You are on page 1of 32

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG
(Dùng cho các lớp đào tạo nghiệp vụ Luật sư )

03
LS.LS&NLS
B2

- Hồ sơ chỉ dùng để giảng dạy và học tập trong các lớp đào
tạo nguồn Luật sư của Học viện Tư pháp;
- Người nào sử dụng vào mục đích khác phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Hà Nội- 2014
`

TIỂU HỒ SƠ 3.1

1
`

VIỆN KSND DÂN TỈNH G CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆN KSND HUYỆN H Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
-----------------------
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 39
Số: 122/CV-VKS Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2013
“V/vtháng:
Ngày, thông báo vi phạm của luật sư”
25.03.2013

Kính gửi: - Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;


- Trưởng Văn phòng Luật sư C, Đoàn luật sư TP B

Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh G đang thụ lý giải quyết vụ án Ngọ Thành
Tới, sinh năm 1985, trú quán tại thôn Ngọ Xá, xã Châu Minh, huyện H, tỉnh G về tội “cố
ý gây thương tích” theo Điều 104 của Bộ luật hình sự. ngày 22/10/2012 Tòa án nhân dân
huyện H đã cấp Giấy chứng nhận người bào chữa số 14 và số 15 cho các ông Nguyễn
Văn B và Nguyễn Văn A là luật sư thuộc văn phòng Luật sư C – Đoàn luật sư TP B để
tham gia tố tụng bào chữa cho bi can Ngọ Thành Tới, theo hợp đồng dịch vụ pháp lý mà
gia đình bị can đã ký với Văn phòng luật sư C.
Ngày 12/3/2013, Viện kiểm sát nhân dân huyện H , tỉnh G có Công văn số 98//CV-
VKS thông báo đến Văn phòng luật sư C đề nghị cử luật sư đã được cấp Giấy chứng
nhận bào chữa để tham gia hoạt động đối chất của Kiểm sát viên đối với bị can Ngọ
Thành Tới với bị can Ngọ Văn Hùng trong vụ án, nhằm đảm bảo tính khách quan, vô tư
và bảo đảm quyền được bào chữa của bị can Ngọ Thành Tới.
Thực hiện công văn thông báo trên, vào lúc 09 giờ ngày 19/3/2013, hai luật sư
Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A đã có mặt tại phòng hỏi cung của Trại tạm giam Công
an tỉnh G tham gia hoạt động đối chất của Kiểm sát viên đối với bị can Tới và bị can
Hung. Tuy nhiên, trong lúc Kiểm sát viên đang tiến hành đối chất và ghi biên bản đối
chất theo lời trình bày của bị can (được khoảng 30 phút, kể từ khi bắt đầu cuộc đối chất)
thì hai luật sư này đã có hành vi và lời nói phản ứng thiếu tôn trọng Kiểm sát viên rồi tự ý
bỏ ra về, không tiếp tục tham gia buổi đối chất để bảo vệ quyền lợi cho bị cán Tới, cũng
không có ý kiến chính thức và ký xác nhận vào biên bản đối chất (mặc dù đã được Kiểm
sát viên nhắc nhở, yêu cầu quay trở lại để tiếp tục làm việc). Hơn thế nữa, trước khi ra về,
luật sư Nguyễn Văn A còn trực tiếp xúi giục bị can Ngọ Thành Tới từ chối tiếp tục buổi
đối chất và không ký biên bản đối chất.
Việc làm trên đây của hai luật sư Nguyễn Văn B và luật sư Nguyễn Văn A đã vi
phạm nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại các điểm b, c và d khoản 3 Điều 58
của Bộ luật Tố tụng hình sự; vi phạm nguyên tắc hành nghề luật sư; nghĩa vụ của luật sư
được quy định tại các Điều 5, Điều 21 Luật Luật sư năm 2006 và vi phạm Chương IV
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết
định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc); không những
làm ảnh hưởng đến quyền được bào chữa của bị can được pháp luật quy định mà còn làm
ảnh hưởng xấu đến uy tín của Tổ chức hành nghề luật sư và hình ảnh của người luật sư
Việt Nam; gây khó khăn, cản trở và kéo dài việc giải quyết vụ án.
Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện H , tỉnh G thông báo đến Ban chủ nhiệm
Đoàn luật sư TP B và Trưởng Văn phòng luật sư C biết để có biện pháp xử lý đối với

2
`

những vi phạm của hai luật sư nêu trên. Nhận được công văn thông báo này, đề nghị
Đoàn luật sư TP B biết để có biện pháp xử lý và có văn bản phúc đáp cho Viện kiểm sát
nhân dân huyện H , tỉnh G biết kết quả trước ngày 01/04/2013./.

Nơi nhận: KT. VIỆN TRƯỞNG


- Như kính gửi; PHÓ VIỆN TRƯỞNG
- Đ/c Viện trưởng (để b/c)
(đã ký, đóng dấu)
- Cơ quan điều tra (để biết);
- TAND huyện H (để biết); Đinh Văn Kh
- Hồ sơ vụ án;
- Hồ sơ KS;
- Lưu.

3
`

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------

BÁO CÁO
(V/v; hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh – Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện H , tỉnh G)
Kính gửi: Ông Trưởng Văn phòng luật sư C – Đoàn luật sư TP B

Chúng tôi là: Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A là luật sư của Văn phòng xin báo
cáo về hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh như sau:
Ngày 19/3/2012 theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân huyện H và của bị can
Ngọ Thành Tới, Văn phòng luật sư C cử 02 Luật sư chúng tôi gồm: Nguyễn Văn A và
Nguyễn Văn B tham gia buổi đối chất giữa bị can Ngọ Thành Tới để làm rõ thêm các tình
tiết liên quan của vụ án.
Buổi làm việc diễn ra lúc 09 giờ sang tại Trại tạm giam - công an tỉnh G, chủ trì
buổi đối chất là ông Đinh Văn Kh – phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H,
đồng là là Kiểm sát viên giữ quyền công tố của vụ án. Do ông Kh đến muộn chúng tôi
(LS B ) đã 02 lần điện thoại cho ông và ông Kh bảo chờ anh gần lên đến nơi rồi. Chúng
tôi đã ngồi chờ ông Kh khoảng gần 09 giờ sáng thì ông Kh và điều tra viên Đỗ Văn H
đến trại và vào ngồi tại phòng đồng chí P – Phó giám thị trại, sau đó ông Đinh Văn Kh
làm thủ tục trích xuất bị can.
Tại buổi đối chất chúng tôi đã cương quyết phản đổi vì: tại buổi làm việc này, ông
Đinh Văn Kh đã có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không có thật, bởi: khi
Kiểm sát viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm
gạch như thế nào, ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào… thì bị can Ngọ Văn
Hùng không trả lời được, do không biết (bịa) để trả lời thế nào, sau đó ông Đinh Văn Kh
tiếp tục gợi ý mớm cung Ngọ Văn Hùng để trả lời theo ý kiến của Kiểm sát viên. Trước
đó ông Đinh Văn Kh đã gợi ý Ngọ Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có ý kiến đề nghị
Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng tự khai và khai đến đâu thì ghi đến đấy và chúng tôi nêu
rõ nếu anh (Kh) tiếp tục gợi ý thì chúng em sẽ không làm việc nữa và ông Đinh Văn Kh
đã nhất trí. Nhưng sau đó, ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục gợi ý để bị cáo Ngọ Văn Hùng
khai theo ý của ông, gây bất lợi cho Ngọ Thành Tới và việc khai này là hoàn toàn bịa đặt,
không khách quan bởi trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử vụ án chưa bao giờ Ngọ
Văn Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn Tuấn. Do chúng
tôi đã không nhất trí với cách làm việc có hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh, nên
cả hai luật sư đã bỏ ra về, để phân biệt đối với hành vi của vị Kiểm sát viên này.
Việc ông Đinh Văn Kh gợi ý để Ngọ Văn Hùng bịa chuyện khai sai sự thật, bất lợi
cho Ngọ Thành Tới và có lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vụ án đã có dấu hiệu oan
sai rất rõ, nên có ý buộc tội bằng được Ngọ Thành Tới là hành vi bị pháp luật nghiêm
cấm cần phải xử lý nghiêm bởi, trong vụ án này chính Ngọ Văn Hùng là người cầm côn
vụt gây mù mắt, tổn hại 45% cho người bị hại Nguyễn Văn Tuấn chứ không phải là Ngọ
Thành Tới.
4
`

Trong buổi làm việc này, chúng tôi đã làm thủ tục để trích xuất bị can Ngọ Thành
Tới ra trước, nhưng để đảm bảo tính khách quan chúng tôi đã không trích xuất mà chờ
Viện kiểm sát lên rồi Viện làm thủ tục trích xuất. Hơn nữa, do trong trại tạm giam cấm
các thiết bị thu phát, điện thoại nên chúng tôi không có tài liệu gửi kèm, tuy nhiên các
luật sư sẵn sàng đối chất với ông Đinh Văn Kh.
Trên đây là báo cáo của chúng tôi về buổi đối chất trên.

Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2013


Người báo cáo
(đã ký)
LS.Nguyễn Văn B
(đã ký)
LS.Nguyễn Văn A

5
`

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- -----------------------
Số: 10/CV-VPLS Hà Nội, ngày 26 tháng 03 năm 2013
“V/v báo cáo về hành vi mới cung của
ông Đặng Văn KH”

Kính gửi: Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B;

Văn phòng luật sư C, địa chỉ số 8, ngách 6/6 phố Đ, thành phố B là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Ngọ Thành Tới, sinh năm 1985, địa chỉ thôn Ngọ Xá,
xã Chấu Minh, huyện H là bị can trong vụ án Cố ý gây thương tích xảy ra ngày
15/02/2010 (tức ngày 02 tết Canh Dần) tại địa dìa đường cạnh Sân kho thôn Ngọ Khổng,
xã Châu Minh, huyện H , tỉnh G tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Anh Ngọ Thành
Tới bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3
Điều 104 Bộ luật hình sự. Đây là vụ án phức tạp và đã kéo dài hơn ba năm với 04 lần trả
hồ sơ điều tra bổ sung, 01 lần gia hạn điều tra, 07 lần hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa sơ
thẩm ông Chánh án Tòa án nhân dân huyện H – Trần Văn T chủ tọa phiên tòa đã bảo lưu
ý kiến không đủ căn cứ buộc tội Ngọ Thành Tới. Hai vị Hội thẩm nhân dân bỏ phiếu quá
bán nên Bản án vẫn được tuyên. Tại phiên tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh G đã hủy
toàn bộ Bản án sơ thẩm và trả hồ sơ để điều tra lại theo thủ tục chung, đến nay việc điều
tra lại đã kết thúc, Viện kiểm sát nhân dân huyện H vẫn truy tố bị can Ngọ Thành Tới với
tội danh trên và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện H để xét xử. Tuy nhiên, cả hai
phiên xử các ngày 31/01 và 4/3/2013 đều bị hoãn, sau đó Tòa án nhân dân huyện H lại trả
lại hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện H .
Ngày 19/03/2012 theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân huyện H và của bị can
Ngọ Thành Tới, văn phòng luật sư C cử 02 luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B
tham gia buổi đối chất giữa bị can Ngọ Văn Hùng và Ngọ Thành Tới để làm rõ thêm các
tình tiết liên quan của vụ án.
Sau buổi đối chất này các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã trực tiếp trao
đổi trực tiếp sự việc và có báo cáo bằng văn bản gửi Trưởng Văn phòng về hành vi mớm
cung của ông Đinh Văn Kh. Trên cơ sở báo cáo của các luật sư, để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can Ngọ Thành Tới, Văn phòng đã có Công văn gửi các cơ quan
chức năng tỉnh G xem xét hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh. Viện kiểm sát nhân
dân huyên H đã có văn bản gửi Văn phòng và cho rằng ông Đinh Văn Kh không có hành
vi mớm cung. Trên cơ sở nội dung vụ việc, Văn phòng xin báo cáo Ban chủ nhiệm như
sau:
Các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã xuất phát tại B từ 05 giờ sang để
kịp thời gian thông báo (qua điện thoại) của ông Đinh Văn Kh là 8 giờ sáng ngày
19/03/2013 nên các luật sư đến trại giam sớm hơn ông Đinh Văn Kh. Sau đó các luật sư
ngồi chờ tại trại tạm giam và đã làm thủ tục để trích xuất bị can, nhưng để khách quan
các luật sư lại vào phòng đồng chí Vũ Hữu L– Phó giám thị trại rút yêu cầu trích xuất bị
can để chờ Viện kiểm sát lên làm thủ tục trích xuất bị can. Quá trình chờ đợi Viện kiểm

6
`

sát quá lâu, luật sư Nguyễn Văn B đã điện thoại 2 lần cho ông Đinh Văn Kh và ông
Đinh Văn Kh trả lời đang lên. Buổi đối chất diễn ra lúc hơn 09 giờ 00 ngày 19/3/2013 tại
trại giam, chủ trì buổi đối chất là ông Đinh Văn Kh - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện H đồng thời là Kiểm sát viên giữ quyền công tố của vụ án.
Các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã cương quyết phản đố vì: tại buổi
đối chất này, ông Đinh Văn Kh có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không
có thật bởi: khi Kiểm sát viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ
Thành Tới cầm gạch như thể nào, ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào… thì
bị can Ngọ Văn Hùng không trả lời được, do không biết trả lời thế nào, sau đó ông Đinh
Văn Kh lại tiếp tục mớm cung Ngọ Văn Hùng để trả lời theo ý của Kiểm sát viên ( Lưu
ý:Trước đó ông Đinh Văn Kh đã gợi ý mớm cung Ngọ Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có
ý kiến phản đối, đề nghị Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng tự khai và khai đến đâu thì ghi
đến đó, ông Đinh Văn Kh đã nhất trí). Nhưng sau đó ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục gợi ý
để bị cáo Ngọ Văn Hùng khai theo ý của ông và việc khai này là hoàn toàn bịa đặt, không
khách quan bởi, trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử vụ án chưa bao giờ Ngọ Văn
Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn Tuấn. Do các luật sư
không nhất trí với cách làm việc có hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh nên cả hai
luật sư đã bỏ về để phản đối hành vi của vị Kiểm sát viên này.
Việc ông Đinh Văn Kh gợi ý để Ngọ Văn Hùng bịa chuyện khai sai sự thật, bất lợi
cho Ngọ Thành Tới và có lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vụ án đã có dấu hiệu oan
sai rất rõ nên cố ý buộc tội bằng được Ngọ Thành Tới là hành vi vi phạm pháp luật
nghiêm cấm cần phải xử lý nghiêm bởi trong vụ án này qua nghiên cứu hồ sơ thì chính
Ngọ Văn Hùng là người cầm côn vụt gây mù mắt, tổn hại 45% cho người bị hại Nguyễn
Văn Tuấn chứ không phải là Ngọ Thành Tới.
Trên đây là báo cáo của Văn phòng.
Xin trân trọng cảm ơn.

Nơi nhận: TM. VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C


- Như trên; TRƯỞNG VĂN PHÒNG
- Lưu VP. (đã ký, đóng dấu)
Luật sư Đinh Văn V

7
`

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------------
H , ngày 06 tháng 12 năm 2013

BẢO LƯU Ý KIẾN

Trong các ngày 01, 02 và 06 tháng 12 năm 2011, Tòa án nhân dân huyện H đưa vụ
án hình sự thụ lý số 80/HSST ngày 01/11/2011 xét xử sơ thẩm.
Với Hội đồng xét xử gồm:
- Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa: ông Trần Văn T;
- Các Hội thẩm nhân dân: +Ông Nguyễn Văn Ng;
+ Ông Dương Minh Th
Trong quá trình nghị án hai Hội thẩm nhân dân xác định đã có đủ cơ sở kết luận bị
can Ngọ Thành Tới phạm tội “Cố ý gây thương tích”, phạt Tới 06 năm tù; kết luận Ngọ
Văn Hùng phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”, phạt Hùng 09 tháng tù cho hưởng án
treo và quyết định những vấn đề liên quan khác trong vụ án.
Tôi, thẩm phán – chủ tọa phiên tòa cho rằng: cơ quan tố tụng có vi phạm khi xác
định hiện trường vụ án không có Kiểm sát viên và thành phần khác theo quy định tại
khoản 2 Điều 150 Bộ luật tố tụng Hình sự; vật chứng là 2 mẩu gạch thu tại hiện trường
không niêm phong; lời khai người bị hại và nhân chứng Thanh để buộc tội Tới thì bất
nhất; các nhân chứng anh Mùi, anh Hưng xác nhận Tới không đánh anh Tuấn. Vậy chưa
đủ cơ sở đế kết tội cho bị cáo Tới.
Với bị cáo Hùng đã có cơ sở kết tội Gây rối trật tự công cộng.
Hội đồng xét xử biểu quyết toàn bộ vụ án: 2/3.
Tôi thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bảo lưu chưa đủ cơ sở kết tội với Ngọ Thành Tới.
Người bảo lưu
(đã ký, đóng dấu)
Trần Văn T

8
`

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- -----------------------
Số: 05/CV-VPLS Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2013
“V/v báo cáo về hành vi mới cung”
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ:
Kính gửi: - Ông Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Ngày, tháng: 27.03.09 - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh G;
- Tòa án nhân dân tỉnh G;
- Chủ tịch UBND huyện H , tỉnh G;
- Bí thư huyện ủy H ;
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H ;
- Tòa án nhân dân huyện H

Văn phòng luật sư C, thành phố B là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
anh Ngọ Thành Tới, sinh năm 1985, địa chỉ thôn Ngọ Xá, xã Chấu Minh, huyện H là bị
can trong vụ án Cố ý gây thương tích xảy ra ngày 15/02/2010 (tức ngày 02 tết Canh Dần)
tại địa dìa đường cạnh Sân kho thôn Ngọ Khổng, xã Châu Minh, huyện H , tỉnh G tại các
phiên tòa sơ thầm và phúc thẩm. Anh Ngọ Thành Tới bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H
truy tố về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Đây là vụ án
phức tạp và đã kéo dài hơn ba năm với 04 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung, 01 lần gia hạn
điều tra, 07 lần hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa sơ thẩm ông Chánh án Tòa án nhân dân
huyện H – Trần Văn T chủ tọa phiên tòa đã bảo lưu ý kiến không đủ căn cứ buộc tội Ngọ
Thành Tới. Hai vị Hội thẩm nhân dân bỏ phiếu quá bán nên Bản án vẫn được tuyên. Tại
phiên tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh G đã hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và trả hồ sơ
để điều tra lại theo thủ tục chung, đến nay việc điều tra lại đã kết thúc, Viện kiểm sát
nhân dân huyện H vẫn truy tố bị can Ngọ Thành Tới với tội danh trên và chuyển hồ sơ
cho Tòa án nhân dân huyện H để xét xử. Tuy nhiên, cả hai phiên xử các ngày 31/01 và
4/3/2013 đều bị hoãn, sau đó Tòa án nhân dân huyện H lại trả lại hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát nhân dân huyện H .
Ngày 19/03/2012 theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân huyện H và của bị can
Ngọ Thành Tới, văn phòng luật sư C cử 02 luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B
tham gia buổi đối chất giữa bị can Ngọ Văn Hùng và Ngọ Thành Tới để làm rõ thêm các
tình tiết liên quan của vụ án.
Buổi làm việc diễn ra lúc hơn 09 giờ sáng tại trại giam - Công an tỉnh G, chủ trì
buổi đối chất là ông Đinh Văn Kh - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H
đồng thời là Kiểm sát viên giữ quyền công tố của vụ án.
Các luật sư Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B đã cương quyết phản đối vì: tại buổi
đối chất này, ông Đinh Văn Kh có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không
có thật bởi: khi Kiểm sát viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ
Thành Tới cầm gạch như thể nào, ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào… thì
bị can Ngọ Văn Hùng không trả lời được, do không biết trả lời thế nào, sau đó ông Đinh
Văn Kh lại tiếp tục mớm cung Ngọ Văn Hùng để trả lời theo ý của Kiểm sát viên ( Lưu
9
`

