You are on page 1of 10

NHỮNG CHÍNH SÁCH THUẾ TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

TẠI VIỆT NAM

Võ Đình Hiếu
Bế Thành Đạt
Ngô Khánh Duy

Trường Đại học Ngân Hàng Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ, đang phát triển, do đó được đánh giá
là một trong những nước có tiềm năng phát triển thương mại điện tử. Tuy nhiên, thương
mại điện tử là một loại hình kinh doanh mới, nên cơ quan thuế sẽ gặp nhiều khó khăn
trong quá trình quản lý và thu thuế đối với lĩnh vực này. Do vậy, việc đề xuất, kiến nghị
giải pháp quản lý hiệu quả thương mại điện tử, tránh thất thu cho ngân sách nhà nước và
đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Từ khóa: chính sách thuế, thuế thu nhập doanh nghiệp, thương mại điện tử.

1. Đặt vấn đề:


Thế giới ngày nay với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cuộc
cách mạng này tạo ra nhiều thành tựu và mang lại nhiều lợi ích cho con người, giúp phát
triển, giải phóng sức lao đông, nâng cao năng suất và giá trị trong cuộc sống. Đồng thời,
tạo ra sản phẩm, phương thức giao định, thanh toán mới,.. Trong đó sự phát triển từ của
thương mại điện tử là một trong những phát triển nổi bật tại Việt Nam. Các chuyên gia
dự báo thương mại điện tử tại Việt Nam đạt khoảng 29 tỷ USD vào năm 2025. Chính
sách thuế và quản lý thuế đối với thương mại điện tử hiện nay đã bao quát hầu hết các
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, vấn đề thanh toán qua hệ thống tiền
điện tử; khó khăn trong quản lý nguồn thu thuế, việc trốn thuế, không thực hiện các nghĩa
vụ thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử dễ dàng hơn so với các thương mại truyền
thống vẫn đang là những thách thức đặt ra cho cơ quan quản lý thuế.
2. Nội dung

Khái niệm về thương mại điện tử:


Internet lần đầu xuất hiện vào năm 1974 và dần phổ biến trên toàn cầu từ năm
1993 mang đến cho con người nhiều lợi ích, nhiều loại hình kinh doanh, hàng hóa, dịch
vụ mới được ra đời có những đặc trưng khác với hình thức kinh doanh truyền thống. Từ
đó, thương mại điện tử cũng hình thành và phát triển.

Thương mại điện tử bao gồm các lĩnh vực như: sử dụng kết nối điện tử để truyền
tải thông tin, trao đổi hàng hóa, dịch vụ thông thường hằng ngày; các chương trình máy
tính, phần mềm, dữ liệu âm nhạc hay các phần mềm có thể trao đổi mua bán trực tuyến
qua internet...

Thương mại điện tử không phân biệt khoảng cách, quốc gia trong trao đổi thương
mại. Các thông tin và hoạt động thương mại được trao đổi qua cơ sở hạ tầng về công
nghệ thông tin trên toàn cầu. Đồng thời, thương mại điện tử có ít trung gian hơn trong
quá trình giao dịch hàng hóa, dịch vụ, thậm chí không cần các trung gian trong quá trình
lưu thông hàng hóa từ người sản xuất thành phẩm cuối cùng tới người tiêu dùng cuối
cùng.

Đặc điểm và vai trò của chính sách thuế đối với chính sách thương mại điện tử

Đặc điểm của chính sách thuế đối với chính sách thương mại điện tử

Các loại hàng hóa, dịch vụ được giao dịch trong lĩnh vực thương mại điện tử được
áp dụng sắc thuế giống như các hàng hóa, dịch vụ truyền thống. Tuy nhiên, với thực tiễn
việc thu thuế đối với các giao dịch trong lĩnh vực thương mại điện tử tương đối khó khăn
do các cơ quan quản lý thuế khó mà nắm bắt được hết các thông tin về giao dịch hàng
hóa, dịch vụ. Do đó, khi xây dựng chính sách thuế cho lĩnh vực thương mại điện tử, một
số quốc gia đều định hướng thiết kế hệ thống chính sách thuế đơn giản hơn trong lĩnh
vực thương mại điện tử.

Quá trình thu thuế thương mại điện tử cũng khá phức tạp khi các cơ quan quản lý
thuế phải phối hợp với người bán hàng liên quan, các trung gian tài chính và các nhà
cung cấp dịch vụ internet để thu thuế. Cơ quan thuế phải xây dựng hệ thống các phần
mềm phức tạp để tính toán số thuế mà người phải nộp thuế, xây dựng báo cáo và phục
vụ quá trình thanh toán nợ thuế.

