You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ


------o0o------

BÀI TẬP NHÓM


Môn: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ đề 4: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới,
xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc
là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương
do dân cử ra.”

Nhóm thực hiện : Nhóm 2


Lớp : Tư tưởng Hồ Chí Minh (221)_21
Người hướng dẫn : ThS.NCS Nguyễn Thùy Linh

HÀ NỘI – 01/2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2

STT Họ và tên MSV Nội dung


1 Dương Đình Huy 11192365 - Phần 1 cơ sở luận
2 Nguyễn Thị Thu Quỳnh 11194495 điểm
3 Vũ Việt Anh 11190628 - Phần 2 nội dung của
4 Lê Mai Hương 11192270 luận điểm
5 Nguyễn Thanh Thảo 11194813
(Nhóm trưởng)
6 Đào Minh Hiền 11191815 - Phần 3 giá trị/ý nghĩa
7 Nguyễn Tiến Hưng 11192227 của luận điểm
8 Đỗ Bảo Ngọc 11193755
9 Hoàng Hương Giang 11191395 - Phần 4 liên hệ thực
10 Nguyễn Minh Phương 11194239 tiễn Việt Nam hiện nay
Tổng hợp nội dung: Nguyễn Thanh Thảo
MỤC LỤC

I. Cơ sở của luận điểm....................................................................................................2


1.1. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................................2
1.1.1. Kinh nghiệm về nhà nước trong lịch sử Việt Nam.........................................2
1.1.2. Nghiên cứu về các kiểu nhà nước trên thế giới..............................................3
1.2. Cơ sở lý luận........................................................................................................3
1.2.1. Tinh hoa văn hóa nhân loại............................................................................3
1.2.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin..................................................................................5
1.3. Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh..................................................6
2. Nội dung của luận điểm..............................................................................................6
2.1. Khái quát sơ lược về luận điểm............................................................................6
2.2. Tất cả lợi ích, quyền hạn đều vì dân và của dân...................................................8
2.3. Trách nhiệm của dân, công việc của dân............................................................10
2.4. Tất cả Chính quyền, đoàn thể các cấp đều do dân..............................................11
3. Giá trị/ý nghĩa của luận điểm....................................................................................13
3.1. Giá trị lý luận.....................................................................................................13
3.2. Giá trị thực tiễn..................................................................................................18
4. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay........................................................................20
4.1. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong việc củng cố mối
quan hệ nhà nước và nhân dân ở Việt Nam...............................................................20
4.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn đời sống nhân dân hiện
nay ở nước ta............................................................................................................. 24
4.2.1. Thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới...........................................24
4.2.2. “Cuộc chiến” phòng, chống đại dịch COVID-19.........................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................31

1
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra."

I. Cơ sở của luận điểm

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh gắn liền với những nhận thức, tìm kiếm, lựa chọn một hình thức, chế độ nhà
nước thích hợp, thúc đẩy dân tộc Việt Nam phát triển theo đúng quỹ đạo tiến bộ xã hội.
Sau này, việc hình thành nên luận của Hồ Chí Minh về nhà nước “của dân, do dân và
vì dân” đã dựa trên những cơ sở mang cả tính lịch sử và thời đại, mang đậm tính sáng
tạo độc đáo và vận dụng cao.

1.1. Cơ sở thực tiễn

1.1.1. Kinh nghiệm về nhà nước trong lịch sử Việt Nam

Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến, lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ
nước, thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, tự hào và tự tôn dân tộc. Tuy nhiên việc hình
thành nhà nước dưới chế độ phong kiến quyền lực vẫn tập trung vào tay một bộ phận
(vua, quan lại, địa chủ …) do đó vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa các giai cấp, đa số nhân
dân lao động vẫn chịu cảnh bóc lột.

Ngay trên quê hương mình, Hồ Chí Minh đã thấy rõ bộ mặt phản nhân tính của
nhà nước thực dân phong kiến. Đó là hình thức nhà nước xấu xa, tồi tệ nhất mà nhân
loại từng biết đến, nhưng lại là một sản phẩm tất yếu của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế
giới. Toàn bộ bản chất thật sự của nhà nước đó được Hồ Chí Minh bóc trần, lên án gay
gắt trong nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết, trước hết là tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh đặt vấn đề về sự cần thiết phải lật đổ nhà nước thối nát

2
đó, nhưng bằng cách nào, con đường nào, lấy gì để thay thế nó thì Người chưa có sẵn
một câu trả lời.

1.1.2. Nghiên cứu về các kiểu nhà nước trên thế giới

Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ
Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong quá trình khảo cứu, Hồ Chí Minh
chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước hiện thời: Nhà nước dân chủ tư sản mà những đại
diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng
Mười 1917.

Nhà nước dân chủ tư sản dù ở Mỹ hay ở Pháp, mặc dầu đã xác lập được một hệ
thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và nhân đạo, nhưng về thực chất vẫn là công
cụ thống trị của một số người, vì lợi ích của thiểu số; đại bộ phận dân chúng vẫn bị bóc
lột, nô dịch cả ở chính quốc lẫn ở các nước thuộc địa. Vì vậy, mục đích giải phóng và
phát triển của xã hội Việt Nam không thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà nước đó. Đối
lập với nhà nước tư sản là nhà nước Xô Viết còn non trẻ, nhưng đã bộc lộ sức sống và
những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ quần chúng công - nông - binh,
thật sự vì lợi ích của họ. Đây chính là loại hình nhà nước của chế độ xã hội mới mà
cách mạng Việt Nam phải đi theo.

Như vậy, bằng những khảo nghiệm thực tiễn và tư duy chính trị, Hồ Chí Minh đã
quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười, kiểu nhà nước theo học
thuyết Mác - Lênin. Và để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu thế vận động của lịch sử,
Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở chính, đó là tính chất nhân dân và khả năng của nhà
nước trong việc bảo đảm cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thỏa mãn các “nhu cầu
trần thế” của nhân dân và con người. Ở Hồ Chí Minh, việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn
bó chặt chẽ với mục tiêu giải phóng con người và phát triển xã hội.

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Tinh hoa văn hóa nhân loại

3
Hồ Chí Minh sinh trưởng trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, thương
dân và ở một vùng quê có truyền thống yêu nước, cách mạng. Lớn lên trong gia đình trí
thức Nho học, thân phụ Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng năm 1901, học vị
cao nhất trong khoa cử triều Nguyễn. Khi 5 tuổi, Nguyễn Tất Thành đã học chữ Hán và
bắt đầu tiếp thụ những tư tưởng Nho học, từng bước tiếp cận với những nhà tư tưởng
Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên), Mạnh Tử (372-289 trước Công nguyên), với
sách kinh điển của Nho giáo tức Đạo Nho (Confucianism): Tứ thư, Ngũ kinh. Sau này,
Hồ Chí Minh tiếp thu nhiều điểm tích cực của Nho học, nhất là chuẩn mực hành động
của con người, đức trị và pháp trị, vai trò của người dân. Khi học Quốc ngữ và Pháp
ngữ ở Vinh và nhất là ở Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đã biết đến những
tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp 1789: Liberté, Egalité, Fraternité (Tự do,
Bình đẳng, Bác ái) và những nhà tư tưởng Khai sáng của nước Pháp: Charles Louis
Montesquieu (1689-1755), Voltaire (1694-1778), Jean Jacques Rousseau (1712-1778).
Nguyễn Tất Thành ngưỡng mộ những tư tưởng tiến bộ đó về quyền tự do, quyền sống
của con người, về nền dân chủ trong Nhà nước pháp quyền đồng thời cũng phát hiện
thực trạng xã hội tư bản không như lý tưởng cao đẹp mà cách mạng Pháp, Mỹ đã đề ra.
Trên bước đường đấu tranh, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng
đề cao giá trị nhân văn vì con người của Phật Thích ca mâu ni, đạo Phật (Buddhism),
của Đức Chúa Jesus Christ và Đạo Thiên Chúa (Catholicism), nghiên cứu những tư
tưởng lớn trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (1866-1925), và tư tưởng nhân
văn của nhà tư tưởng lớn của ́n Độ: Mahatma Gandhi (1869-1948). Hồ Chí Minh đặc
biệt chú trọng về đạo đức (Morals).