ý:Trước đó ông Đinh Văn Kh đã gợi ý mớm cung Ngọ Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có
ý kiến phản đối, đề nghị Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng tự khai và khai đến đâu thì ghi
đến đó, ông Đinh Văn Kh đã nhất trí). Nhưng sau đó ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục gợi ý
đẻ bị cáo Ngọ Văn Hùng khai theo ý của ông và việc khai này là hoàn toàn bịa đặt, không
khách quan bởi, trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử vụ án chưa bao giờ Ngọ Văn
Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn Tuấn. Do các luật sư
không nhât trí với cách làm việc có hành vi mớm cung của ông Đinh Văn Kh nên cả hai
luật sư đã bỏ về để phản đối hành vi của vị Kiểm sát viên này.
Việc ông Đinh Văn Kh gợi ý để Ngọ Văn Hùng bịa chuyện khai sai sự thật, bất lợi
cho Ngọ Thành Tới và có lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, do vụ án đã có dấu hiệu oan
sai rất rõ nên cố ý buộc tội bằng được Ngọ Thành Tới là hành vi vi phạm pháp luật
nghiêm cấm cần phải xử lý nghiêm bởi trong vụ án này qua nghiên cứu hồ sơ thì chính
Ngọ Văn Hùng là người cầm côn vụt gây mù mắt, tổn hại 45% cho người bị hại Nguyễn
Văn Tuấn chứ không phải là Ngọ Thành Tới.
Trong buổi làm việc này, chúng tôi đã làm thủ tục để trích xuất bị can Ngọ Thành
Tới ra trước, nhưng để khách quan chúng tôi đã không trích xuất mà chờ Viện kiểm sát
lên rồi Viện làm thủ tục trích xuất. Hơn nữa, do trong tại tạm giam cấm các thiết bị thu
phát, điện thoại nên chúng tôi không có tài liệu gửi kèm, tuy nhiên các luật sư sẵn sàng
đối chất với ông Đinh Văn Kh.
Xin trân trọng cảm ơn.

Nơi nhận: TM. VĂN PHÒNG LUẬT SƯ C


- Như trên; TRƯỞNG VĂN PHÒNG
- Ban chủ nhiệm ĐLSTPB (để b/cáo) (đã ký, đóng dấu)
- Lưu VP.
Luật sư Đinh Văn V

10
`

TIỂU HỒ SƠ 3.2

11
`

CÔNG AN TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
Số 1350/CV/PC44-D3 TP. B , ngày 23 tháng 2 năm 2013
CÔNG VĂN ĐẾN
T/v:SỐ:V/v
31 xem xét hình thức xử lý kỷ luật LS
Ngày, tháng: 25.02.2013Nguyễn Thanh V

Kính gửi: Đoàn luật sư TP B

Cơ quan cảnh sát điều tra, công an thành phố B đang điều tra vụ án Nguyễn Anh
Kiên, lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn quận G, thành phố B theo Quyết định
khởi tố vụ án hình sự số 288 ngày 29/6/2012 của Cơ quan CSĐT Công an quận G và
quyết định chuyển vụ án hình sự số 23 ngày 20/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân quận
G.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án thấy Luật sư Nguyễn Thanh V – Giám đốc công ty
luật C , địa chỉ trụ sở tại số 123, phố Tr, quận G, thành phố B đã được Cơ quan CSĐT
công an quận G cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho bị can Nguyễn Anh Kiên.
Ngày 04/08/2012 luật sư Nguyễn Thanh V có công văn số 3912/CV-C gửi Cơ quan
CSĐT công an quận G với nội dung: Trước đây, anh Cao Xuân Vũ làm ăn với Nguyễn
Anh Kiên bị thua lỗ. Để có tiền trả nợ, Vũ và Kiên bàn nhau tạo dựng nên việc Kiên lừa
đảo, chiếm đoạt tiền của anh Vũ bằng hình thức nhận làm sổ đỏ cho diện tích đất của anh
Vũ. Khi cơ quan điều tra, khởi tố,bắt giam Kiên thì gia đình Kiên sẽ bán đất lấy tiền trả
nợ cho anh Vũ để anh Vũ bù vào khoản tiền làm ăn thua lỗ, thực tế Kiên không lừa đảo
anh Vũ như tài liệu điều tra của Cơ quan CSĐT công an quận G.
Căn cứ và tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan CSĐT công an thành phố B
xác định nội dung công văn số 3912/CV-C của luật sư Nguyễn Thanh V không có căn
cứ. Bị can Nguyễn Anh Kiên đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai
nhận tội của bị can Kiên phù hợp với tài liệu chứng cứ thu thập được. Quá trình điều tra
vụ án, cơ quan điều tra còn nhận được đơn của anh Cao Xuân Vũ tố giác luật sư Nguyễn
Thanh V với nội dung: tháng 8/2012, luật sư Nguyễn Thanh V đến gặp anh Cao Xuân Vũ
thông báo việc gia đình Nguyễn Anh Kiên đã đưa tiền cho V để trả cho anh Vũ. Nếu anh
Vũ muốn nhận tiền thì phải khai nhận với cơ quan điều tra theo nội dung hướng dẫn của
luật sư Nguyễn Thanh V như trong Công văn luật sư V gửi cho cơ quan điều tra là không
đúng với bản chất của vụ án (làm sai lệch hồ sơ vụ án), nhưng anh Vũ không đồng ý với
yêu cầu của luật sư Vân.
Cơ quan CSĐT – công an thành phố B đã nhiều lần triệu tập Nguyễn Thanh V để
làm rõ những nội dung trong công văn số 3912/CV-C ngày 4/8/2012 nhưng luật sư
Nguyễn Thanh V không chấp hành.
Hành vi nêu trên của luật sư Nguyễn Thanh V đã vi phạm vào khoản 3 Điều 5 và
điểm b khoản 1 Điều 9 Luật luật sư.
Điều 5 Luật luật sư quy dịnh về nguyên tắc hành nghề luật sư như sau:

1. Tuân thủ hiến pháp và pháp luật;
12
`

2. Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư;
3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan….”
Điểm b khoản 1 Điều 9 Luật luật sư quy định:
“cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giảm, sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện trái pháp luật”.
Đề nghị Đoàn luật sư TP B xem xét và có hình thức xử kỷ luật đối với luật sư
Nguyễn Thanh V về hành vi nêu trên. Kết quả xử lý đề nghị gửi bằng văn bản cho cơ
quan CSĐT – CATP B biết.

Nơi nhận: PHÓ THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN CSĐT


- Sở Tư pháp B ; (đã kí, đóng dấu)
- Cty luật C ; Thượng tá Nguyễn Thanh T
- Lưu PC44.

13
`

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B -------------------
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 198 ĐƠN TỐ CÁO
Ngày, tháng: 3.12.2012

(V/v: Hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức của luật sư Nguyễn Thanh V)
Kính gửi: Đoàn luật sư TP B