Vai trò của chính sách thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử

Thương mại điện tử trên quốc tế có xu hướng tăng trưởng với tốc độ nhanh và
ước đạt 4.981 nghìn tỷ USD trong năm 2021, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2020. Do
đó, nguồn thu ngân sách các nước sẽ tăng lên đáng kể, nhất là những quốc gia có lĩnh
vực thương mại điện tử phát triển nhanh, quy mô thị trường.

Các nước cần ban hành chính sách thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử và áp
dụng chính sách nhằm đảm bảo sự công bằng trong nghĩa vụ thuế giữa kinh doanh các
hàng hoá, dịch vụ trong lĩnh vực truyền thống và lĩnh vực thương mại điện tử. Trong
thực tiễn, do cơ chế chính sách ở nhiều quốc gia trên thế giới chưa được hoàn thiện kịp
thời trước sự thay đổi của các hình thức kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử,
đã dẫn đến nhiều hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực này chưa thực hiện các nghĩa vụ thuế,
gian lận, trốn thuế. Do đó tạo nên sự bất công bằng trong hệ thống thuế tại các quốc gia.

Thực trạng chính sách thuế đối với thương mại điện tử tại Việt Nam.

Việt Nam là một trong những nước có thị trường thương mại điện tử phát triển
nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á. “Theo Sách trắng Thương mại điện tử Việt
Nam, năm 2020, tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử đạt mức 18%, quy mô đạt
11,8 tỷ USD và là nước duy nhất ở Đông Nam Á có tăng trưởng thương mại điện tử 2
con số. Theo tính toán của các tập đoàn lớn thế giới như Google, Temasek và
Bain&Company, nhiều khả năng quy mô của nền kinh tế số Việt Nam sẽ vượt ngưỡng
52 tỷ USD và giữ vị trí thứ 3 trong khu vực ASEAN vào năm 2025” [1] .

1
Thương mại điện tử trở thành xu hướng tất yếu: https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/thuong-mai-dien-
tu-tro-thanh-xu-huong-tat-yeu-
598414.html#:~:text=Theo%20S%C3%A1ch%20tr%E1%BA%AFng%20Th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%
BA%A1i,tr%C6%B0%E1%BB%9Fng%20TM%C4%90T%202%20con%20s%E1%BB%91.”
Hiện nay, số người tiêu dùng mua sắm qua thương mại điện tử tăng trưởng rất
mạnh. Tỷ lệ người tham gia mua sắm trực tiếp tại Việt Nam năm 2020 chiếm 88%, năm
2019 chiếm 77%. Trong năm 2021 vừa qua, do ảnh hưởng của dịch bệnh nên tỷ lệ mua
sắm của người dân qua các trang thương mại điện tử tăng rất nhanh, trong khi tỷ lệ người
mua sắm trên các diễn đàn và mạng xã hội có xu hướng giảm.

Mặc dù thị phần thương mại điện tử tại Việt Nam còn tương đối nhỏ so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, tuy nhiên Việt Nam có tiềm năng rất lớn vì có dân
số trẻ, người sử dụng internet nhiều và tốc độ tăng trưởng nhanh. Vì thế nhiều công ty
trong và ngoài nước đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực này để tối đa hóa lợi ích.

Đối với chính sách thuế thương mại điện tử tại Việt Nam, hiện nay đã được lồng
ghép vào các sắc thuế như thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được thể hiện rõ như sau:

Thứ nhất, đối với thuế GTGT, theo quy định tại Điều 3 của Luật thuế GTGT năm
2008 “Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là
đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng” và Điều 4 của Luật thuế GTGT “Người nộp thuế giá
trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị
gia tăng (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu
thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu).” Vì thế, theo nguyên tắc về địa
điểm tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam được giao dịch bằng thương mại điện
tử cho người tiêu dùng Việt Nam thì đều thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.

Thứ hai, đối với thuế TNDN, theo quy định Điều 2 và Điều 3 của Luật thuế TNDN
năm 2008 đã quy định rõ tổ chức, cá nhân sản xuất – kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có
thu nhập đều phải nộp thuế TNDN. Tất cả các dianh nghiệp trong và ngoài nước có cơ
sở thường trú và không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu có thu nhập chịu thuế phát
sinh tại Việt Nam thì đều phải nộp thuế TNDN. Song song với điều đó, tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử trong và ngoài nước đều thuộc đối
tượng phải nộp thuế TNDN tại Việt Nam.
Thứ ba, đối với thuế TNCN, theo quy định Điều 2 và Điều 3 của Luật thuế TNCN
năm 2007 đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập thuộc diện chịu thuế
quy định phát sinh trong và ngoài nước và cá nhân không cư trú có thu nhập thuộc diện
chịu thuế phát sinh ở Việt Nam. Thu nhập chịu thuế bao gồm từ kinh doanh, tiền công
tiền lương, thu nhập từ đầu tư vốn và chuyển nhượng bất động sản. Do đó các công nhân
Việt Nam, người nước ngoài phát sinh thu nhập từ giao dịch thương mại điện tử tại Việt
Nam và tại các trang mạng Việt Nam đều phải kê khai và nộp thuế TNCN.

