You are on page 1of 27

Câu hỏi thi cuối kỳ Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 1: Phân tích yếu tố quyết định ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh?
Câu 2: Phân tích tính tất yếu của việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
Câu 3: Phân tích quan điểm sáng tạo của HCM về thông qua luật điểm cách mạng
giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắn lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
Câu 4: Phân tích tư tưởng HCM về nhà nước dân chủ? (Ghi chú: trong đó nhà
nước của dân do dân và vì dân).
Câu 5: Vai trò của đạo đức tư tưởng HCM?
Câu 6: Phân tích những chuẩn mực đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, vận
dụng trong quá trình học tập lao động?

TRẢ LỜI
Câu 1: Yếu tố quyết định ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ
nghĩa Mác – Lênin
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác - Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước
cùng thời. Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng
sản với tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin mong muốn: "Người ta chỉ có thể trở thành
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những
kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra"1.
Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản trên cơ sở hiểu biết sâu sắc kho tàng
tri thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Về việc đó, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là
1
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva,1977, t.41, tr. 362.
phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính
sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêxu, Mác, Tôn Dật Tiên
chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho
loài người, mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu
họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy"1.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách
mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng
lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ
nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng
lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác -
Lênin"2.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dan lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội và xã hội cộng sản chủ nghĩa
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách
mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính,
triệt để: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” và “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng

11
Trương Niệm Thức: Hồ Chí Minh truyện, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, 6-1949 (bản Trung văn), (bản dịch
tiếng Việt của Đặng Nghiêm Vạn, tr.41-42).
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr. 589-590.
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới.
Đến với chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc vô sản, kết hợp
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu
nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định:
Chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng
nhất, “muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ
nghĩa Lênin”. Đối với Người, chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người
không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời kiên quyết chống chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức,v.v. Hồ Chí
Minh đều có những luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như vậy, Chủ nghĩ Mác – Lênin là một nguồn gốc – nguồn gốc chủ yếu nhất
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng
Mác – Lênin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền
tảng của nó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận quan
trọng nhất, có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 2: Tính tất yếu của việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản
Chủ nghĩa xã hội từ chỗ là một trào lưu tư tưởng đã trở thành một phong trào
hiện thực. Phong trào hiện thực đó được bắt đầu từ khi Cách mạng tháng Mười
Nga thành công, sau đó đã trở thành một hệ thống thế giới từ giữa thế kỷ XX.

Ở Việt Nam, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện ngay trong các
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng trong thực tế
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một phong trào hiện thực được bắt đầu từ năm 1954
ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước.

Có thể nhận thấy, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam không phải là ý muốn chủ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đó là sự lựa
chọn của của chính lịch sử Việt Nam, điều đó xuất phát từ các cơ sở thực tiễn sau
đây:

Thứ nhất, con đường cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con đường cách mạng
vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng vô sản.

Chứng kiến sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, từ phong trào yêu  nước theo lập trường phong kiến, đến phong trào cứu
nước theo lập trường tư sản, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đi
khắp thế giới với mong muốn tìm cho được con đường cứu nước, cứu dân. Trong
hành trình đó, với những tìm tòi, trải nghiệm, đặc biệt là sự soi sáng của cuộc cách
mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc - đó là
con đường cách mạng vô sản và thực tiễn đã chứng minh cách mạng vô sản là con
đường cách mạng phù hợp nhất với dân tộc Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu
thế của thời đại mới -thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.

Do vậy, sau khi cuộc các mạng giải phóng dân tộc thành công, việc lựa chọn
con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách
quan bởi lẽ mục tiêu của con đường cách mạng vô sản là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là lựa chọn của cách mạng Việt
Nam.
Cùng với việc lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc, vấn đề lực lượng
nào sẽ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng là vấn đề quan trọng hàng đầu. Ở Việt Nam
khi đó, để đáp ứng nhu cầu có một chính đảng lãnh đạo đã có nhiều đảng phái và tổ
chức chính trị được thành lập với mong muốn trở thành chính đảng gánh sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chẳng hạn như: Việt Nam Quang phục hội (năm
1912), Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925); Đảng Thanh niên Cao
Vọng (năm 1925), Việt Nam Quốc dân Đảng (năm 1927),…

Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, có đảng tự tan rã, có đảng bị giải
tán, có đảng thì phân lập hoặc chuyển đổi, sáp nhập vào đảng khác… Trong khi đó,
sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn có tôn chỉ, mục đích và đường lối
cách mạng phù hợp với nhu cầu của cách mạng Việt Nam, vì vậy lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất những tổ chức cộng sản này thành Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam trở
thành chính đảng cách mạng, lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện thành công
nhiệm vụ phản đế, phản phong vào năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa - chính quyền cách mạng đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở Việt Nam.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề xây dựng và bảo vệ chính quyền
cách mạng đặt ra những yêu cầu mới, một lần nữa thử thách vai trò và năng lực
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đã thử thách thành công vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là chính
đảng duy nhất phù hợp với cách mạng Việt Nam, có lợi ích thống nhất với lợi ích
của đa số nhân dân lao động Việt Nam thể hiện ở mục tiêu việc xây dựng một xã
hội mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân lao động - đó chỉ có thể là
chủ nghĩa xã hội. Điều đó minh chứng rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với cách mạng Việt Nam và sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội là sự lựa chọn của nhân dân và cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm quyền làm chủ cho giai cấp công nhân, mang
lại lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Sự thất bại của các phong trào cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở
Việt Nam cũng đồng nghĩa với sự thất bại của giai cấp nông dân và giai cấp tư sản
trong vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vậy nên, giai cấp phù hợp nhất để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam làm hai nhiệm vụ phản đế và phản phong ở Việt
Nam lúc này chỉ có thể là giai cấp công nhân. Do đó, sau khi đánh đổ chế độ phong
kiến thì tất yếu phải xây dựng một xã hội mang lại lợi ích cho giai cấp công nhân,
bảo đảm quyền làm chủ cho giai cấp công nhân, mang lại lợi ích cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động - đó chỉ có thể là chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc lựa
chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn khách quan
của lịch sử, xuất phát từ nhiệm vụ đặc thù của giai cấp công nhân Việt Nam, dù
rằng con đường đó sẽ do giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện, nhưng không vì
thế mà phụ thuộc vào ý muốn của giai cấp công nhân hay Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Câu 3: Phân tích quan điểm sáng tạo của HCM thông qua luật điểm cách
mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:

Có thể thấy rằng trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa thì quan điểm : Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn chỉ duy nhât,
bất di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng đến
Hồ Chí Minh, Người lại khẳng định có thể xảy ra điều ngược lại. Điều đó trước hết
bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn của mỗi người. Không thể đi so sánh giữa Hồ Chí
Minh và Mác-Lênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng của mỗi người.

Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã
được mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh,
bởi vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của cách mạng giải phóng
dân tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển.

Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của
cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính
quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc
địa. Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác “Vô sản tất cả các nước liên hợp
lại”, ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại”. Nhưng ông vẫn không nhận ra được cách mạng ở các nước thuộc địa có
thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Tuy nhiên, Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các dân
tộc bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ nghĩa đế quốc
và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần quan trọng nằm ở thuộc
địa. Mặt khác, so với những bậc tiền bối đi trước, Người có điều kiện để đi nhiều
nơi, từ Châu Á sang Châu Âu, tới Châu Phi nên người có điều kiện tìm hiểu, tiếp
cận cuộc sống ở những mảnh đất đó chứ không phải chỉ gói gọn trong mỗi Châu
Âu và một phần Châu Á (nước Nga) như Lênin,

Người nói: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Đây là điều quan trọng
mà Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết:
“CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một
cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con
vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.

Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. Bởi
vậy, vừa phải tiến hành đồng thời cach mạng ở chính quốc và ở thuộc địa. Trên góc
độ phê phán ấy, người đã nhìn ra được khả năng cách mạng của các nước thuộc địa
và đi đến khẳng định rằng: cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin;
là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi
vĩ đại. Đồng thời nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc
ở các nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một số
nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một tư tưởng
hoàn toàn đúng đắn.
Câu 4: Phân tích tư tưởng HCM về nhà nước dân chủ? (Ghi chú: trong đó nhà
nước của dân do dân và vì dân). Tùy yêu cầu câu hỏi nếu theo phần ghi chú có thể
bỏ phần bản chất nhà nước
Trả lời
Hồ Chí Minh luận giải Nhà nước của dân, do dân, vì dân một cách dung dị,
đơn giản, thiết thực và rất dễ hiểu.

