là các anh thực sự không hiểu tôi. Tôi đang
nói rằng, tôi muốn thoát khỏi công việc này! Đúng là bây
giờ chúng ta đang có rất nhiều tiền, nhưng chúng ta kiếm
được số tiền này bằng cách nào! Giết người, bị nguyền
rủa, phá hoại gia đình người ta... Chúng ta kiếm sống
bằng cách để cho máu của người khác vấy trên tay mình.
Tôi muốn được sống như một người bình thường chứ
không phải là một kẻ giết người, không phải là một kẻ
chuyên tấn công người khác, và buộc mọi người phải trả
tiền cho mình nữa, các anh hiểu không? Có ai biết chúng
ta sẽ chết theo cách nào không? Nhưng tôi biết rất rõ
rằng, nếu chúng ta cứ tiếp tục đi trên con đường này,
chúng ta sẽ không thể sống lâu đâu, và mỗi chúng ta đều
sẽ chết bởi một viên đạn không biết đến từ đâu.”
Cũng ngay thời khắc đó, Ahmet nhìn thấy con mèo
đang uống chỗ nước mà anh làm đổ trên bàn. Nhưng vừa
uống vào, con mèo lập tức ngã lăn ra bàn. Thấy vậy,
những người khác cũng nhanh chóng rời khỏi phòng.
Ahmet giờ đã hiểu lý do vì sao họ mời anh uống cà phê,
và nước. Những người kia đã đoán được ý định của
Ahmet, và nghĩ cách gài bẫy đầu độc anh. Nhưng rất may
là Ahmet đã không uống ly nước có độc đó.
Anh rời khỏi khu nhà xưởng cũ với một tâm trạng
nặng nề. Một cảm giác mà kẻ nổi tiếng chuyên đi bắt nạt
người khác như anh chưa bao giờ từng có trước đây.
Ahmet tức giận bỏ lên ô tô, và rời đi, nhưng Necati, và vài
người còn lại vẫn bám theo sau anh.
“Hãy cẩn thận với những lời anh nói, nếu không nó sẽ
làm hại anh đấy! Người phụ nữ mà anh nhắc đến sẽ sớm
trở thành vợ tôi. Tôi sẽ cưới cô ấy.”
26
Sau khi anh vào tù, vợ anh đã phải một mình vượt qua
thai kỳ một cách khó khăn. Cô ấy đã chết do sinh khó, và
kiệt sức. Cũng giống như Ahmet, con gái anh phải lớn lên
mà không có cha mẹ bên cạnh. Kể từ khi cô bé được sinh
ra trong thời gian Ahmet vẫn ở tù, anh chưa bao giờ được
nhìn thấy con gái của mình. Tất cả những gì anh biết về
con là cô bé đang được nuôi dưỡng trong một trại trẻ mồ
côi nào đó tại Istanbul.
27
Ahmet cảm thấy như đang xem lại toàn bộ cuộc đời
mình trên màn ảnh bạc khi đi qua dãy hành lang hẹp, dài,
và ẩm mốc, trên đường trở về khu vực nhà giam của mình.
Hồi ức đưa anh quay trở lại với câu chuyện về cuộc đời
mình khi anh đi đi lại lại trong phạm vi cái sân nhà tù, vừa
đi vừa đếm bước chân, và không rời mắt khỏi cái sàn bê
tông, giống như một người đang xem một bộ phim mà anh
ta đã biết trước hồi kết ngay từ khi nó mới bắt đầu. Khi về
đến buồng giam, anh cảm thấy cần phải nghỉ ngơi nên nằm
xuống giường. Anh từ từ đặt đầu mình lên trên cái gối với
vẻ khoan thai như một người mẹ đặt đứa con đang ngủ say
của mình xuống giường. Đôi mắt anh dán vào các thanh
ngang đang nâng đỡ cho tấm nệm màu vàng của chiếc
giường ở tầng trên. Anh lại bắt đầu suy nghĩ miên man về
tương lai.
Anh chìm dần vào giấc ngủ mang theo những suy nghĩ
này.
lắm anh mới đứng dậy được từ chỗ của mình. Anh lặng lẽ
đi về phía cửa sổ. Vầng trăng tròn đã ở đó giữa màn đêm.
Anh cảm nhận được bầu không khí trong lành tràn vào
qua ô cửa sổ. Ánh trăng bàng bạc rọi một vệt sáng dài từ
trên bầu trời tự do, và đen thăm thẳm, chiếu xuống nền bê
tông sần sùi vì bị giẫm nát trong nhiều năm, vì bị giam
cầm, đau đớn, và khát vọng. Anh nhìn lên mặt trăng trong
vài phút. Trong mắt anh là niềm vui tự do sẽ đến vào sáng
mai. Anh đang hít thở bầu không khí tù ngục trong những
giờ cuối cùng. Sau đó, anh bắt đầu thu dọn đồ đạc của
mình. Anh cho quần áo vào một cái túi, và đặt thêm một
vài cuốn sách đã được đóng gói như cá mòi vào trong đó.
Nhưng vẫn còn rất nhiều sách, và anh không biết phải làm
gì với số sách đó. Sau một hồi suy nghĩ, và tìm ra giải
pháp, một lần nữa anh lại chìm vào giấc ngủ.
Sáng sớm hôm sau thức dậy, Ahmet lại cảm thấy bồn
chồn. Tất cả những ngày tháng khó khăn trong tù giờ đã
là quá khứ, và một cuộc sống đầy mới lạ đang bắt đầu với
anh. Suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu anh là đứa con
gái mà anh chưa từng gặp mặt. Niềm khao khát được nhìn
thấy cô bé làm anh cảm thấy không thể diễn tả thành lời.
Việc đầu tiên cần làm ngay sau khi ra khỏi đây là tìm xem
con gái mình đã được đưa vào trại trẻ mồ côi nào.
Khoảnh khắc chia tay thật khó khăn. Những câu nói
chia tay cứ nghẹn ngào không thể thốt nên lời...
Đến lượt Nazmi, ông cũng không kìm được xúc động,
và bắt đầu khóc. Đây là lần đầu tiên các tù nhân nhìn thấy
ông như thế này. Người đàn ông luống tuổi mà họ cho là
vô cảm, chẳng quan tâm điều gì ngoài việc chạm trổ đồ
gỗ, khiến mọi người nhất thời kinh ngạc.
"Địa chỉ của những người bạn của tôi được viết trên
tờ giấy mà tôi vừa đưa cho anh.”
“Đừng đùa nữa, người anh em. Người bạn của tôi có
một quán cà phê tại địa chỉ đó. Họ đang làm ăn khá tốt.
Tôi cũng đã viết lời nhắn cho họ trên mảnh giấy đó. Khi
anh đến được quán cà phê, hãy tìm gặp Hüseyin, và đưa
cho anh ấy mẩu giấy này. Anh ấy sẽ giúp anh.”
Nazmi xúc động đến mức dường như không thể chịu
đựng được hơn nữa:
“Chú không biết cách nói hoa mỹ nên chú sẽ nói ngắn
gọn thôi. Chàng trai à, cháu là một người có tâm hồn tuyệt
vời nhất, dũng cảm nhất mà chú từng biết ở đây, trong
bốn bức tường này. Khi cháu rời đi thì nhà tù này đã mất
hết ý nghĩa đối với chú rồi. May mắn thay, thời gian chịu
hình phạt còn lại của chúng ta cũng chỉ ngắn thôi. Chú sẽ
rời khỏi đây sau một tháng nữa, lúc đó chỉ còn lại Habib.
Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau, đừng lo lắng nhé!"
"Đừng lo lắng, con trai, chú sẽ làm một cái tủ sách tốt
nhất.”
Sau lần chào tạm biệt cuối cùng với người cai tù, họ
từ biệt nhau.
28
Anh đã lãng phí gần hết tuổi thanh xuân của mình
trong nhà tù, và khi được thả ra thì không còn trẻ nữa. Anh
không hề biết rằng, ở bên ngoài, một cuộc sống tàn khốc
khác đang chờ đợi anh. Nó nhẹ nhàng vuốt ve xoa dịu anh
đôi chút, và rồi lại nghiến chặt lấy anh giữa hai hàm răng
sắc nhọn quái ác mà cắn xé. Người cai ngục dẫn anh đến
trước cổng nhà tù, nơi giao nhau giữa những bức tường
kẽm gai, nơi chỉ có thể nhìn thấy bầu trời từ bên trong, và
chỉ thấy các tháp canh từ bên ngoài. Cai ngục ra lệnh cho
những người lính canh mở cửa. Cánh cửa bằng sắt màu đỏ
đã hoen rỉ, to gần bằng vách tường, chậm rãi mở ra.
Ahmet quăng chiếc túi xuống đường. Sau khi hít một
hơi thật sâu, anh nheo mắt lại khi chạm vào những tia sáng
mặt trời đang tỏa ra, và anh cẩn thận quan sát xung quanh.
Vì nhà tù hơi xa thành phố, anh thấy phía trước là con
đường đầy xe cộ đang lao nhanh vun vút.
Phía sau, những người lính canh đang nói với anh:
"Hãy sống cho tốt đấy nhé.” Quay đầu lại, anh khẽ gật
đầu nói "cảm ơn.” Sau đó anh xách túi, và lên đường.
Trong khi đi bộ ra đường lớn, anh thì thầm với chính
mình, “Xin chào cuộc sống, xin chào những ngày tươi đẹp
trong tương lai, xin chào tự do! Và tạm biệt chiếc giường
tầng, chiếc gối, cùng những người bạn tù.”
Anh gọi một chiếc taxi trên đường cao tốc, và nói với
tài xế về địa chỉ được ghi trên tờ giấy mà Habib đưa anh.
Người tài xế trả lời rằng, anh ta sẽ chở anh đến một địa
điểm nào đó gần với địa chỉ này, và sẽ để anh xuống đi bộ
đến đó.
Ngồi trên xe, anh háo hức quan sát cảnh vật xung
quanh trong niềm hạnh phúc, và lòng anh chợt dâng lên
một cảm giác bình yên vô bờ. Cứ như thể từng hình ảnh
xung quanh đang được ghi chép vào trong tâm thức của
anh, từng cái, từng cái một. Điều mà anh hằng khao khát
suốt tám năm qua. Người tài xế thỉnh thoảng lại quan sát
Ahmet qua gương chiếu hậu, và chờ cơ hội để nói chuyện
với anh. Tuy nhiên, giống như một đứa trẻ ngại ngùng khi
muốn yêu cầu một điều gì đó, lời nói của anh lại bị tắc
nghẹn trong cổ họng, và anh ấy cứ ngập ngừng mãi không
biết nên bắt đầu như thế nào.
“Ý tôi là, trước đây, nơi này từng là những khu đất
trống, và có rất nhiều cây xanh. Nhưng bây giờ, bất cứ
nơi nào người ta nhìn thấy có một khu vực còn có màu
xanh của cây cối, họ ngay lập tức bắt đầu chặt bỏ cây
xanh, và đổ bê tông lên đó. Không ai quan tâm tại sao
những người này lại phá bỏ từng mảng cây xanh để dựng
lên những tòa nhà bê tông chọc trời. Tôi không hiểu tại
sao họ lại phải tìm mọi cách để chiếm bằng được những
nơi này, trong khi còn có những nơi khác phù hợp hơn.
Anh trông giống như một người có học vấn, anh có biết
tại sao những người có quyền thế lại cố gắng phá hủy
không gian chúng ta đang sống không?"
"Tại sao?"
"Anh giải thích giùm được không, điều này nằm ngoài
sự hiểu biết của tôi.”
"Rạp chiếu phim, địa điểm mua sắm, và giải trí cho
công chúng thưởng thức được xây dựng trong những
không gian trống trải này.”
“Không. Mọi người đang làm việc như những con lừa,
người anh em ạ.
“Vậy tại sao họ lại không tập hợp bên nhau như
những con ong theo đàn nhỉ?”
“Anh nói rõ hơn ý của mình được không, tôi không thể
hiểu được.”
“Cùng nhau vì một mục tiêu tốt đẹp ư! Người anh em,
anh đang nói cái gì thế, nếu hai hoặc ba người cùng nhau
họp lại, điều này ngay lập tức có thể bị coi là một mối đe
doạ. Nếu chúng tôi làm những điều như anh nói, chúng
tôi sẽ bị đuổi việc.”
"Nếu anh không ngại, người anh em, công việc của
anh là gì?"
“Đừng nhắc đến nó! Hiện tại, tôi không có việc làm.
Tôi vừa mới ra tù.”
"Cảm ơn anh.”
Người tài xế bắt đầu nghĩ: "Làm thế nào mà một người
đàn ông lành mạnh như vậy lại có thể vào tù?” Trong khi
đang trò chuyện, người tài xế dừng xe, và thông báo rằng
họ đã đến nơi. Người tài xế taxi bước xuống xe cùng với
Ahmet, hướng dẫn kỹ càng cho anh cách đi đến địa điểm
anh cần đến. Ahmet trả tiền, và tiếp tục đi bộ theo mô tả
của anh ta.
29
Đi ngang qua các con phố, anh nhận thấy Istanbul rất
khác so với trước đây. Có rất nhiều thứ đã thay đổi trong
vòng tám năm ở thành phố lớn này. Nó thực sự đang thay
đổi mỗi ngày. Đi tiếp đến một ngã rẽ, anh nhìn thấy một
cậu thiếu niên bán bánh mì tròn đang xếp những chiếc
bánh trên một cái khay ở đầu con phố mà anh định rẽ vào.
"Chào chú.”
“Cậu bán cho tôi hai cái bánh mì tròn. Nó tươi ngon
chứ?”
"Bánh rất tươi ngon đây chú ơi, vừa mới ra lò nè, còn
nóng hôi hổi luôn.”
Với thói quen làm công việc này từ lâu, cậu thiếu niên
ngay lập tức lấy giấy gói những chiếc bánh mì tròn lại, và
đưa cho Ahmet.
"Cảm ơn cậu.”
Ahmet đặt chiếc túi trên tay xuống, và lấy tiền trong
túi ra đưa cho cậu thiếu niên bán bánh mì tròn:
gào thét vào ban đêm, đã thu hút sự chú ý của anh. Thoạt
nhìn, nó gợi nhớ đến một khu phố nghèo, nơi có những
con người nhân ái luôn hết lòng đùm bọc lẫn nhau. Anh
nhìn thấy một căn nhà gỗ nằm ngay đối diện với quán cà
phê, và có một tấm bảng treo trên cửa sổ ghi là nhà cho
thuê.
Người đàn ông trung niên bán tạp hóa ở tiệm kế bên
quán cà phê cặm cụi tìm chìa khoá mở cửa tiệm, và không
quên tạ ơn Thượng Đế trước khi bước vào như ông thường
làm mỗi ngày. Một lúc sau ông ấy lại ra ngoài, và bắt đầu
dọn dẹp phía trước cửa tiệm của mình. Mái tóc hoa râm
của ông bị sói một vạt trước trán, và chỉ còn lại đôi ba sợi
lưa thưa, trông vẫn đầy sức sống dưới ánh nắng mặt trời.
Đôi chân của ông khá gầy guộc, và không cân đối. Ở phía
bên kia quán cà phê, Ahmet nhìn thấy một người bán rau
đang đặt những mớ rau tươi của mình trên một cái giá
"Có thể cho tôi một ly trà đậm được không?" Ahmet
nói.
27Thẻ bài rummy: là một trò chơi xếp thẻ dành cho từ 2 đến 4 người chơi, sử dụng
những miếng thẻ bài hình chữ nhật được đánh số, tương tự như mạt chược.
Gần lối vào sau cánh cửa, một chiếc ti vi được gắn lên
trần nhà bằng một khung gỗ, ngay góc giao nhau giữa bức
tường bên trái quán cà phê, và bức tường đối diện. Trên
tivi, người phát thanh viên đang đọc bản tin. Tiếng ti vi bị
át đi bởi các cuộc cãi vã, và chửi thề từ những người đánh
bài, vì vậy chẳng thể nghe được gì.
Ahmet nhìn qua làn khói thấy có một người đang tiến
về phía mình. Khi người kia đến gần hơn một chút, Ahmet
nhận thấy người này có vẻ là một người châu Âu cao lớn,
tóc, và bộ râu rậm rạp che đi khuôn mặt dài gầy. Chiếc áo
sơ mi xanh, và chiếc quần ống loe màu đen của anh lấm
tấm bùn đất. Vừa bưng chiếc khay đựng những chiếc ly
thủy tinh có eo thon28 đã được rót đầy trà nóng, vừa nhẹ
nhàng lướt qua những chiếc bàn kê san sát với sự thuần
thục từ nhiều năm kinh nghiệm. Anh đến bên Ahmet, lấy
một ly trà từ trên khay đặt xuống bàn. Trong khi đó, anh
vẫn tiếp nhận những lời gọi trà từ các bàn xung quanh.
