You are on page 1of 7

VĂN HỌC VIỆT NAM

Giá trị hiện thực trong tác phẩm Truyện Kiều


Nhà văn Thạch Lam đã từng nói: “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc
sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để
vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và
phong phú hơn”. Quả thật vậy, nói cho cùng văn chương cũng thai nghén từ hiện thực xã hội trăm
đắng ngàn cay, tố cáo một xã hội giả tạo, tạo ra lăng kính khách quan giúp người đọc soi vào từng
ngóc ngách của chính cuộc đời mà mình đang sống. Truyện Kiều không nằm ngoài thiên chức cao cả
cả của văn học, đã phản ánh hiện thực một cách khách quan nhất, chân thực nhất có thể.

Truyện Kiều – bản cáo trạng đanh thép vạch trần xã hội tàn ác sẵn sàng tước đoạt đi
quyền sống của con người.
Truyện Kiều là tấm gương soi rọi tấc lòng của đại thi hào Nguyễn Du, là nơi thi hào gửi gắm nhiều
trăn trở, suy tư, cả những nỗi niềm xót xa, bi phẫn trước thực trạng đau khổ của con người trong xã
hội phong kiến. Thế giới trong truyện Kiều xấu xa đến cùng cực, khi quyền sống và quyền được làm
người của con người bị tước đoạt một cách không thương tiếc. Là một trong những người sống trong
thời đại đó, hơn ai hết, ông hiểu rất rõ hiện thực tàn khốc ấy. Bởi thế, Truyện Kiều không phải là tác
phẩm được chuyển thể từ văn xuôi sang thơ một cách thuần túy, đó là máu, là nước mắt, là nỗi lòng,
là trải nghiệm cay đắng của Nguyễn Du:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Giáo sư Lê Đình Kỵ từng nói: “không phải là chuyện thương hải tang điền siêu hình mà là một cục thế
đã diễn ra, những điều đã được thể nghiệm. Chuyện bể dâu, những điều trông thấy ở đây trước hết gắn
liền với sự suy sụp không gì có thể cứu vãn được của xã hội phong kiến đương thời, với nỗi căm giận
tuyệt vọng trước sự thối nát của giai cấp thống trị, với nỗi xót xa trước những đau khổ của con người,
với những ước mơ hy vọng bừng sáng lên nhưng rồi lại bị dập tắt”. Hiện thực xã hội được khắc họa qua
những lăng kính khác nhau, trước hết là ở hình ảnh của giai cấp thống trị quan lại. Chưa ở đâu và chưa
ở một tác phẩm nào, những vị quan lại xuất hiện với nhân cách bỉ ổi và đểu giả đến như vậy. Nhà thơ
đã không sợ hãi bất cứ một thế lực nào, sự lụi tàn trong nhân cách của những kẻ thuộc tầng lớp thống
trị bị Nguyễn Du vạch trần không thương tiếc:
Phép công chiếu án luận vào
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình
Một là cứ phép gia hình,
Hai là lại cứ lầu xanh phó về
Quan lại coi thường pháp luật, tự cho mình quyền quyết định cuộc sống của người khác, không chút
lương tâm. Chuyện sống chết của con người được xem như chuyện đùa. Tất cả những “cửa công”,
“phép công”, những “mặt sắt”, “lập nghiêm”, những “chiếu án luận vào” đều chẳng để làm gì cả ngoài
một trận đòn rụng rời xương thịt kia. Dù ta mừng cho Kiều nhưng “lòng tốt” của viên quan xử kiện đã
khôngkhiến ta ngưỡng mộ, ngược lại, ta càng thấy ông thảm hại hơn bao giờ hết! Thúy Kiều 4 lần rơi
vào cửa tử vì quan lại.

