You are on page 1of 21

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài


- Làm rõ được những khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
- Làm rõ tầm quan trọng của việc giải quyết những khó khăn và lực cản trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Những khó khăn và lực cản đó hiện tại như thế nào, đã giải quyết được hết
chưa. Thực hiện tốt điều này có ý nghĩa gì đối với sự phát triển lĩnh vực của mình lựa
chọn và phát triển đất nước hiện nay.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
- Làm rõ những đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
từ 1975 đến nay.
- Làm rõ những khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
từ 1975 đến nay.
- Đánh giá thực trạng. (ưu điểm , hạn chế)
- Đề xuất một số giải pháp góp phần giải quyết những khó khăn và lực cản vẫn
đang tồn đọng hiện nay.

1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Khái niệm về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1.1. Thời kì quá độ trực tiếp
Theo C. Mác, quá độ chính trị của chủ nghĩa tư bản không phải chỉ là sự thể
hiện ra ở một, hay một số cuộc cách mạng chính trị. Đây là cả một thời kỳ quá độ
chính trị lâu dài và khó khăn, từ chủ nghĩa tư bản phát triển cao trực tiếp lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là một quá trình cách mạng không ngừng thực hiện không chỉ một điểm
quá độ, mà là một giai đoạn quá độ tất yếu. Trong đó, chính trị chuyên chính vô sản là
điều kiện tiên quyết để thực hiện quá độ trong mọi lĩnh vực khác của xã hội.
Theo V. I. Lênin, từ xã hội phong kiến lên chủ nghĩa tư bản, ngay trong giai
đoạn quá độ đã hình thành cả lực lượng sản xuất lẫn những tổ chức kinh tế mới và
những hình thức quan hệ tư bản chủ nghĩa. Đến giai đoạn quá độ chính trị (cách mạng
tư sản), mới sinh thành chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa. Nhưng ở thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trước hết sinh thành nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhờ đó mới phát
triển dần lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cho nên, thời kì
quá độ không dễ dàng, không chóng vánh. Độ dài của nó có thể được tham chiếu từ
các giai đoạn nhiều trăm năm hình thành các xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa.
Bản chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự giao thoa giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội. Đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản chỉ còn lại “những
dấu vết về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần”. Đây chính là “giai đoạn đầu”
trưởng thành, cùng thuộc về xã hội cộng sản chủ nghĩa nói chung như “giai đoạn cao”
“đã phát triển trên những cơ sở của chính nó”. Cho nên chủ nghĩa xã hội cũng mang
bản chất cộng sản chủ nghĩa.
Sau khi phân biệt rõ “giai đoạn đầu” và “giai đoạn cao” của chủ nghĩa cộng sản
, C. Mác nói đến thời kì quá độ ở “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa”. Tức là nó đã vượt qua giai đoạn cuối của chủ nghĩa tư bản, nhưng chưa đi
vào “giai đoạn đầu” của chủ nghĩa cộng sản , càng không thể tới ngay “giai đoạn cao”.

