You are on page 1of 37

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TẠI TP.HCM


******************

BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM GIỮA KỲ


Môn học: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giảng viên bộ môn: ThS Thái Văn Thọ


Lớp: K59A
Nhóm: 4
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 10 năm 2021


DANH SÁCH NHÓM

Tên MSSV Nội dung

Nguyễn Thị Kim Ngân 2011116482 Lời mở đầu


Phát huy sức mạnh tác chiến

Nguyễn Thanh Ngân 2011116480 Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược 1946 - 1954

Lê Nguyễn Phương Nhi 2011116507 Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến
chống Pháp

Lê Nguyễn Hoàng Nhi 2011116506 Thực hành chiến thuật để đánh hạ địch

Nguyễn Rơ Yam Thu 2011116572 Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi
Cơ sở đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp

Phạm Quỳnh Như 2011116523 Xây dựng thế trận chia cắt, cô lập Điện Biên
Phủ
Cơ sở đường lối kháng chiến chống thực
dân

Trang Hải Long 2011116446 Lời kết và liên hệ thực tiễn hiện nay

Đặng Kiên Bình 2011116322 Nghệ thuật tạo lập thế trận chiến tranh nhân
dân

Nguyễn Hà Bảo Trâm 2011116595 Phân tích hoàn cảnh lịch sử Việt Nam 1946
- 1954

Dương Nguyễn Bảo 2013316694 Ý nghĩa đường lối kháng chiến thực dân
Hiếu Pháp

Trần Nguyên Khải 2013316707 Phương châm tác chiến

Nguyễn Diệu Linh 2011116434 Nội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp
ĐỀ BÀI:

Đánh giá về một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên chiến thắng
Điện Biên Phủ (07/05/1954), Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales, cho
rằng: “Chiến thắng Điện Biên Phủ gửi đi thông điệp: Việt Nam sở hữu một nghệ
thuật quân sự có thể đánh bại bất kỳ đạo quân xâm lăng nào và lịch sử Việt Nam
đã chứng minh điều đó.”

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam giai đoạn 1946-1954, anh (chị) hãy phân
tích nhận định trên. Anh (chị) phân tích, liên hệ và vận dụng đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp của Đảng vào quá trình làm việc sau này như thế
nào?
MỤC LỤC

Lời mở đầu...................................................................................................................4

I. Phân tích hoàn cảnh lịch sử Việt Nam 1946 - 1954................................................6

1. Thuận lợi................................................................................................................ 7

2. Khó khăn................................................................................................................7

II. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp..........................................8

III. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.....................................9

1. Cơ sở đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp...............................................9

2. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp........................................14

Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”..........................14

3. Ý nghĩa đường lối kháng chiến thực dân Pháp.....................................................16

4. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp.........................................................................................................................18

5. Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1946 -
1954.........................................................................................................................19

IV. Đường lối nghệ thuật quân sự độc đáo trong chiến thắng Điện Biên Phủ......23

1. Phương châm tác chiến........................................................................................23

2. Xây dựng thế trận chia cắt, cô lập Điện Biên Phủ................................................25

3. Phát huy sức mạnh tác chiến................................................................................27

4. Thực hành chiến thuật để đánh hạ địch................................................................28

5. Nghệ thuật tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân.................................................30

V. Lời kết và liên hệ thực tiễn hiện nay....................................................................33


Lời mở đầu
“Chúng con có trong mình Điện Biên

Mẹ ơi mẹ, xin mẹ đừng lo lắng

Chim Lạc bay trên mặt trống đồng

Trống Điện Biên dậy sóng biển Đông!

Chiến thắng của ý chí và sức sống dân tộc

Đã sáu mươi lăm mùa xuân qua

Chiến thắng Điện Biên vẫn âm vang thời đại

Đất nước vẹn toàn, đơm hoa kết trái”

Nhà thơ Quang Hoài hoài đã từng ca ngợi chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta -
chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/05/1954 trong bài thơ “Trống Điện Biên dậy sóng
biển Đông” bằng những lời lẽ vô cùng thiêng liêng và tự hào đến thế. Có thể nói, chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là tiêu biểu cho những cuộc kháng chiến tiêu biểu
trong lịch sử Việt Nam. Chiến thắng này không những góp phần giúp Việt Nam giành
lại độc lập, tự do mà còn khẳng định sức mạnh và địa vị của Việt Nam trên thế giới lúc
bấy giờ. Có lẽ cũng vì cảm phục trước tư duy về quân sự của Đảng và nhân dân ta
trong chiến thắng Điện Biên Phủ, Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales,
nhận định rằng: “Chiến thắng Điện Biên Phủ gửi đi một thông điệp: Việt Nam sở
hữu một nghệ thuật quân sự có thể đánh bại bất kỳ đạo quân xâm lược nào và
lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó”. Theo nhóm em, đây là nhận định đúng
đắn, khẳng định nghệ thuật quân sự đầy tài ba của Đảng ta. Cũng nhờ vào nghệ thuật
quân sự thần kỳ và sắc sảo này, Việt Nam đã có thể đánh đuổi thực dân Pháp, tiếp đó
và đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Để có được những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống giặc, giành
độc lập dân tộc, quân và nhân dân ta đã phải đổ rất nhiều mồ hôi, xương máu và nước
mắt. Vậy nên ngày nay thanh niên Việt Nam càng phải cố gắng xây dựng và phát triển
đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ dạy thanh niên Việt Nam thế này: “Phải
không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện đâu cần thanh niên có, việc khó có thanh niên,
gặp gian khổ phải đi lên phía trước, khi hưởng thụ phải hưởng thụ sau mọi người”.
Học theo lời dạy của Bác, khi đất nước đã hòa bình và bước vào thời kỳ hội nhập và
phát triển, thanh viên - sinh viên cần học tập, rèn luyện dựa trên những bài học kinh
nghiệm trong việc xây dựng đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
Hiểu được điều đó, nhóm chúng em đề xuất một số phương pháp liên hệ thực tiễn giúp
sinh viên có thể phát triển bản thân, xây dựng đất nước, không phụ lòng tin của Người
vì “Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà”.

I. Phân tích hoàn cảnh lịch sử Việt Nam 1946 - 1954


Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8
Sau này tuyên bố độc lập, lịch sử Việt Nam đã bước qua một chặng đường mới
với những thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất.

1. Thuận lợi
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống chủ nghĩa xã hội trên Thế giới đang
dần hình thành và phát triển, bao gồm Liên Xô và các nước Đông Âu. Các nước Tư
bản chủ nghĩa bị tàn phá nặng nề, phong trào đấu tranh đòi dân chủ ở các nước Tư bản
phát triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh ở Á -
Phi - Mỹ Latinh. Thuận lợi trong nước là Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, tự
do, từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của chủ nghĩa dân chủ mới. Đặc biệt, sau
thắng lợi của cách mạng tháng Tám, quần chúng nhân dân ngày càng thêm tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Chính phủ mà
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Niềm tự hào dân tộc, ý thức đoàn kết quốc gia
truyền thống yêu nước và tinh thần tương thân tương ái sẽ là động lực thúc đẩy con
thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sóng gió, thác ghềnh để cập bến bờ thắng
lợi.

2. Khó khăn
2.1. Đối ngoại

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, lực
lượng đế quốc đã suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn Đế quốc ra sức
đàn áp phong ứào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc, giành
giật lại những thuộc địa đã mất. Việt Nam trở thành đối tượng đàn áp và giành giật của
các thế lực Đế quốc và tay sai. Theo quy định của hội nghị Ianta và Pốtxđam, vấn đề
giải giáp quân đội Nhật ở Đông Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được quy định như
sau : phía Bắc vĩ tuyến 16 giao cho 20 vạn quân Tưởng, mà đằng sau quân Tưởng là
nước Mỹ. Còn Nam vĩ tuyến 16 được giao cho quân Anh, mà đằng sau quân Anh là
thực dân Pháp. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù đến như vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam còn có 6 vạn
quân Nhật đang chờ giải giáp. Lúc này, Đảng ta nhận định: Việt Nam nằm trong vòng
vây trùng trùng điệp điệp của chủ nghĩa Đế quốc.

Trong tất cả các kẻ thù lúc bấy giờ, Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với
nền độc lập của Việt Nam.
2.2. Đối nội

Về chính trị: Hệ thống chính quyền còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo. Khối đại đoàn kết toàn dân cần có thời gian củng cố. Chính phủ Hồ Chí
Minh vừa mới thành lập, chưa được một nước nào trên thế giới công nhận nên gặp
nhiều khó khăn trong đối ngoại. Bọn phản động ngóc đầu dậy ráo riết hoạt động.

Về kinh tế - tài chính: Kinh tế - tài chính lâm vào tình trạng kiệt quệ. Kinh tế
Việt Nam tiêu điều, xơ xác, nạn đói tràn lan, mùa màng thất bát. Nhà máy nằm trong
tay tư -3- bản pháp, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính khánh kiệt, ngân
quỹ trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu, trong đó 58 vạn rách nát, ngân
hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng lại tung thêm tiền
quan kim và quốc tệ đang mất giá khiến tình hình tài chính càng thêm rối loạn, bức
tranh kinh tế - tài chính ảm đạm.

Tháng năm trong làng đã mùa gặt

Lòng dân sung sướng, thóc mênh mông

Có người đi lính, hiền như đất

Mùa hạ tưng bừng thương núi sông

Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Về văn hóa - xã hội : Hậu quả chính sách văn hóa ngu dân để lại là 95% dân số
mù chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan. Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt
Nam lại cùng lúc phải cùng lúc đối phó với nhiều kẻ thù đến như vậy. Vận mệnh dân
tộc ở trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Tổ quốc lâm nguy.

II. Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp


Ngày 6 - 3 - 1946, Hiệp định sơ bộ được ký kết giữa đại diện Chính phủ Việt
Nam và đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội. Hiệp định đã đề cập đến những điều
khoản chính như sau: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, tài chính riêng và là một thành viên trong
Liên bang Đông Dương và trong Khối Liên hiệp Pháp; việc thống nhất Nam Kỳ vào
nước Việt Nam sẽ được quyết định thông qua một cuộc trưng cầu ý dân. Chính phủ
Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện đón quân đội Pháp vào thay thế quân đội
Trung Hoa ở miền Bắc Việt Nam. Số quân Pháp giới hạn là 15.000 người và sẽ rút hết
trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 quân số.”

Ngay sau Hiệp định sơ bộ, Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hội nghị Phôngtennơblô
chính thức diễn ra. Ta giữ vững lập trường là mềm dẻo nhưng đảm bảo được độc lập,
thống nhất quốc gia và hợp tác với Pháp trên cơ sở bình đẳng. Ngược lại ta, lập trường
của Pháp hết sức ngoan cố: kiên quyết đòi Việt Nam phải nằm trong vòng cai trị của
Pháp. Điều này dẫn đến sự thất bại của cuộc thương thuyết, quan hệ hai nước trở nên
căng thẳng.
Để cứu vãn tình thế, hòa hoãn tình hình, Đảng ta đã quyết tâm tìm ra một giải
pháp hòa bình cho dù là rất khó khăn. Ngày 14 - 9 - 1946, đại diện cho Chính phủ Việt
Nam đã ký với đại diện Chính phủ Pháp - bản Tạm ước thỏa thuận hai bên đình chỉ
xung đột về quân sự, ghi nhận cuộc thương thuyết vẫn còn được tiếp tục.
Sau Hiệp định sơ bộ và Tạm ước, ta đã thực hiện nghiêm chỉnh nội dung hiệp
định, nhưng với âm mưu xâm lược lâu dài đất nước ta, Pháp đã bội ước và tăng cường
các hành động khiêu khích. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Pháp đánh vào các vùng tự
do của ta. Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ: tháng 11 - 1946, Pháp khiêu khích ở Hải
Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12 - 1946, Pháp đóng chiếm Đà Nẵng, Hải Dương. Ở Hà
Nội, Pháp khiêu khích, ném lựu đạn, nổ súng gây đổ máu ở nhà thông tin Tràng Tiền,
trụ sở tài chính,...
Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, Pháp gửi tối hậu thư cho ta yêu cầu ta phải giải tán
lực lượng vũ trang và giao lại quyền kiểm soát thu đô cho Pháp và tuyên bố sẽ hành
động vũ trang nếu ta không trả lời.
Trước những hành động khiêu khích trên, con đường duy nhất của nhân dân ta
thành lập cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do… Cùng ngày Pháp gửi tối hậu thư,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp quyết định phát động toàn quốc kháng
chiến. Ngay trong đêm 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương
Đảng và chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

III. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
1. Cơ sở đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Sau cách mạng tháng Tám 1945, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
trong đối nội nhưng Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn luôn
luôn chú trọng đến công tác giải quyết những vấn đề đối ngoại. Đặt chủ trương giải
quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại một cách song song. Trong đường lối đối ngoại
của mình, Đảng xác định rõ : Trong các kẻ thù của Việt Nam lúc bấy giờ thi Pháp
chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đe dọa trực tiếp, hằng ngày, hằng giờ đến nền độc lập
vừa mới giành được của Việt Nam. Xét về mặt vị thế, Pháp là một Đế quốc với tiềm
lực kinh tế, chính trị và quân sự hùng mạnh, là một tên Đế quốc già và đã có vị thế
nhất định trên thế giới. Trong khi lúc này, Việt Nam vừa mới dành được nền độc lập,
trải qua hàng ngàn năm đấu tranh, lại là một dân tộc nhỏ bé với nền kinh tế nông
nghiệp lúa nước lạc hậu, Việt Nam thực sự còn rất non trẻ. Có thể nói so với Pháp,
Việt Nam đứng ở thế yếu. Tuy nhiên, sức mạnh tiềm tàng và cũng là thế mạnh của
Việt Nam mà Pháp hay bất cứ thế lực nào khác cũng không thể tác động đó là sức
mạnh của tinh thần đoàn kết, sức mạnh của niềm tự tôn dân tộc, sức mạnh của truyền
thống yêu nước hàng ngàn năm lịch sử, sức mạnh của ý thức tự giải phóng đất nước,
giải phóng con người.

“Bạn ta đó

Chết trên dây thép ba từng

Một bàn tay chưa rời báng súng

Chân lưng chừng nửa bước xung phong

Oải từng con người mỗi khi nằm xuống

Vẫn nằm trong tư thế tiến công “

Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972

Hơn nữa, lúc này, khi mà dư âm thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám đang
sục sôi, ý thức về nền độc lập dân tộc, về giải phóng cá nhân lại càng mạnh mẽ hơn bất
cứ lúc nào trong người dân Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, của
Chính phủ, của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự đã thu phục niềm tin của nhân dân. Vì
vậy, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam nhất định bằng mọi giá sẽ phải giữ vững
và nhất định giữ vững nền độc lập dân tộc.

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta


Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Đất nước – Nguyễn Đình Thi

Sau cách mạng tháng Tám, trước vòng vây trùng trùng điệp điệp của chủ nghĩa
Đế quốc và các thế lực phản động, Đảng đã tích cực thực hiện các biện pháp chống
ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Với dã tâm xâm lược nước ta
một lần nữa, ngay sau khi Nhật đầu hàng đồng minh, chính phủ Đờ Gôn quyết định
thành lập một đạo quân viễn chinh tiến hành xâm lược Việt Nam. Đếm ngày 22, rạng
sáng ngày 23/9/1945, pháp nổ súng tấn công Trụ sở ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ
quan tự vệ thành phố, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Đảng ta đã nêu
chủ trương đánh Pháp để bảo vệ Nam Bộ, tổ chức lực lượng cả nước chi viện cho Nam
Bộ. Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về “kháng chiến -
kiến quốc”, vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Ở
Miền Bắc, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các biện pháp chống Đế quốc và bọn
phản cách mạng. Trong mối quan hệ với quân Tưởng và tay sai, chúng ta chủ trương
tránh mọi xung đột. Với Tưởng, ta nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm,
phương tiện giao thông, đồng thời đấu tranh hòa bình với chúng. Đối với bọn Việt
quốc, Việt cách, chúng ta thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc với chúng, nhường 70
ghế trong Quốc hội, trong đó có một ghế phó chủ tịch nước cho chúng. Đổi lại, Hồ Chí
Minh vẫn giữ chức Chủ tịch nước, lực lượng cách mạng vẫn nắm ưu thế trong Chính
phủ và Quốc hội. Với bọn phản cách mạng, ta kiên quyết vạch trần và trừng trị theo
pháp luật. Ngày 11/11/1945, Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng
thực chất là rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng.

Ngày 28/2/1946, Pháp và Tưởng ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp, đặt nước ta trước
một tình hình mới. Lúc này, nếu chúng ta cầm súng chống Pháp có nghĩa là cùng lúc
chúng ta sẽ cùng phải đối phó với cả Pháp, cả Tưởng và quân đồng minh. Đây là điều
hoàn toàn không có lợi cho ta. Vì vậy, giải pháp tốt nhất là chúng ta phải nhượng bộ có
điều kiện với Pháp. Lúc này, Pháp cũng đang muốn đàm phán với Việt Nam để xúc
tiến nhanh chóng việc đưa quân ra Miền Bắc, loại bỏ Tưởng. Đó chính là cơ sở dẫn
đến việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) giữa Việt Nam và Pháp. Trong hiệp định ta
đã nhân nhượng Pháp, cho Pháp đưa 15000 quân ra Bắc thay Tưởng giải giáp quân đội
Nhật, số quân này đóng tại những địa điểm quy định và rút dần trong vòng 5 năm.
Nhưng mặt khác, Hiệp định thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, nó chính là sự
thừa nhận của Chính phủ Pháp về sự tồn tại của Việt Nam với tư cách một quốc gia
dân chủ cũng như thừa nhận địa vị đại diện cho nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đập tan âm mưu liên kết chống Việt Nam của Pháp và Tưởng. Tuy ta đã hết
sức nhân nhượng nhưng Pháp vẫn lấn tới, chúng liên tục vi phạm: vi phạm lệnh ngừng
bắn ở Miền Bắc, cho quân đánh chiếm trái phép một số vùng ở Bắc Bộ, thành lập
chính phủ Nam kỳ tự trị hồng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Các cuộc đàm phán hòa
bình giữa Việt Nam và Pháp không thành công do dã tâm của Pháp. Trước nguy cơ
cuộc chiến tranh Việt - Pháp đang đến gần, Chính phủ ta quyết định nhân nhượng với
Pháp thêm một lần nữa, ký với Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946, tiếp tục nhân
nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam để tạo thời gian
hòa hoãn cho ta xây dựng, chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc chiến tranh không thể
tránh khỏi, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Đảng và Chính phủ ta đã tỏ rõ thiện chí
hòa bình, cố gắng làm những việc có thể để đẩy lùi chiến tranh. Trong khi chúng ta đã
hết lòng nhân nhượng và chấp hành đúng những gì đã thỏa thuận, ký kết thì thực dân
Pháp lại liên tục bội ước. Chúng xem sự nhân nhượng của ta là hành động hèn nhát
đầu hàng, chúng kiêu căng ngạo mạn về sức mạnh của mình, cho nên càng ngày chúng
càng lấn tới. Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách
việc đã rồi, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày 20/11/1946, quân Pháp mở
cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà
Nẵng. Ngày 16/12/1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Đương đã họp tại Hải
Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Ngày
17 và 18/12/1946, tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta tại phố Hàng
Bún, Yên Ninh, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở thủ đô. Trắng trợn hơn, chúng còn gửi
tối hậu thư buộc ta phải giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng, nếu không, chậm nhất
là sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động. Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một sự
lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả năng hòa hoãn không còn. Hành động của thực
dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng thêm
được nữa, vì nhân nhượng sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.
Trong thời điểm lịch sử quyết đoán này, Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp tại làng Vạn Phúc - Hà Đông ngày 19/12/1946 đã quyết định hạ quyết tâm
phát động kháng chiến toàn quốc. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h
ngày 19/12/1946,tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng. Rạng sáng
ngày 20/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được phát đi trên đài tiếng nói Việt Nam.

