You are on page 1of 9

TỔNG QUAN

I. Cơ cấu ngành công nghiệp dầu khí [1]


Từ “dầu khí” có nghĩa là “dầu mỏ” và có nguồn gốc từ các từ tiếng Latinh petra (đá) và
oleum (dầu), xuất phát từ các từ tiếng Hy Lạp. Nói cách khác, dầu mỏ là một hỗn hợp các
hydrocarbon có trong tự nhiên có thể tồn tại ở bất kỳ trạng thái nào, tùy thuộc vào các điều
kiện của áp suất chịu và nhiệt độ thời gian. Dầu mỏ được sản xuất từ các bể chứa ở thể lỏng
(dầu thô) hoặc thể khí (khí thiên nhiên), tùy thuộc vào trạng thái của hỗn hợp hydrocarbon.

Ngành công nghiệp dầu khí có thể được chia thành 4 lĩnh vực: (1) thăm dò, phát triển và
sản xuất; (2) chế biến hydrocacbon (nhà máy lọc và hóa dầu); (3) lưu trữ, vận chuyển và phân
phối; và (4) bán lẻ hoặc tiếp thị. Ngành công nghiệp này thường được chia thành ba thành
phần chính: thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn. Thượng nguồn thường bao gồm thăm
dò, phát triển và sản xuất dầu thô, khí đốt tự nhiên. Trung nguồn bao gồm các cơ sở và quy
trình nằm giữa phân đoạn thượng nguồn và hạ nguồn. Các hoạt động trung nguồn có thể bao
gồm chế biến, lưu trữ và vận chuyển dầu thô và khí tự nhiên. Giao thông vận tải là một phần
quan trọng của các hoạt động giữa dòng và có thể bao gồm việc sử dụng đường ống, các đội
vận tải đường bộ, tàu chở dầu và toa xe lửa. Các hoạt động hạ nguồn thường bao gồm tinh
chế / chế biến hydrocarbon, tiếp thị và phân phối. Theo một cách phân loại khác, ngành dầu
khí được chia thành năm phân khúc: thượng nguồn, hạ nguồn, đường ống, hàng hải, dịch vụ
và cung cấp. Các công ty tham gia vào cả thượng nguồn và hạ nguồn được gọi là công ty tổng
hợp. Các công ty chỉ có hoạt động thượng nguồn được gọi là độc lập.

1. Thăm dò, phát triển và sản xuất


Thăm dò và khai thác được gọi là E & P. Thăm dò là việc tìm kiếm các hồ chứa dầu và khí
dưới lòng đất (các mỏ dầu và khí), bao gồm các nghiên cứu địa chất cấu trúc, khảo sát địa
chấn, các hoạt động khoan diễn ra trước khi quyết định phát triển mỏ, phân tích để thiết lập
độ xốp và độ thấm, dữ liệu kiểm tra sản xuất để xác định tốc độ dòng chảy và tiềm năng sản
xuất tối đa,… Xác định số lượng và vị trí của các hồ chứa, loại giếng, đánh giá cơ chế thu hồi
dầu, thiết kế giếng đáp ứng yêu cầu sản xuất, cơ sở quy trình, cơ sở hạ tầng, cơ sở đầu cuối /
cơ sở xuất khẩu và chiến lược vận hành, bảo trì được thực hiện trong giai đoạn phát triển.

Sản xuất là quá trình sản xuất dầu mỏ khai thác bằng cách sử dụng các giếng khoan, qua
đó chất lỏng của bể chứa (dầu, khí và nước) được đưa lên bề mặt và tách ra. Trên thực tế,

1
việc đưa chất lỏng giếng lên bề mặt và chuẩn bị chúng để sử dụng trong nhà máy lọc dầu
hoặc nhà máy chế biến được gọi là sản xuất.