Kế thừa và phát triển từ tư tưởng Nho giáo

Về quan hệ giữa dân với nước, Nho giáo khẳng định “Dân là gốc nước” (Dân vi
bang bản). Về vai trò của dân trong quan hệ với vua và triều đình phong kiến, Nho giáo
coi “Vua là thuyền, thứ dân là nước, nước có thể chở thuyền, nước chở thuyền nhưng
nước lại đánh đắm thuyền” (Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tải chu,
thủy tắc phúc chu). Nho giáo mới chỉ dừng lại ở quan niệm “dân bản” mà chưa có tư
tưởng về “dân chủ”, chưa hình dung đến một xã hội mà ở đó dân là người làm chủ xã

4
tắc. Tuy nhiên, quan niệm “dân bản” của Nho giáo bên cạnh những hạn chế mang tính
lịch sử cũng chứa đựng những nội dung có giá trị nhất định khi bàn đến dân, nhận thấy
vai trò quan trọng của dân đối với sự yên bình, thịnh trị của đất nước và triều đại. Khi
được du nhập Việt Nam, các triều đại phong kiến nước ta những giai đoạn thịnh trị và
các đại biểu tư tưởng tiến bộ của nó đã “Việt hóa” những nội dung ấy, xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn đất nước và kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc. Đến Hồ Chí Minh -
xuất thân từ gia đình nhà Nho và sớm được tiếp cận với những tư tưởng Nho giáo, với
tư duy độc lập, biện chứng, sáng tạo, những quan niệm về dân, vai trò của quần chúng
nhân dân đã được “cách mạng hóa”. Do đó, “dân chủ” trong tư tưởng của Người vừa
có sự kế thừa trên tinh thần phê phán những giá trị trong lịch sử tư tưởng nhân loại và
dân tộc, song đồng thời cũng cho thấy một sự khác biệt căn bản về chất.

Chủ nghĩa Tam Dân - Tôn Trung Sơn

Trong toàn bộ tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển nhiều nội
dung tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Người chủ trương xây dựng một nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà có độc lập, tự do, hạnh phúc. Mong ước duy nhất của Người là đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, cũng được học hành, ai cũng được hạnh phúc. Người
mong mỏi độc lập cho nhân dân, tự do cho đồng bào. Người khẳng định nếu dân tộc
chịu mãi kiếp ngựa trâu thì quyền lợi của bộ phận, giai cấp ngàn năm cũng không đòi
lại được. Có tự do cho dân tộc thì mới có tự do cho mỗi người. Dân tộc độc lập, dân
quyền tự do. dân sinh hạnh phúc là niềm mong mỏi khôn nguôi của Người. Tư tưởng
của Tôn Trung Sơn in đậm dấu ấn trong tư tưởng của Người. Nhưng Người không sao
chép, không phỏng theo Chủ nghĩa Tam dân mà thận trọng lọc ra, bảo tồn và phát triển
hạt nhân dân chủ cách mạng trong cương lĩnh chính trị và ruộng đất của Tôn Trung
Sơn nhào nặn với thực tiễn Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng Chủ nghĩa Mác- Lênin,
hình thành tư tưởng của Người mang bản chất dân tộc, phản ánh quy luật phát triển của
lịch sử.

Tư tưởng của Tôn Trung Sơn, cho đến hôm nay, vẫn có giá trị đối với công cuộc
đổi mới ở nước ta. Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công

5
bằng, văn minh cũng chính là thực hiện mong ước của những nhà cách mạng tiền bối
của chủ nghĩa xã hội. Dân tộc, dân quyền, dân sinh vẫn là những vấn đề không bao giờ
cũ.

Như vậy, Người đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn
của văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây như Pháp,
Mỹ, Anh; những giá trị tư tưởng của Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia, thuận theo tự
nhiên của Lão gia, từ bi bác ái của nhà Phật đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ
Chí Minh về một nhà nước vì con người, một nhà nước của dân, do dân và vì dân.

1.2.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của sự hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. "Không có chủ nghĩa Mác- Lênin thì cũng
không có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và giải quyết được những
nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam". Đặc biệt là những tư tưởng quan điểm của
chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề dân chủ là cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng và phát triển nền dân chủ ở nước ta “Chính quyền của nhân dân, do nhân
dân làm chủ”. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin: Dân chủ là quyền lực của nhân
dân, là khát vọng của con người là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển của cá
nhân và cộng đồng xã hội, là một phạm trù lịch sử, một phạm trù chính trị”. Thấm
nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ ở nước ta. Người chỉ rõ, địa vị của
nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất,
chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.

1.3. Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là hiện thân của trí tuệ, phẩm chất đạo đức và truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người lịch thiệp, có lối sống và phong
cách giản dị, giàu lòng nhân ái, lại rất thông minh, sắc sảo, nhạy bén về chính trị, rất
ham học hỏi, có tư duy độc lập, sáng tạo, có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng, tiếp

6
xúc với nhiều nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Đối với Người, sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân
là mục đích duy nhất trong mọi suy nghĩ cũng như hành động của Người. Từ những
suy nghĩ đó mà trong mọi hành động cũng như việc làm, Người luôn luôn đặt địa vị và
quyền lợi của nhân dân lên trên hết, trước hết. Người rất gương mẫu và cũng luôn căn
dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên phải kính dân, trọng dân, yêu dân, gần dân, học dân,
tin tưởng vào trí tuệ và lực lượng của dân. Nét đặc biệt trong phong cách chính trị Hồ
Chí Minh là luôn gần gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan tâm đến
mọi tầng lớp nhân dân.

2. Nội dung của luận điểm

2.1. Khái quát sơ lược về luận điểm

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kính yêu của nhân dân ta, người sáng lập, lãnh
đạo và rèn luyện Đảng ta, đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, vì sự nghiệp giải phóng nhân loại bị
áp bức trên thế giới. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định
là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, trong đó tư tưởng về
“dân”, “dân là chủ và dân làm chủ” rất nổi bật, đặc sắc và được coi là “linh hồn” trong
di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cách đây hơn 70 năm, vào ngày 15-10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài
báo “Dân vận” để giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ hơn về vị trí, vai trò,
ý nghĩa của công tác dân vận. Đó cũng là năm mà toàn quân, toàn dân ta, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chính phủ do Người đứng đầu, đã kết thúc thắng lợi quãng đường 4
năm đầu tiên đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh của cuộc kháng chiến trường kỳ chống
thực dân Pháp xâm lược.

“Dân vận” là bài báo được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết dưới bút danh X.Y.Z đăng
trên Báo Sự thật, số 120, ra ngày 15-10-1949. Đây là thời điểm, bối cảnh có những
chuyển biến mới, đòi hỏi công tác tuyên truyền, vận động quần chúng của Đảng cần

7
phải đi vào chiều sâu, thực chất và thiết thực nhằm động viên tối đa sức người, sức của
cho kháng chiến còn rất cam go của dân tộc.

Bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề (chỉ gồm hai từ) cho đến dung lượng (với khoảng
hơn 600 từ), được thể hiện bằng ngôn ngữ rất mộc mạc, súc tích, gần gũi, phù hợp với
quần chúng. Bài báo có nội dung không dài, văn phong giản dị, dễ hiểu, nhưng tầm vóc
tư tưởng mà nó chuyển tải thì lại vô cùng sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng của Người về
“dân”, “dân chủ” và “dân vận khéo”. Chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
bao giờ đưa ra những “định nghĩa” có tính hàn lâm, học thuật cao siêu về các vấn đề
kinh tế  - chính trị - xã hội và văn hóa, nhất là trong bối cảnh nhân dân ta dưới ách áp
bức của chế độ phong kiến, thực dân đa phần còn mù chữ, thì lại càng không thể dùng
lý luận cao siêu để tuyên truyền, vận động và giải thích cho người dân hiểu được chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách của Chính phủ. Vì vậy, Người thường dùng
những từ ngữ rất mộc mạc, giản dị, gần gũi để giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ thực hành.