Anh cũng đang thắc mắc về người đàn ông mà mình vừa
đưa trà cho, anh không biết người này là là ai, và không
biết nên bắt chuyện như thế nào.
Ahmet bỏ hai viên đường trên đĩa vào ly trà của mình,
và khuấy nhẹ. Sau khi nhấp một ngụm trà, anh nói:
28Ly thuỷ tinh có eo thon: một loại ly cao bằng thủy tinh, có quai hoặc không có quai, và thắt eo ở
giữa ly thường được dùng để uống bia hoặc uống trà.
“Tôi đang tìm người chủ của quán cà phê này, anh ấy
tên là Hüseyin. Tôi cần chuyển một lời nhắn cho anh ấy
từ anh Habib."
"Đúng vậy. Chúng tôi đã cùng nhau trải qua tám năm
trong cùng một phòng giam. Habib là người anh em yêu
quý nhất của tôi.”
Ahmet vừa nói, vừa lấy tờ giấy bạc từ trong túi áo ra,
và đặt lên bàn. Người đàn ông mở tờ giấy ra, và bắt đầu
chăm chú đọc những lời nhắn từ người thân thương nhất
của anh mặc dù đã xa cách rất lâu:
“Hüseyin thân mến, người bạn đem lời nhắn này đến
cho anh thân thiết với tôi giống như anh em vậy. Anh ấy
là người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt những năm
tháng chúng tôi sống cùng nhau, và bảo vệ tôi khỏi những
rắc rối trong nhà tù này. Anh ấy là người duy nhất tôi tin
tưởng, và là chỗ dựa của tôi trong cuộc đời tù tội. Anh
hãy thay tôi thể hiện lòng hiếu khách, và giúp đỡ anh ấy
những thứ cần thiết nhé. Nếu căn phòng áp mái của quán
vẫn còn, hãy để anh ấy ở đó vài ngày. Sau đó giúp anh ấy
tìm nhà thuê. – Habib Gökçe”
Sau khi gấp tờ giấy cẩn thận, và cho vào túi như cất
giữ một báu vật, Hüseyin nhìn chằm chằm vào Ahmet:
“Habib giống như anh trai của tôi. Chào mừng anh
đã đến đây! Anh có muốn uống thêm gì khác nữa không?
Tôi sẽ giao những ly trà này cho khách, và sẽ quay lại
ngay sau một vài phút nữa, cho phép tôi nhé.”
“Không sao đâu người anh em, anh cứ làm việc của
anh đi.”
Hüseyin sau khi giao hết số trà, vội vàng cởi bỏ đồng
phục của quán, bỏ cho con trai của anh ta trông quán, và
chạy về phía Ahmet. Con trai của Hüseyin tên là Kadir, là
một cậu bé yếu ớt, và cũng giống cha mình, cậu không
thích học hành cho lắm. Kadir đang làm việc tại quán như
Sau khi đọc thư của Habib, Hüseyin thể hiện thái độ
rất kính trọng đối với Ahmet. Anh coi mỗi lời nói của
Ahmet đều là mệnh lệnh, và sẵn sàng thực hiện nó một
cách nhanh nhất. Hüseyin ngồi bên cạnh Ahmet, đặt hai
tay lên bàn, lơ đễnh nhìn xung quanh, thỉnh thoảng lại liếc
nhìn Ahmet đang nhấp trà, và ăn bánh mì. Khi thấy Ahmet
đã uống hết ly trà, anh vội vàng đứng dậy, và hỏi:
29 Trò
chơi okey: một loại trò chơi xếp hình được yêu thích của người Thổ Nhĩ Kỳ, và họ
thường hay chơi trong các quán cà phê.
“Anh đi đường chắc cũng mệt rồi, bây giờ tôi sẽ đưa
anh về nơi nghỉ ngơi nhé.”
"Vâng, như vậy sẽ rất tuyệt. Thật ngại quá, tôi lại làm
phiền anh rồi, Hüseyin.”
"Ôi người anh em, không ngại gì đâu! Anh là món quà
mà Habib gửi đến cho chúng tôi....”
Anh nhanh chóng xách túi lên, và để lại tiền trà của
mình trên bàn trước khi Hüseyin kịp phản ứng.
tường phía sau quán. Phần mái của bức tường phía sau sơn
màu đỏ trông có vẻ đã xuống cấp do bị bỏ bê. Hüseyin đi
trước dẫn đường, Ahmet theo sát ngay phía sau. Họ leo
lên chiếc cầu thang cũ nát đã mất hết lan can sau nhiều
năm sử dụng. Cuối cầu thang là căn phòng áp mái chỉ đủ
chỗ cho tối đa là hai người ở. Hüseyin lấy chìa khóa ra
khỏi túi, anh mở cánh cửa màu xanh lam đã bạc màu.
Cánh cửa bị đẩy ra liền phát ra những âm thanh cọt kẹt,
Hüseyin trịnh trọng mời Ahmet vào trong.
“Trong thời gian này, chúng tôi thu xếp để anh ở lại
đây nhé, người anh em. Xin lỗi anh vì căn phòng khá lộn
xộn. Công việc của chúng tôi quá bận rộn, hàng ngày
chúng tôi phải đến sớm, dọn dẹp quán cà phê, và bật bếp
nấu trà trước khi mở cửa đón khách. Nhà tôi lại hơi xa
nơi đây. Vì vậy, đôi khi tôi, và con trai tôi ngủ lại ở đây.
Anh cứ nghỉ ngơi thoải mái nhé, người anh em, tôi sẽ bảo
con trai tôi đem đến cho anh ga trải giường, và bọc chăn
sạch ngay.”
Sau khi giao chìa khóa gác xép cho Ahmet, Hüseyin
xin phép rời đi. Ahmet tới bên chiếc giường, và đặt túi
xách xuống sàn gỗ. Anh đẩy tấm chăn trên giường lùi vào
phía trong rồi ngồi xuống. Ngay lập tức, anh cảm nhận có
một luồng không khí nóng bao quanh căn phòng. Anh cởi
áo khoác, và treo nó lên cây cột ở giữa phòng. Anh lấy
một điếu thuốc trong túi, và đi đến bên cửa sổ, cúi nhìn
dòng người đang hối hả bên ngoài. Dòng người tấp nập ấy
cứ nối nhau di chuyển xuống phố, giống như một con
nước êm đềm chảy dọc theo lòng sông. vào khoảng khắc
này, anh cảm thấy lạc lõng, và xa lạ. Đã tám năm rồi anh
bị tách ra khỏi xã hội, không được hòa mình vào dòng
chảy đó. Giờ đây, anh cảm thấy bản thân mình không còn
thuộc về đám đông ngoài kia.
Vô tình anh nhìn thấy một người đàn ông đang dắt tay
một bé gái, họ cùng nhau bước ra từ một cửa hàng. Anh
chợt nghĩ về cô con gái mà mình chưa từng gặp mặt. Lẽ
ra anh nên tìm cô bé càng sớm càng tốt, nhưng anh không
biết phải làm thế nào? Anh vừa mới được thả ngày hôm
nay, và chưa quen biết ai. Làm thế nào để anh tìm được
con gái của mình trong cái thành phố rộng lớn này?
Giống như giọt nước làm đầy ly, tất cả những câu hỏi
này khiến tinh thần anh mệt mỏi. Lòng nặng trĩu nỗi buồn,
anh lại châm thêm thuốc. Kéo chiếc ghế gỗ lại gần cửa sổ,
anh ngồi xuống rồi mở cửa ra. Sau khi hít thật sâu làn khói
thuốc, anh vừa nhả khói, vừa chăm chú nhìn dòng người
trên đường. Thời tiết bên ngoài khá nóng nực, và không
có gió. Trong khi ở một vài chỗ, mặt trời đang chiếu
những tia nắng vàng rực rỡ lên những con người hối hả
ngoài kia, thì ở chỗ khác, những đám mây đen lại che
khuất ánh mặt trời, và cơn mưa đổ xuống như muốn xây
nên một bức tường ngăn cách giữa những tia nắng mặt trời
với con người. Trong khi khói thuốc lá bao quanh trên đầu
Ahmet, thì mặt trời, như thể đang chiến đấu với những
đám mây, đôi khi ló dạng, đôi khi lại bị che lấp.
Đang đắm chìm trong suy tư, anh bỗng giật mình bởi
tiếng gõ cửa. Không mất quá nhiều thời gian để đoán ra
người đến là con trai của Hüseyin. Anh mở cửa, và mời
Kadir vào trong.
"Chú ơi, cha cháu gửi những thứ này cho chú.”
"Kadir ạ."
“À… ờ…, cháu không thích đọc sách cho lắm. Trường
học cũng vậy. Cháu muốn bắt đầu làm việc càng sớm càng
tốt.”
Cử chỉ này của Ahmet đã đem lại cho Kadir một cảm
giác được tôn trọng, cảm giác mà cậu chưa từng được
nhận cho đến ngày hôm nay. Cậu cảm ơn mà không ngước
mắt lên, và nhanh chóng rời khỏi căn phòng.
Ngồi trầm ngâm trên ghế trước cửa sổ, Ahmet không
ngừng hút thuốc. Sau đó, nhận ra điếu thuốc của mình đã
cháy gần hết, và tàn thuốc rơi đầy xuống quần mình, anh
ném mẩu thuốc còn lại xuống đất, và dùng chân trái dẫm
nát nó, rồi đứng dậy, và phủi sạch tàn thuốc bám trên
người.
Cơ thể anh ướt đẫm mồ hôi khi bị đánh thức bởi tiếng
gõ cửa. Từ khung cửa sổ đang mở vọng vào tiếng còi xe,
và tiếng mưa rơi lộp bộp. Lại có tiếng gõ cửa một lần nữa.
Ahmet vội đứng dậy, ra khỏi giường, và đi mở cửa. Anh
nhìn thấy Kadir đang cầm một cái chảo được đậy bằng
một tấm bìa trắng. Nhìn thấy Ahmet đổ đầy mồ hôi, Kadir
nghĩ rằng cậu đang quấy rầy anh.
“Cháu xin lỗi vì làm phiền chú nghỉ ngơi. Cha cháu
bảo cháu đem bữa tối đến cho chú. Ông ấy cũng yêu cầu
cháu nhắn rằng, ông ấy sẽ đến đây sau khi xong việc ở
quán cà phê.”
Kadir đặt cái chảo trên tay lên kệ bếp. Cùng lúc,
Ahmet kéo chiếc bàn gỗ cạnh giường ngủ ra. Anh nghĩ
rằng, vì trong phòng chỉ có một chiếc ghế nên một người
có thể ăn khi ngồi trên ghế, và người còn lại ngồi trên
giường. Sau khi đặt bữa tối lên bàn, Ahmet ngồi xuống
ghế, và bắt đầu ăn, còn Kadir ngồi trên giường. Trong lúc
Ahmet dùng bữa một cách ngon lành thì Kadir nhìn thấy
những cuốn sách được xếp ngay ngắn trước cửa sổ. Cậu
chưa bao giờ nhìn thấy nhiều sách như thế trong đời.
Ngoài văn học Thổ Nhĩ Kỳ, còn có các tác phẩm của văn
học Nga, và Pháp.
"Có ạ, rất thích ạ. Tên của các tác giả nước ngoài hơi
là lạ.”
"Ừ, chú đọc hết rồi! Nhưng sách của chú thực sự còn
rất nhiều, nếu đem theo tất cả thì chúng có thể che hết một
bức tường của căn phòng này. Đây chỉ là những cuốn mà
chú có thể mang theo được thôi.”
"Ở những nơi khác", anh nói, "nhưng chú sẽ tìm cách
đem tất cả chúng về đây sớm thôi.”
32 Vào thập niên 1970 - 1980, Thổ Nhĩ Kỳ rơi vào tình trạng bất ổn, hỗn loạn về chính
trị. Các phe phái cực đoan nổi lên, và đánh giết lẫn nhau. Hai phe đối lập chính là phe
cực hữu (xu hướng phát xít bảo thủ), và phe cực tả (xu hướng cộng sản cấp tiến) chống
đối nhau quyết liệt. Sau đó, phe cực hữu thắng thế, và đã tàn sát những người có xu
hướng ngả theo cánh tả. Năm 1978, một nhóm ly khai người Kurd mang tên PKK (cánh
tả) bắt đầu chiến dịch nổi loạn chống lại sự đàn áp của Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, và xung
đột đã lan rộng ra trên nhiều khu vực. Họ đòi một nền độc lập cho người Kurd.
30
“Tôi đã đọc kỹ lời nhắn của Habib. Hôm nay tôi cũng
đã đến thăm anh ấy. Anh ấy đã nói cho tôi biết tất cả mọi
thứ về anh. Đừng lo lắng, đừng hấp tấp kẻo lại phạm phải
sai lầm lần nữa. Anh hãy kể lại câu chuyện của anh cho
tôi nghe đi, mọi chuyện đã xảy ra như thế nào?"
“Quả thực là một câu chuyện rất dài, tôi không biết
bắt đầu như thế nào nữa.”
mạnh mà chúng tôi có. Ở một mức độ nào đó, chúng tôi
cũng đã giúp đỡ những người nghèo khổ, như một cách để
chuộc tội, để tâm hồn mình được thảnh thơi. Tuy nhiên,
những việc tốt so với cái ác và việc xấu mà chúng tôi đã
làm chỉ như giọt nước giữa đại dương.”
ta có một ngoại hình khó coi, và tính cách khó chịu, khuôn
mặt luôn đỏ bừng, đôi mắt xanh với những ánh nhìn độc
ác, hàm răng vàng khè với điếu thuốc thường xuyên dán
trên môi. Hắn ta ranh mãnh hơn cả rắn độc và tệ hơn ma
quỷ chuyên đầu độc mọi người bằng những ý tưởng đen tối
của hắn. Thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy rằng hắn ta muốn
thay thế vị trí của tôi, và cố thuyết phục một số anh em
khác đi theo hắn, nhưng tôi cũng không mấy quan tâm.”
phụ nữ ngây thơ, trong sáng đã xuất hiện trong cuộc đời
tôi. Cô ấy có một khuôn mặt thánh thiện không biết đến
hận thù. Cô ấy là một cô gái lương thiện thành công duy
trì sự vô nhiễm trong thế giới này. Nhờ có cô ấy mà chúng
tôi đã chống lại được những sự cám dỗ bẩn thỉu, và đã
chiến thắng trong trận chiến đó. Ánh mắt cô ấy luôn hiện
rõ niềm kiêu hãnh của chính nghĩa, và sự tự tin sẽ đứng
vững trước những tham vọng, với lòng tự trọng, và phẩm
giá. Cho dù có phải gánh lấy trách nhiệm nặng nề mà
cuộc đời đặt lên đôi vai gầy yếu của cô. Cô ấy là một cô
gái có tác phong đàng hoàng, và cuốn hút, với dáng người
cao ráo, thon thả, trang phục sạch sẽ, gọn gàng, và phù
hợp với cô. Cô tết mái tóc dài vàng óng của mình theo
kiểu đuôi sam giống như những thôn nữ. Đôi mắt màu
xanh lam của cô luôn ánh lên niềm vui trên khuôn mặt với
đôi má ửng hồng.
cảm giác như bản thân mình trẻ hẳn ra. Một hôm, tôi đến
đó để uống trà như thường lệ, tôi quyết định bắt chuyện
với cô ấy lúc cô đến bàn của tôi để nhận đặt món. Khi đem
đồ uống đến bàn của khách, cô ấy thường cầm một cái
khay trên tay như để tạo khoảng cách với khách hàng.
"Vâng.”
trước mặt Necati tại một buổi họp mặt, và nói với hắn rằng
tôi không làm những việc này nữa, và tôi sẽ sớm kết hôn,
thì bọn họ đã nổi cơn thịnh nộ. Sự giận dữ đi cùng với sự
lo lắng khiến bọn họ đổ mồ hôi lạnh, mất đi nhuệ khí, và
trở nên suy sụp. Họ sợ rằng công việc của họ có thể bị sụp
đổ, và mất đi nguồn thu nhập. Thái độ của bọn họ đối với
tôi đã chứng tỏ điều này.”
