Professional Documents
Culture Documents
Những vấn đề chủ yếu trong điều tra thống kê
Những vấn đề chủ yếu trong điều tra thống kê
MỤC LỤC............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
1. Khái niệm....................................................................................................4
II. Các loại điều tra thống kê...................................................................................................6
1. Căn cứ vào tính liên tục, tính hệ thống của các cuộc điều tra, ta có thể
phân biệt hai loại điều tra thống kê. ..............................................................6
2. Căn cứ vào phạm vi của đối tượng được điều tra thực tế, điều tra thống
kê được phân thành 2 loại:.............................................................................7
III. Các hình thức của điều tra thống kê ................................................................................9
5. Biểu mẫu điều tra và bản giải thích cách ghi biểu....................................18
VI. Sai số trong điều tra thống kê.........................................................................................18
1. Khái niệm và các loại sai số trong điều tra thống kê.......................................................18
Phần II: Vận dụng xây dựng phương án điều tra thống kê điểm trung bình học
tập của sinh viên K47I trường đại học Thương Mại...........................................19
I. Xây dựng phương án điều tra thống kê điểm trung bình học tập của sinh viên K47I
trường đại học Thương Mại. ...............................................................................................19
2. Về phiếu điều tra cũng như nội dung câu hỏi trong phiếu điều tra...........23
KẾT LUẬN.........................................................................................................24
Thống kê nghiên cứu hiện tượng số lớn, do đó việc thu thập tài liệu thường
tiến hành trong phạm vi rộng, gồm nhiều đơn vị tổng thể rất phức tạp, đòi hỏi
việc thu thập tài liệu phải được chuẩn bị chu đáo, tổ chức khoa học và theo kế
hoạch thống nhất, mới đem lại kết quả điều tra đúng đắn, đáp ứng yêu cầu
nghiên cứu.
Điều tra thống kê được thực hiện đối với các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
trong trường hợp:
- Thu thập những thông tin thống kê từ các tổ chức không phải từ chế độ báo
cáo thống kê.
- Khi cần bổ sung thông tin từ các tổ chức có thực hiện chế độ báo cáo thống kê.
- Thu thập thông tin từ các hộ hoặc cơ sở kinh doanh cá thể, hộ gia đình, cá
nhân.
- Thu thập thông tin thống kê khi có nhu cầu đột xuất.
Ví dụ :
- Để tiến hành công tác tổng kiểm kê đất đai trên toàn quốc chúng ta phải
tiến hành thu thập tài liệu, số liệu, bản đồ,…trên địa bàn từng xã, huyện, tỉnh do
đó công tác chuẩn bị và tiến hành công tác này rất công phu.
- Điều tra dân số trên quy mô toàn quốc, chúng ta phải tiến hành thu thập
tài liệu về từng người dân như : họ tên, tuổi, giới tính trình độ văn hóa, dân tộc,
tôn giáo,…
2. Nhiệm vụ
3. Ý nghĩa
Số liệu điều tra thống kê là cơ sở để xây dựng kế hoạch và đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Nó giúp Đảng và
Nhà nước năm được thực trạng nền kinh tế đất nước, từ đó có biện pháp tích
cực để khai thác tài nguyên khoáng sản và nhân lực của đất nước. Trên cơ sở tài
liệu của điều tra thống kê Đảng và Nhà nước có chủ trương đường lối chính
sách phát triển và quản lý kinh tế xã hội phù hợp.
Điều tra thống kê, nếu được tổ chức theo những nguyên tắc khoa học, chặt
chẽ, sẽ đáp ứng được nhiều yêu cầu khác nhau về lý thuyết cũng như thực tế.
- Trước hết, tài liệu do điều tra thông kê thu được là căn cứ tin cậy để kiểm tra,
đánh giá thực trạng của hiện tượng nghiên cứu. Điều tra thống kê sẽ giúp cho
các doanh nghiệp, các tổ chức và đặc biệt là các cơ quan quản lý sẽ đánh giá
khách quan , chính xác hơn về tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa. Từ đó, các
doanh nghiệp có thể đưa ra những chiến lược phát triển cho công ty mình để thu
được nhiều lợi nhuận hơn từ việc đầu tư kinh doanh. Nhà nước nắm được tình
trạng của đất nước, có biện pháp tích cực để khai thác tài nguyên khoáng sản và
nhân lực của đất nước và từ đó đề ra được chủ trương đường lối chính sách phát
triển cho đất nước.