2. Chế biến hydrocarbon (nhà máy lọc và hóa dầu)


Chất lỏng và khí hydrocarbon được xử lý và phân tách thành các sản phẩm bán ra thị
trường hoặc nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hóa dầu trong các nhà máy lọc dầu thô
và nhà máy chế biến khí. Các sản phẩm thị trường của các nhà máy lọc và hóa dầu là nhiên
liệu máy bay, xăng dầu, dầu diesel, nhựa đường, …

Hơn 2500 sản phẩm tinh chế, bao gồm khí hóa lỏng, xăng, kero sene, nhiên liệu hàng
không, nhiên liệu diesel, dầu nhiên liệu, dầu bôi trơn và nguyên liệu cho ngành công nghiệp
hóa dầu, thường được sản xuất từ dầu thô trong ngành lọc dầu. Các nhà máy lọc dầu tiên tiến
và lớn hơn liên quan đến các nhà máy hóa dầu có thể sản xuất các dẫn xuất tổng hợp khác từ
các sản phẩm tinh khiết đến các chất phụ gia cho dầu nhờn và nhiên liệu, polyme, … Các quy
trình khác nhau có thể được sử dụng trong các nhà máy lọc dầu. Thành phần của dầu thô là
loại sản phẩm được chọn để xác định sơ đồ dòng chảy của một nhà máy lọc dầu

Các quá trình lọc dầu bao gồm các quá trình phân tách (chưng cất trong khí quyển, chưng
cất chân không và thu hồi cuối ánh sáng hoặc quá trình xử lý khí); các quá trình chuyển hóa
dầu mỏ (xúc tác và crackinh nhiệt, chuyển hóa, alkyl hóa, polyme hóa, đồng phân hóa, luyện
cốc và tạo nhớt); các quy trình xử lý dầu mỏ (hydro hóa, hydro hóa lưu huỳnh, làm ngọt hóa
học, loại bỏ khí axit và tách pha); nguyên liệu và xử lý sản phẩm (pha trộn, bảo quản, bốc xếp
và dỡ hàng); và các công trình phụ trợ (động cơ máy nén, hệ thống xả đáy, tháp giải nhiệt, lò
hơi, sản xuất hydro, nhà máy thu hồi lưu huỳnh và xử lý nước thải)

3. Lưu trữ, vận chuyển và phân phối


Các nhà cung cấp dịch vụ cung cấp các phương tiện lưu trữ tại các đầu cuối trong toàn bộ
hệ thống phân phối dầu khí. Các cơ sở này thường nằm gần nơi sản xuất, tinh chế và chế biến
và được kết nối với hệ thống đường ống để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển khi
nhu cầu sản phẩm phải được đáp ứng. Nói cách khác, kho chứa được sử dụng bởi tất cả các
lĩnh vực của ngành dầu khí. Sản phẩm dầu mỏ lỏng có thể được lưu trữ trong các bể thép
hoặc bê tông trên mặt đất hoặc ngầm hoặc trong các vòm muối dưới lòng đất, các hang động
được khai thác, hoặc các mỏ bỏ hoang. Các bể thép trên mặt đất hoặc dưới lòng đất là những
bình tốt nhất để chứa các dẫn xuất dầu mỏ. Các thùng có thể được sử dụng để lưu trữ một
lượng nhỏ các sản phẩm dầu mỏ trong thời gian ngắn hơn.

2
Dầu thô và khí đốt được vận chuyển đến các cơ sở chế biến và từ đó đến người tiêu dùng
cuối cùng bằng đường ống, tàu chở dầu / xà lan, xe tải và đường sắt. Đường ống là phương
pháp xác định vận chuyển kinh tế nhất và phù hợp nhất để di chuyển trên các khoảng cách xa
hơn. Tàu chở dầu và sà lan cũng được sử dụng để vận chuyển đường dài, thường là vận tải
quốc tế. Đường sắt và xe tải cũng có thể được sử dụng cho các khoảng cách xa hơn nhưng tiết
kiệm chi phí nhất cho các tuyến đường ngắn hơn.

4. Bán lẻ hoặc tiếp thị


Các sản phẩm của các nhà máy lọc và hóa dầu như xăng, dầu diesel, nhựa đường, dầu
nhờn, chất dẻo, v.v., chất lỏng khí tự nhiên và khí tự nhiên được tiếp thị cho nhiều người tiêu
dùng theo những cách khác nhau.