Bản thân Ahmet cũng cảm thấy ngạc nhiên không hiểu
tại sao anh lại kể câu chuyện cuộc đời mình một cách chi
tiết như vậy cho Hüseyin. Anh chỉ vừa mới gặp Hüseyin,
và anh ấy chỉ là một người quen của một người bạn mà
anh rất thân. Có lẽ chính sự giãi bày những tâm tình đã
dồn nén trong suốt bao năm qua với một người khác, bằng
một tình cảm chân thành, đã khiến anh cảm thấy thật gần
gũi. Bên cạnh anh, Hüseyin chăm chú lắng nghe câu
chuyện của anh, như thể anh ấy đang theo dõi một bộ
phim, tránh gây ra tiếng động để cuốn phim ấy không bị
gián đoạn. Ahmet thở dài thườn thượt sau khi ném đi điếu
thuốc đã tàn trên tay, và dùng mũi giày chà nát nó. Anh
tiếp tục kể với một cử chỉ ngụ ý rằng, anh sắp kể tới thời
điểm hiện tại trong câu chuyện cuộc đời mình:
Biểu cảm trên gương mặt của Hüseyin cho thấy một
sự đồng cảm sâu sắc với những nỗi đau mà Ahmet đã phải
gánh chịu. Khi câu chuyện của Ahmet kết thúc, anh ngồi
xuống, và thở dài thườn thượt, như thể đã trút bỏ được
gánh nặng trong lòng mà anh phải chịu đựng trong suốt
nhiều năm qua. Cứ như thể Hüseyin vừa xem xong một
bộ phim thuộc thể loại bi kịch hoặc đọc xong một cuốn
tiểu thuyết đầy bi ai. Đưa bàn tay trái to, và xương xẩu của
mình vào chiếc túi quá khổ của chiếc áo sơ mi màu xanh
đậm, Hüseyin lấy ra một chiếc hộp đựng một vài điều
thuốc, và châm lửa hút. Anh đưa chiếc hộp qua mời
Ahmet. Ahmet cũng rút lấy một điếu thuốc.
Đôi mắt Ahmet hằn lên những nét khắc khổ, dấu ấn
của những tháng năm dài khổ đau, và nỗi mong chờ được
gặp đứa con gái thân yêu. Trong căn phòng tối đen, điếu
thuốc mà Hüseyin đang hút lóe lên một đốm sáng, hắt lên
đôi môi dày, và chóp mũi của anh mỗi khi anh hít vào.
Sau khi châm lửa điếu thuốc của mình, Ahmet đi về phía
cửa sổ, và quan sát một lúc.
Bên ngoài, mưa đang đập từng cơn vào cánh cửa sổ
của căn gác xép nhỏ. Trái tim anh đau đớn vì nỗi khao
khát được gặp con gái. Đã quá mệt mỏi, và dằn vặt khi
hình dung về cuộc sống khốn khổ mà cô bé đang phải chịu
đựng. Những hạt mưa rơi xuống rồi chảy xuyên qua gờ
cửa sổ bằng gỗ. Không thể tìm thấy câu trả lời cho những
câu hỏi của mình ở đó, Ahmet quay sang nhìn Hüseyin
một lần nữa. Khuôn mặt của Hüseyin hoàn toàn chìm
trong bóng tối, chỉ hiện ra mờ mờ khi anh ấy thỉnh thoảng
rít vào một hơi thuốc.
Ahmet tựa lưng vào cây cột giữa phòng, nhìn chằm
chằm lên trần nhà tối đen, và nói bằng một giọng đầy cảm
xúc:
“Tôi có quen biết một người đàn ông từng buôn bán
trẻ em. Anh ấy tên là Murat. Anh ấy có nhiều mối quan hệ
nhờ vào công việc này. Cửa hàng của anh ấy cách đây vài
con phố. Anh ấy thường xuyên ghé quán cà phê của chúng
tôi. Mà này, con gái anh tên là gì, có hình ảnh hay thông
tin gì không?"
Ahmet bỏ điếu thuốc trên tay xuống mép bàn, đưa tay
vào túi áo ngang ngực trái, và lấy ra một bức ảnh. Đó là
hình ảnh, và vật kỷ niệm duy nhất của cô con gái mà anh
có được. Anh chạm nhẹ đầu ngón tay, vuốt ve bức ảnh mà
anh đang cầm trong bóng tối, rồi nói với Hüseyin:
"Sevda.”
“Được rồi, người anh em, đã muộn rồi, tôi phải về,
thứ lỗi cho tôi.”
"Tất nhiên rồi, Hüseyin, hẹn gặp lại anh vào ngày
mai.”
Sau khi Hüseyin rời đi, Ahmet khóa cửa lại bằng một
cái móc từ phía sau, và nằm xuống giường. Sau khi hôn
tấm hình con gái, anh lại đặt nó lên chỗ trái tim mình. Và
rồi anh ngủ thiếp đi.
Khi Ahmet tỉnh dậy, những tia nắng buổi sớm xuyên
qua khung cửa sổ, rọi vào chiếc sàn gỗ đã ngả màu vì bám
đầy bụi bẩn. Bên ngoài vọng đến tiếng lao xao của những
cuộc trò chuyện giữa chủ cửa hàng, công nhân, và người
dân trong khu phố, những người chào đón bình minh, sinh
động như khung cảnh của một đại gia đình vào buổi sáng.
Những điều này đem lại một cảm giác thật ấm áp, và dễ
chịu, khác hẳn với những bài phát biểu lạnh lùng bắt đầu
bằng câu “một ngày nữa sẽ kết thúc” mà anh thường nghe
vào mỗi buổi sáng khi còn ở trong tù.
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt anh mỗi sáng, sau khi
tỉnh dậy trong tù, là những thanh sắt gỉ sét đỡ lấy miếng
đệm của chiếc giường ở tầng trên. Nhưng còn trong lúc
này đây, khi anh thức dậy, ánh sáng mặt trời chan hòa
đang chiếu rọi lên trần nhà. Anh đứng thẳng dậy, đi rửa
mặt, và tay. Sau khi dùng khăn lau khô, anh đi đến trước
tấm gương, vừa chải mái tóc hoa râm dài bằng tay, vừa
nhìn chằm chằm vào tấm gương. Đã quá nhiều thay đổi so
với tám năm trước. Anh lắc đầu kéo mình trở lại để chấp
nhận ra sự thật rằng thời gian đã lấy đi của anh nhiều thứ.
Anh thay một bộ quần áo mới lấy từ trong tủ, rồi bước
ra ngoài. Nheo nheo đôi mắt để làm quen với ánh sáng
chói chang bên ngoài, rồi từ từ đi xuống cầu thang.
Anh bước vào quán cà phê với tâm trạng hồi hộp,
mong đợi, khác bình thường. Hơi nước từ bếp nấu trà bốc
lên, và phả vào cùng một nơi trên trần nhà như mọi buổi
sáng. Bếp lò kêu réo khi hơi nước bốc lên, tạo ra âm thanh
độc đáo. Tại bếp nấu trà, Hüseyin đang nhanh chóng rửa
ly trong một cái thau nhựa màu xanh lam, và người anh
ướt đẫm mồ hôi vì hơi nước. Anh ấy tiếp tục chăm chú
làm việc, và dùng tay áo sơ mi lau trán. Những người
khách chen chúc vào quán cà phê buổi sáng sớm, bị ấn
tượng bởi âm thanh, và hơi nước phát ra từ trong bếp, vui
vẻ xen lẫn đôi chút thiếu kiên nhẫn, phàn nàn:
Bản tin buổi sáng trên truyền hình đang đề cập đến
những vụ đụng độ giữa các nhóm có quan điểm đối lập,
gây nên cái chết của hàng chục người. Ngày nào mọi
người phải nghe những bản tin về bạo lực tương tự như
thế này, trong khi họ vẫn chơi đánh bài, họ đã quá chán
ngán, và tỏ ra trách móc:
Ahmet chọn một chỗ ngồi gần tivi để nghe tin tức rõ
hơn. Khi Hüseyin nhận ra rằng Ahmet đã đến, anh ấy
ngừng rửa ly, và lau khô tay, rồi bước đến chỗ Ahmet ngay
lập tức. Hüseyin tràn đầy năng lượng của buổi sáng, và nở
một nụ cười tươi. Giống như một đứa trẻ muốn bày tỏ sự
kính trọng của mình đối với người anh cả, anh đang cúi
đầu trước mặt Ahmet. Bằng một thái độ chân thành của
tình bạn, anh nói:
"Cảm ơn, Hüseyin, có thể cho tôi một tách trà nóng
được không.”
“Tất nhiên rồi, người anh em. Tôi chắc rằng anh chưa
ăn sáng. Con trai tôi chẳng bao lâu nữa sẽ đến. Tôi đã
“Không thành vấn đề, cảm ơn anh quan tâm. Hôm nay
Murat có ghé qua đây không?"
"Anh ấy không thể không ghé. Tôi sẽ mang trà cho anh
ngay lập tức.”
Ahmet tiếp tục xem tin tức trên tivi, và sững sờ bởi
những hình ảnh mà anh vừa nhìn thấy. Tình trạng hỗn
loạn, bạo lực xảy ra trên toàn quốc; người dân tấn công
lẫn nhau; các nhóm hội được lập ra để chiếm giữ những
khu vực riêng, và tàn sát lẫn nhau. Các bức tường của các
trường học, và trường đại học, các bức tường trong các
khu phố hoàn toàn bị lấp đầy bởi những bức vẽ graffiti33
với những dòng chữ như “TIÊU DIỆT CHỦ NGHĨA
PHÁT XÍT”, “HÃY TỐNG CỔ BỌN CỘNG SẢN VỀ
33
Graffiti: là những tranh cổ động được phun bằng sơn hoặc hình vẽ trên tường hoặc
trên đường phố. Nó là từ được sử dụng chung để nói đến các chữ viết hay hình ảnh
nguệch ngoạc trên các bức tường ở các khu phố, con đường, tường nhà bằng sơn
phun hoặc bằng bất kỳ chất liệu gì.
Ngoài tất cả những điều này ra, sự nghèo đói đang bao
trùm khắp đất nước. Những hàng người kéo dài chờ đến
lượt bên trong các bệnh viện, nhưng họ không nhận được
thuốc ngay cả sau khi đã được khám. Và khi một người
đến lượt khám, họ không chỉ nói với bác sĩ về bệnh tật của
bản thân, mà nói luôn cả những căn bệnh của người thân
hay họ hàng. Bởi vì rất nhiều người không thể gặp được
bác sỹ trong nhiều tháng, do đó, ít nhất họ có thể tranh thủ
nghe chẩn đoán giúp những người thân. Những câu nói
kiểu như "khi bạn có đường, và trà, xin hãy dành cho
chúng tôi một ít" được nghe nhan nhản trong các quán cà
phê. Mọi người xếp hàng chờ mua gas đóng chai dọc theo
các con phố. Những cảnh này giống như trong một trò
chơi lớn, theo đúng nghĩa đen, làm trái tim của chúng ta
đau đớn.
Mải đắm chìm trong bản tin này, Ahmet giật mình khi
nghe Hüseyin nói: "Trà của anh đây.”
Ahmet quay lại nhìn cậu bé bán bánh mì tròn sau khi
nghe cậu cất tiếng rao:
"Có thể bán cho chú một cái bánh mì tròn được
không?"
“Có ngay lập tức đây chú. Bánh mì tròn nóng hổi, vẫn
còn bốc hơi đây.”
vệ khuôn mặt của mình khỏi những tia nắng gay gắt xuyên
qua cửa sổ, anh hạ mũ xuống để che bớt đi một phần
khuôn mặt. Sau khi bắt chéo chân, anh nói mà không
ngẩng đầu lên: “Hüseyin! Cho tôi một ly trà đậm nhé.”
Anh đang quay một cây tăm trong miệng như thể anh
muốn nhai nó cho đến khi nát bấy. Vì hai hàm răng rất
thưa nên anh có thói quen khạc nhổ bừa bãi. Anh ấy luôn
làm vậy bất chấp những phản ứng khó chịu, và ánh mắt dè
bỉu của những người xung quanh.
Ngay khi Hüseyin nghe thấy tiếng gọi trà, anh biết
ngay người mới đến là ai. Anh từ phía sau băng ghế của
nhà bếp vội vàng phóng đến bên Ahmet, và thì thầm vào
tai anh:
Ahmet vừa vuốt nhẹ chùm râu, vừa nheo nheo đôi mắt,
quan sát kỹ từ đầu đến chân người đàn ông có vẻ thô lỗ,
cộc cằn đang ngồi bên cửa sổ. Anh lấy tràng hạt từ trong
túi ra, và bắt đầu đếm với sự thành thục, và phong cách
thể hiện khí chất. Trong khi nhấp một ngụm trà mà mắt
vẫn không rời khỏi người đàn ông kia, anh vừa nghĩ cách
để bắt chuyện với anh ấy.
phản ứng tiếp theo của anh. Bởi vì đây là lần đầu tiên anh
chứng kiến chỉ với một câu “xin chào” lại gây ra phản
ứng kỳ lạ như vậy ở một người.
Ahmet hơi cau mày, nhíu trán, anh ngơ ngác, và cố lục
tìm trong trí nhớ của mình chút ký ức về người đàn ông
trước mặt. Anh vô cùng ngạc nhiên trước phản ứng bất
ngờ của anh ấy. Và anh chợt nghĩ rằng, người đàn ông to
cao, và vạm vỡ đang ngồi trước mặt mình, có thể là một
trong số những người mà anh đã từng giúp đỡ trước đây.
Murat bắt đầu nhắc lại về những sự ưu ái mà Ahmet đã
dành cho anh từ nhiều năm trước, bằng một giọng nói đầy
xúc động, và đôi mắt ngấn lệ vì hạnh phúc bất ngờ. Với
sự vui mừng khi tình cờ có được cơ hội để bày tỏ lòng biết
ơn, sự cảm kích, và kính trọng của mình, Murat thổ lộ:
"Đã lâu không gặp, anh trai.” Anh nói. “Có lẽ anh
không nhận ra em. Đã lâu lắm rồi…, có một lần trên đường
đi học về vào một ngày mùa đông lạnh giá, em đang đứng
đợi xe ở trạm xe buýt. Chân em mang một đôi giày rách
nát, thủng lỗ, và hở ra những ngón chân bị sưng tấy. Khi
ấy, anh, và những chiến hữu của anh đi trên một đoàn xe
ô tô ngang qua em, anh đã ra lệnh cho tài xế dừng xe lại,
và dẫn em đến gần chiếc xe. Sau đó, anh đã cho em lên xe
của anh, và hỏi han về hoàn cảnh của em trong suốt cuộc
hành trình. Sau khi cho em ăn uống no nê, anh còn mua
cho em một đôi giày mới, và cho em một ít tiền tiêu vặt….”
Trong khi người đàn ông trông cứng cỏi này bật khóc,
và kể lại những kỷ niệm ân tình, những giọt nước mắt
cũng chảy dài trên má Ahmet, và thấm vào bên trong bộ
râu của anh. Vừa kể, Murat vừa nhớ lại từng chi tiết một
rất rõ ràng. Và tất nhiên, anh không muốn bỏ lỡ cơ hội
giãi bày với người đàn ông từng giúp đỡ anh, cơ hội mà
anh đã chờ đợi bao nhiêu năm mới tình cờ có được.
"Sự giúp đỡ của anh có ý nghĩa rất lớn đối với em, mà
em không thể diễn tả hết bằng lời với anh được, anh trai
ạ.”
muốn biết về những gì đang xảy ra. Anh ngay lập tức đến
bàn, và tham gia cùng họ. Ahmet xắn tay áo sau khi lau
nước mắt, chống hai tay lên bàn, thở dài thườn thượt rồi
quay sang nói với Murat:
"Em đã làm được những việc rất tốt, rất đáng khen
ngợi. Nếu em đạt được mục tiêu, có thể em sẽ hoàn thành
được những sứ mệnh lớn lao.”
“Anh đang tìm con gái của mình. Con bé được sinh ra
trong lúc anh đang ở tù, và bây giờ đã gần tám tuổi.
Hüseyin đã nói với anh về em. Anh ấy nói rằng, em đã
từng tham gia những vụ buôn bán trẻ em. Có đúng vậy
không?"
"Anh nói đúng, anh trai. Em rất vui mừng khi được
nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt trước mặt em như thế
này. Sau khi loại bỏ những kẻ giả mạo, em đã đến thăm
nhiều trại trẻ mồ côi, và em có quen biết những người quản
lý, cũng như nhân viên làm việc ở đó. Chúng ta sẽ cùng đi
tìm con gái của anh, in’Shallah34. Trong suốt một thời gian
dài, em đã luôn băn khoăn, không biết phải làm thế nào để
trả ơn cho những gì mà anh đã giúp đỡ cho em nhiều năm
trước đây. Bây giờ, xin hãy cho em cơ hội này.”