Chính vì việc tháng 11-1946, quân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng và
thị xã Lạng Sơn, đổ bộ vào Đà Nẵng, nhiều lần khiêu khích, tàn sát đồng bào Hà Nội,
đồng thời chỉ thị tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết, cộng với ngày 19-2-
1946, Pháp ra tối hậu thư, yêu cầu ta dỡ bỏ Lực lượng Phòng vệ Hà Nội trước khi vũ
trang và kiểm soát, vì an ninh trật tự của thủ đô, do Ban Thường vụ Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc chủ trì, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập cuộc họp ở làng
Phạm Phước (Hà Đông) để đề ra biện pháp đối phó. Hội nghị đã cử phái viên sang gặp
và đàm phán với phía Pháp, nhưng vô ích.

Đường lối chống thực dân Pháp (1946-1954) của Đảng được hình thành, bổ
sung và hoàn thiện trên thực tế. Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp
đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao để ngăn chặn âm mưu chia cắt miền Nam
của Pháp với Việt Nam. Ngày 19 tháng 10 năm 1946, Thường vụ Ủy ban Trung ương
CPC tổ chức hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư
Trương Thanh. Cuộc họp cho rằng "sớm hay muộn, Pháp sẽ đánh bại chúng ta, và
chúng ta sẽ phải đánh Pháp". Cũng chính tại cuộc họp chi bộ đã đưa ra những biện
pháp, chủ trương cụ thể về mặt tổ chức và tư duy. Hồ Chí Minh khi bước vào cuộc
kháng chiến toàn cầu, Người đã ra chỉ thị khẩn cấp về công việc bây giờ là (ngày 5-11-
1946) trên phạm vi toàn cầu, đồng thời khẳng định niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!”


Lúc này, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh chống Pháp với vai trò bảo vệ
Tổ quốc, tính chất của cuộc chiến tranh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh
nhân dân bảo vệ hòa bình, chống lại kẻ thù xâm lược, nhân dân ta có thiên thời, địa lợi,
nhân hòa. Mặt khác, trải qua một quá trình lâu dài thực hiện hòa hoãn với Pháp, giờ
đây ta đã loại bỏ được các kẻ thù, chỉ còn lại kẻ thù duy nhất là Pháp, các công tác đối
nội cũng đã được giải quyết về cơ bản, các điều kiện cần thiết chuẩn bị cho chiến tranh
đã sẵn sàng, Đảng và nhân dân có đủ niềm tin để chiến đấu và chiến thắng. Trong khi
đó, lúc này Pháp vấp phải không ít khó khăn về kinh tế, chính trị, quân sự ở trong
nước và tại Đông Dương, những khó khăn này không dễ gì chúng khắc phục được
ngay trong ngày một, ngày hai. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, chúng
ta cũng vấp phải một số khó khăn nhất định. Lực lượng của ta so với Pháp còn yếu, vũ
khí trang bị lạc hậu hơn. Ta bị cô lập, bao vây bốn phía, chưa được công nhận địa vị
trên trường quốc tế. Trong khi Pháp lại có vũ khí tối tân và đã chiếm đóng được Lào,
Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành
thị lớn ở Miền Bắc. Những đặc điểm của sự khởi đầu và những thuận lợi, khó khăn đó
chính là cơ sở để Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.

2. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Tính chất kháng chiến:

● Tính chất dân tộc giải phóng: Cuộc kháng chiến mà Đảng phát động có mục
đích giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ từ tay thực dân Pháp, là một cuộc chiến
tranh chính nghĩa
● Tính chất dân chủ mới: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến
tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình nhằm loại bỏ chế độ thực
dân, đô hộ trước kia.
Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến tranh cách
mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.

Chính sách kháng chiến:


- Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp: Cuộc chiến của
thực dân Pháp gây ra tại Đông Dương là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, không
được nhân dân tại chính nước Pháp ủng hộ. Vì thế khi liên kết với những người
dân yêu chuộng hòa bình tại Pháp, ta có thể tạo thêm một mặt trận ngay đằng
sau lưng địch, làm kẻ địch suy yếu, mất đi sự ủng hộ của nhân dân.
- Đoàn kết Mên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do hòa bình: Mên, Lào là các
quốc gia trên cùng bán đảo Đông Dương và cùng có chung kẻ thù là thực dân
Pháp. Khi liên kết cùng với 2 quốc gia này, sức mạnh của ta sẽ được gia tăng,
phạm vi hoạt động kháng chiến cũng được mở rộng. Việc tranh thủ sự ủng hộ
của các dân tộc yêu chuộng tự do hòa bình có thể đem lại cho chúng ta sự ủng
hộ trên trường quốc tế.
- Toàn dân kháng chiến.
- Tự cấp, tự túc về mọi mặt: đây là cuộc kháng chiến của dân tộc ta, không nên
trông cậy vào sự giúp đỡ từ bên ngoài mà phải huy động sức mạnh của toàn
dân, nỗ lực vượt khó để kháng chiến đi đến thắng lợi.
Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trong đó:

1. Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên
đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là
một pháo đài.
2. Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng tự do, hòa bình.

Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên
vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo
toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh
vừa đào tạo thêm cán bộ”.
Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân
chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với
dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập,…

3. Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng
nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”
của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta
mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
4. Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây
bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc
đó cũng không được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định
thắng lợi.

3. Ý nghĩa đường lối kháng chiến thực dân Pháp


Quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản,
nhất quán trong đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, thể hiện tập trung, sâu sắc
quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng, quan điểm thực tiễn của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh cần phải được quán triệt, nhận thức đúng. Quan điểm này xác định
lực lượng quần chúng và yếu tố chính trị - tinh thần là sức mạnh to lớn quyết định
thắng lợi của chiến tranh.
- Đối với trong nước:

Việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân:

Đầu tiên, làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ
giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của các nước Đông Dương;
Thứ hai, làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết
thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương;

Thứ ba, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam;

Thứ tư, tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế.

- Đối với quốc tế:

Đầu tiên, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; Tiếp theo đó là mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và
cách mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương. Từ đó, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân
dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.

Đường lối kháng chiến với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng
tạo. Đường lối kháng chiến chống Pháp là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyền thống của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.
Đường lối kháng chiến chính là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm quân sự của nước ngoài vào Việt Nam.
Đây là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa “lấy yếu chống mạnh”,
“lấy ít địch nhiều”, “lấy chính nghĩa thắng hung tàn”. Đường lối kháng chiến của Đảng
được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định
và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang. Thực hiện theo tinh thần
của đường lối, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh
chống Pháp trên tất cả các lĩnh vực và đặc biệt giành thắng lợi vẻ vang trên mặt trận
quân sự tại chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947 và chiến dịch Biên giới 1950, giáng
đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của địch, giành được thế chủ động trên chiến trường
chính Bắc Bộ. Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có
nhiều biến chuyển mới. Nước ta được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt
quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của ba nước Đông Dương giành được những
thắng lợi quan trọng. Mỹ lợi dụng lúc Pháp gặp khó khăn để can thiệp trực tiếp vào
cuộc chiến Đông Dương. Điều kiện lịch sử đặt Đảng ta trước yêu cầu bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối cách mạng. Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của
Đảng họp tại xã Vinh Quang (Chiêm Hóa - Tuyên Quang) thông qua “Báo cáo chính
trị” do chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” do
Trường Chinh trình bày. Bản báo cáo của Tổng bí thư Trường Chinh sau này đi vào
lịch sử dân tộc với tên gọi: “Chính cương của Đảng lao động Việt Nam”, xác định
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta và đường lối này tiếp tục được bổ sung, phát
triển qua các hội nghị Trung ương tiếp theo, như Hội nghị Trung ương lần thứ nhất
(tháng 3/1951), Hội nghị Trung ương lần thứ hai (từ ngày 27/9 đến ngày 5/10/1951),
Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1/1953), Hội nghị trung ương lần thứ năm
(tháng 11/1953). Nhờ việc đề ra và thực hiện triệt để thực hiện đường lối kháng chiến
của Đảng chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp xâm lược, đỉnh cao là thắng lợi trong Đông - Xuân 1953 - 1954 với chiến dịch
Điện Biên Phủ. Bảo vệ thắng lợi của cách mạng tháng Tám, làm thất bại âm mưu xâm
lược của Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Đồng thời, nó cũng mang trong minh ý nghĩa quốc tế cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh giải phóng thuộc địa và là tiếng chuông báo tử cho hệ thống tử cho hệ thống thực
dân cũ trên toàn Thế giới.

4. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp
Ý nghĩa lịch sử

Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực
dân Pháp trong gần một thế kỷ. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn
cách mạng XHCN, tạo cơ sở để nhân dân ra giải phóng miền Nam, thống nhất nước
nhà.
Giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược và âm mưu nô dịch của chủ nghĩa
đế quốc sau chiến tranh thế giới II, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng,
cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi và Mĩ La - tinh.