Đau đớn thay, não nề thay cho những con người vốn dĩ phải là đầy tớ của nhân dân, nay lại thối nát
đến tận xương tủy, bị rút cạn đi tính người. Một “họ Hoạn danh gia” địa ngục trần gian, một Hồ Tôn
Hiến ti tiện và bỉ ổi đều góp phần đẩy Thúy Kiều vào bước đường cùng của cuộc đời, không thể phản
kháng. Hình tượng của quan lại được miêu tả đầy tính khinh miệt và đả kích:
Hàn huyên chưa kịp giãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi
Người xưa có câu:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan
quả không hề sai.
Địa ngục trần gian mang tên nhà chứa
Hiện thực còn được khắc họa qua hình ảnh của những nhà chứa, nơi mà số phận của người phụ nữ
thời phong kiến được khắc họa rõ nét nhất, đủ đắng, cay, tủi, nhục. Ở đây họ bị xem như một món
hàng, tạp nham những kẻ lả lơi đến để mua sắc:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt năm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Chỉ với vài câu thơ, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét hình ảnh của những nhà chứa lúc bấy giờ, với giọng
điệu đầy kinh bỉ. Một thế lực đen tối khác, độc ác không kém gì quan lại, dó là sự hoành hành tác quái
của bọn buôn thịt bán người. Người đọc không thể quên một Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi, áo
quần bảnh bao”, một Tú Bà “thoắt trông lờn lợt màu da”, một Sở Khanh“hình dong chải chuốt áo khăn
dịu dàng”, mỗi tên một vẻ nhưng chúng đều là một cốt một đồng, chung một nghề nghiệp kiếm ăn
trên thân xác con người. Chỉ vài nét phác họa, Nguyễn Du đã vẽ nên những chân dung điển hình cho
hạng người xấu xa này. Nếu như thế lực quan lại đã lấy đi của Kiều viễn cảnh cuộc đời bình yên tươi
sáng, xô giạt đời nàng trên những bước đường lưu ly chìm nổi thì bọn buôn thịt bán người như Mã
Giám Sinh, Tú Bà…là những kẻ đã đưa nàng xuống đáy sâu xã hội, xuống vực thẳm của sự nhơ nhớp.
Ngòi bút sắc sảo và cái nhìn tỉnh táo của Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy lầu xanh, kĩ viện không chỉ
là chốn đi về của khách làng chơi mà là địa ngục trần gian ẩn sau vẻ xa hoa tráng lệ.
Cũng ở đây, Thúy Kiều đã nếm trải đủ mùi cay đắng: Có đòn roi, có nhục mạ, có lọc lừa, có cưỡng
bức… Với những thủ đoạn đê hèn nhất, Tú Bà cùng với Sở Khanh đã đập tan mọi toan tính phản kháng
dù chỉ còn thoi thóp ở Kiều. Đau đớn xiết bao khi người con gái có ý thức cao về nhân phẩm đó lại
phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm của mình:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Số phận bất hạnh của Thúy Kiều khiến vạn đời sau còn xót thương:
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên...
Bỗng quý Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường
Quả thật, thân phận người con gái muôn đời sau vẫn bất hạnh:
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sòng dồi biết tấp vào đâu – ca dao
Thế lực đồng tiền – sự tha hóa của những giá trị nhân bản
Truyện Kiều là tiếng khóc đứt ruột của những mảnh đời bất hạnh, sự bất hạnh đó, chung quy lại cũng
vì đồng tiền. Ở truyện Kiều, “đồng tiền lăn tròn trên lưng người, đổi trắng thay đen và làm bà góa phụ
trở thành cô dâu mới”. Ở nơi đó, đồng tiền sai khiến lương tri, che mờ trái tim, vắt kiệt tình người:
Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Hay
Làm cho khốc lại chẳng qua vì tiền
Đồng tiền xuất hiện trong truyện Kiều như một hình tượng đặc biệt, chi phối tất cả các sự kiện tình
tiết khác. Chưa ở một tác phẩm nào, thế lực của đồng tiền lại bị phanh phui một cách trần trụi đến
thế. “Đồng tiền đã muốn làm chủ thế gian. Đồng tiền đã chà đạp lên đạo lí thần thánh của phong kiến.