Chứng kiến cuộc trò chuyện đầy xúc động giữa hai
người đàn ông này, lắng nghe những câu chuyện từ quá
khứ, cũng khiến cho Hüseyin xúc động. Anh đứng dậy, và
mang thêm trà tới.
َ ْ
34
In’Shallah (Tiếng Ả Rập: ِإن ش َاء ٱلل َّٰ ه, ʾin šāʾ -llāh), còn được phiên âm
thành InshAllah hay Inshallah, là một cách diễn đạt hay thành ngữ bằng tiếng Ả Rập
có nghĩa là "nếu Allah (Thượng Đế) muốn như thế" hoặc "theo ý muốn của Allah". Nó
thường được các tín đồ Hồi giáo cũng như những người Ả Rập theo Thiên Chúa giáo
hay Do Thái giáo sử dụng khi nói đến một sự kiện xảy ra trong tương lai.
Giá trị của con người này, với quá khứ giàu lòng trắc
ẩn, và thường xuyên giúp đỡ những người nghèo khó, đã
được nâng lên trong mắt Hüseyin. Ngay từ lần đầu tiên
nhìn thấy anh, Hüseyin đã nhận thấy rằng, anh thậm chí
không thể sử dụng sự dối trá, thiếu trung thực. Sau khi
uống trà xong, Murat quay sang Ahmet:
“Anh ơi, em thật thiếu sót. Thật vinh hạnh khi được
tiếp đón anh trong cửa hàng của em, người đã nắm tay
em lúc em nghèo khó nhất.”
Trên đường đi đến cửa hàng giày, Murat hỏi, mắt nhìn
xuống đất:
"Tôi chỉ có một tấm thôi. Đó là tấm hình duy nhất của
con bé mà tôi có.”
“Em hiểu anh rất rõ, anh trai. Đừng lo lắng quá.”
Khi hai người đàn ông này đi cạnh nhau, những quan
điểm chính trị đối lập được viết trên những con đường, và
những bức tường bằng sơn đỏ, thể hiện tình trạng hỗn loạn
của thời kỳ này, và sự giận dữ của các bên, đang chờ đợi
họ. Việc giết chóc lẫn nhau một cách dã man, và những
cuộc xung đột đẫm máu triền miên kéo dài từ ngày này
sang ngày khác, đã khiến người dân tuyệt vọng, và chán
nản. Tuổi trẻ của một dân tộc đã bị tàn phá bởi những ý
tưởng vô nghĩa, phá vỡ sự đoàn kết, và gây chia rẽ đất
nước. Bất chấp các ý thức hệ, những bà mẹ mất con đang
đau đớn đến xé nát tâm can, và khóc than cho những đứa
con trai, con gái của họ.
31
Khi hai người đến cửa hàng của Murat, Ahmet im lặng
chìm trong suy tư. Khẽ chạm vào vai Ahmet với sự thân
mật, Murat nói:
Tiệm giày ở bên trong một cao ốc nằm vắt vẻo giữa
những ngôi nhà trên một sườn dốc, xung quanh là những
ngôi nhà bị xói mòn hai bên bởi những cơn mưa xối xả,
tầm tã, và cũng bởi cái nắng bỏng lửa thiêu đốt. Bên ngoài
cửa hàng có một tấm kính trưng bày quay ra mặt đường,
và những đôi giày da được xếp ngăn nắp trên quầy. Trên
tấm kính có ghi tên cửa hàng một cách cẩn thận, và bắt
mắt. Họ bước vào cửa hàng cách vỉa hè vài bước chân.
Bất chấp cái nóng oi bức ở bên ngoài, không khí bên trong
mát mẻ, và yên bình. Đó là một căn phòng rộng lớn, nhưng
bên trong cửa hàng lại khá chật chội do chứa nhiều đồ đạc.
Các đồ vật được xếp chồng lên nhau đến mức chúng chỉ
chực chờ để đổ xuống. Giữa đống đồ này, có một chiếc
bàn ngắn được cố định vào nền bê tông, gồm bốn miếng
gỗ được đóng đinh cho dính lại với nhau, và một thanh sắt
đặt ngay chính giữa. Phía sau chiếc bàn là một chiếc ghế
bệt để ngồi, gần như thẳng hàng với chiếc bàn. Có một
chiếc giày đang chờ sửa gắn vào gờ sắt trên bàn. Ở phía
sau, giữa các đống đồ là một cái ống gần như vô hình, và
một ấm trà bị bám muội đen. Ngay lối vào cửa hàng có
một cái bàn lớn, bên trên có một đống giấy tờ, bút, và
những tờ báo nhàu nát.
"Ừ, điều đó rất quan trọng. Kính trưng bày của cửa hàng
rất sáng, và sạch sẽ, trong vắt như tấm lòng của em vậy.”
Ahmet ngồi vào bàn sửa giày, và nhìn chiếc giày rách
được gắn vào gờ sắt trên bàn, chợt cảm thấy hãnh diện khi
nghĩ đến cậu bé từng đứng đợi ở trạm xe buýt với đôi giày
cũ rách, giờ đây đã trở thành người chủ của cửa hàng này.
Trong lòng anh dâng trào niềm tự hào khó tả.
Murat kéo một chiếc ghế đẩu, và ngồi đối diện với
Ahmet. Anh khoanh hai tay, đặt khuỷu tay lên đầu gối, và
cúi đầu xuống, như một đứa trẻ phạm lỗi phải xuất hiện trước
mặt phụ huynh của mình để trình bày. Anh bắt đầu tâm sự:
“Em đang có một công việc kinh doanh phát đạt, anh
trai ạ, cảm tạ Thượng Đế. Em có một người học việc làm
chung với em. Trong cửa hàng này, em vừa sửa giày vừa
bán những đôi giày do mình làm ra. Và hàng năm, em đều
đặn gửi giày đến các trại trẻ mồ côi. Bất cứ nơi nào em
nhìn thấy những người cần được chăm sóc, những người
không có giày để mang, hoặc khi em nghe thấy ở đâu đó,
em lại tìm đến giúp đỡ họ. Giống như anh đã từng giúp
đỡ em nhiều năm về trước.”
người này, bằng cách truyền cho họ những giá trị của
chính chúng ta.”
Người học việc của Murat bước vào khi Ahmet đang
thao thao bày tỏ quan điểm của mình, bầu không khí đầy
xúc động. Cậu bé nhìn Ahmet từ đầu đến chân. Cậu có
mái tóc dài rối bù, và đôi mắt nhỏ xíu, được bao quanh
bởi hàng lông mi cong tuyệt đẹp trên khuôn mặt tròn trĩnh.
Selim có một thân hình mũm mĩm. Cánh tay cậu đầy đặn,
và ngắn ngủn, đôi chân tròn trịa. Murat nói với cậu:
"Này con trai, Selim, con hãy đến nhà hàng của Lütfü
ngay lập tức, và nói với anh ấy rằng chúng ta có khách,
hãy chuẩn bị vài món gì đó cho vị khách của chúng ta, và
mang đến đây.”
Trong lúc chờ bữa ăn được mang đến, Murat vào bên
trong, bật bình gas đặt giữa đống đồ vật ở phía sau quán
để pha trà. Sau khi dùng bữa, và uống trà, Murat vừa nói,
vừa lau miệng và xỉa răng:
32
Sau khi thống nhất về cách thức tìm kiếm, Ahmet bắt
đầu thả lỏng bản thân bằng cách nghêu ngao hát một bài
ca dân gian. Âm nhạc giúp anh giải tỏa những bức bối
trong lòng, làm dịu đi nỗi khao khát cháy bỏng mong sớm
được gặp con gái. Về đến nhà, anh lấy ra xấp giấy ngả
vàng nhét ở ngăn bàn, và tiếp tục viết những gì đang bỏ
dở. Anh đã bắt đầu viết những câu chuyện mới. Mơ ước
của anh là những câu chuyện này sẽ được xuất bản thành
một cuốn sách. Anh đặt bút chì xuống một lúc, và mở cửa
sổ ra để căn phòng được thoáng khí hơn. Căn gác xép khá
nóng, và anh lại ngồi xuống.
Câu chuyện anh viết về một người nông dân dành dụm
những quả trứng, và bán chúng để lấy tiền mua một cuốn
sách cho cô con gái bé bỏng. Trong câu chuyện của mình,
anh mô tả sự nghèo khổ mà ngôi làng phải gánh chịu, và
đưa ra những giải pháp đơn giản để xóa bỏ sự nghèo khổ
đó. Anh cũng viết những câu chuyện, trong đó kể về sự
khác biệt của hai thế giới đối lập. Anh so sánh, một bên là
một cậu bé tiểu học sống trong một ngôi làng nhỏ nghèo
khó, phải trải qua kỳ nghỉ hè của mình để chăn đàn gia súc
và làm việc trên cánh đồng, dưới cái nắng nóng như thiêu
như đốt. Bên kia hoàn toàn trái ngược, những đứa trẻ dành
cả mùa hè để đi du lịch cùng gia đình từ thành phố này
đến thành phố khác và chơi đùa trên bãi biển.
vật. Khung cửa đột nhiên mở ra, một làn gió nhẹ lùa vào,
thổi bay xấp giấy trên bàn, và vuốt ve mái tóc của Ahmet.
Những tờ giấy anh đang viết truyện bị vương vãi khắp nơi.
Người vừa đến là Selim, người học việc của Murat, với
khuôn mặt tròn bầu bĩnh, và dáng người thấp bé. Cậu ngại
ngùng cắn chặt môi dưới vì đã làm rơi vãi giấy tờ, đứng
sững lại với cái đầu chúi về phía trước, và đôi bờ vai nhô
lên. Trái lại, Ahmet quay người về phía cậu một cách ôn
tồn, và điềm tĩnh mà không để ý đến đống giấy tờ rơi vãi
xung quanh, nở một nụ cười ngọt ngào với cậu.
“Cháu rất xin lỗi,” Selim nói với giọng lo lắng, và hối
lỗi. "Để cháu nhặt lại giấy tờ của chú.”
“Cháu thực sự rất xin lỗi. Chủ của cháu bảo cháu đưa
đến cho chú một cái radio để theo dõi các bản tin thời sự,
và một vài bao thuốc lá.”
Selim rời khỏi phòng sau khi cậu đã treo chiếc radio
mà cậu mang theo trên chiếc đinh đằng sau cánh cửa, và
để lại gói thuốc.
Ahmet thu dọn đống giấy tờ rơi vãi trên sàn nhà, và
đặt lại chúng lên bàn. Anh lấy một trong những cuốn sách
đã xếp trước cửa sổ, và đặt nó chặn lên trên xấp giấy, để
giấy không bị rơi vãi nữa. Rồi anh với tay lấy chiếc radio
sau cánh cửa, và đặt nó lên bàn. Anh lục tìm bao thuốc lá,
và châm lửa hút.
Đài phát thanh đang phát bản tin nói rằng tình trạng
đã tồi tệ đến mức khiến người dân không thể an toàn tính
mạng khi ra đường. Nhiều người đã mất mạng trong các
cuộc đấu súng. Cuộc khủng hoảng kinh tế, và cuộc mưu
sinh khốn khó đang bủa vây người dân, như một màn
sương mù bao phủ trong đêm đen. Chính phủ không thể
hoàn thành trách nhiệm đảm bảo sự ổn định về kinh tế, đất
nước đang ngày càng phụ thuộc hơn vào những nguồn tài
chính bên ngoài, và rơi vào bẫy nợ công. Chính phủ đang
cố gắng đưa ra những quyết định để cứu vãn nền kinh tế,
và tương lai của người dân đang là một ẩn số rất lớn. Tất
cả những tin tức này càng khiến mọi người lo lắng hơn.
Ahmet cảm thấy chán ngán khi nghe tin này, và tắt
radio. Khi xã hội bất ổn, và rối ren, việc tìm kiếm con gái
lại càng khó khăn hơn, một nỗi thống khổ không thể nguôi
ngoai nảy sinh trong lòng anh. Anh tìm phương thức giải
tỏa bằng cách viết những rắc rối của mình ra giấy. Khi mặt
trời truyền những tia sáng đỏ của hoàng hôn xuống mặt đất
xuyên qua những đám mây màu tím, đường phố chìm trong
sự im lặng đáng sợ. Người dân gấp rút hoàn thành công
việc của mình rồi tự nhốt mình trong nhà để tránh những
xung đột. Ahmet kéo ghế ngồi xuống trước khung cửa sổ,
duỗi chân tới chỗ cái bệ nhô ra bên dưới cửa sổ, nơi anh
xếp những cuốn sách, vừa hút thuốc vừa nhả khói bay đầy
căn phòng, bởi có làn gió nhẹ từ bên ngoài thổi vào. Anh
đã sắp hoàn thành câu chuyện với một vẻ chán nản.
Bỗng anh giật mình vì nghe thấy tiếng đập cửa. Dập
tắt điếu thuốc trên bàn, anh hỏi vọng ra:
"Là ai đó?"
“Sau khi tiếp chuyện với anh xong, em đã nói với nhân
viên làm việc ở một trong những trại trẻ mồ côi, và đưa
cho họ xem bức ảnh. Một người trong số họ nói với em
rằng, hãy đợi tin tức từ cô ấy, sau khi cô ấy xem bức ảnh
mà em đưa cho. Chiều nay, cô ấy đã quay trở lại vào lúc
em đang đóng cửa tiệm. Cô ấy nói rằng, cô ấy đã tìm thấy
Sevda. Thủ tục đăng ký gia nhập của con bé đã được thực
hiện nhiều năm trước trong cô nhi viện mà cô ấy đang làm
việc.”
phòng của người quản lý. Cô ấy đã xem qua kho lưu trữ
năm xưa trong phòng của người quản lý, và tìm thấy bức
ảnh của Sevda ở đó. Nhưng sau khi Sevda đăng ký, người
ta đã gửi con bé đến một trại trẻ mồ côi khác ở Kâğıthane
vì ký túc xá của trại trẻ mồ côi này phải xây dựng lại.”
Hy vọng tìm thấy con gái vừa chợt loé lên trong trái
tim Ahmet, phút chốc bỗng lại trở nên mong manh, lại
phải chờ đợi thêm một lần nữa. Nhận thấy tâm trạng hụt
hẫng của Ahmet, Murat chạm vào vai anh để an ủi, và
khuyến khích anh đừng mất đi hy vọng. Murat nói:
như thể sự kiên trì đã ăn sâu vào trái tim luôn mòn mỏi vì
chờ đợi, và tràn đầy khát vọng của anh. Với niềm háo hức
sẽ được gặp con gái, đêm dài dường như trở nên vô tận
với anh. Anh xoay người trên giường một lúc lâu, và nhận
ra rằng anh không tài nào ngủ được. Màn đêm đen kịt.
Những ngôi sao trên bầu trời dường như đủ gần để chạm
vào nếu anh đưa tay ra ngoài cửa sổ. Anh đốt một trong
những điếu thuốc Selim mang đến. Bóng dáng của anh
hiện ra trong căn phòng tối bởi ngọn lửa của điếu thuốc,
nó trở nên đỏ rực khi anh cho vào miệng để hút. Những
suy nghĩ trong đầu, niềm khát khao được gặp con gái, và
sự xáo trộn nơi đất khách quê người đang tan dần vào
bóng đêm mịt mù khói thuốc.
Nằm trên giường trong căn phòng tối của mình, anh
chìm đắm trong những suy tư này khi đang hút thuốc. Sau
khi hút xong điếu thuốc, anh cảm thấy buồn ngủ vô cùng.
Thế rồi dần chìm vào trong giấc ngủ.
33
Tối hôm đó, Ahmet ngủ không ngon bởi vì anh thường
giật mình thức dậy để kiểm tra xem mặt trời đã mọc qua
cửa sổ hay chưa. Khi anh tỉnh dậy lần cuối, cái sàn gỗ
trong phòng đang chào đón ánh nắng như một người tình
tận tụy. Anh đứng dậy khỏi giường, lấy tay dụi mắt.
Sau khi mặc quần áo, anh nhanh chóng đi xuống quán
cà phê. Con trai của Hüseyin đang nâng cửa chớp khi anh
đến trước quán. Nhìn thấy Ahmet đang trong tinh thần
phấn chấn, Kadir hỏi:
"Cháu cũng khoẻ ạ. Cha cháu đang ngủ, sáng nay đến
lượt cháu mở cửa tiệm. Nhân tiện, cháu đã đọc xong cuốn
sách chú tặng rồi đó, chú ạ."