Thứ nhất, Nhà nước của dân

Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng Nhà nước, cơ quan quyền lực nhà nước
phải là của dân, do dân làm chủ. Nhà nước mới, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải
là Nhà nước của cả dân tộc, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp được
đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và tài năng tham gia
vào công cuộc xây dựng nhà nước. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, thống
nhất đất nước không tách rời với tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Do vậy, khi đã tìm được con đường giải phóng dân tộc, lựa chọn một mô
hình nhà nước mới cho dân ta, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng, cùng dân ta bắt tay
ngay vào xây dựng “Nhà nước dân chủ, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân.
Đây là điều đối lập hoàn toàn với bản chất của các kiểu nhà nước trước đó trong
lịch sử nước ta. Bộ máy nhà nước phải do dân tự lập ra, người đứng đầu Nhà nước
cũng phải do dân bầu ra. Nhà nước đó hoạt động vì mục tiêu, quyền lợi của nhân
dân lao động. Nhà nước ở Việt Nam là Nhà nước dân chủ nhân dân, quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, do nhân dân “tự quyết định”. Cụ thể, ngay những ngày
đầu xây dựng Nhà nước kiểu mới, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh về bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp, tạo cơ sở cho việc hình thành chính quyền cách mạng ở các cấp,
xác định rõ quyền lực nhà nước là ở tay nhân dân lao động; nguồn gốc quyền lực,
sức mạnh của Nhà nước là ở nhân dân; nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực
nhà nước đó.

Tư tưởng Hồ Chí Minh “Dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” là
nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức, xây dựng Nhà nước, là một sự vận dụng
sáng suốt chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó nhân
dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước, dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định:
Nước ta là nước dân chủ; địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn
là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong Nhà nước ta, toàn bộ
quyền lực đều thuộc về nhân dân. Quan niệm toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ triệt để của Nhà nước ta, trở thành nguyên
tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và phải được thể hiện rõ trong các
văn bản pháp lý mà đạo luật cao nhất là Hiến pháp.

Trong Nhà nước ta, dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, cán
bộ công chức nhà nước chỉ là người được ủy quyền, được nhân dân trao quyền để
gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước. Hồ Chí Minh gọi người
cầm quyền, cán bộ công chức nhà nước là “đầy tớ”, “công bộc” của dân. Làm công
bộc của dân là một trách nhiệm rất vẻ vang, nhưng rất khó khăn, nặng nề. Muốn
vậy, người cầm quyền phải gần dân, sát dân, hiểu dân, thương dân, tin dân và biết
sử dụng sức mạnh của dân. Tác phong của người cầm quyền phải là: óc nghĩ, mắt
thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm.

Từ quan niệm chung về vị thế của người cầm quyền, Hồ Chí Minh ý thức rất
rõ vị trí của Người trong hệ thống quyền lực Nhà nước Việt Nam. Người nhiều lần
nhắc nhở: Ở nước ta, từ Hồ Chí Minh trở xuống là đầy tớ của nhân dân; dân đặt ở
đâu thì làm ở đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận sự trao quyền, ủy thác của
nhân dân.

Thứ hai, Nhà nước do dân

Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; nhà nước
phải tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của dân rất rộng,
trước hết thể hiện ở chỗ: Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ

thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín bầu các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền
lực nhà nước, v.v..

Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử thì cũng có quyền thực hiện chế độ bãi
miễn theo ba mức độ từ thấp đến cao: bãi miễn đại biểu; bãi miễn các cơ quan nhà
nước; bãi miễn nội các chính phủ nếu các đại biểu đó, các cơ quan nhà nước và nội
các chính phủ không còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân.

Nhà nước do dân có một nội dung quan trọng là nhân dân có quyền tham gia
công việc quản lý nhà nước; sao cho các quyết định của cơ quan nhà nước đều xuất
phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ,
sức người, sức của tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.

Nhà nước do dân còn bao hàm một nội dung quan trọng: nhân dân có quyền
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Mọi nguồn lực
mà nhà nước có để hoạt động đều được huy động từ dân.

Hồ Chí Minh khẳng định chân lý đó:


“Gốc có vững cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”2.

“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”3.

Sự thành bại của cách mạng đều gắn với vai trò của quần chúng nhân dân
lao động. Thực tế lực lượng của nhân dân rất lớn, khả năng của nhân dân là phi
thường. Trong mọi vấn đề của cách mạng, nếu có dân là có tất cả, ngược lại không
có dân thì thất bại trong tầm tay.

