You are on page 1of 16

BÀI 2

CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC

TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. KHÁI NIỆM CƯƠNG LĨNH.

Trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp tự phát với
mục tiêu kinh tế sẽ phát triển dần đến đấu tranh giai cấp tự phát với mục tiêu kinh
tế sẽ phát triển đến dần đến đấu tranh tự giác-đấu tranh chính trị, liên quan đén vấn
đề chính quyền. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ
rệt, tổ chức chặt chẽ, tập hợp, huy động đông đảo lực lượng giai cấp và các lực
lượng liên minh nhằm giành và giữ chính quyền. Đó là yêu cầu và điều kiện ra đời
cảu đảng chính trị, đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức cao nhất, chặt
chẽ nhất, kiêm quyết nhất của giai cấp trong đấu tranh chính trị giữa các giai cấp.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, Đảng chính trị phải có cương lĩnh chính trị.

Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, chỉ rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm
vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định của một chính Đảng
hoặc một tổ chức chính trị. Theo V.I. Leenin: “Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn
vắn tắt, rõ rang và chính xác nói lên tát cả nhũng điều mà Dảng muốn đạt được và
vì mục đích gí mà Đảng đấu tranh”.

Theo quan điểm của Đảng ta, cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày
những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách
mạng trong một giai đoạn nhất định.

Cương lĩnh chinh trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng,
là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của
Đảng.

Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh chính trị để tập hợp
và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xậy dựng xã hội mới. Hội
nghị thành lập Đảng(2-1930) đã thông qua Chánh cương vắn tắt, sanwgh lược vắn
tắt, chương trình tóm tắt và điều lệ tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
khởi thảo. Dến tháng 10-1930, ban chấp hành trung ương Đảng đã thông qua Luận
cương cách mạng tư sản dân quyền do đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư của Đảng
soạn thảo , trong đó đã cụ thể hóa them những nội dung cơ bản của của tránh
cương, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt đã được thông qua. Tổng hợp các
văn kiện đó là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, gọi là Cương lĩnh 1930.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là ngọn cờ tập hợp toàn Đảng, toàn dân ta
trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ Quốc, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.

Đến Đại hội VII của Đảng(6-1991), trên cơ sở tổng kết quá trình hơn 60 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1930, phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế và
trong nước, Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội(gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991).

Trải qua 15 năm thục hiện cương lĩnh 1991, toàn đảng toàn dân, toàn quân ta
đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn thử thách , giành đuocẹ thắng lợi to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đát nước đã có sự thay đỏi toàn diện. Đại hội X của
Đảng(4-2006) đã khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh 1991, có điều chỉnh bổ
sung một số điều trong cương lĩnh và đặt yêu cầu phải nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn để dự thảo cương lĩnh chính trị mới phù hợp với tình hình và yêu cầu
thực tiễn của giai đoạn cách mạng mới. Dự thảo Cương lĩnh chính trị mới sẽ được
trình đại hội XI.

II NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH NĂM 1991

Cương lĩnh 1991 đã trình bày các vấn đề: Quá trình cách mạng và những bài
học kinh nghiệm; Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Những thành định hướng
về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh; Hệ thống chính trị và vai trò
lãnh đạo của Đảng.

Sau đây là nhưng nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị năm 1991:

1 Năm bài học lớn của cánh mạng Việt Nam

Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta, trong đó có 5 năm thực
hiện đường lối đổi mới do đại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm chưa thành
công,Đại hội VII của Đảng đã nêu ra 5 bài học lơn của cách mạng nước Việt Nam
trong 60 năm qua:
Một là, lắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là
điều kiện kiêm quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với
nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tao ra sức mạnh to
lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhận dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Lý luận Mac-Lenin và thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định một chân
lý: nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Để phát huy sức mạnh vĩ đại của
nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân;
Đảng đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh
lệnh, xa rời nhân dân là nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của Đảng
cầm quyền và làm cho sự nghiệp cách mạng vị tổn thất.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết quốc tế là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài
của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo
nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dôn tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quôc tế.
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học-công nghệ
và toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bên trong và
bên ngoài có quan hệ và tác động lẫn nhau. Sức mạnh tổng hợp vủa nhiều nguồn
lực, trong đó đoàn kết toàn dân tộc phát huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc… vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển đất
nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và
xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại; là sức mạnh của cách
mạng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của các lực lượng cách
mạng trên thế giới.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh bên trong là yếu tố
quyết định, đồng thời được bổ xung và nhân khi kết hợp được với các nguồn lực
bên ngoài.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhan tố hang đầu bảo đảm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hang đầu bảo đảm thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng nước ta. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
phải xây dựng Đảng vũng mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên
đổi mới phương thức và tổ chức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình
thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra, muốn vậy cần quán triệt
những nội dung cơ bản sau:
1. Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mac-
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Không ngừng làm giầu chí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức
thực tiễn của Đảng.
3. Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
4. Phòng chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự thoái hóa biến chất của cán bộ Đảng viên…