2
Do đó, thời kì quá độ chỉ có thể là từ chủ nghĩa tư bản lên “giai đoạn đầu”. V. I. Lênin
vào năm 1917 gọi “giai đoạn đầu” là chủ nghĩa xã hội và xác định, thời kì quá độ
không phải là chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh. Chúng có bản chất khác nhau rõ rệt: thời
kì quá độ không thể có đầy đủ thuộc tính của cộng sản chủ nghĩa, nhưng chủ nghĩa xã
hội đã thể hiện bản chất này nói chung và phản ánh xu hướng đi tới chủ nghĩa cộng
sản .
Sự phân biệt rõ ràng thời kì quá độ với chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận, việc
nhận thức theo đúng tư tưởng của Mác - Ăngghen - Lênin rằng, thời kì quá độ khác
chủ nghĩa xã hội, không phải là vấn đề hàn lâm kinh viện đơn thuần, không thiết thực.
Trái lại, nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn, vừa quan trọng, cơ bản, lâu dài, vừa thường
xuyên, trực tiếp, cấp bách. Mô hình Xô-Viết do đồng nhất thời kì quá độ với chủ
nghĩa xã hội, hoặc ngộ nhận một xã hội ở thời kì quá độ là chủ nghĩa xã hội, hoặc lầm
tưởng thời kì quá độ ở trình độ thấp (gián tiếp) là thời kì quá độ ở trình độ cao (trực
tiếp), nên đã xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa một cách hình thức, thiếu cơ
sở kinh tế - kỹ thuật tiên tiến cần thiết, tất yếu, phù hợp tương ứng. Việc vội vã xây
dựng quan hệ sản xuất mới vượt quá quy mô, trình độ thực tế của lực lượng sản xuất
còn thấp, khiến cho chính ở những nơi có sự bất cập, hụt hẫng, chênh lệch ấy, quan hệ
sản xuất này không tránh khỏi bị biến dạng, biến chất. Ở Liên Xô trước đây, sở hữu
tập thể, quốc doanh đã dần bị tha hóa thành các hình thái trá hình của tư hữu. Tại
những vùng có điểm xuất phát thấp, có lúc, có nơi còn tái hiện cả kiểu sở hữu nhà
nước chuyên chế cổ - trung đại của phương thức sản xuất châu Á, phương Đông mà C.
Mác từng nói đến.
1.1.1.2. Thời kì quá độ gián tiếp
Thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Cùng với sự phát
triển lịch đại của một xã hội theo chiều dọc thời gian, tuần tự trải qua các hình thái do
mâu thuẫn bên trong, C. Mác còn đề cập đến sự phát triển đồng đại theo chiều ngang
không gian do tương tác qua lại giữa các xã hội. Ông chú ý đến trường hợp đặc biệt là,
hai xã hội thời cổ đại “tác động qua lại làm nảy sinh ra một cái gì mới, một sự tổng
hợp”, “kết hợp cả hai” phương thức sản xuất và cùng tiến lên một hình thái kinh tế -
xã hội cao hơn. Đó là trường hợp người Giécmanh từ xã hội công xã nguyên thủy bỏ
qua xã hội nô lệ, cùng người La Mã đi lên xã hội phong kiến. Từ khi người Giécmanh

3
bắt đầu lấn át người La Mã vào thế kỷ thứ II và đánh đổ chế độ nô lệ vào thế kỷ thứ V,
họ chỉ mất 300 năm để từ cuối công xã nguyên thủy bỏ qua chế độ nô lệ lên chế độ
phong kiến. Nếu vẫn tồn tại riêng biệt, thì để có sự phát triển đó, họ phải trải qua xã
hội nô lệ hàng nghìn năm.
Từ cách tiếp cận này C. Mác cũng chỉ ra, khi một số nước tư bản chủ nghĩa ở
châu Âu có trình độ công nghiệp khác nhau tác động qua lại, thì mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước có trình độ thấp vẫn có thể gây xung đột
chính trị gay gắt, khiến cho cách mạng vô sản sớm nổ ra.
Khi quan tâm đến tình hình nước Nga Sa hoàng đương thời, C. Mác và Ph.
Ăngghen cho rằng, không chỉ nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến phương Tây có thể làm
cách mạng vô sản thành công rồi bước vào thời kì quá độ, mà nước Nga và các nước
tiền tư bản chủ nghĩa nói chung cũng có thể thực hiện điều đó. Điều kiện quan trọng ở
đây là, các nước này được nước phương Tây phối hợp cùng làm cách mạng vô sản
thành công, tiếp tục giúp đỡ về vật chất khi bước vào thời kì quá độ. Lúc ấy nước
phương Tây thực hiện thời kì quá độ trực tiếp. Nước được giúp đỡ “không phải trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, “rút ngắn tiến trình đi lên chủ nghĩa xã
hội”, có nghĩa là rút ngắn chính lịch trình vận động, phát triển của xã hội tư bản chủ
nghĩa. Nhưng nó vẫn phải thực hiện thời kì quá độ từ tiền đề vật chất không tự tạo ra ở
bên trong, mà được giúp đỡ từ bên ngoài. Chính vì thế, thời kì quá độ này không hoàn
toàn trực tiếp, mà chỉ là nửa trực tiếp.
Thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo V. I. Lênin, từ cuối thế
kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản có nhiều biến chuyển quan trọng: độc quyền thay thế cạnh
tranh, việc mở mang thị trường thế giới đã đạt đến giới hạn địa lý toàn cầu. Mâu thuẫn
giữa các nước phương Tây trở nên gay gắt. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ.
Xuất hiện cơ hội cho cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi ở một nước riêng
biệt không phải là nước tiên tiến, và đó chính là nước Nga. Tiếp theo, nước này có thể
bước vào thời kì quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Thời kỳ quá độ gián tiếp có một nội dung chủ yếu là, dưới sự kiểm soát, bảo
đảm của nhà nước xã hội chủ nghĩa, cần sử dụng, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa
để xây dựng lực lượng sản xuất. Sau đó, tiếp tục chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của
thời kì quá độ trực tiếp, là xây dựng cơ sở ban đầu cho chủ nghĩa xã hội.