“Dễ mười lần không dân cũng chịu

Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

Nhà nước muốn là của dân thì phải làm tốt bổn phận là người đại biểu thay
mặt nhân dân, quyền hành nơi Nhà nước là do dân giao phó. Có nghĩa là quyền
hành của nhân dân là quyền hành được thông qua người đại diện, người đại biểu do
dân cử ra. Năm 1946, trả lời phỏng vấn báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói “Tôi
tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ gánh chức Chủ
tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng
mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất
vui lòng lui...”4. Trong xây dựng Nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu
Nhà nước phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lắng nghe ý dân,
làm công tác quản lý nhà nước sao cho tốt hơn. Nhà nước muốn công việc của
mình mang lại hiệu quả cao thì Nhà nước bắt buộc phải dựa vào dân và phải thực

2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.502
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.10, tr.453.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.161.
hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, để người dân tham gia vào công
việc nhà nước một cách đầy đủ và thực sự.

Nhà nước do dân, dân làm chủ Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
thống nhất biện chứng của cả quyền và nghĩa vụ làm chủ; nó thể hiện bản chất dân
chủ triệt để của nhà nước kiểu mới.

Thứ ba, Nhà nước vì dân

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước dân chủ nhân dân là nhà nước phục
vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho dân. Mọi hoạt dộng của chính quyền phải nhằm
mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người là mục tiêu phấn đấu
lâu dài như Hồ Chủ tịch từng nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trước hết là nhằm
thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu nhất của nhân dân, trong đó phải:

“Làm cho dân có ăn.

Làm cho dân có mặc.

Làm cho dân có chỗ ở.

Làm cho dân có học hành”5.

Nhà nước quan tâm, chăm lo cho đời sống của nhân dân bằng cách hướng
dẫn nhân dân tự chăm lo thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của mình, chứ không phải
làm thay dân.

Nhà nước vì dân, do dân tự xây dựng nên, điều này phải hiểu là Nhà nước
tồn tại và hoạt động vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động, chứ không vì
quyền lợi của một nhóm người hay một tập đoàn xã hội nào đó như nhà nước ở các
chê độ xã hội khác.

5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.175.
Một nhà nước đặt lợi ích của dân lên trên hết, nhà nước đó phải có đường
lối, chủ trương và các chính sách đều phục vụ lợi ích của dân. Công việc gì của nhà
nước mà có lợi cho dân là phải làm ngay, việc có hại thì phải tránh. Năm 1945,
Người từng viết thư Gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng để dặn dò:

“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm

Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”6.

Bên cạnh đem lại lợi ích cho dân, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, Nhà
nước phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi khác nhau giữa các giai cấp, tầng
lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được mọi người dân ủng hộ, xây dựng. Và
điều đặc biệt quan trọng là để phục vụ tốt nhân dân thì bộ máy nhà nước phải thật
sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, v.v..

Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rất rõ:
“Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phi, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”7.

Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ
chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân

6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.65.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc
7

gia,H.2011,tr.86
dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ tư, Bản chất giai cấp của nhà nước

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “Nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà
nước phi giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp
nhất định. Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 8, theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên mấy phương
diện:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Lời nói
đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân
chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”. Ngay trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do nhân dân là người
chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên
minh công – nông – trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau
đây: (1) Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật, chính sách, kế hoạch; (2) Bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng
viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước; (3) Bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng
xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc
giành lấy chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới, chính là để giai cấp công

8
Nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
nhân và nhân dân lao động có được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu
nói trên.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý
đến cả hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân
chủ, đồng thời cũng nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập
trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính
nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Trong
tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân của
Nhà nước thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:

Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế kỷ
XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ này
đến đến thế hệ khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự
do của Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức
mạnh của toàn dân tộc đã được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm,
giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhà nước Việt Nam mới, do
vậy, không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, mà là thuộc về nhân dân.

Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên
trì, nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm
nền tảng. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ
bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của
toàn dân tộc. Nhà nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh không
chỉ cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn của nhân dân lao động và của toàn
dân tộc.

Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà
toàn thể dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để
bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến
bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng
sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của
chính Nhà nước.
Câu 5: Vai trò của đạo đức tư tưởng HCM

Trả lời

Thứ nhất, Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người
cách mạng

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng thế giới
bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục, thực hành đạo đức. Khi đánh giá vai trò
của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nêu rõ đạo đức là nguồn
nuôi dưỡng và phát triển con người. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định đạo đức là
gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầucủa người cách mạng.Người
coi đạo đức rất quan trọng như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối. Trong
tác phẩm Sửa đối lối làm việc (1947), Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho
loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn
bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”9. Trong tác phẩm Đạo đức
cách mạng (1958), Hồ Chí Minh viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng
nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”10.