Trung, hiếu, tiết, hạnh, tài hoa, nhan sắc như cô Kiều đã bị đồng tiền làm cho ba chìm bảy nổi, đã hóa
cô Kiều thành món hàng xa xỉ của thế gian…Mọi sinh hoạt xã hội đều quay về đồng tiền” (Lê Duẩn).
Quan lại có kẻ vì tiền mà hành hạ con người, nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn buôn thịt bán
người tất cả vì tiền mà bày ra trăm phương nghìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ phải đem thân ra
làm món hàng cho chúng buôn bán, kiếm chác…Cũng chưa bao giờ trong một tác phẩm tự sự, qua
những lời phát biểu trực tiếp của tác giả, hay qua ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật, tác dụng của đồng
tiền lại được bóc trần nhiều lần đến thế. Sự xuất hiện của đồng tiền khiến tất cả các nhân vật đều trở
thành con rối của nó.
Ở con mắt tác giả Truyện Kiều, đồng tiền đã làm trụy lạc nhân phẩm, mục nát bộ máy phong kiến
thống trị, biến con người thành một thứ hang hóa, phá tan các gia đình, hủy hoại tự do và hạnh phúc
cá nhân. Quan lại vì tiền mà bỏ công lý. Sai nha vì tiền mà tra tấn người vô tội, cướp bóc tài sản người
lương thiện. Lũ mẹ mối, Mã Giám Sinh, Tú bà cậy tiền mà hành hạ người tài sắc. Sở Khanh vì tiền mà
bầy mưu đặt kế cho Tú bà xô đẩy Kiều vào nghề “đưa người cửa trước rước người cửa sau”. Bạc Bà,
Bạc Hạnh vì tham tiền mà lừa Kiều đem bán cho lầu xanh. Hồ Tôn Hiến dùng tiền lung lạc Kiều, “lễ
nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu”, để tiêu diệt Từ Hải. Tiền đã đè đầu đè cổ tài hoa, sắc đẹp, nhân
phẩm, đạo lý:
Trong tay sẵn có đồng tiền
Dầu long đổi trắng thay đen khó gì!
Hiện thực đau lòng nơi mà đồng tiền thay thế vị trí của nhân cách được bóc tách một cách trần
trụi. Ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du như lưới dao khoét sâu vào hiện thực tăm tối, để người đọc
thấy mà đau mà xót.
Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam, không phải ngẫu nhiên mà nhà văn
Phạm Quỳnh nhận xét: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” Tác phẩm là đỉnh
cao của ngôn từ, được chắt lọc từ mảnh đất hiện thực trăm đắng ngàn cay, chính giá trị hiện thực đã
đưa Truyện Kiều vượt qua khỏi quy luật của thời gian, trường tồn vĩnh cửu.
Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ “Truyện Kiều”. Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo
là lòng thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất
tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu... Đó là tấm lòng của nhà thơ
đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương
trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong
kiến… Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, không
những thế phải đồng cảm xót thương những số phận bị chà đạp, lên án tố cáo những thế lực thù địch,
đồng thời phải biết đồng tình với khát vọng và ước mơ chính đáng của con người. Nguyễn Du yêu thương
con người đến tận cùng, vì vậy các tác phẩm của ông cũng nhân đạo đến tận cùng. Cảm thương cho những kiếp
hồng nhan mà đa truân, tài tử mà đa cùng không phải là cảm hứng mới mẻ trong văn học, nhưng phải đến
Nguyễn Du, người đọc mới thực sự đau lòng vì “những điều trông thấy” bởi Nguyễn Du viết về nỗi đau của
người khác như nỗi đau của chính mình.
Sắc đẹp khuynh thành và tài năng hiếm có của Thúy Kiều đã được Nguyễn Du đặc tả trong hai câu thơ:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Vẻ đẹp của nàng thật có một không hai trên thế gian này. Thế nhưng ẩn giấu đằng sau những “làn thu thủy”
trong trẻo và những “nét xuân sơn” tươi thắm của ngọn núi mùa xuân ấy là cả một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất
đáng tự hào:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.”