Trước hết, tôi xin gửi tới Quý cơ quan lời chào trân trọng
Tôi là: Cao Xuân Vũ Sinh năm: 1977 ĐT: 0968156029
Tôi làm đơn này tố cáo hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức của luật sư
Nguyễn Thanh V – Giám đốc Công ty luật TNHH C – Đoàn luật sư TP B .
Tôi xin trình bày cụ thể như sau:
I. Nội dung sự việc
Gia đình tôi đang sử dụng mảnh đất có diện tích 470m 2 tại xã Tân Triều, thành phố
B nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vào khoảng cuối năm 2010, anh Nguyễn Anh Kiên là em họ của chị Hà (nhân viên
bán quần áo thuê cho gia đình tôi) thường ra cửa hàng quần áo của gia đình tôi chơi.
Trong những lần ra chơi đó, Kiên có gặp tôi và nói đang làm ở Sở địa chính B , có khả
năng làm sổ đỏ cho gia đình tôi.
Vì tin tưởng nên ngày 10/12/2010, tôi đã ký Hợp đồng thỏa thuận với Kiên về việc
Kiên có trách nhiệm làm sổ đỏ cho gia đình tôi với phí dịch vụ là 4.000.000đồng/m 2,
chậm nhất đến ngày 30/4/2011 phải có sổ đỏ.
Ngay sau khi ký Hợp đồng, tôi đã đưa cho Kiên 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu
đồng) tại cửa hàng bán quần áo của gia đình tôi.
Mấy ngày sau, để tạo niềm tin cho tôi, Kiên nhờ 2 người bạn làm cùng Kiên tại tổ
đo đạc thuộc xí nghiệp đo đạc bản đồ số 4 mang theo máy và thước đo diện tích thửa đất
mà tôi nhờ Kiên làm sổ đỏ. Sau khi đo xong, Kiên nói với tôi là thửa đất rộng nên tách
làm 03 (ba) sổ đỏ và yêu cầu tôi photo chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu cảu tôi, em trai
tôi là Cao Xuân Kiên, mẹ tôi là Nguyễn Thị Nguyệt.
Do quá tin tưởng nên ngày 19/01/2011, tôi đưa tiếp cho Kiên 300.000.000đồng (ba
trăm triệu đồng) và ngày 24/4/2011 tôi tiếp tục đưa cho Kiên 700.000.000đồng (bảy trăm
triệu đồng) tại quán café.
Tới thời hạn là ngày 30/4/2011, không thấy Kiên đưa sổ đỏ, tôi đã nhiều lần yêu cầu
Kiên lấy sổ đỏ về cho tôi nhưng Kiên luôn hứa hẹn để tôi yên tâm.
Để tiếp tục lừa tiền của tôi, ngày 15/6/2011 Kiên đã dùng một tờ thông báo nộp lệ
phí trước bạ nhà đất của huyện T scan vào máy tính và chỉnh sửa thành 03 bản thông báo
nộp lệ phí trước bạ mang tên tôi, em trai tôi và mẹ tôi, sau đó cắt dấu và chữ ký, phôtô
đưa cho tôi. Do tin tưởng là thật nên ngày 16/6/2011, tôi đã đưa cho Kiên số tiền là
971.500.000 đồng (chín trăm bảy mốt triệu năm trăm ngàn đồng) để nộp lệ phí trước bạ.
Tổng số tiền Kiên đã nhận của tôi để làm sổ đỏ là: 2.571.500.000 đồng (Hai tỷ, năm
trăm bảy mốt ngàn năm trăm ngàn đồng).

14
`

Đến ngày 16/11/2011 Kiên vẫn chưa đưa sổ đỏ cho tôi. Tôi và Kiên đã ký Biên bản
làm việc, theo đó Kiên cam kết hạn cuối cùng để làm sổ đỏ là ngày 16/12/2011, nếu
không giao được sổ đỏ sẽ trả lại cho tôi toàn bộ số tiền đã nhận.
Tuy nhiên, đến ngày 16/12/2011 Kiên không giao được sổ đỏ cho tôi và cũng không
trả lại tiền cho tôi.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tôi đã làm đơn tố cáo hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của Kiên ra Công an quận G. Công an quận G đã khởi tố vụ án và
chuyển hồ sơ lên Công an thành phố B giải quyết. Kiên đã bị khởi tố về tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và bị tạm giam từ tháng 7/2012 đến nay.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì anh Nguyễn Anh Kiên đã mời luật sư Nguyễn
Thanh V bào chữa cho mình. Để khắc phục hậu quả, gia đình anh Kiên đã chuyển vào tài
khoản của luật sư V số tiền là 2.571.500.000đồng (Hai tỷ, năm trăm bảy mốt ngàn năm
trăm ngàn đồng) để luật sư V thay mặt anh Kiên trả lại tiền cho tôi (luật sư V đã cho tôi
xem tin nhắn việc chuyển khoản tiền này).
Tuy nhiên, luật sư V đã không thay mặt anh Kiên trả tiền cho tôi mà khi đến làm
việc với cơ quan công an thì được biết luật sư V đã cung cấp thông tin cho cơ quan công
an với nội dung: luật sư V được tôi cho biết: thực tế, tôi và anh Kiên có quan hệ làm ăn
với nhau, sau đó thua lỗ không có tiền trả nợ. Để có tiền trả nợ, tôi và anh Kiên đã bàn
bạc, cùng nhau lập ra các văn bản như đã nộp cho Cơ quan công an, sau đó tôi sẽ tố
cáo anh Kiên, khi anh Kiên bị bắt, gia đình anh Kiên sẽ phải bán đất đi trả nợ cho tôi.
Nay gia đình anh Kiên đã bán đất đi trả nợ cho tôi nên tôi sẽ rút Đơn tố cáo và đến cơ
quan công an trình bày đúng sự việc như trên.
Nội dung trình bày trên của luật sư V – đại diện cho Công ty luật TNHH C là hoàn
toàn không đúng sự thật.
II. Hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức của luật sư V
Hành vi nhận tiền của gia đình anh Kiên, sau đó không trả cho tôi lại gửi Văn bản
với nội dung không đúng sự thật gửi cơ quan điều tra của luật sư V đã vi phạm pháp luật,
vi phạm đạo đức của một người luật sư, cụ thể:
1. Vi phạm pháp luật hình sự:
Luật sư V nói tôi có quan hệ làm ăn với anh Kiên, sau đó dể có tiền trả nợ tôi và anh
Kiên tạo dựng các văn bản rồi tôi đứng ra tố cáo anh Kiên, gia đình anh Kiên phải bán
đất trả nợ là hoàn toàn bịa đặt, không có cơ sở, luật sư V nại ra lý do này để anh Kiên
không phải chịu trách nhiệm hình sự, trì hoãn trả tiền cho tôi, gây thiệt hại đến kinh tế
cho tôi. Như vậy, hành vi của luật sư V có dấu hiệu của tội “vu khống” theo quy định tại
khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999: “Người nào bịa đặt, loan truyền những điều
biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm
quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến hai năm.”
2. Vi phạm pháp luật luật sư, đạo đức của một người luật sư
Điều 5 Luật luật sư quy định về nguyên tắc hành nghề luật sư:
1. Tuân thủ hiến pháp và pháp luật;
2. Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư;

15
`

3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan….”


Khoản 1 Điều 9 Luật luật sư quy định về hành vi bị nghiêm cấm của luật sư:
“Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giảm, sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện trái pháp luật”.
Điều 10 Luật luật sư quy định về tiêu chuẩn luật sư: “tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt”.
Theo Quy tắc đạo đức hành nghề luật sư thì luật sư phải “độc lập, trung thực và tận
tụy trong hành nghề; không vì bất kỳ lợi ích vật chất, tinh thần hoặc áp lực nào khá mà
làm sai lệch sự thật, trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp”.
Như vậy, việc Luật sư V cung cấp thông tin sai sự thật đã vi phạm điều cấm cùa
pháp luật liên quan đến hành nghề luật sư, vi phạm nguyên tắc hành nghề luật sư và vi
phạm đạo đức luật sư, không đủ tiêu chuẩn luật sư như dẫn chứng ở trên.
III. Kết luận và kiến nghị
Với hành vi vi phạm của luật sư V như trên, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình và
uy tín của những người hành nghề luật sư, bằng văn bản này, tôi tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật và vi phạm đạo đức của luật sư V, kính đề nghị các Quý cơ quan:
- Có biện pháp xử lý vi phạm của luật sư V;
- Có những biện pháp can thiệp, yêu cầu luật sư V thay anh Kiên trả tiền cho tôi
trong thời gian sớm nhất.
Kính mong các Quý cơ quan sớm giải quyết đề nghị trên của tôi theo quy định của
pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

B , ngày 26 tháng 11 năm 2012


NGƯỜI LÀM ĐƠN
(đã kí)
Cao Xuân Vũ

16
`

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐOÀN LUẬT SƯ TP B
-------------------
CÔNG VĂN ĐẾN
SỐ: 126
Ngày, tháng: 22.7.2012 ĐƠN TỐ GIÁC VÀ KIẾN NGHỊ
Kính gửi: Ông giám đốc Sở Tư pháp TP B ;
Đồng kính gửi: Lãnh đạo Đoàn luật sư TP B