“Cháu rất thích ạ. Cuốn tiểu thuyết rất hấp dẫn. Cháu
nhận ra rằng, đọc sách là cách quan trọng nhất để hoàn
thiện bản thân hơn.”
Cảm giác lạc lõng của anh bị cắt ngang bởi tiếng kêu
réo của bếp nấu trà, và tiếng gọi của Kadir:
"Cháu có biết nên đọc một nhà văn hay một cuốn tiểu
thuyết nào không?"
“Cháu không biết nhiều đâu chú ạ. Gần đây cháu mới
đọc sách. Nếu chú có bất cứ cuốn nào hay để giới thiệu,
cháu đều có thể đọc nó.”
“Được rồi, tối nay hãy đến nhé, để chú đưa cho cháu
một cuốn sách khác. Trà đã có chưa?"
"Giờ đến lượt chú rồi đây, nước đã sôi rồi ạ.”
Ahmet kiên nhẫn đếm chuỗi hạt lấy từ trong túi ra, anh
đang đợi Murat đến. Những người khách quen được coi là
ghiền cà phê của quán từ từ bắt đầu kéo đến từng nhóm
như mọi khi. Những người đến quán cà phê này, nói
chuyện về đủ mọi thứ, từ chính trị đến bóng đá, và tuyên
bố rằng tình trạng hỗn loạn sẽ chấm dứt, nếu như những
giải pháp mà họ đề xuất được chính phủ thực hiện. Mặc
dù các ý tưởng được trình bày có khác nhau, nhưng tất cả
đều chỉ có một mục đích duy nhất, đó là mong muốn được
sống trong hòa bình, và hạnh phúc.
Kadir để tách trà vẫn còn nghi ngút khói trên bàn của
Ahmet, và quay lại làm việc, không quên chúc "Ngon
miệng nhé!" trước khi rời đi. Sau khi nhấp một ngụm trà,
Ahmet nhìn chăm chú vào lối đi của quán cà phê. Anh
nhìn thấy cậu bé bán bánh mì tròn ở con đường đối diện.
Anh để ý rằng cậu bé bán bánh mì tròn này chính là người
thiếu niên mà anh đã gặp trên phố vào ngày đầu tiên. Vì
chưa ăn sáng nên anh đã nghĩ đến việc mua hai chiếc bánh
mì tròn. Không lâu sau, cậu bé bán bánh mì tròn bước vào
quán cà phê. Thân hình yếu ớt của cậu lọt thỏm trong
chiếc áo sơ mi trắng không cổ với tay áo xắn lên, và chiếc
quần tây đen đã bạc màu vì nắng. Chàng trai trẻ vừa bước
vào quán cà phê, Ahmet liền gọi:
“Ồ chú rất buồn khi nghe điều này. Chóng khỏe lên
nhé. Vậy cháu đã bị làm sao?"
“Mọi người đang xếp hàng dài đợi hàng tháng trời
trong bệnh viện. Và những người đến lượt cũng không thể
nhận được sự chăm sóc từ các bác sĩ, đến nỗi, thậm chí
không cần nhìn vào mặt người bệnh, bác sỹ cũng nói rằng
anh không bị gì hoặc họ không điều trị đúng cách rồi cho
về.”
khi cậu bé bán bánh mì tròn rời đi, Murat bước vào, kéo
chiếc ghế cạnh Ahmet để ngồi, và chào hỏi:
"Chúng ta đi chứ?"
"Anh phải tìm bằng được con gái anh, càng sớm càng
tốt.”
Với sức nóng của mặt trời đang lên cao, mọi người đã
thức dậy, và một ngày mới lại bắt đầu như thường lệ. Nói
cách khác, một ngày nữa đang dần trôi qua.
"Người mang tin tức đến cho em ít khi sai sót lắm, anh
trai à.”
"Tôi có thể giúp gì cho các anh? Các anh đang tìm
người à?"
"Cảm ơn anh.”
“Những lính canh này luôn rất ranh ma. Họ luôn nghi
ngờ mọi thứ, nếu anh nói “Tôi đến để tìm con tôi” thì đứa
trẻ sẽ trở thành miếng mồi có giá trị để họ đòi hỏi, bắt
chẹt anh. Nhưng nếu anh nói “chúng tôi sẽ giúp đỡ”, thì
họ sẽ rất vui vì có thể giảm bớt tình trạng quá tải. Người
bạn đã đưa địa chỉ cho em biết những điều này, dặn em
phải luôn ghi nhớ.”
"Ừ, anh hiểu rồi. Dù sao thì chúng ta hãy bắt tay vào
việc của chúng ta.”
Họ đi dọc theo một con đường được bao bọc bởi những
chiếc ghế dài ở hai bên dẫn ngay đến tòa nhà chính. Bước
vào qua cánh cửa sắt trắng, giống hệt cái trong tù, đủ để
khiến Ahmet nhìn nó đến hai lần. Họ gặp phải một cô gái
sạch sẽ, tóc vàng, mắt xanh, người đang lau sàn nhà.
“Giờ này hầu như tất cả những đứa trẻ đều được ra
ngoài. Bên trong tòa nhà cũng đang dọn dẹp.”
Nhận thấy tình hình bất lợi, Murat ngắt lời ngay:
"Đúng vậy.”
Viện trưởng đang bận rộn bên chiếc bàn màu nâu của
mình để viết gì đó, với rất nhiều giấy tờ, và các tập tài liệu
lộn xộn. Áo khoác của ông được vắt trên ghế. Ông hỏi
“Cần gì?” mà không nhìn lên - với giọng hơi gắt nhưng
đồng thời cũng ấm áp như giọng một người cha nói với
con mình - vì ông ấy tưởng rằng người đến là nhân viên.
"Ôi trời! Xin chào các anh. Xin lỗi vì thái độ lúc nãy
của tôi. Tôi đã già nua lẩm cẩm rồi. Nào, mời các anh
ngồi đi.”
“Không sao đâu ạ. Chúng tôi đến đây với thiện chí.”
họ đến đây để nhận con nuôi. Bởi vì, ông không có nhiều
dịp để gặp được những người như vậy. Ông không muốn
bỏ lỡ cơ hội. Giống như những người bạn lần đầu gặp lại
sau nhiều năm, Viện trưởng hỏi với Ahmet bằng một
giọng hào hứng và thân mật:
“Tôi uống trà đậm, và nước lọc cho tài xế của tôi.”
Ông gọi điện ngay lập tức, "Thưa quý cô, cho một ly
trà, và một nước lọc tới phòng của tôi.” Ngay sau khi
Viện trưởng ngắt điện thoại, Ahmet bắt đầu trình bày:
“Sự bất ổn kinh tế hiện nay cũng ảnh hưởng đến anh,
phải không? Nợ nước ngoài của Chính phủ đã lên đến con
số khổng lồ rồi. Sự phụ thuộc vào nguồn tài trợ nước
ngoài cứ tăng dần.”
và sau đó cô gái phụ trách căng tin bước vào. Cô mặc một
chiếc váy đen, áo sơ mi trắng, và mái tóc dài đen nhánh
buộc gọn phía sau lưng. Cô đặt ly trà, và soda trên bàn, ở
giữa Ahmet, và Murat, rồi đi ra mà mắt vẫn không rời khỏi
mặt đất. Trong khi họ đang nhấm nháp thức uống, và say
sưa trò chuyện, thì điện thoại của Viện trưởng reo lên.
Sau khi cúp điện thoại, Viện trưởng rưng rưng đôi
mắt. nói với giọng đầy xúc động:
“Tôi cảm thấy rất buồn cho những đứa trẻ ở đây. Chúng
lớn lên mà không có mẹ cha. Cầu xin Thượng Đế lòng lành
35
Chấy rận có thể gây ra dịch bệnh sốt phát ban. Người nhiễm bệnh xuất hiện triệu
chứng đột ngột với sốt cao, đau đầu, rét run, đau mình mấy, và mệt lử. Ban xuất hiện
vào ngày thứ 5 - 6 ở nữa người trên, sau đó lan toàn thân nhưng không xuất hiện ở
mặt, lòng bàn tay, và gan bàn chân. Thể hiện rõ tình trạng nhiễm độc, và bệnh kết thúc
bằng hạ nhiệt nhanh sau 2 tuần sốt. Tỷ lệ tử vong tăng theo tuổi từ 10 - 40%. Có thể
mắc bệnh nhẹ không kèm theo phát ban nhất là ở trẻ em, và người đã được miễn dịch
một phần trước đó. Sốt phát ban vì chấy rận đã từng trở thành dịch bệnh truyền nhiễm
ở châu Âu, và nhiều nơi khác.
để những người tốt như anh thỉnh thoảng lại đến, và nhận
giúp những đứa trẻ nghèo khổ này. Một vài cô bé của chúng
tôi gần đây bị ốm rất nặng. Hiện đang có vài đứa trẻ bị
bệnh lao, và chấy rận trong các ký túc xá của Viện. Mặc dù
chúng tôi đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa nghiêm
ngặt, nhưng chúng tôi cũng không thể cứu được một vài học
sinh của mình. Các bác sĩ sắp đến vì những học sinh đó. Họ
sẽ cứu chữa cho chúng một lần nữa.”
trong một cái khay sắt có bốn ngăn, mỗi ngăn một món.
Thực đơn của ngày hôm đó bao gồm mì ống béo ngậy, súp
đậu lăng, và sốt nho. Có vẻ như bọn trẻ không được cho
ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng. Chúng được tắm một lần
vào mỗi tuần, và sử dụng phòng tắm chung lớn ở hai đầu
hành lang trên mỗi tầng. Phòng tắm chung được ngăn nhỏ
ra bởi những tấm màn bằng nylon. Tất cả mọi người đều
phải tắm vào một khung thời gian theo quy định.
34
Những đứa trẻ đến dùng bữa được ngồi vào bàn dành
riêng cho chúng, nề nếp sinh hoạt như ở trong một doanh
trại quân đội. Bọn trẻ đi thành hàng để lấy chỗ ngồi, và đi
qua trước bàn nơi Viện trưởng, và các nhân viên khác
đang ngồi. Viện trưởng gọi tên từng đứa trẻ một, và giới
thiệu ngắn gọn về những đứa trẻ này với Ahmet. Ông cung
cấp thông tin một cách nhanh chóng, và rõ ràng, như thể
ông đã ghi nhớ tất cả các thông tin trong sổ đăng ký của
bọn trẻ, từ họ tên đến gia cảnh. Trong khi thực hiện phần
giới thiệu này, thỉnh thoảng ông lại nhếch miệng lên, hớp
một ngụm rượu, rồi lại tiếp tục nói. Khi gần như tất cả các
học sinh đã ngồi xuống, và bắt đầu dùng bữa, nhưng trong
số những đứa trẻ này, vẫn không thấy có một học sinh nào
tên là Sevda. Cả nhà ăn dường như chật kín, chỉ còn trống
năm chỗ ngồi. Ahmet bắt đầu ăn trong tâm trạng buồn
chán, và tuyệt vọng. Anh đã nghĩ đến khả năng con gái
mình không có ở đây. Anh liếc nhìn Murat đang ngồi đối
diện với mình, ánh mắt mang hàm ý “Ăn cơm đi, rồi biến
thôi.” Viện trưởng quay sang anh:
"Anh thấy các học sinh của chúng tôi thế nào?"
"Tất cả các nhân viên của chúng tôi, đặc biệt là tôi,
nâng niu những đứa trẻ của chúng tôi một cách tỉ mỉ.”
"Để tôi đưa các anh đi dạo một vòng sau bữa tối nhé.”
Họ đứng dậy khỏi bàn trong nỗi thất vọng, ra khỏi nơi
mà vừa mới đây, khi ngồi xuống, họ còn tràn đầy hy vọng,
và phấn khích tột độ. Những gì Viện trưởng sẽ nói từ bây
giờ không còn quan trọng đối với họ nữa. Nhưng họ vẫn
phải cố gắng để lắng nghe một cách lịch sự.
Trong lúc đi bộ, gió thổi bay mái tóc mỏng trên đầu
Viện trưởng, bụi đường bay vào mặt, họ vẫn bước đi mà
không để ý đến tất cả những điều này. Mặt khác, ở nơi
được gọi là "sân chơi", chẳng có gì ngoài một chiếc cầu
trượt bằng sắt đã rỉ sét, một chiếc bập bênh với hai đầu bị
lún xuống đất, và trở nên đen đúa do va vào lốp xe bên
dưới. Viện trưởng cố gắng giới thiệu những nơi khá khẩm
hơn đôi chút nhằm gây chút ấn tượng về Viện của mình.
Ông ta đang từ từ dẫn mọi người đi về phía mặt tiền của
Viện, hướng ra đường chính. Trong khi đi dạo, Viện
trưởng sốt sắng đưa vấn đề ra với ý muốn được thông qua
ngay lập tức.
Khi đến lối vào của ký túc xá, họ nhận thấy một chiếc
bàn đã được chuẩn bị sẵn cho họ dưới giàn che trong
vườn. Viện trưởng tự tin cài lại cúc áo khoác, và nói:
"Chúng ta ngồi đây uống cà phê nhé", và chỉ tay vào cái
bàn.
khăn, đôi mắt ông ta mở to trên khuôn mặt hồng hào giờ
đã trở nên đỏ ngầu, và ông ta lắp bắp:
"Vậy nên, tôi nghĩ rằng, ông đang thành thật với
những điều mà ông đã nói?”
“Tôi đang nghĩ về những học sinh sắp bị cắt tóc. Tôi
cũng muốn nhìn thấy chúng, và tôi sẽ đưa ra quyết định
của mình với ông sau đó.”
"Tất nhiên rồi, nếu anh muốn, nhưng tôi không nghĩ
rằng anh sẽ thích chúng đâu.”
35
Bất chấp thời tiết nóng ngoài kia, có một luồng gió
lạnh cóng trong tầng hầm. Tiếng chim kêu và tiếng lá xào
xạc bên ngoài không thể vọng tới đây. Thay vào đó là
tiếng khóc và tiếng hét lên quát nạt bọn trẻ. Những âm
thanh vang lên trong không gian nhỏ của tầng hầm.
bị trói vào ghế. Mái tóc dài mượt của cô bé thứ năm bị cắt
nát như lông cừu, và bị giẫm lên. Khi chứng kiến cảnh
tượng đáng thương này, khuôn mặt Ahmet đỏ bừng vì anh
gần như không thể kiềm chế cơn thịnh nộ của mình. Anh
gào lên:
"Các người nghĩ các người đang làm gì vậy? Sao các
người dám đối xử với lũ trẻ như vậy chứ? Viện trưởng,
Thật đáng xấu hổ!"
Khi nghe thấy giọng nói lớn và tức giận phía sau, cả
ba phụ nữ như đóng băng tại chỗ. Người đang cắt tóc cho
bọn trẻ là người dọn dẹp mà họ đã gặp ở lối vào. Hai người
phụ nữ khác đã trói bọn trẻ thật chặt, và đang canh chừng.
Ahmet không còn giữ được nữa bình tĩnh, và chạy đến chỗ
bọn trẻ. Người phụ nữ nắm chặt cây kéo trong những ngón
tay mũm mĩm của cô, dừng lại khi Ahmet đến gần.
mặt của cô bé, anh cảm thấy có một mối dây liên hệ tức
thì. Mái tóc mềm mượt bị cắt nham nhở của cô bé dính
vào khuôn mặt ướt đẫm vì nước mắt. Ahmet lấy tay lau
nước mắt trên mặt cô bé. Anh tức giận đến mức nghiến
răng nghiến lợi. Hai cánh mũi anh nở ra khi anh hít thở,
lưng anh nhanh chóng cúi thấp xuống, và anh nuốt nước
mắt từ đôi mắt đỏ ngầu.
Tay trái ôm lấy chiếc cằm tròn của cô bé, anh ngẩng
đầu lên nhìn bé, và hỏi:
"Akköse ạ.”
Cô bé tám tuổi này, tóc bị cắt xén như một con cừu,
và bị trói vào chiếc ghế như thể bị tra tấn, chính là con gái
của anh. Trước cảnh tượng này, Murat, Viện trưởng, và
các nhân viên đi cùng đã bật khóc. Murat gục đầu vào
tường khóc nức nở.
Viện trưởng mất mặt không dám ngẩng đầu lên khỏi
mặt đất. Bộ mặt thật của Viện mồ côi, và các nhân viên
của nó đã bị phơi bày.