- Thứ hai, tài liệu điều tra là cơ sở tiến hành các bước tiếp theo của quá trình
nghiên cứu thống kê. Vì thế, tài liệu điều tra phải được thu thập theo đúng nội
dung và đảm bảo đầy đủ về số lượng chỉ tiêu, số đơn vị tổng thể. Mặt khác, tài
liệu điều tra phải cung cấp đúng thời gian quy định mới tạo điều kiện thuận lợi
để tiến hành các bước tiếp theo của quá trình nghiên cứu thống kê.
- Thứ ba, những tài liệu điều tra thống kê cung cấp một cách hệ thống còn là căn
cứ cho việc phát hiện, xác định xu hướng, quy luật biến động của hiện tượng và
- Điều tra thường xuyên là tiến hành thu thập tài liệu của hiện tượng một cách
liên tục, theo sát quá trình phát sinh, phát triển của hiện tượng. Loại điều tra này
thường áp dụng cho các hiện tượng cần theo dõi thường xuyên do nhu cầu quản
lý.
+ Ví dụ: ghi chép số công nhân, cán bộ nhân viên đi làm hàng ngày, khối lượng
sản phẩm sản xuất, lượng hàng hóa mua bán hàng ngày… ở doanh nghiệp. Điều
tra thường xuyên có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ… tài liệu điều tra thường xuyên là căn cứ để tổng hợp và lập báo
cáo thống kê định kỳ, tạo điều kiện thuân lợi cho phân tích, dự đoán thống kê.
+ Điều tra thường xuyên là loại điều tra mang tính ổn định lặp đi lặp lại theo
thời gian và thường không thay đổi. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu nội dung
điều tra có thể là một hoặc nhiều chủ đề kết hợp lại. Do đó, một đặc điểm chung
của chương trình điều tra thường xuyên là kỹ thuật điều tra được đảm bảo và do
tiến hành thường xuyên theo những chủ đề khác nhau nên cơ quan điều tra có
điều kiện tổng kết được kinh nghiệm về phương pháp và tổ chức điều tra. Mặt
khác, áp dụng loại điều tra này có điều kiện nâng cao từng bước chất lượng của
số liệu và hạn chế được những lãng phí không cần thiết.
- Điều tra không thường xuyên là tiến hành thu thập tài liệu của hiện tượng
không liên tục. Điều tra không thường xuyên được tiến hành vào một thời điểm
nhất định. Kết quả điều tra phản ánh trạng thái của hiện tượng tại một thời điểm.
+ Ví dụ: Điều tra dân số, điều tra tài sản cố định, điều tra về hàng hóa tồn kho,
điều tra chăn nuôi… Điều tra không thường xuyên áp dụng với những hiện
tượng ít biến động hoặc những hiện tượng biến động liên tục nhưng không có
khả năng và điều kiện tiến hành điều tra thường xuyên.
2. Căn cứ vào phạm vi của đối tượng được điều tra thực tế, điều tra thống kê
được phân thành 2 loại:
a. Điều tra toàn bộ
- Điều tra toàn bộ là tiến hành thu thập tài liệu trên tất cả các đơn vị tổng thể
của hiện tượng nghiên cứu.
+ Ví dụ: Điều tra hàng tồn kho cuối năm ở một doanh nghiệp thương mại, điều
tra dân số ở một địa phương, khu vực hoặc toàn quốc… điều tra toàn bộ cung
cấp đầy đủ tài liệu của từng đơn vị tổng thể cho quá trình nghiên cứu thống kê,
tọa điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu thống kê. Song, tiến hành điều
tra toàn bộ đòi hỏi phải tốn kém nhiều về chi phí thời gian và nhân lực hơn so
với điều tra không toàn bộ, nên không thể áp dụng thường xuyên đối với tất cả
hiện tượng được, nhất là những hiện tượng có phạm vi rộng, số đơn vị tổng thế
quá nhiều, tính chất phức tạp
- Điều tra không toàn bộ là tiến hành thu thập tài liệ trên một số đơn vị của tổng
thể. Số đơn vị tổng thể này được chọn ra từ tổng thể chung theo phương pháp
ngẫu nhiên hoạc không ngẫu nhiên. Kết quả điều tra là căn cứ để suy rộng, nhận
định chung về hiện tượng nghiên cứu.