Tuy nhiên, miền Nam chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc đấu
tranh

gian khổ chống đế quốc Mỹ nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả
nước.

Nguyên nhân thắng lợi

Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch: đường lối đúng đắn và sáng
tạo, toàn quân, toàn dân đoàn kết một lòng trong chiến đấu.

Có chính quyền dân chủ nhân dân khắp cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất
được củng cố.

Lực lượng vũ trang được xây dựng, có hậu phương vững chắc, củng cố,...

Có sự liên minh chiến đấu của ba dân tộc: Việt, Lào, Miên,... và có sự ủng hộ
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác, nhân dân tiến bộ Pháp và đông
đảo dư luận thế giới.

Tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, không sợ hi sinh vì đất nước của
quân đội nhân dân ta

5. Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1946 -
1954
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám (1945) thắng lợi, thấy trước ý đồ của kẻ thù
và nguy cơ chiến tranh nhất định sẽ xảy ra, ta đã đánh giá đúng cục diện chiến lược,
tranh thủ thời gian để chuẩn bị đất nước, chuẩn bị hậu phương và lực lượng tiến hành
chiến tranh, tránh được tình huống phải kháng chiến sớm khi còn kẹp giữa nhiều kẻ
thù và chưa được chuẩn bị. Chiến lược quân sự đã giải quyết thành công việc triển
khai thế trận cả nước đánh giặc trong những năm đầu kháng chiến toàn quốc. Quyết
định chiến lược chủ động mở đầu cuộc chiến tranh khi khả năng hòa hoãn không còn
nữa là sáng suốt, kịp thời. Cuộc công kích đồng loạt các vị trí quân địch trong tháng
12/1946 đánh dấu tiến bộ mới về công tác tổ chức hiệp đồng và nghi binh giữ bí mật
giành bất ngờ của ta. Chủ trương bất ngờ tiên công, nhanh chóng chuyển sang bao vây,
tiêu hao ngăn chặn, kìm giữ quân địch ở các đô thị lớn nhằm mục đích chuyển toàn
quốc sang thời chiến là một thành công về vận dụng phương thức tác chiến ở thời kỳ
đầu.

Cũng từ đầu kháng chiến, nghệ thuật quân sự đã xác định con đường phát
triển của cuộc kháng chiến phải từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy
và xem sự kết hợp giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy là một quy
luật giành thắng lợi của chiến tranh nhân dân. Bên cạnh cách đánh du kích, hình
thành phương thức tác chiến bằng các tiểu đoàn, trung đoàn, mở các trận tiến công, các
đợt tác chiến, các chiến dịch nhỏ trên hướng lựa chọn. Quá trình xây dựng bộ đội chủ
lực là quá trình nghiên cứu cải tiến không ngừng về tổ chức biên chế, về trang bị vũ
khí, về huấn luyện cách đánh và các chế độ chính quy.

Từ ngày 7/10 đến 22/12/1947, quân và dân ta mở cuộc phản công đánh bại
cuộc tiến công của quân Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc. Đây là chiến dịch đầu tiên
của cuộc kháng chiến chống Pháp và của cả cuộc kháng chiến 30 năm đã được hình
thành và là một chiến dịch phản công có ý nghĩa chiến lược, được cơ quan chiến lược
trực tiếp điều hành phù hợp với tình hình, điều kiện của ta lúc đó. Ngay trong chiến
dịch đầu tiên, một số nội dung cơ bản của nghệ thuật chiến dịch phản công đã bước
đầu hình thành.

1. Một là, đề ra mục đích chiến dịch đúng đắn, kiên quyết và toàn diện.
2. Hai là, chọn loại hình chiến dịch đúng.
3. Ba là, xác định đúng hướng (khu vực) phản công, tổ chức thế trận chiến dịch
phù hợp (ba mặt trận), bẻ gãy từng gọng kìm của địch, phá thế hợp vây chiến
dịch của chúng.
4. Bốn là, tổ chức binh lực thích hợp, chỉ đạo vận dụng chiến thuật sáng tạo, hạn
chế chỗ mạnh của địch, khoét sâu mặt yếu của chúng. Từ tháng 3/1948 đến giữa
năm 1950, bộ đội ta ở khắp Bắc, Trung, Nam đã mở khoảng 20 chiến dịch nhỏ,
chủ yếu là chiến dịch tiến công. Nghệ thuật chiến dịch tiến công đã có bước tiến
bộ rõ rệt.

Chiến dịch Biên Giới (Thu Đông - 1950) đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
của nghệ thuật chiến dịch tiến công trong kháng chiến chống Pháp. Bước phát triển đó
là sự kế thừa, kết quả tích lũy những kinh nghiệm của hơn 20 chiến dịch nhỏ trong
suốt hơn hai năm trước đó. Đó là nghệ thuật chọn đúng cách đánh chiến dịch, xác định
chính xác hướng tiến công và mục tiêu tiên công, bảo đảm chắc thắng trận mở màn
chiến dịch, nổi bật nhất là nghệ thuật triển khai thế trận và bố trí lực lượng đánh địch
tăng viện để tiêu diệt .

● Chiến thuật du kích (du kích chiến) được lực lượng vũ trang ba thứ
quân và nhân dân các địa phương vận dụng với nhiều cách đánh cụ thể
khác nhau. Chiến thuật du kích của ta vừa kết hợp cơ động đánh địch với
bám trụ đánh địch ngay tại địa phương. Xây dựng làng chiến đấu dựa
vào dân để đánh địch, bảo vệ dân, đã xuất hiện nhiều làng đánh giặc nổi
tiếng. Chiến thuật du kích đánh địch mọi lúc mọi nơi, đánh bằng mọi thứ
vũ khí: giáo mác, gậy tầm vông, đòn gánh, dao kiếm, chông, mìn, cạm
bẫy... đã tỏ rõ hiệu lực chiến lược. Cùng với phát triển cách đánh du
kích, bộ đội chủ lực đã vận dụng nhiều hình thức chiến thuật thích hợp:
phục kích, kỳ tập, tập kích, ... tiêu diệt tiêu hao sinh lực địch.
● Trong chiến đấu tiến công, chiến thuật phục kích được vận dụng
tương đối phổ biến theo nguyên tắc: nắm chắc địch và thời cơ, bí mật
triển khai thế trận hiểm, bất ngờ, tiến công nhanh, mạnh, lui quân mau
lẹ, bảo toàn lực lượng. Trong các trận đánh đồn, bộ đội ta đã từng bước
làm quen với tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh với pháo binh, giữa bộ
phận phá vật cản, mở cửa với xung kích và giữa các hướng với nhau.

Trong khoảng thời gian gần hai năm kể từ trung tuần tháng 9/1950 đến
tháng 6/1953 là thời kỳ ta nắm quyền chủ động mở nhiều chiến dịch trên chiến
trường chính Bắc Bộ và Thượng Lào. Từ chiến dịch Biên Giới trở đi, phương thức
tiến hành chiến tranh chính quy xuất hiện và ngày càng phát triển, cùng với sự phát
triển của chiến tranh du kích. Đây là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch nhằm
tranh giành quyền chủ động chiến lược.

Từ năm 1951 đến giữa 1953, (Chiến dịch Hòa Bình đến Chiến dịch Thượng
Lào) là thời kỳ nghệ thuật chiến dịch của ta phát triển với những nội dung ngày
thêm phong phú.

Mục đích chiến dịch đề ra cụ thể, kiên quyết, phù hợp với so sánh lực lượng
địch, ta nhất là phù hợp với trình độ bộ đội. Do đó, các chiến dịch trong thời kỳ này
đều đáp ứng yêu cầu chiến lược cả về tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai, giải
phóng nhân dân.

Về cách đánh chiến dịch: cấp chiến dịch đã phân tích đánh giá đúng chỗ mạnh
chỗ yếu trong thế trận chiến dịch chiến lược của địch để chọn đúng hướng tiến công
chủ yếu. Chỉ đạo kết hợp đánh địch với phá hoại giao thông địch, kết hợp tác chiến với
địch vận, vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở chính trị... là những biểu hiện cụ thể về
bước tiến mới trong nghệ thuật chỉ đạo chỉ huy tác chiến chiến dịch.

Cùng với sự phát triển chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật đã có
bước phát triển khá cao.

● Để khắc phục “vành đai trắng” của địch ta dùng chiến thuật “bôn tập”.
Bộ đội ta phải vừa cơ động từ xa đến, vừa tiến công dứt điểm, vừa cơ
động về vị trí an toàn trong đêm.
● Chiến thuật phục kích là chiến thuật sở trường của lực lượng vũ trang ta
được cả ba thứ quân vận dụng thành thạo.
● Chiến thuật tập kích ở giai đoạn trước ít được vận dụng ở quy mô vừa,
thì trong thời kỳ này được vận dụng cả ở quy mô tiểu đoàn, trung đoàn
tăng cường đạt hiệu suất chiến đấu cao.
● Chiến đấu chống càn diễn ra phổ biến đối với bộ đội địa phương, dân
quân du kích và các đơn vị chủ lực tác chiến trong địch hậu.
● Chiến thuật của du kích được phát triển hết sức sáng tạo và phong phú
bằng vũ khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch ngày một nhiều.
Phát huy ưu thế chính trị tinh thần và quen thạo địa hình, cách đánh du
kích ngày càng phát huy hiệu quả cao và đã phối hợp đắc lực với chiến
tranh chính quy.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 -1954, nghệ thuật quân sự Việt Nam có
bước phát triển vượt bậc. Mặc dù kẻ địch cố che giấu giữ kín ý đồ chiến lược, nhưng
ta vẫn phát hiện ra bản chất của kế hoạch Nava là tăng quân, tập trung quân cơ động
chiến lược để giành lại chủ động.