Ahmet ngay lập tức cởi trói cho con gái mình khỏi
chiếc ghế, nắm lấy tay cô bé, và đi về phía Viện trưởng.
Murat đang quỳ tựa vào tường, và lau nước mắt. Ahmet
bảo Viện trưởng cởi trói cho những đứa trẻ khác. Nếu
không, họ sẽ nộp đơn tố cáo hình sự kiện Trại trẻ mồ côi
này. Các nhân viên thực hiện theo lời Ahmet ngay lập tức.
Họ cũng không muốn tiếp tục ở trong môi trường kinh
khủng này nữa.
“Nhưng… thế quái nào vậy! Tôi không hiểu tại sao
anh lại quan tâm đến cô bé này, mặc dù anh biết tình trạng
của con bé. Chúng ta sẽ nói về việc này chi tiết hơn. Bây
giờ hãy để cho nhân viên làm những điều cần thiết đã.”
Sevda cũng cảm thấy người đàn ông vừa ôm bé với tất
cả tình yêu thương này chính là người cha của bé, bé thốt
lên một tiếng nghẹn ngào "Cha” Tám năm trời đầy đau
đớn, khao khát, và chán nản giờ đã thành quá khứ…
Ahmet ra lệnh cho Viện trưởng cởi trói cho những đứa trẻ
còn lại.
36
Sau khi thực hiện các thủ tục cần thiết, Murat, Ahmet,
và con gái của anh rời khỏi Viện mồ côi.
Khi họ trở về căn gác xép nhỏ, và khiêm tốn phía trên
quán cà phê, màn đêm gần buông xuống. Bước vào căn
phòng, Ahmet thấy rằng căn phòng đã thay đổi đến không
thể nhận ra, và nó rất sạch sẽ. Mọi thứ sạch sẽ không tì
vết, từ sàn nhà đến cửa sổ, từ tủ quần áo đến giường ngủ.
Giấy tờ trên bàn cũng đã được thu dọn gọn gàng. Có một
cái chai nhựa cũng như một tờ tiền giấy đặt trên bàn. Ngay
khi con gái anh bước vào, cô bé liền nằm xuống giường
của bố, và ngủ thiếp đi. Ahmet lấy mẩu giấy trên bàn.
Cảm giác của anh giờ như đang ở trên đỉnh cao của
hạnh phúc khi nghĩ đến anh sẽ dùng bữa sáng cùng với
con gái. Đó cũng là lần đầu tiên anh rời khỏi căn gác xép
này với sự mãn nguyện như vậy, kể từ khi tạm trú ở đây.
Sau khi mua bánh mì, pho mát, và ô liu, anh ghé vào quán
cà phê. Hüseyin đã pha trà, và đang lau sàn nhà. Nhìn thấy
Ahmet bước vào qua cánh cửa, anh đặt cây chổi trên tay
xuống, và nở một nụ cười ngọt ngào.
bệnh, chúng ta phải đợi hai đến ba tháng mới đến lượt
mình. Không biết liệu có chờ nổi không.”
"Đừng khách sao như vậy chứ, người anh em, đừng
để ý tới mấy chuyện nhỏ nhặt đó.”
"Tạm biệt.”
an, giờ đây anh đang tràn ngập niềm vui vì đã gặp được
con gái mình.
Dùng vai đẩy nhẹ cửa, và bước vào, anh sững sờ như
hóa đá trước cảnh tượng bên trong. Chiếc bánh mì anh
đang kẹp dưới nách, ấm trà anh đang cầm trên tay, pho
mát, và ô liu… tất cả đều tuột khỏi tay anh. Mắt anh như
muốn bật ra khỏi đầu.
Con gái anh ngã xuống đất ở giữa phòng, và bất tỉnh.
Anh ngay lập tức ôm lấy cô bé vào lòng, và chạy thẳng
đến bệnh viện, vừa chạy vừa la lớn dọc đường. Anh phải
chạy quá lâu đến nỗi anh cảm thấy phổi của mình sưng
lên. Khi đến bệnh viện, anh đau đớn rên rỉ dựa vào bức
tường. “Bác sĩ! Báaaaaac sĩ! ... cứu.” Nhưng có một hàng
dài đang xếp hàng ở lối vào bệnh viện. Trong hàng dài
này, có những người vừa đến, cũng có những người đã
đến đợi từ đầu giờ sáng. Những bà già, không muốn bị
mất chỗ, nhưng cũng không đủ sức để đứng đợi quá lâu,
đành ngả người xuống nghỉ ở chỗ mà họ đã tìm được gần
đó. Mọi người đang từng ngày bỏ qua cơ hội được chữa
trị, xếp hàng chờ đợi hàng giờ đồng hồ, rồi sau đó buộc
phải quay về trong tuyệt vọng.
Câu hỏi đầu tiên mà họ hỏi Ahmet lại thể hiện một sự
đốn mạt vô cùng.
Đối mặt với câu hỏi này, mắt anh đỏ ngầu, hai cánh
mũi nở to, anh hít thở thật sâu, một tay ôm con gái, một
tay túm lấy cổ áo của một bác sĩ, dùng hết sức nâng lên
Bác sĩ tháo kính ra. Sau khi xoa nhanh vết hằn trên
mũi do đeo kính, anh ấy lại đeo vào, và tiếp tục nói:
Lần đầu tiên trong đời, Ahmet cảm thấy kiệt sức, và
bất lực như vậy. Anh gục xuống đất, và bắt đầu rơi nước
mắt như muốn trút hết nỗi niềm đau đớn đến xé tâm can.
Những ánh mắt tò mò của những người xung quanh cũng
không thể ngăn cản anh.
Cuộc hội ngộ của tình phụ tử đã phải chờ đợi trong
tám năm trường, lại chỉ kéo dài trong một đêm.
Cạn hết sức lực vì than khóc, và khi đứng dậy, anh
phải vịn vào cái gì đó xung quanh. Anh bắt đầu cố gắng
đi bộ, bước ra khỏi bệnh viện từ bức tường bên trái.
Anh đã kiệt sức. Anh như già đi hơn mười tuổi sau khi
nghe tin con gái mất, và bộ râu của anh như càng bạc đi
nhiều hơn. Đó là lần đầu tiên anh cảm thấy cuộc sống thật
vô nghĩa. Anh đã mất toàn bộ gia đình mình.
37
Sau khi đưa con gái về nơi an nghỉ, Ahmet nhìn những
người dự tang lễ lần lượt ra về. Hüseyin, và Murat là
những người cuối cùng rời đi cùng anh. Những người đã
chia sẻ niềm vui trong ngày hạnh phúc, nay lại có mặt để
cùng anh chia sẻ nỗi buồn. Họ chạm vào vai anh như để
nói, “Chúng ta về thôi.”
Khi họ nhìn vào mắt anh, họ cảm nhận được ánh mắt
anh lưu lyến, như mong muốn được ở lại bên cạnh ngôi
mộ của con gái mình lâu hơn một chút. Hüseyin, và Murat
đành để anh lại một mình. Anh vuốt đất cho con, khóc, và
cầu nguyện rất lâu...
Anh không chỉ chôn thân xác con gái, mà còn chôn
vùi luôn cả niềm đam mê cuộc sống, niềm vui, và hy vọng
của anh vào lòng đất. Khi về đến nhà, anh lấy lọ thuốc diệt
chuột trên bàn, và ném vào tường. Anh lại bật khóc khi
nhìn thấy mẩu bánh mì đã rơi khỏi tay con gái, nằm lăn
lóc trên sàn nhà, và còn có vết cắn ở trên đó, mà trước đó
anh không nhìn thấy do quá sốc.
Anh ôm lấy cái chăn mà con gái anh đã đắp đêm hôm
trước, ngửi mùi từ cái chăn, và tưởng tượng con gái đang
ở bên anh.
Anh hút thuốc suốt đêm, châm thuốc hết điếu này đến
điếu khác như thể muốn ăn chúng để tự sát.
bị phủ bởi tàn thuốc với những câu chuyện đang viết dở
của mình. Đã đến lúc gom chúng lại thành một cuốn sách.
Anh đang cố gắng xoa dịu nỗi đau mất con bằng cách
tập trung viết lách. Đôi khi anh đặt tên con gái mình cho
một nhân vật anh hùng trong câu chuyện mà anh viết; đôi
khi anh viết những dòng xúc động dành cho con gái mình
trong cuốn nhật ký chỉ dành riêng cho cô.
Sau một vài ngày, anh đã sắp xếp lại được hầu hết
những trang đã mất, và đặt chúng ngay ngắn vào một chiếc
túi.
Lần đầu tiên kể từ sau khi mất con, anh lại muốn ghé
qua quán cà phê, ăn sáng với bánh mì tròn, và uống trà
như thường lệ. Anh trầm ngâm đứng trước gương. Sau cái
chết của con gái, đôi mắt của anh đã chuyển sang màu
đen, và hốc hác. Đôi má của anh bị che đi bởi chùm râu
bạc, cũng đã bị hõm xuống.
Với đôi mắt chỉ nhìn xuống đất, và câu hỏi luôn lởn
vởn trong đầu là từ nay anh nên sống cho ai, và vì điều gì,
Ahmet đi về phía quán cà phê.
Khi bước vào, anh vẫn bắt gặp cảnh tượng như mọi
ngày. Không có gì ngạc nhiên khi mọi người xếp thành
một hàng ghế giống nhau, những tiếng gọi “Cho tôi một
ly trà đậm” hòa cùng với tiếng réo của bếp nấu trà ngay
đối diện lối vào, và ở góc trên bên trái. Những tin tức về
xung đột, chết chóc, và nghèo đói đang xảy ra trên khắp
đất nước vẫn được phát trên chiếc tivi đặt bên trong một
cái khung bằng gỗ gắn trên tường. Thế giới bên ngoài vẫn
tiếp diễn như mọi ngày, không hề hay biết về nỗi đau của
anh.
Vừa bước vào đã thấy chỗ ngồi thường ngày của mình
trống không, anh liền ngồi xuống đó. Hüseyin đã nhìn
thấy anh, liền bước đến ngay bên cạnh để hỏi han xem anh
thế nào:
"Xin chào người anh em, hoan nghênh anh lại đến.”
"Cảm ơn tất cả các anh. Anh có thể cho tôi một ly trà
đậm không?"
"Cảm ơn anh. Chàng trai trẻ của anh đâu rồi? Ngày
hôm nay tôi không gặp nó. Nó đã hỏi mượn tôi một cuốn
sách.”
Ahnet chậm rãi nhấp một ngụm trà, anh nghĩ rằng cậu
bé bán bánh mì tròn có thể ghé qua, nhưng khi nhận ra
rằng cậu ta sẽ không đến, anh liền rời đi.
Anh xuống xe buýt cách nhà tù khá xa. Trên thực tế,
đây là điểm dừng cuối cùng của hành khách.
Khi anh đi về phía nhà tù, nơi đã tạo nên những ngày
tháng đau khổ cho anh trong tám năm. Anh nhìn lại những
bức tường mà anh đã từng nhìn liên tục với đầy ác cảm,
và hận thù. Chúng được xây lên để ngăn cách giữa anh với
tự do, và cuộc sống bên ngoài. Vì hôm đó là ngày thăm
tù, Ahmet thông báo với người bảo vệ rằng anh muốn gặp
Habib, và Nazmi Usta. Anh đợi ở một bên hàng rào giống
như những người khách khác. Anh nhìn thấy Habib đi tới
“Chà chà…, người anh em yêu quý của tôi. Anh khỏe
không? Tôi nhớ anh rất nhiều khi anh không có ở đây.”
“Tôi cũng vậy, người anh em. Nazmi ở đâu, tôi không
nhìn thấy chú ấy.”
"Không, không đâu. Hãy nói cho tôi biết anh đã làm
gì suốt thời gian vừa rồi đi. Có tin gì về con gái anh
không? "
“Đau lòng quá anh ạ. Tôi rất tiếc khi nghe về con bé!
Số phận quá nghiệt ngã! Đừng đánh mất sự kiên cường
của mình, Ahmet ạ, bởi vì chúng tôi đã học được từ anh
cách chống chọi với những khó khăn để tồn tại.”
Ahmet thay đổi chủ đề để làm dịu bớt cảm xúc của
bạn mình:
"Còn anh thì thế nào, thôi, hãy quên câu chuyện đáng
buồn của tôi đi.”
"Thời gian còn lại rất ít, anh đã gần kết thúc án phạt
rồi mà.”
Khi lính canh thông báo rằng thời gian thăm gặp đã
kết thúc, họ nhìn nhau tạm biệt, và rời đi không nói một
lời nào.
38
Ahmet đã gửi truyện ngắn của mình đến hầu hết các
nhà xuất bản ở Istanbul vào ngày hôm đó, nhưng không ai
muốn xuất bản cuốn sách của anh.
Cuối cùng, anh ấy nhìn thấy một Nhà xuất bản nhỏ
trên đường trở về nhà. Anh đi ngang qua nó, nghĩ rằng
Nhà xuất bản này cũng sẽ đóng sầm cánh cửa với anh, và
không nhận lời xuất bản. Nhưng đi quá một quãng, anh
đổi ý, và quay trở lại. Bước vào bên trong, một người đàn
ông lớn tuổi với bộ râu dài, mái tóc bạc trắng, và khuôn
mặt nhiều nếp nhăn như muốn mô tả rằng, ông đã có rất
nhiều trải nghiệm khác nhau về cuộc sống. Ông mỉm cười
chào đón anh. Ahmet cũng nở một nụ cười ấm áp.
"Chào buổi tối, và rất hân hạnh. Tôi có thể giúp gì cho
cậu đây?"
"Cảm ơn bác.”
Ahmet vô cùng cảm kích lòng tốt của ông già này. Có
một sự chân thành sâu sắc trong hành động của ông ấy.
Ông chủ Nhà xuất bản nhìn chằm chằm vào Ahmet với
đôi mắt như đang cười:
"Tôi có thể xem qua những tác phẩm của cháu được
không?"
Ahmet đưa tập giấy trong túi xách của mình cho ông
già. Dễ dàng nhận thấy, ông già này là một chuyên gia
trong lĩnh vực xuất bản. Ông xem qua các tác phẩm của
anh từ đầu đến cuối. Không có gì liên quan đến chính trị.
Chúng cũng là những câu chuyện hấp dẫn với văn chương
điêu luyện. Từ kinh nghiệm của mình, ông biết rằng cuốn
sách này sẽ bán chạy như tôm tươi sau khi được xuất bản.
Ông già nói với Ahmet rằng ông đồng ý xuất bản cuốn
sách của anh. Ahmet cảm thấy vô cùng hạnh phúc, niềm
vui hiện rõ trên khuôn mặt anh. Lần đầu tiên kể từ sau cái
chết của con gái, anh ấy lại cười, dù chỉ là một nụ cười
thoáng qua. Trong lòng anh lại nhớ đến con gái mình, và
nụ cười lại chợt tắt.
tròn rời đi, vui sướng vì đã bán được hai chiếc bánh mì
cuối cùng trong ngày.
Nỗi đau mất con vẫn đau xé tâm can Ahmet từng ngày,
và hình ảnh con gái anh nằm cuộn tròn trên giường đêm
đó không bao giờ tan biến trong trái tim anh. Nhưng dù có
thế nào, anh vẫn phải tiếp tục cố gắng. Bởi vì anh biết
rằng, sự mất mát tàn khốc này là một thử thách mà
Thượng Đế dành cho anh. Anh tin vào số phận, và biết
rằng anh phải nhẫn nại, cho dù có khó khăn đến đâu đi
nữa.
Anh phải trở lại Nhà xuất bản đã nhận xuất bản cuốn
sách của mình. Tất cả mọi công việc chuẩn bị đã được
hoàn tất; ông già quản lý Nhà xuất bản đã nói rằng, Ahmet
nên kiểm tra lại một lần cuối trước khi cuốn sách được in
ấn, và phát hành. Sau khi bản thảo đã được kiểm tra kỹ
lưỡng, Ahmet chấp thuận cho cuốn sách được xuất bản.
Cuốn sách hiện đã được đặt lên kệ trong các nhà sách.
đời mình, anh đang trên con đường để trở thành một nhà
văn mà người đọc sẽ tìm thấy mối tương đồng với họ ở
trong các tác phẩm đó.
Giờ đây, anh đang dành rất nhiều thời gian cho những
cuộc hội thảo do anh tổ chức, để chia sẻ cùng những người
khác, trò chuyện với những người ủng hộ trong khi ký
tặng sách.