II. Vai trò của ngành dầu khí đối với Việt Nam
Ngành dầu khí là một ngành kinh tế trọng điểm và có đóng góp lớn cho sự phát triển của
Việt Nam. [2]

Thứ nhất, ngành dầu khí đóng góp vào GDP và nộp vào ngân sách nhà nước. Petrovietnam
(Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam) là một đơn vị trong ngành dầu khí và luôn đóng vai
trò là đầu tàu kinh tế của đất nước. Petrovietnam đã chiếm khoảng 16 - 18% GDP, mức cao
nhất so với cả nước trong giai đoạn 2008 – 2015. Về đóng góp ngân sách, thu từ dầu thô
mang lại bình quân 13,6% tổng thu ngân sách hàng năm trong giai đoạn 2009 - 2013, kể từ
khi Petrovietnam có nhà máy lọc dầu. Nguồn đóng góp ngân sách của Petrovietnam cao hơn
rất nhiều so với đóng góp từ tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoi và các doanh
nghiệp tư nhân. Sự đóng góp của Petrovietnam vào ngân sách nhà nước được thể hiện trong
bảng sau qua các năm từ 2008 – 2015: [2]

Bảng 1: Đóng góp của Petrovietnam trong nền kinh tế quốc dân
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Doanh thu hợp nhất
của Petrovietnam 127,0 137,0 235,0 325,0 363,0 390,0 366,0 311,0
(nghìn tỷ đồng)
1.980, 3.937,
GDP (nghìn tỷ đồng) 1.477,7 1.700,5 2.537,5 2.978,2 3.139,6 4.192,9
8 0
Đóng góp của
Petrovietnam trong 18,9 16,0 24,0 26,6 25,9 24,3 9,3 7,4
GDP (%)
Nộp Ngân sách của
Petrovietnam (nghìn 121,8 88,0 110,4 160,8 186,3 195,4 189,4 115,1
tỷ đồng)

3
Đóng góp của
Petrovietnam trong 29,2 22,6 27,9 27,1 24,4 24,1 23,3 13,0
ngân sách (%)
Đóng góp của thu từ
dầu thô trong thu 24,0 12,9 14,4 11,5 18,3 12,1 12,1 7,1
ngân sách (%)

Cuối năm 2014 và đầu năm 2015, khi cả thế giới đều bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm của giá
dầu, thì nguồn thu từ dầu thô vẫn chiếm tỷ trọng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. [2]

Thứ hai, là kim ngạch xuất nhập khẩu. Dầu thô là sản phẩm quan trọng và có vị trí chiến
lược trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu dầu thô có ý nghĩa rất quan
trọng đối với nền kinh tế nhập siêu như Việt Nam. Từ khi được khai thác đến nay, giá trị xuất
khẩu dầu thô luôn chiếm tỷ trọng cao so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác như giày
dép, dệt may, thủy sản. Bảng 2 thể hiện tỷ trọng giá trị xuất khẩu một số ngành chủ lực của
Việt Nam từ năm 2005 và giai đoạn 2008 – 2015: [2]

Bảng 2: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo các ngành. Đơn vị %

Năm 2005 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Dầu thô 26,41 21,42 14,56 9,37 10,36 9,70 7,21 4,79 2,34
Giày dép 10,89 9,87 9,57 9,55 9,37 8,58 8,38 6,81 7,39
Dệt may 17,10 18,87 21,31 20,90 18,91 17,04 17,90 13,84 13,93
Thủ sản 9,79 9,33 10,00 9,36 8,75 7,20 6,68 5,24 4,06
Khác 35,81 40,51 44,56 50,82 52,61 57,48 59,83 69,32 72,28
100,0 100,0
Tổng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
0 0