Phương hướng chiến lược của ta là vững quyền chủ động tiến công địch, trên những
hướng mà địch sơ hở nhưng hiểm yếu, buộc địch phải bị động đối phó lại, phải “đoài
từng ngón tay” đến “xòe cả bàn tay” để không còn khả năng “đấm” vào vùng tự do của
ta.

Kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, phối hợp nhịp nhàng
giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch, giữa các hướng chiến lược trên
toàn chiến trường Đông Dương là thành công nổi bật trong chỉ đạo chiến lược và chỉ
đạo tác chiến của ta trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954.

Sự chỉ đạo kết hợp hai phương thức chiến tranh của ta đã tạo nên thế trận chiến tranh
nhân dân vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, vừa có khả năng tập trung cao lại có thể
nhanh chóng phân tán khi cần; theo đó mà hình thành mặt trận chính diện, mặt trận sau
lưng địch, chiến trường chính và chiến trường phối hợp trên toàn lãnh thổ Việt Nam và
toàn Đông Dương.

Các chiến dịch tiến công ở thời kỳ đầu của chiến cuộc (từ tháng 10/1953 đến
tháng 2/1954) có đặc điểm chung là: quy mô sử dụng lực lượng không - đại đoàn hoặc
tương đương đại đoàn, chiến trường xa căn cứ hậu phương, địa hình phức tạp, mới lạ,
lực lượng tại chỗ và cơ sở chính trị yếu, bảo đảm vận chuyển tiếp tế khó khăn. Ta đã
nỗ lực rất để tiến hành chiến dịch đúng thời gian, gây bất ngờ cho địch, duy trì được
nhịp độ tiến công (hoặc truy kích), đạt được hiệu suất chiến dịch- chiến đấu cao ở cả
ba mục tiêu: tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, thu hút phân tán địch.

Về mặt nghệ thuật, ta đã giải quyết thành công việc tổ chức tiến hành chiến dịch
trong trường hợp hầu như không có thời gian chuẩn bị. Việc giao nhiệm vụ, tổ chức
hiệp đồng, tổ chức bảo đảm từ cấp trung đoàn trở xuống được triển khai ngay trong
quá trình hành quân tiếp cận địch.

Trong các chiến dịch từ tiến công chuyển sang tập kích, quân ta đã biết lợi dụng
đường tắt, vượt lên trước địch, đuổi địch trên nhiều hướng, chia cắt đội hình rút chạy
của chúng. Kết hợp truy kích với chốt chặn, đón lõng, kết hợp đánh địch với gọi hàng
và truy quét tàn quân, kết hợp diệt địch rút chạy với chặn đánh quân tiếp viện nên đã
tiêu diệt được hầu hết các lực lượng địch rút chạy, rút ngắn được thời gian và đường
truy kích.

Đỉnh cao phát triển nghệ thuật chiến dịch trong chiến cuộc Đông Xuân
1953 - 1954 và trong 9 năm kháng chiến chống Pháp thể hiện tập trung trong
chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ bộ đội ta đã tiến công vào
tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương. Một chiến dịch tiến công trận
địa được tiến hành bằng một loạt trận chiến đấu tiêu diệt địch phòng ngự trong công sự
vững chắc.

IV. Đường lối nghệ thuật quân sự độc đáo trong chiến thắng Điện Biên Phủ
1. Phương châm tác chiến
Với chiến thắng trận chiến Điện Biên Phủ, nhân dân ta có thể tự hào nói rằng
thắng lợi đấy là một biểu hiện thực tế, đầy sinh động cho sự thành công của đường lối
chiến tranh nhân dân do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên khởi xướng, lãnh
đạo.

Ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau cuộc nghiên cứu chiến trường vào ngày 14/01/1954, Bộ chỉ huy mặt trận triệu tập
hội nghị bàn kế hoạch tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo phương
châm “đánh nhanh giải quyết nhanh. Vì tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch lúc
bấy giờ chỉ mới hình thành, binh lực chưa nhiều, phòng thủ rộng. Phải yêu cầu giải
quyết nhanh làm cho địch không kịp thay đổi bố trí đội hình, tăng thêm lực lượng.

Tuy nhiên với sự thay đổi nhanh chóng trong việc chuẩn bị lực lượng và bổ
sung nhân lực của địch, cùng với khó khăn của ta trong việc kéo pháo vào đúng thời
gian đề ra. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề xuất ý kiến chuyển phương châm sang
“đánh chắc, tiến chắc”. Sáng ngày 25/01/1954, tiến hành họp Bộ Chỉ huy chiến dịch
quyết định: “Giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhưng
thay đổi phương châm, cách đánh từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc,
tiến chắc”.

Ngay từ những giây phút ban đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, với tư tưởng chỉ đạo “kháng chiến, kiến quốc”, Đảng ta cùng chủ tịch Hồ Chí
Minh cuối cùng đã đề ra cho mình được đường lối chiến tranh với đặc trưng: "Toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh". Do đó, cuộc kháng chiến của ta sẽ có
thêm sự giúp sức của lực lượng toàn dân, phương thức kháng chiến trên mọi phương
diện quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Đi đến giành thắng lại từng bước và chỉ dựa
vào chính sức lực của đồng bào nhân dân ta.

Đường lối chiến tranh nhân dân thể hiện rõ tính toàn diện của phương thức kháng
chiến trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong đó, đấu tranh quân
sự mang trong mình nhiệm vụ chủ đạo làm thất bại âm mưu xâm lược của thực dân
Pháp.

Xác định được ngay từ đầu phương châm kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là
chính đã góp phần tạo ra thời gian cần thiết để làm xoay chuyển chênh lệch lực lượng
ta và địch, làm nền tảng để xây dựng, tổ chức, củng cố lực lượng; Và là nền tảng cho
cuộc chiến tranh toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân hình thành và ngày càng được
củng cố phát triển, trong đó, quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt cho toàn dân
đánh giặc.

2. Xây dựng thế trận chia cắt, cô lập Điện Biên Phủ
Nghệ thuật chỉ đạo, điều hành chiến tranh có ý nghĩa quyết định tiên quyết đối với việc
tổ chức, xây dựng lực lượng và thế trận chiến dịch. Đảng ta chủ trương xây dựng thế
trận tiến công vững chắc, kết hợp bao vây, cô lập mục tiêu với phát triển tiến công tiêu
diệt từng cứ điểm của địch.

Phương châm ban đầu là “Đánh nhanh, thắng nhanh” trong 2 đêm 3 ngày có ưu điểm
là tạo bất ngờ, giữ vững quyết tâm, giải quyết tốt vấn đề cung cấp, tiếp tế. Tuy nhiên,
việc xác định phương châm tác chiến cho một chiến dịch quan trọng về mặt chiến lược
đòi hỏi Bộ tổng tư lệnh và tư lệnh chiến trường phải cân nhắc, tính toán và đưa ra
quyết định chính xác. Trên cơ sở so sánh sức mạnh của quân ta sẽ đánh giá được thực
lực của quân ta và các đồn Pháp ở Điện Biên Phủ, quan trọng nhất là phải làm theo lời
căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “đánh đâu thắng đó”, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp và toàn Đảng bộ chiến dịch quyết định đổi khẩu hiệu chiến dịch từ “Đánh nhanh,
thắng nhanh” thành “Đánh chắc, tiến chắc ”(26/1/1954).
Xuất phát từ điều kiện thực tế trang bị, phương tiện của ta có hạn, công tác vận chuyển
tiếp tế bảo đảm khó khăn. Theo kế hoạch tác chiến mới, chiến dịch chủ động làm công
tác chuẩn bị, chủ yếu xây dựng thế trận vững chắc như: Làm đường vận chuyển, xây
dựng các trận địa pháo binh thật kiên cố, bí mật, triển khai đội hình bao vây chặt các
cứ điểm vòng ngoài, chú trọng chia cắt địch phản kích đường bộ, khống chế đường
không, tạo thế cô lập quân địch trong tập đoàn cứ điểm và địch trên chiến trường khác.
Thế trận của Đại đoàn 312 triển khai tiến công vào trung tâm đề kháng Him Lam;
Trung đoàn 165 của Đại đoàn 312 và Trung đoàn 88 của Đại đoàn 308 triển khai tiến
công vào đồi Độc Lập; Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 triển khai tiến công vào trung
tâm Bản Kéo; Đại đoàn 316 (thiếu Trung đoàn 176) tổ chức nghi binh và bí mật xây
dựng trận địa tiến công ở phía Đông Phân khu Trung tâm; Trung đoàn 57 (Đại đoàn
304) tổ chức hỏa lực kiềm chế pháo binh địch ở phân khu Hồng Cúm.

Thế trận của các đơn vị pháo binh được bố trí phân tán, nhưng tập trung được hỏa lực
ở mức cao. Trung đoàn Pháo binh 45 (pháo 105mm), lấy đội hình đại đội để bố trí
trong đội hình cụm pháo từ Đông Bắc Hồng Cúm đến Tây Bản Kéo, trên vòng cung
hơn 30km, nhưng tập trung được hỏa lực trong các trận đánh then chốt quyết định ở
khu vực trung tâm, bảo đảm bắn được hầu hết các mục tiêu ở cự ly bắn có lợi nhất (5
đến 7 km). Trung đoàn Pháo binh 675 và các đơn vị cối 120mm bố trí tập trung ở
hướng Đông và Đông Bắc Điện Biên Phủ. Trận địa sơn pháo và cối 120mm thọc sâu,
kịp thời cơ động bố trí trên Đồi E, Đồi D khi bộ binh vừa đánh chiếm được. Đặc biệt,
trận địa sơn pháo 75 thọc sâu, bố trí trên Đồi E, tạo nên thế bất ngờ, rất hiểm đối với
địch.