9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.292-293.
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11, tr.601.
Người chỉ rõ, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục, thì cần nhớ
rằng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”11.

Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc,
phẩm chất mỗi con người. Trong bài Người cán bộ cách mạng (1955), Hồ Chí
Minh yêu cầu “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng… Mọi việc
thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là
không”12. Bởi vì, có đạo đức cách mạng trong sáng mới làm được những việc cao
cả, vẻ vang.Người quan niệm, “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể
lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đạo đức làm cốt cán”13. Theo Hồ Chí Minh,
“Đại đa số chiến sĩ cách mạng là người có đạo đức: Cả đời hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì làm gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính
trọng của công... Đạo đức ấy có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành
xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong” 14. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách
mạnglà chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. “Có đạo đức
cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi
bước…, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất
phác, khiêm tốn”15.

Hồ Chí Minh thường nhắc lại tinh thần của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải
tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong Di chúc,
Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 6, tr.16.
11

12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.9, tr.354.
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.265.
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.9, tr.508.
15
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11, tr.602-603.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân” 16. “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên””. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”17.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả
thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài
năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người
nói: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản
xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói
phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”18.

Đức và tài phải là những phẩm chất thống nhất của con người. Nếu đạo đức
là tiêu chuẩn cho mục đích hành động thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó.
Vì vậy, con người cần có cả đức và tài, nếu thiếu tài thì làm việc gì cũng khó,
nhưng thiếu đạo đức thì vô dụng, thậm chí có hại. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực phải thống nhất làm một.
Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Người đòi hỏi tài năng
phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng đạo đức. Hồ Chí Minh thường khuyên:
“Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng.
Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô
dụng”19.

16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.622.
17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.622.
18
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.68.
19
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.400.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là thước đo lòng cao thượng của con
người.Trong bài Đạo đức cách mạng (1955), Hồ Chí Minh viết: “Tuy năng lực và
công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng
ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”20. Thực hành tốt đạo đức cá nhân
không chỉ có tác dụng tôn vinh nâng cao giá trị của mình mà còn tạo ra sức mạnh
nội sinh giúp ta vượt qua mọi thử thách.

Hồ Chí Minh hết sức quan tâm giáo dục toàn diện cho các em học sinh, sinh
viên cả “Đức, Trí, Thể, Mỹ”. Trong đó, đức là gốc, là trước hết; tài là cực kỳ quan
trọng, không có tài thì không xây dựng, phát triển được đất nước. Đức bao gồm
nếp ăn ở, sinh hoạt hằng ngày, trước hết là với gia đình, anh em, bạn bè, rộng ra là
với quốc gia, dân tộc; học để làm việc, làm người, làm cán bộ.

Thứ hai, Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh cho rằng, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở mức
sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do, giải phóng, mà trước hết là ở những
giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm
gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thành
hiện thực.

Trong Bài xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội (1961), Người
viết: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động. Vậy công nhân,
nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: Hiện nay, nhân dân lao động ta là
những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho giai
cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình
xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân dân lao động là những người
chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền

20
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.9, tr.508.
lợi và nghĩa vụ. Bởi vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình””21. Người nói rõ: “Giai cấp công nhân là giai cấp
lãnh đạo. Khác hẳn với trước kia, công nhân bây giờ là người chủ đất nước, chủ xã
hội, chủ cuộc sống. Bởi vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu sắc ý thức làm
chủ tập thể và đạo đức cách mạng “mình vì mọi người”22.

Hồ Chí Minh quan niệm, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành
lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách
lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do phẩm chất đạo đức cao quý làm
cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.

Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên
cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt hàng nghìn năm lịch sử. Tấm gương
đạo đức và nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với
nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Tấm gương sáng của Người từ lâu đã là
nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân Việt Nam và nhân loại
tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.

21
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.66.
22
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.678.
Câu 6: Phân tích những chuẩn mực đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, vận
dụng trong quá trình học tập lao động?
Trả lời

Những chuẩn mực đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính theo quan
điểm Hồ Chí Minh:

Cần, kiệm, liêm, chính, là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là
phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, Hồ
Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay
từ cuốn sách Đường cách mệnh đến bản Di chúc cuối đời.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” 23. Với ý nghĩa như vậy,
cần, kiệm, liêm, chính, cũng là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với
nước, hiếu với dân”.