Tư tưởng quan trọng mở đầu bài báo của Người chính là: Muốn hiểu rõ, hiểu sâu
sắc về dân vận và công tác dân vận thì việc cần làm đầu tiên là phải hiểu cho thật rõ vị
trí, vai trò, ý nghĩa của “dân”, đặc biệt là bản chất của nước ta “là nước dân chủ”. Bác
cũng nói rõ lý do, sở dĩ Người viết bài báo này là vì: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều,
bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho
nên cần phải nhắc lại”.

Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được thể hiện ở nhiều bài viết, bài
nói khác nhau của Người, nhưng thể hiện tập trung, trực diện và điển hình nhất chính là
ở bài báo “Dân vận”. Tư tưởng chủ đạo, “hồn cốt” của bài viết toát lên nội dung chủ
yếu, then chốt về dân vận và công tác dân vận chính là vai trò, vị thế của dân, “dân là
chủ dân làm chủ”.

Người nhấn mạnh, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ và dân làm chủ, nghĩa là
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi lợi ích đều vì dân, mọi công việc đều do
dân. Người khẳng định, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trên thế giới

8
không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Tư tưởng đề cao nhân dân, hết
lòng vì lợi ích nhân dân luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tâm niệm và coi như một
chân lý để hành động trong suốt cuộc đời mình.

Tư tưởng lớn đó được Người thể hiện ngay trong Phần I - NƯỚC TA LÀ NƯỚC
D N CHỦ, bởi những điều được Người diễn giải, biểu đạt ngắn gọn, súc tích đến mức
hiển nhiên:

"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra."

2.2. Tất cả lợi ích, quyền hạn đều vì dân và của dân

Người khái quát và khẳng định, ở nước ta:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”

Xuất phát từ vị trí, vai trò của Nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan
trọng hơn hết”; “Dân là gốc của nước”, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân”, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của Nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vì Nhân dân tận tâm, tận lực phục vụ
là nguyên tắc tối cao, là sự nhất quán trong tư tưởng và hành động của Người. Nhà
nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Nước ta là
nước dân chủ, vì tất cả quyền lực, chính sách… đều vì lợi ích của nhân dân, hướng tới
phục vụ dân; ngoài ra, Đảng và Chính phủ không có bất cứ một lợi ích nào khác. Bác
luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”, “mọi lợi ích
đều vì dân”; nhân dân mới thật sự là người làm chủ tối cao của chế độ mới.

9
Ngay từ năm 1941, trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
(Việt Minh), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự liệu, chủ động “thiết kế” một chế độ dân chủ
cộng hòa cho Nhà nước ta ngay sau khi cách mạng do nhân dân tiến hành thành công.
Chương trình này hướng tới việc thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền lợi và
trách nhiệm của nhân dân đối với vận mệnh của Tổ quốc. Và khi nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa được thành lập, Người đã chủ trương xây dựng và ban hành Hiến pháp
mới để đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực thi quyền lực của nhân dân. Điều này
được thể hiện đặc biệt rõ nét trong Điều thứ nhất của Hiến pháp năm 1946 do chính
Người là Trưởng ban soạn thảo: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả
các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên
quan đến lợi ích cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người
đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được
bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập…
trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ các tập thể, làm chủ
địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ
các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ
Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các
cấp các ngành đều là “đầy tớ” của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Quan điểm
nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng
thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất
phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân.

2.3. Trách nhiệm của dân, công việc của dân

Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân chúng ta đã
đứng lên khởi nghĩa và giành được chính quyền từ tay Thực dân và chế độ phong kiến
nhà Nguyễn. Ngày mùng 02 tháng 9 năm 1945, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập

10
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và kể từ đây, lịch sử nước ta bắt đầu
bước sang một trang mới. Đất nước ta bước vào giai đoạn xây dựng đất nước theo con
đường chủ nghĩa xã hội nhưng trong điều kiện vô cùng khó khăn. Chính quyền nước ta
mới thành lập đang vô cùng non trẻ, nền kinh tế vốn đã bị kiệt quệ từ thời thực dân
xâm chiếm nay lại càng kiệt quệ, bên ngoài thực dân Pháp lại tiến hành tái xâm chiếm
đất nước, dân trí của người dân vô cùng thấp, các hệ lụy của chính sách đồng hóa và
ngu dân của chế độ thực dân càng làm cho xã hội thêm rối ren. Trước tình hình đó, để
có thể thực hiện công cuộc xây dựng đất nước ta theo con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội thành công thì không thể chỉ dựa vào Đảng, vào chính quyền và phải phát huy được
sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh
rằng bất kỳ triều đại nào của Việt Nam nếu biết phát huy sức mạnh của nhân dân thì
triều đại đó có thể giữ nguyên được độc lập chủ quyền của dân tộc cũng như giúp cho
triều đại đó phát triển thịnh vượng, triều đại nào không hợp lòng dân thì sớm muộn sẽ
suy tàn. Xác định được vai trò to lớn của nhân dân ta trong công cuộc dựng nước và
giữ nước, Đảng ta đã có những chính sách và đường lối vô cùng sáng suốt, tận dụng tối
đa nguồn sức mạnh to lớn này vào công cuộc cách mạng ngay từ khi được thành lập.
Khi khi thực dân Pháp nổ súng tấn công vào Hà Nội, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, Bác Hồ đã kêu gọi rằng: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già , người trẻ
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp để
cứu nước” để kêu gọi toàn dân chống thực dân Pháp. Và dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác để rồi “Chín năm làm một Điện
Biên - Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, lại một lần nữa những người dân Việt Nam nhỏ
nhắn, da vàng lại khiến cho cả thế giới phải trầm trồ ngưỡng mộ. Nước ta bước vào
thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc cũng như tiến hành giải phóng dân tộc
ở Miền Nam, miền Bắc là hậu phương lớn chi viện sức người sức của cho miền Nam

11
kháng chiến thống nhất đất nước. Những đô la, những B-52, những phương tiện, cỗ
máy chiến tranh khổng lồ của một siêu cường một lần nữa lại bị thất bại trước sức
mạnh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cho đến nay, câu nói “Công việc đổi mới, xây dựng là của nhân dân” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị ban đầu của nó. Câu nói vừa nhấn mạnh về vị
trí, vai trò của nhân dân cũng như thể hiện được quyền lợi, lợi ích cũng như trách
nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của mỗi người dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng
đất nước. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước không phải được thực hiện bởi một
vài cá nhân hay tổ chức nào mà nó phải được chung sức bởi toàn thể nhân dân Việt
Nam. Đồng thời cũng thể hiện được tính tự cường của dân tộc Việt Nam, số vận của
đất nước Việt Nam phải để chính người dân Việt Nam thực hiện.

Ngày nay, trong cuộc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy có nhiều thuận lợi
nhưng cũng tiềm ẩn vô cùng nhiều nguy cơ thách thức. Do đó việc vận dụng sức mạnh
của nhân dân để thực hiện công cuộc xây dựng đất nước là vô cùng quan trọng, là yếu
tố sống còn đối với các mạng Việt Nam. Do đó phải phát huy tối đa quyền và trách
nhiệm của nhân dân trong xây dựng và phát triển xã hội về mọi mặt từ chính trị, xã hội,
văn hóa, kinh tế đến an ninh quốc phòng.

2.4. Tất cả Chính quyền, đoàn thể các cấp đều do dân

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Chính
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm
chủ…Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình
thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó được thực
thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên
không bao giờ được quên “dân là chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, nhân dân

12
thực sự là ông chủ tối cao của chế độ mới. Người viết: “chính quyền dân chủ có nghĩa
là chính quyền do người dân làm chủ”. Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân,
vì dân là chủ, “nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói”.
“Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”. Nhà nước ta là nhà nước
của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình
thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ nhà nước
không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc.

Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách
mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người yêu cầu tổ chức càng sớm càng tốt cuộc
Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham
gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không phải
là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận
mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhà nước vì dân, tức nhà
nước ta ngoài lợi ích phục vụ dân chúng không có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai
cấp công nhân của Nhà nước ta.

Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là nguyên tắc hiến định về
thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013: “Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6)...
Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013,
cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, như: Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, Luật trưng cầu dân ý, Luật đất đai, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ
luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
Chính quyền địa phương, Luật tiếp cận thông tin, Luật báo chí, Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật, Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm y tế…

3. Giá trị/ý nghĩa của luận điểm

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
coi trọng đến công tác dân vận. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Người đã khẳng

13
định công tác dân vận là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định đến sự thành
bại của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận được hình thành từ tình
thương yêu nhân dân, thương yêu con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân
dân, hết lòng phục vụ nhân dân, đó là hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận
được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người. Tuy tác phẩm
Dân vận chỉ có 573 từ, nhưng hàm chứa nhiều nội dung công việc thiết thực và cấp
bách với những chỉ dẫn quý báu về cách thức tiến hành công tác dân vận; không những
chỉ ra quan niệm về dân vận, mà còn nêu lên những quan điểm chỉ đạo công tác dân
vận, phương thức dân vận và lực lượng làm dân vận rất cụ thể, dễ hiểu, dễ làm. Bài báo
là sự kết tinh được thể hiện một cách toàn diện, hoàn chỉnh, cô đọng, khúc chiết, dễ
hiểu, dễ nhớ tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề căn cốt nhất trong công tác dân
vận của Đảng, như mối quan hệ giữa dân chủ và dân vận; quan điểm, nguyên tắc tiến
hành công tác dân vận; trách nhiệm vận động quần chúng của cả hệ thống chính trị;
phương pháp vận động quần chúng và những phẩm chất cần có đối với cán bộ dân vận.
Đã 70 năm trôi qua, tư tưởng “Dân là chủ và dân làm chủ” của Người vẫn còn nguyên
giá trị về lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3.1. Giá trị lý luận

Ra đi với khát vọng dân chủ ngàn đời của dân tộc Việt Nam, trong hành trình tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt chân đến nhiều nước, tìm hiểu nhiều cuộc cách
mạng, đối chiếu so sánh các chế độ (dân chủ tư sản, chế độ xã hội chủ nghĩa với chế độ
nô lệ thuộc địa) và tìm hiểu nội dung, bản chất của các trào lưu tư tưởng (dân chủ tư
sản, chủ nghĩa Tam Dân, chủ nghĩa Mác-Lênin...).

Người nhận thấy tư tưởng nho giáo, phật giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu,
phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ...nhưng cũng
chứa đựng nhiều yếu tố tích cực đó là lý tưởng về một "thế giới đại đồng", triết lí nhân
sinh: tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo... Hồ Chí Minh lựa chọn những yếu tố
tích cực, phù hợp phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người cho rằng những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học.

14
Đối với tư tưởng dân chủ tư sản, Người nhận thấy đã đạt được một sự tiến bộ lớn
trong lịch sử nhân loại là ủng hộ các quyền tự do của công dân, phê phán quan hệ đẳng
cấp phong kiến và chế độ chuyên chế, tán thành sự bình đẳng của con người bất luận
nguồn gốc xuất thân...và đã thực hiện được cuộc cách mạng tư sản đánh đổ chế độ
phong kiến vươn lên tự do. Tuy nhiên Người cũng sớm nhận ra mặt hạn chế của tư
tưởng dân chủ tư sản. Đằng sau những lời hoa mỹ về "quyền bình đẳng, quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc " của Tuyên ngôn độc lập 1776 là sự bất bình
đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao sự tàn bạo bất công khác, nhất là
đối với người da đen. Người đã vạch trần tính chất giả dối đó bằng một loạt các bài
viết như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Công cuộc khai hóa giết người, Đường Cách
mệnh, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp... Người coi cuộc cách mạng
tư sản Pháp và Mỹ là "những cuộc cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" và chính
quyền vẫn ở trong tay một số ít người. Từ đó, Hồ Chí Minh đi tới kết luận: "Chúng ta
đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi
hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Với chủ nghĩa Mác Lênin, Người nhận thấy rằng đây là chủ nghĩa khoa học nhất,
chân chính nhất và cách mạng nhất. Theo chủ nghĩa Mác Lênin, dân chủ chỉ được thực
hiện đầy đủ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội mà thực chất là sự tham gia ngày
càng rộng rãi và bình đẳng, thiết thực của nhân dân vào công việc quản lý của nhà
nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với công bằng
xã hội, chống áp bức bất công. Nó được thực hiện trong thực tế trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và được thể chế hóa bằng pháp luật cũng như được
pháp luật bảo đảm[9]. Đặc biệt, Cách mạng Tháng 10 Nga (1917) đã mang lại cho
nước Nga một nền dân chủ chân chính, dân chủ thực sự cho toàn thể nhân dân lao
động. Được tận mắt chứng kiến và trải nghiệm trên thực tế, Hồ Chí Minh cho rằng:
"Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do

15
và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam". Hồ Chí
Minh đã tiếp thu triệt để tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác Lênin thông qua lý luận
khoa học của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản và thông qua cả sự trải nghiệm của
bản thân trong những năm sống trên tổ quốc của Cách mạng tháng Mười từ đó Người
đã đưa ra những quan điểm về dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là "dân là
chủ" và "dân làm chủ nhà nước".

Có thể nói, đây là "Tuyên ngôn" về quyền lực chính trị và bản chất của chế độ
chính trị dân chủ nhân dân của nước ta. Đây là quan điểm hết sức quan trọng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Người đã khẳng định bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà
đỉnh cao của nền dân chủ. Sau cách mạng Tháng Tám, với việc thiết lập nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, nhân dân ta đã từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ.
Người phản ánh sự đổi đời ấy trong một phạm trù hết sức chính xác: "làm chủ" và
"người chủ". Thông qua đó, Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh đến tính chủ động của
nhân dân lao động trong việc quyết định vận mệnh của mình. Đồng thời, Người đánh
giá cao vai trò của dân chủ, vai trò của nhân dân, rằng đó là chìa khóa vạn năng để giải
quyết các khó khăn trên con đường phát triển, "khó mười lần không dân cũng chịu khó
trăm lần dân liệu cũng xong".

Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ gắn với lợi ích. Làm chủ là để thực hiện lợi ích
của mình. Người dạy rằng: nước ta là nước dân chủ, mọi công việc đều vì lợi ích của
dân mà làm. Dân chủ tách rời lợi ích là dân chủ hình thức. Nhân dân có nhiều lợi ích:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Dân chủ phải gắn với quyền hạn. Mọi người dân đều
có quyền làm, quyền nói. Không quy định rõ quyền của người dân thì không thể nói gì
đến dân chủ. Có quyền hạn thì người dân mới có điều kiện thực hiện lợi ích của mình.
Về chính trị, dân phải có quyền bầu cử, ứng cử, bãi miễn...Về kinh tế, phải có quyền
"làm chủ tư liệu sản xuất" từ đó có quyền "làm chủ việc quản lý kinh tế", "làm chủ việc
phân phối sản phẩm"...Về văn hóa, phải có quyền được tự do học tập, …

Tuy nhiên, quyền phải đi đôi với nghĩa vụ. Theo Hồ Chí Minh, ngày nay tất cả
mọi người đều phải nhận rõ mình là người chủ nước nhà. Đã có quyền hạn làm chủ thì

16
phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ. Đó là nghĩa vụ xây dựng nước nhà, nghĩa vụ bảo
vệ Tổ quốc và tuân theo pháp luật...Quyền hạn đi đôi với nghĩa vụ thì dân chủ phải đi
đôi với kỷ luật. Sống trong một xã hội dân chủ ai cũng phải tuân theo những quy tắc
chung của xã hội được xây dựng nên một cách dân chủ. Xã hội dân chủ là một xã hội
có trật tự kỷ cương đảm bảo cho mọi người cùng có quyền tự do, dân chủ như nhau.

Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ không chỉ là của dân, vì dân mà còn phải do dân.
Người nói dân chủ là dựa vào lực lượng của quần chúng, đi đường lối của quần chúng,
bởi vì: "quyền hành và lực lượng đề ở nơi dân". Người luôn nhắc nhở cán bộ phải biết
phát huy tính chủ động sáng tạo của quần chúng để giải quyết mọi vấn đề của thực tiễn
cách mạng.

Dưới ánh sáng Chủ nghĩa Mác Lênin, Người tiến thêm một bước triệt để hơn
trong quan điểm dân chủ của mình: gắn dân chủ với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Người cho rằng chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc;
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới. Bởi vì chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh
phúc.

“Dân vận” - Kết tinh dòng chảy tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và công tác vận động quần chúng của Đảng

Tư tưởng trọng dân, luôn đặt nhân dân ở vị trí trung tâm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trước hết khởi nguồn từ lòng yêu nước thương nòi, từ những trải nghiệm của
chính Người trong những năm tháng cần lao vô sản, từ niềm tự hào, kế thừa và phát
triển truyền thống quý báu về tập hợp sức mạnh quần chúng nhân dân được hun đúc
qua suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, kết hợp với sự vận dụng
sáng tạo giá trị lý luận thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác vận động quần
chúng. Một chữ “dân” được Người sử dụng gắn với sự nhấn mạnh “vì dân”, “của dân”,
“do dân cử ra”, “do dân tổ chức nên” hàm chứa giá trị biểu đạt rất phong phú về quốc

17
dân đồng bào, về nòi giống Rồng Tiên, về dân tộc Việt Nam, các giai tầng xã hội, các
thế hệ, các giới, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cộng đồng... Dân chính là tập hợp lực
lượng cách mạng của những người chung lòng yêu nước, cùng gánh vác sứ mệnh xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để tập hợp được sức mạnh to lớn này, Hồ Chí Minh luôn trân trọng đặt nhân dân
vào vị trí của người làm chủ, là người vừa có lợi ích, vừa có trách nhiệm đối với sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đổi mới, xây dựng đất nước. Động lực thúc đẩy phong
trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích,
quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân.

Bởi vậy, công tác dân vận được đặt ở tầm nhiệm vụ chiến lược, phải được mọi
cán bộ chính quyền và đoàn thể tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, mọi địa
bàn, hướng tới mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp, củng cố, khơi lên nguồn sức mạnh toàn
dân bằng các phong trào cách mạng thiết thực để quần chúng nhân dân có được ý thức
làm chủ và có điều kiện làm chủ thực sự. Công tác dân vận chính là mạch nối duy trì
mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân để có đồng thuận thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước.

Từ mối quan hệ khăng khít giữa dân chủ và dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
định nghĩa sáng tỏ về công tác dân vận “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi
một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”,
đồng thời khẳng định: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì
cũng thành công”. Đây chính là cốt lõi tư tưởng đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, chân
thành, triệt để của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là sự nhấn mạnh về tầm quan trọng
chiến lược của công tác dân vận trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đi đôi với mục tiêu thực hành dân chủ, để
bảo đảm sự nghiệp cách mạng không lơi lỏng, không xa rời bản chất “của dân, do dân,
vì dân”, Người cũng đặt nền móng cho việc định hình phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua việc chỉ rõ những việc nên làm, đó là: Trước

18
nhất phải giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng về lợi ích và nhiệm vụ của họ
để họ hăng hái làm cho kỳ được; thứ hai là bất kỳ việc gì cũng phải bàn bạc, hỏi ý kiến
và kinh nghiệm của dân, cùng dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương; thứ ba là động viên và tổ chức toàn dân thi hành, đồng hành theo dõi, giúp đỡ,
đôn đốc, khuyến khích dân; thứ tư, khi thi hành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công
việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Đây chính là nền tảng tư tưởng cho
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Đảng ta quán triệt, vận
dụng, phát triển ngày càng sâu sắc trong quá trình vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Những quan điểm dân chủ của Người vừa sâu sắc, vừa toàn diện liên quan tới
mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội. Những quan điểm này nhất quán, xuyên suốt từ
những năm 1919-1969 và được thể chế hoá thông qua các chính sách trong các hoạt
động lãnh đạo cách mạng của Người. Hồ Chí Minh đã nêu cao tấm gương sáng trong
việc thực hành dân chủ. Khát vọng tìm đường cứu nước đem lại độc lập tự do cho dân
tộc, dân chủ cho nhân dân của Người đã được thực hiện.

3.2. Giá trị thực tiễn

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Nhà nước ta
là nhà nước của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân
dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung
chứ nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích
và bổng lộc.

19
Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách
mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người yêu cầu tổ chức càng sớm càng tốt cuộc
Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham
gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không phải
là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận
mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhà nước do dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội,
qua các đoàn thể, chứ không phải nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động,
ỷ lại, chờ đợi. Nhà nước vì dân, tức nhà nước ta ngoài lợi ích phục vụ dân chúng không
có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta. Người yêu cầu
mọi việc làm của Nhà nước phải thể hiện rõ bản chất đó: “Việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người nhắc nhở chính quyền
các cấp phải tránh cho được các lầm lỗi, khuyết điểm, những thói hư tật xấu, những
chứng bệnh vốn dễ tập nhiễm trong các cơ quan quyền lực nhà nước như: cậy thế, hủ
hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo…

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của nhà
nước từ trung ương đến địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của dân. Mọi cán bộ
nhà nước đều vì dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Một nhà nước vì dân phải đảm bảo cho dân có được cuộc sống
ấm no, hạnh phúc. Người đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng,
Nhà nước đối với nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét,
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Nhà nước vì dân
không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân. Người nhắc nhở, chúng ta phải
yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta; đồng thời phải làm cho nhân dân hiểu rõ:
“Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ
đúng đạo đức công dân”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một nhà
nước pháp quyền có hiệu lực mạnh, được quản lý bằng pháp luật và phải làm cho pháp
luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải

20
luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ mới bảo đảm cho chính quyền trở nên
mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi
quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật,
ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân
được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo
việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa chuyên chính với dân chủ:
“chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai?... Như cái hòm
đựng của cải thì phải có cái khóa. Nhà thì phải có cửa… Dân chủ là của quý báu nhất
của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại… Thế thì dân
chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”

Người luôn xác định, dân chủ là động lực của tiến bộ xã hội, của phát triển. Nền
dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ của tuyệt đại đa số nhân dân,
gắn với công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển và từng chính sách phát
triển. Bác Hồ đã từng nói: lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi
trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ. Làm chủ là quyền thiêng liêng
của nhân dân không ai có thể xâm phạm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là làm sao
cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Phát
huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học
dân và có trách nhiệm với dân”. Theo Bác: “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo
được dân. Có biết làm học trò dân, mới biết làm thầy học dân”.

Trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh của dân là
điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người khẳng định: tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận
và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân
chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính quyền cũng phải
bàn bạc với nhân dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của họ, cùng với họ đặt kế hoạch cho

21
phù hợp với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức họ thi hành. Trong lúc thi
hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích nhân dân; thi hành xong phải
cùng với họ kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước tạo được cơ
sở kinh tế, chính trị, xã hội của nền dân chủ XHCN; quyền lực xã hội của nhân dân
được xác định trong Hiến pháp và pháp luật; nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng
phát triển; ý thức và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân ngày càng được nâng
cao...

4. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay

4.1. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong việc củng cố mối
quan hệ nhà nước và nhân dân ở Việt Nam

Trong gần 35 năm đổi mới, tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục
được vận dụng sáng tạo để củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vấn đề thực hành dân chủ, tăng cường mối quan
hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt
được một số kết quả quan trọng.

Thứ nhất, thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bảo đảm sự gắn bó mật
thiết giữa Nhà nước với nhân dân từng bước được tiến hành một cách đồng bộ, toàn
diện.

Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Theo đó, nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước. Hiến pháp
năm 2013 đã chế định hóa đầy đủ về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, đồng thời chế định thêm một số quyền mới như: Quyền sống (Điều 19); các
22
quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ
hưởng lợi ích từ hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác
định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền
được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục xuất, giao nộp
cho nhà nước khác (Khoản 2, Điều 17). Với tư cách là một bộ phận cấu thành nên bộ
máy quyền lực nhà nước, Quốc hội, đại biểu Quốc hội trở thành cầu nối gắn kết chặt
chẽ mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Do đó, Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị
bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước” (Khoản 1, Điều 79). Bảo đảm sự tham gia
của nhân dân vào công việc quản lý của Nhà nước không chỉ được khẳng định trong
Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong các luật.

Chính phủ với tư cách là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp”, cơ quan hành
chính cao nhất và là cơ quan chấp hành của Quốc hội đã chú trọng đề cao tính dân chủ
và tính pháp quyền trong điều hành, hướng đến xây dựng nền hành chính thống nhất,
thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Trong gần 35 năm đổi
mới, Chính phủ tập trung đổi mới, cải cách thể chế, bộ máy, công chức và tài chính
công theo hướng dân chủ, khoa học, hiện đại, chuyên nghiệp. Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và giai đoạn 2011 - 2020 đã được
tiến hành nhằm xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, văn minh. Theo
đó, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành; đồng thời, Chính phủ
từng bước đổi mới phương thức hoạt động, chuyển từ cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh,
cơ chế xin - cho sang quản lý bằng pháp luật, đề cao trách nhiệm phục vụ nhân dân.

Thứ hai, sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị và quản lý nhà nước
ngày càng gia tăng.

Trên cơ sở triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức vận động nhân dân

23
tham gia tích cực vào việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật; đồng thời, không ngừng
đổi mới phương thức, nội dung giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước. Các luật về tổ chức chính trị - xã hội, như Luật Công đoàn, Luật Thanh
niên, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... đã cụ thể hóa vai trò của các tổ chức chính trị
- xã hội được quy định trong Hiến pháp đối với công việc quản lý nhà nước, giám sát
và phản biện xã hội, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

Thông qua Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11-5-1998, của Chính phủ “Về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày
08-9-1998, của Chính phủ, về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan”, Chính phủ đã bổ sung thêm cơ sở pháp lý để phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đi vào cuộc sống. Như vậy, thông qua các thể chế pháp
luật và các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân ngày càng tích cực,
chủ động tham gia vào công việc của Nhà nước, đóng góp trí tuệ, nhân tài, vật lực để
xây dựng Nhà nước vững mạnh, bảo đảm sự gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với nhân
dân.

Thứ ba, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có sự phát triển
đồng bộ cả về năng lực và phẩm chất, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ năng lực và phẩm chất tham gia vào
bộ máy quản lý nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày
18/6/1997, về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 9 khóa X ban hành Kết luận “Tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”. Gần đây nhất, Hội nghị Trung
ương 7 khóa XII ban hành Nghị quyết “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Luật

24
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức gần đây
đã bổ sung, làm rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức và viên chức trong việc thực
hành công vụ, đưa ra những quy định tăng cường kỷ luật đối với công chức, viên chức,
xóa bỏ quan niệm “hạ cánh an toàn” của cán bộ, công chức về hưu mắc sai lầm, khuyết
điểm trước đó, cán bộ, công chức tham nhũng bị buộc thôi việc; xóa bỏ chế độ “biên
chế suốt đời” với viên chức; công khai kết quả đánh giá cán bộ, công chức tại nơi làm
việc...

Những vấn đề đặt ra:

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta có thể nhận thấy một số vấn đề đặt
ra cần được tiếp tục giải quyết như:

Một là, nhận thức về vai trò, địa vị của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội vẫn còn chưa đầy đủ và toàn diện. Quyền tiếp cận thông tin của nhân dân
được luật hóa; tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực hoạt động cũng như ở một số cơ quan
nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương, vấn đề minh bạch hóa thông tin, nhất là
trong công tác tổ chức cán bộ, thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ, công khai hóa các dự án để
đấu thầu, minh bạch hóa tài sản và thu nhập cá nhân, quản lý tài nguyên, môi trường,
quản lý tài chính công vẫn còn hạn chế. Trách nhiệm giải trình và xử lý sau giải trình
thông qua các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp cho thấy hiệu quả chưa
cao, chưa đồng bộ. Vai trò kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước của Quốc hội, hội
đồng nhân dân các cấp và vai trò phản biện, giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Các phương thức thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp còn hạn chế. Vấn đề “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất
cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân” còn bất cập. Hơn nữa, vấn đề quan tâm đến việc hưởng thụ các thành quả
lao động sáng tạo của nhân dân còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến tình trạng phân hóa
xã hội, lợi ích nhóm gia tăng, nguy cơ nghèo và tái nghèo tiềm ẩn cao.

Hai là, khoảng cách giữa việc ban hành luật pháp và thực hiện luật pháp chưa
được rút ngắn. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

25
Nam vừa qua, độ chênh giữa việc ban hành và thực hiện pháp luật còn có khoảng cách
khá rõ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do người dân chưa
nhận thức rõ được vai trò của từng văn bản quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành
liên quan trực tiếp đến cuộc sống của họ.

Ba là, thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất cập.
Trên thực tế, tình trạng “vừa thiếu dân chủ”, “vừa thiếu kỷ cương” chậm được khắc
phục. Trong hoạt động của cơ quan nhà nước, còn không ít các biểu hiện mất dân chủ
hoặc dân chủ cực đoan; việc thực hành dân chủ ở nhiều nơi, nhiều lúc còn mang tính
hình thức, thực hiện pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Quyền hạn và trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan công quyền chưa được quy định rõ ràng, thực hiện chưa
nghiêm. Còn thiếu các chế tài bảo đảm thực thi dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật.

4.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn đời sống nhân dân
hiện nay ở nước ta

4.2.1. Thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới

Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn
lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng
những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh
thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi
người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Trong nhiệm kỳ qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đồng tâm hiệp lực, quyết
tâm phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, cùng nhau hợp sức xây dựng
xã hội ổn định và phát triển toàn diện, bền vững. Điển hình, thực hiện chủ trương của
Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, phong trào “Cả nước chung sức xây
dựng nông thôn mới” do Chính phủ phát động, đã huy động sức mạnh của nhân dân,

26
góp phần tạo bước chuyển biến tích cực làm thay đổi diện mạo nông thôn, nâng cao
chất lượng cuộc sống nhân dân.

Từ đây, cả nước xuất hiện các phong trào như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh”, “Tổ phụ nữ thu gom, phân loại rác thải”, “Hộ gia đình thi đua chung sức xây
dựng nông thôn mới”, “Tổ nhân dân tự quản”, mô hình “5 không, 3 sạch”, “3 hộ khá
giúp đỡ 1 hộ nghèo”, “Thanh niên khởi nghiệp” … thu hút sự hưởng ứng tham gia
đồng bộ của các tầng lớp nhân dân.

Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, người dân vận động lẫn
nhau, tự nguyện đóng góp hàng chục nghìn tỷ đồng; hiến đất làm đường, làm nhà văn
hóa; làm mới, sửa chữa, nâng cấp kênh mương; xây dựng nhà tình thương, nhà đại
đoàn kết… Hàng trăm nghìn công trình phục vụ dân sinh đã được xây dựng nhằm hoàn
thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, đường giao thông, thủy lợi, điện sản xuất…, góp phần
quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế các địa phương.