Số liệu trên cho thấy kim ngạch xuất khẩu dầu thô giảm mạnh trong giai đoạn từ năm 2008
đến 2015 và đặc biệt giảm so với thời gian trước đó. Sự sụt giảm giá trị xuất khẩu dầu thô
trong những năm qua là do hai nguyên nhân chính. Một là do sự sụt giảm sản lượng khai thác
tại các mỏ lớn đặc biệt là mỏ Bạch Hổ. Hai là do từ năm 2009 Nhà máy Lọc dầu Dung Quất
chính thức đi vào hoạt động đã tiêu thụ một phần lượng dầu thô sản xuất nội địa. Tuy nhiên
dầu thô vẫn là mặt hàng quan trọng trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. [2]

Cuối cùng là ngành dầu khí thu hút được nguồn đầu nước ngoài vào Việt Nam. Ở Việt
Nam có trên 40 công ty dầu khí nước ngoài đang đầu tư vào các khâu thượng nguồn, trung
nguồn và hạ nguồn. Trong số đó, nhiều công ty dầu khí lớn đang hợp tác với Petrovietnam

4
chủ yếu trong khâu thượng nguồn (tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí) như Chevron,
KNOC (Hàn Quốc), Gazprom (Nga),… Petrovietnam ngoài vai trò là đại diện nước chủ nhà
quản lý hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí còn tham gia với vai trò nhà đầu tư
(bình đẳng như các công ty dầu khí nước ngoài khác). Petrovietnam cũng được đánh giá là
Tập đoàn có nhiều thành tựu về khoa hoa học công nghệ và dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất
lượng cao, nhất là trong lĩnh vực khoan, để trở thành nhà thầu cung cấp dịch vụ dầu khí cho
quốc tế. [2]

Ngoài những vai trò nêu trên, ngành dầu khí đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu năng
lượng. Vai trò này được thể hiện ở những đặc điểm sau: [3]

Đầu tiên, ngành Dầu khí Việt Nam tiếp tục là một trong những trụ cột chính đảm bảo
nguồn cung năng lượng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Theo báo cáo triển vọng năng
lượng 2019, cùng với sự phát triển nền kinh tế thế giới nhu cầu về năng lượng toàn cầu sẽ
tăng mạnh khoảng 1/3 vào năm 2040. Theo Bristish Petroleum (năm 2018), trong tổng năng
lượng sơ cấp mà Việt Nam sử dụng, năng lượng từ dầu khí hiện chiếm tỷ lệ rất cao tới 40%.
Do đó tầm quan trọng của ngành này sẽ còn giữ vững trong tương lai.

Thứ hai, cung cấp nguồn nhiên liệu cho phát triển nhiệt điện khí nhằm bảo vệ môi trường.
Ngành Dầu khí với việc triển khai các dự án khí đã góp phần để giải quyết vấn đề thiếu hụt
nhiên liệu khí này. Hiện có 2 siêu dự án khí: Cá Voi Xanh và Lô B - Ô Môn, đang trong giai
đoạn phát triển. Vào năm 2023, khi các dự án này hoàn thành và đi vào hoạt động, nguồn
cung sẽ được bổ sung hàng chục tỷ m3 mỗi năm, bảo đảm nhiên liệu cho 6-7 nhà máy nhiệt
điện khí với công suất đến 6.000-7.000 MW. Tuy nhiên, chi phí giá thành cho việc sản xuất
điện theo hình thức này còn khá cao vì Việt Nam chưa chủ động về nguồn nhiên liệu.

Thứ ba, đóng góp trong việc xây dựng các dự án điện gió ngoài khơi. Ngành Dầu khí với
những lợi thế về kinh nghiệm xây dựng, lắp đặt các công trình trên biển sẽ có khả năng đóng
góp rất lớn trong việc khiến các dự án về điện gió ngoài khơi có triển vọng đi vào hiện thực
góp phần giúp đang hóa nguồn nguyên liệu cho năng lượng tái tạo và củng cố thêm cho an
ninh năng lượng quốc gia trong tương lai.

Thứ tư, ngành Dầu khí cũng đã mở rộng hợp tác quốc tế, mở rộng đầu tư khai thác bên
ngoài, đưa Việt Nam vào danh sách các nhà xuất khẩu dầu khí trên thế giới. Bên cạnh đó,
ngành Dầu khí phát triển góp phần bảo đảm tăng trưởng và giải quyết việc làm, an sinh xã

5
hội. Các nguồn lực đem lại từ phát triển ngành Dầu khí góp phần cân đối vĩ mô, thúc đẩy
tăng trưởng chung của cả nền kinh tế.