2 Sự quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

a. Hoàn cảnh quốc tế

Cương lĩnh chính trị 1991 đã nhận định, sự quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế có những biến động to lớn và sâu sắc, đó
là:

5. Sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, vừa tao ra thời cơ phát triển nhanh, vùa tao ra những thách
thức đối với nước ta.
6. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa làm vào khủng hoảng trầm trọng, thậm
chí ở một số nước đảng cộng sản còn mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội thay đổi.
Các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc luôn phản kích quyết liệt nhằm xóa bỏ
các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa các chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản đang diễn ra gay gắt.
7. Chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, song bản chất
bóc lột và bất công vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dan với giai cấp tư sản, giữa
các tập đoàn tư bản độc quyền, các trung tâm tư bản, giữa các nước tư bản phát
triển ngày càng tăng.
8. Cuộc đấu tranh của các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát
triển chống ngèo nàn lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân kiêu mới, chống sự can
thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc
đang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức và rất gay go, phức tạp, quyết liết.
9. Nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách vần phải giải quyết, như ô nhiễm, suy
thoái môi trường, tình trạng nghèo đói, bùng nổ dân số…

Đặc điểm nổi bật của thời đại trong giai đoạn hiện này là cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, phức tạp vì hòa bình, độp lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội đang đứng tước nhiều khó khăn, thử thách,
lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

b. Những khó khăn, thuận lợi của nhà nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.

- Nước ta lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một
nước công nhiệp lạc hậu. lực lượng sản thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề. Trong khi đó, các thế lực thù địch trên thế giới luôn tìm mọi thủ đoạn chống
phá cách mạng nước ta.

- Chúng ta có những thuận lợi cơ đó là:

+ Có sự lãnh đạo của một Đảng được rèn luyện trong đấu tranh, dày dạn
kinh nghiệm lãnh đạo; có chính quyền nhân dân và môi trường hòa bình xây dựng.

+ Dân tộc ta anh hung, có ý chí vươn lên mạnh mẽ; nhân dân ta có long
yêu nước nồng nàn, lao động cần cù sáng tạo.

+ Chúng ta đã xây dựng được một cơ sở vật chất

- kĩ thuật ban đầu cho quá trình công nghiệp hóa.

+ Hiện nay , chúng ta có những cơ hội mới do cuộc cách mạng khoa
học-công nghệ mang lại.

+ Công cuộc đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tao thế đi lên.
Cương lĩnh khẳng định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hinh đất
nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí nghị lực, tự cường,
phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng mối
quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội”

3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong cương lĩnh năm
1991.

Trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, việc Đảng ta nêu
lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta có ý nhĩa rất sâu sắc. Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng có 6 đặc trưng chủ yếu sau đây:

Một là, nhân dân lao động làm chủ.


Đây là một đặc trưng cơ bản khác biệt về chất so với chủ nghĩa tư bản và các
chế độ bóc lột, thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại, khát vọng cháy bỏng ngàn
đời của con người.
- Nhân dân làm chủ trên thực tế mọi mặt đời sống xã hội, được đảm bảo bằng
pháp luật, được thực hiện trên cả hai hình thức: làm chủ đại diện và làm chủ trực
tiếp.
- Quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một quá trình phấn đấu,
hoàn thiện từng bước từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả của sự phát triển xã
hội và phát triển con người.
Hai là, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thực hiện công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xóa
tận gốc việc sinh ra giai cấp đối kháng, xóa tận gốc cơ sở kinh tế của chế độ người
bốc lột người. Song chế độ công hữu chỉ có thể được xây dựng và hoàn thiện từng
bước trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại.
Ba là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thấm được tinh thần yêu nước và tiến
bộ, mà nội dung cốt lõi của nó là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Bản sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vững mà lịch sử hàng ngàn
năm của dân tộc đã hun đúc nên. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; ý chí tự tự lực tự
cường; tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn chặt cá nhân với gia đình, làng xã , Tổ
quốc; là tinh thần ham học tập cầu tiến bộ; là lối sống giản dị, khiêm tốn; là lòng
nhân ái, thủy chung, trọng nghĩa tình, đạo lý…
- Giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc luôn đi đôi với tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bốn là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phức, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
Con người phát triển toàn diện là con người phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
Năm là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đõ lẫn nhau
cùng tiến bộ.
Nước ta là quốc gia đa dân tộc. Trên đất nước ta có 54 dân tộc anh em bao
đời chung sức, chung lòng xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam. Trong xã hội mới mà
chúng ta xây dựng các dân tộc anh em, dù đa số hay thiểu số, đều bình đẳng, có sự
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Sáu là, có quan hệ hữu nghị và hớp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do, tôn trọng độc lập tự do của các
dân tộc khác cùng với chũ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đã xác định xã hội
mới mà chúng ta xây dựng có mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất,
vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng bước trong quá
trình xây dựng. Mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý đều phải chú ý cả sáu đặc trưng
trên, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi
ngành, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
4. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh 1991 đã nêu 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 7 phương
hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát
triển của đất nước.
Một là, “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ uyền
dân chủ nhân dân, giữ nghiêm kỹ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.(1)
Phương hướng này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta.
Chỉ có một Nhà nước như vậy nhân dân ta mới có công cụ mạnh mẽ, sắc bén để
thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đầy đủ và đúng đắn, cần đấu tranh phê
phán quan điểm và hành vi quan liêu, xa quần chúng, quan điểm dân chủ phi giai
cấp, dân chủ quá trớn, thiếu kỉ cương…không phù hợp với bản chất chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa là phương thức quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời do sự phát triển mạnh mẽ
của các mạng khoa học – công nghệ, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay phải theo
hướng hiện đại.