“Cần, kiệm, liêm, chính” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền
thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa
vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.

“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai” 24. “Muốn cho chữ Cần
có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”25. Cần tức là lao
động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao

23
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,t.7, tr.220.
24
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,t.6, tr.118.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.118.
25
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”26.

“Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi”27. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; không phô trương hình thức, không liên hoan
chè chén lu bù. “Tiếtkiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một
đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho
Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới
đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm.
Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ”28.“Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như
hai chân của con người”29. Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước
nhà”30.

Liêm “là trong sạch, không tham lam”31; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng
giữ gìn của công, của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài.
Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh
chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham
tiến bộ”32. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi với
chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”33.

26
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.69.
27
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,t.6, tr.122.
28
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.123.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.122.
29

30
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.69.
31
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 6, tr.126.
32
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.292.
33
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.126.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không
đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà”34. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ:
“Đối với mình - Chớ tự kiêu, tự đại”. “Đối với người:… Chớ nịnh hót người trên.
Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn,… Phải thực hành
chữ Bác – Ái”35. “Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc
nhà”36; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”37.

Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực
hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức,
những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.

Vận dụng: (mang tính chất gợi ý)

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ,
Đảng viên.

Trong điều kiện hiện nay, trước sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường,
sự chống phá tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch đã tác động không nhỏ tới
tư tưỡng, tình cảm, suy nghĩ và hành động của không ít cán bộ, đảng viên.

Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCH trung ương Đảng khóa 11 “một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ rõ: “một bộ phận không nhỏ, đảng
viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo quản lí, kể cả một số cán bộ

34
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.129.
35
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.130-131.
36
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.131.
37
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.131.
cao cấp, suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạc lí tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực
dụng...

Nghị quyết đại hội lần thứ 12 Đảng ta tiếp tục chỉ ra: “tình trạng tham nhũng
, lãng phí vẫn còn quan trọng với những biễu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây
bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và nhà
nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của 1 bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi...

Như vậy có thể nói đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân của Đảng
và nhà nước ta trong những năm qua chưa đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Để
góp phần đấu tranh ngăn chăn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của cáng bộ, đảng viên hiện nay cần thực hiện tốt những việc
sau đây:

Một là cán bộ, đảng viên trước hết phải tự giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo
đức hằng ngày. Để chống chủ nghĩa cá nhân thì mỗi cán bộ đảng viên phải tự rèn
luyện phẫm chất đạo đức người đảng viên đó là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Đây là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách
mạng trong tư tưởng đạo đức HCM mà toàn đảng và toàn dân ta đang ra sức học
tập và làm theo.

Hai là thực hiện tốt phê bình và tự phê bình: đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên thì từng cán bộ đảng viên phải luôn nhận thức đúng đắn về công tác phê bình
và tự phê bình. HCM dạy rằng mục đích phê bình và tự phê bình là để học cái hay,
tránh cái dỡ chứ không phải để nói xấu nhau. Tự phê bình và phê bình phải trên
tinh thần xây dựng, yêu thương, giúp đỡ đồng chí mình tiến bộ. Người đứng đầu
các tổ chức đảng, đơn vị phải gương mẫu tự phê bình về đạo đức, lối sống với thái
độ trung thực, chân thành.

Ba là mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự nêu gương trong đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân: để chống chủ nghĩa cá nhân có hiệu quả thì trước
hết mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao ý thức trách nhiệm thực hiện tốt nghị quyết
trung ương 4 khóa XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời phải xây dựng kế hoạch phấn đấu cụ
thể, thiết thực tránh bệnh hình thức, phô trương. Có như vậy thì người cán bộ, đảng
viên mới thực sự được tôi luyện trở thành tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức,
lối sống, làm cơ sở để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân có hiệu quả.

Nói tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và những nguyên tắc về xây
dựng đạo đức mới nói riêng cho đến ngày nay, vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi
sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo
đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Đứng
trước bối cảnh ấy, là một người thanh niên cũng như bao con người khác đang
cùng bước trên con đường xây dựng đất nước tiến lên Xã hội chủ nghĩa, một nhiệm
vụ rất lớn đang đặt ra đó là thưc hiện theo lời dạy của Bác: “Thanh niên bây giờ là
thế hệ vẻ vang, vì vậy nên phải tự giác, tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của
minh để xứng đáng với nhiệm vụ của mình.”

You might also like