Cùng với đó, các chương trình vận động chăm lo giúp đỡ cho người nghèo tiếp
tục nhận được sự quan tâm hưởng ứng của toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải
quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an
ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và
giảm nghèo bền vững; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1 - 1,5%/năm”. Thực
hiện mục tiêu giảm nghèo theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra, Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 100/2015/ QH13 ngày 12/11/2015 phê duyệt chủ trương đầu tư
các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020.

Từ các phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, “Nông dân thi
đua sản xuất, kinh doanh và thi đua làm giàu”, Quỹ Vì người nghèo, Quỹ Đền ơn đáp
nghĩa, Quỹ khuyến học, “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi”, “Giúp nhau
giảm nghèo, làm kinh tế giỏi”; “Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế
giỏi”..., hàng triệu hộ nghèo, các cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên, đoàn viên, công

27
đoàn nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ về vật tư, ngày công, tiêu thụ sản phẩm, tạo việc
làm tại chỗ cho người lao động, giúp người nông dân có cơ hội vươn lên làm giàu trên
quê hương.

Ước đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn khoảng 2,75%, tỷ lệ
nghèo đa chiều giảm mạnh, còn khoảng 5,7%; 96% hộ dân nông thôn được sử dụng
nước sạch, hợp vệ sinh, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 2 - 2,5 lần... Việt Nam
đã hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo trước 10 năm và được
cộng đồng quốc tế đánh giá là hình mẫu giảm nghèo hiệu quả. Điều kiện cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội của khu vực nông thôn, nhất là khu vực nông thôn miền núi, vùng đồng
bào dân tộc đã có sự thay đổi rõ rệt; đời sống của người nghèo được cải thiện cả về vật
chất và tinh thần.

4.2.2. “Cuộc chiến” phòng, chống đại dịch COVID-19

Thứ nhất là bài học lấy dân làm gốc. Là người am hiểu văn hóa – lịch sử nước
nhà nói chung và văn hóa - chính trị phương Đông nói riêng, Hồ Chí Minh nhận thức
sâu sắc rằng tư tưởng “Dân là gốc” quyết định mọi thành bại trong lịch sử Việt Nam.
Trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Người đã kế thừa và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản, trong đó có lý luận về việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, đặc biệt là với đặc thù một nước thuộc địa nửa phong kiến Đông Á. Để
giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong điều kiện đặc thù Việt Nam, Hồ Chí
Minh luôn đặt lợi ích dân tộc là trên hết và coi đây là nguyên tắc tối cao trong quá trình
lãnh đạo cách mạng. Tháng 5 - 1941, tại Hội nghị Trung ương Tám, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được”. Theo đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, là nhiệm
vụ quan trọng nhất của toàn Đảng, toàn dân. Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

28
giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” bởi lẽ đây là nguyện vọng
lớn nhất, xuyên suốt nhất của toàn dân tộc và Người hiểu rõ CNXH chỉ có thể được
xây dựng trên nền tảng độc lập tự do của dân tộc.

Có thể nói, đặt vấn đề lợi ích dân tộc lên trên hết không chỉ là một sáng tạo lý
luận của Hồ Chí Minh trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện đặc thù
Việt Nam. Đây còn là sự phát triển vượt bậc so với truyền thống chính trị Việt Nam bởi
Người đã thực sự biến “dân vi bản” trở thành “dân làm chủ”. Với tầm nhìn xa và trí tuệ
siêu việt, Người nhận thức sâu sắc lợi ích của nhân dân là cao nhất, đồng thời chỉ có
phục vụ lợi ích của nhân dân thì Đảng mới huy động được sức mạnh toàn dân để thực
hiện mục tiêu cách mạng thành công, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Do đó,
Người đã khẳng định: “Có dân là có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát
huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của
Người. Trọn cuộc đời mình, Người luôn kiên định một mục đích: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Đây cũng chính là sự hòa quyện cao nhất lợi ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp mà
toàn Đảng, toàn dân luôn hướng tới.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam là sự thống nhất giữa lợi ích
của Đảng và lợi ích của nhân dân, Đảng đã đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử, lãnh đạo toàn
dân tộc vượt qua mọi thách thức to lớn nhất, giành được những thắng lợi vẻ vang.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) rút ra các bài học lớn trong quá trình Đảng lãnh đạo đất nước, trong đó nhấn
mạnh “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân”. Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta cũng nhấn mạnh bài học “dân
là gốc” và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”.

Trong ứng phó với đại dịch COVID-19, mặc dù là quốc gia đối mặt với đại dịch
từ rất sớm, song Đảng ta cũng sớm xác định ngay từ đầu chủ trương “tất cả vì sức

29
khỏe, tính mạng của nhân dân”. Chính vì vậy, dù lúc đầu phải đối mặt với một số khó
khăn từ cả đối nội và đối ngoại, song thực tiễn đã chứng minh việc sớm minh định mục
tiêu “vì sức khỏe nhân dân” đã đem lại những lợi thế to lớn mang tính quyết định đối
với công cuộc phòng, chống đại dịch ở nước ta.

Trong khi nhiều quốc gia trên thế giới còn đang lúng túng trong việc lựa chọn
chiến lược nào để đối phó với Covid-19 thì với quan điểm “vì dân”, Đảng và Nhà nước
ta đã có những biện pháp mạnh mẽ, toàn diện, trước mắt có thể chịu thiệt hại về kinh
tế, song bằng mọi giá phải bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nhân dân. Trên nền tảng
quan điểm nhân văn đó, chiến dịch phòng chống Covid-19 của Việt Nam đã và đang
tiến hành, các gói an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được nhanh chóng quyết định và triển
khai một cách thiết thực, đặc biệt là khoản trợ cấp 26.000 tỷ hỗ trợ cho người lao động
và sử dụng lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 theo Nghị
quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ thể hiện tính nhân văn “tất cả vì con người”, “tất cả
vì sức khỏe, tính mạng của nhân dân” của Đảng và Nhà nước ta. Cấp ủy, chính quyền,
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội các cấp thực hiện kêu gọi, vận động
lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, khẩu trang, sát khuẩn, ... hỗ trợ người bán vé số,
người dân gặp khó khăn; vận động ủng hộ Quỹ vaccine phòng Covid-19 để mua
vaccine cho các đối tượng chính sách, người nghèo, công nhân lao động, góp phần
kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe, an toàn tính mạng của nhân dân. Bên cạnh đó
xuất hiện các mô hình thể hiện tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”
của dân tộc như: “Cửa hàng 0 đồng”, “Phiên chợ 0 đồng”, “ATM gạo”... hỗ trợ, giúp
đỡ người dân trong hoàn cảnh dịch bệnh. Và dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự
điều hành linh hoạt của Chính phủ và sự nỗ lực vào cuộc của cả hệ thống chính trị, dù
tiềm lực kinh tế còn hạn chế so với các nước trên thế giới, Việt Nam đã chung sức
đồng lòng, đoàn kết, quyết tâm vượt qua khó khăn để chống dịch. Nhờ tinh thần
“không để ai bị bỏ lại phía sau”, “tất cả vì nhân dân” nên những quyết sách của Đảng,
Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 đã nhận được sự đồng lòng,
chung sức của người dân. Đa số, mọi người dân Việt Nam hiện nay nghiêm túc thực

30
hiện việc đeo khẩu trang khi ra khỏi nhà, đến nơi công cộng; giữ khoảng cách, không
tụ tập đông người; thực hiện khai báo y tế; chấp hành tốt quy định giãn cách xã hội...