III. Nhu cầu sử dụng dầu khí tại Việt Nam


Để đáp ứng yêu cầu cho phát triển kinh tế phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa thì năng
lượng là không thể thiếu và ngày càng tăng cao (nhu cầu năng lượng hiện tại của nước ta đã
trên 10%), do đó nhu cầu tất yếu trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục là vấn đề quan trọng trong
phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu đề ra và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. [3]

Hiện nay, các nhà máy lọc dầu ở Việt Nam chỉ cung cấp được khoảng 35% nhu cầu sử
dụng trong nước. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng dầu khí ngày càng tăng cao do sự bùng nổ
dân số, nhu cầu đi lại từ các phương tiện giao thông và công nghiệp phát triển mạnh. Tuy
nhiên, trong giai đoạn gần đây, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cũng đã cung
cấp gần 35 tỷ m3 khí khô cho sản xuất, 40% sản lượng điện của toàn quốc, 35% – 40% nhu
cầu u – rê và cung cấp 70% nhu cầu khí hóa lỏng cho phát triển công nghiệp và tiêu dùng dân
sinh. [4]

IV. Sản lượng dầu khí


1. Trên thế giới
a. Dầu mỏ
Dầu mỏ đóng vai trò quan trọng trong phát triển các ngành công nghiệp nên luôn nằm
trong mối ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Dầu mỏ chiếm một tỉ lượng lớn
trong tiêu thụ năng lượng của thế giới. Hầu hết các loại dầu trên thế giới là dầu thông thường
(conventional oil) chiếm 30%, dầu nặng (heavy oil), cực nặng (extra heavy oil) và bitumen
chiếm khoảng 70% tổng tài nguyên dầu của thế giới. Trung Đông có trữ lượng dầu thô thông
thường lớn nhất thế giới. Còn Canada thì có trữ lượng dầu thô nặng và bitumen lớn nhất thế
giới. [1]

Theo thống kê năm 2020, đất nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới là Venezuela với
304 tỷ thùng. Theo sau đó là Saudi Arabia với 298 tỷ thùng. Ngoài việc có trữ lượng dầu lớn,
Saudi Arabia còn là quốc gia xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới với 17% thị phần. Tiếp theo
đó là Canada đứng thứ ba trên thế giới về quốc gia có trữ lượng dầu lớn với 268 tỷ thùng và
thứ 6 về xuất khẩu dầu với kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD. [5]

Dầu mỏ thường được sản xuất bởi các công ty thuộc sở hữu của nhà đầu tư (IOC) hoặc các
công ty dầu quốc gia (NOC). Phần lớn trữ lượng dầu và khí đốt trên thế giới do NOC kiểm
6
soát. Các công ty dầu khí lớn nhất thế giới có thể kể đến như công ty dầu quốc gia Iran
(NIOC), công ty dầu Venezuela S.A, công ty dầu quốc gia Iraq, công ty dầu khí Qatar,… [1]

b. Khí đốt
Việc khai thác khí thiên nhiên đầu tiên trên thế giới bắt đầu tại bang Fredonia, New York
(Mỹ) vào năm 1821 với công dụng chủ yếu được dùng làm nhiên liệu để chiếu sáng. Đến
năm 1885, sản lượng khí thiên nhiên toàn cầu đạt 2 tỷ m 3 với nguồn khai thác chủ yếu ở Mỹ.
Tuy nhiên, đến những năm 1930, việc phát hiện mỏ khí ở Nga đã mở ra tiềm năng phát triển
thị trường khí thiên nhiên ở khu vực Châu Âu với sản lượng có thể lên đến 85 tỷ m 3 với tốc
độ tăng trưởng kép 5 năm đạt 19,1%. [6]