4
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V. I. Lênin cho rằng các nước lạc hậu
phụ thuộc, thuộc địa ở phương Đông cũng có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa và thời kì quá độ, khi liên minh với nước Nga Xôviết. Trong tư tưởng của V. I.
Lênin, đương nhiên thời kì quá độ này sẽ khó khăn hơn nếu diễn ra đơn độc. Nhưng
dù có thực hiện được sự liên minh, thì thời kì quá độ ấy cũng vẫn chỉ là gián tiếp và ở
trình độ thấp hơn nhiều so với thời kì quá độ gián tiếp ở nước Nga. Ngoài ra, phải
phân biệt tư tưởng đó của V. I. Lênin với một ý kiến khác của chính ông cho rằng, nếu
được giai cấp vô sản các nước tiên tiến giúp đỡ, thì các nước lạc hậu có thể đi lên chủ
nghĩa xã hội “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đây chính là
tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về thời kì quá độ nửa trực tiếp, không giống thời
kì quá độ gián tiếp mà V. I. Lênin mới nêu lên.
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XIX, khi xem xét tình hình thuộc địa Ailen
và chính quốc Anh, C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng nêu khả năng cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa nổ ra, kết hợp và thúc đẩy cách mạng vô sản tại chính quốc.
Nhưng trong tư tưởng của các ông, thời kì quá độ ở Ailen là nửa trực tiếp. Bởi vì sau
cách mạng vô sản, nước Anh sẽ bước vào thời kì quá độ trực tiếp, nên nó có đủ điều
kiện để giúp đỡ các nước lạc hậu thực hiện thời kì quá độ nửa trực tiếp. Chính trên cơ
sở những tư tưởng này của Mác - Ăngghen - Lênin, từ năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ rõ vai trò quan trọng, tích cực chủ động của cách mạng giải phóng dân
tộc, gắn liền cuộc cách mạng này với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Để chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa cần phải trải
qua một thời kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được lý giải từ các căn cứ sau đây:
- Một là, chủ nghĩa tư bảnvà chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. chủ nghĩa
tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về các tư liệu sản
xuất; dựa trên chế độ áp bức và bóc lột. chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới 2 hình thức là nhà nước và
tập thể; không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn
có xã hội như vậy cần phải có một thời kỳ lịch sử nhất định.

5
- Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có
trình độ cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất – kỹ
thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật đó cần
phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình
công nghiệp hoá tiến lên chủ nghĩa xã hội , thời kì quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là
tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong
lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra
những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa, do
vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển các quan hệ đó.
- Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó
khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với
những công việc đó.
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế –
xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối vơi
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao thì khi tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kì quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn
phát triển chủ nghĩa tư bản ở mức độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ
phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kì quá độ thường kéo dài với rất
nhiều khó khăn, phức tạp.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới
của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất
cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) của đời sống xã hội.

1.2. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt với nhau của các
thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản và xã hội chủ nghĩa.