Việt Nam không phải là quốc gia mạnh nhất thế giới nhưng trong cuộc chiến
chống Covid-19 nhưng Việt Nam có được niềm tin cao nhất của nhân dân. Bởi vì, Việt
Nam luôn đặt sức khỏe của người dân lên trên hết, sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế
trước mắt để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân. Khi thế giới ở nơi này, nơi
khác còn chưa có sự chuẩn bị, còn chần chừ chọn lựa giữa bảo vệ sức khỏe và bài toán
kinh tế, Việt Nam đã sẵn sàng dứt khoát lựa chọn. Nhờ vậy việc thực hiện công tác
phòng, chống dịch bệnh đã đạt được những kết quả thắng lợi bước đầu. Chúng ta đã
bước đầu kiểm soát được tình trạng lây nhiễm trong cộng đồng, chăm sóc và điều trị
tốt, phát hiện sớm và truyền thông hiệu quả, nâng cao tinh thần cảnh giác và sự ủng hộ
mạnh mẽ của người dân.

Để bảo vệ kết quả bước đầu, tiếp tục giữ vững phương châm “lấy dân làm gốc”,
“tất cả vì sức khỏe nhân dân” trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, thời gian tới
Đảng và Nhà nước cần rà soát, nhanh chóng thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP về một số
chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch
Covid-19 đảm bảo minh bạch, kịp thời, hiệu quả; chỉ đạo tăng cường hoạt động của các
Tổ phòng chống Covid-19 cộng đồng phối hợp với các lực lượng chức năng của hệ
thống chính trị ở cơ sở để "đi từng ngõ, gõ từng nhà" vận động, kiểm soát người dân
phòng chống dịch; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin về dịch bệnh để người
dân hiểu đúng, tin tưởng và tham gia tích cực vào công tác phòng chống dịch; triển
khai thực hiện chiến dịch tiêm vaccine theo thứ tự ưu tiên đã được quy định, bảo đảm
kịp thời, an toàn, hiệu quả; nhân rộng các mô hình, phong trào tương thân tương ái để
hỗ trợ, giúp đỡ người dân vượt qua hoàn cảnh khó khăn trong đại dịch...

Kế thừa, giữ vững và phát huy bài học “lấy dân làm gốc”, Đảng và Nhà nước ta
đề ra những chủ trương, quyết sách chống dịch một cách rất nhân văn “tất cả vì sức
khỏe nhân dân” đã nhận được sự đồng thuận, đoàn kết, tin tưởng, ủng hộ của toàn dân.
Chúng ta có quyền vững tin rằng Việt Nam sẽ chiến thắng đại dịch Covid-19; hoàn

31
thành đúng như lời dạy của Bác Hồ “Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên
nền nhân dân”.

Thứ hai là huy động sức mạnh toàn dân. Ngay từ những năm tháng bôn ba
năm châu hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã hình thành tư tưởng về đại đoàn
kết dân tộc, coi trọng sức mạnh nhân dân. 10 số đầu của báo Thanh niên chỉ tập trung
nói về ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết. “Cách mệnh là một công việc to.
Muốn thành đạt, người cách mạng phải đoàn kết lại” (Báo Thanh niên số 1). Năm
1941, sau khi về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh lập Mặt
trận Việt Minh, nêu khẩu hiệu đoàn kết toàn dân, hầu như không bỏ sót một lực lượng
yêu nước nào. Đây chính là điểm mấu chốt tạo nên sức mạnh vĩ đại để Đảng ta lãnh
đạo toàn dân tộc làm nên Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất.

Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn “Để giành lấy thắng lợi trọn vẹn
trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục
toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”. Khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự
tổng kết súc tích về tư tưởng đại đoàn kết của Người, một chân lý làm nên mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.

Trong đại dịch COVID-19, với mục tiêu “vì nhân dân”, Đảng ta đã nhận được sự
ủng hộ tuyệt đối của toàn dân, của đồng bào ở xa Tổ quốc. Sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 thể hiện ở sự đồng tâm nhất trí từ trên
xuống dưới, ở sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, ở sự tận tâm tận lực của các lực
lượng tham gia chống dịch, ở sự ủng hộ của nhân dân trước các biện pháp của Chính
phủ, ở sự ủng hộ tài lực, vật lực của các tầng lớp nhân dân, từ cụ già, cháu bé đến các
tập đoàn hàng đầu quốc gia. Chính vì vậy, mặc dù Việt Nam chưa phải là nước phát
triển, tiềm lực vừa phải, nhưng đã có được “lực lượng vĩ đại” để chiến thắng đại dịch.

Thứ ba là nêu cao tinh thần vì con người. Cơ sở của sức mạnh nhân văn truyền
thống của dân tộc Việt Nam là các giá trị văn hóa và lịch sử Việt Nam, có thể cô đọng
lại là truyền thống yêu hòa bình, kiên cường bất khuất nhưng hòa hiếu, nêu cao độc

32
lập, tự do nhưng sẵn sàng kết giao, vì nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các giá trị
đó được hệ thống, bổ sung và củng cố dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đặc
biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp cận chủ nghĩa nhân văn mác-xít, Bác Hồ đã vận
dụng sáng tạo và phát triển khoa học các giá trị nhân văn Việt Nam, từ đó hình thành
nên tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Người nói “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau
có tình có nghĩa…. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp
hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà.
Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao
nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin
được”.

Trên cơ sở các giá trị nhân văn truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại
và dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh hướng
tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và luôn gắn liền với
mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là
cơ sở mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập dân tộc là điều kiện, cơ sở để
giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột. Độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập mới bền vững, hạnh phúc của nhân dân mới
được thực sự, người lao động mới hoàn toàn được giải phóng. Người nói “Chúng ta
tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Suy rộng ra, còn có nghĩa là phải chăm lo mọi mặt cho nhân dân, trong đó có sức khỏe.
Hơn thế nữa, trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Người nhấn
mạnh “quyền được sống”. Xuất phát từ tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, Đảng ta đã nêu cao tinh thần vì con người,
chăm lo cả về sức khỏe, tính mạng và đời sống nhân dân. Sự chăm sóc chữa trị hết lòng
đối với các bệnh nhân dương tính, người Việt cũng như người nước ngoài; những khu
cách ly đảm bảo đủ tiện nghi; những gói cứu trợ quan tâm đến người lao động, thất
nghiệp, yếu thế… là nỗ lực rất lớn của Đảng để “không một ai bị bỏ lại phía sau”.
Chính tinh thần nhân văn trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã tạo cảm

33
hứng cho những nghĩa cử cao đẹp trong toàn xã hội, khiến cho thế giới khâm phục,
ngạc nhiên. CNN, hãng thông tấn hàng đầu của Mỹ và thế giới, nhận xét “việc này
tuyệt vời đến mức khó tin” với sáng kiến ATM gạo của Việt Nam. Những người nước
ngoài ở Việt Nam bày tỏ “Cảm ơn nghĩa cử của các bạn, cảm ơn sự hy sinh, cảm ơn sự
tử tế, cảm ơn lòng nhân từ” và “với sức mạnh của các bạn, chúng tôi không sợ gì nữa”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, tập 7, tr.113.

2. Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê: Đại cương triết học Trung Quốc, t.2, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 2004, tr. 667, 635.

3. GS. Song Thành, Hồ Chí Minh – Nhà Tư tưởng lỗi lạc, Nxb Chính trị - Hành chính,
H.2013, trang 593.

4. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, H, 2014,
tr.34, 42.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tập 4, tr. 161

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232.

7. Nguyễn Trọng Phúc (2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, Tạp chí Tổ chức Nhà nước.

8. Nguyễn Chí Hiếu (2019), Tư tưởng “Dân là chủ và dân làm chủ” qua bài báo “Dân
vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng Sản.

9. Như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật

34
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo, Luật Phòng,
chống tham nhũng…

10. Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg, ngày 2/8/2007, của Thủ tướng Chính phủ, về
“Ban hành quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước”; Chỉ thị số
26/2016/CT-TTg, ngày 5/9/2016, của Thủ tướng Chính phủ về "Tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước”; Quyết định số 1847/QĐ-TTg, ngày
27/12/2018, của Thủ tướng Chính phủ về việc "Phê duyệt Đề án văn hóa công vụ”.

35

You might also like