Ba là “Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp dến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu ”.

Phương hướng này thể hiện sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn về xây dựng quan niệm
quan hệ sản xuất trên ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối, phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất hiện nay, đảm bảo sự gắn bó hữu cơ ngay trong từng bước
phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; khắc phục quan điểm duy ý
chí, muốn nhanh chóng xác lập ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chế độ
công hữu chiếm ưu thế, trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp. Quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dựa trên những nhân thức
đầy đủ hơn về về những ưu thế và hạn chế của sản xuất hàng hóa; sản xuất hàng
hóa không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản; khắc phục tư tưởng phủ
nhận sản xuất hàng hóa và kinh tế nhiều thành phần; duy trì quá lâu cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, phân phối bình quân .

Chúng ta chủ trương tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong cơ chế
thị trường đẻ chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường, hướng nền kinh tế thị trường phục vụ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác cần tăng cường vai trò của nền kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,
từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đó là kinh tế quốc doanh
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Chỉ có trên cơ sở kinh tế này chúng ta mới thực hiện được mục tiêu xóa áp bức bóc
lột, xóa sự phân hóa xã hội thành các giai cấp đối kháng. Đây là một trong những
vấn đề cơ bản để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, có nhiều hình thức phân phối khác nhau: phân phối theo vốn, phân phối theo
phúc lợi nhưng hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế.

Bốn là, “Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng ,đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại,xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ, tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mĩ ngày
càng cao. Chống tư tưởng văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội chủ nghĩa ”.

Cách mạng tư tưởng – văn hóa là một quy luật của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế phải
đi đôi với xây dựng nền văn hóa mới và mới và con người mới, đảm bảo sự phát
triển bền vững

Năm là”Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình,hợp tác hữu nghị với tất cả các
nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới ”.

Phương hướng này nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động mọi lực
lượng của cộng đồng dân tộc, mọi tiềm năng sáng tạo của người Việt Nam. Mặt
khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ tối đa với sức mạnh bên ngoài
để kết hợp có hiệu quả sưc mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, đảm bảo
phát triển nhanh và bền vững; góp phần đưa nước ta vào sự nghiệp đấu tranh vì
hòa bình và tiến bộ của nhân dân thế giới.

Sáu là “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạnh Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.

Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng nhưng có quan hệ thống nhất với
nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, dể một mặt, tập trung
sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước; mặt khác,có đủ khả năng đập tan mọi
hoạt động phá hoại, làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch, bảo đảm cuộc sống và hạnh phúc cho nhân dân.

Đặt nhiêm vụ xây dựng tổ quốc lên hàng đầu không phải là coi nhẹ nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc,bởi vì làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng
cơ sở vật chất tinh thần, bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần kết hợp
chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiêm vụ an ninh quốc phòng.

Bảy là “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Phương hướng này quán triệt sâu sắc luận điểm Đảng là nhân tố quyết định
toàn bộ sự nghiệp cách mạng; đồng thời cần chỉ rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền
mà V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về
đường lối chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do đó, Đảng phải
thường xuyên tự đỏi mới và chỉnh đốn,nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của mình.

Theo các phương hướng cơ bản nói trên, mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi
kết thúc thời kì quá độ là”… xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội,với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp,
làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.

Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, phải
qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là thông qua đổi mới toàn
diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng
sau.

Để thực hiện tốt các mục tiêu nói trên, trong cương Lĩnh đã nêu những định
hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là phương
hướng cơ bản xây dựng hệ thống chính trị trong đó nêu bật vai trò lãnh đạo của
Đảng.

III. VIỆC THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH 1991 TRONG 15 NĂM QUA
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA CƯƠNG LĨNH 1991
TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X

1. Việc thực hiện cương lĩnh 1991 trong 15 năm qua


Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trong đó có 15 năm thực
hiện Cương lĩnh năm 1991, công cuộc đổi mới nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và
toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sáng tỏ hơn; Hệ thống quan điểm lí luận về công cuộc đổi mới,về xã hội xã
hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên
những nét cơ bản.

1. Sự phát triển một nội dung Cương lĩnh 1991 trong Nghị quyết Đại hội
X

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học khinh nghiệm được rút ra, đại
hội X đã bổ sung một số nội dung của Cương lĩnh 1991 như sau:

a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội


Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng có 8 đặc trưng:
Một là, “ Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng dân chủ văn minh”.

Trong cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng
(1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh”. Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ “Dân chủ”,
thành “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X đã
xác định đó là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Hai là “do nhân dân làm chủ”.

Cương lĩnh 1991 viết: “do nhân dân lao động làm chủ”. Đại hội X đã điều
chỉnh là “do nhân dân làm chủ”. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa trong điều kiện phát
triển kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm
nhiều giai cấp, tầng lớp nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, có lợi hơn
cho việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Ba là, “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể
và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ
sở hữu trong xã hội có sự đan xen phức tạp. Vì vậy nói về quan hệ sản xuất trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh bỏ đoạn nói về “chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”.

Bốn là, “có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.

Năm là, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”.

So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ “bóc lột”.

Xét về bản chất, chế độ ta không phải chế độ bóc lột. Nhưng hiện tượng bóc
lột vẫn còn tồn tại do trình độ sản xuất quy định, và còn có ý nghĩa nhất định trong
việc thúc đẩy kinh tế phát triển.

Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chửa cụm từ “ có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân” thành “phát triển toàn diện” cho chặt chẽ và chính
xác.

Sáu là, “ các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ”, phù hợp hơn với thực tế phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, từng dân
tộc.

Bảy là, “ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản”.

Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tại hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoa VII
(1-1994) Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa”. Các đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này.

Tám là, “ có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới”.

Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.


b) Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Cương lĩnh 1991 đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung thành 8 quá trình
tất yếu phải thực hiện ở nước ta.

Một là, “ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Trong cương lĩnh năm 1991 chúng ta chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nói phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất, nền kinh tế nước ta đã vận hành theo cơ chế thị
trường.

Từ nhận thức rõ hơn, đi tới khẳng định kinh tế thị trường là giai đoạn phát
triển cao nhất của sản xuất hàng hóa, là quy luật phát triển của nhân loại, đến đại
hội IX chúng ta coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh
tế tổng quát trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đại hội X xác định đây là
quá trình tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Hai là, “ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Cong nghiệp hóa là một quá trình tất yếu khách quan của các nước có nền
sản xuất nhỏ, kinh tế kém phát triển. cương lĩnh 1991 nói công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại. Từ đại hội VIII, Đảng ta nói công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa. Đại hội X bổ sung điều này so với Cương lĩnh 1991.

Ba là, “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội”.

Bốn là, “ xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện đại đoàn kết dân
tộc”.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực để
phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội X đã xác định: Đại đoàn kết dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, là đường lối của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất của tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm
điểm tương đồng để đoàn kết dân tộc, quy tụ tất cả những người Việt Nam yêu
nước cả trong và ngoài nước.

Năm là, “ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân”.

Đây là nội dung được bổ sung so với cương lĩnh 1991. Đại hội X chỉ rõ phải
xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Sáu là, “ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.

Đây là nhiệm vụ hết sức cơ bản và quan trọng, vừa thường xuyên, vừa cấp
bách. Đại hội X nhấn mạnh hơn nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vì chúng đang là nguy cơ lớn liên
quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.

Bảy là, “ bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”.

Tám là, “ chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

Đại hội X khẳng định: “ qua tổng kết lý luận- thực tiễn 20 năm đổi mới,
chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng
thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta
cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị,
tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Phân tích và nêu rõ những đặc điểm ( thuận lợi, khó khăn ) của sự quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
2. Phân tích những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam trong
Cương lĩnh 1991?
3. Nêu rõ những vấn đề đã được bổ sung và phát triển của Đại hội X về
chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta?

You might also like