39
Các cuộc xung đột vẫn tiếp tục leo thang, bất ổn kinh
tế, và thất nghiệp trong nước đang làm phiền Ahmet. Anh
cảm thấy rất mệt mỏi, và muốn được nghỉ ngơi dù chỉ
trong giây lát. Không chỉ riêng anh mà toàn bộ dân chúng
đều lầm than. Những người dân vô tội bị mắc kẹt giữa hai
phe cánh hữu, và cánh tả, tai họa có thể giáng xuống bất
cứ lúc nào, với bất kỳ ai36.
36
Thập niên 1970 – 1980 ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nhóm cực đoan nổi lên, và chống đối, tàn
sát lẫn nhau. Cánh cực hữu theo xu hướng phát xít bảo thủ, và cánh cực tả - bao gồm
đảng PPK của người Kurd ủng hộ chủ nghĩa Cộng sản.
Anh vẫn không biết phải đặt tên gì cho kiệt tác của
mình dù đã suy nghĩ rất lâu nhưng vẫn chưa tìm được một
cái tựa ăn ý. Câu chuyện trung thực về những quyền tự do
bị mất của mọi người nên xứng đáng có một cái tên phù
hợp, và vì vậy Ahmet đành phải chờ đợi một ý tưởng thích
hợp bất chợt nảy ra.
37Ngày 12/09/1980, Tướng quân đội Thổ Nhĩ Kỳ - Kenan Evren đã chỉ huy quân đội,
và triển khai xe tăng di chuyển trên đường phố thủ đô Ankarra vào lúc nửa đêm, để
thực hiện cuộc đảo chính, sơ tán tòa nhà Quốc hội, và chiếm quyền kiểm soát đất
nước. Đây là cuộc đảo chính đẫm máu nhất trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ.
phố vào khoảng ba giờ sáng. Mọi thứ đã sẵn sàng. Quân
đội chỉ chờ một lệnh để hành động. Và mệnh lệnh đó đã
đến ngay lập tức.
Ahmet không nói nên lời trước tin này, đôi mắt ngái
ngủ của anh trở nên đỏ ngầu. Hüseyin cúi rạp người xuống
sàn, và ôm đầu khóc lớn. Khi nhìn thấy anh ấy như thế,
Ahmet cố tỏ ra bình tĩnh.
Ahmet nghĩ đến cách làm sao để liên lạc với Habib,
và Nazmi Usta, những người bạn này sẽ được trả tự do
trong vài ngày tới.
Một bầu không khí chết chóc, yên lặng ghê sợ đang
bao phủ. Chỉ có xe tăng, và binh lính trên đường phố. Mọi
người buộc phải ở trong nhà chờ đợi mệnh lệnh tiếp theo.
Và ngay khi lệnh giới nghiêm được dỡ bỏ, người dân liền
đổ xô đến các cửa hàng tạp hóa, và các khu chợ để gom
bánh mì, và các nhu yếu phẩm cần thiết. Tất cả các đảng
phái chính trị đều bị đóng cửa.
Sau thông báo về cuộc đảo chính phát trên kênh truyền
hình duy nhất của đất nước, bài quốc ca liên tục được hát
lên. Các tờ báo đều ra các bản tin với những dòng tít lớn
như "Quân đội giành chính quyền", "Lực lượng vũ trang
Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp quản chính quyền trong buổi sáng.”…
Cuộc hỗn loạn từng tàn phá đất nước đã bị dập tắt
trong một ngày, tuy nhiên, giờ đây người dân còn cảm
thấy sợ hãi hơn. Đây không chỉ là chuyện của những con
phố bị phá hủy dưới xích xe tăng. Dân chủ, hy vọng, và
phẩm giá con người cũng bị nghiền nát theo những vết xe
tăng đó. Mọi người nín thở theo dõi những diễn biến tiếp
theo, tương lai nào đang chờ đón họ. Với cuộc đảo chính
này, lịch sử lại sang trang.
xung đột từ trước đến nay. Và anh chưa bao giờ tham gia
vào các cuộc biểu tình. Anh chỉ đi thẳng trên con đường
mà anh tin tưởng, không hề chệch hướng.
Một khoảng thời gian căng thẳng trôi qua. Xe tăng vẫn
trên đường phố, binh lính vẫn đang kiểm soát chặt chẽ các
con đường. Việc kiểm tra danh tính người dân đã được
thực hiện, và các vụ bắt giữ vẫn tiếp tục không ngừng. Các
bức tường của thành phố treo đầy hình ảnh của những
người bị truy nã. Người dân được yêu cầu báo cáo càng
sớm càng tốt khi nhìn thấy những người này trong các khu
vực thiết quân luật. Mọi người cũng dần quen với sự xuất
hiện của những người lính, và xe tăng trên đường phố.
Cuộc sống đã trở lại gần như bình thường. Nhưng một
kỷ nguyên đen tối khác đang bắt đầu, và sẽ mất một thời
gian dài để làm quen với nó. Tất cả các tiếng nói bất đồng
đều bị dập tắt, kiểm duyệt tràn lan. Các nhà tù chứa đầy
các nhà văn, học giả, và nhà báo.
Như thường lệ, Hüseyin chào anh với khuôn mặt tươi
cười, và mời uống trà đậm của anh ấy. Hüseyin có vẻ rất
háo hức. Anh ấy kéo một chiếc ghế đến ngồi cạnh Ahmet.
Thấy vẻ mặt hớn hở của Hüseyin, Ahmet hỏi thăm:
"Cảm ơn anh. Có điều gì làm anh vui như vậy, hãy nói
cho tôi biết đi.”
Hüseyin ghé đến sát bên Ahmet, và trầm giọng nói nhỏ
để người khác không nghe được:
“Ồ, tôi quên khuấy đi mất! Thiết quân luật đã làm tôi
đãng trí mất rồi. Anh ấy sẽ về đâu, về đây hay về nhà? Tôi
không biết nhà của anh ấy mặc dù rất thân nhau.”
"Tôi hiểu rồi. Tôi thực sự vui lắm... Người anh em yêu
quý của tôi sắp ra tù!"
Một mặt, Ahmet vui mừng với tin tốt mà mình vừa
nhận được, mặt khác, anh cảm thấy tồi tệ về tình hình đất
nước. Uống trà xong, anh gọi Hüseyin, và thành toán tiền
trà. Anh ra khỏi quán cà phê, và bắt đầu đi về phía cửa
hàng của Murat. Anh cần một ai đó để trút bầu tâm sự.
Trên đường đi về phía cửa hàng của Murat, khung cảnh
anh thấy ở đâu cũng giống nhau: Những người bị bắt
mang đi, xe tăng, và binh lính...
Khi anh bước vào cửa hàng của Murat, Murat đang
ngồi ở bàn làm việc, và vùi đầu vào những tờ báo. Anh
thậm chí còn không nhận ra rằng Ahmet đã bước vào.
Ahmet bèn nói lớn:
“Xin chào! Chúc một ngày làm việc hiệu quả nhé,
Murat.”
Murat ngẩn người nhìn Ahmet một lúc lâu, như thể
anh vừa bị đánh thức sau một giấc ngủ say, và rồi anh nói
nghiêm túc:
“Anh nói đúng, anh trai. Những thông tin được viết
trên báo không hề dễ chịu chút nào. Rất nhiều người đã
bị bắt.”
"Sẽ còn nhiều vụ bắt giữ nữa, không dừng lại đâu.”
Murat bảo người học việc đang dọn dẹp phía sau mang
đến hai ly trà. Họ chia sẻ những thông tin về tình trạng
khẩn cấp của đất nước. Murat muốn biết quan điểm của
Ahmet về hiện tình này. Anh ấy hỏi những câu hỏi để đánh
giá tình hình:
“Các cuộc đảo chính không bao giờ mang lại dân chủ,
Murat ạ. Nó luôn là vết nhơ cho đất nước. Chúng ta đọc
thấy trên báo chí, Quốc hội đã trở nên vô dụng, Chính phủ
bị lật đổ, và Chính quyền bị tước đoạt quyền lực. Tất cả
những người chỉ trích đều bị bắt giam.”
"Nghe nói các cuộc hành quyết sẽ sớm được bắt đầu,
anh trai ạ.”
"Họ dám làm thật đấy. Đã bắt đầu có những tra tấn
tâm lý lên những người bị bắt trong tù.”
Trong khi hai người đang trò chuyện, người học việc
của Murat mang trà đến. Sau khi nhấp ngụm trà, Ahmet
hỏi với vẻ lo lắng:
“Ừ, mọi người vẫn ngại ra ngoài mà. Không hiểu nổi
những gì đang diễn ra nữa. Những người trong tù thì sống
trong nỗi sợ hãi bị tra tấn, và những người ở bên ngoài
thì sống trong nỗi sợ hãi về việc không biết họ sẽ bị nhốt
vào đâu, và khi nào.”
40
Ahmet trở về nhà sau khi thăm Murat. Các dòng chữ
graffiti trên tường của các tòa nhà đang bị xóa. Những tấm
áp phích đã được dán lên trước đây, đang bị gỡ xuống từng
cái một. Khi về đến nhà, anh để ý thấy một mảnh giấy bạc
được đặt dưới cái gạt tàn trên bàn. Anh cởi áo khoác, và
ném nó lên giường.
“Người anh em, hôm nay binh lính thiết quân luật đột
kích vào quán cà phê, và nói rằng tên của anh nằm trong
số những người bị truy nã. Họ đã cảnh báo với chúng tôi
rằng, họ nhận được tin tức anh đã đến đây thường xuyên,
và chúng tôi cần phải thông báo cho họ ngay nếu anh
quay trở lại. - Hüseyin.”
Tờ giấy tuột khỏi tay, Ahmet đưa hai tay lên ôm đầu,
anh lùa tóc vào giữa các ngón tay, và kéo mạnh nó ra phía
sau. Mắt anh dán chặt vào một điểm trên bàn. Câu hỏi đầu
tiên hiện lên trong đầu anh là "Tại sao lại như vậy?.” Đã
hai năm kể từ khi ra tù, anh đã mất đi đứa con gái thân
yêu, và không tham gia vào bất kỳ sự kiện chính trị nào,
trong lúc phải chịu đựng nỗi đau buồn này. Nhưng một
cái lệnh bắt giữ đã được ban hành với anh. Bây giờ anh
trở thành một trong những người bị săn lùng ở khắp mọi
nơi. Cách duy nhất mà anh có thể nghĩ ra được lúc này là:
bỏ trốn.
Thật không thể tin được, làm thế nào mà những câu
chuyện anh viết lại bị bóp méo theo cách này. Bây giờ,
anh bị coi là phần tử nguy hiểm giống như những kẻ vô
chính phủ chiến đấu trên đường phố. Bất cứ nơi nào sách
của anh xuất hiện, chúng được lệnh đem vứt ra khỏi kệ.
Ngay cả những người cất giữ sách của anh trong nhà họ
cũng sẽ bị bắt.
Sau khi xác định chắc chắn người bên ngoài thực sự
là Murat, anh mở cửa ra. Murat ào vào phòng, vừa thở hổn
hển vừa chạy, lồng ngực phập phồng lên xuống, mồ hôi
từ trán chảy xuống làm ướt cả lông mày, nói bằng một
giọng đứt quãng:
“Anh đã biết được tin này rồi, Murat, bình tĩnh lại đã
nhé. Bây giờ hãy lắng nghe cẩn thận nào.”
"Em không cần hiểu bây giờ. Em hãy cắt tóc cho anh
đi.”
“Anh trai, em không biết cách cắt tóc đâu. Tại sao em
lại phải cắt tóc của anh vậy?”
Ahmet nắm lấy vai của Murat bằng cả hai tay, và nhìn
chằm chằm vào mắt anh ấy:
Murat đi lấy lược và kéo như một người lính vừa nhận
được chỉ thị. Trong khi đó Ahmet ngồi ở giữa phòng, và
cầm chiếc gương trên tay. Murat cố gắng cắt gọn gàng hết
mức có thể, nhưng thỉnh thoảng anh lại cắt thành chỗ dài,
chỗ ngắn. Sau một hồi lâu với những nỗ lực mệt mỏi, mái
tóc của Ahmet đã được cắt ngắn như một đứa trẻ lớp ba.
Ahmet nhìn mình từ trong gương với đôi mắt thảm
thương, và buồn bã.
Sau khi hoàn thành, Murat trở về cửa hàng của mình
để tránh bị nghi ngờ. Khi về gần đến, anh nhìn thấy một
nhóm binh lính đứng trước cửa hàng nên vội vàng rảo
bước nhanh hơn. Cửa tiệm bị lật tung. Bên trong, anh thấy
một viên chỉ huy đang đút ngón tay cái vào thắt lưng, liên
tục ra lệnh, và những tên lính răm rắp thực hiện theo mệnh
lệnh của hắn. Ngay khi Murat bước vào,
"Tôi không biết ông đang nói về điều gì, và tôi đang
chờ lời giải thích tại sao ông lại làm điều này với cửa
hàng của tôi.”
Viên chỉ huy cởi mũ ra, lau trán rồi đội lại mũ lên đầu,
hắn ta đến đủ gần để chạm vào mũi của Murat, và nhìn
chằm chằm vào mắt anh:
"Chúng tôi đang tìm kiếm một người Cộng sản", hắn
ta nói.
"Nhưng tôi lại nghe nói rằng, anh ta là một người bạn
tốt của anh đấy.”
"Đó là lời nói dối! Tôi là một người buôn bán theo
cách của riêng mình, tôi chỉ cố gắng kiếm được bánh mì,
và bơ cho mình một cách hợp pháp thôi.”
Viên chỉ huy ra dấu cho một trong những tên lính đứng
đằng sau lưng hắn ta. Tên lính này cầm cuốn truyện của
Ahmet trên tay, và đưa cho viên chỉ huy. Hắn cầm lấy, giơ
cuốn sách trên tay lên, vỗ bàn:
“Tôi biết tác giả của cuốn sách này. Anh ấy không liên
quan gì đến Chủ nghĩa Cộng sản cả.”
"Tôi chỉ đọc sách. Ý kiến của người khác tôi không
quan tâm.”
"Tôi không biết, tôi đã nói là tôi không biết rồi mà.”
Viên chỉ huy ra lệnh cho binh lính bắt lấy Murat. Bọn
chúng vội vàng đẩy anh lên chiếc xe quân sự, và đưa anh
đi. Sau một thời gian khá dài chờ đợi trong trại tạm giam,
đến khi đã muộn, chúng đưa anh xuống tầng hầm. Những
tên lính đã đánh đập Murat, và đẩy anh vào một căn phòng.
Có một cái bàn, và một cái ghế bên trong. Murat ngồi
trên ghế, nheo mắt lại do bị luồng sáng chói mắt từ ngọn
đèn công suất lớn ngay phía trên chiếu thẳng vào. Anh
không thể nhìn thấy gì. Anh nghe thấy một giọng nói hung
dữ từ bóng tối phía đối diện với mình: "Hắn ta đang ở đâu?"
phía trên làm anh chói mắt, anh không thể quen được. Có
thể thấy rõ rằng, sức nóng như thiêu đốt của ngọn đèn làm
da mặt anh như bị cháy xém. Một giọng nói khác lại vang
lên từ trong bóng tối: "Trói tay nó lại.”
Những tên lính đứng ở hai bên phải, và trái của anh,
trói tay Murat vào ghế từ phía sau bằng một sợi dây cáp
nhựa. Anh giật mình khi nhìn thấy một đôi mắt đỏ ngầu lồi
ra trên khuôn mặt dài, và rộng với đôi má xệ, bất ngờ xuất
hiện dưới ánh sáng. Khói từ điếu thuốc trong miệng hắn
bay quanh đầu, khiến hắn ta trông còn kinh dị hơn. Lòng
bàn tay hắn nắm lấy góc bàn, và hét lên trong giận dữ:
"Nhưng mày đã nói trong cửa hàng của mày rằng mày
biết hắn ta.”
“Tôi chỉ vừa đọc cuốn sách của anh ấy. Mọi người
cũng đọc trước khi thiết quân luật được công bố. Nó có
phải là tội không?"
Cái nóng hầm hập trong căn phòng làm gã thẩm vấn
phải xắn tay áo sơ mi lên, và tiếp tục nói:
Sau khi đứng dậy khỏi bàn, chắp tay sau lưng như một
ông chủ, và đi vài vòng quanh Murat, hắn ta nói với mấy
tên lính "Mang nó sang phòng bên cạnh!”