+ Ví dụ: Điều tra chất lượng sản phẩm, điều tra năng xuất sản lượng cấy trồng
+ Điều tra không toàn bộ tiến hành nhanh gọn, ít tốn kém, đảm bảo yêu cầu tạm
thời. Mặt khác, do pham vị điều tra hẹp, số đơn vị điều tra ít nên có thể mở rộng
nội dung điều tra, đi sâu vào nhiều chi tiết khác nhau của đối tượng nghiên cứu.
Kết quả của điều tra không toàn bộ không đầy đủ chi tiết bằng điều tra toàn bộ,
nhất là khi suy rộng tài liệu cho toàn tổng thể thì độ chính xác của tài liệu chỉ ở
mức độ hạn chế.
o Ví dụ: Điều tra giá cả thị trường, tình hình thu thập và đời sống dân cư,
năng suất thu hoạch cây trồng áp dụng điều tra điển hình. Kiểm tra chất
lượng sản phẩm hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, áp dụng điều tra
chọn mẫu ngẫu nhiên.
o Kết quả của điều tra chọn mẫu cho ta suy rộng thành đặc điểm của toàn
bộ tổng thể chung. Tiến hành điều tra chọn mẫu thường nhanh gọc tiết
kiệm. Kịp thời. Đảm bảo chất lượng của nội dung điều tra.
Trong điều tra chọn mẫu người ta lưu ý đến 2 vấn đề:
Lựa chọn các đơn vị mẫu sao cho đại diện cho toàn bộ tổng thể.
Sử dụng công thức nào để tính toán cho toàn bộ tổng thể.
+ Điều tra trọng điểm: Là tiến hành thu thập tài liệu trên bộ phận chủ yếu nhất
là của hiện tượng nghiên cứu.
o Ví dụ: Điều tra về tình hình sản xuất chè, cà phê, cây cao su, cây đay,
lúa…
o Kết quả điều tra giúp ta nhận thức được tình hình cơ bản của hiện tượng,
không dung để suy rộng thành đặc điểm của tổng thể chung. Điều tra
trọng điểm thường áp dụng với những hiện tượng thuộc ngành nông lâm
thủy sản, vì những ngành này sản xuất tập trung, chuyên môn hóa theo
vùng, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu.
+ Điều tra chuyên đề là tiến hành thu thập tài liệu trên một số rất ít, thậm chí
một đơn vị tổng thể nhưng đi sâu nghiên cứu vào nhiều khía cạnh khác nhau của
đơn vị đó.
o Kết quả của điều tra chuyên đề này giúp ta tìm ra những nhân tố mới, tích
cực để rút kinh nghiệm trong chỉ đạo và quản lý, mặt khác tìm ra nguyên
nhân và giải pháp cụ thể góp phần thúc đẩy hiện tượng phát triển tốt hơn.
Tài liệu điều tra chuyên đề không dung suy rộng hoặc đánh giá chung về
hiện tượng, mà chỉ giúp ta nghiên cứu sâu hiện tượng, tìm ra những nhân
tố tích cực những mặt mạnh yếu để có giải pháp hữu hiệu, giúp cho việc
chỉ đạo chung của toàn bộ hiện tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp thu thập tài liệu trong điều tra thống kê.