Tôi tên là: Nguyễn Ngọc Nhị - 78 tuổi, cán bộ hưu trí.
Tôi làm đơn này xin tố giác và kiến nghị tới Quý các ông về hành vi sai phạm pháp
luật của luật sư Nguyễn Thanh V hiện là Giám đốc công ty luật C . Cụ thể như sau:
Tôi có ngôi nhà cấp 4 tại Đội 8 thôn Ngọc, huyện Th, thành phố B . Căn nhà này đã
có GCNQSDĐ – QSHNƠ mang tên tôi là Nguyễn Ngọc Nhị. Trước đây tôi có cho chị
Hà Thị Sáu là người cùng thôn mượn để bán hàng. Đến đầu năm tôi đã đòi lại vì bà Sáu
tự ý cho người khác thuê để kiếm lời mà không được sự đồng ý của tôi.
Đến khoảng tháng 9/2012 vừa qua bà Sáu nảy sinh ý đồ xấu muốn chiếm giữ nhà
của tôi. Tôi đã phải nhờ đến ông trưởng thôn can thiệp để tìm cách giải quyết.
Tại cuộc họp nhà ông trưởng thôn ngoài vợ chồng bà Sáu, có tôi xuất hiện thêm 1
người phụ nữ tự giới thiệu là luật sư V. Tôi không chấp nhận sự tham gia của vị này vì
đây là việc thương thảo giữa tôi với vợ chồng chị Sáu có sự hiện diện của chính quyền cơ
sở.
Tại buổi hoà giải đại diện chính quyền địa phương cũng xác nhận căn nhà là của tôi
cho chị Sáu mượn. Tuy nhiên chị Sáu yêu sách vô lý nên đã không thống nhất được do
tôi không chấp nhận.
Sau đó mấy ngày bà Sáu đã thuê côn đồ đến quậy phá, đánh đuổi người thuê nhà
của tôi đó là sáng 03/10/2012. Luật sư V cũng dẫn theo một bọn xã hội đen cùng với
đồng bộn của chị Sáu ép người thuê nhà tôi phải dọn đồ ra khỏi nhà, đồng thời dùng vũ
lực đẩy tôi ra khỏi nhà rồi khoá cửa chiếm nhà.
Tại thời điểm đó luật sư V quát tháo bọn tay chân “Lôi ông này (là tôi) ra… Đây là
nhà của tôi (thị V)…chính quyền là tôi!???
Sau đó luật sư V cùng thị Sáu đã nguỵ tạo giấy tờ giả “rằng tôi đã bán nhà trên cho
thị” và gửi đơn tố giác tôi “chiếm nhà của thị”ra Uỷ ban nhân dân xã và Công an huyện
Th.
Những hành vi đó của thị Sáu và luật sư V đã được UBND xã kết luận đây là nhà
của tôi và Công an huyện Th đã có kết luận gửi tôi ngày 20/1/2013 về hành vi gian dối
của thị Sáu. Tiếc rằng cơ quan Công an đã không tố giác hành vi vi phạm pháp luật trên
mà hướng dẫn tôi kiện ra Toà án.
Tại Toà án nhân dân huyện Th lúc này tôi mới biết luật sư V là luật sư và tham gia
bảo vệ cho bà Hà Thị Sáu trong vụ kiện của tôi tại Toà án.
Thiết nghĩ pháp luật Việt Nam không cho phép luật sư như LS. Nguyễn Thanh V
làm những việc vi phạm pháp luật cũng như vi phạm về quy chế hành nghề, đạo đức hành
nghề luật sư.
- Luật sư V đã cầm đầu bọn xã hội đen chiếm nhà trái pháp luật của công dân;
17
`

- Luật sư V đã cùng với thị Sáu tạo dựng chứng cứ, giấy tờ giả mạo, tố cáo sai sự
thật nhằm chiếm đoạt nhà của công dân.
Nay tôi làm đơn này tố cáo những hành vi sai trái của luật sư Nguyễn Thanh V đã
coi thường pháp luật không xứng đáng được phép đứng trong hàng ngũ luật sư Việt Nam.
Tôi cũng đề nghị cơ quan cấp giấy phép hành nghề của luật sư V, Sở Tư pháp TP
B , Lãnh đạo Đoàn luật sư TP B có biện pháp xử lý luật sư V theo đúng quy định của
pháp luật.
Tôi cam đoan những gì tố cáo trên là hoàn toàn đúng sự thật. Nếu có gì sai tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đính kèm: B , ngày 15tháng 07 năm 2013


a. Giấy chứng nhận QSDĐ (photocopy); NGƯỜI LÀM ĐƠN
b. Biên bản hoà giải của UBND xã Ngọc
(photocopy);
(đã kí)
c. Kết luận xác minh đơn của ông Nguyễn Nguyễn Ngọc Nhị - ĐT: 0912142407
Ngọc Nhị (photocopy- của CA Th);

18
`

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------
UỶ BAN NHÂN DÂN
HUYỆN TH

CHỨNG NHẬN

Ông (bà): Nguyễn Ngọc Nhị


Được quyền sử dụng 135 m2 đất (một trăm ba lăm mét vuông)
Tại: xã Ngọc, huyện Th, thành phố B
Theo bảng kê dưới đây:

Diện tích
Số tờ bản đồ Số thửa Mục đích sử dụng Thời hạn sử dụng Phần ghi thêm
(m2)
19 32 135 Đất ở Lâu dài

Ngày 24 tháng 12 năm 2004


KT. CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN
Vào sổ chấp giấy chứng nhận PHÓ CHỦ TỊCH
Quyến sử dụng đất (đã kí,đóng dấu)
Số: 1003 QSDĐ/1856-H Trần Văn Khương

19
`
UBND HUYỆN TH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG ĐỊA CHÍNH NHÀ ĐẤT& ĐÔ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THỊ ------------------
----------------------

SƠ ĐỒ THỬA ĐẤT

(Kèm theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: S 073098)
Số tờ bản đồ: 19 Số thửa: 32 Diện tích: 135m2
Tại xã: Ngọc huyện Th – thành phố B
Tên chủ sử dụng: NGUYỄN NGỌC NHỊ

7.5

22.2

32
135
18 B
7.5

Ngày 24 tháng 12 năm 2004


PHÒNG ĐỊA CHÍNH NHÀ ĐẤT & ĐÔ THỊ
TRƯỞNG PHÒNG
(đã kí,đóng dấu)
Trần Văn Chung
PHÓ CHỦ TỊCH
(đã kí,đóng dấu)
Phan Thị Thuỳ Trang

20
`

CÔNG AN TP B – CA TH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
Số: 03/CQĐT (ĐTTH) Thanh Trì, ngày 20 tháng 01 năm 2013

KẾT LUẬN XÁC MINH ĐƠN CỦA ÔNG NGUYỄN NGỌC NHỊ

I. Căn cứ xác minh đơn:


CQCSĐT – công an huyện Th – thành phố B vừa nhận được đơn của ông Nguyễn
Ngọc Nhị, sinh năm 1936 trú tại số nhà 90 tổ 6 phường Ph, quận H, thành phố B trình
báo về việc bà Hà Thị Sáu (tức Sáu Hạnh) ở đội 9 xã Ngọc , huyện Th, thành phố B có
hành vi chiếm đoạt tài sản nhà đất (tại thửa số 32 tờ bản đồ số 19; diện tích 135 m 2; số
GCNQSDĐ số S073098) tại xã Ngọc .
II. Quá trình thu thập tài liệu – kết quả xác minh
Căn cứ đơn tố cáo của ông Nguyễn Ngọc Nhị, CQCSĐT công an huyện Th đã mời
những người liên quan đến làm việc đề nghị cung cấp các tài liệu có liên quan, xác minh
tại UBND xã Ngọc và Văn phòng đăng ký nhà đất huyện Th, kết quả như sau:
Ngày 14/02/1994 ông Nguyễn Ngọc Nhị có mua của ông Kim Văn Cờ ở thôn Ngọc
huyện Th, thành phố B có một căn nhà lợp ngói 5 gian diện tích đất là 100m 2 đất thổ chư
có vị trí như sau: cách chân đường tàu hỏa 03m, chiều rộng: 06m, chiều dài 20m với số
tiền: 10.000.000đồng (mười triệu đồng), mảnh đất thuộc thửa đất số 61 tờ bản đồ số 01
xã Ngọc Hồi. Hai bên thỏa thuận bên bản phải chịu mọi phí tổn về việc sang tên thửa đất,
việc mua bán thửa đất nói trên có sự chứng kiến của các thành viên trong gia đình ông Cờ
và những người hàng xóm lân cận liền kề. Việc mua bán đã được lập thành văn bản và
được chính quyền địa phương xác nhân. Do cần tiền để chi tiêu ngày 29/01/1994 ông Cờ
tiếp tục bán tiếp cho ông Nhị 40m2 đất liền giáp vào phần đất đã bán trước đây nên tổng
diện tích đất ông Nhị đã mua của ông Cờ là 140m2.
Ngày 26/12/2003 ông Nguyễn Ngọc Nhị đã làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất,
và được UBND xã Ngọc làm thủ tục trình UBND huyện Th cấp “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất” cho ông Nguyễn Ngọc Nhị, sau khi tách thửa mảnh và xác định ranh giới,
diện tích mảnh đất của ông Nhị mua thuộc thửa đất số 32 tờ bản đồ số 19 xã Ngọc có
diện tích 135m2. Ngày 24/12/2004 chủ tịch UBND huyện Th đã cấp GCNQSDĐ cho ông
Nguyễn Ngọc Nhị. Trong giấy CNQSDĐ của ông Nhị có ghi: thửa đất số 32 tờ bản đồ số
19, diện tích 135m2, số GCNQSDĐ số S073098; vào sổ cấp GCNQSDĐ số
1003/QSDĐ/1856-H; số hồ sơ 23011066; chủ sử dụng đất mang tên Nguyễn Ngọc Nhị
tại xã Ngọc Hồi. Hiện tại ông Nguyễn Ngọc Nhị đang quản lý GCNQSDĐ. Thửa đất này
chưa có ai làm thủ tục chuyển dịch sang tên trước bạ và ông Nhị vẫn đóng thuế đất hàng
năm.
Do có mối quan hệ với bà Hà Thị Sáu, nên sau khi mua mảnh đất ở Ngọc Hồi, ông
Nguyễn Ngọc Nhị không sử dụng mà đã nhờ bà Sáu quản lý trông coi giúp, lúc đầu bà
Sáu Hạnh còn kinh doanh buôn bán quần áo, sau đó bỏ không có ai ở.
Năm 2011 ông Kim Văn Cờ làm lại nhà không có nơi ở nên đã thuê lại căn nàh 5
gian của ông Nhị với giá 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) số tiền này ông Nhị cho bà