Hiện nay, chính sách thuế về thương mại điện tử đang dần được hoàn thiện theo
thời gian, phù hợp với xu hướng tiêu dùng ngày nay. Tuy nhiên hoạt động thương mại
điện tử rất đa dạng, có tốc độ tăng trưởng nhanh về quy mô, phạm vi hoạt động rộng.

Giai đoạn 2018 - 9/2021, có khoảng 14 tập đoàn, công ty công nghệ lớn trên thế
giới và 8 trang điện tử hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới có thu nhập tại Việt
Nam đã thực hiện nghĩa vụ thuế. Số thu thuế từ các tổ chức Việt Nam ký hợp đồng quảng
cáo trực tuyến với tổ chức nước ngoài (Google, Youtube, Facebook...) khoảng gần 4.100
tỷ đồng. Năm 2020 số thu thuế từ hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới đạt trên
1.143 tỷ đồng và 9 tháng đầu năm 2021 đạt trên 1.017 tỷ đồng.
Những hạn chế về chính sách thuế đối với thương mại điện tử tại Việt Nam.

Mặc dù chính sách thuế đối với lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam đã được
quy định khá đầy đủ. Nhưng trong thực tiễn, công tác quản lý thuế đối với một số hoạt
động thương mại điện tử đã bộc lộ những hạn chế cần sớm có giải pháp khắc phục:

Thứ nhất, đa số các cá nhân, tổ chức kinh doanh tại Việt Nam không tiến hành
đăng ký kinh doanh nên nhà nước khó theo dõi, quản lý, giám sát và xác định đối tượng.
Đặc biệt đối với loại hình quảng cáo trực tuyến, bán hàng qua mạng xã hội (Facebook,
Zalo, Instagram...) vi phạm thường không kê khai hoặc kê khai sai doanh thu thuế GTGT.

Thứ hai, nhiều hóa đơn mua bán hàng hóa có giá trị nhỏ giữa cá nhân trong và
ngoài nước, dẫn đến khó khăn trong việc tuân thủ thuế khi mà số tiền nộp thuế phải đóng
rất nhỏ. Tuy nhiên đây lại là nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ lớn nếu tính trên quy mô dân
số và nền kinh tế. Điều này làm thất thu từ những khoản thuế này, tổng nguồn thu ngân
sách nhà nước sẽ giảm xuống.

Thứ ba, một số hoạt động thương mại điện tử chưa có trong danh mục ngành nghề
kinh doanh hoặc đang trong tình trạng tranh cãi thuộc vào loại hình kinh doanh nào. Ví
dụ như ngày nay đã xuất hiện giao dịch mua bán tiền “ảo”, chuyển nhượng vật phẩm
“ảo” trong game... dẫn đến kho khắn trong việc xác định bản chất, loại hình để đánh thuế
hoạt động kinh doanh.

Thứ tư, tiền điện tử tuy đã xuất hiện từ lâu nhưng loại tiền tệ này không được ghi
chép hay nằm trong lưu thông tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý nên rất khó giám
sát và thu nhập được thông tin. Vì thế nhiều nước đã có xu hướng thanh toán các hàng
hóa, dịch vụ qua hệ thống tiền điện tử. Đối với thương mại điện tử, khi hệ thống thanh
toán truyền thống được thay thế bằng thanh toán tiền điện tử, điều này sẽ có nguy cơ gây
thất thu Ngân sách Nhà nước từ thuế đối với lĩnh vực thương mại điện tử.

Một số giải pháp tăng tính hiệu quả cho chính sách thuế

Để tránh thất thu thuế từ việc các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trốn thuế hay
không thực hiện nghĩa vụ thuế trong kinh doanh thương mại điện tử, các cơ quan quản
lý thuế nên phối hợp với một bên thứ ba cụ thể một công ty về công nghệ có hỗ trợ cung
cấp mạng viễn thông lớn (FPT, Viettel...) để xây dựng dữ liệu về hoạt động thương mại
điện tử trên thị trường. Mặt khác, cũng có thể giúp cơ quan quản lý thuế thu thuế và
thông báo nghĩa vụ thuế đối với người dân và các tổ chức, doanh nghiệp.

Tăng cường trách nhiệm phối hợp của các cơ quan quản lý như Bộ Thông tin và
Truyền thông, Bô Công Thương, Ngân hàng Nhà nước... các công ty viễn thông, công
ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin nhằm trao đổi, thu thập thông tin của
các đơn vị hoạt động thương mại điện tử. Qua đó xác định các hành vi vi phạm pháp luật
thuế và kịp thời có các biện pháp xử lý nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế.