Năm 1991, Liên bang Xô Viết bị giải thể dẫn đến Nga và 14 quốc gia tuyên bố độc lập,
khiến sản lượng khí thiên nhiên ở các quốc gia này giảm liên tiếp từ 2% năm 1991 và 3% vào
năm 1992. Sự suy giảm này đã làm tốc độ tăng trưởng ngành khí toàn cầu chậm lại chỉ đạt
2.011 tỷ m3 vào năm 1992 và chỉ tăng 0,9% so với năm 1991. Những năm sau đó, do sản
lượng khai thác của EU đạt đỉnh với 273 tỷ m 3 nên ngành khí toàn cầu dần phục hồi và bùng
nổ trở lại với tốc độ tăng trưởng đạt 4,9%/năm tương đương 2.198 tỷ m 3 vào năm 1996. Tuy
nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997 đã khiến ngành khí toàn cầu tiếp
tục sụt giảm với mức tăng trưởng chỉ khoảng 0,1%/năm. [6]

Năm 2000, ngành khí toàn cầu đã phục hồi trở lại với mức tăng trưởng 4,1%/năm đạt sản
lượng 2.406 tỷ m3. Tuy nhiên, từ năm 2008 – 2010, do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đã làm ngành khí thế giới suy giảm mạnh khoảng 2,8%/năm vào năm 2009,
đây là mức giảm thấp nhất kể từ năm 1970. [6]

Hiện nay, Nga là quốc gia có trữ lượng khí đốt lớn nhất thế giới với trữ lượng chiếm tới
25,02% trữ lượng khí đốt trên toàn thế giới. Tiếp đó, có thể kể đến một số quốc gia có trữ
lượng khí đốt lớn như Iran (15,57%), Qatar (13,39%), Turkmenistan (3,95%),… [7]

2. Tại Việt Nam


Theo số liệu thống kế từ BP (The British Petroleum), Việt Nam là quốc gia đứng thứ 28
trên tổng số 52 quốc gia trên thế giới có tài nguyên dầu khí. Tính đến hết năm 2013, trữ
lượng dầu thô của Việt Nam vào khoảng 4,4 tỷ thùng, đứng đầu Đông Nam Á, còn lượng khí
xác minh của Việt Nam thì vào khoảng 0,6 nghìn tỷ m3, đứng thứ ba trong khu vực Đông
Nam Á (sau Indonesia và Malaysia). [2]

7
Việt Nam bắt đầu khai thác khí từ năm 1981 (mỏ khí Tiền Hải C – Thái Bình) và khai thác
dầu cùng với khí đồng hành từ năm 1986 (mỏ Bạch Hổ ở thềm lục địa phía Nam). Từ đó,
Việt Nam bắt đầu có tên trong danh sách các nước khai thác, xuất khẩu dầu thô trên thế giới.
Tính đến ngày 31/12/2015, toàn Ngành Dầu khí đã khai thác được 352,68 triệu tấn dầu và
114,03 tỷ m3 khí. Trong đó, các mỏ dầu trong đá mỏng chiếm tới 80% trữ lượng và sản lượng
khai thác dầu của Việt Nam. Trong giai đoạn 1986 – 2013, sản lượng khai thác dầu khí đã
tăng lên trên 16 triệu tấn dầu thô/năm, sản lượng khí cũng đạt trên 7 tỷ m 3/năm, tương đương
0,5% sản lượng dầu thô và 0,2% tổng sản lượng khí toàn thế giới. Trong năm 2015, sản
lượng dầu đã tăng lên 18,75 triệu tấn và sản lượng khí đạt 10,67 tỷ m3. [2]

Bảng 3: Sản lượng tiêu thụ khí của Petrovietnam giai đoạn 2011 – 2015 [2]

Đơn vị tính Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Khí khô triệu m3 8.533 9.175 9.469 9.960 10.430
LPG nghìn tấn 1.166 1.027 1.061 1.086 1.320
Condensate nghìn tấn 58 61 62 59,5 59,8