6
Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần dần có lộ trình với những
bước đi thích hợp và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực
tiễn của từng giai đoạn phát triển.
1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều bước trung
gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là luôn luôn vấp phải sự phản kháng nhằm
phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của giai cấp tư sản vì vậy,
nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt giai cấp công nhân có thể bị thất bại và
mất chính quyền công nông.
1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Đối với việc xây dựng nền móng tư tưởng, văn hóa, thời kì quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng
vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong mình là Đảng
Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp
thu có chọn lọc giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, thừa kế những
thành tựu, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng tăng của nhân dân
1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội
Trong thời kì quá độ, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen lẫn nhau
giữa các nhân tố tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, giữa cái mới và cái cũ, trong
khi cái cũ vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn ở dạng mầm móng, yếu ớt, phát triển
chậm chạp.
Do kết cấu nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kì quá độ còn
tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đầu tranh với nhau. Trong xã hội của
thời kì quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay. Bởi vậy, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
về phương diện xã hội là thời kì đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ
nạn xã hội và những tàn dư xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
2.1. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ 1975 đến
nay

7
Từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam đã thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 –
1980 và 1981 – 1985), nước ta đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương
diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, do “sai lầm nghiêm trọng và
kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới.
Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác trong khi các nước này đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới,
sửa chữa sai lầm, khuyết điiểm. Tình hình đó cũng đòi hỏi Đảng và Nhà Việt Nam
phải tiến hành đổi mới. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát
triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua và đạt được
nhiều thành tựu: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải
quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội
nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định,
sự nghiệp đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”. Trên
thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều
kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do
giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện.
Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải
quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng
mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm
2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi

8
mới, 30 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta
vẫn có thể nói rằng: đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết
quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn
đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn việt nam và
xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự
lãnh đạo của đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng việt
nam. Cương lĩnh chính trị của đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân
tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng
để đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới”1
Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách
thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là
cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức
sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng
củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày
càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết
vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng.
+ Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững;
kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó
có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác

1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26)

9
quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn
ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
+ Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y
tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng
tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn
tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1975
đến nay.
2.2.1. Những khó khăn trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 1975. Việt Nam gặp phải
nhiều khó khăn:
- Thứ nhất: Điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam
+ Việt Nam xuất phát từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến nên trình độ của lực
lực sản xuất ở nước ta rất kém.
+ Việt Nam trải qua chiến tranh kéo dài, hậu quả để lại còn nặng nề.
+ Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và
nền độc lập dân tộc.
- Thứ hai: Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang trong thời kì thoái trào
+ Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội bị giảm sút.
- Thứ ba: Cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ trên thế giới gây
nhiều khó khăn, rào cản cho Việt Nam.
Tóm lại, trước đổi mới (năm 1986) Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về
của và môi trường sinh thái. Đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm
nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da
cam/dioxin do quân đội mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các
chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom
mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận

10
kinh tế với việt nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn
biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm
hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới
mức nghèo khổ.

2.2.2. Những khó khăn trong giai đoạn từ năm 1986 (đổi mới) đến nay
Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ,
chưa sâu sắc hoặc chưa cụ thể.
  Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát
triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt
trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh
tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa
đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ
và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường, còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức
xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận
thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa
phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống  tinh thần của xã hội; tài nguyên
bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày
càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực,
người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
        Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa
đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách.
Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang
tầm với nhiệm vụ.Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất
lượng công  vụ thấp.

11
        Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều
tiến bộ song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn
nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc
phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải
cách tư pháp còn lúng túng.
        Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị
về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ
bản trong tình hình mới. Chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liệu, tiêu cực xã hội còn diễn ra
nghiêm trọng. Công tác tư tưởng- lý luận, công tác tổ chức- cán bộ, công tác kiểm tra,
giám sát, công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt
chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu.
Riêng trong giai đoạn từ cuối năm 2019 đến nay, Việt Nam hiện nay phải đối
mặt với đại dịch Covid đang phát triển mạnh mẽ và lây lan mạnh gây tác động không
nhỏ đến các hoạt động kinh tế - chính trị, học tập và sinh hoạt. Nhìn chung, Việt Nam
đã khá thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh Covid-19, nhưng nguy cơ vẫn còn
cao do diễn biến rất phức tạp của tình hình dịch bệnh trên thế giới. Đại dịch Covid đã
đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết mọi mặt của đời sống xã hội.
2.2.3 Nguyên nhân của những khó khăn trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội Việt Nam từ năm 1975 đến nay
  Những hạn chế trên đây làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh,
chưa ngang tầm nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương
thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường
sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn.