Trong điều tra thống kê là một vấn đề cốt lõi để đưa đến phân tích, kết luận
chính xác trong nghiên cứu thống kê. Chính vì vậy phương pháp thu thập thông
tin cũng rất cần được quan tâm. Nhưng khi tiếp xúc với một đối tượng hay một
Nhân viên điều tra trực tiếp quan sát hoặc tiến hành cân, đong, đo, đếm, rồi
ghi chép vào phiếu điều tra. Kết quả điều tra trực tiếp bảo đảm mức độ chính
xác cao, có thể phát hiện sai sót để chỉnh lý kịp thời. Phương pháp này tốn kém
về chi phí và thời gian, vì vậy theo yêu cầu nghiên cứu mà người ta áp dụng
phương pháp điều tra trực tiếp hay gián tiếp. VD: Thống kê hàng hóa tồn kho,
kiểm kê tài sản cố định…
Nhân viên điều tra thu thập tài liệu của hiện tượng qua điện thoại, phiếu
điều tra, báo cáo thống kê, thư từ, fax, internet. Kết quả điều tra gián tiếp phụ
thuộc vào đơn vị được điều tra, chất lượng và mức độ chính xác của tài liệu còn
hạn chế, nhân viên điều tra khó phát hiện sai sót để xử lý kịp thời. Phương pháp
này có ưu điểm là tiến hành nhanh gọn, kịp thời và đỡ tốn kém.
+ Phương pháp phái viên điều tra (phỏng vấn trực tiếp): nhân viên điều tra gặp
trực tiếp đối tượng điều tra đặt câu hỏi và nghe câu trả lời
+ Phương pháp tự ghi báo cáo: đối tượng được điều tra sau khi nghe hướng dẫn
tự ghi số liệu vào phiếu điều tra rồi nộp cho cơ quan điều tra
+ Phương pháp gửi thư: Cơ quan điều tra và đối tượng điều tra không trực tiếp
găp nhau mà chỉ trao đổi tài liệu hướng dẫn và phiếu điều tra băng cách thông
qua bưu điện.
Bên cạnh đó, người ta thường chia thành các phương pháp sau:
Phương pháp phỏng vấn là phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua
sự tiếp xúc giữa người hỏi và người trả lời. Căn cứ vào điều kiện thực tế người
nghiên cứu sẽ quyết định lựa chọn phương pháp nào để tiếp xúc với người được
phỏng vấn.
Đặc điểm:
- Cần chú ý đến những vấn đề về tâm lý khi đặt câu hỏi và những nguyên tắc
tâm lý trong việc sắp xếp bảng hỏi đều phải hướng vào người trả lời.
Ưu điểm:
- Tiết kiệm thời gian và chi phí cũng như công sức cán bộ điều tra.
- Thông tin thu được khách quan, không bị ảnh hưởng bởi thái độ người hỏi.
- Nguyên tắc nặc danh được đảm bảo trong phỏng vấn.
Hạn chế:
Lưu ý: trong phương pháp này muốn tăng số phiếu trả lời cần chú ý một số biện
pháp như:
- Gửi thư nhắc tại kèm theo bảng câu hỏi đề phòng thư lần trước thất lạc.
Là phương pháp mà người phỏng vấn và người trả lời tham gia một cuộc
nói chuyện riêng hay còn gọi là trò chuyện có chủ định. Tức đây là một cuộc
nói chuyện có mục đích và là quá trình giao tiếp một chiều do người phỏng vấn
điều khiển.
Ưu điểm:
- Việc tiếp xúc trực tiếp tạo ra những điều kiện đặc biệt để hiểu đối tượng sâu
sắc hơn.
Hạn chế:
- Không cẩn thận câu trả lời sẽ bị ảnh hưởng bởi thiên kiến của điều tra viên.
Lưu ý: cuộc phỏng vấn phải đảm bảo không gây hậu quả cho người được phỏng
vấn về bản thân những giả định của người phỏng vấn và đảm bảo nguyên tắc
nặc danh.
Phỏng vấn trực diện nếu phân theo nội dung và trình tự phỏng vấn thì có 5 loại
là: phỏng vấn tiêu chuẩn hóa, phỏng vấn bán tiêu chuẩn, phỏng vấn tự do,
phỏng vấn sâu và phỏng vấn định hướng. Ngoài ra phỏng vấn trực diện còn
được phân theo đối tượng tiếp xúc, gồm có 2 loại là: phỏng vấn cá nhân và
phỏng vấn nhóm.
Phương pháp phỏng vấn qua điện thoại là một loại phỏng vấn trực diện
nhưng người phỏng vấn và đối tượng phỏng vấn không gặp mặt trực tiếp.