Trong giai đoạn từ 2011 – 2015, 36 mỏ và công trình dầu khí đã được đưa vào khai thác,
trong đó có 26 mỏ, công trình trong nước và 10 mỏ, công trình ngoài nước [2]. Tính đến nay,
tổng trữ lượng dầu khí đã phát hiện ở Việt Nam đạt trên 1,5 tỷ m 3, trong đó có khoảng 734
triệu m3 dầu, condensate và 798 tỷ m3 khí, tập trung khai thác ở bể Cửu Long, Nam Côn Sơn,
Sông Hồng, Malay – Thổ Chu. [8]

Tuy nhiên, theo thống kê từ năm 2015 đến nay, sản lượng khai thác dầu liên tiếp sụt giảm
từ 16,9 triệu tấn vào năm 2015 xuống còn 15,2 triệu tấn vào năm 2016 và chỉ còn 9,7 triệu tấn
vào năm 2020 [9] Theo dự báo, sản lượng khai thác dầu khí  tiếp tục giảm trong các năm tiếp
theo và có thể xuống đến 7 triệu tấn vào năm 2022 [8], [9]. Theo đánh giá, mặc dù Việt Nam
có tiềm năng phát triển ngành dầu khí với hơn 1,5 – 2,5 tỷ m 3 dầu quy đổi nhưng khí vẫn
chiếm tỉ trọng lớn với khoảng 75% sản lượng và 60% tiềm năng dầu khí ở xa bờ . Điều này,
khiến cho điều kiện thi công gặp nhiều khó khăn, yêu cầu công nghệ cao và tốn nhiều chi phí.
Khoảng 40% lượng tiềm năng dầu khí còn lại thuộc khu vực nước nông, quy mô nhỏ, cấu
trúc địa chất phức tạp, một số khu vực có áp suất và nhiệt độ cao gây ảnh hưởng đến quá
trình khai thác. [8]

TÀI LIỆU THAM KHẢO


8
[1] S. Jafarinejad, Petroleum Waste Treatment and Pollution Control. 2016.

[2] Phạm Văn Hùng and Phạm Văn Chất, “Tổng quan về ngành công nghiệp dầu khí Việt
Nam,” Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, vol. 66, no. 4, pp. 223–237, 2020.

[3] Tạp chí của Hội Dầu khí Việt Nam, “Dầu khí vẫn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu
ngành năng lượng,” 2020. https://petrovietnam.petrotimes.vn/dau-khi-van-dong-vai-
tro-quan-trong-trong-co-cau-nganh-nang-luong-568978.html (accessed Apr. 28, 2022).

[4] Tạp chí năng lượng Việt Nam, “Vai trò của ngành Dầu khí Việt Nam trong bối cảnh
mới,” 2018. https://nangluongvietnam.vn/vai-tro-cua-nganh-dau-khi-viet-nam-trong-
boi-canh-moi-20126.html (accessed Apr. 28, 2022).

[5] Đức Anh, “Những quốc gia sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới,” 2022.
https://vneconomy.vn/nhung-quoc-gia-so-huu-tru-luong-dau-mo-lon-nhat-the-gioi.htm
(accessed Apr. 28, 2022).

[6] Bùi Quốc Hiếu, “Báo cáo ngành khí,” Fpt Secur., vol. 8686, no. 08, 2017.

[7] Hà Thu, “10 quốc gia giàu khí đốt nhất thế giới,” 2011. https://vnexpress.net/10-quoc-
gia-giau-khi-dot-nhat-the-gioi-2713767.html (accessed Apr. 28, 2022).

[8] Tạp chí của Hội Dầu khí Việt Nam, “Hoạt động thăm dò khai thác Dầu khí ngoài khơi
Việt Nam: Thực trạng và giải pháp,” 2021. https://petrovietnam.petrotimes.vn/hoat-
dong-tham-do-khai-thac-dau-khi-ngoai-khoi-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-636055-
636055.html (accessed Apr. 28, 2022).

[9] Anh Nguyễn, “Sản lượng khai thác dầu khí sụt giảm: Giải pháp nào ứng phó?,” 2021.
https://bnews.vn/san-luong-khai-thac-dau-khi-sut-giam-giai-phap-nao-ung-pho/
218691.html (accessed Apr. 28, 2022).

You might also like