Trong khi một trong những tên lính nắm lấy cánh tay
của Murat, thì một tên khác bật đèn ở lối đi vào khu vực
được ngăn cách bởi một cánh cửa từ bức tường ngay bên
cạnh bọn họ: ở phía đối diện, qua một ô cửa sổ nhỏ nằm
gần sát sàn nhà, ánh trăng dìu dịu từ bầu trời trong xanh
rọi vào. Ở giữa phòng là một chiếc ghế điện lớn đã gỉ được
gắn cố định trên tường. Bọn chúng bắt Murat ngồi lên ghế,
và trói chặt tay chân anh.
Với ngoại hình phục phịch như một con lợn, gã thẩm
vấn đã sử dụng nút điều khiển từ xa để vận hành thiết bị
dây cáp. Một nụ cười xấu xa hiện lên trên khuôn mặt nham
hiểm của gã. Đôi mắt đỏ ngầu gần như biến mất khi gã
cười, để lộ ra hàm răng vàng ố. Đột nhiên, vẻ mặt gã
chùng xuống, tỏ ra không hài lòng:
“Tao hỏi lần cuối. Người tên Ahmet đang ở đâu? Hãy
nói cho tao biết, nếu không mày sẽ phải nếm mùi ghế điện!"
Khi gã ta nhấn nút trên tay, một tiếng hét lạnh thấu
xương của Murat bao phủ căn phòng.
Nghiến chặt hai hàm răng, gã thẩm vấn rít lên, "Mày sẽ
phải nói, chiếc ghế này đã được sử dụng cho rất nhiều kẻ
như mày.” Tác dụng của miếng bọt biển ướt đặt trên đầu
Murat từ từ giảm đi, và sau đó biến mất. Điều này làm cho
tóc của Murat bị cháy sém. Khi có điện, anh run rẩy bật lên
như muốn nhảy khỏi ghế, mùi khét lẹt bốc ra từ những sợi
tóc cháy làm bọn lính khó chịu. Khi cái ghế không có điện,
đầu Murat gật gù, cằm gục xuống chạm ngực.
Đến tận gần sáng, Murat bị tra tấn suốt đêm theo nhiều
cách khác nhau, nhưng anh vẫn không hé một lời nào. vào
lúc rạng sáng, khi anh chỉ còn thoi thóp, gần như một cái
xác, đám lính quẳng anh lại trước cửa hàng của anh.
Khuôn mặt của Murat biến dạng, và trở nên khó nhận ra,
không còn chút sức lực để đi đến ngôi nhà phía trên cửa
hàng của mình, anh ngã gục xuống sàn trong hành lang.
41
Cửa nhà Murat bỏ ngỏ. Khi vào bên trong, Ahmet nhìn
thấy Murat đang quằn quại trên mặt đất, nhưng anh không
thể nhận ra. Phải mất một lúc lâu, anh kinh hoàng cố gắng
xem xét xem, liệu người đàn ông nằm trên mặt đất kia có
phải là Murat hay không. Một lúc sau, anh mới nhận ra
Murat khi đến gần hơn, và quan sát khuôn mặt của người
nằm trên mặt đất. Những giọt nước mắt chảy dài từ hốc
mắt anh chạm vào cằm, và rơi xuống ngực Murat. Đôi môi
của Murat khô, nứt nẻ, và đầy máu, tóc anh bị cháy sém
khá nhiều.
Ahmet đặt đầu Murat lên đầu gối của mình, nghẹn
ngào nói "Tại sao em phải lại kháng cự đến mức này
chứ?”
Đôi mắt mở to, Murat cố gắng run rẩy nói, lần đầu tiên
anh không thể điều khiển được đôi môi theo ý của mình.
Murat lầu bầu điều gì đó trong hơi thở yếu ớt của mình.
Ahmet cúi xuống, ghé tai lại gần miệng của Murat, và cố
gắng lắng nghe những lời cuối cùng của anh ấy:
sống, và sẵn sàng chết cho những giá trị của chính mình.
Anh không phải luôn nói “sống là để tạo lập một chỗ đứng
đó sao?.” Em đã thực hiện được điều mà một người đã
dạy cho em, để từ đó em học được những giá trị này: Em
đã chống lại bọn họ...”
Ahmet rơi nước mắt khi nghe những lời này từ một
con người giản dị mà vĩ đại đã hy sinh cuộc đời mình vì
anh. Murat cảm thấy hụt hơi, và toàn thân đau nhức khi
cố gắng nói hết những điều muốn nói. Khuôn mặt anh lộ
rõ vẻ đau đớn. Với đôi tay cháy sém vì điện, anh khó khăn
ôm lấy cánh tay của Ahmet, và nói thêm:
Bình minh bắt đầu ló dạng, và ánh đèn vàng của mặt
trời hắt vào qua cửa sổ hành lang, soi rõ khuôn mặt tuấn
tú của Murat. Ahmet kính cẩn đặt đầu Murat xuống, rồi đi
tới cửa hàng. Selim vừa mới tới, và mở cửa hàng. Khi biết
tin, cậu bé không kìm được nước mắt. Lấy địa chỉ nhà của
Selim, Ahmet yêu cầu cậu đóng cửa, và viết thông báo dán
ở mặt tiền của cửa hàng, và nhờ cha cậu lo giúp việc bán
cửa hàng. Selim nói rằng, cha cậu rất yêu quý Murat, và
ông có thể thực hiện những việc này. Ahmet hướng dẫn
Selim đến gặp cảnh sát để làm những thủ tục cần thiết cho
đám tang của Murat, rồi anh quay về nhà mình, và thu dọn
đồ đạc để ra đi.
tìm gặp Habib. Hüseyin hầu như không nhận ra anh khi
anh bước vào quán, rót một ly trà đậm như thường lệ, và
tiến đến gần anh. Anh ấy ngồi xuống chiếc ghế đối diện,
và cố gắng để không gây chú ý. Họ chia bài, và làm ra vẻ
như đang chơi bài. Trong khi giả vờ chơi bài, họ nói
chuyện rất khẽ, chỉ vừa đủ để nghe thấy nhau. Cuộc trò
chuyện này bị chìm trong những âm thanh ồn ào chung
quanh, và gần như không bị người khác nghe thấy. Không
rời mắt khỏi những quân bài, Hüseyin nói:
“Một giờ trước. Anh ấy cũng để lại cho anh một mảnh
giấy ghi lời nhắn.”
"Đúng vậy.”
Anh đứng dậy, và rời khỏi quán cà phê một cách trót
lọt. Lấy tờ giấy trong túi ra, anh đọc:
“Tôi đang đợi anh ở địa chỉ ghi bên dưới. Đừng đi qua
những con đường mà tôi đề cập, bọn lính canh thực hiện
thiết quân luật đang kiểm soát chặt chẽ. Hãy cẩn thận nhé.”
Theo chỉ dẫn, Ahmet đã tìm đến địa chỉ được ghi trên
tờ giấy, đi bộ qua một quãng đường dài, trên những lối
mòn yên tĩnh. Đến nơi vào lúc chặp tối, anh mệt mỏi đến
mức không thể cảm nhận được đôi chân của mình. Địa chỉ
của Habib ở tầng trên cùng của một tòa nhà ba tầng màu
trắng. Dòng chữ rất to "ĐỂ BÁN" viết trên cánh cửa sổ
được dán kín bằng giấy báo của ngôi nhà.
đây.” Giọng nói này là giọng của người bạn thân nhất của
anh, Habib.
“Cuộc sống ở bên ngoài đã làm cho anh trông trẻ hơn
đấy, anh bạn ạ.”
"Ô! Tôi không nghĩ vậy đâu anh ơi. Anh có thể đã nghe
về những chuyện vừa xảy ra với tôi chứ.”
"Tôi có nghe qua. Tôi cũng nhìn thấy tấm ảnh của anh
dán bên cạnh một số người bị truy nã khác trên đường
phố.
Từ lối vào cửa, có một hành lang dài, và hẹp với bốn
căn phòng, hai căn bên phải, và hai căn bên trái. Trái
ngược với những gì mà Ahmet tưởng tượng, đây là một
ngôi nhà được trang bị khá tiện nghi. Họ bước vào một
trong những căn phòng, và ngồi xuống. Ngay khi Ahmet
bước vào phòng, anh cởi mũ lưỡi trai, và áo khoác ra, ngồi
xuống chiếc ghế sofa màu đỏ cạnh cánh cửa ở lối vào căn
phòng. Anh thoáng thấy những bông hoa đã héo tàn trong
chiếc bình, và cái bàn cà phê kê trước cửa sổ, đối diện với
anh. Có hai chiếc sofa ba chỗ ngồi dựa vào các bức tường
bên phải, và bên trái. Habib ngồi lên chiếc ghế bên trái, và
bắt chéo chân:
“Tại sao anh lại che cửa sổ bằng những tờ báo vậy?"
“Người anh em yêu quý của tôi, cảm ơn anh rất nhiều.
Anh vẫn ổn phải không? Nazmi Usta có khỏe không?”
Habib đứng dậy nói: "Để tôi kiểm tra xem, nếu có trà,
chúng ta có thể uống một ly trà đậm, đúng không?”
"May quá, họ đã mua sẵn một ống gas trước khi cuộc
đảo chính xảy ra. Bây giờ thì mọi người đang phải xếp
hàng dài chờ mua.”
Sau khi pha trà, và mang vào phòng, Ahmet hỏi Habib
một câu hỏi mà anh đang thắc mắc:
trống hay không. Khi Hüseyin trả lời là "yên ổn", tôi nghĩ
nó sẽ thích hợp để anh trốn ở đây.”
"Tôi cũng không thể đến thăm Nazmi Usta nữa rồi,
bọn lính đang bám đuôi theo tôi, tôi bị truy nã khắp nơi.
Tôi tự hỏi ông ấy như thế nào rồi?"
"Anh nói đúng. Cần tìm cách nhưng bằng cách nào
đây?”
Cả hai đều chìm vào giấc ngủ sau cuộc trò chuyện dài.
42
Anh sợ rằng đây sẽ là một cuộc đột kích vào nơi ở của
Ahmet. Anh liền chạy theo, thấy chiếc xe dừng lại ở ngay
góc phía sau quán cà phê, đám lính xuống xe đi lên cầu
thang, về phía gác xép. Tên sĩ quan dẫn đầu bụng phệ với
khuôn mặt đỏ phừng phừng, và đôi mắt híp nhỏ, không
phải ai khác mà chính là kẻ đã tra tấn Murat.
Bọn chúng đột nhập vào căn phòng, và lục soát, như
muốn xé nát căn phòng ra.
43
Ahmet trải qua hơn một tháng trời ẩn náu. Nazmi Usta
đã ra tù nhưng Ahmet vẫn chưa thể gặp được ông.
Đêm hôm ấy, Habib đang ngủ trong nhà. Quá chán
nản vì phải tự nhốt mình trong nhà trong suốt nhiều ngày,
Ahmet cầm theo chìa khóa nhà, và đi ra ngoài.
Anh kiểm tra những con đường phía sau, và bắt đầu
bước đi. Anh nhìn đi nhìn lại, và cứ có cảm giác như thể
có ai đó đang theo dõi mình. Khi anh đi xuống một con
đường dốc được thắp sáng bởi những ngọn đèn đường
vàng vọt, anh nhìn thấy bọn lính đi ra từ một trong những
con đường bên cạnh. Anh quay lại, và bắt đầu chạy. Nhận
ra anh, đám lính hét lên: "Đứng lại!.”
Ahmet vừa bước vào phòng vừa thở dốc, khóa cửa lại.
Habib ngái ngủ, và cố gắng để hiểu chuyện gì đang xảy
ra. Ahmet sau một lúc hoàn hồn, nói:
"Anh phải cẩn thận đấy. Đám lính đó như cái bóng
của anh vậy.”
44
Sáng hôm sau, Habib lại ghé qua quán cà phê để nghe
ngóng, và trên đường trở về, anh ấy mua một vài thứ cho
bữa sáng. Anh ấy rất vội vàng khi trở về. Khi Ahmet hỏi
chuyện gì đã xảy ra, anh để những thứ trên tay xuống bàn,
và nói một cách đau khổ:
"Bọn chúng đã đột kích vào căn phòng nơi anh ở trên
quán cà phê, và lật tung nó lên.”
Ahmet còn cảm thấy khó chịu hơn khi những người
xung quanh gặp rắc rối vì anh. Đó là một trong những buổi
tối chán nản nhất của anh, và anh lại đi ra ngoài thêm một
lần nữa. Anh đang bước từng bước qua những con phố tối
tăm, vừa đi vừa quan sát xung quanh. Nếu nghe thấy dù
chỉ là một tiếng lách tách rất nhỏ, anh cũng cố gắng lẩn
trốn ngay lập tức.
Ahmet ngay lập tức lăn mình vào một chỗ trống bên
đường. Cánh tay anh bị thương vì đá cuội văng trúng.
Chiếc xe dừng lại, và đám lính nhảy ra khỏi xe. Lại có 2
tiếng súng vang lên. Khi đám lính lao về phía tiếng súng,
Ahmet nhanh chóng chạy vào một con hẻm hẹp, và tối.
Anh cố gắng suy nghĩ về tiếng súng đã cứu anh hai lần
trong khi anh chạy trốn. Khi anh lao vào nhà, Habib đang
ngồi trên ghế sofa, và hút thuốc. Thấy Ahmet xuất hiện,
anh ấy đứng bật dậy, và vồ vập hỏi:
"Anh có ổn không?"
Sáng hôm sau, vừa mặc quần áo, Habib vừa suy nghĩ
để tìm cách thoát khỏi cuộc ẩn nấp, và rượt đuổi này. Giải
pháp duy nhất hiện ra trong đầu anh là: Bỏ trốn ra nước
ngoài. Nhưng làm sao để trốn? Các sân bay, và đường sắt
nằm dưới sự kiểm soát của quân đội, hơn nữa, đã có lệnh
cấm xuất cảnh đối với Ahmet. Chỉ còn có duy nhất một
lựa chọn: Đi đường biển.
Ngày hôm đó, Habib trở về với một chiếc túi trên tay.
Ahmet lại ra ngoài vì nghĩ rằng đám lính không có xung
quanh đó.
Sau khi chạy qua vài con phố, anh đối mặt với một
đám lính, và bọn chúng tưởng rằng Ahmet là người đang
bắn. “Bỏ súng xuống”, bọn chúng hô lên, và nổ súng. Lăn
vào một chỗ trống giữa hai tòa nhà, khuôn mặt của Ahmet
bị sợi dây điện làm cho bị thương. Có tiếng rên rỉ phát ra
từ một chỗ trống phía sau. Anh quay lại, và nhận thấy có
ai đó đang quằn quại vì đau đớn trên mặt đất. Anh không
thể nhận ra là ai do bóng tối dày đặc. Anh tiến đến gần
người đó hơn:
Trong khi đó, bọn lính đang rọi đèn đi kiểm tra, và sắp
tiến đến gần chỗ hai người. Ahmet lại gần người đàn ông
đang nằm trên mặt đất, và nói: "Cố gắng đừng gây ra tiếng
động, bọn lính đang ở gần đây.”
"Anh có sao không? Trả lời tôi đi, anh đang chảy máu
kìa!"
Một nụ cười xuất hiện trên môi khi Nazmi nói những lời
này. Đây là những lời cuối cùng trước khi ông ấy qua đời.
Không thể chịu đựng nổi nữa khi cứ phải chứng kiến cái
chết của từng người thân yêu, Ahmet hét thật lớn mà không
thèm quan tâm đến việc binh lính có thể bắt được mình.
Nghe thấy tiếng hét lớn, đám lính tìm thấy Ahmet dễ
dàng khi anh vẫn đang cầm tay Nazmi than khóc. Chúng
bắt được anh mà không gặp một chút kháng cự nào.
Lần này, họ đã cắt tóc của Ahmet như thể muốn vo tròn
đầu của anh ấy đến hết mức có thể. Anh bị ném vào cùng
với những người tù chính trị, những người đã lên tiếng nói
đối lập chống lại quân đội.
Cuối cùng, anh đã tìm được tên cho cuốn sách của mình.
Cảnh một người đàn ông nằm trên chiếc giường trong
nhà tù sẽ chính là cảnh kết cho cuốn tiểu thuyết của anh,
và giờ đây anh đang trải qua nó. Nhưng thật trớ trêu thay,
tên của cuốn tiểu thuyết lại tự tìm đến anh ấy.
Anh ấy quyết định rằng điều đầu tiên anh sẽ làm vào
ngày mai là nhờ ai đó đưa bản thảo của anh đến nhà tù để
hoàn thành những chỉnh sửa cuối cùng, và tìm một nhà
xuất bản nào đó chấp nhận xuất bản nó.