Ưu điểm:
Hạn chế:
- Mất nhiều công sức để chọn số điện thoại mà đôi khi vẫn không được như
mong muốn.
- Làm giảm hứng thú khi phỏng vấn qua điện thoại.
- Việc đưa ra các gợi ý hay hỗ trợ thêm bằng quan sát là khó thực hiện được.
Lưu ý: phương pháp phỏng vấn này cần chú ý cách tiếp cận và chú ý lịch sự khi
nói chuyện.
Phương pháp này dùng trong việc nghiên cứu dự định, thăm dò khi chưa có
khái niệm rõ ràng về vấn đề nghiên cứu và không có yêu cầu về tính đại diện.
Phương pháp này còn dùng trong việc nghiên cứu miêu tả với quy mô
không lớn và thường được dùng để thu thập thông tin sơ cấp.
Hạn chế:
- Nhiều nội dung khác nhau trong nghiên cứu không thể thực hiện được bằng
phương pháp quan sát.
* Theo tính chất tham gia, phương pháp quan sát được chia làm 2 loại:
- Quan sát có tham dự:Là hình thức quan sát trong đó người quan sát trực tiếp
tham gia vào quá trình hoạt động của đối tượng quan sát. Gồm có quan sát kín,
quan sát trung lập,quan sát tham dự thông thường và quan sát tham dự tích cực.
Phương pháp này có thể thu thập được thông tin một cách toàn diện, tránh được
các ấn tượng tức thời ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu tham dự tích cực hoặc quá lâu
có thể mang lại hậu quả không tốt, chẳng hạn mất tính khách quan trong việc
thu thập thông tin hay chủ quan bỏ qua những diễn biến mới trong phản ứng của
các thành viên trong tập thể.
Trong phương pháp này người quan sát hoàn toàn đứng ngoài không can thiệp
vào quá trình xảy ra và không đặt câu hỏi. Do đặc điểm đó nên khi dung phương
pháp này thường không thấy được nội tình do vậy những điều giải thích không
phải lúc nào cũng đúng.
Là sự quan sát không được định trước là sẽ tiến hành vào một thời điểm nào đó
mà hoàn toàn ngẫu nhiên. Do vậy đảm bảo được tính khách quan cao trong
thông tin ghi chép được.
Là quan sát mà trong đó những yếu tố cần quan sát được vạch sẵn trong chương
trình, được tiêu chuẩn hóa trong các bảng, phiếu hoặc biên bản quan sát kết hợp
với việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Đây là hình thức sử dụng rộng rãi nhất trong quan sát thực nghiệm và ít được
dùng trong nghiên cứu thăm dò.
Là hình thức quan sát trong đó không xác định trước các yếu tố hoặc tình huống
sẽ quan sát mà chỉ xác định bản thân đối tượng nghiên cứu trực tiếp.
Đây là hình thức thường được thực hiên trong nghiên cứu thăm dò và ít được
dùng trong nghiên cứu miêu tả.
Quan sát thực trạng của hiện tượng cuộc sống với một số nội dung được chuẩn
hóa còn một số nội dung thì không.
Là quan sát trong đó những điều kiện của môi trường xung quanh và tình huống
quan sát đã được quy định sẵn.
Mục đích điều tra còn là căn cứ quan trọng xác định đối tượng, đơn vị điều
tra, xây dựng kế hoạch và nội dung điều tra. Vì vậy, việc xác định rõ và đúng
Bất cứ một hiện tượng nào khi nghiên cứu cũng được tìm hiểu ở nhiều góc
độ khác nhau. Song, trong điều tra thống kê thì không thể và không nhất thiết
phải điều tra tất cả các khía cạnh của hiện tượng mà chỉ nên tập trung khảo sát
những khía cạnh có liên quan trực tiếp, phục vụ yêu cầu nghiên cứu.