12
 Hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục
tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước
đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc
trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc
khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế,
xã hội và môi trường sinh thái của nó. Chúng ta chưa hoàn toàn hình thành nhận thức
tổng quát:
Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
2.2.4. Chính sách của đảng và nhà nước đê vượt qua khó khăn trong từng
giai đoạn
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, Đảng đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận- thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra:

13
- Vấn đề xác định lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
        Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát triển. Cho đến
nay, Việt Nam đã hoàn thành chặng đường đầu tiên và đang trong chặng đường tiếp
theo  là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền tảng sớm đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, từ
đây cho đến khi kết thúc thời kỳ quá độ để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam còn phải trải qua bao nhiêu chặng đường, nội dung kinh tế- xã hội của từng
chặng đường là gì? Chỉ có đẩy mạnh nghiên cứu lý luận- thực tiễn để giải đáp những
câu hỏi đó một cách có căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho từng chặng đường
và cho cả thời kỳ quá độ, phòng ngừa và khắc phục tư duiy giản đơn, chủ quan nóng
vội trong lãnh đạo, quản lý đem mục tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
- Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và đảm
bảo định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng theo yêu
cầu nền kinh tế thị trường hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các
quy luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết
mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường như thế nào để bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa ? Vai trò của thị trường đến đâu trong việc phân bổ tài nguyên, phân bổ các
nguồn lực trong điều kiện hội nhập quốc tế.
        Cần tiếp tục nghiên cứu vai tro của kinh tế Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp
nhà nước, những giải pháp để kinh tế nhà nước thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân; những giải pháp củng cố và phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước
cần đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách nhất là thể chế pháp luật để bảo đảm sự bình
đăng thực sự của kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ
hơn vai trò động lực của kinh tế tư nhân.
- Vấn đề mô hình và phương thức quản lý phát triển xã hội
        Cần nghiên cứu làm rõ mô hình xã hội Việt Nam hướng đến là mô hình xã hội
đoàn kết, đồng thuân, hài hòa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó
tầng lớp trung lưu sẽ ngày càng chiếm số động trong xã hội. Chủ động quản lý phân

14
tầng xã hội, quản trị sự biến đổi xã hội, có chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ
để cải thiện điều kiệnsống của nhân dân, chủ động xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên
cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Vấn đề đổi mới đồng bộ giữa chính trị và kinh tế
Hiện nay, đổi mới chính trị (tư duy chính trị và tổ chức hoạt động của hệ thống
chính trị) còn chậm hơn so với đổi mới kinh tế. Vì vậy phải đẩy mạnh đổi mới chính
trị cho đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, tập trung vào đổi mới thể chế, thiết chế,
cơ chế, chính sách, phương thức huy động và phân bổ nguồn lực, kiểm soát quyền lực
và phát huy các động lực của phát triển
- Vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam
Để định hướng đúng đắn cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc trong giai đoạn mới, cần đẩy mạnh nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn
hóa và con người Việt Nam. Cần nghiên cứu làm rõ hơn các tiêu chí về tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Tiếp tục nghiên cứu những tiêu chí
cụ thể của con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: Yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
- Vấn đề đảng cầm quyền
Cần tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về đảng cầm quyền trong điều kiện một đảng
để thực sự đổi mới trong thực tiễn về nội dung cầm quyền, phương thức cầm quyền,
mô hình cầm quyền, các điều kiện để cầm quyền bền vững, hiệu quả.
Cần nghiên cứu những giải pháp có hiệu quả để chống suy thoái trong Đảng, phòng
chống “tự diễn biến”,  “tự chuyển hóa” nội bộ.
- Vấn đề động lực của đổi mới và phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cần phải phát huy mạnh mẽ các động
lực. Muốn vậy phải nghiên cứu sâu lý luận về động lực và hệ động lực phát triển, đặc
biệt nhận thức đúng và xử lý tốt các động lực như lợi ích, dân chủ, đoàn kết yêu nước,
phát huy nhân tố con người…
Các động lực đó tác động lẫn nhau, tạo thành động lực tổng hợp thúc đẩycông
cuộc đổi mới của Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

