giữa môi trường và nạn nghèo đói trong việc quản lý
biển và các vùng ven biển. Tóm tắt: Mục tiêu của bài báo này nhằm xem xét cách thức địa phương khai thác thành công nền kinh tế biển để giải quyết mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường trong các cộng đồng ven biển. Trong khi nhiều nghiên cứu chuyên môn liên quan đến khái niệm về nền kinh tế biển có tồn tại, rất ít trong số những tài liệu ấy đề cập về cách tiếp cận nền kinh tế biển một cách bền vững có thể giúp thu hẹp các thách thức về nghèo đói và môi trường, đặc biệt là ở cấp cộng đồng. Để minh họa điều này, chúng tôi trình bày ba nghiên cứu điển hình về các hoạt động kinh tế biển do cộng đồng ven biển ở Trung Quốc, Samoa và Việt Nam khởi xướng và thực hiện. Kết quả từ mỗi nghiên cứu điển hình được kiểm tra dựa trên cả tác động môi trường và kinh tế xã hội của chúng. Bài học kinh nghiệm bao gồm vai trò của khoa học và công nghệ trong việc đổi mới các giải pháp, tác động cốt yếu của các nhà lãnh đạo cộng đồng trong khuyến khích và tăng cường cả các nhu cầu và giải pháp của địa phương, vận động liên tục, đáp ứng các nhu cầu quan trọng để cộng đồng đạt những lợi ích hữu hình của việc thực hiện dự án, và cuối cùng là sự sẵn có của các nguồn lực và bí quyết từ quan hệ đối tác nhiều bên liên quan bao gồm các hội đồng quản lý địa phương, các tổ chức phi chính phủ và các thành viên cộng đồng. Các cộng đồng địa phương có một tiềm năng thích ứng và cần thêm các chính sách công chủ động cần thiết để đạt được đồng thời các mục tiêu về môi trường và giảm nghèo. 1.Phần giới thiệu Nạn đói kém và các vấn đề môi trường luôn đi liền với nhau và là vấn đề khúc mắc trong mối quan hệ mật thiết giữa con người và môi trường. Người thuộc các diện khó khăn thường bị dồn vào bước đường cùng dẫn đến phải hủy hoại môi trường nhằm đạt được các nhu cầu cần thiết về chi phí trang trải cho tương lai. Ngược lại, sự suy thoái của môi trường có xu hướng làm cho sinh kế, thu nhập và sức khỏe của những hộ trên bị ảnh hưởng trầm trọng. Có một nghịch lý đáng đề cập rằng người nghèo khó thường ít gây ra những thiệt hại đáng kể cho môi trường, trong khi những gánh nặng từ ô nhiễm môi trường mà họ gánh chịu thì rất nghiêm trọng. Mối quan hệ tương quan giữa nghèo đói và môi trường này đặc biệt dễ thấy trong các tương tác của cộng đồng địa phương với các hệ sinh thái ven biển và đại dương. Hơn 3 tỷ người trên thế giới này phụ thuộc trực tiếp vào đa dạng sinh học biển và ven biển để kiếm kế sinh nhai, và họ xem các đại dương là nguồn cung cấp protein chính. Ngư nghiệp ,trực tiếp hoặc gián tiếp, cung cấp việc làm cho hơn 200 triệu người trên toàn cầu, và giá trị thị trường ước tính đạt 3 nghìn tỉ đô la Mỹ mỗi năm. Thêm vào đó, các đại dương hấp thụ khoảng 30% lượng khí cacbonic do con người tạo ra, giúp giảm thiểu tác động của sự nóng lên toàn cầu. Tác động của con người đối với đại dương rất sâu sắc, từ việc phá hủy các hệ sinh thái biển, gây mất đa dạng sinh học cho đến suy thoái môi trường tự nhiên mà trong đó bao gồm cả từ phát triển không bền vững hệ sinh thái ven biển, đánh bắt quá mức và các hoạt động đánh bắt mang tính hủy diệt. Với hơn 80% nước thải trên thế giới thải trực tiếp vào sông, hồ và cuối cùng là đại dương, các hình thức gây ô nhiễm diễn ra trên đất liền cũng được xem là một nguyên nhân đáng kể của sự suy thoái ven biển và đại dương. Sự nóng lên toàn cầu do phát thải khí nhà kính mà con người gây ra càng làm trầm trọng thêm các quá trình này và góp phần làm axit hóa đại dương nhanh chóng, làm thay đổi cơ bản các hệ thống đại dương trên thế giới. Sự suy thoái môi trường nghiêm trọng của các sinh cảnh và đại dương ven biển đe dọa lớn đến người dân và các cộng đồng địa phương có sinh kế phụ thuộc trực tiếp vào các dịch vụ hệ sinh thái biển như du lịch và giải trí, nghề cá, bảo vệ bờ biển, đa dạng sinh học và điều hòa khí hậu. Nếu được quản lý hợp lý và sử dụng bền vững, các sinh cảnh ven biển này sẽ tiếp tục cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái cho