Căn cứ để xác định mục đích điều tra thường là những nhu cầu thực tế cuộc
sống, nhu cầu hoàn chỉnh lý luận … những nhu cầu này biểu hiện một cách trực
tiếp bằng các yêu cầu, đề nghị, mong muốn của cơ quan chủ quản …
Ví dụ: nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên
K47I trường ĐH Thương Mại. Mục đích điều tra là nhằm thu thập những dữ
liệu phản ánh kết quả học tập của sinh viên từ 1-3 học kì gần đây và các yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả học tập. Các dữ liệu khác có liên quan đến sinh viên
nhưng không cần thu thập như: sinh viên trọ ở đâu, quê quán…
Đối tượng điều tra là tổng thể các đơn vị thuộc hiện tượng nghiên cứu có
các dữ liệu cần thiết khi tiến hành điều tra. Xác định đối tượng điều tra là xác
định xem những đơn vị tổng thể nào thuộc phạm vi điều tra, cần được thu thập
thông tin.
Trong VD trên, đối tượng điều tra là các sinh viên đang học ít nhất 3 học kì
gần đây của k47i trường ĐH Thương Mại.
Xác định đối tượng điều tra đúng giúp chúng ta xác định đúng số đơn vị
điều tra, tránh được những nhầm lẫn khi thu thập dữ liệu. Muốn xác định chính
xác đối tượng điều tra, một mặt phải dựa vào sự phân tích lý luận, mặt khác nêu
lên những tiêu chuẩn cơ bản phân biệt hiện tượng nghiên cứu với các hiện
tượng liên quan, phân biệt đơn vị tổng thể này với đơn vị tổng thể khác.
VD: ở ví dụ trên, tiêu chẩn đưa ra là sinh viên của K47I trường ĐH Thương
Mại đang học khác với đã học, học chính quy chứ không phải hệ vừa học vừa
làm.
b. Đơn vị điều tra
Đơn vị điều tra là là từng đơn vị cá biệt thuộc đối tượng điều tra và được
điều tra thực tế. Trong điều tra toàn bộ số đơn vị điều tra cũng chính là số đơn
Cần phân biệt đơn vị điều tra và đơn vị tổng thể. Đơn vị tổng thể là các
phần tử, các đơn vị cấu thành hiện tượng mà qua đó ta có thể xác định được quy
mô tổng thể. Việc xác định số đơn vị tổng thể liên quan đến việc lập phương án
điều tra, chọn phương án điều tra và ước lượng kinh phí để điều tra… còn việc
xác định số đơn vị điều tra liên quan đến việc tổ chức ghi chép, đăng kí tài liệu,
phân bổ cán bộ…
- Thời điểm điều tra là mốc thời gian được quy định để ghi chép thống nhất tài
liệu của tất cả các đơn vị điều tra, tránh hiện tượng trùng hoặc sót tài liệu thu
thập.
Ví dụ: thời điểm điều tra dân số năm 1999 là 0h ngày 01/04/1999
Tùy theo tính chất, đặc điểm của hiện tượng cần nghiên cứu mà xác định thời
điểm điều tra. Tuy nhiên khi xác định thời điểm điều tra người ta thường chọn
thời điểm mà tại đó hiện tượng ít biến động nhất và gắn kết với những kế hoạch
của địa phương .
VD: điều tra thị trường áo rét ở Việt Nam thì không thể chọn vào mùa hè.
VD: Điều tra số người vi phạm luật giao thông đường bộ 1 ngày,1 tuần,1 tháng
của thành phố Hà Nội.
Thời kì điều tra dài hay ngắn phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu.
a. Biểu mẫu điều tra (hay còn gọi là phiếu điều tra): là loại văn bản in sẵn theo
mẫu quy định trong kế hoạch điều tra được sử dụng thống nhất để ghi dữ liệu
của đơn vị điều tra.
Yêu cầu của phiếu điều tra: có đầy đủ các nội dung cần điều tra, các thang đo
định tính sử dụng trong nội dung điều tra cần được mã hóa sẵn, các câu hỏi
được thiết kế cụ thể, khoa học, thuận lợi cho việc kiểm tra và tổng hợp dữ liệu.
b. Bản giải thích cách ghi biểu mẫu: là bản giải thích và hướng dẫn cụ thể cách
xác định và ghi dữ liệu vào biểu mẫu điều tra. Nội dung, ý nghĩa của các câu hỏi
phải được giải thích khoa học và chính xác. Những câu hỏi phức tạp có nhiều
khả năng trả lời cần có ví dụ cụ thể.