Trên cơ sở thế bố trí ban đầu vững chắc, chiến dịch liên tục củng cố, điều chỉnh lực
lượng đánh chiếm, tiêu diệt các cứ điểm đề kháng ngoại vi, bao vây, thắt chặt, thu hẹp
dần phạm vi chiếm đóng của địch. Trước hết, cần tiêu diệt ba cứ điểm đề kháng Him
Lam, Độc Lập và Bản Kéo, phá vỡ thế trận phòng ngự của địch. Trong 5 ngày với hai
trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng, ta đã đập tan hệ thống phòng ngự tiền tiêu của
địch, mở thông cửa xuống vùng lòng chảo, tạo điều kiện thuận lợi để các lực lượng áp
sát khu trung tâm.

Đây là thắng lợi mở đầu rất quan trọng không chỉ về quân sự mà còn đánh mạnh vào
tinh thần, tâm lý địch, làm cho chúng vô cùng hoảng sợ, đối phó lúng túng. Tuy ta đã
chiếm được cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, nhưng địch vẫn còn bốn trung
tâm đề kháng, gồm trên 30 cứ điểm liên kết chặt chẽ với nhau nằm giữa cánh đồng
bằng phẳng trên hai bờ sông Nậm Rốm. Địch ở đây tập trung khoảng một vạn quân, có
sở chỉ huy, các căn cứ hỏa lực, các đơn vị xe tăng và sân bay.

Trước tình hình đó, ta chủ trương dùng lực lượng nhỏ, hoạt động rộng rãi dưới các
hình thức đánh lấn, phá hủy từng ụ đề kháng, tiêu diệt thêm một số vị trí địch; bắn tỉa
tiêu hao địch rộng rãi, làm cho binh lính địch luôn ở trạng thái căng thẳng; đánh chiếm
sân bay, thắt chặt vòng vây, thu hẹp không phận, khống chế máy bay, hạn chế tiến tới
triệt hẳn nguồn tiếp tế và tăng viện của địch.

Trên thực tế, từ trung tuần tháng 4, quân ta đã từng bước làm thay đổi cục diện chiến
trường. Sân bay địch đã bị chiến hào ta cắt đôi, hai vị trí sát sân bay là Điểm cao 105
và 206 bị các đơn vị của ta vây lấn và đánh chiếm. Máy bay địch không thể lên xuống
hoặc thả dù tiếp tế xuống khu vực sân bay. Hai trận địa pháo binh địch ở Điểm cao
307A và 307B bị pháo lựu của ta loại khỏi vòng chiến đấu. Các tổ bắn tỉa được tổ chức
rộng khắp và hoạt động thường xuyên đã gây nên nỗi kinh hoàng đối với binh lính
địch.

Trên hết, vòng vây của quân ta ngày càng siết chặt, nhưng song song đó quân Pháp
không thể tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ, vì lực lượng cơ động của chúng
đã bị quân và dân ta ghì chặt trên những địa bàn chiến lược. Phối hợp với Điện Biên,
quân và dân ta tổ chức những trận đánh vào các sân bay Gia Lâm (Hà Nội), Cát Bi
(Hải Phòng), ngăn chặn cầu hàng không tiếp tế cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Điều
đó cho thấy sự phối hợp nhịp nhàng giữa chiến trường chính Tây Bắc - Điện Biên Phủ
với các chiến trường khác "chia lửa" với Điện Biên Phủ, đã tạo thế bao vây, tiến công
liên tục, đẩy đối phương đến bước đường cùng và đi tới thất bại.
3. Phát huy sức mạnh tác chiến
Đúng theo chiến lược của Đảng ta, bộ đội chính quy ngày càng lớn mạnh cả về chất
lượng và số lượng, tập trung cho cuộc chiến tại Điện Biên Phủ nhưng vẫn đảm bảo
những vị trí quan trọng khác. Đây là trận công kiện lớn nhất, gồm bốn sư đoàn bộ binh
và một sư đoàn pháo binh, là lần đầu tiên ta phối hợp đánh hiệp đồng các binh chủng
bộ binh và pháo binh.

So sánh lực lượng giữa ta và địch, ta có nhiều lợi thế về bộ binh. Tuy nhiên, Pháp cũng
là một nước mạnh về mặt quân sự, sở hữu những đơn vị hùng hậu đã từng tham gia
chiến tranh thế giới và luôn giành chiến thắng. Về pháo binh, Pháp hơn hẳn ta khi có
những khẩu pháo hạng nặng như 155mm, có thể oanh tạc xa và gây những thiệt hại
nghiêm trọng tại mục tiêu. Hơn nữa chúng còn có ưu thế tuyệt đối về xe tăng, máy
bay. Ngoài ra, trận địa tại Điện Biên Phủ của Pháp là một pháo đài bất khả xâm phạm,
với 8 cụm cứ điểm với hỏa lực nhiều tầng rất mạnh, tập trung thành ba phân khu Trung
tâm, Phân khu Bắc và Phân khu Nam.

Sau khi nghiên cứu cách bố trí lực lượng và điểm yếu của địch, Quân đội nhân dân ta
đã đề ra cách đánh là thực hiện chia cắt và tập trung hỏa lực, tiêu diệt từng cứ điểm
một, song song đó, quân ta tấn công nhiều điểm cùng một lúc, khiến địch không thể
tập trung hay hỗ trợ lẫn nhau.

Mở đầu là cuộc tấn công vào Trung tâm đề kháng Him Lam - lá chắn của địch ở phía
Đông ngày 13/3/1954. Pháo binh ta nhắm thẳng vào các mục tiêu địch, dọn đường cho
bộ binh xông lên tiêu diệt từng vị trí, từng tên địch trong các hầm trú ẩn. 5 giờ sau toàn
bộ Him Lam hoàn toàn thất trận và được kiểm soát bởi quân đội ta. Liên tiếp hai ngày
sau đó lần lượt các cứ điểm Độc Lập và Bản Kéo cũng nhanh chóng bị xóa sổ, mở
toang cánh cửa phía Bắc và Đông Bắc vào khu trung tâm Mường Thanh.

Đặc biệt, ta thực hiện tiến công cả ba quả đồi ở Him Lam, bằng cách tiến hành thọc
sâu chia cắt và tiêu diệt riêng rẽ từng ngọn đồi một vào cùng một thời điểm, do đó
chúng không thể hỗ trợ cho nhau, cũng có nghĩa là ta đã phân tán được hỏa lực của đối
phương, vốn được trang bị rất mạnh để hỗ trợ nhau trên ba quả đồi. Điều này đã tạo
điều kiện cho ta tiến công và tiêu diệt thành công từng mục tiêu một mà tránh được
hỏa lực mạnh nhất của chúng.
4. Thực hành chiến thuật để đánh hạ địch
Thực tế đã cho thấy, ta đã có thời gian xây dựng và hình thành một hệ thống giao
thông hào bao quanh tập đoàn cứ điểm của Pháp, siết chặt vòng vây quanh phân khu
trung tâm. cắt đứt liên lạc giữa các phân khu, đặt các vị trí của địch trong tầm ngắm
của súng, pháo, bộ binh ta. Nhờ đó cấu trúc trận địa của Pháp bị cắt xẻ hoàn toàn theo
ý đồ của chúng ta, địch muốn công hay thủ đều rất khó, chỉ chờ ngày thất bại cận kề.
Chứng tỏ rằng ta đã “vây chặt khóa chắc Pháp tại Điện Biên Phủ.

Với cách đánh “đánh chắc, tiến chắc”, xây dựng trận địa chiến hào từ xa tiến vào gần,
ta thực hiện “vây lấn” tập đoàn cứ điểm địch từ ngoài vào trong, lần lượt tiêu diệt từng
cụm cứ điểm, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Cách đánh này đã phát huy lợi thế
của trận địa tiến công, tổ chức hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng với quy mô lớn, tiến
hành “trói địch lại”, đánh “bóc vỏ”. Cách đánh này, ta hạn chế sở trường vốn là những
thế mạnh của quân Pháp là pháo binh, máy bay và chiến hào, đồng thời khoét sâu vào
những mặt yếu cơ bản của chúng là ý chí và tiếp tế bảo đảm vật chất, vốn là nhược
điểm cốt tử của quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ngày đó và tạo điều kiện
cho quân đội của ta có điều kiện để điều tra, nghiên cứu nắm chắc địch ở mục tiêu
định tiến công, có thời gian chuẩn bị chu đáo, bảo đảm chắc thắng mới đánh, rút kinh
nghiệm của trận trước bổ khuyết cho trận sau.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, với phương châm "đánh chắc, tiến chắc" và sự
chỉ đạo chiến thuật kịp thời, chính xác bằng xây dựng trận địa chiến hào từ xa tiến vào
gần, lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm của địch; với sự chi viện của pháo binh và
phòng không, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,
giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử, làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta
và địch.

Ta tập trung tấn công các vị trí hiểm như sân bay, kho xăng, trại lính để triệt tiêu sức
mạnh địch nhiều nhất có thể, tích cực du kích quấy rối. Nhờ đó ta không chỉ làm chủ
bầu trời mà còn khiến địch tổn thất người và của rất lớn. Ta còn lập nhiều phong trào
khuyến khích quân sĩ tích cực chiến đấu: “săn đầu Tây”, săn Tây bắn tỉa, cướp dù tiếp
tế, nghi binh tập kích, và còn hơn nữa. Nhờ vận dụng linh hoạt chiến thuật nêu trên,
Chiến dịch Thượng Lào (1954) do Đại đoàn 308 tiến hành đã thu hút mạnh mẽ sự chú
ý, theo dõi của quân Pháp trên chiến trường Đông Dương, nghi binh đánh lạc hướng
chúng về Thượng Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng tham gia Chiến dịch
Điện Biên Phủ chuẩn bị tốt mọi mặt, thực hiện thắng lợi phương châm tác chiến mới.