con người và các sinh vật khác. Tiềm năng phục vụ nhu cầu phát triển bền vững của các đại dương là khá cao, nhưng điều đó chỉ đúng với điều kiện biển được duy trì hoặc phục hồi ở trạng thái sinh thái lành mạnh. Việc tiếp cận kinh tế biển được đề xuất phải cân bằng giữa các khía cạnh thuộc môi trường, kinh tế và sự phát triển bền vững của xã hội, thêm vào đó phải giải quyết mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường trong quản lý đại dương và ven biển. Nền kinh tế biển đề cập đến một khái niệm nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hòa nhập xã hội và duy trì và cải thiện sinh kế, đồng thời đảm bảo tính bền vững về môi trường của đại dương và biển cả. Trong nền kinh tế biển, thông qua việc tạo ra sinh kế bền vững và công ăn việc làm ổn định, cung cấp lương thực và khoáng chất, tạo ra ô-xi, hấp thụ khí nhà kính và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, xác định các kiểu thời tiết và nhiệt độ, các đại dương của chúng ta đã góp phần xóa đói giảm nghèo; đồng thời đóng vai trò là đường cao tốc cho quốc tế thương mại đường biển. Mục tiêu của bài báo này nhằm xem xét và làm nổi bật cách thức thực hành kinh tế biển của địa phương có thể giải quyết mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường trong việc tạo kế sinh nhai ven biển. Bài báo này được viết dựa trên một nghiên cứu toàn cầu về danh mục Kinh tế biển của Chương trình Tài trợ GEF, do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thực hiện. Nghiên cứu được dẫn từ một ấn phẩm của UNDP “Nền kinh tế biển: Giải pháp cộng đồng ”. Trong nền kinh tế biển, đại dương của chúng ta góp phần xóa đói giảm nghèo bằng cách cung cấp sinh kế bền vững và công việc làm ăn, cung cấp thực phẩm và khoáng chất, tạo ra ô-xi, hấp thụ khí nhà kính, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và đóng vai trò là đường cao tốc cho thương mại quốc tế bằng đường biển. Trong khi nhiều nghiên cứu chuyên ngành đề cập đến khái niệm nền kinh tế xanh, có rất ít nghiên cứu tồn tại những điều sau: 1. Cách thức ứng dụng của nền kinh tế biển vào thực tế, đặc biệt là ở cấp địa phương và cộng đồng. 2. Cách thức hoạt động của nền kinh tế biển ở địa phương có thể giúp giải quyết mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường, bao gồm cả việc cải tiến các phương pháp hay nhất. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày ba nghiên cứu điển hình về các hoạt động kinh tế biển do các cộng đồng địa phương ven biển ở Trung Quốc, Samoa và Việt Nam khởi xướng và thực hiện. Các kết quả từ mỗi nghiên cứu được kiểm định dựa trên các kết quả về môi trường và kinh tế xã hội. Bằng cách đó, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp thêm tài liệu về nền kinh tế biển và các bài học kinh nghiệm từ việc áp dụng nó trong thực tế. Bằng cách truyền tải sự thành công và giá trị của các dự án kinh tế xanh vào cộng đồng, địa phương, bài viết này không chỉ nhằm đóng góp vào việc hình thành khái niệm về “nền kinh tế xanh” mà còn đưa ra các khuyến nghị chính sách cho xã hội dân sự và những người ra quyết định rằng sự ứng dụng của các nguyên tắc kinh tế biển có thể mang lại lợi ích cho các cộng đồng ven biển trên toàn cầu và giúp thu hẹp các thách thức của mối quan hệ nghèo đói và môi trường. Cuối cùng, bài báo này cũng rút ra những kinh nghiệm sáng tạo cộng đồng nhằm kiểm tra và thử nghiệm các phương pháp tiếp cận khác nhau để đạt được lợi nhuận kinh tế một cách bền vững về môi trường và hòa nhập xã hội. Những trường hợp này chứng minh rằng việc quản lý hiệu quả có thể đạt được thông qua hoạt động tự quản của địa phương, giống như Ostrom về mặt lý thuyết và thực nghiệm đã chỉ ra rằng các cộng đồng địa phương có thể nghĩ ra cách để quản lý người dân nhằm đảm bảo tính bền vững của hệ sinh thái cho nhu cầu của con người và các thế hệ tương lai. Chúng tôi hi vọng điều này có thể nâng tầm quy mô và giá trị những cuộc đàm phán liên quan đến quản lí người dân địa phương bằng hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật quốc tế.