Ngoài những nội dung chủ yếu trên, bản giải thích còn đề cập đến một số vấn đề
về phương pháp, cách tổ chức và tiến hành điều tra như sau:
• Cách chọn mẫu
• Phương pháp thu thập và ghi chép số liệu ban đầu
• Các bước và tiến độ điều tra
• Tổ chức và quy định nhiệm vụ của cán bộ tham gia điều tra
• Phân công khu vực điều tra
• Tổ chức tập huấn cán bộ điều tra
• Điều tra thử để rút kinh nghiệm
• Tổ chức tuyên truyền mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của cuộc điều tra.
+ Sai số do ghi chép : Loại sai số này có thể xảy ra do người điều tra hoặc đối
tượng điều tra. Người điều tra quan sát, ghi chép sai, trình độ chuyên môn hạn
chế hoặc thiếu ý thức, tinh thần trách nghiệm. Mặt khác, có thể do đối tượng
Nhóm 11 – Lớp 1305ANST0211 Page 18
điều tra không hiểu nội dung mà trả lời sai, sợ mất thời gian hoặc cố ý trả lời sai
để che giấu sự thật.
+ Sai số do tính chất đại biểu : Loại sai số này chỉ xảy ra trong điều tra không
toàn bộ do chọn mẫu quá nhỏ không đủ để tính luật số lớn phát huy tác dụng.
Mặt khác do điều tra một số đơn vị tổng thể rồi suy rộng cho toàn tổng thể dẫn
đến sai số là điều không tránh khỏi. Đối với những tổng thể có nhiều bộ phận
khác nhau thì số mẫu phải đảm bảo đầy đủ các loại hoặc các nhóm, tức là kết
cấu mẫu giống kết cấu chung. Như vậy tính chất đại biểu của đơn vị mẫu mới
phát huy tác dụng, khi suy rộng cho toàn tổng thể.
Để hạn chế sai số trong điều tra thống kê cần phải tố chức tập huấn nội dung
điều tra cho điều tra viên và đơn vị điều tra ,tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của
cuộc điều tra, chuẩn bị đầy đủ nhân lực, kinh phí, dụng cụ đo lường phục vụ cho
cuộc điều tra. Tài liệu thu thập được qua điều tra cần phải kiểm tra tính logic và
kết quả tính toán kịp thời chỉnh lý. Mặt khác phải kiểm tra tính chất đại biểu của
số mẫu và tiến hành điều tra thí điểm nếu thấy cần thiết, nhất là với hiện tượng
có phạm vi rộng tính chất phức tạp, số đơn vị tổng thể quá nhiều.
- Phạm vi điều tra: Toàn bộ sinh viên K47I trường đại học Thương Mại.
- Đơn vị điều tra: Mỗi sinh viên K47I trường đại học Thương Mại
- Điểm trung bình học tập từng môn học( toán cao cấp 1,2; kinh tế vi mô, vĩ
mô, tin học đại cương, pháp luật đại cương, tiếng anh, những nguyên lí cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin) và điểm trung bình chung tất cả các môn học của
sinh viên k47I. ( gồm điểm học tập kì I, kì II và cả năm)
- Sự hài lòng, hay không hài lòng với điểm học tập của sinh viên
(điều tra về kết quả học tập của sinh viên K47I năm học 2011-2012)
Bạn vui lòng tích vào những ô (□) ứng với phương án được chọn, còn phần (….)
bạn vui lòng điền đầy đủ thông tin
1. Họ và tên:…………………………………………………………………….
2. Lớp:…………………………………………………………………………..
3. MSV:……………………………………………………………….................
4. Khoa:…………………………………………………………………….........
□ Nam □ Nữ
+) Kinh tế vi mô:.…………….
+) Kinh tế vĩ mô:……………..
+) Tiếng anh:…………………
7. Điểm trung bình chung tất cả các môn học của bạn là:
+) Học kì I:……………………….
+) Học kì II:………………………
+) Cả năm:………………………..