Vào tháng 4, ta đã hình thành thế trận uy hiếp mạnh phân khu trung tâm và chuẩn bị
đầy đủ các điều kiện chắc thắng để chuyển sang đợt tiến công cuối cùng. Bước vào đợt
ba (1/5 đến 07/5/1954), trên cơ sở kết quả chiến đấu của hai đợt trước, quân ta tiếp tục
đánh chiếm cụm cứ điểm cuối cùng của quân Pháp ở phía đông, chuyển sang tổng
công kích đánh chiếm toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ vào chiều 7/5. Điểm
phát triển đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch trong đợt ba là xác định đúng thời cơ đánh
đòn quyết định cuối cùng. Thời cơ đúng là khi phát hiện địch có triệu chứng tháo chạy,
lập tức hình thành lực lượng thọc sâu, tiến thẳng vào Sở chỉ huy của đối phương, bắt
tướng chỉ huy và Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm. Khắc phục chỗ mạnh của địch
về pháo binh, không quân và xe tăng, quân ta đã xây dựng một hệ thống trận địa tiến
công và bao vây, đánh gần, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta triển khai, vận động
dưới làn hỏa lực địch. Cùng với việc hạn chế đến mức tối đa chỗ mạnh của địch, chúng
ta còn tìm ra các giải pháp chiến thuật để khoét sâu những nhược điểm của chúng. Như
vậy, bộ đội ta đã khéo léo kết hợp những biện pháp kỹ thuật với các giải pháp chiến
thuật, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chiến thuật đặt ra ở chiến dịch này.

Để khắc phục “vành đai trắng” của địch ta dùng chiến thuật “bôn tập”. Bộ đội ta phải
vừa cơ động từ xa đến, vừa tiến công dứt điểm, vừa cơ động về vị trí an toàn trong
đêm. Chiến thuật phục kích là chiến thuật sở trường của lực lượng vũ trang ta được cả
ba thứ quân vận dụng thành thạo. Chiến thuật tập kích ở giai đoạn trước ít được vận
dụng ở quy mô vừa, thì trong thời kỳ này được vận dụng cả ở quy mô tiểu đoàn, trung
đoàn tăng cường đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chiến đấu chống càn diễn ra phổ biến đối
với bộ đội địa phương, dân quân du kích và các đơn vị chủ lực tác chiến trong địch
hậu. Chiến thuật của du kích được phát triển hết sức sáng tạo và phong phú bằng vũ
khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch ngày một nhiều. Phát huy ưu thế chính trị
tinh thần và quen thạo địa hình, cách đánh du kích ngày càng phát huy hiệu quả cao và
đã phối hợp đắc lực với chiến tranh chính quy. Nghệ thuật quân sự của ta coi trọng yếu
tố bất ngờ, bởi nó là một yếu tố tạo nên thế mạnh. Trong rất nhiều trận đánh, nhiều
chiến dịch, ta đã làm cho địch bị bất ngờ về hướng, về mục tiêu, về thời gian, về cách
dùng lực lượng và phương tiện, quy mô và cách đánh. Về tổng quát, quân và dân ta đã
làm cho địch bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu, đẩy quân địch thường
xuyên lâm vào thế bị động đối phó.

Ngoài ra, khi tham gia chiến đấu ta chiếm đến đâu tổ chức phòng ngự nay đến đó,
biến cứ điểm địch thành trận địa phòng ngự và bao vây của ta, hình thành hệ thống
trận địa tiến công vây hãm địch ngày càng chặt, cuối cùng dồn quân địch vào thế có
thể bị tiêu diệt nhanh chóng và vào những ngày cuối cùng của chiến dịch đã có hàng
nghìn binh sĩ Pháp ra đầu hàng do thất bại không thể tránh khỏi tại tập đoàn cứ điểm
đã được phòng của thời đại mới với mục đích để bảo vệ thành quả cách mạng từ Cách
Mạng tháng Tám ngự và bao vây chắc chắn.

5. Nghệ thuật tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân
Điềm thành công đầu tiên trong việc tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chủ động tạo lập thế trận Chiến dịch Điện Biên Phủ trên
nền tảng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, toàn dân kháng chiến. Sự kết hợp
nhuần nhuyễn loại hình chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy đã trở thành nét
đặc sắc về cách đánh của chiến tranh nhân dân, từ đó tạo ra thế trận tác chiến rộng
khắp, đánh địch với nhiều loại hình, quy mô: từ đánh nhỏ, lẻ của lực lượng vũ trang
địa phương, du kích trong vùng tạm chiếm, đến đánh tập trung của các binh đoàn chủ
lực ở những địa bàn chiến lược lựa chọn. Trong thực tế, trước khi Chiến dịch Điện
Biên Phủ nổ súng, ta đã tổ chức một số đơn vị chủ lực “nhỏ” và “tinh” đánh vào các
hướng địch yếu nhưng hiểm, tiêu diệt lực lượng địch tại chỗ và giải phóng một số địa
bàn chiến lược, buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động ra các hướng để đối phó.
Thế trận của Chiến dịch Điện Biên Phủ được tạo lập trong thế trận chiến tranh nhân
dân vô cùng hiểm hóc, lợi hại, giăng ra khắp nơi, đẩy bộ chỉ huy của tướng Na-va phải
hành động theo ý định của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Khối cơ
động chiến lược của địch - “quả đấm mạnh” đã bị dàn mỏng, giam chân ở khắp các
chiến trường Đông Dương, làm cạn kiệt lực lượng ứng cứu cho Điện Biên Phủ, làm so
sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía ta. Bên cạnh đó, thế trận Chiến dịch Điện Biên
Phủ còn được tạo bởi thế trận chiến tranh nhân dân thông qua việc ta đã xây dựng
được “thế trận lòng dân” vững chắc, huy động tối đa sức mạnh tổng hợp của nhân dân
cả nước tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nhất là trong công tác bảo đảm hậu
cần, kỹ thuật cho Chiến dịch; tạo sự bất ngờ lớn cho địch, khi chúng cho rằng với địa
hình hiểm trở, xa hậu phương, ta không thể khắc phục để vận chuyển, tiếp tế đủ lương
thực, thực phẩm, đạn dược,… phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ.

Thứ hai, tích cực chuẩn bị chiến trường, đẩy đối phương vào thế hoàn toàn bất
lợi. Thế trận hiểm hóc, phức tạp làm cho địch không biết đâu mà đối phó, chia địch ra
mà đánh, trói địch lại mà diệt, đánh địch cả phía trước, bên sườn, phía sau, làm cho
địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu. Từ chủ trương chiến lược của Trung ương
Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh đã đề ra Kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954; trong
đó, xác định sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu
diệt quân địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu vực Tây Bắc. Đặc biệt, với nghệ
thuật chỉ đạo chiến lược đúng đắn, ta đã sử dụng lực lượng tuy không nhiều nhưng đã
giành thắng lợi lớn trên nhiều hướng chiến lược đã lựa chọn, nhất là trên hướng Tây
Bắc, buộc địch phải tiếp tục “xé nát” khối chủ lực cơ động chiến lược, lập thêm tập
đoàn cứ điểm phòng ngự ở Điện Biên Phủ, chấp nhận tác chiến với chủ lực ta ở nơi
không có lợi cho chúng. “Vô luận rồi đây địch sẽ thay đổi thế nào, việc địch nhảy dù
xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta, nằm trong dự kiến chung của ta. Tây
Bắc vẫn là hướng chủ yếu”. Địch quyết định chiếm đóng Điện Biên Phủ không nằm
trong “Kế hoạch Na-va”; xây dựng tập đoàn cứ điểm lại được Na-va chọn trong một
thung lũng, bao quanh bởi núi cao, rừng rậm, không thuận lợi cho cơ động, bất lợi cho
các hoạt động tác chiến. Yếu tố này không tập hợp được tổng thể các hoàn cảnh, điều
kiện để tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường nhằm tạo thế có lợi
và phát huy cao nhất sức mạnh chiến đấu ở phạm vi chiến lược. Vì vậy, dù quyết tâm
mở Chiến dịch Điện Biên Phủ ta không dự kiến từ đầu trong Kế hoạch tác chiến Đông
- Xuân 1953 - 1954, nhưng đã nhanh chóng trở thành hướng tiến công chính của Kế
hoạch chiến lược này.