Xây dựng các cơ sở dữ liệu, triển khai rộng rãi các dịch vụ thuế điện tử như nộp
thuế online, khai thuế điện tử, hoá đơn điện tử, đăng ký ngành nghề kinh doanh gần với
hoạt động kinh doanh thực tế. Nghiên cứu, phát triển công cụ tìm kiếm internet trên các
trang web có hoạt động thương mại điện tử để xác định hoạt động thương mại điện tử
chưa được kê khai thuế. Đồng thời, tăng cường các giải pháp tạo thuận lợi, giảm thời
gian tuân thủ về thuế, triển khai sử dụng hóa đơn điện từ. Điều này sẽ góp phần tăng hiệu
quả việc quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.

Tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra các đối tượng hoạt động kinh
doanh mới phát sinh qua mạng mà không có cơ sở thường trú tại Việt Nam để xây dựng
cơ chế quản lý phù hợp với thông lệ quốc tế, chống thất thu thuế. Đối với người nộp thuế
là những doanh nghiệp có rủi ro lớn về thuế, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra. Với
người nộp thuế là các cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ tham gia vào các giao dịch nhỏ lẻ, số
lượng lớn và giá trị giao dịch thấp, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để họ
chấp hành pháp luật thuế đầy đủ.

Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu nhằm trang bị các kiến thức về
thương mại điện tử và công nghệ thông tin cho công chức thuế. Đào tạo các kỹ năng khai
thác dữ liệu điện tử để phục vụ hoạt động thanh tra, giảm thời gian kiểm tra tại các cơ sở
kinh doanh. Nâng cao năng lực quản lý cho các cán bộ công tác quản lý thuế trong lĩnh
vực thương mại điện tử.
Hiện nay, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử tăng nhanh cùng với nguồn thu
từ thuế trong lĩnh vực kinh doanh mới này sẽ gây thất thu lớn khi các doanh nghiệp,
người tiêu dùng lợi dụng khe hở về thuế để trốn thuế. Vì thế các chế tài, quy định xử
phạt đối với các hành vi trốn thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử cần tăng cường hơn,
nhằm hạn chế các tình trạng, hành vi trốn thuế, gian lận thuế.

3. Kết luận
Thương mại điện tử tại Việt Nam đang càng ngày càng phát triển với những tiềm
năng lớn (dân số trẻ, tỷ lệ người sử dụng internet cao...) đẩy mạnh phát triển nền kinh tế
quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những điều tích cực thì các chính sách thuế đối với thương
mại điện tử vẫn còn nhiều khe hở cho các tổ chức, người tiêu dùng lợi dụng. Vì vậy để
thương mại điện tử ở Việt Nam phát triển cần phải có sự hỗ trợ, giám sát bởi Nhà nước,
tăng cường các chính sách thuế để xây dựng hàng lang pháp ly cho các hoạt động thương
mại điện tử, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin...

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đào Đức Thuỷ (2021), Dư địa thu thuế đối với hoạt động TMĐT còn lớn, Cục
thuế Yên Bái.

2. Đào Thị Hạnh (2021), Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp cho việc
quản lý thuế đối với TMĐT tại Việt Nam, Tạp chí Công Thương số 6, tháng 3 năm 2021.

3. Minh (2021), Thu thuế từ cá nhân có kinh doanh TMĐT tăng mạnh, Thời báo
Tài chính.

4. Thương mại điện tử trở thành xu hướng tất yếu: https://dangcongsan.vn/kinh-


te-va-hoi-nhap/thuong-mai-dien-tu-tro-thanh-xu-huong-tat-yeu-
598414.html#:~:text=Theo%20S%C3%A1ch%20tr%E1%BA%AFng%20Th%C6%B0
%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i,tr%C6%B0%E1%BB%9Fng%20TM%C4%90T%
202%20con%20s%E1%BB%91.
Bảng phân công công việc chi tiết của từng thành viên

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Mức độ hoàn thành

1 Võ Đình Hiếu 030136200196  Tổng hợp word 100%


 Thực trạng chính
sách thuế đối với
thương mại điện tử
 Những hạn chế về
chính sách thuế đối
với thương mại điện
tử
 Một số giải pháp
tăng tính hiệu quả
cho chính sách thuế.

2 Bế Thành Đạt 030136200116  Thực trạng chính 100%


sách thuế đối với
thương mại điện tử
 Một số giải pháp
tăng tính hiệu quả
cho chính sách
thuế.

3 Ngô Khánh Duy 030136200097  Khái niệm về 100%


thương mại điện tử
 Đặc điểm và vai trò
của chính sách thuế
đối với chính
 sách thương mại
điện tử

You might also like