Tài hoa của nàng không chỉ bộc lộ rực rỡ ở tài thi họa mà còn ở cung đàn có sức thuyết phục tuyệt đối. Cái
thông minh và tài hoa ấy cũng chính là biểu hiện phong phú của một trái tim nồng nàn, sôi nổi, một tấm lòng
giàu lòng vị tha. Cung đàn đầy cảm xúc của lần tình tự với Kim Trọng chính là nỗi sợ hãi của nàng Kiều thông
minh linh cảm trước số phận của những người yếu thế mà cũng chính là tiếng lòng dám yêu đương sôi nổi của
một cô gái sống cách đây hai trăm năm, khi mà quan hệ chân chính giữa nam nữ còn chịu nhiều ngăn cấm bởi
muôn vàn luật lệ khắt khe của lễ giáo phong kiến.
Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy cũng chính là một mối tình rất trong sáng, thủy chung. Kiều là một thiếu nữ
rất một mực đoan trang, hiền thục, nàng yêu đương sôi nổi nhưng cũng biết kiềm chế cảm xúc để ngăn chặn
những bước đi quá trớn không tốt cho tình yêu. Khi nghe Thuý Kiều đàn, Kim Trọng càng mê mẩn, say đắm
nàng:
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.”
Còn gì đau xót hơn khi mối tình Kim - Kiều vừa chớm nở đã li tan. Lời thề với Kim Trọng vừa trao thì Kiều lại
phải bán mình vì chữ hiếu. Trong Truyện Kiều tình tiết “trao duyên” cũng là một nét đẹp của tình cảm nhân
đạo. Trước bi kịch cuộc đời “hiếu tình khôn lẽ hai đường vẹn hai” Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thuý
Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thuý Vân nên mối tơ duyên với Kim Trọng, Kiều cũng phần nào bớt đi cảm giác có lỗi trong sự bội ước. Thế
nhưng trước ngày đầu tan vỡ ấy Kiều tránh sao khỏi đau đớn xé ruột:
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.”
Làm sao Kiều có thể quên được mối tình đầu ngây thơ trong trắng ấy bởi lẽ:
 “Ôi cái buổi ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.”
(Thế Lữ)
Và, khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, bị Tú Bà "khóa xuân", trong cái nỗi buồn mênh mang vô tận, không thể gì làm
vơi bớt, không có ai để sẻ chia – nỗi buồn của một con người hoàn toàn cô đơn giữa một khung cảnh cô đơn,
vắng lặng; Kiều chỉ còn biết nhớ về người thân. Thật đúng như Chu Mạnh Trinh đã từng viết: “Tấm lòng này
như tuyết như băng, mối sầu nọ qua ngày qua tháng… Ngọc kia không vết, giá liên thanh không vết so bì. Nước
đã trôi xuôi, hồn cựu mộng vẫn còn vơ vẩn”. Nguyễn Du đã xây dựng một thiên diễm tình tuyệt mỹ Kim –
Kiều. Trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thương cảm sâu sắc cho mối tình đầu tan vỡ ấy chính vì thế nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật độc đáo, cực kỳ tinh tế trong bút pháp điêu luyện. Nhà thơ đã đảo tình lẫn hiếu,
trái với trật tự cương thường của đạo lý phong kiến khi miêu tả Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau.
Nếu trước kia, Nguyễn Du đã không tiếc lời ngợi ca thiên diễm tình tuyệt đẹp vượt lễ giáo phong kiến thì giờ
đây, khi mối tình đầu trong sáng ấy "trâm gãy bình tan"; chính ông lại đồng cảm hết sức với tâm sự của người
con gái đang yêu buộc phải xa cách người yêu. Nguyễn Du thật thấu hiểu nhân tình!
Nỗi nhớ người thân cũng không làm Kiều khuây khỏa nỗi buồn rợn ngợp.  Buồn mà trông ra cảnh vật:
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng quanh quanh ghế ngồi
Tám câu thơ dựng lên bốn bức tranh buồn được bắt đầu bằng hai chữ "Buồn trông". Dường như ở đây không có
con người, chỉ có cái nhìn hay đúng hơn, chỉ có tâm trạng. Tâm trạng của Kiều mà cũng là tâm trạng của
Nguyễn Du. Lòng nhà thơ tưởng như cũng hòa vào với lòng nhân vật, cùng đồng cảm, buồn thương, đau xót với
nhân vật.