21
`

Sáu Hạnh sử dụng. Do ông Cờ xây nhà nên tường nhà của ông Nhị bị ảnh hưởng. Tháng
8/2011 bà Hà Thị Sáu (Hạnh) có sửa chữa lại một phần ngôi nhà cũ và dựng mới khoảng
65m2 nhà mái tôn. Khi xây dựng sửa chữa mới bà Sáu không xin phép chính quyền địa
phương.
Sau khi xây dựng xong bà Sáu có ký hợp đồng cho anh Đinh Văn Dũng để thuê và
bán sơn (với số tiền 9.000.000đ từ 8/3 đến 6/2012). Khoảng tháng 6/2012 ông Nhị thấy
anh Dũng ở nhà của mình nên có hỏi anh Dũng và được biết bà Sáu đã cho anh Dũng
thuê nhà. Ông Nhị không đồng ý và đề nghị anh Dũng hủy bỏ hợp đồng với bà Sáu và ký
hợp đồng thuê nhà với ông Nhị. Ông Nhị đã cho con là Nguyễn Đức Thông đứng tên ký
hợp đồng cho anh Dũng thuê nhà, anh Dũng thuê đến tháng 9/2012 thì thôi không thuê
nữa, tiền thuê nhà ông Nhị không sử dụng mà cho bà Sáu Hạnh. Ông Nhị cho người khác
thuê nhà thì bà Sáu Hạnh đứng ra cản trở, khóa cửa không cho ông Nhị vào. Sau đó bà
Sáu Hạnh đã cho con trai là Kim Minh Tuấn và con dâu là Ma Thị Hương ở tại ngôi nhà
này.
Hiện tại bà Sáu Hạnh nhận mảnh đất, ngôi nhà nói trên là của bà Sáu đã được ông
Nguyễn Ngọc Nhị viết giấy chuyển nhượng cho rồi nên không trả lại ông Nhị và tiếp tục
cho con sang ở và trông coi.
Bá Hạnh có xuất trình bản photocopy gồm:
- Giấy chuyển quyền sử dụng đất có nội dung “Tôi Nguyễn Ngọc Nhị chuyển
nhượng lại mảnh đất có số tại bản đo đạc là tờ 19 T32 tại thôn Ngọc, huyện Th,
thành phố B cho em tôi là Hà Thị Hạnh người cư trú tại địa phương trên. Diện tích
là 135m2. Lý do vì tôi không ở gần để trong nom và quản lý được. Viết giấy này
làm bằng và tôi trao lại tất cả các giấy tờ nguyên thủy có liên quan cho bà Hà Thị
Hạnh để tiện sử dụng. B ngày 06/8/1998. Ký tên: Nguyễn Ngọc Nhị”.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất “Tôi, Nguyễn Ngọc Nhị mang chứng minh
thư số 011024660 cấp tại thành phố B viết giấy này nhằm chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho bà Hà Thị sáu Hạnh, người thôn Ngọc, huyện Th, thành phố B ,
mảnh đất mang thửa số 24 tờ 1 thuộc bản đồ địa chính của thôn Ngọc . Lý do
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vì tôi ở xa không có đủ điều kiện để quản lý
trông nom. Làm giấy tờ này để bà Hạnh tiện việc xử lý tiếp các thủ tục về đất đai
trước các nhà chức trách”. , ngày 06/08/1998. Ký tên: Nguyễn Ngọc Nhị;
- Giấy ủy quyền: “Tôi Nguyễn Ngọc Nhị người có quyền sử dụng mảnh đất có diện
tích 270m2 tại thôn Ngọc (cạnh đường sắt) có số hiệu………có giá trị như chữ ký
của chính tôi. B , ngày 23/3/2002 người ủy quyền ký ghi Nguyễn Ngọc Nhị. Giấy
ủy quyền không ghi thời hạn ủy quyền và không có xác nhận của chính quyền địa
phương
Trong các “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy nhượng quyền sử dụng đất”
nêu trên không có xác nhận của chính quyền địa phương hay cơ quan chức năng có thẩm
quyền. Bà Hà Thị Sáu Hạnh cho biết: mảnh đất ở thửa đất ố 32 tờ bản đồ số 19; diện tích
135m2 là của bà Sáu Hạnh mang tên ông Nguyễn Ngọc Nhị là do bà Sáu Hạnh mua, trực
tiếp san lấp, tôn tại. Do có mối quan hệ thân thiết làm ăn với ông Nhị nên bà Sáu Hạnh đã
thống nhất để ông Nhị đứng tên kê khai trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà
Sáu Hạnh cho rằng ông Nguyễn Ngọc Nhị chỉ là người đứng tên hộ chứ bản chất thật

22
`

không phải nhà đất của ông Nhị nhưng bà Sáu Hạnh cũng không xuất trình được các giấy
tờ nguyên thủy có liên quan đến mảnh đất ở thửa đất số 32 tờ bản đồ số 19; diện tích
135m2 mua của ông Kim Văn Cờ.
Theo ông Nguyễn Ngọc Nhị cho biết việc ông Nhị viết các giấy tờ cho bà Hà Thị
Sáu Hạnh gồm: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 6/8/1998, Giấy nhượng
quyền sử dụng đất ghi ngày 6/8/1998, Giấy ủy quyền ghi ngày 23/3/2002 là có thật, chữ
viết và chữ ký và chữ ký trong các giấy tờ nói trên là do ông Nhị viết, ký và đưa cho bà
Sáu Hạnh để tiện cho việc giao dịch mảnh đất khá ở thửa số 24 tờ bản đồ số 01 xã Ngọc ,
mảnh đất ở bên cạnh đường tàu chứ không phải mảnh đất ông mua của ông Kim Văn Cờ
ở thửa đất số 32 tờ bản đồ số 19; diện tích 135m 2. Mặt khác, các văn bản trên đã bị sai
lệch so với lúc đầu, bà Sáu Hạnh đã thừa nhận có tự tay ghi thêm một số từ trong các văn
bản nêu trên cụ thể: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 6/8/1998 ghi thêm:
Tờ 19 T32, diện tích 135m2; nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 6/8/1998 ghi thêm: số
24 tờ 1.
Do bà Hà Thị Sáu (Sáu Hạnh) tranh chấp về quyền sử dụng đất tại thửa đất số 32 tờ
bản đồ số 19, diện tích 135m2 với ông Nguyễn Ngọc Nhị nên ngày 26/10/2012 UBND xã
Ngọc đã tiến hành hòa giải hai bên nhưng không nhất trí quan điểm giải quyết. Do mảnh
đất đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
UBND xã Ngọc đã hướng dẫn các bên đến Tòa án giải quyết nhưng cả hai bên không gửi
đơn đến Tòa án mà tiếp tục ghi gửi đơn đến công an huyện Th để đề nghị giải quyết.
UBND xã Ngọc cho biết: ngày 26/12/2003 ông Nguyễn Ngọc nhị đã kê khai làm
thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, ngày 14/1/2004 Hội đồng ruộng đất xã Ngọc xét hồ
sơ kê khai đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đát cho ông Nguyễn Ngọc Nhị
theo Quyết định 65/QĐ-Ủy ban nhân dân của UBND Tp B . Sau khi thấy hồ sơ đề nghị
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nhị có đủ điều kiện nên UBND xã
Ngọc đã trình UBND huyện Th cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” cho ông
Nguyễn Ngọc Nhị. Trong quá trình kê khai UBND xã đã công khai danh sách những hồ
sơ đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được niêm yết công khai tại
trụ sở thon, trụ sở UBND xã và thông báo trên loa truyền thanh của xã Ngọc, sau 15 ngày
không nhận được đơn thư khiếu nại gì về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
32 tờ bản đồ số 19 cho ông Nguyễn Ngọc Nhị. Ngày 24/12/2004 Chủ tịch UBND huyện
Th đã cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” cho ông Nguyễn Ngọc Nhị từ đó đến
ngày 17/10/2012 mới nhận được đơn khiếu nại của bà Hà Thị Sáu Hạnh.
III. Nhận xét – Kết luận
1. Nhận xét
Căn cứ vào các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ CQCSĐT thấy: đây là vụ việc
dân sự tranh chấp đất đai.
2. Kết luận:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự. Ngày 20/01/2013 CQCSĐT –
Công an huyện Th, thành phố B đã ra Quyết định “Không khởi tố vụ án hình sự” số
03/CQĐT, kết thúc quá trình xác minh đơn của ông Nguyễn Ngọc Nhị. Đề nghị ông
Nguyễn Ngọc Nhị gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện Th, thành phố B để được giải
quyết.

23
`

Căn cứ Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản kết luận giải quyết đơn này, nếu ông Nhị không đồng ý với bản kết luận giải
quyết đơn của CQĐT công an huyện Th, thành phố B . Ông Nhị có quyền gửi đơn khiếu
nại đến Thủ trưởng cơ CQĐT, công an huyện Th, thành phố B .
CQCSĐT công an huyện Thanh Trì, B thông báo để ông Nhị biết.