15
2.3. Những giải pháp góp phần giải quyết những khó khăn trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu, mặt tích
cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt
với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Vì vậy, bên cạnh việc
xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, ta còn phải:
Phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân
dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng
vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân
dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Do lực lượng sản xuất của nước ta còn chưa cao nên cần phải tập trung vào chiến
lược phát triển nguồn nhân lực với trình độ ngày càng cao. Để làm được điều đó thì
phải tập trung phát triển chiến lược giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Nghị quyết Đại
hội Đảng VIII đã khẳng định: “ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” còn theo
nghị quyết Đại hội Đảng IX thì “ Trong bối cảnh hiện nay để tránh nguy cơ tụt hậu, để
ứng dụng nhanh thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới phải đào tạo đội ngũ công
nhân, phải nâng cao chất lượng giáo dục”. Hiện nay, để giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu cần phải: Đào tạo mới phải đáp ứng đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhằm xây dựng vật chất cơ sở kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của nên kinh tế.
Ngoài ra còn phải đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế. Nhằm đáp ứng nhu cầu tạo thu
hút từ nguồn vốn nước ngoài, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng thị
trường, tạo môi trường phát triển ổn định… Đồng thời tiếp thu văn hoá nhân loại để
xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trên cả ba mặt là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong việc tổ
chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong việc phân phối kết quả sản xuất.
Do xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu với nhiều thành phần, chúng ta phải
phát huy được tiềm năng mà nó mang lại nhưng cũng nên dần dần xây dựng nền kinh

16
tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng vững mạnh để làm nền tảng cho nền kinh
tế quốc dân. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của nhà nước.
Đảng ta cần thực hiện và tuân theo tư tưởng Hồ Chí Minh để quá trình quá độ
lên chủ nghĩa xã hội hạn chế được những khó khăn và đạt được nhiều thuận lợi. Đồng
thời:
- Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội không có nghĩa là
làm bừa, làm ẩu, đốt cháy giai đoạn, mà phải vững chắc từng bước phù hợp với điều
kiện thực tế.
- Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn
lực, nhất là nguồn lực nội sinh để đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

17
KẾT LUẬN

Ở nước ta, quá trình quá độ lên con đường XHCN là quá trình đầy thách thức
và khó khăn. Nhưng thực tế qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm
thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý
luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa đã cho ta thấy sự
lựa chọn xây dựng đất nước XHCN là hoàn toàn đúng đắn.
Song không có con đường nào mà không có khó khăn. Bên cạnh các mặt thành
tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách
tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Và điều hết sức quan trọng là phải luôn
luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-
Nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao
động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo
đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách
mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung
một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về
tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn
luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng,
trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi lên từ đơn giản đến phưc tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Bởi vậy phải bám sát thực tiễn nghiêm cứu, tổng kết thực

18
tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu mà thực tiễn đặt ra cho Đảng ta nói chung và
toàn dân tộc nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB:
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ Đổi
mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Tạp chí Cộng sản. (16/5/2021). Truy cập từ
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/
V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-
con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam.
4.

19
PHẦN MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ................................................................................................................................ 2
1.1.1. Khái niệm về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.....................................2
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội..............5
1.2. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.......................................6
1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế.................................................................................6
1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị...............................................................................6
1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá..............................................................6
1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội..................................................................................6
Chương 2: TÌM HIỂU VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY
2.1. Đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ 1975 đến
nay................................................................................................................................ 7
2.2. Những khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa ở Việt Nam từ 1975
đến nay....................................................................................................................... 10
2.2.1. Những khó khăn trong giai đoạn 1975 đến 1986....................................10
2.2.2. Những khó khăn trong giai đoạn 1986 (đổi mới) đến nay......................11
. 2.2.3. Nguyên nhân của những khó khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở việt nam từ năm 1975 đến nay.................................................................12

20
2.2.4. Chính sách của Đảng và Nhà nước để vượt qua những khó khăn trong
từng giai đoạn....................................................................................................13
2.3. Những giải pháp góp phần giải quyết những khó khăn trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay....................................................15
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................19

21

You might also like