Thứ ba, liên tục điều chỉnh, chuyển hóa thế trận, hình thành thế “vây chặt, khóa
chắc” từng cụm cứ điểm và cả tập đoàn cứ điểm, chia cắt thế liên hoàn của chúng. Mặc
dù dự kiến mở màn Chiến dịch vào ngày 25-01-1954 (sau quyết định vào ngày 13-3-
1954), nhưng ngay từ ngày 05-12-1953, khi phát hiện địch ở Lai Châu rút về Điện
Biên Phủ, Bộ Tư lệnh đã lệnh cho Đại đoàn 316 tiếp tục tiến công giải phóng Lai
Châu; đồng thời, chỉ đạo Đại đoàn 308 (đang ở Sơn La) sử dụng 01 trung đoàn cắt
đường rừng xuống chốt ở Pom Lót, chặn đường địch từ Điện Biên Phủ sang Thượng
Lào. Đối với Đại đoàn 316, sau khi truy kích địch trên đường Lai Châu - Điện Biên
Phủ, đã lập chốt chặn từ Mường Muôn, Mường Pồn đến Pu San và bám địch ở Him
Lam, Bản Tấu. Như vậy, đúng lúc những cứ điểm đầu tiên của địch vừa mới bắt đầu
xây dựng ở Điện Biên Phủ, cũng là lúc các ngả đường Lai Châu - Điện Biên, Tuần
Giáo - Điện Biên, Điện Biên - Sốp Nao, Thượng Lào và cả hai đầu con đường độc đạo
Bắc - Nam dọc cánh đồng Mường Thanh, từ Bản Tấu đến Pom Lót đều bị các lực
lượng của ta án ngữ, hình thành thế bao vây địch về chiến dịch ngay từ ban đầu. Bước
vào quá trình chuẩn bị Chiến dịch theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”,
quân ta đã nhanh chóng hình thành thế bao vây quân địch quy mô lớn hơn, chặt hơn
quanh cánh đồng Mường Thanh. Đặc biệt, khi Bộ Tư lệnh quyết định thay đổi phương
châm chuyển sang “đánh chắc, tiến chắc”, quân ta đã từng bước hình thành thế trận
“trói chặt” địch lại bởi hệ thống chiến hào dài hàng trăm ki-lô-mét được ken dày và
ngày càng siết chặt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, từng phân khu. Mọi kế hoạch tháo
chạy từ Xê-nô-phôn lúc ban đầu, đến “Diều hâu” của Mỹ và cuối cùng là các kế hoạch
“Chim ưng”, “Chim biển” của Pháp đều không thể thực hiện được. Cùng với đó, thế
trận bố trí tập trung binh lực, hỏa lực, nhất là pháo binh hơn hẳn địch đã tạo thế có lợi
để ta giành thắng lợi trong từng trận đánh và kết quả của trận đánh trước tạo thế, tạo đà
cho trận đánh tiếp theo. Ta đã thực hiện tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm ngoại vi,
trước hết là trên các điểm cao khống chế phía Bắc, rồi phía Đông, “bóc vỏ” từ ngoài
vào, mở đường tiến xuống cánh đồng Mường Thanh, tiếp cận và uy hiếp ngày càng
sâu, càng mạnh tung thâm phòng ngự, cuối cùng dứt điểm bằng cuộc tổng công kích
vào phân khu Trung tâm của Tập đoàn cứ điểm, giành thắng lợi hoàn toàn. Với thế
trận vững chắc, hiểm hóc, bám sát, đánh gần, quân ta đã không chỉ “vây chặt, khóa
chắc” địch, mà còn hạn chế đến mức thấp nhất việc phát huy thế mạnh của địch là
quân số đông, hỏa lực mạnh, công sự vững chắc và khoét sâu chỗ yếu lớn nhất của
chúng là ở vào thế bị cô lập, gặp nhiều khó khăn về tiếp tế, tăng viện, từ đó dù cho
địch biết trước thất bại mà không có biện pháp nào có thể cứu vãn.

V. Lời kết và liên hệ thực tiễn hiện nay


Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, là sự
kiện “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến
phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới. Năm 1954, trên vùng đất Tây Bắc của Tổ quốc, quân và dân Việt Nam do Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
phá tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Điện Biên Phủ của thực dân Pháp và sự can thiệp của
đế quốc Mỹ, đã lập nên một mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc, đồng thời
làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh vì độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Từ thực tiễn kháng chiến chống thực dân
Pháp giai đoạn 1946-1954 qua các chiến dịch, nổi bật là chiến thắng Điện Biên Phủ, ta
lại nhận rõ giá trị của nhận định của Giáo sư Carl Thayer: “Chiến thắng Điện Biên
Phủ gửi đi thông điệp: Việt Nam sở hữu một nghệ thuật quân sự có thể đánh bại
bất kỳ đạo quân xâm lăng nào và lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó”. Thực
tiễn đã cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất của cách mạng là sự
lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong đường lối kháng chiến chống Pháp (1945)
để từ thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn. Sự lựa chọn con đường cách mạng
đó phù hợp với nội dung và xu thế cách mạng (1945) và chỉ có đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập tự do thật sự cho dân tộc.
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng: bất cứ thế lực nào dùng sức mạnh để áp đặt ý chí
của mình lên dân tộc khác thì cuối cùng nhất định sẽ thất bại.

Theo đó bản thân là sinh viên theo học khối ngành kinh tế tại trường đại học
Ngoại Thương C.S.II, chúng ta có thể rút ra những bài học từ thực tiễn cách mạng cho
công việc tương lai, cụ thể là:

Qua đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, một trong những bài học quan
trọng là mỗi cá nhân cần phải có mục tiêu lớn khi hành động, và có những mục tiêu
nhỏ để đạt được mục đích cuối cùng. Thực tế hiện nay cũng có thể được chứng minh
rằng, trong một công việc, cần phải có những thắng lợi từng bước mới có thể đi đến
thắng lợi hoàn toàn thắng lợi hoàn toàn. Ngoài ra, đối mặt khó khăn thì mỗi chúng ta
vẫn phải nhất quán thực hiện mục tiêu để dẫn đến thành công, giải phóng dân tộc đánh
đổ đế quốc thì mới có thể thực hiện các mục tiêu khác, phải biết mục tiêu của mình là
gì. Vì “lửa thử vàng gian nang thử sức”.

- Qua mục tiêu kháng chiến: Cần phải xác định kẻ thù trước mắt của chúng ta
khi hoạt động trên chiến trường, hay ngày nay được gọi là thương trường để tập trung
nguồn lực của chúng ta để phát triển lợi thế riêng của doanh nghiệp, ngay cả cá nhân.
Ví dụ, một doanh nghiệp khi cạnh tranh độc quyền cần phải cân nhắc giữa việc thoả
hiệp hoặc lấn sân để có thể mang lại lợi nhuận tối đa trong dài hạn.

- Kháng chiến toàn dân: trong cuộc sống, chúng ta cần phải hiểu được giá trị
của sức mạnh đoàn kết, vì chỉ có phát huy sức mạnh toàn thể, hiểu được văn hoá
doanh nghiệp mới có thể thực hiện được những mục tiêu và bảo vệ những thành quả
của bản thân doanh nghiệp chúng ta.

- Kháng chiến toàn diện: khi đề ra mục tiêu nào đó, chúng ta cần phải kết
nhiều phương pháp khác nhau để có thể đạt được mục tiêu. Không quan trọng đó là
phương pháp nào, không rập khuôn, không cứng nhắc, máy móc, miễn có thể đạt được
mục tiêu cuối cùng, hiệu quả và hiệu suất nhất có thể. Chẳng hạn như phát triển một
sản phẩm thì cần tận dụng yếu tố truyền thông, marketing, kênh phân phối, chuỗi cung
ứng để có thể thâm nhập một thị trường hoàn toàn mới. Chiến lược trong doanh nghiệp
sẽ cần phải có sự mềm dẻo để thực hiện thì mới có thể tồn tại và phát triển trên thương
trường. Một doanh nghiệp không thể nào chỉ để tâm đến định hướng giá cả hoặc chất
lượng mà quên đi các yếu tố về truyền thông, xúc tiến thương mại,...

- Kháng chiến lâu dài: Hoạt động cách mạng là gian khổ, là khó khăn nhưng
vẫn thực hiện để đạt được mục tiêu. Là một sinh viên, điều quan trọng nhất là biết vượt
qua những khó khăn thử thách đặt ra trên giảng đường Đại Học để có thể hoàn thiện
năng lực và nhận thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Sau khi bước chân vào cuộc
sống, những khó khăn, rào cản không biết mất mà cuộc sống trưởng thành lại đặt ra
cho chúng ta những khó khăn khác. Chúng ta cần phải kiên trì, giữ vững ý chí, tự động
viên và có những mục tiêu cho bản thân và phải theo đuổi mục tiêu tới cùng. Đặc biệt,
khi thành lập một Startup (khởi nghiệp) hay đi lên từ hai bàn tay trắng thì bài học về
sự kiên trì lại càng thêm quý giá.

- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: Bản thân mỗi chúng ta phải thật sự
phát huy những tiềm lực, nội lực để có thể hoàn thiện bản thân, song, cần phải biết
tranh thủ sự giúp đỡ từ ngoại lực để có được lợi thế trong một thị trường tự do. Thành
quả công việc là do yếu tố chủ quan quyết định, do sự tự chủ, do chính năng lực bản
thân tạo nên, thành quả do bản thân ta gầy dựng thì sẽ xứng đáng, có ý nghĩa.

Khi làm việc gì đó, chúng ta cần đảm bảo những mục tiêu mà ta đề ra là chính
nghĩa, nằm trong vòng Luật Pháp, Hiến Pháp vì ta biết rằng bất cứ thế lực nào dùng
sức mạnh, quyền lực để áp đặt ý chí của mình lên và có những âm mưu phi nghĩa thì
cuối cùng nhất định sẽ thất bại. Chẳng hạn như những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh sẽ dẫn đến văn hoá tẩy chay doanh nghiệp, những hành vi phá hoại, bất hợp
pháp trao đổi bí mật kinh doanh hay hạ bệ doanh nghiệp khác sẽ mau chóng lụi tàn.

Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, thực tiễn trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp chứng minh rằng bản thân cần phải có thời gian chuẩn bị,
không nóng vội về tư tưởng, phải đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cách mạng thì hiện
nay, bài học đó vẫn không mất đi giá trị. Khi bản thân mỗi người luôn cần không
ngừng chuẩn bị cho mọi sự việc trong cuộc sống. Là một doanh nghiệp, cần phải xây
dựng đội ngũ chuyên môn, nghiệp vụ lớn mạnh để đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi
của thị trường.

THAM KHẢO

Phương châm kháng chiến: Link 1; Link 2; Link 3

Xây dựng thế trận chia cắt, cô lập ở Điện Biên Phủ: Link 1 Link 2

Nghệ thuật tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân Link

Cơ sở đường lối kháng chiến chống Pháp: Link 1

Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp: Link 1

Chiến thuật quân sự: Link1; Linh2; Link 3

Nguyên nhân: link

You might also like