Nơi nhận: PHÓ THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN CSĐT


- Nguyên đơn; CÔNG AN HUYỆN TH
- Lưu CQĐT. (đã kí, đóng dấu)
Thượng tá Nguyễn Anh Minh

24
`

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------
BIÊN BẢN HÒA GIẢI
Vào hồi, 14 giờ ngày 26 tháng 10 năm 2012
Tại: Trụ sở UBND xã Ngọc
Thành phần:
* Đại diện UBND xã:
1. Ông Nguyễn Xuân Trường - Phó Chủ tịch UBND xã
2. Bà Phạm Thị Phương Anh - CB tư pháp
3. Bà Nguyễn Thị Bích Liên - CB địa chính
4. Ông Nguyễn Văn Thuấn - Trưởng CA xã
5. Ông Dương Đức Thúy - CB thanh tra nhân dân
6. Ông Lã Văn Lăng - Chủ tịch hội nông dân xã
7. Bà Đinh Thị Xoa - Chủ tịch hội phụ nữ xã
8. Ông Nguyễn Văn Hải - Phó chủ tịch UBMTTQ xã
* Đại diện thôn Ngọc:
1. Ông Đinh Cao Thắng - Trưởng thôn
2. Ông Nguyễn Văn Hải - Bí thư chi bộ
* Người gửi đơn: bà Hà Thị Sáu Hạnh
* Người có liên quan: ông Nguyễn Ngọc Nhị
Nội dung:
Ngày 17/10/2012 UBND xã Ngọc nhận được đơn đề nghị của bà Hà Thị sáu (Hạnh)
ở đội 4 Ngọc, huyện Th, thành phố B. Nội dung đơn: đề nghị hòa giải tranh chấp quyền
sử dụng đất tại thửa đất ố 32, tờ bản đồ số 92; diện tích 135m 2 đã được UBND huyện Th
cấp GCNQSDĐ ngày 24/12/2004 mang tên ông Nguyễn Ngọc Nhị.
UBND xã Ngọc đã mời hai gia đình ông Nhị và bà hạnh cùng cá ban ngành đoàn
thể, đại diện thôn Ngọc đến hòa giải.
Ông Nguyễn Xuân Trường – Phó chủ tịch UBND xã – chủ trì hòa giải.
Các ý kiến:
1. Bà Sáu
Năm 1992 tôi có mua diện tích đất trên của ông Cở và năm 1994 tôi mới làm giấy
tờ mua bán đất với ông Cờ. Ông Nhị chỉ đứng ra để làm giấy tờ hộ tôi còn thực chất đây
là tiền của tôi bỏ ra để mua mảnh đất này.
2. Ông Nhị
Tất cả các giấy tờ mua bán liên quan đến mảnh đất trên là đứng tên tôi. Ngày
24/12/2004 tôi đã được UBND huyện Th cấp GCNQSDĐ đứng tên tôi là Nguyễn Ngọc
Nhị. Toàn bộ số tiền mua diện tích đất trên là tiền của tôi.
3. Đ/c Liên
Theo hò sơ địa chính năm 1986 diện tích đất trên thuộc tờ bản đồ số 01, thửa số 89,
diện tích 273m2 đất ở, nguồn gốc ông cha để lại mang tên ông Kim Văn Tham (em trai
ông Cờ) phần diện tích trên ông Cờ bán cho ông Nhị là do ông Tham trách trả ông Cờ.

25
`

Ngày 6/1/1993 ông Cờ có giấy bán nhà của ông Cờ bán cho ông Nhị được UBND
xã Ngọc xác nhận ngày 14/1994 do đ/c Phó chủ tịch UBND xã Nguyễn Xuân Đồng xác
nhận.
Ngày 29/1/1994 ông Cờ bán thêm 40m2 đất nữa cho ông Nhị chưa được xã chứng nhận.
Năm 1994 do đạc bản đồ được tách thửa riêng riêng thuộc tờ bản đồ số 19, thửa 32,
diện tích 135m2 người kê khai là ông Nguyễn Ngọc Nhị.
Năm 2004 ông Nhị kê khai hồ sơ và xin làm thủ tục cấp GCNQSDĐ tại xã. Ngày
14/11/2004 thửa đất số 32 tờ bản đồ số 9 được Hội đồng ruộng đất xã xét theo Quyết
định 65/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân TP B đủ điều kiện trình UBND huyện cấp GCN.
Trong quá trình xã kê khai hồ sơ niêm yết tại xã, thôn, loa truyền thanh 15 ngày không
nhận được đơn thư khiếu nại gì về việc cấp CHNQSDĐ cho thửa đất tên mang tên ông
Nguyễn Ngọc Nhị.
Ngày 24/12/2004 UBND huyện đã cấp GCNQSDĐ trên và từ đó đến ngày
17/10/2012 xã mới nhận được đơn thư khiếu nại kiện việc cấp GNC cho ông Nhị.
4. Ông Thắng
Đề nghị ông Nhị, bà Sáu giải quyết tính cảm gia đình. Bà Sáu có công trông nom đề
nghị ông Nhị trả bà Sáu một số tiền công trông nom, tôn tạo lại công trình xây dựng trên đất.
Sau khi nghe ý kiến của hội nghị 2 bên gia đình không thống nhất được.
Kết luận của UBND xã
Tại buổi hòa giải hai gia đình không thống nhất được việc giải quyết nên buổi hòa
giải không thành.
Thửa đất trên đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ nên UBND xã chỉ có thẩm
quyền hòa giải. Nếu hai bên gia đình có nhu cầu giài quyết theo pháp luật đề nghị chuyển
đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong khi chờ cơ quan có thẩm quyền giải quyết đề nghị hai gia đình đảm bảo an
ninh trật tự tại địa phương.
Biên bản được lập xong vào hồi 15h30’ cùng ngày, thông qua cho mọi người cùng
nghe, không ai có ý kiến ghì khác, nhất trí ký tên dưới đây.
Người gửi đơn Người viết biên bản
(đã kí) (đã kí)
Hà Thị Sáu (Hạnh) Phạm Thị Phương Anh
Người liên quan TM. Ủy ban nhân dân xã Ngọc
(đã kí) Phó Chủ tịch
Nguyễn Ngọc Nhị (đã kí, đóng dấu)
Nguyễn Xuân Trường
(đã kí) Các thành viên Hội đồng
Lã Văn Lăng (đã kí)
(đã kí) Đinh Thị Xoa
Nguyễn Thị Bích Liên (đã kí)
(đã kí) Đinh Cao Thắng
Dương Đức Thúy (đã kí)
(đã kí) Nguyễn Văn Hải
Nguyễn Văn Thúy

26
`

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


CÔNG TY LUẬT C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
Số: 412/CV-C Thanh Trì, ngày 04 tháng 08 năm 2012
V/v: ý kiến đề xuất của luật sư

Kính gửi: - Công an quận G;


- Viện kiểm sát nhân dân quận G

Công ty luật C – Đoàn luật sư TP B nhận tham gia và cử luật sư Nguyễn Thanh V
bào chữa cho ông Nguyễn Anh Kiên trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hiện đang do
Công an quận G điều tra, xử lý.
Trước hết, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến công an quận G đã tạo điều
kiện thuận lợi cho luật sư được tiếp cận hồ sơ và tham gia vụ án. Qua nghiên cứu hồ sơ,
các lời khai đặc biệt qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với người bị hại, với gia đình bị can và
những người liên quan nhằm xác minh sự thật của vụ án, chúng tôi nhận đình và xin gửi
đến Quý cơ quan điều tra một số ý kiến như sau:
Trên cơ sở đơn tố cáo của ông Cao Xuân Vũ, các văn bản gồm:
(i) Hợp đồng thỏa thuận ngày 10/12/2010 giữa ông Cao Xuân Vũ và ông
Nguyễn Anh Kiên về việc thực hiện công việc xin cấp GCNQSDĐ có thù
lao;
(ii) Biên bản làm việc ngày 16/11/2011 giữa các bên;
(iii) Tờ thông báo nộp lệ phí trước bạ nhà đất ngày 15/6/2011 do ông Cao Xuân
Vũ cung cấp làm căn cứ chính để Cơ quan điều tra quận G tiến hành khởi tố,
điều tra và bắt tạm giam đối với Nguyễn Anh Kiên về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu, khai thác, thu thập thông tin, khi tiếp xúc với ông
Cao Xuân Vũ, chúng tôi được ông Cao Xuân Vũ cho biết: bản chất của sự việc là do
trong quá trình hợp tác làm ăn kinh doanh bất động sản và xe mô tô thể thao phân khối
lớn, ông Cao Xuân Vũ và ông Nguyễn Anh Kiên có vay vốn một số người khác nhưng do
thua lỗ nên không có khả năng trả nợ. Ông Nguyễn Anh Kiên có đất bố mẹ hứa tặng cho
và đã yêu cầu bố mẹ bán diện tích đất này đi để rút tiền ra một phần trả nợ, một phần ông
Vũ và ông Kiên dùng làm vốn tiếp tục kinh doanh. Nhưng do GCNQSDĐ mang tên Hộ
gia đình ông Nguyễn Tạo Đa (bố đẻ ông Kiên) vì vậy ông Kiên không thể thực hiện việc
mua bán diện tích đất này. Trong khi đó, gia đình ông Nguyễn Tạo Đa có nhiều thành
viên, mỗi người một ý nên không thống nhất được việc bán đất để tạo điều kiện cho ông
Vũ và Kiên lấy được tiền. Vì vậy, ông Vũ và ông Kiên đã thống nhất bàn bạc và cùng
nhau lập ra các văn bản như đã nêu trên để tạo chứng cứ. Trên cơ sở đó, ông Vũ thực
hiện việc tố cáo ông Kiên, khi ông Kiên bị bắt khởi tố, điều tra, bắt giam sẽ tạo sức ép để
gia đình ông Nguyễn Tạo Đa phải bán đất đi lấy tiền trả nợ. Nay, gia đình ông Nguyễn
Tạo Đa đã nhất trí bán đất để lấy tiền trả cho ông Vũ nên ông Vũ rút mọi đơn tố cáo và
xin đến cơ quan điều tra trình báo rõ nội dung sự thật khách quan của vụ việc như đã nêu
ở trên.
27
`

Đây là yếu tố quan trọng cho thấy không có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản của
ông Nguyễn Anh Kiên đối với ông Cao Xuân Vũ. Vì vậy, bằng văn bản này, chúng tôi đề
nghị Cơ quan điều tra Công an quận G, Viện kiểm sát nhân dân quận G xem xét lại sự
việc để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và gây thiệt
hại cho người dân.
Trân trọng!