9. Môn học nào bạn cảm thấy thích thú nhất: ...........
10. Môn học nào bạn cảm thấy khó nhất: ..................
9. Bạn có cảm thấy hài lòng với điểm trung bình học tập như vậy không?
Danh sách các đơn vị điều tra được lập trước khi tiến hành cuộc điều tra trên
cơ sở thông tin từ các cuộc điều tra trước
- Danh sách các lớp đã thu đủ phiếu theo chỉ tiêu điều tra.
- Danh sách các lớp đã thu được phiếu nhưng chưa đạt chỉ tiêu điều tra.
Việc sử dụng nguồn thông tin từ các lớp của khóa 47I là hoàn toàn miễn
phí đối với tất cả sinh viên K47I.Vì vậy, bất kỳ sinh viên nào cũng có thể trả lời
phỏng vấn hay nhận bảng câu hỏi điều tra. Vấn đề đặt ra là xác định xem cần
phải phỏng vấn bao nhiêu người nói cách khác chúng ta cần bao nhiêu người
cho mẫu đại diện. Khoa học thống kê đã thực sự giúp chúng ta trong vấn đề này,
mẫu đại diện sẽ phản ánh cả nhóm nếu chúng ta chọn mẫu đúng. Quyết định về
độ lớn của mẫu phải dựa trên các yếu tố: Thời gian, chi phí và tính chính xác mà
người điều tra mong muốn.
Như vậy, vào thời điểm điều tra tổng số sinh viên K47I vào khoảng 200
sinh viên thì ta chọn mẫu bất kỳ khoảng 70 sinh viên.
- Thu thập gián tiếp: Có thể sử dụng điều tra viên là cán bộ các lớp hành chính,
hướng dẫn phương pháp ghi phiếu điều tra cho cán bộ sau đó gửi phiếu điều tra
về cho từng lớp để sinh viên tự ghi phiếu trên ; hoặc có thể thu thập số liệu từ
bảng kết quả học tập của từng lớp từ trên khoa I.
2. Về phiếu điều tra cũng như nội dung câu hỏi trong phiếu điều tra
Bảng câu hỏi là công cụ quan trọng trong điều tra, là phương tiện giao tiếp
quan trọng giữa người hỏi và người được hỏi. Sự quan tâm của người được hỏi
về vấn đề càng cao thì số liệu thu thập được càng chính xác. Nội dung câu hỏi
càng hay, hấp dẫn thì càng nhận được sự quan tâm, hưởng ứng của người trả lời.
Những câu hỏi trong bản điều tra trên của nhóm vẫn chưa đáp ứng được hết yêu
cầu đặt ra( có những câu hỏi còn chưa hay, chưa sát với đề tài cần nghiên cứu)
Có những người không có sự quan tâm nên trả lời qua loa, không đọc kĩ nên
thông tin thu được là không chính xác. Lúc này người điều tra có một vai trò
quan trọng.
- Tránh biểu hiện thái độ, ý kiến cá nhân về các câu hỏi được nêu ra trong phiếu
điều tra.
- Không được bàn luận về việc lựa chọn câu trả lời của người được điều tra
- Không được tạo tranh luận hay mách nước trong quá trình điều tra.
- Khi người được điều tra thắc mắc về câu hỏi trong phiếu điều tra thì người trả
lời cân phải truyền đạt, giải thích cho người trả lời đầy đủ nội dung và ý nghĩa
câu hỏi.
KẾT LUẬN
Trên đây là tình hình tiến hành nghiên cứu thống kê điều tra về tình
hình học tập của sinh viên k47I. Trong thực tế, ta còn có thể áp dụng
phương pháp nghiên cứu điều tra một cách rộng rãi hơn để tìm hiểu,
đánh giá về tình hình học tập chung của sinh viên toàn trường ... Dù
trong hoàn cảnh nào thì chúng ta cũng phải xác định rõ mục đích của
việc nghiên cứu điều tra, đối tượng cần nghiên cứu, khả năng thực
hiện, để từ đó, chúng ta xác định đúng mẫu đại diện, thiết kế mẫu, thiết
kế nội dung câu hỏi và chọn lựa các phương pháp tiếp cận phù hợp,