Lòng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều trăm lần đứt đoạn, ngàn lần thấu cảm, thấy rõ trong từng câu thơ
nghiến nát: 
“Dở dang nào có hay gì
Đã tu - tu trót - qua thì - thì thôi”
Về Vấn đề Tố như đặt ra, Xuân Diệu nói: “Đặt ra một cách ghê gớm như lửa châm nhà đã cháy, như chuông
treo sợi chỉ mành sắp đứt, như thòng lòng đã giết vào cổ người”. Truyện Kiều không phải là một bài ca hân
hoan về giá trị con người mà trở thành “một câu chuyện thê thảm về vận mệnh con người trong xã hội cũ.” 
Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi trong trái tim Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà
thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót xa sâu sắc. Sau khi bán mình cho Mã Giám
Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã ê chề “thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần”. Gặp được Từ Hải, hạnh phúc chợt đến rồi lại chợt đi khi Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến bị giết
chết giữa loạn quân. Kiều phải hầu rượu trong bữa tiệc quan, bị ép gả cho viên thổ quan… Uất ức quá, Kiều
phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nguyễn Du đã phải xót thương kêu lên:
“Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!...”
Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc đến não lòng. Từng từ, từng chữ tựa như những giọt lệ chứa chan
tình nhân đạo của tác giả khóc thương cho số đoạn trường.
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những
ước mơ về tự do công lý của con người bị áp bức dưới chế độ cũ. Từ Hải ân nhân của Thuý Kiều là một hình
tượng sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường: “Côn quyền hơn sức,
lược thao gồm tài”. Người anh hùng văn võ song toàn ấy có lý tưởng sống khác hẳn với bọn “cá chậu, chim
lồng” quen “vào luồn ra cúi” để tranh nhau hai chữ công hầu. Ở Từ Hải, đó chính là một chí khí ngang tàng đội
trời đạp đất ở đời “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi’. Chàng thiết tha với một lý tưởng:
“Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”
Trong xã hội phong kiến ý vua là ý trời, mọi thần dân chỉ có thể cúi rạp mình xuống mà thôi, thế nhưng ở đây,
thái độ Từ Hải về nhiều mặt đều mang ý nghĩa phản kháng mạnh mẽ chế độ phong kiến. Nó biểu hiện sự quật
khởi của một thời đại khi hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng lên dữ dội thì cũng là lúc ý chí
chống đối lại tôn ti trật tự khắc nghiệt kia nảy nở trong đầu óc những người bị áp bức. Cũng như Kim Trọng sau
này, Từ Hải biết rõ giá trị phẩm chất cao đẹp của Kiều. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên Từ Hải đã bắt gặp những
điều ấy, chính vì thế mà Từ Hải luôn luôn xem Kiều là người tri kỷ của mình, đối xử với Kiều bằng một mối
tình trước sau như một, khi “vinh hoa” cũng như lúc “phong trần”. Ngoài ra, Từ Hải còn là một con người rất tự
tin, thẳng thắn.
Kết bài:
Đọc những trang viết của Nguyễn Du, chúng ta thấy tình yêu thương con người, trăn trở với số phận từng con
người, nhất là những người đang đau khổ, để hướng ngòi bút của mình vào đó. Nhà thơ tự gọi mình bằng tên
chữ "Tố Như" không phải mong "lưu danh thiên cổ" mà chỉ là tâm sự của 1 nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. 
Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận: "… Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt
thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột… Tố Như Tử dụng tâm
đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy". Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim
không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói
đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu,
những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn.  Câu thơ còn
giống như tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc.  Khóc người xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình,
giọt lệ chảy quanh kết lại 1 bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến
những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những người tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của 1
xã hội rẻ rúng tài năng:
Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương

You might also like