CÔNG TY LUẬT C
GIÁM ĐỐC
(đã kí, đóng dấu)
Nguyễn Thanh V

28
`

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------------

BIÊN BẢN GIAO NHẬN TIỀN

Hôm nay, vào hổi 10 giờ 0 ngày 06/8/2012, tại ngân hàng HABUBABK , thành phố
B.
Thành phần gồm có:
1. Bà Đỗ Thị Bính, sinh năm 1956, CMTND số 010218629 do Công an B cấp
ngày 12/8/1999 . Bà Đỗ Thị Bính là mẹ đẻ anh Nguyễn Anh Kiên;
2. Ông Đỗ Anh Thắng, sinh năm 1976, CMND số 011781636 do Công an B cấp
ngày 11/3/2005, . Ông Đỗ Anh Thắng là người làm chứng.
3. Bà Nguyễn Thanh V – Giám đốc đại diện Công ty luật TNHH C .
Nội dung biên bản:
1. Bà Đỗ Thị Bính bàn giao cho Công ty Luật C một khoản tiền 2.500.000.000đ
(Hai tỷ năm trăm triệu đồng). Công ty luật C có trách nhiệm giữ hộ khoản tiền
này để đảm bảo thực hiện việc bồi thường cho ông Cao Xuân Vũ trong quá trình
giải quyết vụ án của ông Nguyễn Anh Kiên.
2. Số tiền này được bà Đỗ Thị Bính chuyển vào tài khoản số 32032045399100033
của Công ty luật C tại ngân hàng Oceanbank, chi nhánh B .
3. Khi sử sụng khoản tiền này phải được sự đồng ý được thể hiện bằng văn bản của
các bên.
Biên bản được lập xong vào lúc 10h30’ cùng ngày, đã được đọc lại cho mọi người
cùng nghe và ký tên dưới đây làm bằng chứng. Biên bản được lập thành 02 (hai) bản, bà
Đỗ Thị Bính giữ 01 bản, công ty luật C giữ 01 bản.

NGƯỜI LÀM CHỨNG NGƯỜI GIAO TIỀN NGƯỜI NHẬN TIỀN


(đã kí) (đã kí) (đã kí, đóng dấu)
Đỗ Anh Thắng Đỗ Thị Bính Nguyễn Thanh V

Ngày 19/9/2012, tôi là Đỗ Thị Bính đã nhận lại đủ số tiền là 2.500.000.000 (Hai tỷ
năm trăm triệu đồng chẵn).
(đã kí)
Đỗ Thị Bính

29
`

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


HỘI ĐỒNG KHEN THƯỞNG KỶ LUẬT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------
BIÊN BẢN LÀM VIỆC
Hồi 10 giờ ngày 23/01/2013 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B . Chúng tôi gồm:
Luật sư Nguyễn Văn T
Chức vụ: Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP B
Tiến hành lập biên bản làm việc với người tố cáo:
Họ và tên: Cao Xuân Vũ
Là người tố cáo luật sư Nguyễn Thanh V nhận 2.571.500.000đ của gia đình bị can
Nguyễn Anh Kiên để bồi thường cho ông Vũ nhưng không trả lại cho ông Vũ và cung
cấp thông tin về quan hệ giữa ông Vũ và bị can Kiên sai sự thật.
NỘI DUNG BIÊN BẢN
Luật sư T: giới thiệu về mình cùng quyền của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật trong
việc giải quyết tố cáo luật sư Nguyễn Thanh V và đề nghị anh Vũ trình bày về nội dung
tố cáo.
Anh Cao Xuân Vũ: tôi bị Nguyễn Anh Kiên lừa đảo chiếm đoạt 2.571.500.000đ.
Công an quận G đã bắt giam Kiên. Luật sư V là người bào chữa cho bị can Kiên. Luật sư
V có nhận của gia đình Kiên 2,5 tỷ để trả tiền bồi thường cho tôi nhưng luật sư vẫn
không trả tiền cho tôi. Luật sư V đến trước nhà tôi và gặp tôi và nói tôi phải khai lại vụ
việc: “tôi có quan hệ làm ăn với Kiên buôn bán xe mô tô và bất động sản, do thua lỗ anh
Kiên không có tiền trả tôi, tôi phải bắt Kiên lập một số giấy tờ giả để bắt gia đình Kiên
bán đất để trả tiền cho tôi nhưng gia đình Kiên không bán đất, nên tôi phải tố cáo Kiên
đến cơ quan điều tra để bắt Kiên thì gia đình Kiên mới chịu trả tiền cho tôi”.
Nội dung trên là không đúng sự thật, mà sự thật là Kiên có lừa đảo tôi thông qua
việc làm giấy tờ sổ đỏ giả. Nếu tôi không khai như thế thì sẽ không lấy được tiền bồi
thường. Hiện nay tôi đã nhận được số tiền Kiên đã lừa đảo tôi do cơ quan điều tra công
an thành phố B trả. Luật sư V có văn bản gửi cơ quan điều tra - công an quận G và Viện
kiểm sát nhân dân quận G nói về nội dung này và có anh Giang (anh họ của Kiên); Thọ
là hàng xóm của nhà tôi, cùng luật sư những người được nghe chị V nói không đúng sự
thật). Tất cả mọi người có mặt đều không nghe ý kiến và cách giải quyết của luật sư Vân.
Tôi đề nghị Đoàn luật sư TP B cần phê bình, rút kinh nghiệm nghiêm khắc đối với luật sư
đồng thời yêu cầu luật sư V phải gặp gỡ để xin lỗi tôi về việc làm trên. Tôi sẽ viết đơn đề
nghị Đoàn luật sư TP B không xử lý luật sư V theo đơn tố cáo của tôi.
Biên bản lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe công
nhận biên bản là đúng nội dung anh Cao Xuân Vũ trình bày. Anh Vũ không có ý kiến gì
khác, cùng ký tên làm bằng.

Người trình bày Người ghi biên bản


(đã ký) (đã ký)
Cao Xuân Vũ Luật sư Nguyễn Văn T

30
`

ĐOÀN LUẬT SƯ TP B CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


HỘI ĐỒNG KHEN THƯỞNG KỶ LUẬT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
------------------- ---------------------

BIÊN BẢN LÀM VIỆC


Hồi 10 giờ 30 ngày 26/01/2013 tại Văn phòng Đoàn luật sư TP B . Chúng tôi gồm:
Luật sư Nguyễn Văn T
Chức vụ: Ủy viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật – Đoàn luật sư TP B
Tiến hành lập biên bản làm việc với:
Họ và tên: Nguyễn Thanh V – luật sư thành viên thuộc Đoàn luật sư TP B , hiện là
giám đốc công ty TNHH luật C.
NỘI DUNG BIÊN BẢN
Luật sư T: thông báo ngày 23/12/2012 Đoàn luật sư TP B nhận được đơn tố cáo
của ông Cao Xuân Vũ, sinh năm 1977, tố cáo luật sư Nguyễn Thanh V nhận của gia đình
bị can 2.571.500.000đ làm tiền bồi thường cho ông Vũ nhưng không trả lại cho ông Vũ
và cung cấp thông tin về nọi dung quan hệ giữa ông Vũ và bị can Nguyễn Anh Kiên,
đang bị tạm giam về tội lừa đảo. Đề nghị luật sư trình bày về hai nội dung này.
Luật sư Nguyễn Thanh V: ngày 16/7/2012 bà Lê Thị Mai Hương, là vợ của bị can
Nguyễn Anh Kiên mời tôi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can Nguyễn Anh
Kiên. Ngày 25/6/2012 cơ quan cảnh sát điều tra – công an quận G cấp Giấy chứng nhận
người bào chữa cho bị can Nguyễn Anh Kiên là tôi. Ngày 06/8/2012 gia đình của bị can
Kiên có chuyển vào tài khoản của công ty luật C 2.500.000.000đ là tiền để tôi giữ hộ và
giải quyết bồi thường trên cơ sở có lợi cho bị can Kiên nhưng vì chưa giải quyết có lợi
cho bị can Kiên nên ngày 19/9/2012 và Đỗ Thị Bích là mẹ của bị can Kiên lại lấy lại số
tiền này và tôi đã trả lại toàn bộ số tiền này cho bà Bính. Vì vậy cho đến ngày hôm nay
tôi không còn trách nhiệm trả lại tiền cho chị Vân. Ngày 14/8/2012 tôi có công văn số
2412/CV-C gửi cơ quan điều tra – công an quận Cầu Giấy, Viện kiểm sát nhân dân quận
G với nội dung đề nghị làm rõ quan hệ giữa anh Vũ và anh Kiên để làm rõ Kiên có phạm
tội lừa đảo Kiên có phạm tội lừa đảo hay không thuộc thẩm quyền của luật sư mà thuộc
về các cơ quan có thẩm quyền. Cá nhân tôi không cung cấp thông tin sai lệch vụ án cho
cơ quan điều tra, vi phạm đạo đức luật sư nên anh Vũ tố cáo tôi vi phạm và không đúng
sự thật. Tôi cam đoan các lời trình bày trên của tôi là đúng sự thật, nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Biên bản lập xong đã đọc lại cho mọi người có tên trong biên bản cùng nghe công
nhận biên bản là đúng nội dung làm việc, không có ý kiến gì khác, cùng ký tên làm bằng.

Người tRình bày Người ghi biên bản


(đã ký) (đã ký)
Luật sư Nguyễn Thanh V Luật sư Nguyễn Văn T

31

You might also like